Giải mã những giấc mơ nghề nghiệp –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Cát Phượng (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Cát Phượng (##)
Bạn có nốt ruồi trên trán, bạn muốn biết những nốt ruồi trên trán mang ý nghĩa gì? Nốt ruồi ở trán là tốt hay xấu, là hung hay cát. Bài viết dưới đây của thư viện Xem bói sẽ giới thiệu cho bạn toàn bộ ý nghĩa về các vị trí của nốt ruồi trên trán.
Nốt ruồi ở gần đường viền tóc: Đây là nốt ruồi báo hiện cho những người sinh ra trong gia đình giàu có, nốt ruồi này sẽ mang lại phúc lộc cho chủ nhân.
Nốt ruồi ở giữa trán: Với những người có nốt ruồi ở chính giữa trái thường có nhiều may mắn trong cả tiền bạc lẫn tình cảm.
Nốt ruồi ở phía trên chân lông mày là những người có khả năng sẽ thăng quan tiến chức, đạt được vị trí cao trong xã hội.
Với những người sở hữu nốt ruồi trên trán đàn ông ở phía bên trái ngay chính giữa lông mày thường sẽ gặp nhiều may mắn trong cuộc sống, nhưng về tình duyên cũng như tình cảm gia đình lại có nhiều trở ngại.
Với vị trí nốt ruồi ở trán nhưng ở phía bên phải ngay chính giữa lông mày thì thường sẽ gặp vận may lớn về tiền bạc, những ngày này mà làm ăn kinh doanh sẽ gặp nhiều thuận lợi, may mắn.
Nốt ruồi ở phía trên đuôi lông mày bên phải: Đây là nốt ruồi mang lại tiền tài danh vọng cho bản thân chủ nhân. Đặc biệt, nếu tại vị trí này mà có nốt ruồi son thì người chủ nhân đó sẽ gây dựng được một sự nghiệp lớn lao.
Nốt ruồi ở phía trên đuôi lông mày bên trái: Nốt ruồi này là điềm cảnh báo cho chủ nhân phải hết sức cẩn thận khi tham gia các hoạt động hay các trò chơi mạo hiểm như đua xe, leo núi, …
Phụ nữ có nốt ruồi trên trán bên trái gần với đường chân tóc thường sẽ có nhiều đời chồng.
Nốt ruồi trên trái ở phía đuôi của lông mày, những người phụ nữ có nốt ruồi ở vị trí này thường được hưởng lộc hoặc lấy được chồng giàu sang.
Trên đây là tổng hợp những vị trí nốt ruồi ở trên trán đàn ông và phụ nữ. Để tìm hiểu thêm những ý nghĩa của nốt ruồi ở vị trí khác, bạn có thể tham khảo thêm tại:
+ Xem bói nốt ruồi trên cơ thể
+ Nốt ruồi ở gót chân phải có ý nghĩa gi?
+ Xem tướng người có lông mày rậm
+ Màu mắt nâu tiết lộ gì về con người bạn
+ Nốt ruồi trong mắt phải có ý nghĩa gì?
Key liên quan: nốt ruồi trên trán, nốt ruồi giữa trán, nốt ruồi ở trán, nốt ruồi trên trán phụ nữ, nốt ruồi ở giữa trán, nốt ruồi trên trán đàn ông.
![]() |
Ảnh minh họa |
► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem tử vi, xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác |
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thiên cơ là âm mộc. Tại Đẩu sao Thiên cơ là ngôi sao thứ ba thuộc Nam Đẩu, tại Số sao Thiên cơ theo cung vị thứ hai thuộc Bắc Đẩu, của phép định cục an sao thiên bàn. Chủ về trí tuệ, tư tưởng, anh chị em, hệ thần kinh, hóa khí là thiện, khi hóa Kị sẽ Hung (chủ về thần kinh đầu óc có vấn đề), làm chủ cung Huynh đệ.
Sao Thiên cơ mang đặc trưng đa tài đa nghệ, mang tính động, nhưng tính động ở đây không phải là những biến động trong cuộc đời, mà là động não, hoạt động thường phải bôn ba lao lực nên phản ứng khá nhanh nhạy, giỏi vận động, liên lạc giao thiệp, quy hoạch, phân tích, làm việc có nguyên tắc có uy nghiêm. Hợp với những nghề dịch vụ, kỹ thuật chuyên môn, truyền thông đại chúng, thường theo các công việc thiết kế quy hoạch mà không phải thực thi, thực hành. Nhưng thiếu tính ổn định nên kỵ theo nghề kinh doanh hay tự lập nghiệp.
Sao Thiên cơ còn có tên là sao Thiện, nếu gặp Cát tinh lại đắc địa thì mọi việc đều tốt đẹp. Chăm lễ Phật, có hứng thú đặc biệt với tôn giáo hoặc mệnh lý, kính trọng hiếu thảo với người thân, phù hợp với nghiệp tu hành tăng đạo, tính lương thiện không có lòng ác độc bất nhân, có khả năng tùy cơ ứng biến, làm việc có phương pháp.
Nếu mệnh nữ có Thiên cơ phần nhiều chủ về phúc thọ, gặp Cát sẽ cát gặp Hung sẽ hung. Nếu gặp sao Thiên lương thì bản thân sẽ có một biệt tài nào đó.
Sao Thiên cơ không có khả năng chế hóa hung sát, đặc biệt nhạy cảm với sát tinh, vì sợ rằng trí tuệ của Thiên cơ sẽ giúp kẻ ác làm càn. Sao Thiên cơ cũng rất kỵ khi Hóa Kị, khi hành vận hạn nếu gặp phải hung sát hoặc sao hóa Kị, hoặc bị hung sát Hóa Kị xung chiếu, nếu không được Cát tinh ứng cứu, nên đề phòng tai ách, tốt nhất là nên thận trọng phòng thủ, không nên hành động.
Bốn ngôi sao Thiên cơ, Thái âm, Thiên đồng, Thiên lương nếu tập hợp lại 3 cung Mệnh Tài Quan là cách Cơ Nguyệt Đồng Lương thích hợp với sự nghiệp tôn giáo, văn hóa, truyền thông đại chúng. Nếu Thiên cơ và Cự môn rơi vào cung mệnh tại Mão hay Dậu là cách Cự Cơ đồng lâm, sẽ có thành tựu lớn trong lĩnh vực khoa học công nghệ cao. Nếu Thiên cơ và Thiên lương đồng cung tại Thìn hay Tuất, hoặc tại cung Thiên di chiếu về cung Mệnh, là cách Thiện ấm triều cương chủ về phúc thọ song toàn. Nếu Thiên cơ Cự môn cùng trấn mệnh tại Dậu địa lại đồng cung với hóa Kị, hoặc gặp sao hóa Kị tại cung vị tam phương tứ chính là cách Cự Cơ hóa Dậu chủ về bôn ba vất vả gặp nhiều thất bại, nếu là mệnh nữ chủ về lênh đênh phiêu bạt.
Ca quyết:
Thiên cơ huynh đệ chủ, Nam Đẩu chính diệu tinh
Tố sự hữu thao lược, bẩm tính tối cao minh
Sở vi tối hiếu thiện, diệc khả tác quần anh
Hội cát chủ hưởng phúc, nhập cách cư hàn lâm
Cự môn đồng nhất vị, võ chức áp biên đình
Diệc yếu quyền phùng sát, phương khả lập công danh
Thiên lương tinh đồng vị, định tác đạo dữ tăng
Nữ nhân nhược phùng thử, tính xảo tất dâm bôn
Thiên đồng dữ Xương Khúc, tụ củng chủ hoa vinh
Thìn Tuất Tý Ngọ địa, nhập miếu hữu công danh
Nhược tại Dần Mão Thìn, Thất sát tịnh Phá quân
Huyết quang tai bất trắc, Kình Đà cập Hỏa Linh
Nhược dữ chư sát hội, tai hoạn hữu ách kinh
Vũ ám Liêm Phá hợp, lưỡng mục thiểu quang minh
Nhị hạn lâm thử tú, sự tất hữu biến canh.
SAO THIÊN CƠ TỌA THỦ CUNG MỆNH
Dung mạo và đặc tính
Người có sao Thiên cơ tọa thủ cung Mệnh, đa phần là có dáng người cao, nếu hập miếu thì béo mập, rơi vào thế hãm thì gầy, ánh mắt linh hoạt, dáng vẻ đoan chính, diện mạo dễ gần lương thiện, có lễ nghĩa, lời nói nho nhã, cử chỉ lịch sự.
Là người thông minh, mặt mũi ưa nhìn, tính cách nhân từ, ôn hòa trung hậu, thích làm việc tốt, hiếu nghĩa với luc thân, chịu khó lễ Phật, không có hành vi bất nhân bất nghĩa, được người khác tin cậy. Có tính hiếu học hiếu động, đa tài đa nghệ, học nhiều nhưng không tinh thông, phản ứng nhanh nhạy, điềm tĩnh có sức hút, túc trí đa mưu, xử sự hợp lý, giỏi thích nghi hoàn cảnh, lúc lâm nguy không bị rối loạn. Tam tư trấn tĩnh, có năng lực quan sát, giỏi nghiên cứu, có sở trường về phân tích, kế hoạch, giao thiệp, có thể không ngừng đưa ra ý tưởng sáng tạo. Thích phục vụ cống hiến, có tinh thần đồng đội, hứng thú với mệnh lý tôn giáo. Thần kinh quá nhạy cảm hoặc đa sầu đa cảm, nhiều ảo tưởng, có tửu lượng tốt, tính cố chấp, không phục tùng, có cơ duyên với người khác giới, về phương diện tình cảm thì ghét tình dục, dễ bị cắm sừng; tâm tính, công việc, sự nghiệp thường thay đổi theo hoàn cảnh.
Nếu là mệnh nữ thường có dung mạo xinh đẹp, biết cách trang phục dễ coi, được lòng người, tính cởi mở. Nếu sao Thiên cơ là miếu, vượng thì tính cách khôn khéo, có quyền bính, vượng chồng lợi con, nếu lại được Hóa Quyền, Hóa Lộc (hoặc có Lộc tồn) thì là quý phụ. Thiên cơ rơi vào thế hãm địa, gặp tứ Sát, sao Hóa Kị xung phá, thì chủ về cô độc, tàn tật, không cát lợi.
Suy đoán mệnh lý
Thiên cơ = 0 |
Thiên cơ + 4 |
Thiên cơ - 2 |
Thiên cơ + 2 |
Thiên cơ + 1 |
Thiên cơ + 3 |
||
Thiên cơ + 3 |
Thiên cơ + 1 |
||
Thiên cơ + 2 |
Thiên cơ - 2 |
Thiên cơ + 4 |
Thiên cơ = 0 |
Độ sáng của sao Thiên Cơ tọa thủ 12 cung
Chữ số trong bảng biểu thị độ sáng của sao Thiên cơ.
Mối quan hệ của chúng như sau:
- Miếu = + 4
- Vượng = + 3
- Địa = + 2
- Lợi = + 1
- Bình hòa = 0
- Không đắc địa = - 1
- Hãm địa = - 2
Sao Thiên cơ vận chuyển theo sao Tử vi, do sự chỉ đạo của sao này, các sao khác mới có thể vận hành theo quý đạo, là mẫu chốt thay đổi của hệ thái tinh tĩnh "Cơ Nguyệt Đồng Lương" nên có đặc tính "động"
Sự chuyển động của sao Thiên cơ không giống như sự chuyển động với "biên độ lớn" trong lịch trình đời người của các sao Thất sát, Phá quân, Tham lang, mà là sự động não, động thân thể. Sự thay đổi "biên độ nhỏ" trong phạm vi nhất định, đầu óc không ngừng hoạt động, chân tay cũng không chịu để yên, vì vậy mà phản ứng nhanh nhạy, túc trí đa mưu, là một sao chủ về đa trí. Nhưng cũng vì vậy mà dễ bị thần kinh suy nhược, mất ngủ, bệnh biến tứ chi, hoặc trở thành bệnh mang tính chất thần kinh.
Sao Thiên cơ tùy theo cơ duyên mà thay đổi không ngừng, thường thay đổi lập đi lập lại trong phạm vi cố định, thay đổi lập đi lập lại hoặc trở về thời điểm ban đầu, nhưng lại không có chức năng hoàn nguyên. Do sao Thiên cơ thông minh, phản ứng nhanh, khả năng thích ứng mạnh, có thể thoải mái tự do trong sự thay đổi, vận dụng mang tính đàn hồi, cùng với sách lược điều chỉnh cơ động của môi trường, trong trạng thái tĩnh không làm mất đi biểu hiện hoạt bát, vì vậy có thể không ngừng thay đổi về quan niệm và hành động của bản thân. Làm cho những phiền não và đau khổ trước đó được giải tỏa, mang lại thời cơ chuyển biến cho khí vận vốn cứng nhắc trì trệ.
Sao Thiên cơ thay đổi thích ứng với hoàn cảnh, đồng thời chủ động nắm bắt và thúc đẩy bản năng thay đổi, có thể thúc đẩy năng lực học tập, có nhiều cơ hội học tập, làm cho sao Thiên cơ rất dễ học được nhiều điều mới, sau khi học hỏi xong rất nhanh có thể học hỏi những điều mới lạ khác, thúc đẩy bản thân sao Thiên cơ tiến bộ không ngừng, tri thức và trí tuệ không ngừng gia tăng, về già thường trở thành người đáng tin cậy "Nhất ngôn cửu đỉnh", là người giảng hòa cho người khác.
Sao Thiên cơ là một sao tốt, nhiều trí tuệ, thích đưa ra chủ kiến giải tỏa khó khăn cho người khác, nên theo nghề phục vụ, chuyên môn kỹ thuật, thiết kế và truyền thông đại chúng. Người có sao Thiên cơ tọa thủ cung Mệnh, về quân đội có thể trở thành nhà chiến lược. Về văn chương có thể trở thành nhà văn, nhà nghệ thuật. Về chính trị có thể trở thành quản đốc kỹ thuật, đại biểu dân ý chuyên nghiệp. Về kinh doanh có thể trở thành nhân tài đầu tư tài chính. Về khoa học kỹ thuật có thể trở thành sỹ sư máy tính hoặc cơ điện.
Sao Thiên cơ hiếu học hiếu động, làm cho người khác cảm thấy vừa tháo vát lại vừa đa tài đa nghệ, nhưng tính chất của "tài nghệ" không giống với sao Tham lang, hoặc Văn xương, Văn khúc. Tài nghệ của sao Thiên cơ thiên về các lĩnh vực như vận động, vạch ra kế hoạch, phân tích, sáng tạo, phát minh, giao thiệp, truyền thông đại chúng. Tài nghệ của sao Tham lang chủ yếu là giao tiếp ứng xử, cầm kỳ thư họa, thiết kế. Tài nghệ của sao Văn Xương thì lại thiên về văn học, nghiên cứu học thuật, viết văn... Tài nghệ của sao Văn Khúc chủ yếu ở các linh vực như: nghệ thuật, giao tiếp, ngoại ngữ, tài nghệ đặc biệt, âm nhạc, hội họa, vũ đạo, sân khấu, giải trí.
Sao Thiên cơ có đặc tính động, khó yên vị với môi trường cố định không thay đổi, thích tự mình tìm ra cái mới phát sinh thay đổi, có tiềm năng vận động để thay đổi vận động cũng như thay đổi môi trường, hoặc có nhiều cơ hội kiêm hai ba chức vụ, nên thường rất bận rộn vất vả bôn ba, thiếu tính ổn định, do vậy Thiên cơ kỵ nhất là lập nghiệp theo ngành kinh doanh.
Người có sao Thiên cơ thủ Mệnh, cung Phu thê tất có sao Thái dương tọa thủ, nếu gặp sao Thái dương rơi vào thế hãm hoặc Hóa Kị (người sinh năm Giáp), hoặc sao Thiên cơ bản thân rơi vào thế hãm, Hóa Kị hay gặp phải hung tinh, sát tinh, thì chủ về bất lợi cho đời sống hôn nhân, có thể đứt gánh giữa đường.
Sao Thiên cơ tại cung vị tọa mệnh liền kề với hai cung vị, một cung luôn có sao Tử vi, cung còn lại thì không có chủ tinh cũng là không có sao cố định, mức độ tốt xấu thiện ác của sao này hành đại vận, tiểu hạn, lưu niên, đều ảnh hưởng đến phương hướng thay đổi của sao Thiên cơ. Nếu thuận hành theo đại vận, tiểu hạn hoặc lưu niên, tất trước tiên phải xem mức độ tốt xấu của sao tọa thủ tại cung này, nếu thuộc cát lợi thì sao Thiên cơ nên "thuận tay đảy thuyền" nghênh tiếp vận hạn mà phát triển theo phương diện tốt. Cung này nếu không cát lợi, mà phấn đấu cũng không có hiệu quả, thì sao Thiên cơ nên điềm tĩnh lại, thu thập tàn cục, chịu khó phân tích và kiểm điểm lại việc đã qua, để vạch ra sách lược nhiệm vụ kế hoạch cho tương lai sau này.
Trường hợp nghịch hành với đại vận, tiểu hạn, lưu niên, nếu cung này không cát lợi, thì sao Thiên cơ phải biết thận trọng dè dặt, không được vội vàng thay đổi, khi chưa phân tích tình hình cụ thể những đòi hỏi của hoàn cảnh có thể phải sửa đi sửa lại nhiều lần. Bởi vậy, khi gặp phải vận xấu nhập vào sao Thiên cơ, vận hạn này chưa thể là thời cơ tốt để thăng cơ bổ vận.
Phương thức bổ vận có vận động, tiến tu, suy xét,..., để làm giảm bớt sự dao động của bản thân sao Thiên cơ, với tiền năng của Thiên cơ làm cho bản thân có được trạng thái điềm tĩnh mà đối diện với biến động không ngừng của cuộc sống, đồng thời thể hiện đầy đủ triết lý nhân sinh về tĩnh và động, biến và bất biến.
Sao Thiên cơ khi miếu, vượng, thì hóa cát lợi chủ về phú quý. Nếu rơi vào hãm địa thì bình thường, có thể nói là không tốt. Sao Thiên cơ và các Cát tinh như Thiên lương, Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, tam phương hội chiếu, về văn thì tinh thông về võ thì trung lương, thông tình đạt lý tận trung tận tụy với công việc.
Sao Thiên cơ gặp Thiên lương đồng cung hoặc trong thế tam phương hội chiếu, là người giỏi về việc binh, có thể là nhân tài quân sư. Sao Thiên cơ và sao Thiên tài cùng cung là người trí tuệ, thông minh hơn người.
Mệnh nữ có sao Thiên cơ gặp cát tinh chiếu tại tam phương (cung Quan, cung Tài, cung Di), tứ chính (cung mệnh hợp tam phương) thì vượng chồng ích lợi cho con, gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền là người vợ tốt.
Sức đối kháng của sao Thiên cơ với Sát tinh khá yếu. Thiên cơ sợ rơi vào thế hãm, không ưa đồng cung với 6 sát tinh, cũng sợ gặp sao Hóa Kị. Nếu Thiên cơ rơi vào thế hãm hoặc gặp Sát tinh, mà không có Cát tinh phù trợ, thì dễ gặp trắc trở nội tâm đau khổ, nên theo nghề công chức hoặc ngoại vụ, đề phòng bệnh tật hình khắc.
Sao Thiên cơ Hóa Kị, có thể tồn thương đến gân não, đầu óc, phàm làm việc dễ xảy ra tình trạng xai sót, càng suy sét kỹ lại càng xảy ra sai lầm, trước khi kết hôn thường hay trăng hoa, sau khi kết hôn lại dễ rơi vào môi trường có điều kiện hái hoa bắt bướm, thường theo nghề kỹ nghệ, thiên về lĩnh vực kỹ thuật, hoặc thích nghiên cứu Đông y, Mệnh lý.
Tất cả các sao đều sợ sao Hóa Kị, đặc biệt là ba sao Liêm trinh, Tham lang và Thiên cơ càng sợ sao Hóa Kị. Sao Liêm trinh là sao "tù", khi Hóa Kị thành bị thắt chặt, không thể mở ra, thân và trái tim bị đóng chặt, hàng ngàn khó khăn, tai họa không nhẹ. Sao Thiên cơ chủ về lo xa, chu đáo, sao Thiên cơ hóa Kị thì mọi việc đều có sai xót, càng lo lắng thì càng có vấn đề. Sao Tham lang là quỷ dục vọng, sao Tham lang Hóa Kị thì dục vọng quá cao nên mọi cố gắng cuối cùng cũng bằng không.
Sao Thiên cơ về ngũ hành thuộc âm mộc, ở trên trời thuộc chòm Nam tinh, hóa làm sao lành. Tính chất của sao này là nhiều kế mưu ứng biến đa đoan; ở người là giỏi quyền biến, giỏi nắm bắt cơ hội, có tính hiếu học, hiếu động, siêng năng. Song cứ thấy lạ là thay đổi cách suy nghĩ, vì vậy rộng mà không sâu, bác mà không tinh; hơn nữa dục vọng quá cao, cho nên thực tế thường không theo kịp lý tưởng, vì vậy mà nhọc tâm mệt sức, song xử sự phần nhiều là có lý lẽ.
THIÊN CƠ Ở CUNG MỆNH
Thiên cơ ở cung mệnh thì chủ về người sắc mặt trắng xanh, lúc tuổi già hơi kèm sắc vàng. Nhập miếu thì thân hình dài mập. Đồng độ với Cự môn hoặc lạc hãm chủ về người gầy dong dỏng cao, mặt dài hơi kèm tròn, tâm từ tính gấp, hiếu động, hiếu học.
Nam mệnh có sao Thiên cơ ở cung mệnh thì nhiều cơ mưu biến hóa, đa tài đa nghệ. Hội hợp với Thiên lương thì sở trường về khẩu tài, khéo biện luận, tính tình nhạy cảm, giỏi tùy cơ ứng biến. Đồng độ hoặc hội hợp với Thái âm thì kín đáo giỏi quyền biến, trọng tình cảm.
Thiên cơ ở Thân địa thì có Tử vi và Thiên phủ giáp cung Mệnh, một đời quyền trọng lộc nhiều. Ở Tý địa hoặc Ngọ địa thì Cự môn xung cung trở thành bậc quyền quý giầu có.
Thiên cơ nhập miếu thì bàn việc quân rất giỏi. Được các sao Tử phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Hóa quyền, Hóa lộc, Thiên khôi, Thiên việt hội hay chiếu thì một đời quyền quý. Được Lộc tồn Thiên mã vây chiếu thì nguồn tiền tài dồi dào. Có Văn xương Văn khúc giáp cung thì bẩm tính thông minh, văn chương xuất chúng. Có tam hóa tinh Lộc Quyền Khoa chiếu và hội, không có sát diệu, là trong thần triều đình. Gặp Hóa Kị thì đi đó đi đây nhiều thay đổi, lừng khừng không quyết đoán vì tính tự hay quan trọng hóa vấn đề, quan trọng hóa sự việc một cách không cần thiết, nên hay lo hay nghĩ. Đồng độ với Kình Đà Hỏa Linh tuy được phú quý song không lâu dài. Gặp Cát tinh thì nên chọn nghề kinh doanh song phải chấp nhận nhiều biến động để thích nghi với thị trường.
Nếu có Cát tinh phù trì thì chủ về bản thân kiêm mấy chức, hoặc là người có kỹ thuật chuyên môn, thành công vè nghệ thuật.
Thiên cơ Cự môn Lộc tồn đồng cung, hoặc ở cung Thiên di, chủ về đại quý (cần phải không có ác sát)
Thiên cơ Thiên lương đồng cung, có cát tinh hội và chiếu, tuy có thể phát song không được lâu dài, tuy rằng quý nhưng chỉ có hư danh. Thiên cơ, Thiên lương, Thát sát, Phá quân xung hội là người thích đàm luận thiền cơ của cửa Không. Thiên cơ, Thiên lương, Thiên đồng, Thái âm hội và chiếu thì nên tính việc phát triển ở cơ quan công sở hoặc những ngành nghề liên quan đến công chúng. Nếu gặp Văn xương Văn khúc thì thích hợp với những ngành nghề liên quan đến văn hóa đại chúng. Thiên cơ, Thiên lương, Thái âm hội và chiếu, mà Tham lang thì ở cung Thân thì chủ về người ngày đêm bôn ba, tất bật dị thường, hoặc đam mê riệu chè cờ bạc. Cùng với Kình Đà Hỏa Linh hội và chiếu thì chủ về nhiều tài nhiều nạn, hoặc sau khi suy sụp thì bỏ đi nơi khác, hay làm con thừa tự của người khác, nếu không sẽ hay lo sợ vô cớ. Ở Dần địa, Mão địa, Thìn địa mà hội và hợp Sát tinh Thất sát và Phá quân là chủ về chuyện bất trắc chảy máu. Phàm hội và hợp Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp và Thiên hình, lại gặp thêm Hóa Kị thì yểu thọ.
Nữ mệnh có sao Thiên cơ ở cung mệnh chủ về tính tình cương cường, thông minh khéo léo, lanh lợi, giúp chồng ích con, giỏi lo việc nhà, tháo vát hơn chồng. Có tam cát Lộc Quyền Khoa tương hội là tạo mệnh phu nhân. Có Thái âm đồng độ là dung mạo mỹ lệ, giầu tình cảm, khéo đối xử. Có Cự môn hội và chiếu là người nhiều lời qua tiếng lại. Thiên cơ hóa Kị thì hay lo nhiều nghĩ nhiều, bị tính ưa kích thích, dễ bị ngoại giới ảnh hưởng mà gây nên cảm xúc, làm cho đối tượng nam giới vừa hận vừa yêu, là bông hoa hồng có gai. Nếu Thiên cơ, Cự môn, Thiên lương, Thái âm hội và hợp, lại gặp thêm ác sát Hóa Kị Kình Đà Hỏa Linh, Thiên hình Không Kiếp là chủ về hình khắc, thường làm kế thất, làm vợ lẽ, hoặc hậm kết hôn, nếu không thì tổn thương chồng khắc hại con.
Lưu niên đại hạn vào triền độ của Thiên cơ, nhiều cơ hội mới, chủ về có cơ hội chuyển động biến đổi, hoặc nhà ở, giường ngủ có chuyện phải di dời. Hội và chiếu Thiên mã là có thuyên chuyển thăng chức, đi xa. Hội với tam hóa Khoa Quyền Lộc và các cát tinh như Lộc Mã Xương Khúc Khôi Việt thì chủ về phát triển sự nghiệp, thêm tài thêm phúc. Nếu các sao Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp Hóa Kị Cự môn hội và chiếu thì chủ về lời qua tiếng lại liên miên, gia sự rối bời, tâm phiền ý nản, mọi việc đều biến động không được yên ổn.
Sao Thiên cơ miếu ở Tý Ngọ, hãm ở Sửu Mùi.
Sao Thiên cơ là sao thứ nhất của Nam Đẩu, ngũ hành thuộc âm mộc, hóa khí là "thiện" (khéo léo).
Tính chất cơ bản của Thiên cơ là mưu trí, quyền biến và linh hoạt, có thể ví với mưu sĩ hoặc quân sư.
Nói về phương diện tốt, Thiên cơ chủ về thông minh, nhạy bén, xử sự có mạch lạc lớp lang, cho nên học hành giỏi giang, có thể trở thành người đa tài đa nghệ. Nhờ đặc tính thông minh, nhạy bén với thời cuộc, người Thiên cơ là người khi lâm sự thường phản ứng nhanh, lại khéo ăn khéo ở. Do những đặc tính này, Thiên cơ có phẩm cách về trí tuệ, giỏi động não sở trường về phân tích và vạch kế sách, kiêm có kỹ năng chuyên môn. Đây đều là đặc tính mưu thần và quân sư.
Nói về phương diện khuyết điểm, Thiên cơ có đặc tính hay lo nghĩ quá đáng, thường lao tâm khổ tứ. Cho nên, có biểu hiện không thể kiên trì trong một kế hoạch. Bởi vì, khi tiến hành theo kế hoạch tới một giai đoạn nào đó, người Thiên cơ sẽ vì suy nghĩ tính toán quá nhiều nên muốn thay đổi kế hoạch. Nói cụ thể hơn, người có Thiên cơ thủ cung Mệnh dễ có tính đứng núi này trông núi nọ, học nhiều mà không thực tế, tâm dục đặt mục tiêu quá cao.
Thiên cơ thủ Mệnh không nên kinh doanh làm ăn, đặc biệt không nên tự sáng lập sự nghiệp, mà chỉ nên làm việc lập kế sách. Nếu không, khi tự kinh doanh, sẽ dễ vì động não quá nhanh mà không kiên trì theo đuổi mục đích ban đầu, thường dẫn đến rối loạn sự đồng thuận ở giai đoạn cuối nên hiệu quả không mang lại giá trị cao nhất, đôi khi còn dẫn đến thất bại.
Thiên cơ khác với Tử vi, nó không có khí quý phái của bậc hoàng đế, cho nên sức đề kháng và hóa giải các sao hung, sát, kị, hình, rất yếu. Thiên cơ rất ngại Hóa Kị, khi hóa Kị khiến cho những ưu điểm của Thiên cơ rất khó được phát huy, trong khi khuyết điểm lại bị bộc phát hoàn toàn.
Thiên cơ cũng tương phản với Tử vi ở chỗ không kị gặp Cự môn, khi Cự môn gây ảnh hưởng đối với Thiên cơ, chỉ là dễ xảy ra điều tiếng thị phi sau lưng, nhất là sai lầm về những phát ngôn thuộc quá khứ của Thiên cơ.
Thiên cơ thuộc âm mộc, sao thứ ba của nhóm Nam Đẩu, là sao ích thọ, chủ về anh em, hóa khí gọi là thiện nên còn gọi là Thiện Tú (sao Thiện). Thiên cơ nhập miếu, vượng thì người đậm mập, gặp hãm địa thì người gầy ốm. Tính cách phần nhiều tính toán sáng suốt, siêng năng cẩn thận, nếu đồng cung với Thiên lương thủ Thân Mệnh thì phần nhiều là người nói hay, giỏi biện luận, đủ tố chất thành tài ở ngành nghề cần tới sự khéo léo đặc biệt, tâm địa thiện lương, có lòng tín ngưỡng đối với tôn giáo. Nếu thêm Khôi Việt Khúc Xương thì chủ về đa học đa năng, nếu có Kình dương xung phá hoặc hội thêm Không Kiếp thì rất cô độc, hoặc là mệnh sư tăng đạo sĩ.
Người ta thường nói yêu nhau 3 phần, 7 phần duyên số, có những người tưởng như tình cảm sâu đậm, không thể chia cắt nhưng cuối cùng phận hờ duyên mỏng cũng chẳng đến được với nhau. Cùng điểm danh 3 cặp đôi hoàng đạo không hợp nhau, sớm muộn gì cũng tạo nên chuyện tình buồn.
![]() |
![]() |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Các bậc thầy phong thủy khẳng định rằng phong thủy tốt không thể đem lại sự giàu có nếu bạn không cố gắng vì nó, nhưng nó cho bạn sự hỗ trợ cần thiết để tìm kiếm sự giàu có, của cải và sự thịnh vượng cho nhà ở hoặc nơi làm việc của bạn.
Nội dung
Nó giúp bạn sử dụng nhiều giải pháp phong thủy khác nhau để tạo nên một môi trường – cả ở nhà và ở nơi làm việc – sẽ tiếp thêm sức mạnh cho bạn và thu hút những năng lượng phong thủy của sự thịnh vượng và giàu có.
Sự giàu có không đơn thuần là chỉ về tiền bạc, mà nó gồm từ tài chính, cho tới sức khỏe và các mối quan hệ hòa hợp trong gia đình. Việc tạo ra sự giàu có cho gia đình không hề khó nếu biết áp dụng các lời khuyên phong thủy thích hợp.
Có rất nhiều lời khuyên phong thủy về lĩnh vực tiền bạc đơn giản và dễ dàng cùng với nhiều vật phẩm phong thủy để sử dụng trong không gian của bạn dành cho năng lượng giàu có mạnh mẽ.
Các giải pháp phong thủy cổ điển như: Tỳ Hưu, Thiềm Thừ, Cá chép, cây tài lộc, bình tài lộc, thuyền tài lộc, tiền xu cổ, tam đa Phúc-Lộc-Thọ, tượng Phật cười… đã được con người sử dụng trong nhiều thế kỷ qua để thu hút sự giàu có.
Hãy chắc chắn rằng cửa ra vào ngôi nhà của bạn có phong thủy mạnh mẽ. Bảo vệ nó – nếu cần thiết với biểu thượng phong thủy của sự bảo vệ, phong phú và may mắn.
Ngay bây giờ, bạn cần tống khứ sự lộn xộn, bẩn thỉu ra khỏi ngôi nhà hoặc nơi làm việc của bạn. Bởi vì, một không gian hỗn độn không thể thu hút hoặc giữ năng lượng của sự giàu có.
Xác định rõ khu vực phong thủy tiền bạc trong nhà của bạn và chăm sóc nó thật tốt. Nếu một phần khu vực tiền bạc của bạn bị thiếu, hoặc nếu nó nằm trong phòng tắm, cần giải quyết vấn đề với những giải pháp thích hợp.
Sự hiện diện của biểu tượng phong thủy trong môi trường sống của bạn nói lên sự giàu có và thịnh vượng. Bạn có thể lựa chọn biểu tượng cổ điển như Tỳ Hưu, Thiềm Thừ, Cá chép, cây tài lộc, bình tài lộc, thuyền tài lộc, tiền xu cổ, tam đa Phúc-Lộc-Thọ, tượng Phật cười…, hoặc biểu tượng đại diện cho năng lượng giàu có của riêng bạn.
Trang trí ngôi nhà hoặc văn phòng của bạn với một bể cá cảnh phong thủy để thu hút nguồn khí tài lộc, hoặc biểu tượng/hình ảnh phong thủy cụ thể về cá.
Thạch anh được biết đến là có khả năng thu hút sự giàu có, vì thế, nó thường được sử dụng trong các ứng dụng phong thủy.
Năng lượng Thạch anh làm tăng lòng tự trọng, sự tự tin giúp chủ nhân vượt qua được nỗi buồn, khó khăn, đau khổ trong cuộc sống. Vì vậy, loại đá này là lựa chọn trang sức phong thủy tuyệt vời dành cho bạn.
Trang trí hoặc đeo đá phong thủy giúp cải thiện vận mệnh cho nhà ở cũng như bản thân chủ nhân.
Đài phun nước (hoặc biểu tượng phong thủy đại diện cho đài phun nước) là giải pháp phong thủy rất mạnh mẽ để “lôi kéo” năng lượng của sự giàu có và nguồn khí tươi mới.
Bạn có thể sử dụng hình ảnh dòng nước chảy như phong thủy luân, thác nước, biển, dòng sông… đều rất tốt vì nước đại diện cho tài lộc.
Hình ảnh nước phong thủy với con sóng trắng xóa, tung bọt và khung cảnh thiên nhiên cởi mở, hùng vĩ có tác động đặc biệt mạnh mẽ trong các ứng dụng phong thủy giàu có.
Nước là yếu tố luôn đi liền cùng sự giàu có. Vì vậy, đài phun nước, hồ cá, hay những thứ có liên quan tới nước đặt trong nhà không chỉ còn vai trò là làm đẹp, mà còn kích thích sự thịnh vượng.
Hãy chắc chắn kiểm tra dòng chảy khí thường xuyên, cả ở trong nhà và văn phòng làm việc.
Một dòng chảy khí tươi mới và mạnh mẽ, đi kèm với các biểu tượng phong thủy tài lộc khác chắc chắn là mục tiêu của bạn nếu bạn đang tập trung vào việc hấp dẫn năng lượng của sự giàu có và thịnh vượng.
Bạn có biết rằng rất nhiều triệu phú Châu Á không bán nơi ở hoặc nơi làm việc – thuộc sở hữu riêng – trong khí tích lũy được sự giàu có? Hiểu biết sức mạnh phong thủy của không gian, họ giữ chúng vì những may mắn tài lộc.
Mệnh là chỉ sinh mệnh, tức là điều kiện của một người được ra đời. vận là chỉ vận trình, tức là hành trình của một đời người. Mệnh cũng từ đó mà được sinh ra, vận là sự biến hóa do trời định, vận do mình sinh. Vì vậy, mặc dù về mặt triết học cũng tồn tại nhiêu thuyết luận tạo mệnh, nhưng vận mệnh vẫn không thể thay đổi được. Trong Liễu phàm tứ huấn chính là một ví dụ điển hình về cải tạo vận mệnh.
Ngoài ra chúng ta còn biết được mục đích của dự trắc là định hướng được sự phát triển trong tương lai đón cát tránh hung, có được cuộc sống tốt đẹp hơn. Bởi vì đón cát tránh hung thì vận mệnh cũng tự nhiên được thay đổi theo. Nếu vận mệnh thực sự do trời định thì làm thế nào có thể xoay chuyển được Càn Khôn đây?
Sức lực của con người có hạn, bạn không thể thay đổi được vận mệnh nhưng lại có thể thích ứng, thậm chí còn tạo ra ảnh hưởng tới sự biến đổi, cuối cùng là lợi dụng vận trình để cải biến cuộc sống của mình.
Cho nên nói, vận mệnh không phải là trời định, quan trọng nhất là bản thân phải nắm bắt được cuộc sống của chính mình.
Nguồn: Thiệu Vĩ Hoa, Lý Cư Minh, Quang Tuệ
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Cự Môn Hóa Quyền kèm bên những sát tinh đừng bao giờ xuất đầu lộ diện sẽ nguy hiểm vào thân danh. Cự Môn Hóa Quyền kèm bên những sát tinh nên giữ thái độ “bất tranh” rồi thì quyền chức tự đến.
Cự Quyền đóng cung Phúc Đức cũng đi đến tình trạng như trên. Các sách vở Trung Quốc đưa ra luận đoán sau đây:
Cự Môn Hóa Quyền đóng cung Tài Bạch thì cung Tử Tức (con cái) có Thiên Tướng thủ. Thiên Tướng phía trước là Thiên Lương, phía sau là Cự Môn. Nếu cung con ấy hội tụ nhiều sát tinh ắt sẽ bị “phá gia chi tử” con cái phá của. Sát tinh là: Linh Hỏa, Xương Kị, Kiếp Không.
Cự Môn có tài ăn nói, Hóa Quyền làm tăng cái tài ấy hơn Hóa Lộc. Cự Môn Hóa Quyền học luật pháp hợp cách nhưng đừng cậy vào tài ăn nói để mà lấn át sẽ chỉ gây oán ghét bất lợi.
Cự Môn vào cung lục thân thường xảy ra tranh cãi bất hòa, nhưng hễ có thêm Hóa Quyền thì những bất hòa tranh cãi kia không còn nữa mà lục thân khả dĩ là những thế lực trông cậy được.
Tỉ dụ như cung Phu Thê có Cự Môn khó thuận hòa, nhưng được Hóa Quyền thì vợ lại là con người đắc lực chẳng những với chồng còn với con nữa.
Cự Môn đứng với sát kị tinh ở Tật Ách, bệnh hay sinh từ thực đạo, dạ dày, ruột hoặc phổi, gặp Hóa Quyền giảm hẳn.
HÓA QUYỀN VŨ KHÚC
Vũ Khúc Hóa Quyền ở Mệnh tự tay gầy dựng, do hành động của chính mình mà nên công; tiền bạc cũng như chức vị nghề nghiệp. Vũ Khúc Hóa Quyền không phải là số nương tựa dựa dẫm. Có thể được đề bạt lên chức cao để phải làm nhiều hơn. Vì vậy Vũ Khúc Hóa Quyền thường là con người lịch lãm từng trải tân khổ, từ việc to đến việc nhỏ đều qua tay. Phối hợp với Phúc Đức cung thấy nhiều sát tinh thì điều từng trải lịch lãm tân khổ càng tăng cao.
Vũ Khúc Hóa Quyền khó nhọc thật nhưng cũng nắm thực quyền. Vũ Khúc Hóa Quyền vào võ chức hay mật vụ trị an hợp cách.
Vũ Khúc Hóa Quyền không hay bằng Vũ Khúc Hóa Lộc. Vì đi với Hóa Lộc làm giàu, tiền bạc dư, đi với Hóa Quyền gánh vác công việc nhiều. Vũ Quyền cần có Lộc Tồn thì mới hội đủ điều kiện cho một phú cách.
Vũ Khúc Hóa Quyền gặp sát tinh vào ngành máy móc kỹ nghệ rất hợp, nhất nghệ tinh nhất thân vinh.
Vũ Khúc Hóa Quyền đóng Thê cung thường bị vợ đoạt quyền, nếu lại thêm sát tinh nữa thì vợ chồng chia tay, đôi khi người có số này bị mọc sừng như chàng Võ Đại Lang chồng Phan Kim Liên trong truyện Thủy Hử.
Nhưng Vũ Khúc Hóa Quyền đóng cung Thê mà lại có Lộc Tồn thì lấy vợ giàu hoặc vợ gây dựng cơ nghiệp của cải nhưng riêng mình vẫn ở trong cảnh thân lươn chẳng quản lấm đầu.
Vũ Khúc Hóa Quyền với hung sát tinh hội tụ vào cung Tử Tức thường có con hai dòng. Vũ Quyền đóng Bào Huynh với Không Kiếp anh em bất thuận.
HÓA QUYỀN TỬ VI
Tử Vi là đế tinh có Hóa Quyền ví như nắm thực quyền đó là ưu điểm tuy nhiên vẫn ẩn một khuyết điểm. Ưu điểm là giỏi quyết đoán lãnh đạo lực cao để có thể gánh vác trách nhiệm. Khuyết điểm là dễ rơi vào tư tâm và chủ quan, quyết định quá khích không vì người vì việc mà vì mình. Bởi vậy Tử Vi Hóa Quyền rất cần Tả Phụ Hữu Bật là hai gián quan hai vị phò tá giỏi để gánh bớt trách nhiệm, cản ngăn không để ông vua phạm sai lầm.
Tử Vi Hóa Quyền cần có Lộc Tồn thì mới thật hay. Vì thủ Mệnh Tử Vi Hóa Quyền tất nhiên cung Tài có Vũ Khúc Hóa Kị nếu vô Lộc ắt quyền uy thiếu thực chất. Tử Vi Hóa Quyền hội tụ với nhiều hung sát tinh lại càng cần thận trọng ví như ôg vua ưa hội tụ với tiểu nhân, nếu như không đủ sức trị nổi đám tiểu nhân có ngày uổng mạng. Trường hợp này, người mang số chớ nên ham quyền chức, vạ vào thân.
Tử Vi Hóa Quyền cần Văn Xương Văn Khúc để thêm thông minh tài trí. Nhưng quá thông minh tài trí mà không được Tả Hữu thì đôi khi cái thông minh lại dễ đem đến lầm lỡ như sách nói “Thông minh phản bị thông minh ngộ”
Tử Vi Hóa Quyền đóng cung lục thân thì những người thân trở nên chủ quan. Như vậy tối bất lợi khi vào cung Thê, nếu gặp cả Thất Sát Phá Quân nữa càng khốn, bị vợ coi như cỏ rác.
Tử Vi Hóa Quyền tọa lạc ở Tử Tức, con cái thành đạt nhưng bất hiếu nếu thấy cả hung sát tinh hội tụ. Tử Vi Hóa Quyền vào Nô Bộc hay Bào Huynh thì hãy kính nhi viễn chi, xuề xòa ăn uống thôi đừng cộng tác mà có ngày lâm vào cảnh cưỡi voi chung với đức ông.
Tử Vi Hóa Quyền đóng Tật Ách cung xuất hiện với sát tinh nhất là sao Thiên Hình, bệnh đến cấp kỳ và bị giải phẫu. Số nữ ưa bị ám tật.
HÓA QUYỀN THÁI DƯƠNG
Thái Dương đứng với Hóa Quyền tốt hơn đứng bên Hóa Lộc. Thái Dương Hóa Lộc tiền bạc đến nhờ quyền chức địa vị, có cuộc sống xa hoa. Nhưng Thái Dương Hóa Quyền mới là người thành công gây sự nghiệp.
Thái Dương Lộc Quyền Cự Môn là cách “dị tộc sinh tài” ra nước ngoài phấn phát. Dương Lương Xương Lộc được Hóa Quyền càng nhiều sáng kiến hay khi vào việc.
Thái Dương Thiên Lương không Văn Xương mà được Hóa Quyền là con người có uy vọng trong lãnh vực nào đó. Thái Dương Hóa Quyền đứng với Văn Xương lại gặp Hóa Kị, người làm việc xốc nổi, thiếu suy nghĩ chín chắn để thất bại. Thái Dương Hóa Quyền có khả năng khai sáng, nhưng bị khuyết điểm là thích người tâng bốc mình.
Thái Dương Hóa Quyền đóng Mệnh cung, tâm ý không chịu được tịch mịch cứ phải họp quây quần đông người, cho nên hay vội vã. Đáng lẽ nên thoái ẩn thì lại chường ra để mà bị phiền.
Thái Dương hãm địa được Hóa Quyền giảm đi những bất lợi, nếu đóng cung Thiên Di thì hãy rời khỏi quê hương bản quán để mà phát triển.
Thái Dương Hóa Quyền thủ Mệnh, tốt bụng thích giúp người khác nhưng nếu có luôn cả Văn Xương Hóa Kị thì mọi hành động thi ân đều chẳng đem lại lợi ích gì cho mình, chúng vay rồi quịt luôn.
Thái Dương đắc địa đứng với Hóa Quyền đóng cung lục thân dễ có trợ lực của các người thân thuộc nam tính. Vào Thê, vợ chồng xa cách. Vào Phu, có chồng xứng đáng trên phong thái, trên khả năng và tư cách. Vào Bào Huynh, có anh em trai trợ lực. Vào Phụ Mẫu hợp với bố.
Thái Dương Hóa Quyền đóng Tật Ách thường bị máu cao, thấy Hóa Kị Thiên Hình thì đề phòng bệnh mắt.
HÓA QUYỀN THAM LANG
Tham Lang chủ về giao tế, có Hóa Quyền lợi cho công tác giao tế nắm quyền chủ động. Tham Lang đứng cùng Vũ Khúc và Hóa Quyền Hóa Lộc là đẹp nhất, miễn không bị Kiếp Không phá rối.
Tham Lang Hóa Quyền mà vô Lộc thì hành động giao tế thiếu hào sảng, chăm chú vào tiểu lợi khó thành việc lớn. Bởi vậy Tham Lang Quyền Lộc phải đi cùng mới đắc lực.
Đến như cách Tham Hỏa Tinh hay Linh Tinh thì Hóa Lộc lại cần hơn Hóa Quyền. Thiếu Lộc chỉ có Quyền không thôi thành ra cách có tiếng không có miếng, hoặc bề ngoài phong quang sáng chói thanh thế đáng nể mà kho túi rỗng không, còn thêm nhọc mệt với công việc bộn bề, được người trọng vọng ngoài mặt thôi.
Tham Lang Hóa Quyền đi với Đào Hoa đứng chủ chốt ngành nghề trình diễn, như nhạc hội, nhà nhảy, quán rượu dễ thành công.
Tham Lang Đào Hoa ở cung con thường có con tư sinh, gặp Hóa Quyền thì chuyện tư sinh là công khai, không Hóa Quyền thành âm thầm.
Tham Lang Đào Hoa đóng Phụ Mẫu cung, mình là con của dòng thứ, nhưng Tham Lang Hóa Quyền không Đào Hoa ở Phụ Mẫu lại là tốt. Tham Lang Hóa Quyền bị sát tinh đóng Tật Ách bệnh ở gan, không Hóa Quyền bệnh ở mật.
HÓA QUYỀN THIÊN ĐỒNG
Thiên Đồng ưa Hóa Lộc hơn Hóa Quyền vì có Hóa Lộc đời sống an định êm ấm hơn gặp Hóa Quyền phải bươn chải khó nhọc. Nhưng tốt hơn Thiên Đồng nếu gặp được cả Lộc lẫn Quyền.
Thiên Đồng vốn là phúc tinh không chịu nổi những xáo trộn do Hóa Quyền gây ra, phải có Hóa Lộc chế hoá để cuộc phấn đấu thành tựu.
Thiên Đồng Hóa Quyền rất ngại thấy Cự Môn Hóa Kị đứng đối xung, hoặc Không Kiếp đứng cùng hay theo thế tam hợp. Quyền trong trường hợp này chỉ làm cho tai họa gay gắt mà thôi, chẳng giúp chi cho Thiên Đồng để chống đỡ. Trừ trường hợp cả Quyền Lộc Khoa hội tụ mới mong giải cứu.
Thiên Đồng đứng bên Thiên Lương mà gặp Hóa Quyền tốt hơn Thiên Đồng đứng một mình. Thiên Đồng chủ về tình tự, có Hóa Quyền tình tự trở nên đậm sắc, nó có hai phản ứng trái ngược tùy thuộc các sao cát hung đi kèm. Thiên Đồng Hóa Quyền đi với cát diệu thì tình tự ổn định, gặp việc có thể trầm tĩnh đối phó cho nên ung dung thanh thản.
Thiên Đồng Hóa Quyền đi với sát kị hoặc Kiếp Không thì tình tự thiếu hẳn ổn định, ứng phó đầu voi đuôi chuột hoặc lần khần bất quyết, đầu óc vớ vẩn.
Đồng Quyền ở Mệnh hay ở Phúc Đức cũng vậy, trừ trường hợp đi bên cạnh sao Thái Âm thì tình tự tương đối ổn định dù có bị kèm bởi hung sát kị.
Thiên Đồng Hóa Quyền vào Tài Bạch hay Quan Lộc có cát tinh thì cơ sự nghiệp tương đối hanh thông, gặp hung sát kị thường bất đắc chí, bất phùng thời, lắm lúc tính sảng lao vào những cơ hội viễn vông.
Thiên Đồng tình tự nhu nhược được Hóa Quyền cá tính vững lên, cả trên tình ái lẫn xử thế giao du. Số nữ Thiên Đồng Hóa Quyền hội với Đào Hoa Xương Kị hay Cự Môn Hóa Kị thì cuộc sống tình cảm duyên tơ rất lận đận.
Thiên Đồng cặp với Thái Âm và Hóa Lộc có thể xem là một phú cách, thêm Khôi Việt càng hay lắm nhưng làm giàu qua chức nghiệp dễ thành hơn làm giàu qua doanh thương.
Thiên Đồng Hóa Quyền mà gặp Tả Phụ Hữu Bật dễ được trợ lực từ bên ngoài. Thiên Đồng sợ thấy Đà La, hễ Đà La đứng bên, sự nghiệp cũng như nhân duyên bị khó khăn.
Thiên Đồng vào cung lục thân mà thấy cả Thiên Mã không thể hợp nhau dù là cha con hay anh em. Đến như vợ càng vô duyên. Thiên Đồng bản chất đã là canh cải vô thường rồi, nay Thiên Mã đến để khuấy động tình trạng canh cải vô thường ấy lên nữa.
Thiên Đồng Hóa Quyền bị Cự Môn Hóa Kị, bạn bè mới chơi thì thân sau thành thù, vợ chồng cho đến hết đời không yên dù lấy mấy bận, anh em sơ tán, con cái chia lìa.
Đồng Quyền Cự Kị vào cung Tật Ách dễ bị thần kinh, bệnh điên, gàn, dở hơi. Có Thiên Hình hay Không Kiếp mà không Cự Kị thì mang cái lo về thận bệnh.
Hóa quyền – Thiên Cơ
Thiên cơ bản chất phù động, giỏi biến hóa, có Hóa Quyền khả năng biến hóa càng linh hoạt. Thiên cơ cần Hóa quyền hơn Hóa Lộc. Đứng với Hóa Lộc dễ có tiền nhưng tiền tài cũng hay biến hóa nay ở mai đi.
Đứng với Hóa Quyền vẫn xoay sở ra tiền nhưng tiền bạc không bền bỉ. Thiên cơ là con người mưu lược, được Hóa Quyền, năng lực mưu lược tốt hơn, nếu có cả Văn Xương Hóa Khoa nữa thì mưu lược lên cao hẳn. Bởi vậy, khi Thiên Cơ đồng cung với Thiên Lương mà hội Xương Khoa Hóa Quyền chính là số của một chiến lược gia trên thực tế cũng như trên tư tưởng.
Cách Cự Cơ Đồng Lương mà Cơ cùng Hóa Quyền, Đồng có Hóa Lộc, rồi gặp Xương Khoa có thể làm cố vấn, hay trở thành nhân tài trong đám mạc liêu (Bộ tham mưu). Thiên Cơ Hóa Quyền kị gặp Linh Hỏa đứng cùng, bị Linh Hỏa kế hoạch như mất nền móng thành ra múa may thiếu thực chất.
Nhưng Thiên Cơ Hóa Quyền mà có Không Kiếp đắc địa lại như rồng gặp mây kế hoạch mưu lược thiên biến vạn hóa khiến người nể sợ.
Thiên Cơ Hóa Quyền đóng Tài bạch hay Quan lộc thường thấy mình kiêm chức kiêm nghề khác với lề lối kiêm chức của Phá Quân Hóa Lộc ở điểm Thiên Cơ nhàn nhã thong dong hơn Thiên Cơ Hóa Quyền mang đặc điểm giỏi đầu cơ nghĩa là bắt nhanh những cơ hộikho6ng những chỉ trên kinh tế thị trường mà còn trên chính trị ngoại giao.
Thiên Cơ bản chất tinh xảo nên nó hết sức nhạy ứng với những sao đứng chung, cát hay hung càng đậm nét. Thiên Cơ một mình bên Hóa Quyền gặp Không Kiếp đắc địa mới tốt, nếu có cả Hóa Khoa Hóa Lộc nữa thì Không Kiếp lại thành hung.
Cơ Lương đóng Phu Thê yêu nhau mà không kết hợp, nhưng có Hóa Quyền thì chuyện quyết ý lấy nhau phải thành, hoặc xa nhau rồi gương vỡ lại lành.
Thiên Cơ đóng Tử tức hãm địa khó thuận với con cái, nhưng có Hóa Quyền thì con cái lại thuận tòng. Thiên Cơ Hóa Quyền vào Phối cung gặp Tả Hữu thế nào cũng thành cuộc tình tay ba, có Đào Hoa nữa càng rõ rệt điều này.
Cự Cơ Hóa Quyền ở Phối cung, hôn nhân hôn nhân mỹ mãn nếu không bị sát kị. Thiên Cơ Hóa Kị thủ chiếu Tật ách, gan nóng, hoặc thần kinh suy nhược.
Hóa Quyền – Thiên Lương
Thiên Lương là sao thanh quý, cần Hóa Quyền hơn Hóa Lộc. Hóa Quyền đem cho Thiên Lương khả năng chỉ huy, quản trị. Nhưng Thiên Lương trên căn bản vẫn hài hòa với Hóa Khoa trên hết.
Thiên Lương Hóa Quyền mang một khuyết điểm: Dễ thành chủ quan đôi lúc ra cố chấp. Thiên Lương rất lợi nếu có Thái Dương đắc địa chiếu, Hóa Quyền nhờ thanh thế của Thái Dương mà mạnh hơn. Thêm Tả Hữu, Xương Khúc, Thai Tọa, Quang Quý càng hay nữa.
Thiên Lương chủ danh không chủ lợi. Nhưng ở trường hợp Thiên Lương đóng Thiên di cùng với Hóa Quyền Hóa Lộc và Thiên Mã thì đi xa, đi ra nước ngoài lập nghiệp khả dĩ làm giàu. Bởi khi Thiên Lương đồng hành với Thiên Mã lại ra cách ly hương, ly hương mà có Quyền Lộc ắt được người nơi xa thưởng thức.
Thiên Lương Hóa Quyền làm việc thành công nhờ lòng thành tín không phải nhờ thủ đoạn mưu chước. Thiên Lương ngoài tính chất “Ấm” còn mang theo tính chất “Hình” bởi vậy nên vào lục thân đưa đến cô khắc nhất là lại có thêm Hóa Quyền. Thiên Lương mà mang tính chất “Hình” là căn cứ vào lý luận của Tử vi gia Trung Quốc đưa ra luận cứ của Nho gia bảo rằng: “Dĩ hình pháp ấm, trị bách tính” nghĩa là lấy hình pháp để răn đe và che chở trăm họ. Vậy cho nên “Ấm” (che chở) phải đi với “Hình”.
Thiên Lương vào thê cung người Trung Quốc cho rằng nếu vợ hơn hai ba tuổi thì tốt, có Hóa Quyền tuổi tác càng cách vời.
Thiên Lương đóng Tử tức mà gặp Linh Hỏa thường hay bị tiểu sản, có Hóa Quyền điều trên còn nặng hơn. Thiên Lương vào Tật ách đi với Hóa Quyền dễ mắc chứng tê thấp hay thần kinh thống không hiểm nguy nhưng kéo dài khó khỏi. Thiên Lương hay bị cảm mạo, nhưng Hóa Quyền lại chống lại cảm mạo bởi vậy không đau ốm vặt, nay sổ mũi mai nhức đầu bệnh vớ vẫn.
Hóa Quyền – Thái Âm
Thái Âm là tài tinh rất lợi cho công việc kế hoạch tài vụ, quản lý tài vụ được Hóa Quyền khả năng kể trên tăng gấp bội. Thái Âm Hóa Quyền không nhất thiết là người giàu có lớn, mà là người quản lý tài vụ, vận dụng tiền tài, tính toán thị trường.
Thái Âm Hóa Quyền nếu gặp Thiên Cơ Hóa Kị vất cả hơn hoặc không tự mình làm nhiều tiền chỉ tính toán tiền bạc cho người khác. Thái Âm Hóa Quyền được Hóa Khoa nhàn thân.
Thái Âm Hóa Quyền thủ mệnh theo các nhà tử vi Trung Quốc khi luận đoán cần phải phối hợp với cung Phúc Đức. Họ nêu lý do sau đây:
Thái Âm có Hóa Quyền cung Phúc mà thấy Cự Môn Hóa Kị, hoặc Thiên Cơ Hóa Kị những sao này ảnh hưởng đến toàn cục lá số khiến cho khi điều khiển tài vụ vì cố chấp thiên kiến không thực tế mà hỏng việc.
Thái Âm Hóa Quyền hội chiếu Thái dương Hóa Khoa do nổ lực mới lên địa vị khác khác với Thái Âm Hóa Khoa hội chiếu Thái Dương Hóa Quyền. Nhưng thiếu Hóa Lộc thì vẫn không thể giàu.
Thái Âm Hóa Quyền vào lục thân ảnh hưởng mạnh đối với thân thích thuộc nữ hơn nam. Nếu vào cung con mà thấy cả Không Kiếp Linh Hỏa sẽ bất thuận hoặc bị phiền lụy về con gái, vào cung Bào huynh Phụ mẫu cũng suy luận tương tự.
Thái Âm Hóa Quyền đóng thê đắc địa vợ giỏi và nắm quyền gia đình, nhưng hãm mà có Hỏa Linh Không Kiếp cuộc sống lứa đôi không trọn vẹn. Thái Âm Hóa Quyền đóng tật ách dễ bị chứng suy nhược, thần kinh quá mẫn mà ưa lo sợ vô cớ.
Hóa Quyền – Phá Quân
Đặc điểm của Phá Quân là sức mạnh khai sáng nhiều khả năng đột phá hiện trạng. Có Hóa Quyền sức mạnh và khả năng trên sung mãn hơn. Sự đột phá của Phá Quân thường do bị thúc bách của hoàn cảnh không thể không biến. Đứng với Hóa Quyền thì đột phá và khai sáng thành ra chủ động, đã thành công, đã yên ổn nhưng vẫn tiếp tục đi tìm những thành công mới. Bởi thế Phá Quân không thể nhàn.
Phá Quân đóng mệnh hay Quan lộc người xưa bảo hợp với nghiệp võ. Phá Quân Hóa Quyền đứng với Khôi Việt, Tả Hữu, Thiên hình, Thai Tọa, Quang Quý vinh thân qua võ nghiệp.
Thời nay Phá Quân cũng lợi vào chuyện theo đuổi công nghiệp, chỉ huy cơ xưởng. Phá Quân không chủ phú, nên có Hóa Quyền thì danh vẫn hơn lợi.
Phá Quân vốn ưa mạo hiểm, Phá Quân đi cùng Hóa Quyền và những hung sát tinh khác thường đắc lực với những công tác nguy hiểm. Tỉ dụ công tác “Lực lượng đặc biệt” chẳng hạn.
Phá Quân Hóa Quyền không gặp hung sát có thể hợp với chính trị. Phá Quân Hóa Quyền được Liêm Trinh Hóa Lộc lại có cả Tả Hữu thì hoạnh phát sớm chiều về mặt tiền bạc.
Phá Quân Hóa Quyền đóng cung Phúc đức bản chất con người mạo hiểm, thêm Không Kiếp nữa càng xông pha, không những trên hành động mà trên cả tư tưởng.
Phá Quân Hóa Quyền đóng cung Phối, lúc yêu thương hết sức đằm thắm tưởng như chẳng bao giờ rời, rồi đùng một cái đột biến phân ly, có Địa Kiếp càng mau rã gánh.
Phá Quân Hóa Quyền đóng cung con, khắc con, thêm Địa Kiếp con cái bất hiếu. Phá Quân Hóa Quyền đóng tật ách gặp Thiên Hình dễ bị giải phẩu do bạo bệnh.
Nguồn Sưu tầm
Có rất nhiều cách tính toán trong thiết kế để xây dựng thành công một căn nhà mơ ước. Bên cạnh đó, theo tín ngưỡng, việc tránh cho ngôi nhà gặp phải những nguồn năng lượng xấu, hay nói theo cách "đời thường" là những vị khách “không mời mà đến” (như hồn ma) cũng không là điều ngoại lệ.
Nhật Bản: Bỏ trống kimon (cửa quỷ)
Ở Nhật Bản, có truyền thuyết kể rằng các linh hồn đều đến từ hướng Đông Bắc hay "kimon" (cửa quỷ). Đó bị coi là một hướng không may mắn trong ngôi nhà vì linh hồn ma quỷ có thể đi vào, ăn cắp tất cả vận may của gia đình bạn và đi ra từ đó.
Theo quan niệm này, họ không thể làm cửa, đặt bếp, nhà vệ sinh, phòng tắm hay thậm chí là bồn rửa ở góc này. Tất cả những thứ liên quan đến lửa và nước đều có thể dẫn ma quỷ vào ngôi nhà của bạn từ góc kimon. Để bảo vệ ngôi nhà, người ta thường đặt tủ quần áo hay treo những lá bùa viết bằng chữ Phạn ở góc Đông Bắc đó.
Thậm chí, họ còn dựng một mô hình thành Hiji (một tòa thành cổ được xây theo hướng kimon ở Nhật Bản) làm tháp bảo vệ ở hướng Đông Bắc. Nếu có thể, họ sẽ bỏ trống hoàn toàn khu vực này. Nhiều người Nhật tin rằng, việc làm đó sẽ giúp ngăn chặn triệt để và không cho những linh hồn ma quỷ có cơ hội xâm nhập vào nhà.
"Lối thoát ma quỷ" của người Philippines
Trong một số nền văn hóa ở Philippines, tầng hầm và những căn phòng dưới lòng đất được xem là nơi trú ẩn của các linh hồn ma quỷ. Cách duy nhất bạn có thể "hóa giải" là xây dựng một lối ra trong ngôi nhà thấp hơn so với căn phòng đó. Đây được coi là “lối thoát ma quỷ”.
Một đặc điểm nữa là khi xây cầu thang trong nhà, họ thường đếm những bậc thang đó với "oro, plata, mata" (có nghĩa là vàng, bạc, cái chết) cho mỗi bậc.
Nếu bậc thang cuối cùng ứng với “oro” - có nghĩa là cuộc sống của bạn sẽ rất tốt; nếu kết thúc bằng “plata”, bạn sẽ có một cuộc sống bình thường. Bậc cuối cùng mà mang tên “mata”, bạn hoặc ai đó trong gia đình có thể sẽ phải đối mặt với cái chết, bởi đó là bậc thang chết chóc. Chính vì vậy, rất ít cầu thang ở đây được xây theo con số lẻ.
“Nhà hồn” ở Thái Lan
Trong khi rất nhiều nền văn hóa cố gắng xua đuổi, thậm chí là tìm cách diệt trừ những linh hồn xung quanh họ thì người Thái lại xây dựng “ nhà hồn” cho linh hồn ma quỷ.
Người Thái cho rằng, những linh hồn sống ở khắp mọi nơi xung quanh bạn, họ không có chỗ để nương thân nên mới vây quanh bạn và quấy nhiễu. Do đó, người Thái đã nảy ra ý tưởng xây dựng ngôi nhà nhỏ mang tên “nhà hồn”.
Chúng sẽ được dựng lên bên cạnh nhà người sống đang ở. “Nhà hồn” chính là nơi để các linh hồn có thể cư trú ở trong đó, vì thế sẽ không làm phiền đến cuộc sống của bạn. Người Thái tin đây không chỉ là cách để xoa dịu các linh hồn, mà từ đó các linh hồn này sẽ giúp đem lại may mắn cho họ trong cuộc sống.
Mái nhà cong trong kiến trúc Trung Hoa
Xây dựng và thiết kế mái nhà sao cho phù hợp là một phần quan trọng trong kiến trúc của người Trung Quốc. Điều này không chỉ có ý nghĩa về mặt kiến trúc mà còn mang ý nghĩa tín ngưỡng sâu xa.
Mái nhà của người Trung Quốc, đặc biệt là trong các thiết kế cung đình hay chùa chiền đều có dạng hình cong. Theo quan niệm của đạo Phật, linh hồn chỉ có thể bay theo đường thẳng, không thích những thứ có hình dáng cong.
Nhiều người cho rằng, những linh hồn ma quỷ sẽ bị rơi ra khỏi mái nhà khi gặp phải những đường cong trên mái, hay ngay cả khi chúng bay xuống từ phía trên cũng sẽ bị bật trở lại nếu va phải đường cong này. Do đó, người Trung Quốc tin, mái nhà cong sẽ giúp xua đuổi những hồn ma và khiến linh hồn tà ác tránh xa nơi ở của họ.
Sơn “Haint blue” ở Phương Tây
“Haint blue” là tên gọi chung cho toàn bộ các sắc thái của màu xanh. Theo một số quan niệm của phương Tây, những sắc xanh này có tác dụng xua đuổi ma quỷ.
Nhiều người tin câu chuyện về “Haint blue” có nguồn gốc từ nền văn hóa của người Gullah ở miền Nam nước Mỹ. Họ cho rằng, ma quỷ không thể đi qua nước, vì vậy nếu sử dụng màu có sắc tố xanh giống như màu nước (haint blue) sẽ đánh lừa được ma quỷ là ngôi nhà bao phủ bởi một dòng sông. Do đó, chúng không thể vượt qua để vào nhà được.
Theo giả thuyết này, nhiều người đã sơn một phần hoặc thậm chí toàn bộ ngôi nhà của mình màu xanh của nước để đẩy lùi ma quỷ, giữ cho ngôi nhà tránh khỏi sự phá rối của các hồn ma.
(Theo Một thế giới)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Khánh Linh (##)
![]() |
![]() |
=> Theo dõi: Tử vi hàng ngày của 12 con giáp được cập nhật nhanh chóng, chính xác |
Bài viết về Dịch Can Chi của cụ Hà Uyên.
............................. LY
........TỐN..................................KHÔN
...CHẤN.....................+...................ĐOÀI
.......CẤN...................................CÀN
.............................KHẢM
1. Giáp Tý – Thuần Càn, hào 1
- “Sơ Cửu, tiềm long vật dụng”.
- “Chín Đầu, rồng lớn ẩn mình dưới nước, tạm thời chưa thi thố được tài năng.”
2. Ất Sửu – Thuần Khôn, hào 4
- “Lục Tứ, quát nang, vô cữu vô dự.”
- “Sáu Bốn, thắt chặt miệng túi, tránh được tội lỗi (cữu hại) mà không cầu được khen”.
- Tượng “quát nang vô cữu, thận bất hại dã” - Hào Sáu Bốn tất phải thận trọng, cẩn thận mới có thể không gây ra tai họa.
3. Bính Dần - Thuần Cấn, hào 6
- “Thượng Cửu, đôn cấn, cát”.
- “Hào Chín Trên, lấy phẩm chất đôn hậu để ghìm chặn tà dục, tốt lành.”
- Tượng “đôn cấn chi cát, dĩ hậu chung dã” – Hào Chín Trên với bản chất tốt đẹp đã giữ vững đến lúc cuối.
4. Đinh Mão – Thuần Đoài, hào 2
- “Cửu Nhị, phu đoài, cát, hối vong”
- “Hào Chín Hai, thành tín mà vui vẻ với mọi người, tốt lành, hối hận mất hết.”
- Tượng “phu đoài chi cát, tín chí dã” – Chín Hai chí nằm ở sự thành tín trung thực.
5. Mậu Thìn - Thuần Khảm, hào 2
- “Cửu Nhị, khảm hữu hiểm, cầu tiểu đắc”
- “Chín Hai, Ở nơi hiểm nạn khốn cùng trong hố bẫy, từ nơi nhỏ hẹp mưu cầu thoát hiểm, tất có được điều mong muốn”.
- Tượng “cầu tiểu đắc, vị xuất trung dã” – Hào Chín Hai lúc này còn chưa thoát khỏi chỗ hiểm.
6. Kỷ Tị - Thuần Ly, hào 6
- “Thượng Cửu, vương dụng xuất chinh, hữu gia chiết thủ hoạch phỉ kỳ xú, vô cữu”
- “Chín Trên, nhà Vua xuất quân chinh phạt, lập được công lớn, chém đầu quân địch, bắt những kẻ “dị kỷ” không chựu lệ thuộc, không có lỗi.
- Tượng “Vương dụng xuất chinh, dĩ chính bang dã” – hào Chín Trên làm như vậy để cho đất nước được yên ổn, trị vì được thiên hạ.
7. Canh Ngọ - Thuần Chấn, hào 4
- “Cửu Tứ, chấn toại nê”
- “Chín Bốn, lúc sấm động kinh hoàng thất thố, rơi vào đống bùn lấy”.
- Tượng “chấn toại nê, vị quang dã” – hào Chín Bốn đức dương cứng chưa thể sáng lớn. Sa vào nơi đồi trụy.
8. Tân Mùi - Thuần Tốn, hào 4
- “Lục Tứ, hối vong, điền hoạch tam phẩm”
- “Sáu Bốn, hối hận mất hết, vật săn được chia làm ba loại (để làm vật tế tự, đãi khách, và dâng lên bếp Vua).
- Tượng “điền hoạch tam phẩm, hữu công dã” – hào Sáu Bốn tuân theo mệnh Vua, lập được công lao.
9. Nhâm Thân - Thuần Càn, hào 5
- “Cửu Ngũ, phi long tại thiên, lợi hiện đại nhân”
- “Chín Năm, rồng lớn bay cao trên trời, lợi về sự xuất hiện đại nhân”.
10. Quý Dậu – Thuần Khôn, hào 6
- “Thượng Lục, long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng”
- “Sáu Trên, rồng giao hợp trên cánh đồng, chảy máu đen máu vàng”.
- Tượng “long chiến vu dã, kỳ đạo cùng dã” - Đạo thuần âm của hào Sáu Trên đã phát triển đến cùng tận.
11. Giáp Tuất – Thuần Càn, hào 6
- “Thượng Cửu, cang long hữu hối”
- “Chín Trên, rồng lớn bay cao đến cùng cực, cuối cùng sẽ có sự hối hận”.
12. Ất Hợi – Thuần Khôn, hào 5
- “Lục Ngũ, hoàng thường, nguyên cát”
- “Sáu Năm, xiêm váy mầu vàng, hết sức tốt lành”.
- Tượng “hoàng thường nguyên cát, văn tại trung dã” - Sáu Năm lấy đức ôn hòa nhã nhặn để giữ vững đạo “trung”.
13. Bính Tý - Thuần Cấn, hào 5
- “Lục Ngũ, cấn kỳ phụ, ngôn hữu tự, hối vong”
- “Sáu Năm, ghìm chặn miệng mình, không để nói càn, nói phải rành mạch đâu ra đấy, hối hận sẽ mất.
- Tượng “Cấn kỳ phụ, dĩ trung chính dã” – Sáu Năm có thể ở ngôi giữa giữ chính. Giữ chính là thừa.
14. Đinh Sửu – Thuần Đoài, hào 3
- “Cửu Tam, lai đoài hung”
- “Chín Ba, quay lại để cầu vui, có hung hiểm”.
- Tượng “Lai đoài chi hung, vị bất đáng dã” – Sáu Ba ngôi vị không chính đáng.
15. Mậu Dần - Tập Khảm, hào 1
- “Sơ Lục, tập khảm, nhập vu khảm tãm, hung”
- “Sáu Đầu, ở nơi chất chồng hiểm họa cạm bẫy, rơi sâu vào hố bẫy, có hung hiểm”.
- Tượng “tập khảm nhập khảm, thất đạo hung dã” – hào Sáu Đầu lạc đường rơi thêm vào chỗ hiểm nên tất có hung hiểm.
16. Kỷ Mão – Thuần Ly, hào 1
- "Sơ Cửu, lý thác nhiên, kính chi, vô cữu”
- “Chín Đầu, làm việc cẩn trọng không cẩu thả, giữ thái độ cung kính, cẩn thận thì tất không tội lỗi.”
- Tượng “lý thác chi kính, dĩ tị cữu dã” – Ý hào Sáu Đầu có như vậy mới tránh được tội lỗi.
17. Canh Thìn – Thuần Chấn, hào 3
- "Lục Tam, chấn tô tô, chấn hành vô sảnh”
- “Sáu Ba, lúc sấm động kinh hãi không yên, do sấm động mà biết sợ, thì đi lên sẽ không gặp họa hoạn.”
- Tượng “chấn tô tô, vị bất đáng dã” – Ngôi vị hào Sáu Ba không thỏa đáng.
18. Tân Tị - Thuần Tốn, hào 5
- “Cửu Ngũ, trinh cát, hối vong, vô bất lợi, vô sơ hữu chung; tiên canh tam nhật, hậu canh tam nhật, cát”
- “Chín Năm, giữ vững chính bền thì được tốt lành, hối hận mất hết, không gì không lợi ; lại ban mệnh lệnh, mới đầu không thuận lợi, nhưng cuối cùng tất sẽ thông thuận ; dự định ban bố lệnh mới vào ba ngày trước ngày Canh, là ngày tượng trưng cho sự “biến canh” (thay đổi), và thi hành mệnh lệnh mới, vào ba ngày sau ngày Canh, như vậy mà trên dưới thuận theo, tất được tốt lành.”
- Tượng “cửu ngũ chi cát, vị chính trung dã” – hào Chín Năm được như vậy là do ngôi hào này chính mà giữ vững được đạo “trung”.
19. Nhâm Ngọ - Thuần Càn, hào 4
- “Cửu Tứ, hoặc dược tại uyên, vô cữu”
- “Chín Bốn, hoặc bay vượt lên trước, hoặc lui lại nằm trong vực, tất không tội lỗi.”
20. Quý Mùi – Thuần Khôn, hào 1
- “Sơ Lục, lý sương, kiên băng chí.”
- “Sáu Đầu, dẫm lên sương mỏng là sẽ đón đợi băng dày.”
- Tượng “lý sương kiên băng, âm thủy ngưng dã ; tuần chí kỳ đạo, chí kiện băng dã” – Khí Âm đã bắt đầu ngưng tụ, theo như quy luật thì băng dày tất sẽ đến.
21 Giáp Thân – Thuần Càn, hào 5
- “Cửu Ngũ, phi long tại thiên, lợi hiện đại nhân”
- "Chín Năm, rồng lớn bay cao trên trời, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”
22. Ất Dậu – Thuần Khôn, hào 6
- “Thượng Lục, long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng”
- “Sáu Trên, rồng giao hợp trên cánh đồng, chảy máu đen máu vàng.”
- Tượng “long chiến vu dã, kỳ đạo cùng dã” - Đạo thuần âm của hào Sáu Trên đã phát triển đến cùng tận.
23. Bính Tuất - Thuần Cấn, hào 4
- “Lục Tứ, cấn kì thân, vô cữu”
- "Sáu Bốn, ghìm chặn ở phần thân mình, không để vọng động, tất không tội lỗi.”
- Tượng “cấn kì thân, chỉ chư cung dã” – hào Sáu Bốn có thể tự ghìm chặn, yên giữ ngôi mình.
24. Đinh Hợi – Thuần Đoài, hào 4
- “Cửu Tứ, thương đoài vị ninh, giới tật hữu thỉ”
- "Chín Bốn, cân nhắc về sự vui nhưng trong lòng chưa yên, nếu cắt đứt hẳn với sự “tà tật” của bạn xiểm nịnh thì thật đáng mừng.
- Tượng “cửu tứ chi hỷ, hữu khánh dã” - Điềm mừng của hào Chín Bốn, là vì có tượng đáng chúc mừng vậy.
25. Mậu Tý - Thuần Khảm, hào 6
- “Thượng Lục, hệ dụng huy mặc, chỉ vu tùng cức, tam tuế bất đắc, hung”
- “Sáu Trên, bị trói bằng dây thừng, giam hãm trong bụi gai, ba năm không được giải thoát, có hung hiểm.
- Tượng “thượng lục thất đạo, hung tam tuế dã” – hào Sáu Trên lạc chính đạo đi vào nơi hiểm, hung hiểm sẽ kéo dài suốt ba năm.
26. Kỷ Sửu – Thuần Ly, hào 2
- “Lục Nhị, hoàng ly, nguyên cát”
- “Sáu Hai, giữ được sắc vàng trung chính phụ bám vào vật, cực tốt.”
- Tượng “hoàng ly nguyên cát, đắc trung đạo dã” – hào Sáu Hai đạo hợp giữa không lệch.
27. Canh Dần - Thuần Chấn, hào 2
- “Lục Nhị, chấn lai lệ; ức táng bối, tê vu cửu lăng, vật trục, thất nhật đắc”
- “Sáu Hai, sấm sét ập tới, có nguy hiểm; mất nhiều tiền, nên lánh xa và trèo lên đỉnh đồi cao, không cần truy tìm, quá không đầy bảy ngày thì tiền mất lại tìm thấy.”
- Tượng “chấn lai lệ, thặng cương dã” – hào Sáu Hai cưỡi trên hào dương cứng mà nguy.
28. Tân Mão - Thuần Tốn, hào 6
- “Thượng Cửu, tốn tại sàng hạ, táng kì tư phủ; trinh hung”
- “Chín Trên, thuận theo quá mức, nép ở dưới giường, giống như mất búa sắc cứng rắn, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm.”
- Tượng “tốn tại sàng hạ, thượng cùng dã ; táng kì tư phủ, chính hồ hung dã” – hào Chín Trên ở ngôi cuối của sự khốn cùng ; hào Chín Trên nên giữ vững sự chính của dương cứng để phòng hung hiểm.
29. Nhâm Thìn – Thuần Càn, hào 3
- “Cửu Tam, quân tử trung nhật càn càn, tịch thích nhược, lệ vô cựu”
- “Chín Ba, người quân tử suốt ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn cảnh giác thận trọng, như vậy dù gặp nguy hiểm cũng không bị cữu hại.”
30. Quý Tị - Thuần Khôn, hào 2
- “Lục Nhị, trực phương đại, bất tập vô bất lợi.”
- “Sáu Hai, ngay thẳng, vuông vắn, to lớn, không học tập cũng vị tất là không có lợi.”
- Tượng “lục nhị chi động, trực dĩ phương dã ; ‘bất tạp vô bất lợi’, địa đạo quang dã” - Sự biến động của hào Sáu Hai theo hướng ngay thẳng và vuông vắn ; ‘không học tập vị tất là không có lợi’ là đạo nhu thuận của Đất phát ra hào quang.
31. Giáp Ngọ - Thuần Càn, hào 4
- “Cửu Tứ, hoặc dược tại uyên, vô cữu”
- “Chín Bốn, hoặc bay vượt lên trước, hoặc lui lại nằm trong vực, tất không cữu hại tội lỗi.”
32. Ất Mùi – Thuần Khôn, hào 1
- “Sơ Lục, lý sương, kiên băng chí”
- “Sáu Đầu, dẫm lên sương mỏng là sẽ đón đợi băng dày.”
- Tượng “lý sương kiên băng, âm thủy ngưng dã ; tuần chí kỳ đạo, chí kiện băng dã” – Khí Âm đã bắt đầu ngưng tụ, theo như quy luật thì băng dày tất sẽ đến.
33. Bính Thân - Thuần Cấn, hào 3
- “Cửu Tam, cấn kì hạn, liệt kì di, lệ huân tâm.”
- “Chín Ba, ghìm chặn sự vận động của lưng, đến nỗi đứt cả nơi chỗ thăn lưng (chỗ trên dưới giao nhau), nguy hiểm như cháy ruột.”
- Tượng “cấn kì hạn, nguy huân tâm dã” - Sự nguy hiểm của hào Chín Ba sẽ như cháy ruột.
34. Đinh Dậu – Thuần Đoài, hào 5
- “Cửu Ngũ, phu vu bác, hữu lệ.”
- “Chín Năm, tin kẻ tiểu nhân âm mềm, mà tiêu mòn hết đức dương cứng (bị nó lôi kéo mà cùng vui), có nguy hiểm.”
- Tượng “phu vu bác, vị chính đáng dã” - Thật đáng tiếc cho hào Chín Năm lại ở vào ngôi chính đáng mà thôi!
35. Mậu Tuất - Thuần Khảm, hào 5
- “Cửu Ngũ, khảm bất doanh, chỉ kí bình, vô cữu.”
- “Chín Năm, hố bẫy hiểm nạn còn trưa tràn đầy, thì gò nhỏ đã bị san bằng, tất không cữu hại.”
- Tượng “khảm bất doanh, trung vị đại dã” – hào Chín Năm tuy ở ngôi giữa, nhưng công sức làm cho phẳng chỗ hiểm còn được chưa sáng lớn.
36. Kỷ Hợi – Thuần Ly, hào 3
- “Cửu Tam, nhật trắc chi ly, bất cổ phẫu nhi ca, tác đại điệt chi ta, hung.”
- “Chín Ba, mặt trời sắp lặn, ngả dần “bám” về phía trời tây, lúc này nếu không gõ vò, vui vẻ ca hát tự vui, tất sẽ than thân già nua, ốm yếu, có hung hiểm.”
- Tượng “nhật trắc chi ly, hà khả cữu dã” – Ngả dần bám về phía trời Tây, tình trạng này thì làm sao mà giữ cho được lâu dài!
37. Canh Tý - Thuần Chấn, hào 1
- “Sơ Cửu, chấn lai khích khích, hậu tiếu ngôn nha nha, cát.”
- “Chín Đầu, sấm sét ập tới mà biết mà biết kinh hãi khiếp sợ, thì sau sẽ biết thận trọng hành động, giữ phúc để được nói cười râm ran, tốt lành.”
- Tượng “chấn lai khích khích’, khủng chí phúc dã ; ‘tiếu ngôn nha nha’ hậu hữu tắc dã” – hào Chín Đầu kinh sợ thận trọng, thì có thể đưa phúc trạch đến ; hào Chín Đầu sau khi kinh sợđã biết tuân thủ phép tắc.
38. Tân Sửu - Thuần Tốn, hào 1
- “Sơ Lục, tiến thoái, lợi vũ nhân chi trinh.”
- “Sáu Đầu, thấp thuận quá mức, tiến thoái do dự, lợi về sự kẻ vũ dũng giữ vững chính bền.”
- Tượng “tiến thoái chí nghi dã ; lợi vũ nhân chi trinh, chí trị dã” – hào Sáu Đầu ý chí nhu nhược nghi sợ ; ‘lợi về sự kẻ vũ dũng giữ vững chính bền’ là để khuyến khích Sáu Đầu sửa trị và tạo lập ý chí kiên cường.
39. Nhâm Dần – Thuần Càn, hào 2
- “Cửu Nhị, hiện long tại điền, lợi hiện đại nhân.”
- “Chín Hai, rồng lớn đã xuất hiện ở cánh đồng, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”
40. Quý Mão – Thuần Khôn, hào 3
- “Lục Tam, hàm chương khả trinh ; hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung.”
- “Sáu Ba, ngậm chứa sự sáng đẹp của Dương cứng thì giữ được chính bền ; hoặc giúp dập cho sự nghiệp của đắng quân vương, khi thành công không quy công về mình, mà kính cẩn làm hết chức trách của kẻ bề tôi cho đến cùng.”
- Tượng “hàm chương khả trinh, dĩ thời phát dã ; hoặc tòng vương sự, tri quang đại dã” – hào Sáu Ba cần căn cứ vào thời cơ mà phát huy tác dụng ; hào Sáu Ba trí tuệ sáng láng, sâu rộng.
41. Giáp Thìn – Thuần Càn, hào 3
- “Cửu Tam, quân tử trung nhật càn càn, tịch thích nhược, lệ vô cựu”
- “Chín Ba, người quân tử suốt ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn cảnh giác thận trọng, như vậy dù gặp nguy hiểm cũng không bị cữu hại.”
42. Ất Tị - Thuần Khôn, hào 2
- “Lục Nhị, trực phương đại, bất tập vô bất lợi. ”
- “Sáu Hai, ngay thẳng, vuông vắn, to lớn, không học tập cũng vị tất là không có lợi.”
- Tượng “lục nhị chi động, trực dĩ phương dã ; ‘bất tạp vô bất lợi’, địa đạo quang dã” - Sự biến động của hào Sáu Hai theo hướng ngay thẳng và vuông vắn ; ‘không học tập vị tất là không có lợi’ là đạo nhu thuận của Đất phát ra hào quang.
43. Bính Ngọ - Thuần Cấn, hào 2
- “Lục Nhị, cấn kì phì, bất chửng kì tùy, kì tâm bất khoái.”
- “Sáu Hai, ghìm chặn sự cử động của cẳng chân, chưa thể bước lên đội kẻ vốn nên đi theo, trong lòng không được khoan khoái.”
- Tượng “bất chửng kì tùy, vị thoái chính dã” – hào Sáu Hai không thể bước lên đội kẻ vốn nên đi theo, lại không có cách nào lùi lại để nghe theo mệnh lệnh đang ghìm chặn (vì vậy trong long không khoan khoái).
44. Đinh Mùi – Thuần Đoài, hào 6
- “Thượng Lục, dẫn đoài.”
- “Sáu Trên, dụ dỗ người ta cùng vui.”
- Tượng “thượng lục dẫn đoài, vị quang dã” – hào Sáu Trên đạo vui vẻ chưa thể (không thể) sáng lớn.
45. Mậu Thân - Thuần Khảm, hào 4
- “Lục Tứ, tôn tửu, quỹ nhị, dụng phẫu, nạp ước tự dũ, chung vô cữu”
- “Sáu Bốn, một chén riệu nhạt, hai rá thức ăn đạm bạc, dùng vò sành thô lậu đựng các thứ trên (thành kính dâng biếu bậc tôn quý), nộp ước qua cửa sổ sáng, cuối cùng tránh được cữu hại.”
- Tượng “tôn tửu quỹ nhị, cương nhu tế dã” – Ý hào Chín Năm dương cứng và hào Sáu Bốn âm mềm giao tiếp với nhau.
46. Kỷ Dậu – Thuần Ly, hào 4
- “Cửu Tứ, đột như kì lai như, phần như, tử như, khí như”
- “Chín Bốn, đột nhiên hiện lên ráng bình minh đỏ rực, giống như ngọn lửa mạnh đang thiêu đốt, nhưng chỉ trong phút chốc sẽ bị tiêu tán, diệt vong, bị vứt bỏ trạch trơn.”
- Tượng “đột như kì lai như, vô sở dụng dã” – Cái hư thế của hào Chín Bốn, tất sẽ làm nó không nơi phụ bám, chứa chấp.
47. Canh Tuất - Thuần Chấn, hào 6
- “Thượng Lục, chấn tác tác, thị quắc quắc, chinh hung ; chấn bất vu kì cung, vu kì lân, vô cữu ; hôn cấu hữu ngôn”
- “Sáu Trên, lúc sấm động sợ đến nỗi hai chân co rúm lại không đi được, hai mắt nhớn nhác, cứ mạo hiểm tiến lên tất gặp hung hiểm ; nếu có thể khi sấm động còn chưa tới bản thân mình, mới tới nhà hàng xóm đã đề phòng trước, thì không gặp cữu hại ; nhưng nếu mong có được âm dương hôn phối, thì sẽ đi đến tranh cãi nhau.”
- Tượng “chấn tác tác, trung vị đắc dã ; tuy hung vô cữu, úy lân giới dã” – Hào Sáu Trên chưa ở được vào vị trí có thể ứng xử thích hợp được với đạo “trung” ; mặc dù có hung hiểm nhưng không có cữu hại gì, là do biết sợ tiếng sấm chấn động từ bên hàng xóm nên đã đề phòng trước.
48. Tân Hợi - Thuần Tốn, hào 2
- “Cửu Nhị, tốn tại sàng hạ, dụng sử, vu phân nhược cát, vô cữu”
- “Chín Hai, thuận theo nép ở dưới giường, nếu có thể noi theo thầy bói, thầy cúng, lấy sự khiêm nhún mà phụng sự thần linh thì sẽ được nhiều tốt lành, tất không cữu hại.”
- Tượng “phân nhược chi cát, đắc trung dã” - Sẽ được nhiều tốt lành, là vì hào Chín Hai có thể giữ giữa không lệch.
49. Nhâm Tý – Thuần Càn, hào 1
- “Sơ Cửu, tiềm long vật dụng.”
- “Chín Đầu, rồng lớn ẩn mình dưới nước, tạm thời chưa thi thố được tài năng.
50. Quý Sửu – Thuần Khôn, hào 4
- “Lục Tứ, quát nang, vô cữu vô dự.”
- “Sáu Bốn, thắt chặt miệng túi, tránh được tội lỗi (cữu hại) mà không cầu được khen.”
- Tượng “quát nang vô cữu, thận bất hại dã” - Hào Sáu Bốn tất phải thận trọng, cẩn thận mới có thể không gây ra tai họa.
51. Giáp Dần – Thuần Càn, hào 2
- “Cửu Nhị, hiện long tại điền, lợi hiện đại nhân”
- “Chín Hai, rồng lớn đã xuất hiện ở cánh đồng, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”
52. Ất Mão – Thuần Khôn, hào 3
- “Lục Tam, hàm chương khả trinh ; hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung”
- “Sáu Ba, ngậm chứa sự sáng đẹp của Dương cứng thì giữ được chính bền ; hoặc giúp dập cho sự nghiệp của đắng quân vương, khi thành công không quy công về mình, mà kính cẩn làm hết chức trách của kẻ bề tôi cho đến cùng.”
- Tượng “hàm chương khả trinh, dĩ thời phát dã ; hoặc tòng vương sự, tri quang đại dã” – hào Sáu Ba cần căn cứ vào thời cơ mà phát huy tác dụng ; hào Sáu Ba trí tuệ sáng láng, sâu rộng.
53. Bính Thìn - Thuần Cấn, hào 1
- “Sơ Lục, cấn kì chỉ, vô cữu, lợi vĩnh trinh”
- “Sáu Đầu, biết ghìm chặn ở ngón chân khi cất bước, tất vô cữu hại, lợi về sự giữ vững chính bề lâu dài.”
- Tượng “cấn kì chỉ, vị thất chính dã” – hào Sáu Đầu chưa từng vi phạm chính đạo.
54. Đinh Tị - Thuần Đoài, hào 1
- “Sơ Cửu, hòa duyệt, cát.”
- “Chín Đầu, dựu dàng, vui vẻ với người, tốt lành.”
- Tượng “hòa duyệt chi cát, hành vị nghi dã” – Hành vi của Chín Đầu đứng đắn mà không bị người ta nghi kị.
55. Mậu Ngọ - Thuần Khảm, hào 3
- “Lục Tam, lai chi khảm khảm, hiểm thả chẩm, nhập vu khảm tãm, vật dụng”
- “Sáu ba, tới lui đều ở trong vòng hiểm hãm, đi tới là hiểm lui lại khó an, rơi xuống hố sâu không thể thi thố tài dụng.”
- Tượng “lai chi khảm khảm, chung vô công dã” – hào Sáu Ba cuối cùng khó thành công trong sự “hành hiểm”.
56. Kỷ Mùi – Thuần Ly, hào 5
- “Lục Ngũ, xuất thế đà nhược, thích ta nhược, cát”
- “Sáu Năm, nước mắt chảy ròng ròng, ngậm ngùi than thở, (ở nơi tôn quý, được giúp dập, về cuối sẽ) tốt lành.”
- Tượng “lục ngũ chi cát, ly vương công dã” – hào Sáu Năm được phụ bám vào ngôi tôn quý của đấng vương công.
57. Canh Thân - Thuần Chấn, hào 5
- “Lục Ngũ, chấn vãng lai, lệ, ức vô táng, hữu sự”
- “Sáu Năm, khi sấm động thì bất kể là đi lên hay đi xuống đều có nguy hiểm ; nếu có thể thận trọng giữ đạo “trung” thì vạn lần cũng không thất thố một lần, có thể giữ lâu dài được việc trọng đại là việc tế tự.”
- Tượng “chấn vãng lai lệ, nguy hành dã ; kì sự tại trung, đại vô táng dã” – hào Sáu Năm cần thấy rõ sự nguy sợ mà thận trọng tiến lên, sử sự nên thận trọng giữ đạo “trung”.
58. Tân Dậu - Thuần Tốn, hào 3
- “Cửu Tam, tần tốn, lận.”
- “Chín Ba, ưu sầu không vui, miễn cưỡng thuận theo, sẽ có thẹn tiếc.”
- Tượng “tần tốn chi lân, chí cùng dã” – Tâm chí Chín Ba khốn cùng không hăng hái.
59. Nhâm Tuất – Thuần Càn, hào 6
- “Thượng Cửu, cang long hữu hối”
- “Chín Trên, rồng lớn bay cao đến cùng cực, cuối cùng sẽ có sự hối hận
60. Quý Hợi – Thuần Khôn, hào 5
- “Lục Ngũ, hoàng thường, nguyên cát.”
- “Sáu Năm, xiêm váy mầu vàng, hết sức tốt lành.”
- Tượng “hoàng thường nguyên cát, văn tại trung dã” – hào Sáu Năm lấy đức ôn hòa nhã nhặn để giữ vững đạo “trung”
................................LỮ
....TIỂU SÚC................................PHỤC
...DỰ........................+......................KHỐN
.......BÍ..........................................CẤU
...............................TIẾT
1. Giáp Tý – Thiên Phong Cấu, hào 1
- “Sơ Lục, hệ vu kim nê, trinh cát ; hữu du vãng, kiến hung, luy thỉ phu trịnh trục”
- “Sáu Đầu, chặn ngay nó lại bằng cái “phanh” nhạy, cứng chắc, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; nếu vội đi lên thì tất nhiên sẽ có hung hiểm, giống như lợn cái nhảy nhót lung tung không thể ở yên.”
- Tượng viết “Hệ kim vu nê, nhu đạo khiên dã” – hào Sáu Đầu phải giữ đạo nhu thuận, chựu sự khống chế của dương cứng.
2. Ất Sửu - Địa Lôi Phục, hào 4
- “Lục Tứ, trung hàng độc phục”
- “Sáu Bốn, ở giữa hàng chính, một lòng trở lại.”
- Tượng viết “Trung hàng độc phục, dĩ tòng đạo dã” – hào Sáu Bốn theo về chính đạo.
3. Bính Dần – Sơn Hỏa Bí, hào 6
- “Thượng Cửu, bạch bí, vô cữu”
- “Chín Trên, văn sức bằng mầu trắng không diêm dúa, không có cữu hại”
- Tượng “Bạch bí vô cữu, thượng đắc chí dã” – hào Chín Trên hết sức toại chí do đạo văn sức chuộng về chất.
4. Đinh Mão - Trạch Thủy Khốn, hào 2
- “Cửu Nhị, khốn vu tửu thực, chu phất phương lai, lợi dụng hưởng tự ; chinh hung, vô cữu”
- “Chín Hai, riệu thịt mà nghèo nàn, cùng khốn, vinh lộc sẽ tới, lợi về sự chủ trì đại lễ tế tự nơi tông miếu ; lúc này tiến thủ tuy nhiều hung hiểm, nhưng không có gì cữu hại”
- Tượng “Khốn vu tửu thực, trung hữu khánh dã” – hào Chín Hai chỉ cần giữ vững đạo giữa thì sẽ có phúc khánh.
5. Mậu Thìn - Thủy Trạch Tiết, hào 2
- “Cửu Nhị, bất xuất môn đình, hung”
- “Chín Hai, (cố chấp mà tiết chế) không ra khỏi sân nhà, có hung hiểm.
- Tượng “Bất xuất môn đình, thất thời cực dã” – hào Chín Hai lỡ mất thời cơ thích hợp.
6. Kỷ Tị - Hỏa Sơn Lữ, hào 6
- “Thượng Cửu, điểu phần kì sào, lữ nhân tiên tiếu, hậu hào đào ; táng ngưu vu dị, hung”
- “Chín Trên, tổ chim trên cành cao bị cháy, kẻ lữ khách trước được ngôi cao vui mừng cười nói, sau bị tai ương kêu gào khóc lóc ; giống như mất trâu nơi bơt ruộng hoang xa, có hung hiểm”
- Tượng “Dĩ lữ tại thượng, kì nghĩa phần dã ; táng ngưu vu dị, chung mạc chi văn dã” – Làm một kẻ lữ khách, mà lại ở cao ngôi trên, về lý thì tất gặp họa cháy tổ ; mất trâu nơi cánh đồng hoang xa, nói lên hào Chín Trên ăn nhờ ở đậu gặp họa, cuối cùng sẽ không người hay biết.
7. Canh Ngọ - Lôi Địa Dự, hào 4
- “Cửu Tứ, do dự, đại hữu đắc ; vật nghi, bằng hạp trâm”
- “Chín Bốn, người khác nhờ ta mà vui, ta có thể thành công lớn được ; cứ thẳng thắn đừng nghi ngờ gì, bè bạn sẽ tụ tập lại theo ta, như cả đám tóc được gài lại nơi chiếc châm cài đầu”.
- Tượng “Do dự đại hữu đắc, chí đại hành dã” – Chí dương cứng của hào Chín Bốn được thực hành nhiều.
8. Tân Mùi – Phong Thiên Tiểu súc, hào 4
- “Lục Tứ, hữu phu ; huyết khứ thích xuất, vô cữu”
- “Sáu Bốn, nếu có sự thành tín với dưới thì sẽ tránh được sự buồn phiền, thoát được sự sợ hãi, như vậy tất sẽ “vô cữu hại”.
- Tượng “Hữu phu thích xuất, thượng hợp chí dã” – hào Sáu Bốn có ý chí tương hợp với bậc tôn thượng dương cứng.
9. Nhâm Thân – Thiên Phong Cấu, hào 5
- “Cửu Ngũ, dĩ khởi bao qua ; hàm chương, hữu vẫn tự nhiên”
- “Chín Năm, lấy cành lá cây khởi bao bọc che chở cây dưa hấu ở dưới ; trong lòng ngậm chứa sự sáng đẹp, tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trên trời xuống”.
- Tượng “Cửu Ngũ hàm chương, trung chính dã ; hữu vẫn tự nhiên, chí bất xả mệnh dã” – Trong lòng hào Chín Năm ngậm chứa sự sáng đẹp, là do ở ngôi giữa, giữ chính ; tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trời xuống, nói lên tâm chí Chín Năm không đi ngược mệnh trời.
10. Quý Dậu – Địa Lôi Phục, hào 6
- “Thượng Lục, mê phục, hung, hữu tai sảnh. Dụng hành sư, chung hữu đại bại ; dĩ kì quốc, quân hung: chí vu thập niên bất khắc chính”
- “Sáu Trên, mê lạc nhầm bước không biết đường trở lại, có hung hiểm, có tai ương họa hoạn. Nếu như dùng vào việc đem binh giao chiến, thì cuối cùng sẽ thảm bại ; dùng vào việc trị nước, điều hành chính sự, tất làm cho nước loạn, vua gặp hung hiểm, cho đến mười năm sau cũng không thể chấn hưng phát triển”.
- Tượng “Mê phục chi hung, phản quân đạo dã” – Do bởi Sáu Trên đi ngược với con đường, của đạo quân chủ dương cứng.
11. Giáp Tuất – Thiên Phong Cấu, hào 6 (11 = 59)
- “Thượng Cửu, cấu kỳ giác ; lận, vô cữu”
- “Chín Trên, gặp nơi trống vắng ; lòng có hối tiếc, nhưng không gặp cữu hại”.
- Tượng “Cấu kỳ giác, thượng cùng lận dã” – hào Chín Trên ở cao nơi cùng cực, nên dẫn đến sự hối tiếc là tương ngộ mà không người.
12. Ất Hợi - Địa Lôi Phục, hào 5 (12 = 60)
- “Lục Ngũ, đôn phục, vô hối”
- “Sáu Năm, đôn hậu, dốc lòng thành trở lại, không có gì phải hối hận”.
- Tượng “Đôn phục vô hối, trung dĩ tự khảo dã” – Ý nghĩa hào Sáu Năm ở ngôi giữa không lệch, đồng thời có thể tự xét mình, để thành được đạo phục thiện.
13. Bính Tý – Sơn Hỏa Bí, hào 5
- “Lục Ngũ, bí vu khâu viên, thúc bạch tiển tiển ; lận, chung cát”
- “Sáu Năm, văn sức ở gò vườn, mang một bó dải lụa mỏng (lễ vật đến mời kẻ hiền sỹ), mặc dù hào dưới không ứng mà có sự hối tiếc, nhưng hào trên lại ứng, cuối cùng sẽ tốt lành”.
- Tượng “Lục Ngũ chi cát, hữu hỷ dã” - Sự tốt lành của Sáu Năm nói lên tất có sự mừng.
14. Đinh Sửu - Trạch Thủy Khốn, hào 3
- “Lục Tam, khốn vu thạch, cứ vu tật lê ; nhập vu kỳ cung, bất kiến kỳ thê, hung”
- “Sáu Ba, khốn ở dưới đá lớn (đá rắn khó vào), dựa vào cây tật lê (nhiều gai khó dẫm) ; dù có chạy về nhà cũng không thấy vợ, có hung hiểm.
- Tượng “Cứ vu tật lê, thặng cương dã ; nhập vu kỳ cung, bất kiến kỳ thê, bất tường dã” - Dựa vào cây tật lê, nhiều gai khó dẫm, nói lên hào Sáu Ba lấy chất âm mềm cưỡi trên kẻ cương cường ; dù có chạy về nhà cũng không thấy vợ, đây là hiện tượng chẳng lành.
15. Mậu Dần - Thủy Trạch Tiết, hào 1
- “Sơ Cửu, bất xuất hộ đình, vô cữu”
- “Chín Đầu, (tiết chế thận trọng giữ gìn), không ra khỏi sân cổng nhà, tất không có cữu hại”.
- Tượng “Bất xuất hộ đình, tri thông tắc dã” – Không ra khỏi sân cổng nhà, nói lên hào Chín Đầu rất biết lẽ đường thông thì đi, đường bị ngăn thì dừng.
16. Kỷ Mão - Hỏa Sơn Lữ, hào 1
- “Sơ Lục, lữ tỏa tỏa, tư kỳ sở thủ tai”
- “Sáu Đầu, người lữ khách ngay từ đầu đã có hành động nhỏ nhen, ti tiện, ấy là tự chuốc lấy họa”.
- Tượng “Lữ tỏa tỏa, chí cùng tai dã” – Ngay từ đầu đã có hành động nhỏ nhen ti tiện, nói lên hào Sấu Đầu ý chí quẫn bách, tự chuốc lấy tai họa.
17. Canh Thìn – Lôi Địa Dự, hào 3
- “Lục Tam, vu dự hối ; trì hữu hối”
- “Hào Sáu Ba, xun xoe với trên để cầu vui, tất hối hận ; nếu tỉnh ngộ chậm tất lại sinh hối hận”.
- Tượng “Vu dự hữu hối, vị bất đáng dã” – Xun xoe tất có hối hận, nói lên hào Sáu Ba ngôi vị không chính đáng.
18. Tân Tị - Phong Thiên Tiểu súc, hào 5
- “Cửu Ngũ, hữu phu loan như, phú dĩ kỳ lân”
- “Chín Năm, có lòng thành tín, liên kết cả bầy dương cùng có lòng thành tín với một âm, dùng cái cứng của dương để làm giầu cho làng giềng”
- Tượng “Hữu phu loan như, bất độc phú dã” – Liên kết bầy dương thành tín với một âm, nói lên hào Chín Năm không riêng hưởng sự giầu có dương cứng.
19. Nhâm Ngọ - Thiên Phong Cấu, hào 4 (19 = 31)
- “Cửu Tứ, bào hữu ngư, khởi hung”
- “Chín Bốn, trong bếp mất một con cá, nổi lên sự cãi nhau, tất có hung hiểm”.
- Tượng “Vô ngư chi hung, viễn dân dã” - Mất một con cá là có hung hiểm, nói lên hào Chín Bốn ở quẻ trên, cũng như xa cách hạ dân, mất lòng dân.
20. Quý Mùi - Địa Lôi Phục, hào 1. (20 = 32)
- “Sơ Cửu, bất viễn phục, vô chỉ hối, nguyên cát”
- “Chín Đầu, chưa được bao xa đã quay trở lại đường chính, tất không gặp tai họa, không phải hối hận, hết sức tốt lành.
- Tượng “Bất viễn chi phục, dĩ tu thân dã” - Khởi đầu không xa đã quay trở lại, nói lên hào Chín Đầu khéo về việc sửa đẹp bản thân.
21. Giáp Thân – Thiên Phong Cấu, hào 5 (9 = 21)
- “Cửu Ngũ, dĩ khởi bao qua ; hàm chương, hữu vẫn tự nhiên”
- “Chín Năm, lấy cành lá cây khởi bao bọc che chở cây dưa hấu ở dưới ; trong lòng ngậm chứa sự sáng đẹp, tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trên trời xuống”.
- Tượng “Cửu Ngũ hàm chương, trung chính dã ; hữu vẫn tự nhiên, chí bất xả mệnh dã” – Trong lòng hào Chín Năm ngậm chứa sự sáng đẹp, là do ở ngôi giữa, giữ chính ; tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trời xuống, nói lên tâm chí Chín Năm không đi ngược mệnh trời.
22. Ất Dậu - Địa Lôi Phục, hào 6 (10 = 22)
- “Thượng Lục, mê phục, hung, hữu tai sảnh. Dụng hành sư, chung hữu đại bại ; dĩ kì quốc, quân hung: chí vu thập niên bất khắc chính”
- “Sáu Trên, mê lạc nhầm bước không biết đường trở lại, có hung hiểm, có tai ương họa hoạn. Nếu như dùng vào việc đem binh giao chiến, thì cuối cùng sẽ thảm bại ; dùng vào việc trị nước, điều hành chính sự, tất làm cho nước loạn, vua gặp hung hiểm, cho đến mười năm sau cũng không thể chấn hưng phát triển”.
- Tượng “Mê phục chi hung, phản quân đạo dã” – Do bởi Sáu Trên đi ngược với con đường, của đạo quân chủ dương cứng.
23. Bính Tuất – Sơn Hỏa Bí, hào 4
- “Lục Tứ, bí như, bà như, bạch mã hàn như ; phỉ khấu, hôn cấu”
- “Sáu Bốn, văn đức được đẹp đẽ thanh bạch đến nhường ấy, toàn thân một mầu trắng toát tới nhường ấy, ngồi trên con ngựa trắng lại thuần khiết vô tạp thanh bạch tới nhường ấy ; phía trước không có giặc mạnh, mà là lễ ăn hỏi của đôi giai ngẫu”.
- Tượng “Lục Tứ đương vị, nghi dã ; ‘phỉ khấu hôn cấu’, chung vô vưu dã” – hào Sáu Bốn đáng ngôi được chính, nhưng trong lòng mang mối nghi ngờ, sợ hãi ; Không phải giặc mạnh mà là lễ ăn hỏi, nói lên Sáu Bốn cứ bắt chấp đi đến và rút cục trong lòng không có sự oán trách gì.
24. Đinh Hợi - Trạch Thủy Khốn, hào 4
- “Cửu Tứ, lai từ từ, khốn vu kim xa, lận, hữu chung”
- “Chín Bốn, bị một cỗ xe sắt chặn lại, có điều ân hận ; nhưng cuối cùng được phối ngẫu như nguyện”.
- Tượng “Lai từ từ, chí tại hạ dã, tuy bất đương vị, hữu dư dã” - Đến một cách từ từ nghi ngại, tâm chí Chín Bốn ở nơi cầu hợp với hào Sáu Đầu ở dưới ; mặc dầu ngôi vị không thỏa đáng, nhưng do đến một cách khiêm cẩn, nên tất có thể đẹp lòng như nguyện.
25. Mậu Tý - Thủy Trạch Tiết, hào 6
- “Thượng Lục, khổ tiết ; trinh hung, hối vong”
- “Sáu Trên, tiết chế quá mức, khiến người ta quá khổ sở ; nên giữ vững chính bền để phòng hung hiểm, thì hối hận có thể tiêu vong”.
- Tượng “Khổ tiết trinh hung, kỳ đạo cùng dã” - Tiết chế quá mức khiến người ta quá khổ sở, nói lên đạo tiết chế của Sáu Trên đã khốn cùng.
26. Kỷ Sửu - Hỏa Sơn Lữ, hào 2
- “Lục Nhị, lữ tức thứ, hoài kỳ tư, đắc đồng bộc, trinh”
- “Sáu Hai, kẻ lữ khách thuê ở nơi quán trọ, giữ được tiền bạc, lại có đầy tớ, nên giữ vững chính bền”.
- Tượng “Đắc đồng bộc trinh, chung vô vưu dã” – hào Sáu Hai cuối cùng sẽ không có gì phải quá oán.
27. Canh Dần – Lôi Địa Dự, hào 2
- “Lục Nhị, giới vu thạch, bất chung nhật, trinh cát”.
- “Sáu Hai, chí vững như đá, không đợi đến hết ngày (mà biết được rằng sự vui phải có mức độ), giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng “Bất chung nhật trinh cát, dĩ trung chính dã” – Không đợi ngày mà biết, vì Sáu Hai đã trung, lại chính.
28. Tân Mão – Phong Thiên Tiểu súc, hào 6
- “Thượng Cửu, ký vũ ký xử, thượng đức tái ; phụ trinh lệ, nguyệt cơ vọng, quân tử chinh hung”.
- “Chín Trên, mây dầy đã đổ mưa, dương cứng đã bị ngăn cản, dương đức ở cực cao bị khí âm tích chứa ; lúc này người vợ phải giữ vững chính bền, để đề phòng nguy hiểm, phải như trăng sáng sắp tròn mà không quá đầy, người quân tử nếu cứ thẳng tiến sẽ gặp hung”.
- Tượng “Ký vũ ký xử, đức tính tái dã ; ‘quân tử chinh hung’, hữu sở nghi dã” - Thẳng tiến sẽ gặp hung, nếu cứ đi lên trước, thì sẽ khiến chất dương bị âm khí ngưng tụ làm cho biến hóa hết.
29. Nhâm Thìn – Thiên Phong Cấu, hào 3 (29 = 41)
- “Cửu Tam, đôn vu phu, kỳ hành tư thư ; lệ, vô đại cữu”
- “Chín Ba, mông mất da, đi lại chập chững khó tiến ; có nguy hiểm, nhưng không có cữu hại lớn”.
- Tượng “Kỳ hành tư thư, hành vi khiên dã” – Đi lại khó tiến, nói lên Chín Ba chưa từng khống chế được kẻ khác (vì vậy tuy không gặp được ai mà không bị hại về kẻ âm tà).
30. Quý Tị - Địa Lôi Phục, hào 2 (30 = 42)
- “Lục Nhị, hưu phục, cát”
- “Hào Sáu Hai, sự trở lại đẹp đẽ, tốt lành”.
- Tượng “Hưu phục chi cát, dĩ hạ nhân dã” – hào Sáu Hai có thể cúi xuống thân cận với người có đức nhân.
31. Giáp Ngọ - Thiên Phong Cấu, hào 4 (31 = 19)
- “Cửu Tứ, bào hữu ngư, khởi hung”
- “Chín Bốn, trong bếp mất một con cá, nổi lên sự cãi nhau, tất có hung hiểm”.
- Tượng “Vô ngư chi hung, viễn dân dã” - Mất một con cá là có hung hiểm, nói lên hào Chín Bốn ở quẻ trên, cũng như xa cách hạ dân, mất lòng dân.
32. Ất Mùi - Địa Lôi Phục, hào 1 (32 = 20)
- “Sơ Cửu, bất viễn phục, vô chỉ hối, nguyên cát”
- “Chín Đầu, chưa được bao xa đã quay trở lại đường chính, tất không gặp tai họa, không phải hối hận, hết sức tốt lành.
- Tượng “Bất viễn chi phục, dĩ tu thân dã” - Khởi đầu không xa đã quay trở lại, nói lên hào Chín Đầu khéo về việc sửa đẹp bản thân.
33. Bính Thân – Sơn Hỏa Bí, hào 3
- “Cửu Tam, bí như, nhu như, vĩnh trinh cát”
- “Chín Ba, văn sức được đẹp đẽ đến nhường ấy, nhiều lần ban huệ trạch cho người, giữ vững sự chính bền được lâu dài, sẽ được sự tốt lành”.
- Tượng “Vĩnh trinh chi cát, chung mạc chi lăng dã” – ‘Giữ vững chính bền được lâu dài, sẽ được sự tốt lành’, nói lên Chín Ba có thể làm được như vậy, thì không bao giờ bị kẻ khác lấn nhờn.
34. Đinh Dậu - Trạch Thủy Khốn, hào 5
- “Cửu Ngũ, tị ngoạt, khốn vu xích phất ; nãi từ hữu thoát, lợi dụng tế tự”
- “Chín Năm, dùng hình phạt xẻo mũi, chặt chân, để trị chúng dân, đến nỗi ở ngôi tôn quý mà bị khốn cùng ; nhưng có thể dần dần thoát khỏi cảnh khốn, lợi về sự làm lễ tế”.
- Tượng “Tị ngoạt, chí vị đắc dã ; nãi từ hữu thoát, dĩ trung trực dã ; lợi dụng tế tự, thụ phúc dã” – Dùng hình phạt để trị chúng dân, nói lên tâm chí vượt khốn của Chín Năm chưa thể gọi là đạt ; ‘dần thoát khỏi cảnh khốn’, đây là kết quả của sự giữ vững đạo cương trung, chính trực ; ‘lợi làm tế lễ’, như vậy thì có thể thừa hưởng phúc trạch của thần linh ban giáng.
35. Mậu Tuất - Thủy Trạch Tiết, hào 5
- “Cửu Ngũ, cam tiết, cát ; vãng hữu thượng”
- “Chín Năm, tiết chế một cách thích đáng, khiến người ta cảm thấy đẹp đẽ vừa phải, tốt lành ; tiến về phía trước, tất được tôn sùng”.
- Tượng “Cam tiết chi cát, vị cư trung dã” – Do bởi vậy là vì Chín Năm ở cao ngôi giữa, được chính.
36. Kỷ Hợi - Hỏa Sơn Lữ, hào 3
- “Cửu Tam, lữ phần kỳ thứ, táng kỳ đồng bộc, trinh lệ”
- “Chín Ba, kẻ lữ khách (quá cứng nóng vội), bị cháy nhà trọ, lạc mất đầy tớ ; nên giữ vững chính bề đề phòng hung hiểm”.
- Tượng “Lữ phần kỳ thứ, diệc dĩ thương hỹ ; dĩ lữ dữ hạ, kỳ nghĩa táng dã” - Bị cháy nhà trọ, cũng do vậy mà Chín Ba bị tổn thương ; kẻ lữ khách mà chuyên gia ơn cho kẻ dưới, lẽ tất nhiên sẽ dẫn đến táng vong.
37. Canh Tý – Lôi Địa Dự, hào 1
- “Sơ Lục, minh dự, hung”
- “Sáu Đầu, quá vui mà reo mừng đắc ý, có hung hiểm”.
- Tượng “Sơ lục minh dự, chí cùng hung dã” – Quá vui, chí cùng cực của sự vui vẻ sẽ đưa đến hung hiểm.
38. Tân Sửu – Phong Thiên Tiểu súc, hào 1
- “Sơ Cửu, phục tự đạo, hà kỳ cữu? cát”
- “Chín Đầu, trở về đạo dương cứng của mình, có cữu hại gì đâu? Tốt lanh”.
- Tượng “Phục tự đạo, kỳ nghĩa cát dã” – Quay trở về đạo dương cứng của mình, hành vi của Chín Đầu là thích hợp, có được sự tốt lành.
39. Nhâm Dần – Thiên Phong Cấu, hào 2 (39 = 51)
- “Cửu nhị, bao hữu ngư, vô cữu ; bất lợi tân”.
- “Chín Hai, trong bếp có một con cá, không có gì cữu hại ; nhưng bất lợi nếu cứ tự tiện dùng nó để mời tiếp khách”.
- Tượng “Bào hữu ngư, nghĩa bất cập tân dã” – Trong bếp thấy có một con cá, xét theo ý nghĩa về sự không tương ứng giữa Chín Hai và Sáu Đầu, thì không thể tự tiện dùng (cá) để mời khách đến ăn.
40. Quý Mão - Địa Lôi Phục, hào 3 (40 = 52)
- “Lục Tam, tần phục, lệ vô cữu”.
- “Sáu Ba, nhăn mày gắng gượng trở lại, tuy có nguy hiểm nhưng không có cữu hại”.
- Tượng “Tần phục chi lệ, nghĩa vô cữu dã” - Sự nguy hiểm của việc nhăn mày gắng gượng trở lại, xét về nghĩa của vật hào Sáu Ba cố gắng phục thiện thì không có cữu hại.
41. Giáp Thìn – Thiên phong Cấu, hào 3 (41 = 29)
- “Cửu Tam, đôn vu phu, kỳ hành tư thư ; lệ, vô đại cữu”
- “Chín Ba, mông mất da, đi lại chập chững khó tiến ; có nguy hiểm, nhưng không có cữu hại lớn”.
- Tượng “Kỳ hành tư thư, hành vi khiên dã” – Đi lại khó tiến, nói lên Chín Ba chưa từng khống chế được kẻ khác (vì vậy tuy không gặp được ai mà không bị hại về kẻ âm tà).
42. Ất Tị - Địa Lôi Phục, hào 2 (42 = 30)
- “Lục Nhị, hưu phục, cát”
- “Sáu Hai, sự trở lại đẹp đẽ, tốt lành”.
- Tượng “Hưu phục chi cát, dĩ hạ nhân dã” – hào Sáu Hai có thể cúi xuống thân cận với người có đức nhân.
43. Bính Ngọ - Sơn Hỏa Bí, hào 2
- “Lục Nhị, bí kỳ tu”
- “Sáu Hai, văn sức bộ râu đẹp cho bậc tôn quý”.
- Tượng “Bí kỳ tu, dĩ thưỡng hưng dã” – hào Sáu Hai và Chín Ba đồng tâm một lòng dấy lên văn sức cho nhau, Dựa theo ngôi vị chỗ đứng, được ngôi mà không ứng.
44. Đinh Mùi - Trạch Thủy Khốn, hào 6
- “Thượng Lục, khốn vu cát lũy, vu niết ngột ; viết động hối hữu hối, chinh cát”.
- “Sáu Trên, bị khốn trong đám sắn dây chằng chịt, lại bị khốn ở nơi lung lay nghiêng ngả, nên suy nghĩ một chút ; đã động rồi sau hối thì sẽ biết hối ngay, như vậy nếu đi lên tất được tốt lành.
- Tượng “Khốn vu cát lũy, vị đáng dã ; ‘động hối hữu hối’, cát hành dã” - Khốn trong đám sắn dây, nói lênđịa vị của Sáu Trên chưa từng ổn đáng. ‘động rồi sau hối’, nói lên cứ làm ngay đi thì có thể giải trừ khốn mà được tốt lành.
45. Mậu Thân - Thủy trạch Tiết, hào 4
- “Lục Tứ, an tiết, hanh”
- “Sáu Bốn, yên lòng tự tiết chế, hanh thông”.
- Tượng “An tiết chi hanh, thừa tượng đạo dã” – hào Sáu Bốn nghiêm cẩn giữ đạo “thuận thừa” bậc tôn trưởng.
46. Kỷ Dậu - Hỏa Sơn Lữ, hào 4
- “Cửu Tứ, lữ vu xử, đắc kỳ tư phủ, ngã tâm bất khoái”
- “Chín Bốn, kẻ lữ khách chưa được yên ổn tại nơi ở tạm, như được búa sắc chặt bỏ gai góc, nhưng trong long ta chẳng sướng”.
- Tượng “Lữ vu xử, vị đắc vị dã” – Chín Bốn chưa thể được ở ngôi chính đáng.
47. Canh Tuất – Lôi Địa Dự, hào 6
- “Thượng Lục, minh dự thành, hữu du vô cữu”
- “Sáu Trên, đã thành hậu quẻ xấu, vì mê muội trong hoan lạc, sửa lỗi sơm thì không nguy hại”.
- Tượng “Minh dự tại thượng, hà khả trường dã” - Mệ muội trong hoan lạc ở ngôi trên, sự vui vẻ này làm sao có thể giữ được lâu dài.
48. Tân Hợi – Phong Thiên Tiểu súc, hào 2
- “Cửu Nhị, khiên phục, cát”
- “Chín Hai, được dắt quay trở lại đạo dương cứng, tốt lành”.
- Tượng “Khiên phục tại trung, diệc bất tự thất dã” - được quay trở lại đọa dương cứng, ở ngôi giữa, nói lân hào Chín Hai cũng có thể không để từ mất dương đức.
49. Nhâm Tý – Thiên Phong Cấu, hào 1 (1= 49)
- “Hệ vu kim nê, trinh cát ; hữu du vãng, kiến hung, luy thỉ phu trịnh trục”
- “Sáu Đầu, chặn ngay nó lại bằng cái “phanh” nhạy, cứng chắc, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; nếu vội đi lên thì tất nhiên sẽ có hung hiểm, giống như lợn cái nhảy nhót lung tung không thể ở yên”.
- Tượng viết “Hệ kim vu nê, nhu đạo khiên dã” – hào Sáu Đầu phải giữ đạo nhu thuận, chựu sự khống chế của dương cứng.
50. Quý Sửu - Địa Lôi Phục, hào 4 (2 = 50)
- “Lục Tứ, trung hàng độc phục”
- “Sáu Bốn, ở giữa hàng chính, một lòng trở lại”
- Tượng “Trung hàng độc phục, dĩ tòng đạo dã” – hào Sáu Bốn theo về chính đạo.
51. Giáp Dần – Thiên Phong Cấu, hào 2 (51 = 39)
- “Cửu Nhị, bao hữu ngư, vô cữu ; bất lợi tân”.
- “Chín Hai, trong bếp có một con cá, không có gì cữu hại ; nhưng bất lợi nếu cứ tự tiện dùng nó để mời tiếp khách”.
- Tượng “Bào hữu ngư, nghĩa bất cập tân dã” – Trong bếp thấy có một con cá, xét theo ý nghĩa về sự không tương ứng giữa Chín Hai và Sáu Đầu, thì không thể tự tiện dùng (cá) để mời khách đến ăn.
52. Ất Mão - Địa Lôi Phục, hào 3 (52 = 40)
- “Lục Tam, tần phục, lệ vô cữu”.
- “Sáu Ba, nhăn mày gắng gượng trở lại, tuy có nguy hiểm nhưng không có cữu hại”.
- Tượng “Tần phục chi lệ, nghĩa vô cữu dã” - Sự nguy hiểm của việc nhăn mày gắng gượng trở lại, xét về nghĩa của vật hào Sáu Ba cố gắng phục thiện thì không có cữu hại.
53. Bính Thìn – Sơn Hỏa Bí, hào 1
- “Sơ Cửu, bí kỳ chỉ, xả xa nhi đồ”
- “Chín Đầu, văn sức cho ngón chân của mình, bỏ xe lớn mà cam lòng đi bộ”
- Tượng “Xả xa nhi đồ, nghĩa phất thừa dã” – Cam lòng đi bộ, là do xét về ngôi vị mà hào Chín Đầu đang ở thì không nên đi xe lớn. Bỏ thuyền xuống nước. Bỏ chỗ ích lợi mà tìm đến nơi tổn hại.
54. Đinh Tị - Trạch Thủy Khốn, hào 1
- “Sơ Lục, đồn khốn vu châu mộc, nhập vu u cốc, tam tuế bất dịch”
- “Sáu Đầu, mông bị khốn ở dưới gốc cây, không thể ở yên, chỉ lui vào nơi sơn cốc u tối, ba năm không thấy ló mặt.
- Tượng “Nhập u vu cốc, u bất minh dã” - Chỉ còn cách lui vào nơi sơn cốc u tối, nói lên hào Sáu Đầu ẩn thân tạm bợ nơi u ám, không sáng sủa.
55. Mậu Ngọ - Thủy Trạch Tiết, hào 3
- “Lục Tam, bất tiết nhược, tắc ta nhược, vô cữu”
- “Sáu Ba, không tiết chế được, nhưng biết than vãn tự hối, thì có thể tránh được cữu hại”.
- Tượng “Bất tiết chi ta, hựu thùy cữu dã” – Không tiết chế được, nhưng biết tự hối, hỏi còn kẻ nào dám đổ lỗi cho nữa!
56. Kỷ Mùi - Hỏa Sơn Lữ, hào 5
- “Lục Ngũ, xạ trĩ, nhất thỉ vong ; chung dĩ dự mệnh”
- “Sáu Năm, bắn con chim trĩ, mất một mũi tên (mặc dù có tổn thất nhưng), sau được tiếng khen và được ban tước lệnh.
- Tượng “Chung dĩ cư mệnh, thượng đãi dã” - Được khen và ban tước mệnh, nói lên Sau Năm có thể theo kịp người trên.
57. Canh Thân – Lôi Địa Dự, hào 5
- “Lục Ngũ, trinh tật, hằng bất tử”
- “Sáu Năm, giữ chính phòng bệnh, tất sẽ khỏe lâu không chết”
- Tượng “Lục Ngũ trinh tật, thừa cương dã ; hằng bất tử, trung vị vong dã” – Hào Sáu Năm tất phải giữ chính phòng bệnh, nói lên âm mềm đội dương cứng khó tránh nguy hiểm hoạn nạn ; ‘Khỏe lâu không chết’, là vì ở giữa không lệch, thì vị tất đã bại vong.
58. Tân Dậu – Phong Thiên Tiểu súc, hào 3
- “Cửu Tam, dư thoát bức, phu thê phản mục”
- “Chín Ba, nan hoa bánh xe đứt hết, vợ chồng ly dị mỗi người một hướng”.
- Tượng “Phu thê phản mục, bất năng chính thất dã” - Vợ chồng ly dị, hào Chín Ba không làm cho nhà cửa được nghiêm chỉnh.
59. Nhâm Tuất – Thiên Phong Cấu, hào 6 (59 = 11)
- “Cấu kỳ giác ; lận, vô cữu”
- “Chín Trên, gặp nơi trống vắng ; lòng có hối tiếc, nhưng không gặp cữu hại”.
- Tượng “Cấu kỳ giác, thượng cùng lận dã” – hào Chín Trên ở cao nơi cùng cực, nên dẫn đến sự hối tiếc là tương ngộ mà không người.
60. Quý Hợi - Địa Lôi Phục, hào 5 (60 = 12)
- “Lục Ngũ, đôn phục, vô hối”
- “Sáu Năm, đôn hậu, dốc lòng thành trở lại, không có gì phải hối hận”.
- Tượng “Đôn phục vô hối, trung dĩ tự khảo dã” – Ý nghĩa hào Sáu Năm ở ngôi giữa không lệch, đồng thời có thể tự xét mình, để thành được đạo phục thiện.
................................ĐỈNH
......GIA NHÂN................................LÂM
...GIẢI........................+.........................TỤY
......ĐẠI SÚC..................................ĐỘN
................................TRUÂN
1. Giáp Tý – Thiên Sơn Độn, hào 1 (G. Tý – N. Tý) (1 = 49)
- “Sơ lục, độn vỹ ; lệ, vật dụng hữu du vãng”
- “Sáu Đầu, trốn tránh không kịp mà lại rơi vào phần đuôi, có nguy hiểm, không nên có sự đi”.
- Tượng “Độn vỹ chi lệ, bất vãng, hà tai dã” - Trốn tránh lại rơi vào phần đuôi có nguy hiểm, nhưng lúc này, nếu không đi lên phía trước, thì có tai họa gì đâu!
2. Ất Sửu - Địa Trạch Lâm, hào 4 (2 = 50)
- “Lục Tứ, chí lâm, vô cữu”
- “Sáu Bốn, hết sức gìn giữ để tới gần giám sát mọi người, tất vô cữu hại”.
- Tượng “Chí lâm vô cữu, vị đáng dã” – hào này ở ngôi chính đáng.
3. Bính Dần – Sơn Thiên Đại súc, hào 6
- “Thượng Cửu, hà thiên chi cù, hanh”
- “Chín Trên, đường trời sao mà thông suốt đến vậy, hanh thông”
- “Tượng “Hà thiên chi cù, đạo đại hành dã” – nói rằng, đạo chứa đức của Chín Trên hết sức thông suốt”.
4. Đinh Mão - Trạch Địa Tụy, hào 2
- “Lục Nhị, dẫn cát, vô cữu ; phu nãi lợi dụng Thược”
- “Sáu Hai, được người dẫn dắt mà tụ hội với nhau thì được tốt lành, không dẫn đến cưu hại ; chỉ cần trong lòng thành tín, thì sẽ làm cho lễ “tế Thược” đơn sơ cũng lợi về sự dâng hiến cho thần linh”
- Tượng “Dẫn cát vô cữu, trung vị biến dã” – Tâm chí ở ngôi giữa giữ chính đạo của Sáu Hai chưa từng biến đổi.
5. Mậu Thìn - Thủy Lôi Truân, hào 2
- “Lục Nhị, Truân như, chiên như. Thừa mã ban như, phỉ khấu hôn cấu, nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự”
- “Sáu Hai, thời khai sáng buổi đầu rất nhiều gian nan, dùng dằng loanh quanh chẳng tiến. Người cưỡi ngựa dập dừu tới, nhưng họ không phải là bọn cường đạo, mà là những người đến cầu hôn ; Người con gái giữ vững chính bền không vội lấy chồng, chờ mười năm sau mới kết lương duyên”
- Tượng “Lục nhị chi nan, thừa cương dã ; thập niên nãi tự, phản thường dã” – Sáu Hai khó đi không tiến, là do âm mềm cưỡi trên dương cứng. Chờ mười năm là để nói ý “nan cực thì đến lúc thông”, mọi việc lại quay trở lại bình thường.
6. Kỷ Tị - Hỏa Phong Đỉnh, hào 6
- “Thượng Cửu, đỉnh ngọc huyễn, đại cát, vô bất lợi”
- "Chín Trên, vạc có đòn bằng ngọc, hết sức tốt lành, không gì không lợi”
- Tượng “Ngọc huyễn tại thượng, cương nhu tiết dã” – Đòn vạc bằng ngọc ở cao phía trên, là chỉ Chín Trên dương cứng có thể điều tiết bằng âm mềm.
7. Canh Ngọ - Lôi Thủy Giải, hào 4
- “Cửu tứ, giải nhi mẫu, bằng chí tư phu”
- “Chín Bốn, lìa bỏ kẻ tiểu nhân dính bám, giống như thư giải cái tật kín ở ngón chân cái, sau đó bạn bè mới tới mà ứng với lòng thành tín”
- Tượng “Giải nhi mẫu”, vị đáng vị dã” - rằng ngôi của Chín Bốn còn chưa thỏa đáng.
8. Tân Mùi – Phong Hỏa Gia nhân, hào 4
- “Lục Tứ, phú gia, đại cát”
- “Sáu Bốn, làm giầu cho nhà, hết sức tốt lành”
- Tượng “Phú gia đại cát, thuận tại vị” – Làm giâu cho nhà, là do Sáu Bốn thụân, đội hào dương cứng ở ngôi tôn quý.
9. Nhâm Thân – Thiên Sơn Độn, hào 5 (9 = 21)
- “Cửu Ngũ, gia độn, trinh cát”
- “Chín Năm, kịp thời làm đẹp mà trốn lánh, giữ vững chính bền thì được tốt lành”
- Tượng “Gia độn trinh cát, dĩ chính chí dã” – Chín Năm có tâm chí lánh trốn chính đính.
10- Quý Dậu – Địa Trạch Lâm, hào 6 (10 = 22)
- “Thượng Lục, đôn lâm, cát, vô cữu”
- “Sáu Trên, ôn nhu đôn hậu mà tới với mọi người, tốt lành, tất vô cữu hại”
- Tượng “Đôn lâm chi cát, chí tại nội dã” – Ý tâm chí của Sáu Trên gắn bó với đất nước, thiên hạ.
11. Giáp Tuất – Thiên Sơn Độn, hào 6 (11 = 59)
- “Thượng Cửu, phì đôn, vô bất lợi”
- “Chín Trên, cao chạy xa bay, không có gì không lợi”.
- Tượng “Phì độn vô bất lợi” – Chín Trên không hoài nghi lưu luyến gì.
12. Ất Hợi – Địa Trạch Lâm, hào 5 (12 = 60)
- “Lục Ngũ, tri lâm, đại quân chi nghi, cát”
- “Lục Ngũ, đến với mọi người bằng sự thông tuệ minh trí ; bậc đại quân vương nên như vậy, tốt lành”
- Tượng “Đại quân chi nghi, hành trung chi vị dã” - Bậc đại quân vương nên như vậy, nói lên Lục Ngũ tất phải đi theo trung đạo.
13. Bính Tý – Sơn Thiên đại súc, hào 5
- “Lục Ngũ, phần thỉ chi nha, cát”
- “Sáu Năm, bẻ nanh con lợn thiến, tốt lành”.
- Tượng “Lục Ngũ chi cát, hữu khánh dã” - cái tốt lành của Sáu Năm nói lên ý “ngăn kẻ mạnh” đúng phép, đáng được chúc mừng.
14. Đinh Sửu – Trạch Địa Tụy, hào 3
- “Lục Tam, tụy như ta như, vô du lợi ; vãng vô cữu, tiểu lận”.
- “Sáu Ba, (muốn) tụ hội (mà) không người, nên luôn miệng ca thán, không được lợi gì ; đi lên sẽ không có cữu hại, nhưng có sự đáng tiếc nhỏ”.
- Tượng “Vãng vô cữu, thượng tốn dã” – Đi lên trước không có cữu hại, nói lên Sáu Ba có thể hướng lên trên, thuận theo với dương cứng.
15. Mậu Dần – Thủy Lôi Truân, hào 1
- “Sơ Cửu, bàn hoàn, lợi cư trinh, lợi kiến hầu”.
- “Chín Đầu, loanh quanh, lợi về sự ở yên, giữ vững chính bền, lợi về việc kiến lập chư hầu”.
- Tượng “Tuy bàn hoàn, chí hành chính dã ; ‘dĩ quý hạ tiện’ đại đắc dân dã” - Mặc dầu loanh quanh, nhưng hành vi tâm chí đều giữ được đoan chính ; thân phận tôn quý mà lại ở ngôi thấp, nói lên Chín Đầu sẽ rất được lòng dân.
16. Kỷ Mão – Hỏa Phong Đỉnh, hào 1
- “Sơ Lục, đỉnh điên chỉ, lợi xuất bĩ ; đắc thiếp dĩ kỳ tử, vô cữu”
- “Sáu Đầu, vạc đổ chổng chân, lợi về sự đổ đồ phế bỏ ; như lấy được người thiếp sinh ra con, đỡ đần người vợ cả, tất không cữu hại”.
- Tượng “Đỉnh điên chỉ, vị bội dã ; ‘lợi xuất bĩ’ dĩ tòng quý dã” - Vạc đổ chổng chân, vị tất đã là trái lẽ ; ‘Lợi về sự đổ đồ phế bỏ’ nói lên Sáu Đầu nên theo lên với bậc tôn quý (đợi đưa vật phẩm mới vào). Thải đồ phế bỏ để nhận vật mới.
17. Canh Thìn – Lôi Thủy Giải, hào 3
- “Lục Tam, phụ thả thừa, chí khấu chí ; trinh lận”.
- “Sáu Ba, mang đội vật nặng mà ngồi xe lớn, tất xúi bọn cướp đến cướp ; giữ vững chính bền để phòng hối tiếc”.
- Tượng “Phụ thử thừa, diệc khả xú dã, tự ngã chí nhung, hữu thùy cữu dã” – Mang đội vật nặng mà ngồi xe lớn, ấy là nói hành vi của Sáu Ba rất xấu xa, do bản thân không có đức, trộm ngôi mà đưa nạn binh nhung đến, như vậy thì còn quy lỗi vào ai được?
18. Tân Tị - Phong Hỏa Gia nhân, hào 5
- “Cửu Ngũ, vương cách hữu gia, vật tuất, cát”.
- “Chín Năm, đấng quân vương lấy đức đẹp cảm cách chúng dân, sau đó bảo vệ nhà mình, không phải lo lắng, tốt lành”.
- Tượng “Vương cách hữu gia, giao tương ái dã” - Lấy đức đẹp cảm cách chúng dân, nói lên lúc này người người đều thân ái, hòa mục với nhau.
19. Nhâm Ngọ - Thiên Sơn Độn, hào 4 (19 = 31)
- “Cửu Tứ, hiếu độn, quân tử cát, tiểu nhân bĩ”
- “Chín Bốn, trong lòng lưu luyến mà thân mình thì đã trốn lánh, người quân tử đương tốt lành, kẻ tiểu nhân không thể làm được”.
- Tượng “Quân tử hiếu độn, tiểu nhân bĩ dã” - Người quân tử trong lòng lưu luyến, mà thân thì đã trốn lánh, kẻ tiểu nhân không thể làm được. Cái “thần” của sự “tri cơ”, ai là người sẽ làm được vậy.
20. Quý Mùi – Địa Trạch Lâm hào 1 (20 = 32)
- “Sơ Cửu, hàm lâm, trinh cát”
- “Chín Đầu, cảm ứng với bậc tôn quý mà thực hiện việc “giám lâm”, giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng “Hàm lâm trinh cát, chí hành chính dã” – Tâm chí và hành vi chí hướng của Chín Đầu đoan chính không a dua.
21. Giáp Thân – Thiên Sơn Độn, hào 5 (21 = 9)
- “Cửu Ngũ, gia độn, trinh cát”
- “Chín Năm, kịp thời làm đẹp mà trốn lánh, giữ vững chính bền thì được tốt lành”
- Tượng “Gia độn trinh cát, dĩ chính chí dã” – Chín Năm có tâm chí lánh trốn chính đính.
22. Ất Dậu – Địa Trạch Lâm, hào 6 (22 = 10)
- “Thượng Lục, đôn lâm, cát, vô cữu”
- “Sáu Trên, ôn nhu đôn hậu mà tới với mọi người, tốt lành, tất vô cữu hại”
- Tượng “Đôn lâm chi cát, chí tại nội dã” – Ý tâm chí của Sáu Trên gắn bó với đất nước, thiên hạ.
23. Bính Tuất – Sơn Thiên Đại súc, hào 4
- “Lục Tứ, đồng ngưu chi cốc, nguyên cát”.
- “Sáu Bốn, buộc gông lên đầu nghé không sừng, hết sức tốt lành”.
- Tượng “Lục Tứ nguyên cát, hữu hỷ dã” – Sáu Bốn hết sức tốt lành, nói lên ý “ngăn kẻ mạnh” có phương pháp, đáng được vui mừng.
24. Đinh Hợi – Trạch Địa Tụy, hào 4
- “Cửu Tứ, đại cát, vô cữu”
- “Chín Bốn, hết sức tốt lành, tất không có cữu hại”.
- Tượng “Đại cát vỗ cữu, vị bất đáng dã” – Đã quá tốt lành, lại phải ‘tất không cữu hại’, nói lên ngôi vị của Chín Bốn còn rất không thỏa đáng.
25. Mậu Tý – Thủy Lôi Truân, hào 6
- “Thượng Lục, thừa mã ban như, khấp huyết liên như”.
- “Sáu Trên, người cưỡi ngựa muốn cầu hôn phối (nhưng lại không có được sự cảm ứng), nên thương tâm khóc đến nỗi máu mắt chảy đầm đìa”.
- Tượng “Khấp huyết liên như, hà khả trường dã” – Khóc đến nỗi nước mắt chảy đầm đìa, nói lên Sáu Trên làm sao mà có thể trường cửu như vậy được.
26. Kỷ Sửu – Hỏa Phong Đỉnh, hào 2
- “Cửu Nhị, đỉnh hữu thực ; ngã cừu hữu tật, bất khả năng tức, cát”
- “Chín Hai, trong vạc chứa đầy vật phẩm ; người phối ngẫu với ta, thân có tật bệnh, tạm thời không đến làm tăng gánh nặng cho ta, tốt lành”.
- Tượng “Đỉnh hữu thực, thận sở chi dã ; ‘ngã cừu hữu tật’, chung vô vưu dã” – Trong vạc chứa đầy vật phẩm, ý nói rằng Chín Hai phải cẩn thận khi đi lên ; ‘người phối ngẫu với ta thân có tật bệnh’, nói lên Chín Hai tạm thời chưa ứng được với Sáu Năm, cuối cùng không có điều gì phải trách cứ.
27. Canh Dần – Lôi Thủy Giải, hào 2
- “Cửu Nhị, điền hoạch tam hồ, đắc hoàng thỉ ; trinh cát”.
- “Chín Hai, đi săn bắt được ba con cáo, được mũi tên mầu vàng (tượng trưng cho đức trung thực) ; giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng “Cửu Nhị trinh cát, đắc trung đạo dã” – Chín Hai giữ vững chính bền thì được tốt lành, nói lên được đạo ở giữa không lệch.
28. Tân Mão – Phong Hỏa Gia nhân, hào 6
- “Thượng Cửu, hữu phu, uy như, chung cát”
- “Chín Trên, lấy lòng chí thành, uy nghiêm để trị nhà, cuối cùng sẽ được tốt lành”.
- Tượng “Uy như chi cát, phản thân chi vị dã” – Uy nghiêm trị nhà thì được tốt lành, ý trước tiên Chín Trên phải tu tỉnh mình, đòi hỏi phải nghiêm khắc ở chính bản thân mình.
29. Nhâm Thìn – Thiên Sơn Độn, hào 3 (29 = 41)
- “Cửu Tam, hệ độn, hữu tật lệ ; súc thần thiếp, cát”
- “Chín Ba, trong lòng chựu sự ràng buộc, lưu luyến, không thể trốn lánh, sẽ bị tật bệnh, nguy hiểm ; nếu nuôi đầy tớ, nàng hầu thì được tốt lành”.
- Tượng “Hệ độn, chi lệ, hữu tật bị dã ; ‘súc thần thiếp cát’, bất khả đại sự dã” - Sự ràng buộc trong lòng dẫn đến nguy hiểm, nói lên Chín Ba sẽ gặp tật bệnh, cực kỳ gầy yếu ; ‘nuôi đầy tớ nàng hầu thì tốt’, nói lên Chín Ba không thể làm việc lớn như việc trị nước.
30. Quý Tị - Địa Trạch Lâm, hào 2 (30 = 42)
- “Cửu Nhị, hàm lâm cát, vô bất lợi”
- “Chín Hai, cảm ứng với bậc tôn quý mà thực hiện sự “giám lâm”, tốt lành, không gì không lợi”.
- Tượng “Hàm lâm cát vô bất lợi, vị thuận mệnh dã” - Thực hiện sự giám lâm, nói lên Chín Hai thật ra không phải là do thuận theo mệnh vua.
31. Giáp Ngọ - Thiên Sơn Độn, hào 4 (31 = 19)
- “Cửu Tứ, hiếu độn, quân tử cát, tiểu nhân bĩ”
- “Chín Bốn, trong lòng lưu luyến mà thân mình thì đã trốn lánh, người quân tử đương tốt lành, kẻ tiểu nhân không thể làm được”.
- Tượng “Quân tử hiếu độn, tiểu nhân bĩ dã” - Người quân tử trong lòng lưu luyến, mà thân thì đã trốn lánh, kẻ tiểu nhân không thể làm được. Cái “thần” của sự “tri cơ”, ai là người sẽ làm được vậy.
32. Ất Mùi – Địa Trạch Lâm, hào 1 (32 = 20)
- “Sơ Cửu, hàm lâm, trinh cát”
- “Chín Đầu, cảm ứng với bậc tôn quý mà thực hiện việc “giám lâm”, giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng “Hàm lâm trinh cát, chí hành chính dã” – Tâm chí và hành vi chí hướng của Chín Đầu đoan chính không a dua.
33. Bính Thân – Sơn Thiên Đại súc, hào 3
- “Cửu Tam, lương mã trục, lợi gian trinh ; nhật nhàn dư vệ, lợi hữu du vãng”
- “Chín Ba, ngựa tốt hay rong ruổi, lợi về nhớ kỹ sự gian nan, giữ vững chính bền ; không ngừng rèn luyện kỹ năng phòng vệ của ngựa xe ; lợi về có sự đi”.
- Tượng “Lợi hữu du vãng, thượng hợp chí dã” - Lợi về có sự đi, nói lên ý Chín Ba hợp chí với Chín Trên.
34. Đinh Dậu – Trạch Địa Tụy, hào 5
- “Cửu Ngũ, tụy hữu vị, vô cữu, phỉ phu ; nguyên vĩnh trinh, hối vong”.
- “Chín Năm, ở thời hội tụ, ở nơi cao tôn quý không bị cữu hại, nhưng còn chưa được sự tin rộng của chúng dân ; là một vị quân trưởng có đức, nên giữ vững chính bền mãi mãi không đổi thay, thì sự hối hận tất sẽ mất”.
- Tượng “Tụy hữu vị, chí vị quang dã” - Thời hội tụ ở cao ngôi tôn quý, nói lên tâm chí hội tụ thiên hạ của Chín Năm còn chưa sáng lớn.
35. Mậu Tuất – Thủy Lôi Truân, hào 5
- “Cửu Ngũ, truân kỳ cao. Tiểu, trinh cát ; đại, trinh hung.
- “Chín Năm, muốn khắc sự gian nan thời khai sáng buổi đầu, cần rộng ban bố ân trạch. Việc nhỏ, giữ được chính bền thì tốt ; việc lớn, giữ được chính bền để phòng hung hiểm”.
- Tượng “Truân kỳ cao, thi vị quang dã” - Cần rộng ban bố ân trạch, ý nói đức trạch của Chín Năm ban bố còn chưa tỏa sáng.
36. Kỷ Hợi – Hỏa Phong Đỉnh, hào 3
- “Cửu Tam, đỉnh nhĩ cách, kỳ hành tắc ; phương vũ khuy hối, chung cát”
- Chín Ba, tai vạc đang bị biến dạng, chỗ xỏ gậy để khênh ở tai vạc bị tịt ; món trĩ hầm thơm ngon, tinh khiết chưa đem ra cho người ăn được, đợi đến khi có trận mưa dầm âm dương điều hòa, tất sẽ không còn hối hận nữa, về cuối sẽ được tốt lành”.
- Tượng “Đỉnh nhĩ cách, thất kỳ nghĩa dã” – Tai vạc bị biến dạng, nói lên Chín Ba mất sự thích nghi ở khoảng trống giữa.
37. Canh Tý – Lôi Thủy Giải, hào 1
- “Sơ Lục, vô cữu”.
- “Sáu Đầu, (hiểm nạn mới bắt đầu được giải) không có gì cữu hại”.
- Tượng “Cương nhu chi tế, nghĩa vô cữu dã” – Sáu Đầu giao tiếp cùng Chín Bốn, tương ứng với nhau, xét về lẽ thư giải hiểm nạn, thì tất nhiên không có gì cữu hại.
38. Tân Sửu – Phong Hỏa Gia nhân, hào 1
- “Sơ Cửu, nhàn hữu gia, hối vong”.
- “Chín Đầu, phòng ngừa tà ác, sau đó bảo vệ gia đình mình, hối hận sẽ tiêu vong”.
- Tượng “Nhàn hữu gia, chí vị biến dã” – Phòng ngừa tà ác, bảo vệ gia đình mình, đó là nói lên Chín Đầu cần phòng ngừa khi ý chí còn chưa thay đổi.
39. Nhâm Dần – Thiên Sơn Độn, hào 2 (39 = 51)
- “Lục Nhị, chấp chi dụng hoàng ngưu chi cách, mạc chi thắng thoát”.
- “Sáu Hai, bị dây da bò trói chặt, không ai có thể cởi được”.
- Tượng “Chấp dụng hoàng ngưu, cố chí dã” - Bị dây da bò trói chặt, nói lên ý Sáu Hai có ý chí bền vững giúp cho thời, không lui.
40. Quý Mão – Địa Trạch Lâm, hào 3 (40 = 52)
- “Lục Tam, cam lâm, vô du lợi ; ký ưu chi, vô cữu”.
- “Sáu Ba, dựa vào lời nói ngọt mà tới với mọi người thì không có lợi, nhưng nếu đã lo sửa lỗi của mình thì không cữu hại”.
- Tượng “Cam lâm, vị bất đáng dã, ‘ký ưu chi’, cữu bất trường dã” - Bằng lời nói ngọt mà tới với người, chỉ để bộc lộ ngôi vị của Sáu Ba không chính đáng ; ‘đã lo và biết sửa lỗi’, nói lên sự cữu hại không thể lâu dài.
41. Giáp Thìn – Thiên Sơn Độn, hào 3 (41 = 29)
- “Cửu Tam, hệ độn, hữu tật lệ ; súc thần thiếp, cát”
- “Chín Ba, trong lòng chựu sự ràng buộc, lưu luyến, không thể trốn lánh, sẽ bị tật bệnh, nguy hiểm ; nếu nuôi đầy tớ, nàng hầu thì được tốt lành”.
- Tượng “Hệ độn, chi lệ, hữu tật bị dã ; ‘súc thần thiếp cát’, bất khả đại sự dã” - Sự ràng buộc trong lòng dẫn đến nguy hiểm, nói lên Chín Ba sẽ gặp tật bệnh, cực kỳ gầy yếu ; ‘nuôi đầy tớ nàng hầu thì tốt’, nói lên Chín Ba không thể làm việc lớn như việc trị nước.
42. Ất Tị - Địa Trạch Lâm, hào 2 (42 = 30)
- “Cửu Nhị, hàm lâm cát, vô bất lợi”
- “Chín Hai, cảm ứng với bậc tôn quý mà thực hiện sự “giám lâm”, tốt lành, không gì không lợi”.
- Tượng “Hàm lâm cát vô bất lợi, vị thuận mệnh dã” - Thực hiện sự giám lâm, nói lên Chín Hai thật ra không phải là do thuận theo mệnh vua.
43. Bính Ngọ - Sơn Thiên Đại súc, hào 2
- “Cửu Nhị, dư thoát phúc”.
- “Chín Hai, xe long moayơ không đi được”.
- Tượng “Dư thoát phúc, trung vô vưu dã” – nói lên ý Chín Hai ở ngôi giữa mà không nóng vội tiến lên, cho nên không phạm lỗi lầm.
44. Đinh Mùi – Trạch Địa Tụy, hào 6
- “Thượng Lục, tê tư thế di, vô cữu”.
- “Sáu Trên, ta thán buồn than, lại đau đớn khóc lóc nước mắt nước mũi dàn dụa, có thể tránh được cữu hại”.
- Tượng “Tê tư thế di, vị an thượng dã” - Buồn than, lại đau đớn khóc lóc, nói lên hào Sáu Trên mong “tụ” không được, chưa thể ở yên tại ngôi trên cùng.
45. Mậu Thân – Thủy Lôi Truân, hào 4
- “Lục Tứ, thừa mã ban như, cầu hôn cấu ; vãng cát, vô bất lợi”.
- “Sáu Bốn, cưỡi ngựa dập dừu tới, muốn cầu hôn ; đi lên tất sẽ tốt lành, không gì là không lợi.”
- Tượng “Cầu nhi vãng, minh dã” - Muốn cầu hôn ở phí dưới mà tiến lên, nói lên Sáu Bốn là kẻ sáng suốt, hiểu biết.
46. Kỷ Dậu – Hỏa Phong Đỉnh, hào 4
- “Cửu Tứ, giải nhi mẫu, bằng chí tư phu”.
- “Chín Bốn, lìa bỏ kẻ tiểu nhân dính bám, giống như thư giải cái tật kín ở ngón chân cái anh, sau đó bạn bè mới tới mà ứng với lòng thành tín”.
- Tượng “Giải nhi mẫu, vị đáng vị dã” – nói lên ngôi của Chín Bốn còn chưa thỏa đáng.
47. Canh Tuất – Lôi Thủy Giải, hào 6
- “Thượng Lục, công dụng xạ chuẩn vu cao dung chi thượng, hoạch chi, vô bất lợi”.
- “Sáu Trên, vương công bắn chim cắt đậu trên thành cao, một phát bắn trúng, không gì không lợi”.
- Tượng “Công dụng xạ chuẩn, dĩ giải bội dã” – Vương công bắn chim cắt đậu trên thành cao, nói lên Sáu Trên giải trừ hiểm nạn do kẻ bội nghịch gây nên.
48. Tân Hợi – Phong Hỏa Gia nhân, hào 2
- “Lục Nhị, vô du toại, tại trung quỹ, trinh cát”.
- “Sáu Hai, không có thành tựu gì, coi sóc việc nấu nướng trong nhà, giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng “Lục Nhị chi cát, thuận dĩ tốn dã” - Sự tốt lành của Sáu Hai là do sự nhu thuận, ôn hòa, khiêm tốn đưa đến.
49. Nhâm Tý – Thiên Sơn Độn, hào 1 (49 = 1)
- “Sơ lục, độn vỹ ; lệ, vật dụng hữu du vãng”
- “Hào Sáu Đầu, trốn tránh không kịp mà lại rơi vào phần đuôi, có nguy hiểm, không nên có sự đi”.
- Tượng “Độn vỹ chi lệ, bất vãng, hà tai dã” - Trốn tránh lại rơi vào phần đuôi có nguy hiểm, nhưng lúc này, nếu không đi lên phía trước, thì có tai họa gì đâu!
50. Quý Sửu – Địa Trạch Lâm, hào 4 (50 = 2)
- “Lục Tứ, chí lâm, vô cữu”
- “Hào Sáu Bốn, hết sức gìn giữ để tới gần giám sát mọi người, tất vô cữu hại”.
- Tượng “Chí lâm vô cữu, vị đáng dã” – hào này ở ngôi chính đáng.
51. Giáp Dần – Thiên Sơn Độn, hào 2 (51 = 39)
- “Lục Nhị, chấp chi dụng hoàng ngưu chi cách, mạc chi thắng thoát”.
- “Sáu Hai, bị dây da bò trói chặt, không ai có thể cởi được”.
- Tượng “Chấp dụng hoàng ngưu, cố chí dã” - Bị dây da bò trói chặt, nói lên ý Sáu Hai có ý chí bền vững giúp cho thời, không lui.
52. Ất Mão – Địa Trạch Lâm, hào 3 (52 = 40)
- “Lục Tam, cam lâm, vô du lợi ; ký ưu chi, vô cữu”.
- “Sáu Ba, dựa vào lời nói ngọt mà tới với mọi người thì không có lợi, nhưng nếu đã lo sửa lỗi của mình thì không cữu hại”.
- Tượng “Cam lâm, vị bất đáng dã, ‘ký ưu chi’, cữu bất trường dã” - Bằng lời nói ngọt mà tới với người, chỉ để bộc lộ ngôi vị của Sáu Ba không chính đáng ; ‘đã lo và biết sửa lỗi’, nói lên sự cữu hại không thể lâu dài.
53. Bính Thìn – Sơn Thiên Đại súc, hào 1
- “Sơ Cửu, hữu lệ, lợi dĩ”
- “Chín Đầu, có nguy hiểm, lợi về sự tạm dừng không tiến”.
- Tượng “Hữu lệ tắc dĩ, bất phạm tai dã” – Ý nói không thể cứ dấn thân vào tai biến, hoạn nạn mà đi.
54. Đinh Tị - Trạch Địa Tụy hào 1
- “Sơ Lục, hữu phu bất chung, nãi loạn nãi tụy ; nhược hào, nhất ác vi tiếu: Vật tuất, vãng vô cữu”.
- “Sáu Đầu, nếu không giữ được đến cùng sự thành tín trong lòng, tất sẽ làm loạn mà tụ họp bừa bãi với mọi người ; nếu chuyên tình mà kêu gọi mọi người ở trên, thì có thể chỉ một cái bắt tay với người bạn dương cứng là lại vui cười được ngay: Không phải lo nghĩ, đi lên tất không gặp cữu hại”.
- Tượng “Nãi loạn nãi tụy, kỳ chí loạn dã” – Làm loạn mà tụ họp bừa bãi với mọi người, nói lên tâm chí Sáu Đầu có sự mê loạn.
55. Mậu Ngọ - Thủy Lôi Truân, hào 3
- “Lục Tam, tức lộc vô ngu, duy nhập vu lâm trung ; quân tử cơ, bất như xả, vãng lận”.
- “Sáu Ba, đuổi hiêu không có ngu nhân dẫn đường, thì chỉ đi sâu vào rằng rậm vô ích ; người quân tử cần kiến có hành sự, lúc này bỏ không đuổi nữa là hơn cả, nếu cứ nhất mực tiến nữa, tất sẽ hối tiếc”.
- Tượng “Tức lộc vô ngu, dĩ tòng cầm dã ; quân tử xả chi, vãng lận, cùng dã” – Không có người dẫn đường, mà vẫn đuổi bắt, nói lên Sáu Ba lòng tham đã thái quá. Người quân tử bỏ không đuổi nữa, nếu cứ đuổi mãi thì sẽ cùng khốn.
56. Kỷ Mùi – Hỏa phong Đỉnh, hào 5
- “Lục Ngũ, đỉnh hoàng nhĩ kim huyễn, lợi trinh”.
- “Sáu Năm, vạc có tai mầu vàng, đòn vạc cứng rắn, lợi về sự giữ vững chính bền”.
- Tượng “Đỉnh hoàng nhĩ, trung dĩ vi thực dã” - Vạc có tai mầu vàng, nói lên Sáu Năm ở ngôi giữa mà được tính cứng đặc.
57. Canh Thân – Lôi Thủy Giải, hào 5
- “Lục Ngũ, quân tử duy hữu giải, cát, hữu phu vu tiểu nhân”.
- “Sáu Năm, người quân tử có thể thư giải hiểm nạn, tốt lành, thậm chí còn có thể dùng đức thành tín để cảm hóa kẻ tiểu nhân”.
- Tượng “Quân tử hữu giải, tiểu nhân thoái dã” - Người quân tử có thể thư giải hiểm nạn, kẻ tiểu nhân tất sẽ sợ phục, lui bước.
58. Tân Dậu – Phong Hỏa Gia nhân, hào 3
- “Cửu Tam, gia nhân hạc hạc, hối lệ, cát ; phụ tử hy hy, chung lận”.
- “Chín Ba, người trong nhà sầu oán gào khóc, mặc dù có hối hận, có nguy hiểm, nhưng vẫn được tốt lành ; còn nếu là đàn bà trẻ con mà nô đùa hớn hở, thì cuối cùng sẽ thẹn tiếc”.
- Tượng “Gia nhân hạc hạc, vị thất dã ; ‘phụ tử hy hy’, thất gia tiết dã” - Người trong nhà sầu oán gào khóc, nói lên đây là thời chưa thể thoải mái nhàn vui ; ‘đàn bà trẻ con cười đùa hớn hở’, nói lên đã mất lễ tiết trong nhà.
59. Nhâm Tuất – Thiên Sơn Độn, hào 6 (59 = 11)
- “Thượng Cửu, phì đôn, vô bất lợi”
- “Chín Trên, cao chạy xa bay, không có gì không lợi”.
- Tượng “Phì độn vô bất lợi” – Chín Trên không hoài nghi lưu luyến gì.
60. Quý Hợi – Địa Trạch Lâm, hào 5 (60 = 12)
- “Lục Ngũ, tri lâm, đại quân chi nghi, cát”
- “Lục Ngũ, đến với mọi người bằng sự thông tuệ minh trí ; bậc đại quân vương nên như vậy, tốt lành”
- Tượng “Đại quân chi nghi, hành trung chi vị dã” - Bậc đại quân vương nên như vậy, nói lên Lục Ngũ tất phải đi theo trung đạo.
..............................VỊ TẾ
........ÍCH....................................THÁI
...HẰNG.....................+.....................HÀM
.......TỔN......................................BĨ
..............................KÝ TẾ
1. Giáp Tý – Thiên Địa Bĩ, hào 1 (1 = 49)
- “Sơ Lục, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; trinh cát, hanh”.
- “Sáu Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra ; giữ vững chính bền thì được tốt lành, hanh thông”.
- Tượng viết: “Bạt mao trinh dã, chí tại quân dã” - Nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, nói lên ý chí Sáu Đầu giữ chính không muốn tiến, là do nghĩ tới người Trên, không dám nghĩ đến việc dùng xiểm nịnh mà tiến bừa. Cho nên tốt và hanh thông.
2. Ất Sửu – Địa Thiên Thái, hào 4
- “Lục Tứ, phiên phiên, bất phú, dỹ kỳ lân bất giới dỹ phu”.
- “Sáu Bốn, dập dừu đi xuống, rỗng không chẳng giầu, với hàng xóm chẳng cần bảo nhau mà đều một lòng thành tín”.
- Tượng viết: “Phiên phiên bất phú, giai thất thực dã ; ‘bất giới dĩ phu’ trung tâm nguyện dã” – “Dập dừu đi xuống, rỗng không chẳng giầu”, nói lên các hào âm ở quẻ trên đều mất đi cái thực của mình ; “chẳng cần phải bảo nhau mà đều một lòng thành tín”, nói lên trong lòng các hào âm đều mang ý nguyện ứng với dưới.
3. Bính Dần – Sơn Trạch Tổn, hào 6
- “Thượng Cửu, phất tổn ích chi ; vô cữu, trinh cát, hữu du vãng, đắc thần vô dã”.
- “Chín Trên, mình không tổn gì mà làm ích được cho mọi người ; tất không có cữu hại, giữ vững chính bền thì được tốt lành, nếu có sự đi, tất sẽ được quảng đại thần dân ủng hộ, chẳng phải chỉ một nhà”.
- Tượng viết: “Phất tổn ích chi, đại đắc chi dã” – “Mình không tổn gì mà làm ích được cho người, nói lên Chín Trên đắc chí lớn về sự ban ân cho thiên hạ.
4. Đinh Mão – Trạch Sơn Hàm, hào 2
- “Lục Nhị, hàm kỳ phì, hung ; cư cát”
- “Sáu Hai, giao cảm ở bụng chân, có hung hiểm ; ở yên tĩnh thì được tốt lành”.
- Tượng viết: “Tuy hung cư cát, thuận bất hại dã” – Sáu Hai mặc dù có hung hiểm, nhưng nếu ở yên giữ tĩnh thì được tốt lành, nói lên ý thuận theo chính đạo “giao cảm” thì có thể tránh gặp phải sự họa hại.
5. Mậu Thìn – Thủy Hỏa Ký tế, hào 2
- “Lục Nhị, phụ táng kỳ phất, vật trục, thất nhật đắc”.
- “Sáu Hai, người đàn bà đánh mất rèm xe (không đi được), không cần phải đi tìm, quá không đầy bảy ngày tất vật mất sẽ trở lại”.
- Tượng viết: “Thất nhật đắc, dĩ trung đạo dã” – “Quá không đầy bẩy ngày, tất vật mất sẽ quay trở lại”, nói lên Sáu Hai có thể giữ đạo trung chính không lệch.
6. Kỷ Tị - Hỏa Thủy Vị Tế, hào 6
- “Thượng Cửu, hữu phu vu ẩm tửu, vô cữu ; nhu kỳ thủ, hữu phu thất thị”.
- “Chín Trên, tin dùng kẻ khác, an nhàn uống riệu thì không có gì cữu hại ; nhưng (chơi bời quá độ) sẽ như con cáo nhỏ qua sông đánh (làm) ướt đầu, đó là quá tin người mà hại tới chính đạo.
- Tượng viết: “Ẩm tửu nhu thủ, diệc bất tri tiết dã” – “An nhàn uống riệu mà (như con cáo nhỏ qua sông) làm ướt đầu gặp phải tai họa”, nói lên Chín Trên nếu như vậy, thì thật là không biết tiết chế gì hết.
7. Canh Ngọ - Lôi Phong Hằng, hào 4
- “Cửu Tứ, điền vô cầm”
- “Chín Bốn, đi săn không được cầm thú”.
- Tượng viết: “Cửu phi kỳ vị, ân đắc cầm dã” – Chín Bốn ở lâu không đúng chỗ của mình, săn bắn làm sao mà bắt được cầm thú?
8. Tân Mùi – Phong Lôi Ích, hào 4
- “Lục Tứ, trung hàng cáo công tòng, lợi dụng vi y thiên quốc”.
- “Sáu Bốn, giữ điều trung, thận trọng sự hành, cung kính thăm hỏi bậc vương công, tất sẽ được lời nghe, kế theo, lợi về sự dựa vào bậc quân thượng trong việc dời đô, ích dân”.
- Tượng viết: “Cáo công tùng, dĩ ích chí dã” – “Cung kính thăm hỏi bậc vương công, tất sẽ được lời nghe, kế theo”, nói lên ý chí Sáu Bốn lấy sự tăng ích tâm chí thiên hạ để khuyên gián vương công.
9. Nhâm Thân – Thiên Địa Bĩ, hào 5 (9 = 21)
- “Cửu Ngũ, hưu bĩ, đại nhân cát ; kỳ vong kỳ vong, hệ vu bào tang”.
- “Chín Năm, làm cho tắt nghỉ sự “bĩ”, đó là điều tốt lành cho bậc đại nhân ; (trong lòng lúc nào cũng phải tự nhủ): có thể mất đấy, như vậy thì mới có thể giữ vững như buộc vào một bụi dâu (yên tâm, không phải lo lắng gì nữa).
- Tượng viết: “Đại nhân chi cát, vị chính đáng dã” – “Tốt lành cho bậc đại nhân”, nói lên Chín Năm ở ngôi vị trung chính, rất thích đáng.
10. Quý Dậu – Địa Thiên Thái, hào 6 (10 = 22)
- “Thượng Lục, thành phục vu hoàng ; vật dụng sư, tự ấp cáo mệnh, trinh lận”.
- “Sáu Trên, thành đổ xuống hào nước cạn khô ; không thể xuất binh chiến nữa, nên tự giảm bớt các phép tắc, bố cáo, chính lệnh đi, giữ vững chính bền để phòng những điều đáng tiếc”.
- Tượng viết: “Thành phục vu hoàng, kỳ mệnh loạn dã” – “Thành đổ sụp xuống hào nước khô cạn”, nói lên xu hướng phát triển của Sáu Trên đã trở lên hỗn loạn.
11. Giáp Tuất – Thiên Địa Bĩ, hào 6 (11 = 59)
- “Thượng Cửu, khuynh bĩ ; tiên bĩ hậu hỷ”
- “Chín Trên, đánh đổ được “bĩ bế” ; trước còn bĩ bế, sau thì “thông thái” mừng vui”.
- Tượng viết: “Bĩ chung tắc khuynh, hà khả trường dã” – Bĩ bế lúc cùng cực tất đi đến đổ, làm sao giữ được lâu dài!
12. Ất Hợi – Địa Thiên Thái, hào 5 (12 = 60)
- “Lục Ngũ, Đế Ất quy muội, dĩ chỉ nguyên cát”.
- “ Sáu Năm, vua Đế Ất cho em gái về nhà chồng, như thế là có phúc trạch, hết sức tốt lành”.
- Tượng viết: “Dĩ chỉ nguyên cát, trung dĩ hành nguyện dã” – “Như thế là có phúc trạch, hết sức tốt lành”, nói lên Sáu Năm ở ngôi giữa không thiên lệch, thực hiện ý nguyện ứng dưới.
13. Bính Tý – Sơn Trạch Tổn, hào 5
- “Lục Ngũ, hoặc ích chi thập bằng chi quy, phất khắc vi, nguyên cát”.
- “Sáu Năm, có người tiến dâng một con rùa lớn quý, có giá trị “mười bằng”, không thể từ tạ, hết sức tốt lành”.
- Tượng viết: “Lục Ngũ nguyên cát, tự thượng hựu dã” – Sáu Năm hết sức tốt lành, đây là Trời phù hộ.
14. Đinh Sửu – Trạch Sơn Hàm, hào 3
- “Cửu Tam, hàm kỳ cổ, chấp kỳ tùy, vãng lận”.
- “Chín Ba, cảm được tới đùi, khăng khăng nhắm mắt đi theo người ; như vậy tất sẽ thẹn tiếc”.
- Tượng viết: “Hàm kỳ cổ, diệc bất xử dã, ‘chí tại tùy nhân’, sở chấp hạ dã” – “Cảm được tới đùi”, nói lên Chín Ba không thể yên tĩnh lúc lùi ; “tâm chí ở chỗ nhắm mắt theo người”, nói lên Chín Ba cứ khăng khăng là thấp hèn.
15. Mậu Dần – Thủy Hỏa Ký tế, hào 1
- “Sơ Cửu, duệ kỳ luân, nhu kỳ vỹ, vô cữu”.
- “Chín Đầu, kéo ngược bánh xe về phía sau (để không đi nhanh), con cáo qua sông đánh (làm) ướt đuôi (để không đi nhanh), tất không có lỗi”.
- Tượng viết: “Duệ kỳ luân, nghĩa vô cữu dã” – “Kéo ngược bánh xe về phía sau (để không đi nhanh), nói lên hành vi của Chín Đầu hợp với ý nghĩa: cẩn thận giữ gìn mọi thành tựu mà không dẫn đến cữu hại.
16. Kỷ Mão – Hỏa Thủy Vị tế, hào 1
- “Sơ Lục, nhu kỳ vỹ, lận”.
- “Sáu Đầu, cáo nhỏ qua sông bị nước làm ướt đuôi, đáng thẹn tiếc”.
- Tượng viết: “Nhu kỳ vỹ, diệc bất chi cực dã” – “Cáo nhỏ qua sông bị nước làm ướt đuôi”, nói lên Sáu Đầu rất không biết cẩn thận giữ giữa.
17. Canh Thìn – Lôi Phong Hằng, hào 3
- “Cửu Tam, bất hằng kỳ đức, hoặc thừa chi tu ; trinh lận”
- “Chín Ba, không thường giữ được đức đẹp, có khi bị người làm cho hổ thẹn ; phải giữ vững sự chính bền để phong sự thẹn tiếc”.
- Tượng viết: “Bất hằng kỳ đức, vô sở dung dã” – “Không thường giữ được đức đẹp, ý nói Chín Ba sẽ không có chỗ dung thân.
18. Tân Tị - Phong Lôi Ích, hào 5
- “Cửu Ngũ, hữu phu huệ tâm, vật vấn nguyên cát: hữu phu huệ ngã đức”.
- “Chín Năm, có lòng chân thành tín thực ban ơn cho thiên hạ, không còn nghi ngờ gì là hết sức tốt đẹp ; Người trong thiên hạ tất sẽ chân thành tín thực cảm ân huệ và nghĩ tới sự báo đáp ân đức của ta”.
- Tượng viết: “Hữu phu huệ tâm, vật vắn chi hỹ ; ‘huệ ngã đức’ đại đắc chí dã” – “Có lòng chân thành tín thực ban ơn cho thiên hạ”, nói lên sự hết sức tốt lành là điều không cần phải hỏi ; “người trong thiên hạ tất báo đáp ân đức của ta”, nói lên Chín Năm được lớn chí “tổn thượng ích hạ”.
19. Nhâm Ngọ - Thiên Địa Bĩ, hào 4 (19 = 31)
- “Cửu Tứ, hữu mệnh vô cữu, trù ly chỉ”
- “Chín Bốn, mệnh trời xoay chuyển đạo Bĩ không có cữu hại, bạn mình nhờ cậy mình đều được hưởng phúc”.
- Tượng viết: “Hữu mệnh vô cữu, chí hành dã” - Mệnh trời xoay chuyển đạo “Bĩ”, không có cữu hại, nói lên chí vượt khỏi cuộc Bĩ của Chín Bốn đang được thực hiện.
20. Quý Mùi – Địa Thiên Thái, hào 1 (20 = 32)
- “Sơ Cửu, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; chinh cát”.
- “Chín Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra, thẳng tiến lên phía trước thì được tốt lành”.
- Tượng viết: “Bạt nhự chinh cát, chí tại ngoại dã” – “Nhổ cỏ mao thẳng tiến lên phía trước thì được tốt lành”, nói lên tâm chí của Chín Đầu là có hướng tiến thủ ra bên ngoài.
21. Giáp Thân – Thiên Địa Bĩ, hào 5 (21 – 9)
- “Cửu Ngũ, hưu bĩ, đại nhân cát ; kỳ vong kỳ vong, hệ vu bào tang”.
- “Chín Năm, làm cho tắt nghỉ sự “bĩ”, đó là điều tốt lành cho bậc đại nhân ; (trong lòng lúc nào cũng phải tự nhủ): có thể mất đấy, như vậy thì mới có thể giữ vững như buộc vào một bụi dâu (yên tâm, không phải lo lắng gì nữa).
- Tượng viết: “Đại nhân chi cát, vị chính đáng dã” – “Tốt lành cho bậc đại nhân”, nói lên Chín Năm ở ngôi vị trung chính, rất thích đáng.
22. Ất Dậu – Địa Thiên Thái, hào 6 (22 = 10)
- “Thượng Lục, thành phục vu hoàng ; vật dụng sư, tự ấp cáo mệnh, trinh lận”.
- “Sáu Trên, thành đổ xuống hào nước cạn khô ; không thể xuất binh chiến nữa, nên tự giảm bớt các phép tắc, bố cáo, chính lệnh đi, giữ vững chính bền để phòng những điều đáng tiếc”.
- Tượng viết: “Thành phục vu hoàng, kỳ mệnh loạn dã” – “Thành đổ sụp xuống hào nước khô cạn”, nói lên xu hướng đang phát triển của Sáu Trên đã trở lên hỗn loạn.
23. Bính Tuất – Sơn Trạch Tổn, hào 4
- “Lục Tứ, tổn kỳ tẳt xuyền hữu hỷ, vô cữu”
- “Sáu Bốn, tự ta giảm bớt tật tương tư, có thể nhanh chóng tiếp nhận dương cứng, tất có sự vui, không có cữu hại”.
- Tượng viết: “Tổn kỳ tật, diệc khả hỷ dã” – “Tự giảm bớt bệnh tương tư”, ý nói Sáu Bốn tiếp nhận hào dương cứng là việc rất đáng mừng. Bốn dựa vào hào Đầu, để nhanh chóng đến “ích”, là cái lý của hào.
24. Đinh Hợi – Trạch Sơn Hàm, hào 4
- “Cửu Tứ, trinh cát, hối vong ; đồng đồng vãng lai, bằng tòng nhĩ tư”.
- “Chín Bốn, giữ vững chính bền thì được tốt lành, hối hận sẽ mất hết ; lăng xăng qua lại, bạn bè cuối cùng sẽ thuận theo sự nghĩ của anh thôi”.
- Tượng viết: “Trinh cát hối vong, vị cảm hại dã ; đồng đồng vãng lai, vị quang đại dã” - Hối hận tất sẽ mất hết, nói lên Chín Bốn chưa từng vì giao cảm bất chính mà gặp điều hại ; ‘lăng xăng qua lại mà lòng ý bất đinh’, nói lên ý lúc này đạo giao cảm còn chưa sáng lớn.
25. Mậu Tý – Thủy Hỏa Ký tế, hào 6
- “Thượng Lục, nhu kỳ thủ, lệ”.
- “Sáu Trên, con cáo nhỏ qua sông đánh ướt đầu, có nguy hiểm”.
- Tượng viết: “Nhu kỳ thủ, lệ’, hà khả cửu dã” – “Con cáo nhỏ qua sông đánh ướt đầu, có nguy hiểm”, dụ chỉ sau khi việc thành, nếu không cẩn thận, thì làm sao bảo vệ sự thành công cho được lâu dài!
26. Kỷ Sửu – Hỏa Thủy Vị tế, hào 2
- “Cửu Nhị, duệ kỳ lân, trinh cát”.
- “Chín Hai, kéo ngược bánh xe về phía sau (để không đi mạnh), giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng viết: “Cửu Nhị trinh cát, trung dĩ hành chính dã” – Chín Hai giữ vững được tốt lành”, nói lên phải giữ giữa, mà làm việc đoan chính không lệch.
27. Canh Dần – Lôi Phong Hằng, hào 2
- “Cửu Nhị, hối vong”.
- “Chín Hai, hối hận tiêu hết”
- Tượng viết: “Cửu Nhị hối vong, năng cửu trung dã” – Chín Hai hối hận tiêu hết, nói lên có thể giữ đạo lâu dài không thiên lệch.
28. Tân Mão – Phong Lôi Ích, hào 6
- “Thượng Cửu, mạc ích chi, hoặc kích chi ; lập tâm vật hằng, hung”.
- “Chín Hai, không có ai làm ích cho anh ta, mà có người còn công kích anh ta nữa, là vì không thường giữ được sự yên ổn trong lòng (mà tham cầu không chán), có hung hiểm”.
- Tượng viết: “Mạc ích chi, thiên từ dã ; ‘hoặc kích chi’, tự ngoại lai dã” – Không có ai làm ích cho anh ta, nói lên Chín Hai đơn phương đưa ra lời cầu ích ; ‘có người công kích anh ta’, đây là sự hung hiểm từ bên ngoài, không vời gọi mà tự đến.
29. Nhâm Thìn – Thiên Địa Bĩ, hào 3 (29 = 41)
- “Lục Tam, bao tu”.
- “Sáu Ba, được che chở nên làn điều phi đạo lý, cuối cùng đi đến sự hổ nhục”.
- Tượng viết: “Bao tu, vị bất đáng dã” - Được che chở nên làm điều phi đạo lý, nói lên Sáu Ba ngôi vị không chính đáng.
30. Quý Tị - Địa Thiên Thái, hào 2 (30 = 42)
- “Cửu Nhị, bao hoang, dụng bằng hà, bất hà di, đắc thượng vu trung hàng”.
- “Chín Hai, có tấm lòng bao dung như sông lớn, có thể lội qua sông lớn, không bỏ những người ở xa ; và cũng không kết bè phái, có thể giúp đỡ vị quân chủ kiên trì đạo trung”.
- Tượng viết: “’Bao hoang’, ‘đắc thượng vu trung hoàng’, dĩ quang đại dã” – “Có tấm lòng bao dung như sông lớn”, “có thể giúp đỡ đấng quân chủ kiên trì đạo trung”, nói lên đạo đức Chín Hai chính đại quang minh.
31. Giáp Ngọ - Thiên Địa Bĩ, hào 4 (31 = 19)
- “Cửu Tứ, hữu mệnh vô cữu, trù ly chỉ”
- “Chín Bốn, mệnh trời xoay chuyển đạo Bĩ không có cữu hại, bạn mình nhờ cậy mình đều được hưởng phúc”.
- Tượng viết: “Hữu mệnh vô cữu, chí hành dã” - Mệnh trời xoay chuyển đạo “Bĩ”, không có cữu hại, nói lên chí vượt khỏi cuộc Bĩ của Chín Bốn đang được thực hiện.
32. Ất Mùi – Địa Thiên Thái, hào 1 (32 = 20)
- “Sơ Cửu, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; chinh cát”.
- “Chín Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra, thẳng tiến lên phía trước thì được tốt lành”.
- Tượng viết: “Bạt nhự chinh cát, chí tại ngoại dã” – “Nhổ cỏ mao thẳng tiến lên phía trước thì được tốt lành”, nói lên tâm chí của Chín Đầu là có hướng tiến thủ ra bên ngoài.
33. Bính Thân – Sơn Trạch Tổn hào 3
- Tượng viết: “Nhất nhân hành, tam tắc nghi dã” - Một người đi một mình, thì có thể chuyên nhất cầu, ba người cùng đi sẽ khiến cho đối phương nghi hoặc không có chủ.
- “Lục Tam, tam nhân hành tắc tổn nhất nhân ; nhất nhân hành tắc đắc kỳ hữu”.
- “Sáu Ba, ba người cùng đi đều muốn cầu một dương, tất sẽ bớt một người là dương cứng đó ; một người đi một mình mà một lòng cầu hợp, thì sẽ được những người bạn dương cứng”
34. Đinh Dậu – Trạch Sơn Hàm, hào 5
- “Cửu Ngũ, hàm kỳ mai, vô hối”.
- “Chín Năm, cảm tới thăn lưng, không đến nỗi hối hận”.
- Tượng viết: “Hàm kỳ hối, chí mạt dã” – “Cảm tới thăn lưng, nói lên chí hướng giao cảm của Chín Năm quá nông mỏng.
35. Mậu Tuất – Thủy Hỏa Ký tế, hào 5
- “Cửu Ngũ, đông lân sát ngưu, bất như tây lân chi Thược tế, thực thụ kỳ phúc”.
- “Chín Năm, nước láng giềng bên đông giết trâu tế lớn, chẳng bằng lễ “tế Thược” sơ sài của nước láng giềng bên tây, được thực hưởng nhiều phúc trạch của thần linh ban giáng hơn”.
- Tượng viết: “Đông lân sát ngưu, bất như tây lân chi thời dã ; ‘thực thụ kỳ phúc’ cát đại lai dã” – “Chẳng bằng “tế Thược” của nước láng giềng phía tây”, ý nói nước láng giềng phía tây tế lễ hợp thời ; “nước láng giềng phía tây càng được thực hưởng phúc trạch của thần linh ban giáng nhiều hơn”, dụ chỉ sự tốt lành nối tiếp nhau đến.
36. Kỷ Hợi – Hỏa Thủy Vị tế, hào 3
- “Lục Tam, vị tế, chinh hung, lợi thiệp đại xuyên”.
- “Sáu Ba, việc chưa thành, đã vội tiến lên tất có hung hiểm, nhưng lợi về sự vượt qua sông cả sóng lớn để thoát khỏi hiểm nạn”.
- Tượng viết: “Vị tế chinh hung, vị bất đáng dã” - Việc chưa thành đã vội tiến lên tất có hung hiểm, nói lên ngôi vị Sáu Ba không thích đáng.
37. Canh Tý – Lôi Phong Hằng, hào 1
- “Sơ Lục, tuấn hằng trinh hung, vô du lợi”
- “Sáu Đầu, quá mông được đạo hằng cửu, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm, nếu không thì không có lợi”.
- Tượng viết: “Tuấn hằng chi hung, thủy cầu thâm dã” - Sự hung hiểm của việc “quá mong cầu đạo hằng cửu”, nói lên Sáu Đầu ngay từ đầu đã cầu được quá sâu.
38. Tân Sửu – Phong Lôi Ích, hào 1
- “Sơ Cửu, lợi dụng vi đại tác, nguyên cát, vô cữu”.
- “Chín Đầu, lợi về sự làn việc lớn, hết sức tốt lành, tất không cữu hại”.
- Tượng viết: “Nguyên cát vô cữu, bất hậu sự dã” - Hết sức tốt lành mà không có cữu hại, nói lên Chín Đầu vốn không thể gánh vác được việc lớn (nhưng lúc này được ích, có thể làm việc lớn)
39. Nhâm Dần – Thiên Địa Bĩ, hào 2 (39 = 51)
- “Lục Nhị, bao thừa, tiểu nhân cát ; đại nhân phủ, hanh”.
- “Sáu Hai, phải chựu sự bao dung che trở và vâng thuận người trên, là tiểu nhân thì tốt lành ; là đại nhân mà phủ định đạo này thì hanh thông”.
- Tượng viết: “Đại nhân phủ, hanh, bất loạn quần dã” - Đại nhân mà phủ định đạo này thì hanh thông, nói lên ý không để cho bọn tiểu nhân làm loạn.
40. Quý Mão – Địa Thiên Thái hào 3 (40 = 52)
- “Cửu Tam, vô bình bất bì, vô vãng bất phục ; gian trinh vô cữu, vật tuất kỳ phu, vu thực hữu phúc”.
- “Chín Ba, không có nơi bằng phẳng nào mà không lồi lõm, không có sự ra đi nào mà không trở lại ; ghi lòng gian khổ, giữ vững chính bền thì sẽ không gặp phải điều cữu hại, không sợ không giữ được điều tín với người, tự sẽ có phúc khánh được thực hưởng bổng lộc”.
- Tượng viết: “Vô vãng bất phục, thiên địa tế dã” - Kẻ ra đi không thể không quay trở lại, nói lên Chín Ba ở ranh giới giao tiếp của “Trời Đất”
41. Giáp Thìn – Thiên Địa Bĩ, hào 3 (41 = 29)
- “Lục Tam, bao tu”.
- “Sáu Ba, được che chở nên làn điều phi đạo lý, cuối cùng đi đến sự hổ nhục”.
- Tượng viết: “Bao tu, vị bất đáng dã” - Được che chở nên làm điều phi đạo lý, nói lên Sáu Ba ngôi vị không chính đáng.
42. Ất Tị - Địa Thiên Thái, hào 2 (42 = 30)
- “Cửu Nhị, bao hoang, dụng bằng hà, bất hà di, đắc thượng vu trung hàng”.
- “Chín Hai, có tấm lòng bao dung như sông lớn, có thể lội qua sông lớn, không bỏ những người ở xa ; và cũng không kết bè phái, có thể giúp đỡ vị quân chủ kiên trì đạo trung”.
- Tượng viết: “’Bao hoang’, ‘đắc thượng vu trung hoàng’, dĩ quang đại dã” – “Có tấm lòng bao dung như sông lớn”, “có thể giúp đỡ đấng quân chủ kiên trì đạo trung”, nói lên đạo đức Chín Hai chính đại quang minh.
43. Bính Ngọ - Sơn Trạch Tổn, hào 2
- “Cửu Nhị, lợi trinh, chung hung ; phất tổn ích chi”.
- “Chín Hai lợi về sự giữ vững chính bền, vội tiến ngày sẽ có hung hiểm ; không làm tổn hại đức của mình thì có thể làm ích cho người trên”.
- Tượng viết: “Cửu Nhị lợi trinh, trung dĩ vi chí dã” – Chín Hai lợi về sự giữ vững chính bền, nói lên nên kiên trì giữ đạo trung làm hướng của mình.
44. Đinh Mùi – Trạch Sơn Hàm, hào 6
- “Thượng Lục, hàm kỳ phụ giáp thiệt”
- “Sáu Trên, cảm bằng lời nói”.
- Tượng viết: “Hàm kỳ phụ giáp thiệt, đằng khẩu thuyết dã” – “Cảm bằng lời nói”, nói lên Sáu Trên chẳng qua được tâng bốc lên bởi những lời rỗng tuếch mà thôi.
45. Mậu Thân – Thủy Hỏa Ký tế, hào 4
- “Lục Tứ, nhu hữu y như, chung nhật giới”
- “Sáu Bốn, quần áo đẹp rồi sẽ biến thành rách nát tả rơi, phải luôn đề phòng họa hoạn”.
- Tượng viết: “Chung nhật giới, hữu sở nghi dã” - Phải luôn đề phòng họa hoạn, nói lên Sáu Bốn đang có sự nghi sợ.
46. Kỷ Dậu – Hỏa Thủy Vị tế, hào 4
- “Cửu Tứ, chinh cát, hối vong ; chấn dụng phạt Quỷ Phương, tam niên hữu thưởng vu đại quốc”.
- “Chín Bốn, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; đánh nước Quỷ Phương với uy thế mạnh mẽ, qua ba năm chiến đấu công thành, được phong thưởng là chư hầu của nước lớn”.
- Tượng viết: “Trinh cát hối vong, chí hành dã” - Giữ vững chính bền hối hận mất hết, nói lên Chín Bốn đang thực hiện chí cầu “tế”.
47. Canh Tuất – Lôi Phong Hằng, hào 6
- “Thượng Lục, chấn hằng, hung”.
- “Sáu Trên, chấn động không yên ở nơi đạo hằng cửu, có hung hiểm”.
- Tượng viết: “Chấn hằng tại thượng, đại vô công dã” - Chấn động không yên ở nơi đạo hằng cửu, mà lại ở cao tại ngôi trên, nói lên Sáu Trên giải quyết mọi việc tất sẽ uổng công vô ích.
48. Tân Hợi – Phong Lôi Ích, hào 2
- “Lục Nhị, hoặc ích chi thập bằng chi quy, phất khắc vi, vĩnh trinh cát ; vương dụng hưởng vu đế, cát”.
- “Sáu Hai, có người cho một con rùa lớn quý đáng giá mười bằng, không từ tạ được, giữ vững chính bền lâu dài thì được tốt lành ; lúc này nhà vua đang tế trời cầu xin giáng phúc tốt lành”.
- Tượng viết: “Hoặc ích chi, tự ngoại lai dã” – “Có người cho (một con rùa lớn quý, đáng giá mười bằng), nói lên Sáu Hai được tăng ích là từ bên ngoài tự đến.
49. Nhâm Tý – Thiên Địa Bĩ, hào 1 (49 = 1)
- “Sơ Lục, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; trinh cát, hanh”.
- “Sáu Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra ; giữ vững chính bền thì được tốt lành, hanh thông”.
- Tượng viết: “Bạt mao trinh dã, chí tại quân dã” - Nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, nói lên ý chí Sáu Đầu giữ chính không muốn tiến, là do nghĩ tới Vua.
50. Quý Sửu – Địa Thiên Thái, hào 4 (50 = 2)
- “Lục Tứ, phiên phiên, bất phú, dỹ kỳ lân bất giới dỹ phu”.
- “Sáu Bốn, dập dừu đi xuống, rỗng không chẳng giầu, với hàng xóm chẳng cần bảo nhau mà đều một lòng thành tín”.
- Tượng viết: “Phiên phiên bất phú, giai thất thực dã ; ‘bất giới dĩ phu’ trung tâm nguyện dã” – “Dập dừu đi xuống, rỗng không chẳng giầu”, nói lên các hào âm ở quẻ trên đều mất đi cái thực của mình ; “chẳng cần phải bảo nhau mà đều một lòng thành tín”, nói lên trong lòng các hào âm đều mang ý nguyện ứng với dưới.
51. Giáp Dần – Thiên Địa Bĩ, hào 2 (51 = 39)
- “Lục Nhị, bao thừa, tiểu nhân cát ; đại nhân phủ, hanh”.
- “Sáu Hai, phải chựu sự bao dung che trở và vâng thuận người trên, là tiểu nhân thì tốt lành ; là đại nhân mà phủ định đạo này thì hanh thông”.
- Tượng viết: “Đại nhân phủ, hanh, bất loạn quần dã” - Đại nhân mà phủ định đạo này thì hanh thông, nói lên ý không để cho bọn tiểu nhân làm loạn.
52. Ất Mão – Địa Thiên Thái, hào 3 (52 = 40)
- “Cửu Tam, vô bình bất bì, vô vãng bất phục ; gian trinh vô cữu, vật tuất kỳ phu, vu thực hữu phúc”.
- “Chín Ba, không có nơi bằng phẳng nào mà không lồi lõm, không có sự ra đi nào mà không trở lại ; ghi lòng gian khổ, giữ vững chính bền thì sẽ không gặp phải điều cữu hại, không sợ không giữ được điều tín với người, tự sẽ có phúc khánh được thực hưởng bổng lộc”.
- Tượng viết: “Vô vãng bất phục, thiên địa tế dã” - Kẻ ra đi không thể không quay trở lại, nói lên Chín Ba ở ranh giới giao tiếp của “Trời Đất”
53. Bính Thìn – Sơn Trạch Tổn, hào 1
- “Sơ Cửu, dĩ sự xuyền vãng, vô cữu, chước tổn chi”.
- “Chín Đầu, hoàn thành việc tự tu dưỡng, liền mau chóng đi lên giúp cho người ở ngôi cao, tất không có cữu hại ; nên châm chước giảm bớt chất cứng của bản thân”.
- Tượng viết: “Dĩ sự xuyền vãng, thượng hợp chí dã” – Thành việc tu dưỡng bản thân rồi đi giúp người trên cao, nói lên Chín Đầu tâm chí hợp nhất với bậc tôn trưởng.
54. Đinh Tị - Trạch Sơn Hàm, hào 1
- “Sơ Lục, hàm kỳ mẫu”.
- “Sáu Đầu, giao cảm ở ngón chấn cái”.
- Tượng viết: “Hàm kỳ mẫu, chí tại ngoại dã” – Giao cảm ở ngón chân cái, nói lên chí hướng của Sáu Đầu phát triển ra phía ngoài.
55. Mậu Ngọ - Thủy Hỏa Ký tế, hào 3 (ý thông 46)
- “Cửu Tam, Cao Tông phạt Quỷ Phương, tam niên khắc chi ; tiểu nhân vật dụng”.
- “Sáu Ba, vua Ân Cao Tông đánh nước Quỷ Phương, kéo dài ba năm cuối cùng mới thắng ; không thể dùng kẻ tiểu nhân nóng vội gấp tiến”.
- Tượng viết: “Tam niên khắc chi, bị dã” – Kéo dài ba năm cuối cùng mới thắng, nói lên Chín Ba nỗ lực, bền bỉ tới mức sức lực cùng kiệt.
56. Kỷ Mùi – Hỏa Thủy Vị tế, hào 5
- “Lục Ngũ, trinh cát, vô hối ; quân tử chi quang, hữu phu cát”.
- “Sáu Năm, giữ vững chính bền thì được tốt lành, không có gì phải hối hận ; đây là do sự sáng của người quân tử, (lại thêm) trong lòng thành tín mà được tốt lành.
- Tượng viết: “Quân tử chi quang, kỳ huy cát dã” - Sự sáng của người quân tử, dụ chỉ sự rực lên những tia sáng của Sáu Năm, là thể hiện của sự tốt lành.
57. Canh Thân – Lôi Phong Hằng, hào 5
- “Lục Ngũ, hằng kỳ đức, trinh ; phụ nhân cát, phu tử hung”.
- “Sáu Năm, muốn thường giữ phẩm đức mềm đẹp, nên giữ vững chính bền ; đàn bà thì được tốt lành, đàn ông tất có hung hiểm”.
- Tượng viết: “Phụ nhân trinh cát, tòng nhất nhi chung dã ; phu tử chế nghĩa, tòng phụ hung dã” – “Đàn bà giữ vững chính bền thì được tốt lành”, nói lên cần suốt đời thuận tòng một bề theo một chồng ; đàn ông phải điều hành mọi việc sao cho thích hợp, nếu mềm thuận như đàn bà thì tất có hung hiểm.
58. Tân Dậu – Phong Lôi Ích, hào 3
- “Lục Tam, ích chi dụng hung sự, vô cữu ; hữu phu trung hàng, cáo công dụng khuê”
- “Sáu Ba, nhận “ích” phần lớn phải dấn thân để cứu người khỏi điều ác, giải trừ hiểm nguy (như vậy) mới không lỗi ; tất phải giữ lòng thành tín, giữ đạo trung, thận trọng trong công việc, lúc nào cũng phải như tay cầm Ngọc khuê tâu việc với bậc vương công”.
- Tượng viết: “Ích dụng hung sự, cố hữu chi dã” - Nhận “ích” rất nhiều nên nỗ lực dấn thân vào việc “cứu hung bình hiểm”. Như vậy Sáu Ba mới có thể giữ “ích” đã nhận được một cách chắc chắn.
59. Nhâm Tuất – Thiên Địa Bĩ, hào 6 (59 = 11)
- “Thượng Cửu, khuynh bĩ ; tiên bĩ hậu hỷ”
- “Chín Trên, đánh đổ được “bĩ bế” ; trước còn bĩ bế, sau thì “thông thái” mừng vui”.
- Tượng viết: “Bĩ chung tắc khuynh, hà khả trường dã” – Bĩ bế lúc cùng cực tất đi đến đổ, làm sao giữ được lâu dài.
60. Quý Hợi – Địa Thiên Thái, hào 5 (60 – 12)
- “Lục Ngũ, Đế Ất quy muội, dĩ chỉ nguyên cát”.
- “ Sáu Năm, vua Đế Ất cho em gái về nhà chồng, như thế là có phúc trạch, hết sức tốt lành”.
- Tượng viết: “Dĩ chỉ nguyên cát, trung dĩ hành nguyện dã” – “Như thế là có phúc trạch, hết sức tốt lành”, nói lên Sáu Năm ở ngôi giữa không thiên lệch, thực hiện ý nguyện ứng dưới.
...............................MÔNG
.....VÔ VỌNG............................ĐẠI TRÁNG
...THĂNG...................+....................KIỂN
......KHUÊ...................................QUAN
...............................CÁCH
1. Giáp Tý – Phong Địa Quán, hào 1 (1 ~ 49)
- “Sơ Lục, đồng quán, tiểu nhân vô cữu, quân tử lận.”
- “Sáu Đầu, như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, tiểu nhân không nguy hại gì, quân tử tất có hối tiếc.”
- Tượng “Sơ Lục đồng quán, tiểu nhân đạo dã.” – Như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, đây là cái lẽ sự hiểu biết nông cạn của kẻ tiểu nhân.
2. Ất Sửu – Lôi Thiên Đại tráng, hào 4 (2 ~ 50)
- “Cửu Tứ, trinh cát, hối vong ; phiên quyết bất luy, tráng vu đại dư chi phúc.”
- “Chín Bốn, giữ vững chính bền thì được tốt lành, sự hối hận tất sẽ mất hết ; cũng như phên giậu dễ bị bật tung nên sừng dê không bị mắc vào nữa, như cỗ xe lớn trục xe vững vàng.”
- Tượng “Phiên quyết bất luy, thượng vãng dã.” – Phên giậu đã bị bật tung nên sừng không bị mắc vào nữa, nói lên Chín Bốn lợi về sự đi.
3. Bính Dần - Hỏa Trạch Khuê, hào 6
- “Thượng Cửu, khuê cô, kiến thỉ phụ đồ, tải quỷ nhất xa, tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ ; phỉ khấu, hôn cấu ; vãng ngộ vũ tắc cát.”
- “Chín Trên, trái lìa hết mức, cô độc hồ nghi, hoảng hốt như nhìn thấy con lợn lưng bám đầy bùn, lại thấy như một cỗ xe lớn chở đầy quỷ đang chạy, thoạt tiên thì dương cung muốn bắn, sau lại buông cung xuống ; thì ra không phải là giặc mạnh, mà là một cô gái đẹp tới kết hôn với mình ; lúc này mà đi gặp cơn mưa lành, hòa hợp âm dương thì được tốt lành.”
- Tượng “Ngộ vũ chi cát, quần nghi vong dã.” - Gặp cơn mưa lành, hòa hợp âm dương thì được tốt lành, nói lên mọi điều ức đoán, nghi ngờ của Chín Trên đều bị tiêu tan.
4. Đinh Mão - Thủy Sơn Kiển, hào 2
- “Lục Nhị, vương thần kiển kiển, phỉ cung chi cố.”
- “Sáu Hai, người bề tôi của đấng quân vương ra sức bôn tẩu để vượt qua “kiển nạn”, không phải vì bản thân.”
- Tượng “Vương thần kiển kiển, chung vô cữu dã.” - Người bề tôi của đấng quân vương ra sức bôn tẩu để vượt qua kiển nạn, nói lên Sáu Hai cuối cùng sẽ không lỗi.
5. Mậu Thìn - Trạch Hỏa Cách, hào 2
- “Lục Nhị, kỷ nhật nãi cách chi, chinh cát, vô cữu.”
- “Sáu Hai, vào “ngày Kỷ” phải chuyển biến gấp thì phải quả đoán mà tiến hành biến cách, tiến lên phía trước tất có sự tốt lành, không bị cữu hại.”
- Tượng “Kỷ nhật cách chi, hành hữu giai dã.” – Vào ngày Kỷ thì phải chuyển biến gấp, nói lên Sáu Hai gắng đi lên tất có công tốt đẹp.
6. Kỷ Tị - Sơn Thủy Mông – hào 6
- “Thượng Cửu, kích mông ; bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu.”
- “Chín Trên, làm mạnh để mở mang sự ngu tối ; không lợi về sự dùng cách thức quá dữ dằn, cách này chỉ nên dùng để ngừa giặc mạnh.”
- Tượng “Lợi dụng ngự khấu, thượng hạ thuận dã.” - Lợi nếu dùng cách ngừa giặc mạnh để trừ sự ngu tối, là nói rằng có thể khiến cho ý chí trên dưới hài hòa, ứng thuận.
7. Canh Ngọ - Địa Phong Thăng, hào 4
- “Lục Tứ, vương dụng hưởng vu Kỳ Sơn, cát, vô cữu.”
- “Sáu Bốn, nhà vua đến núi Kỳ Sơn tế thần linh, tốt lành, tất không cữu hại.”
- Tượng “Vương dụng hưởng vu Kỳ Sơn, thuận sự dã.” – Nhà Vua đến núi Kỳ Sơn tế thần linh, nói lên Sáu Bốn phải thuận theo nhà Vua lập công lập việc.
8. Tân Mùi – Thiên Lôi Vô vọng, hào 4
- “Cửu Tứ, khả trinh, vô cữu.”
- “Chín Bốn, có thể giữ vững chính bền, do đó tất không bị cữu hại.”
- Tượng “Khả trinh vô cữu, cố hữu chi dã.” – Có thể giữ vững chính bền, nói lên Chín Bốn phải nắm bắt được cái bền, giữ được cái chính, mới có thể bảo tồn được sự vô hại lâu dài.
9. Nhâm Thân – Phong Địa Quán, hào 5 (9 ~ 21)
- “Cửu Ngũ, quán ngã sinh, quân tử vô cữu.”
- “Chín Năm, được mọi người ngẩng trông đồng thời tự xét hành vi của mình, người quân tử tất vô cữu hại.”
- Tượng “Quán ngã sinh, quán dân dã.” - Được mọi người ngẩng trông và tự xét hành vi của mình, nói lên Chín Năm nên thông qua sự quan sát phong tục của dân mà từ xét mình.
10. Quý Dậu – Lôi Thiên Đại tráng, hào 6 (10 ~ 22)
- “Thượng Lục, đê dương xúc phiên, bất năng thoái, bất năng toại, vô du lợi ; gian tắc cát.”
- “Sáu Trên, dê lớn húc giậu, không thể lui, không thể tiến, không có gì là lợi ; tự giữ vững lòng trinh thì được tốt lành.”
- Tượng “Bất năng thoái, bất năng toại, bất tường dã ; gian tắc cát, cữu bất trường dã.” – Không thể lui không thể tiến, nói lên Sáu Trên giải quyết công việc không tường tận kỹ lưỡng ; Tự giữ vững lòng trinh thì được tốt lành, nói lên Sáu Trên gặp cữu hại không đến nỗi lâu dài.
11. Giáp Tuất – Phong Địa Quán, hào 6 (11 ~ 59)
- “Thượng Cửu, quán kỳ sinh, quân tử vô cữu.”
- “Chín Trên, mọi người đều ngẩng trông mọi hành vi của nó, người quân tử tất vô cữu hại.”
- Tượng “Quán kỳ sinh, chí vị bình dã.” - Mọi người đều ngẩng trông mọi hành vi của nó, nói lên tâm chí sửa đức của Chín Trên chưa thể yên vui thư thái được.
12. Ất Hợi – Lôi Thiên Đại tráng, hào 5 (12 ~ 60)
- “Lục Ngũ, táng dương vu dị, vô hối.”
- “Sáu Năm, mất dê ở bờ ruộng, không có gì hối hận.”
- Tượng “Táng dương vu dị, vị bất đáng dã.” - Mất dê ở bờ ruộng, nói lên ngôi của Sáu Năm không thích đáng.
13. Bính Tý - Hỏa Trạch Khuê, hào 5
- “Lục Ngũ, hối vong, quyết tông phệ phu, vãng hà cữu.”
- “Sáu Năm, hối hận mất hết, kẻ trong họ thân ứng với nó, cắn vào da mềm giòn của nó (như với ý hòa thuận mong được gặp gỡ), đi lên thì sao mà cữu hại được?
- Tượng “Quyết tông phệ phu, vãng hữu khánh dã.” - Kẻ trong họ thân ứng với nó (như) cắn vào da mềm giòn của nó, nói lên lúc này Sáu Năm mà đi tất vui.
14. Đinh Sửu - Thủy Sơn Kiển, hào 3
- “Cửu Tam, vãng kiển, lai phản,”
- “Chín Ba, tiến lên thì gian nan, quay lại là trở về nơi chốn của mình.”
- Tượng “Vãng kiển lai phản, nội hỷ chi dã.” - Tiến lên thì gian nan, quay trở lại là trở về nơi chốn của mình, nói lên các hào âm mềm ở trong quẻ đều vui mừng thấy Chín Ba quay lại.
15. Mậu Dần - Trạch Hỏa Cách, hào 1
- “Sơ Cửu, củng dụng hoàng ngưu chi cách.”
- “Chín Đầu, nên bó chặt bằng da con bò vàng.”
- Tượng “Củng dụng hoàng ngưu, bất khả dĩ hữu vi dã.” – Bó chặt bằng da bò, nói lên Chín Đầu không thể bạ việc gì cũng làm bừa làm càn để biến cách.
16. Kỷ Mão – Sơn Thủy Mông, hào 1
- “Sơ Lục, phát mông, lợi dụng hình nhân, dụng thoát chất cốc ; dĩ vãng lận.”
- “Sáu Đầu, mở mang đầu óc, lợi ở chỗ tạo dựng ra khuôn mẫu để giáo dục người, khiến cho người ta không phạm tội ác ; nếu đi lên quá mức tất sẽ hối tiếc.”
- Tượng “Lợi dụng hình nhân, dĩ chính pháp dã.” - Lợi ở chỗ tạo dựng ra khuôn mẫu để giáo dục người, là để mọi người tuân theo các phép tắc đúng đắn.
17. Canh Thìn - Địa Phong Thăng, hào 3
- “Cửu Tam, thăng hư ấp.”
- “Chín Ba, lên cao dễ dàng như vào thẳng nơi thành ấp không người.”
- Tượng “Thăng hư ấp, vô sở nghi dã.” – Lên cao dễ dàng như vào nơi không người, nói lên lúc này Chín Ba “thượng thăng” sẽ không có điều gì phải nghi ngờ suy nghĩ.
18. Tân Tị - Thiên Lôi Vô vọng, hào 5
- “Cửu Ngũ, vô vọng chi tật, vật dược hữu hỷ.”
- “Chín Năm, không càn bậy mà bị bệnh nhẹ, không cần phải uống thuốc mà sẽ vui vì khỏi bệnh.”
- Tượng “Vô vọng chi dược, bất khả thí dã.” – Không càn bậy mà bị bệnh nhưng không cần phải uống thuốc, đó là vì không thể dùng thử linh tinh. “Bất khả thí” - tức không được thử thuốc. Thuốc công hiệu với những kẻ làm càn, mà không công hiệu với những ai không làm càn, cho nên nói “bất khả thí” vậy.
19. Nhâm Ngọ - Phong Địa Quán, hào 4 (19 ~ 31)
- “Lục Tứ, quán quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương.”
- “Sáu Bốn, ngẩng trông sự rực rỡ thịnh trị của vương triều, lợi khi thành quý khách của bậc quân vương.”
- Tượng “Quán quốc chi quang, thượng tân dã.” - Ngẩng trông sự rực rỡ thịnh trị của vương triều, nói lên ý thời này đất nước đã chính thức có lễ tỏ lòng chuộng hiền khách.
20. Quý Mùi – Lôi Thiên Đại tráng, hào 1 (20 ~ 32)
- “Sơ Cửu, tráng vu chỉ, chinh hung ; hữu phu.”
- “Chín Đầu, mạnh ở ngón chân, đi lên tất có hung hiểm ; nên lấy sự thành tín tự giữ.”
- Tượng “Tráng vu chỉ, kỳ phu cùng dã.” - Mạnh ở ngón chân, nói lên Chín Đầu nên lấy sự thành tín tự giữ, khéo sử lý sự cùng khốn.
21. Giáp Thân – Phong Địa Quán, hào 5 (21 ~ 9)
- “Cửu Ngũ, quán ngã sinh, quân tử vô cữu.”
- “Chín Năm, được mọi người ngẩng trông đồng thời tự xét hành vi của mình, người quân tử tất vô cữu hại.”
- Tượng “Quán ngã sinh, quán dân dã.” - Được mọi người ngẩng trông và tự xét hành vi của mình, nói lên Chín Năm nên thông qua sự quan sát phong tục của dân mà từ xét mình.
22. Ất Dậu – Lôi Thiên Đại tráng, hào 6 (22 ~ 10)
- “Thượng Lục, đê dương xúc phiên, bất năng thoái, bất năng toại, vô du lợi ; gian tắc cát.”
- “Sáu Trên, dê lớn húc giậu, không thể lui, không thể tiến, không có gì là lợi ; tự giữ vững lòng trinh thì được tốt lành.”
- Tượng “Bất năng thoái, bất năng toại, bất tường dã ; gian tắc cát, cữu bất trường dã.” – Không thể lui không thể tiến, nói lên Sáu Trên giải quyết công việc không tường tận kỹ lưỡng ; Tự giữ vững lòng trinh thì được tốt lành, nói lên Sáu Trên gặp cữu hại không đến nỗi lâu dài.
23. Bính Tuất - Hỏa Trạch Khuê, hào 4
- “Cửu Tứ, khuê cô ; ngộ nguyên phu, giao phu, lệ vô cữu.”
- “Chín Bốn, chống đối, chia lìa, thui thủi một mình ; gặp chàng trai tốt dương cứng mà đối xử thành tín với nhau, thì tuy có nguy hiểm nhưng tránh được cữu hại.”
- Tượng “Giao phu vô cữu, chí hành dã.” - Đối xử thành tín với nhau, thì tuy có nguy hiểm, nhưng lại tránh được cữu hại, nói lên chí hướng của Chín Bốn được thực hành để qua được thời khuê.
24. Đinh Hợi - Thủy Sơn Kiển, hào 4
- “Lục Tứ, vãng kiển, lai liên.”
- “Sáu Bốn, tiến lên thì gian nan, quay lại gặp gian nan.”
- Tượng “Vãng kiển lai liên, vị đáng thực dã.” - Tiến lên thì gặp kiển nạn, quay lại lại gặp gian nan, nói lên Sáu Bốn chính là đáng ngôi thật (kiển nạn không phải đưa lại một cách vu vơ)
25. Mậu Tý - Trạch Hỏa Cách, hào 6
- “Thượng Lục, quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện ; chinh hung, cư trinh cát.”
- “Sáu Trên, người quân tử như được con báo đốm giúp đã làm nên sự biến cách, kẻ tiểu nhân đua nhau thay đổi khuynh hướng thời trước ; lúc này nếu cứ tiếp tục tiến mạnh không thôi, tất có hung hiểm, ở yên giữ chính thì được tốt lành.”
- Tượng “Quân tử báo biến, kỳ văn úy dã ; tiểu nhân cách diện, thuận dĩ tòng quân dã.” - Người quân tử như được con báo đốm giúp đã làm nên sự biến cách, nói lên mỹ đức của Sáu Trên nhân vì vẻ tươi tắn sáng sủa của bậc đại nhân mà thành ra rực rỡ ; kẻ tiểu nhân đua nhau thay đổi khuynh hướng thời trước, đây là thuận tòng sự biến cách của nhà vua.
26. Kỷ Sửu – Sơn Thủy Mông, hào 2
- “Cửu Nhị, bao mông, cát. Nạp phụ, cát ; tử khắc gia.”
- “Chín Hai, được trẻ nhỏ vậy quanh, tốt lành. Như đón được người vợ hiền thục đẹp đẽ về nhà, tốt lành ; lại như người con coi sóc được việc nhà.”
- Tượng “Tử khắc gia, cương nhu tiếp dã.” - Người con coi sóc được việc nhà, nói lên Chín Hai dương cứng ứng với Sáu Năm âm mềm.
27. Canh Dần - Địa Phong Thăng, hào 2
- “Cửu Nhị, phu nãi lợi dụng Thược, vô cữu.”
- “Chín Hai, chỉ cần lòng giữ thành tín thì dù làm lễ “tế Thược” đơn sơ, cũng lợi về sự dâng tiến lên thần linh, không đến nỗi cữu hại.”
- Tượng “Cửu Nhị chi phu, hữu hỷ dã.” - Đức đẹp thành tín của Chín Hai tất sẽ đem lại sự vui mừng, phúc khánh.
28. Tân Mão – Thiên Lôi Vô vọng, hào 6
- “Thượng Cửu, vô vọng, hành hữu sảnh, vô du lợi.”
- “Chín Trên, tuy không làm bậy nhưng ở thế cùng mà đi thì tất gặp họa, không được lợi gì.”
- Tượng “Vô vọng chi hành, cùng chi tai dã.” – Chín Trên tuy không làm bậy nhưng nếu có sự đi, thì sẽ do thế cùng, khó thông mà gặp phải tai ương.
29. Nhâm Thìn – Phong Địa Quán, hào 3 (29 ~ 41)
- “Lục Tam, quán ngã sinh, tiến thoái.”
- “Sáu Ba, ngẩng trông đức đẹp của dương cứng rồi đối chiếu, tự xét hành vi của mình mà cẩn thận lựa chọn sự tiến lui.”
- Tượng “Quán ngã sinh tiến thoái, vị thất đạo dã.” - Ngẩng trông rồi đối chiếu tự xét hành vi của mình, nói lên Sáu Ba không để mất sự chính xác của đạo “ngẩng trông”.
30. Quý Tị - Lôi Thiên Đại tráng, hào 2 (30 ~ 42)
- “Cửu Nhị, trinh cát.”
- “Chín Hai, giữ vững chính (bền) thì được tốt lành.”
- Tượng “Cửu Nhị trinh cát, dĩ trung dã.” – Chín Hai giữ chính thì được tốt lành, đó là bởi do nguyên cớ dương cứng ở ngôi giữa.
31. Giáp Ngọ - Phong Địa Quan, hào 4 (31 ~ 19)
- “Lục Tứ, quán quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương.”
- “Sáu Bốn, ngẩng trông sự rực rỡ thịnh trị của vương triều, lợi khi thành quý khách của bậc quân vương.”
- Tượng “Quán quốc chi quang, thượng tân dã.” - Ngẩng trông sự rực rỡ thịnh trị của vương triều, nói lên ý thời này đất nước đã chính thức có lễ tỏ lòng chuộng hiền khách.
32. Ất Mùi – Lôi Thiên Đại tráng, hào 1 (32 ~ 20)
- “Sơ Cửu, tráng vu chỉ, chinh hung ; hữu phu.”
- “Chín Đầu, mạnh ở ngón chân, đi lên tất có hung hiểm ; nên lấy sự thành tín tự giữ.”
- Tượng “Tráng vu chỉ, kỳ phu cùng dã.” - Mạnh ở ngón chân, nói lên Chín Đầu nên lấy sự thành tín tự giữ, khéo sử lý sự cùng khốn.
33. Bính Thân - Hỏa Trạch Khuê, hào 3
- “Lục Tam, kiến dư duệ, kỳ ngưu xiết ; kỳ nhân thiên thả tị. Vô sơ hữu chung.”
- “Sáu Ba, dường như nhìn thấy cỗ xe lớn bị kéo khó đi, trâu kéo xe bị cản không tiến được, như người bị khốc hình gọt tóc, xẻo mũi. Mới đầu trái lìa, sau sẽ hòa hợp.”
- Tượng “Kiến dư duệ, vị bất đáng dã ; vô sơ hữu chung, ngộ cương dã.” - Dường như thấy cỗ xe lớn bị kéo khó đi, đây là do ngôi của Sáu Ba ở nơi không thích hợp gây nên ; Mới đầu trái lìa, sau sẽ hòa hợp, nói lên cuối cùng Sáu Ba tất gặp được hào dương cứng tương ứng.
34. Đinh Dậu - Thủy Sơn Kiển, hào 5
- “Cửu Ngũ, đại kiển, bằng lai.”
- “Chín Năm, đi thì mười phần gian nan, bè bạn tấp nập kéo đến giúp đỡ.”
- Tượng “Đại kiển bằng lai, dĩ trung tiết dã.” – Đi thì mười phần gian nan, bạn bè tấp nập kéo đến giúp đỡ, nói lên Chín Năm giữ khí tiết dương cứng trung chính.
35. Mậu Tuất - Trạch Hỏa Cách, hào 5
- “Cửu Ngũ, đại nhân hổ biến, vị chiêm hữu phu.”
- “Chín Năm, bậc đại nhân tiến hành biến cách như con mãnh hổ, không nghi ngờ gì nữa, tất sẽ làm sáng tỏ đức đẹp thành tín, chân thực.”
- Tượng “Đại nhân hổ biến, kỳ văn bỉnh dã.” - Bậc đại nhân tiến hành biến cách như con mãnh hổ, nói lên đức đẹp của Chín Năm mang mầu vẻ đẹp đẽ.
36. Kỷ Hợi – Sơn Thủy Mông, hào 3
- “Lục Tam, vật dụng thủ nữ, kiến kim phu, bất hữu cung, vô du lợi.”
- “Sáu Ba, không nên lấy người con gái này, trong mắt cô ta chỉ thấy người chồng đẹp mã thôi, không biết giữ mình, lấy cô ta không có lợi gì hết.”
- Tượng “Vật dụng thủ nữ, hạnh bất thuận dã.” – Không nên lấy người con gái này, nói lên Sáu Ba có đức hạnh không hợp với lễ tiết.
37. Canh Tý - Địa Phong Thăng, hào 1
- “Sơ Lục, doãn thăng, đại cát.”
- “Sáu Đầu, thích hợp về sự cao, hết sức tốt lành.”
- Tượng “Doãn thăng đại cát, thượng hợp chí dã.” – Thích hợp về sự lên cao, hết sức tốt lành, nói lên Sáu Đầu đội trên mà thuận hợp với tâm chí của hai hào dương rồi cùng “thăng”.
38. Tân Sửu – Thiên Lôi Vô vọng, hào 1
- “Sơ Cửu, vô vọng, vãng cát.”
- “Chín Đầu, không làm càn, đi tất sẽ được tốt lành.”
- Tượng “Vô vọng chi vãng, đắc chí dã.” – Không làm càn mà đi, ý nói Chín Đầu tất nhiên được toại ý tiến thủ.
39. Nhâm Dần – Phong Địa Quan, hào 2 (39 ~ 51)
- “Lục Nhị, khuy quán, lợi nữ trinh.”
- “Sáu Hai, lén ngẩng trông cảnh vật đẹp thịnh, lợi cho người con gái giữ vững chính bền.”
- Tượng “Khuy quán nữ trinh, diệc khả xú dã.” – Lén ngẩng trông cảnh vật đẹp thịnh, lợi cho người con gái, còn đối với người con trai mà nói là đáng xấu hổ vậy.
40. Quý Mão – Lôi Thiên Đại tráng, hào 3 (40 ~ 52)
- “Cửu Tam, tiểu nhân dụng tráng, quân tử dụng võng ; trinh lệ, đê dương xúc phiên, luy kỳ giác.”
- “Chín Ba, kẻ tiểu nhân dùng bừa sức mạnh, quân tử tuy mạnh nhưng không thế ; giữ vững chính để phòng nguy hiểm, nếu như con dê lớn mà húc mạnh vào giậu thì tất bị mắc sừng.”
- Tượng “Tiểu nhân dụng tráng, quân tử võng dã.” - Tiểu nhân dùng bừa sức mạnh, người quân tử tuy mạnh nhưng không thế.
41. Giáp Thìn – Phong Địa Quán, hào 3 (29 ~ 41)
- “Lục Tam, quán ngã sinh, tiến thoái.”
- “Sáu Ba, ngẩng trông đức đẹp của dương cứng rồi đối chiếu, tự xét hành vi của mình mà cẩn thận lựa chọn sự tiến lui.”
- Tượng “Quán ngã sinh tiến thoái, vị thất đạo dã.” - Ngẩng trông rồi đối chiếu tự xét hành vi của mình, nói lên Sáu Ba không để mất sự chính xác của đạo “ngẩng trông”.
42. Ất Tị - Lôi Thiên Đại tráng, hào 2 (42 ~ 30)
- “Cửu Nhị, trinh cát.”
- “Chín Hai, giữ vững chính (bền) thì được tốt lành.”
- Tượng “Cửu Nhị trinh cát, dĩ trung dã.” – Chín Hai giữ chính thì được tốt lành, đó là bởi do nguyên cớ dương cứng ở ngôi giữa.
43. Bính Ngọ - Hỏa Trạch Khuê, hào 2
- “Cửu Nhị, ngộ chủ vu hạng, vô cữu.”
- “Chín Hai, trong ngõ không hẹn mà gặp chủ, tất không cữu hại.”
- Tượng “Ngộ chủ vu hạng, vị thất đạo dã.” – Trong ngõ không hẹn mà gặp chủ, nói lên Chín Hai chưa từng phạm vào cách xử sự ở thời Khuê.
44. Đinh Mùi - Thủy Sơn Kiển, hào 6
- “Thượng Lục, vãng kiển, lai thạc ; cát, lợi hiện đại nhân.”
- “Sáu Trên, đi lên thì gian nan, quay lại có thể lập công lớn ; tốt lành, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”
- Tượng “Vãng kiển lai thạc, chí tại nội dã ; lợi hiện đại nhân, dĩ tòng quý dã.” – Đi lên thì gian nan, nói lên chí hướng của Sáu Trên là liên hợp bên trong cùng nhau vượt gian nan ; Lợi về sự xuất hiện đại nhân, nói lên Sáu Trên nên theo giúp bậc quân chủ dương cứng tôn quý.
45. Mậu Thân - Trạch Hỏa Cách, hào 4
- “Cửu Tứ, hối vong, hữu phu cải mệnh, cát.”
- “Chín Bốn, hối hận mất hết, giữ lòng thành tín để cách trừ (vương) mệnh cũ, tốt lành.”
- Tượng “Cải mệnh chi cát, tín chí dã.” – Cách (vương) mệnh cũ thì được tốt lành, nói lên Chín Bốn thực hiện chí biến cách.
46. Kỷ Dậu – Sơn Thủy Mông, hào 4 (Khốn vòng 2)
- “Lục Tứ, khốn mông, lận.”
- “Sáu Bốn, khốn vì tăm tối, có sự hối tiếc.”
- Tượng “Khốn mông chi lận, độc viễn thực dã.” - Hối tiếc do khốn vì tăm tối, nói lên Sáu Bốn cách xa “mông sư” cứng, khỏe, vững.
47. Canh Tuất - Địa Phong Thăng, hào 6
- “Thượng Lục, minh thăng, lợi vu bất tức chi trinh.”
- “Sáu Trên, mê muội cùng cực lại cứ muốn lên cao, lợi về sự giữ vững chính bền không ngừng nghỉ.”
- Tượng “Minh thăng tai thượng, tiêu bất phú dã.” – Mê muội cùng cực lại vẫn cứ muốn lên cao, nói lên xu thế phát triển của Sáu Trên tất sẽ tiêu mòn, không thể giầu thịnh.
48. Tân Hợi – Thiên Lôi Vô vọng, hào 2
- “Lục Nhị, bất canh hoạch, bất tri dư, tắc lợi hữu du vãng.”
- “Sáu Hai, không cầy và làm cỏ thì không được thu hoạch; không khai khẩn thì không có được ruộng tốt, như vậy lợi về có sự đi.”
- Tượng “Bất canh hoạch, vị phú dã.” – Không cầy và làm cỏ thì không được thu hoạch, nói lên ý Sáu Hai chưa từng mưu cầu sự giầu sang phú quý.
49. Nhâm Tý – Phong Địa Quán, hào 1 (49 ~ 1)
- “Sơ Lục, đồng quán, tiểu nhân vô cữu, quân tử lận.”
- “Sáu Đầu, như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, tiểu nhân không nguy hại gì, quân tử tất có hối tiếc.”
- Tượng “Sơ Lục đồng quán, tiểu nhân đạo dã.” – Như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, đây là cái lẽ sự hiểu biết nông cạn của kẻ tiểu nhân.
50. Quý Sửu – Lôi Thiên Đại tráng, hào 4 (50 ~ 2)
- “Cửu Tứ, trinh cát, hối vong ; phiên quyết bất luy, tráng vu đại dư chi phúc.”
- “Chín Bốn, giữ vững chính bền thì được tốt lành, sự hối hận tất sẽ mất hết ; cũng như phên giậu dễ bị bật tung nên sừng dê không bị mắc vào nữa, như cỗ xe lớn trục xe vững vàng.”
- Tượng “Phiên quyết bất luy, thượng vãng dã.” – Phên giậu đã bị bật tung nên sừng không bị mắc vào nữa, nói lên Chín Bốn lợi về sự đi.
51. Giáp Dần – Phong Địa Quán, hào 2 (51 ~ 39)
- “Lục Nhị, khuy quán, lợi nữ trinh.”
- “Sáu Hai, lén ngẩng trông cảnh vật đẹp thịnh, lợi cho người con gái giữ vững chính bền.”
- Tượng “Khuy quán nữ trinh, diệc khả xú dã.” – Lén ngẩng trông cảnh vật đẹp thịnh, lợi cho người con gái, còn đối với người con trai mà nói là đáng xấu hổ vậy.
52. Ất Mão – Lôi Thiên Đại tráng, hào 3 (52 ~ 40)
- “Cửu Tam, tiểu nhân dụng tráng, quân tử dụng võng ; trinh lệ, đê dương xúc phiên, luy kỳ giác.”
- “Chín Ba, kẻ tiểu nhân dùng bừa sức mạnh, quân tử tuy mạnh nhưng không thế ; giữ vững chính để phòng nguy hiểm, nếu như con dê lớn mà húc mạnh vào giậu thì tất bị mắc sừng.”
- Tượng “Tiểu nhân dụng tráng, quân tử võng dã.” - Tiểu nhân dùng bừa sức mạnh, người quân tử tuy mạnh nhưng không thế.
53. Bính Thìn - Hỏa Trạch Khuê, hào 1
- “Sơ Cửu, hối vong ; táng mã, vật trục tự phục ; kiến ác nhân, vô cữu.”
- “Chín Đầu, hối hận tiêu vong, ngựa chạy mất, chớ đuổi theo, bình tĩnh chờ nó tự trở về, khiêm tốn tiếp kẻ ác đối lập với mình, không bị cữu hại.”
- Tượng “Kiến ác nhân, dĩ tị cữu dã.” – Khiêm tốn tiếp kẻ ác đối lập với mình, là để tránh sự cữu hại do sự trái lìa gây nên.
54. Đinh Tị - Thủy Sơn Kiển, hào 1
- “Sơ Lục, vãng kiển, lai dự.”
- “Sáu Đầu, tiến lên thì gian nan, trở lại ắt được khen.”
- Tượng “Vãng kiển lai dự, nghi đãi dã.” - Tiến lên thì gian nan, trở lại thì được khen, nếu nói như vậy thì Sáu Đầu nên chờ đợi thời cơ.
55. Mậu Ngọ - Trạch Hỏa Cách, hào 3
- “Cửu Tam, chinh hung, trinh lệ ; cách ngôn tam tựu, hữu phu.”
- “Chín Ba, gấp vội cầu tiến tất sinh “hung”, giữ chính phòng nguy hiểm ; khi biến cách bước đầu đã thành hiệu cần phải nhiều lần đi xuống làm theo lòng dân, yên định đại cục, xử sự phải giữ lòng thành tín.”
- Tượng “Cách ngôn tam tựu, hựu hà chi hỹ.” – Khi sự biến cách bước đầu đã thành hiệu, nói lên tại thời điểm này, Chín Ba hà tất phải quá vội vàng đi lên!
56. Kỷ Mùi – Sơn Thủy Mông, hào 5
- “Lục Ngũ, đồng mông, cát.”
- “Sáu Năm, trẻ nhỏ chưa biết gì, chính thế lại dễ dạy, tốt lành.”
- Tượng “Đồng mông chi cát, thuận dĩ tốn dã.” - Trẻ nhỏ chưa biết gì, nói lên Sáu Năm cung kính, nhu thuận, khiêm tốn với thầy dạy.
57. Canh Thân - Địa Phong Thăng, hào 5
- “Lục Ngũ, trinh cát, thăng giai.”
- “Sáu Năm, giữ vững chính bền thì tốt lành, giống như cứ từng bậc một mà lên cao.”
- Tượng “Trinh cát thăng giai, đại đắc chí dã.” - Từng bậc một mà tiến lên cao, nói lên Sáu Năm đã hết sức toại nguyện với tâm chí lên cao của bản thân.
58. Tân Dậu – Thiên Lôi Vô vọng, hào 3
- “Lục Tam, vô vọng chi tai: hoặc hệ chi ngưu, hành nhân chi đắc, ấp nhân chi tai.”
- “Sáu Ba, không làm càn mà bị tai ương: ví như có người buộc một con trâu, người đi đường dắt về làm của mình, người trong ấp bị nghi oan là bắt trộm.”
- Tượng “Hành nhân đắc ngưu, ấp nhân tai dã.” - Người đi đường thuận tay dắt và lấy mất trâu đi, nói lên người trong Ấp tự nhiên bị tai bay vạ gió, bị đổ tội nghi là lấy cắp trâu.
59. Nhâm Tuất – Phong Địa Quán, hào 6 (59 ~ 11)
- “Thượng Cửu, quán kỳ sinh, quân tử vô cữu.”
- “Chín Trên, mọi người đều ngẩng trông mọi hành vi của nó, người quân tử tất vô cữu hại.”
- Tượng “Quán kỳ sinh, chí vị bình dã.” - Mọi người đều ngẩng trông mọi hành vi của nó, nói lên tâm chí sửa đức của Chín Trên chưa thể yên vui thư thái được.
60. Quý Hợi – Lôi Thiên Đại tráng, hào 5 (60 ~ 12)
- “Lục Ngũ, táng dương vu dị, vô hối.”
- “Sáu Năm, mất dê ở bờ ruộng, không có gì hối hận.”
- Tượng “Táng dương vu dị, vị bất đáng dã.” - Mất dê ở bờ ruộng, nói lên ngôi của Sáu Năm không thích đáng.
(Nguồn: sưu tầm)
Theo quan niệm của nhà Phật, Phật chỉ phù hộ an bình, che chở cho con Phật chứ không thể phù hộ đường công, danh, tài, lộc. Vì vậy, khi chúng ta làm lễ cầu tới cửa Phật nên xin được Phật che chở, bảo vệ.
Lễ chay: Hương, hoa tươi (hoa sen, hoa huệ, hoa mẫu đơn, hoa ngâu…), quả chín, oản, xôi chè… đặt trên hương án của chính điện.
Lễ mặn: Cỗ tam sinh (trâu, dê, lợn), thịt gà, giò chả… đặt tại nơi thờ Đức Ông, Thánh, Mẫu và chỉ dâng đặt tại ban thờ hay điện thờ. Tuyệt đối không được dâng trên ban thờ Phật, Chư Bồ tát và Thánh Hiền.
Không nên sắm sửa vàng mã, tiền âm phủ để dâng cúng Phật tại chùa. Nếu có sửa lễ này thì đặt ở bàn thờ thần linh, Thánh Mẫu hay ở bàn thờ Đức Ông.
Tiền thật cũng không nên đặt lên hương án của chính điện mà nên bỏ vào hòm công đức.
5 bước hành lễ:
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Con lạy chín phương trời, mười phương Chư phật, vô thượng Phật pháp, Chư Thánh hiền tăng, Công Đồng các quan thường trụ Tam Bảo (hoặc ban nào cần lễ thì kêu tên tại ban đó), ngự tại (địa chỉ)………………………………………..
– Hôm nay là ngày…………….tháng………………. năm………..
(âm lịch) tín chủ con tên là………………….tuổi……….. (âm lịch).
– Ngụ tại………………………xin Đức……………..chứng giám, Hương tử con lễ bạc lòng thành, nhất tâm tường vạn tâm thành dâng lên cúng tiến. Xin chắp bái lễ bái, chắp kêu chắp cầu, ngửa trông ơn Phật, Quan Ầm Đại sỹ, chư Thánh hiền Tăng, Thiên Long bát bộ, Hộ pháp Thiện thần, từ bi gia hộ chứng giám cho con đến xin lộc cửa…………………chúng con người trần phàm tục, ăn chưa sạch, bạch chưa thông cúi xin được bề trên xá lầm xá lỗi. Con xin đức Phật…….độ cho bách gia họ ……………họ………………chúng con được sức khỏe dồi dào, bách bệnh tiêu tan, cho chúng con xin được công thành danh toại, tứ thời vô hạn vạn sự hanh thông, có quý nhân phù trợ.
Cúi xin chư Phật độ trì cho gia đình con được hòa thuận hạnh phúc, trong ấm ngoài êm, trên bảo dưới nghe, trên đe dưới sợ, trên kính dưới nhường, độ cho con làm ăn phát tài phát lộc, có của ăn của để tiền tài dư dả, lộc đầy lộc vơi. Xin bề trên ban đức ban lộc ban tài, cho con xin vạn sự may mắn, gặp dữ hóa lành, gặp hung hóa cát, năm xung xin giải xung, tháng hạn giải hạn điều lành xin đem lại, điều dại xin đem đi, cho con tránh được những điều thị phi, phiền muộn. Độ cho con đi một về lơ, đi tươi về tốt, 3 tháng hè 9 tháng đông được bình an trăm sự. Con xin chắp bái lễ bái, chắp kêu chắp cầu kêu thay cho phụ thân phụ mẫu (hoặc người cần xin hộ, tên, tuổi, nơi cư ngụ của người đó), (xin điều gì mình đang mong muốn). Con xin thành tâm bách bái tấu lạy Đức……………….độ trì cho con cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, cầu bình an đắc bình an.
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
– Khấn lễ tạ: Con lạy đức……………….. tín chủ con tên…………tuổi, ngụ tai…………….., tấu xin Đức……………. chứng tâm cho con cầu gì được nấy; cầu sao được vậy, sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm. Nhất tâm tưởng vạn tâm thành, con xin bách bái lạy tạ Đức Phật.
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
5. Họa cho gia đạo:
a. Tình trạng không chồng, không vợ:
– cung Phúc có những chính tinh hãm địa, đi chung với những sao tình duyên bị sát tinh xâm phạm.
– cung Phu Thê cũng gặp phải nghịch cảnh này, nhất là bị sát tinh tọa thủ đồng cung với các sao tình duyên hoặc là được các sao tình duyên hội chiếu vào sát tinh tọa thủ ở Phu Thê. Càng có nhiều sát tinh, nhất là sát tinh hạng nặng tọa thủ hay hợp chiếu thì triển vọng lập gia đình càng giảm. Ngoài ra, hai sao Tuần Triệt ở Phu Thê nhất là đồng cung cũng góp phần xác định ý nghĩa này.
Nếu cả Phúc lẫn Phu Thê đồng thời gặp nghịch cảnh thì dễ đoán việc vô gia đình (đặc biệt là với lá số nữ giới).
Nếu Mệnh, Thân có hao bại tinh (Tang, Hổ, Cô, Quả, Đẩu Quân, Khốc, Hư, Đại Tiểu Hao) thì phải xem đó là một yếu tố bổ túc để quyết đoán thêm trường hợp độc thân bắt buộc.
Cung Tử tức có nhiều sao hiếm muộn, tuyệt tự, lập tự.
Vòng đại hạn đi theo chiều thuận tức là ngày càng xa cung Phu Thê. Đây là một yếu tố bổ túc phải lưu ý. Nếu đi theo chiều nghịch thì vào khoảng 30 tuổi trở đi, vấn đề gia đạo dễ xảy ra hơn vào khoảng thập niên 32 trở đi vì tại đó cung Phu Thê trấn ngự, ngụ ý có sự chi phối khá mạnh, sự thúc đẩy khá lớn, sự quan tâm đặc biệt của con người về vấn đề gia đạo.
Sự lạc vị của những sao tình duyên: nếu các sao đó đóng ở Tật, Tử, Bào, Phụ, Điền thì cái duyên bị đặt sái chỗ, không lợi cho sự sum họp.
b. Tình trạng giang hồ, lãng tử:
– sự hiện diện của rất nhiều sao tình dục ở cung Mệnh, cung Thân: Thiên Riêu, Thai, Mộc Dục, Hoa Cái, Đào Hoa, Hồng Loan, Liêm Trinh, Tham Lang ...
– sự hiện diện của những sao này ở cung Nô chỉ con người đó rất sa đọa, trụy lạc, ăn chơi, đàng điếm, không kể dư luận, đạo đức.
– sao khắc chế tình dục không có hoặc không đủ mạnh ở các cung Mệnh, Thân.
– đối với phái nữ, sao tình dục có đi chung với sao tài, ngụ ý rằng tiền bạc kiếm được bằng nhan sắc, bằng hương phấn.
– cung Phu Thê bị Tuần, Triệt đồng cung hoặc 1 trong 2 án ngữ, tiên niệm sự trục trặc, sự bất hạnh về gia đạo hoặc sao cô độc như Cô, Quả, Đẩu, Quân.
– cung Phu Thê có nhiều sao chỉ sự thay đổi cụ thể như Thiên Đồng, Thiên Mã, Đại Hao, Tiểu Hao, ngụ ý đương số thường thay đào đổi kép.
– riêng số phụ nữ còn có những bộ sao nói lên họa trinh tiết
– cung Mệnh, cung Thân của hai phái có nhiều sao nói lên tính nết lãng tử, giang hồ, ham vui, chóng chán, thích thay đổi, phiêu lưu tình cảm.
– cung Phúc có nhiều sao bất hạnh về gia đạo.
c. Tình trạng hôn nhân trắc trở:
Phục Binh: nếu đóng hay chiếu vào cung Phu Thê, chỉ sự cản trở. ở vị trí tọa thủ, sự cản trở mạnh mẽ hơn, gây trở ngại lớn hơn ở vị thế hội chiếu. Sao này tượng trưng cho sự đổi ý của người con trai hay con gái, sau khi yêu nhau rồi mới khám phá những chỗ kẹt, chỗ ngang trái khiến không thể lấy nhau. Nó cũng tượng trưng cho sự chống đối mạnh mẽ của cả hai bên nhà trai nhà gái hoặc của một bên và sự chống đối này do cha mẹ chủ xướng, tức là những người có quyền quyết định tối hậu cuộc tác thành. ở vị thế hội chiếu, có thể ban đầu chống đối rồi sau cũng thuận cho.
Hóa Kỵ: ý nghĩa tương tự như Phục Binh nhưng nhẹ hơn. Hóa Kỵ ở Phu Thê thường là sự bất hòa giữa hai họ để rồi trai gái phải xa nhau, bắt nguồn từ những câu nói vụng về của nam hay nữ hoặc của họ bên này chê bai họ bên kia hoặc cũng có thể bắt nguồn từ một đệ tam nhân ngoại cuộc vụng lời, thêm bớt.
Cự Môn: dù đắc hay hãm địa, Cự Môn ở Phu Thê bao giờ cũng khó khăn dài dài, trước khi lấy nhau và sau khi thành hôn. Cự Môn chủ đa nghi: bên nọ nghi ngờ bên kia, thôn tính con dâu hoặc sắp xếp cho con mình vào tròng để lợi dụng. ở vị trí đắc địa, sự việc có thể tiền hung hậu kiết nhưng ở thế hãm địa thì có thể tiền hậu đều hung.
Thiên Không: chỉ sự cản trở, chủ yếu là do sự bố trí có thủ đoạn của một bên cho bên kia mắc kẹt. Trò chơi của Thiên Không rất nguy hiểm, nếu có thêm sao xấu đi kèm, hôn nhân rất nhạy rã đám.
Thiên Hình: ở Phu Thê, Hình báo hiệu sự hình thương gia đạo, có thể là sự trắc trở hôn nhân buổi đầu. Mặt khác, vì Hình chỉ sự xét nét quá tinh vi cho nên ngụ ý rằng có một bên tính kỹ quá, đòi hỏi điều kiện chặt chẽ, khó khăn khiến bên nọ không với tới làm cho hôn nhân bị hỏng hoặc trì trệ kéo dài. Cuộc thương thuyết có Thiên Hình hẳn phải hết sức gay go và đầy cạm bẫy.
Khốc, Hư, Tang, Hổ: hai trẻ phải nhiều lần điêu đứng, rơi lệ, đau khổ, phải đấu tranh cho sự hòa hợp bằng nước mắt. Nếu có cả 4 sao thì 4 dòng lệ đều chan hòa, duy có riêng một sao cũng mệt sức lắm rồi. Trong một ý nghĩa khác, 4 sao này còn có nghĩa là cưới xin trong tang khó.
d. Tình trạng gia đạo bất hòa:
– cung Phu Thê phải có hao bại tinh, ám tinh, hình tinh, cụ thể là Cự Môn, Phục Binh, Hóa Kỵ, Thiên Hình, Thiên Khốc, Thiên Hư, Tang Môn, Bạch Hổ.
– cung Phu Thê phải có sao cô độc như Cô Thần, Quả Tú, Đẩu Quân; sao khắc khẩu như Thái Tuế, Trực Phù.
– cung Phu Thê phải có sao ghen tuông, cãi vã, khó tính, câu chấp, ngỗ ngược, ngoan cố, lấn át, bướng bỉnh - nguyên nhân của mọi bất hòa.
– hai lá số của nam nữ có Bản Mệnh khắc nhau.
– có thể chính tinh ở cung Mệnh số người này mà nghịch cách với chính tinh ở Phu/Thê của số người kia thì cũng xung khắc.
e. Tình trạng ngoại tình:
+ Điều kiện về tính chất:
– lá số của nam hay nữ phải chất chứa một nết tình mạnh thiên về nhục dục, hoặc sự si tình, lụy tình, đồng thời với tính nết ham vui chơi, ưa hoang phí, thích thay cũ đổi mới, táo bạo, trí trá ...
– phải có nhiều cơ hội tốt cho việc phát tác tình dục biểu lộ trong cung Di, cung Nô, qua những sao ái tình tọa thủ tại 2 cung này. Những lá số có Thân cư Di hội nhiều sao tình dục là ví dụ điển hình.
– ngoài điều kiện tích cực, còn có điều kiện tiêu cực là thiếu sự khắc chế tình dục, hoặc sự khắc chế không đủ mạnh so với các sao tình dục hiện diện.
+ Điều kiện về sao:
– nhất định phải có nhiều sao tình dục hội trụ hoặc tập trung vào những cung cường, sao đồng cung hoặc sao tình dục hạng nặng (Thai, Riêu, Tham, Đào) ...
– phải có sao đa phu, đa thê
– phải có sao bất hòa gia đạo, chửa hoang
– phải có sao bất hạnh (ly tán, đau khổ) gia đạo
+ Điều kiện về cung:
– sao tình dục phải xuất hiện ở các cung Mệnh, Thân, chiếu Mệnh, chiếu Thân hoặc ở cung Phúc.
– sao tình dục phải có ở cung Phu Thê
– sao tình dục phải có ở cung Nô, Di
– nếu xuất hiện ở cung Hạn (ngoài các cung nêu trên) thì vấn đề ngoại tình xảy ra nhất thời trong hạn đó
– cung Tử có những sao hai dòng con: cùng mẹ khác cha hay cùng cha khác mẹ
+ Điều kiện thuộc hoàn cảnh:
– lá số phải được cứu xét trong xã hội có sa đọa hay không
– nếp sống đương số có sa đọa hay không;
– cần lưu ý thêm là việc sợ vợ, sợ chồng lắm khi không phải là yếu tố kìm hãm ngoại tình.
+ Những dè dặt cần thiết:
– sao tình dục hay sao ái tình có khi chỉ có nghĩa là có duyên (Hồng Loan) hay đẹp đẽ (Đào Hoa, Văn Xương, Văn Khúc) hay dâm đãng mà không ngoại tình, hoặc cưới xin dễ dàng;
– lưu ý tránh ngộ nhận số ngoại tình với số giang hồ, lẽ mọn, lãng tử;
– gặp trường hợp Thân cư Thê/Phu có những sao ngoại tình cũng phải dè dặt;
– gặp số có hai đời vợ, hai đời chồng phải dè dặt thêm: có khi là hai vợ, hai chồng đồng thời, có khi là hai đời vợ/hai đời chồng liên tiếp, không trùng hợp nhau.
g. Tình trạng chia ly: sự chia ly ở đây bao hàm hai trường hợp ly thân hay ly hôn chứ không nói đến sự xa cách để làm ăn hay vợ một nơi chống một ngả vì có thuyên chuyển, không nói đến việc một trong hai người chết nửa chừng xuân.
Những điều kiện trực tiếp của tình trạng chia ly gồm có:
– cung Phu Thê bị Tuần, Triệt đồng cung;
– cung Phu Thê bị sát tinh xâm phạm;
– cung Phu Thê bị ám tinh, hao bại tinh, hình tinh đi với sao thay đổi, sao đau buồn, nước mắt, cô độc;
– cung Phu Thê có sao chỉ hai đời chồng/vợ;
– cung Tử có những sao chỉ con dị bào;
– lá số của hai vợ chồng có Bản Mệnh khắc nhau;
– cung Phúc có nhiều sao bất hạnh gia đạo (cao số, dang dở);
– cung Mệnh Thân có nhiều sao xui xẻo, đau buồn, nhất là với nữ số;
– có những chỉ dấu ngoại tình ở vài cung như Nô, Di;
– thiếu sao giải mạnh và nhiều
Đi vào chi tiết, cần lưu ý các sao sau:
- Những bộ sao của Tử Vi:
Chỉ có Tử Sát và Tử Phá đồng cung nói lên sự chia ly khả hữu:
Tử Sát: nếu hôn nhân bị trắc trở buổi đầu hoặc nếu muộn lập gia đình thì có thể tránh được chia ly. Tuổi muộn thông thường là quá ba mươi. Thất Sát vừa chỉ sự không may, vừa chỉ sự chậm chễ.
Tử Phá: Phá Quân chỉ sự hao tán phu thê cho nên dù đi với Tử Vi cũng không giảm bất lợi. Vợ chồng phải bị chia ly, hình khắc sau khi hiềm khích, giận hờn, gây gổ nhau.
- Những bộ sao của Liêm Trinh:
Liêm ở Dần, Thân: vợ hay chồng phải chắp nối nhiều lần, có họp rồi lại tan, chưa kể việc lấy chồng/vợ nghèo.
Liêm Tướng: hai người không từ biệt cũng chia ly, sau khi gây gổ nhau thường xuyên.
Liêm Tham: cũng chia ly, thông thường có một người bị hình tù.
Liêm Sát: vừa chậm gia đình vừa chia ly.
Những bộ sao của Thiên Đồng:
Đồng ở Thìn, Tuất: thông thường là bất hòa, nếu không hoặc tử biệt hoặc chia ly.
Đồng, Âm ở Ngọ: nếu muộn gia đạo có thể tránh chia ly. Thường người vợ có lỗi vì Âm hãm ở Ngọ.
Đồng Cự: Vợ chồng hay gây gổ nhau, nghi ngờ nhau, thường bỏ nhau vì mạ lỵ thậm tệ. Sao Cự chỉ ngôn ngữ bất cẩn, cãi vã, thị phi.
- Những bộ sao của Vũ Khúc:
Vũ Sát: sự khắc kỵ gia đạo hết sức nặng nề, mang lại tai họa cho vợ chồng lúc sống chung, một sống một chết, nếu không cũng chia ly.
Vũ Phá: chia ly xảy ra nếu sớm lập gia đình. Vì có Phá Quân, nên có thể hai lần tác hợp.
- Những bộ sao của Thái Dương, Thái Âm:
Dương hãm địa hay Âm hãm địa: nếu muộn gia đình thì tránh được chia ly, duy vợ chồng hay bất hòa và trước khi lấy nhau thường gặp trắc trở.
Cự Dương ở Thân: ý nghĩa như trên.
Âm Dương đồng cung: nếu muộn gia đình thì có thể tránh được cảnh chia ly.
- Những bộ sao của Thiên Cơ:
Cơ Cự: chia ly nếu sớm gia đạo. Sự hiện diện của Cự Môn thường bất lợi cho gia đạo, thường báo hiệu việc bất hòa, gây gổ, hai vợ, hai chồng.
Cơ Nguyệt ở Dần: trắc trở trong việc cưới xin và nếu sớm lập gia đình dễ chia ly.
- Những bộ sao của Tham Lang:
Tham ở Thìn, Tuất: sớm lập gia đình thì dễ chia ly. Vợ thì hay ghen tuông, chồng thì chơi bời.
Tham ở Dần, Thân: vợ chồng dâm đãng, dễ bạc tình, dễ kết hợp nhau cũng dễ chia ly.
- Cự Môn ở Thìn, Tuất, Tỵ: phải trắc trở trước khi lập gia đình; bất hòa lúc sống chung; phải chia ly, 2 hoặc 3 lần lập gia đình.
- Những bộ sao của Thiên Tướng:
Tướng ở Tỵ, Hợi, Sửu, Mùi: sớm lập gia đình thì sẽ bất hòa và dễ chia ly. Đời sống vợ chồng rất cần sự nhịn nhục, vì Thiên Tướng chỉ nóng nảy và lấn át.
Tướng ở Mão, Dậu: ý nghĩa tương tự. Lúc cưới nhau hay gặp cản trở.
- Những bộ sao của Thất Sát:
Sát ở Thìn Tuất: phải vài lần lập gia đình, khó tránh được chia ly.
Sát ở Tý Ngọ: nếu sớm gia đạo, dễ chia ly. Vợ chồng là con trưởng, cả hai rất ghen tuông.
- Những bộ sao của Phá Quân:
Phá ở Thìn, Tuất: nếu sớm thành gia đạo thì chẳng những phải chia ly mà còn phải nhiều lần lập gia đình.
Phá ở Dần, Thân: ý nghĩa càng nặng hơn; vợ chồng chắc chắn phải chia ly vì nguyên nhân ngoại tình.
Phá Quân đắc địa ở Tý, Ngọ: vợ chồng tối thiểu cũng có lúc xa nhau rất lâu.
- Thiên Mã, Tuần, Triệt ở Phu Thê: Tuần Triệt ở Phu Thê chỉ sự bất hạnh lớn lao và liên tiếp, có tính cách lâu dài của đời sống vợ chồng, thậm chí có thể xem như không có vợ/chồng. Chẳng những Tuần, Triệt ở Phu Thê cho thấy sự dang dở mối tình đầu mà còn dang dở vài mối tình kế tiếp. Đời sống gia đạo không những triền miên bất hòa mà có thể đi tới gián đoạn vĩnh viễn. Trong bối cảnh đó, sự có mặt của Thiên Mã càng xác nhận thêm sự ly cách giữa hai vợ chồng. Nếu Thiên Mã được thay bằng những sao Thiên Đồng, Đại Tiểu Hao cũng chỉ sự thay đổi, có lẽ ý nghĩa cũng tương tự.
- Địa Không, Địa Kiếp ở Phu Thê: vợ chồng xa nhau, cụ thể là bỏ nhau, chưa kể có thể một người phải chết. Nếu Không Kiếp đắc địa thì chỉ có thể đoán là tạm thời xa nhau, dưới hình thức ly thân hoặc là người sống một nơi kẻ ở một ngả, lâu lâu mới sum họp một lần hoặc là phải gặp ngang trái nặng trong tình duyên.
- Quan Phù, Thái Tuế, Quan Phủ: Quan Phủ, Quan Phù chỉ sự phản bội, sự thiếu chung thủy đồng thời cũng có nghĩa kiện tụng. Thái Tuế chỉ cả kiện cáo lẫn cãi vã, đồng thời cũng chỉ sự mất mát tình thương. Như vậy, bộ sao trên có thể báo hiệu cho sự xung đột giữa hai vợ chồng đưa đến tình trạng lôi nhau ra tòa phân xử, xin ly thân hay ly hôn. Nếu không có chuyện kiện nhau thì vẫn có chuyện âm thầm bỏ nhau, mỗi người một giang sơn, tự do của ai nấy giữ, không còn sự ràng buộc nào giữa hai người.
- Thiên Hình ở Phu Thê: vấn đề tòa án hầu như không tránh được nhất là khi Hình đi chung với một trong ba sao trên. Thiên Hình giúp xác nhận thêm sự ly hôn, ly thân một cách chính thức. Ngoài ra, Hình còn ngụ ý rằng hai vợ chồng có cãi vã đến nỗi đánh đập nhau hoặc người này hành hung người kia. Ngoài ra, Hình có nghĩa là tù ngục nên có thể có một người ở tù sau cơn ẩu đả. Nếu đi chung với Thái Tuế thì có "mạ lỵ thậm từ" và có đánh lộn gây thương tích nhưng chỉ Thiên Hình cũng đã quá đủ.
- Cô, Quả, Đẩu Quân ở Phu Thê: riêng 1 trong 3 sao này thật sự không đủ để minh chứng tình trạng ly cách. Nó cần phải đi chung với những sao kể trên. Riêng việc đơn thủ mà thôi thì Cô hay Quả hay Đẩu Quân chỉ sự cô đơn, cô độc dưới nhiều hình thái: hoặc có chồng/vợ vẫn ở chung với nhau mà bị cô đơn vì chồng/vợ không hiểu mình, không bệnh vực mình trước gia đình bên chồng hoặc có vợ/chồng ở chung nhau nhưng không có sự thắm thiết, hầu như mỗi người có ưu tư và nếp sống riêng rẽ, ít khi đồng thuận, không có chung thủy hoặc đối với nữ số, có thể vẫn là vợ chính thức nhưng vẫn bị bỏ rơi vì chồng có vợ lẽ, cả hai cũng vẫn không chia ly hoặc đối với nam số, có thể rơi vào tình trạng vợ lăng loàn, nhưng đành cam chịu vì sợ uy tín, xấu hổ hay sợ vợ ...
h. Trường hợp tử biệt:
– cung Phu Thê có Tuần, Triệt riêng rẽ hoặc đồng cung trấn thủ, hội với sát tinh, có thể hội thêm với hình tinh, hao bại tinh, ám tinh;
– cung Mệnh đương số có Cô, Quả, Đẩu Quân, Tang, Hổ;
– số của hai vợ chồng đối khắc Bản Mệnh và một trong hai lá số rơi vào đặc điểm đầu tiên;
– những bộ sao chỉ họa cho tính mệnh xuất hiện trong lá số của một người;
– có những bộ sao chỉ tình trạng chia ly kể trên;
– có những sao chỉ tình trạng hai đời vợ/đời chồng trong lá số. Việc có con 2 dòng chỉ yếu tố phụ đới, chỉ có giá trị quyết đoán khi gặp trường hợp đầu tiên.
i. Tình trạng án mạng trong gia đạo:
– một trong hai lá số có những sao sát, nói lên sát nghiệp của người đó, trong khi lá số người kia có những bộ sao chết vì án mạng hoặc yểu. Trong cả hai trường hợp, đều thấy xuất hiện sát tinh hạng nặng như Địa Không, Địa Kiếp, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Hình, Kiếp Sát, Kình Dương, Đà La. Đôi khi có những sao như Phục Binh, Thiên Không, Tang Môn, Bạch Hổ. Sát tinh hầu hết bị hãm địa, nói lên nghiệp chướng.
– cung Phu Thê của hai lá số đều gặp nhiều trường hợp bất lợi kể ở các đoạn nói về chia ly, tử biệt, họa cá nhân, họa ngục hình;
– xét về nguyên nhân, án tình thường bắt nguồn từ sự phản bội của vợ/chồng. Vì vậy, trong số phải có những bộ sao phản bội, lăng loàn, ngoại tình, con dị bào ...
– xét về hậu quả, án tình, nếu thủ phạm còn sống sót, thường hay đưa đến hình ngục, kiện cáo ...
– xét về sự trùng phùng, cần quan tâm đến sự hội tụ của sát tinh, hình tinh, hao bại tinh, ám tinh đồng cung hoặc xung chiếu với các sao tình duyên trong một đại hạn hay tiểu hạn nào đó;
– sự đối khắc giữa hai Bản Mệnh trong trường hợp này nhất định phải có;
– cần lưu ý đến những sao nói lên cá tính của thủ phạm và nạn nhân. Thủ phạm phải là người tự ái, ghen tuông quá mức, nóng nảy, ích kỷ tột độ, có ác tâm, có sát nghiệp. Nạn nhân là người dâm đãng, trắng trợn, ngang tàng, mạo hiểm, thủ đoạn, dối trá, bê tha, đam mê ...
Ngày giỗ Hết hay còn gọi là ngày “Đại Tường”, tức là ngày Giỗ vào 2 năm 3 tháng sau ngày mất.
Giỗ Hết vẫn là Giỗ trong vòng tang. Ngày Giỗ Hết thương làm linh đình hơn, và sau Giỗ này, người nhà bỏ tang phục, hay còn gọi là hết tang. Sau ngày giỗ Hết, người ta sẽ chọn ngày tháng tốt để làm lễ Cải cát, sang mộ cho người quá cố. Và từ năm thứ ba trở đi thì giỗ của người qua cố trở thành giỗ Thường hay “Cát Kỵ”
Bởi vậy, có người bảo “ngày giỗ hết là ngày giỗ quan trọng nhất trong tất cả những ngày giỗ đối với người qua đời”. Quan trong nhất vì nó đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời của người còn sống cũng như đối với vong linh của người đã khuất. Với người đang sống, người ta trở lại đời sống thường nhật, có thể tham gia các tổ chức hội hè, đình đám. Theo quan niệm xưa thì chỉ sau Giỗ Hết của chồng, người vợ mới có thể đi bước nữa.
Giỗ Hết thường được tổ chức long trọng với: vàng mã, hương, hoa, phẩm oản, trái cây theo mùa, cùng mâm lễ mặn với đầy đủ các món ăn từ thịt lợn, tôm, cua, xôi, gà,…
3.1. Văn khấn Thổ Thần, Táo Quân, Long Mạch và các vị Thần linh trước khi Giỗ Hết
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
- Con kính lạy Đức Đương cảnh Thành Hoàng chư vị Đại Vương.
- Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần Quân.
- Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này.
- Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ tiên nội ngoại họ………
Tín chủ (chúng) con là:…………… Ngụ tại:……………
Nhân ngày mai là ngày Giỗ Hết của………………
Tín chủ con cùng toàn thể gia khuyến tuân theo nghi lễ, sửa biện hương hoa lễ vật dâng cúng các vị Tôn thần.
Cúi xin các vị Bản gia, Thổ Công, Táo Phủ Thần Quân, Ngữ Phương, Long Mạch và các vị Thần linh, hiển linh chứng giám, thụ hưởng lễ vật, phù hộ cho toàn gia chúng con an ninh khang thái, vạn sự tốt lành.
Chúng con kinh thỉnh các Tiên linh, Gia tiên họ………… và những vong hồn nội tộc được thờ phụng vị cùng về hâm hưởng.
Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
3.2. Văn khấn chính ngày Giỗ Hết
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
- Con kính lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại Vương.
- Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần Quân.
- Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này.
- Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Tổ Tiên nội ngoại họ ………
Tín chủ (chúng) con là:………
Ngụ tại:…………………………
Hôm nay là ngày …… tháng …… năm……
Chính ngày Giỗ Hết của………………………
Thiết nghĩ……………… vắng xa trần thế, không thấy âm dung. Năm qua tháng lại vừa ngày Giỗ Hết. Ơn võng cực xem bằng trời biển, nghĩa sinh thành không lúc nào quên. Càng nhớ công ơn gây cơ tạo nghiệp bao nhiêu, càng cảm thâm tình, không bề dãi tỏ. Nhân ngày chính giỗ, chúng con và toàn gia con cháu, nhất tâm sắm sửa lễ vật kính dâng, đốt nén tâm hương dãi tỏ tấc thành.
Thành khẩn kính mời………………………
Mất ngày……. tháng………năm…………
Mộ phần táng tại:……………………….
Cúi xin linh thiêng giáng về linh sàng, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho con cháu bình an, gia cảnh hưng long thịnh vượng.
Tín chủ lại mời vong linh các vị Tiền chủ, Hậu chủ trong đất này cùng tới hâm hưởng.
Tín chủ con lại xin kính mời các cụ Tổ Tiên nội ngoại, Tổ Khảo, Tổ Tỷ, Bá thúc, Huynh Đệ, Cô Di, Tỷ Muội và toàn thể các Hương linh gia tiên đồng lai hâm hưởng.
Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
![]() |
![]() |
► Lịch ngày tốt gửi tới độc giả công cụ tra cứu: Tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh |
Ô nhiễm do hoàn thiện nhà là một trong những nguồn gốc chủ yếu dẫn đến ô nhiễm trong nhà ở. Trong những vật liệu dùng để hoàn thiện nhà ở như sơn, vật liệu sơn, tấm gỗ dán, nilon dán tường, đá lát… đều có chứa các chất có hại như Formaldehvde (Metal), benzen. Radon. Những chất độc hại này chính là “sát thủ vô hình” tiềm ẩn trong không khí, có mùi làm cay mũi, cay mắt, có mùi dẫn đến đau đầu, tức ngực, thậm chí trúng độc mãn tính.
Là một người dân bình thường, ô nhiễm không khí nhà ở của mình có vượt quá chỉ tiêu hay không chúng ta cũng khó biết chính xác, nhưng chúng ta có thể thông qua một số hiện tượng thường thấv để bước đầu phán đoán có phải không khí trong nhà mình đã ô nhiễm hay không. Những hiện tượng thường gặp này được chia thành:
Vào mỗi buổi sáng sớm, sau khi thức dậy bạn cảm thấy ngột ngạt khó chịu, buồn nôn, thậm chí hoa mắt chóng mặt.
Sau khi mới chuyển nhà, bỗng nhiên con vật cưng bị chét.Tất cả mọi người trong nhà đều mắc chứng một căn bệnh, nhưng sau khi rời khỏi môi trường đó, triệu chứng bệnh tật sẽ có chuyển biến rõ rệt và tốt lên.
Người trong nhà thường có triệu chứng dị ứng trên da, hơn nữa dị ứng còn có tính phát tán rộng theo từng cụm.
Tuy không hút thuốc lá, cũng rất ít khi tiếp xúc với môi trường có khói thuốc, nhưng lại thường xuyên cảm thấy khó chịu nơi cổ họng, cảm giác có dị vật trong họng, hô hấp không thông suốt.
Vợ chồng mới cưới sống với nhau thời gian khá dài mà vẫn chưa có con, hơn nửa tìm không ra nguyên nhân, hoặc phụ nữ mang thai trong tình trạng mang thai bình thường nhưng lại phát hiện ra thai nhi dị hình.
Trồng cây trong nhà không dễ sóng, lá dễ bị vàng, khô héo, đặc biệt là một số loài thực vật có sức sống rất mạnh cũng khó sinh trường bình thường.
Người trong nhà đặc biệt là trẻ nhỏ rất dễ bị cảm mạo, ho, hăt hơi, khả năng miễn dịch kém, trẻ con không chịu về nhà.
Vật nuôi trong nhà như chó, mèo, thậm chí là loài cá nhiệt đới cũng chết một cách vô lý.
Nhà mới xây hoặc vật dụng mới mua có dị mùi gây khó chịu cho mũi, hơn nữa sau hơn một năm mà những mùi đó vẫn không bay hết.
Dương nhiên, nếu muốn đưa ra đánh giá chính xác xem không khí môi trường trong nhà mình ô nhiễm vượt quá chỉ tiêu hay không thì cần phải thông qua cơ quan kiểm định môi trường do kiểm định mới có thể biết được.
>> Hôm nay >> Tuần này >> Tháng này >> Năm này >> Tính cách >> Sự nghiệp và tiền bạc >> Gia đình và bạn bè >> Đặc trưng >> Người nổi tiếng >> Truyền thuyết Hôm nay
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Sự nghiệp là lĩnh vực mà Bạch Dương tỏa sáng nhất. Bản tính sáng tạo, hoài bão đã thúc đẩy những người sinh ra trong cung này đạt được những thành công lớn trong sự nghiệp. Năng khiếu lãnh đạo bẩm sinh khiến Bạch Dương ra lệnh nhiều hơn là phải tuân lệnh người khác.
Khi đối mặt với thử thách, người Bạch Dương nhanh chóng đánh giá được tình hình và tìm cách giải quyết. Cung này gắn liền với lửa cũng như khát vọng chiến thắng. Cạnh tranh chỉ làm cho Bạch Dương mạnh mẽ và cháy sáng hơn. Nghề nghiệp phù hợp với Bạch Dương đó là: bất động sản, kinh doanh, quản lý và lãnh đạo.
Là một chòm sao tràn đầy sức sống, luôn quyết đoán, sống tình cảm, bạn làm việc trong những công việc đòi hỏi nghị lực và lòng tự tin. Do luôn cần nguồn năng lượng dồi dào để tiếp thêm sức mạnh cho mình nên những công việc liên quan đến sức khỏe là thích hợp với bạn nhất.
Là một người luôn thích sự cạnh tranh, bạn luôn lựa chọn những công việc có thể chiến thắng bản thân mình và những người khác.
Nghề nghiệp lý tưởng của bạn là kỹ sư cơ khí, những công việc đòi hỏi sử dụng võ thuật như quân nhân hoặc cảnh sát, hay những việc chuyên về thể thao hay hoạt động ngoài trời. Bạn có thể tìm hiểu những công việc này từ những người thuộc chòm sao Bạch Dương như bạn ở bất cứ nơi đâu. Họ rất phổ biến. Đó là những nhân viên cứu hỏa, nhân viên cứu hộ hoặc bác sĩ ngoại khoa.
Bạn là người nhiệt thành, nhạy bén, dám nói, tham vọng, mạnh mẽ và sáng tạo. Một công việc trong lĩnh vực truyền hình, phát thanh, quảng cáo hay kiến trúc sẽ phù hợp với những tham vọng và tính sáng tạo của bạn. Và vì bạn sinh ra là để lãnh đạo nên làm việc trong quân đội hay cơ quan hành pháp cũng hợp với bạn.
Nếu bạn là một người phụ nữ thuộc chòm Bạch Dương, bạn sẽ có công việc nổi trội hơn nam giới. Khi bạn đã là một người độc lập, bạn có thể thành lập một công ty riêng của mình hoặc ít ra bạn là một người đảm trách trong công ty đó. Bạn có thể sẽ không làm tốt những việc yêu cầu sự nhẫn nại và chú ý những chi tiết nhỏ. Những lề thói thông thường sẽ giết chết bạn.
Là một người đàn ông thuộc chòm sao Bạch Dương, bạn là một người năng động và bạn cần được thử thách. Một công việc không có mạo hiểm và khám phá sẽ không hấp dẫn bạn. Vì thế, bạn là một người bảo vệ, một lính thủy đánh bộ, hoặc là một thanh tra cảnh sát hoàn hảo. Bạn có thể có một chút vấn đề với những công việc hoàn toàn thuộc về trí tuệ hoặc những công việc liên quan đến hộ lý.
Các đồng nghiệp đối đãi với bạn rất vui vẻ và nhiệt tình. Họ ngưỡng mộ sự mạnh mẽ của bạn khi bạn chú ý đến việc gì đó. Tuy nhiên nếu bạn cảm thấy ai đó đang cố gắng nổi trội hơn bạn, tính cạnh tranh của bạn sẽ nổi dậy và họ sẽ biết được rằng bạn đã cứng cỏi như thế nào.
Bạn là một người sếp tuyệt vời và thoải mái. Bạn luôn lãnh đạo và chăm sóc cho đội của bạn. Sự nhiệt tình và hăng hái của bạn rất dễ được truyền từ người này qua người kia và nó là động cơ thúc đẩy để cấp dưới của bạn chú ý và làm theo bạn.
Bí mật sự thành công của bạn là bạn luôn có mục tiêu và cho dù có những yêu cầu gì đi nữa thì bạn cũng chiến đấu như một chiến binh để đạt được mục tiêu đó. Bạn luôn có sự quyết tâm và tự tin ở chính mình và từ bỏ mục tiêu đó không phải là sự lựa chọn của bạn.
Bạch Dương không phải là mẫu người biết tiết kiệm vì lực hấp dẫn của mua sắm, giải trí và các trò chơi khác quá lớn. Họ ít khi tập trung tiền bạc cho tương lai. Với họ, khoảnh khắc họ đang sống là quan trọng nhất. Do có tư duy và yêu công việc nên Bạch Dương kiếm tiền khá nhưng cũng tiêu rất “ác”. Có một điều chắc chắn cho những người sinh trong cung này là tính hài hước.
Gia đình và bạn bè “Hành động” – đó chính là kim chỉ nam cho Bạch Dương. Người được sinh trong cung này có nhiều bạn càng tốt. Thường kết bạn với nhiều người trong nhiều tầng lớp xã hội khác nhau vì Bạch Dương thân thiện và dễ gần. Tuy vậy, bạn thân cũng phải là người thuộc tuýp người tương tự như Bạch Dương.Bạch Dương (21/3 - 20/4)
Chòm sao Bạch Dương được sự bảo trợ của sao Hỏa, biểu tượng của khát vọng, quyền lực, chiến tranh và lòng can đảm. Chính vì thế người thuộc cung Bạch Dương thường mạnh mẽ, quyết đoán, giàu ý chí và vô cùng dũng cảm. Màu sắc Bạch Dương yêu màu đỏ và cũng phù hợp với những vật dụng màu đỏ.
ướng nhà theo phong thủy là rất cần thiết.
I/ Đối với phong thủy nhà ở điều cần quan tâm nhất là cửa chính.
Cửa chính là lối dẫn khí vào nhà, sự suy vượng lành dữ của nó có ảnh hưởng quyết định đến phong thủy của nhà ở. Ngôi nhà cần phải có 2 yếu tố: tọa và hướng
II/ Vậy tọa và hướng là gì ?
– Chủ thể phần sau ngôi nhà là tọa
– Phía trước mặt của cửa chính nhà hướng tới chính là hướng
– Tọa hướng của ngôi nhà là một đường thẳng 180 độ
Ví dụ: Tọa Bắc thì hướng là hướng Nam
III/ Mạng của mỗi người là gì ?
Sinh mạng mỗi người mỗi khác nhau, nhà ở kiêng kỵ khác nhau, mỗi người có một quẻ mệnh và quẻ trạch khác nhau. Căn cứ vào 2 quẻ này để chọn nhà.
Thế nào là quẻ mệnh, cách tìm quẻ mệnh.
Quẻ mệnh lấy năm sinh làm chuẩn, hay nói cách khác người sinh cùng năm cùng quẻ mệnh (nam khác nữ). Chú ý mệnh ở đây khác với mệnh người tức mệnh tử vi. Ví dụ người nam sinh năm 1946 Bính Tụất mệnh tử vi mệnh thổ, đất nóc nhà, mệnh về nhà ở là mệnh ly hỏa
Năm Sinh (1) Mệnh Nam (2) Mệnh Nữ (3)
Quẻ của người sinh năm 1901: 1901- Tân Sửu Ly Hỏa Càn Kim.
Giải thích:
– 1961 là năm sinh.
– Tân Sửu tức là tuổi của người đó
– Ly – Hỏa là quẻ nếu chủ nhà là nam
– Càn – Kim là quẻ tử vi nếu chủ nhà là nữ
BẢNG TRA MỆNH
Năm | Năm âm lịch | Ngũ hành | Giải nghĩa | Mệnh nam | Mệnh nữ |
1905 | Ất Tỵ | Phú Đăng Hỏa | Lửa đèn to | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
1906 | Bính Ngọ | Thiên Hà Thủy | Nước trên trời | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
1907 | Đinh Mùi | Thiên Hà Thủy | Nước trên trời | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
1908 | Mậu Thân | Đại Trạch Thổ | Đất nền nhà | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
1909 | Kỷ Dậu | Đại Trạch Thổ | Đất nền nhà | Khảm Thủy | Khôn Thổ |
1910 | Canh Tuất | Thoa Xuyến Kim | Vàng trang sức | Ly Hoả | Càn Kim |
1911 | Tân Hợi | Thoa Xuyến Kim | Vàng trang sức | Cấn Thổ | Đoài Kim |
1912 | Nhâm Tý | Tang Đố Mộc | Gỗ cây dâu | Đoài Kim | Cấn Thổ |
1913 | Quý Sửu | Tang Đố Mộc | Gỗ cây dâu | Càn Kim | Ly Hoả |
1914 | Giáp Dần | Đại Khe Thủy | Nước khe lớn | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
1915 | Ất Mão | Đại Khe Thủy | Nước khe lớn | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
1916 | Bính Thìn | Sa Trung Thổ | Đất pha cát | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
1917 | Đinh Tỵ | Sa Trung Thổ | Đất pha cát | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
1918 | Mậu Ngọ | Thiên Thượng Hỏa | Lửa trên trời | Khảm Thủy | Khôn Thổ |
1919 | Kỷ Mùi | Thiên Thượng Hỏa | Lửa trên trời | Ly Hoả | Càn Kim |
1920 | Canh Thân | Thạch Lựu Mộc | Gỗ cây lựu | Cấn Thổ | Đoài Kim |
1921 | Tân Dậu | Thạch Lựu Mộc | Gỗ cây lựu | Đoài Kim | Cấn Thổ |
1922 | Nhâm Tuất | Đại Hải Thủy | Nước biển lớn | Càn Kim | Ly Hoả |
1923 | Quý Hợi | Đại Hải Thủy | Nước biển lớn | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
1924 | Giáp Tý | Hải Trung Kim | Vàng trong biển | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
1925 | Ất Sửu | Hải Trung Kim | Vàng trong biển | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
1926 | Bính Dần | Lư Trung Hỏa | Lửa trong lò | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
1927 | Đinh Mão | Lư Trung Hỏa | Lửa trong lò | Khảm Thủy | Khôn Thổ |
1928 | Mậu Thìn | Đại Lâm Mộc | Gỗ rừng già | Ly Hoả | Càn Kim |
1929 | Kỷ Tỵ | Đại Lâm Mộc | Gỗ rừng già | Cấn Thổ | Đoài Kim |
1930 | Canh Ngọ | Lộ Bàng Thổ | Đất đường đi | Đoài Kim | Cấn Thổ |
1931 | Tân Mùi | Lộ Bàng Thổ | Đất đường đi | Càn Kim | Ly Hoả |
1932 | Nhâm Thân | Kiếm Phong Kim | Vàng mũi kiếm | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
1933 | Quý Dậu | Kiếm Phong Kim | Vàng mũi kiếm | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
1934 | Giáp Tuất | Sơn Đầu Hỏa | Lửa trên núi | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
1935 | Ất Hợi | Sơn Đầu Hỏa | Lửa trên núi | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
1936 | Bính Tý | Giảm Hạ Thủy | Nước cuối khe | Khảm Thủy | Khôn Thổ |
1937 | Đinh Sửu | Giảm Hạ Thủy | Nước cuối khe | Ly Hoả | Càn Kim |
1938 | Mậu Dần | Thành Đầu Thổ | Đất trên thành | Cấn Thổ | Đoài Kim |
1939 | Kỷ Mão | Thành Đầu Thổ | Đất trên thành | Đoài Kim | Cấn Thổ |
1940 | Canh Thìn | Bạch Lạp Kim | Vàng chân đèn | Càn Kim | Ly Hoả |
1941 | Tân Tỵ | Bạch Lạp Kim | Vàng chân đèn | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
1942 | Nhâm Ngọ | Dương Liễu Mộc | Gỗ cây dương | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
1943 | Quý Mùi | Dương Liễu Mộc | Gỗ cây dương | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
1944 | Giáp Thân | Tuyền Trung Thủy | Nước trong suối | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
1945 | Ất Dậu | Tuyền Trung Thủy | Nước trong suối | Khảm Thủy | Khôn Thổ |
1946 | Bính Tuất | Ốc Thượng Thổ | Đất nóc nhà | Ly Hoả | Càn Kim |
1947 | Đinh Hợi | Ốc Thượng Thổ | Đất nóc nhà | Cấn Thổ | Đoài Kim |
1948 | Mậu Tý | Thích Lịch Hỏa | Lửa sấm sét | Đoài Kim | Cấn Thổ |
1949 | Kỷ Sửu | Thích Lịch Hỏa | Lửa sấm sét | Càn Kim | Ly Hoả |
1950 | Canh Dần | Tùng Bách Mộc | Gỗ tùng bách | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
1951 | Tân Mão | Tùng Bách Mộc | Gỗ tùng bách | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
1952 | Nhâm Thìn | Trường Lưu Thủy | Nước chảy mạnh | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
1953 | Quý Tỵ | Trường Lưu Thủy | Nước chảy mạnh | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
1954 | Giáp Ngọ | Sa Trung Kim | Vàng trong cát | Khảm Thủy | Khôn Thổ |
1955 | Ất Mùi | Sa Trung Kim | Vàng trong cát | Ly Hoả | Càn Kim |
1956 | Bính Thân | Sơn Hạ Hỏa | Lửa trên núi | Cấn Thổ | Đoài Kim |
1957 | Đinh Dậu | Sơn Hạ Hỏa | Lửa trên núi | Đoài Kim | Cấn Thổ |
1958 | Mậu Tuất | Bình Địa Mộc | Gỗ đồng bằng | Càn Kim | Ly Hoả |
1959 | Kỷ Hợi | Bình Địa Mộc | Gỗ đồng bằng | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
1960 | Canh Tý | Bích Thượng Thổ | Đất tò vò | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
1961 | Tân Sửu | Bích Thượng Thổ | Đất tò vò | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
1962 | Nhâm Dần | Kim Bạch Kim | Vàng pha bạc | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
1963 | Quý Mão | Kim Bạch Kim | Vàng pha bạc | Khảm Thủy | Khôn Thổ |
1964 | Giáp Thìn | Phú Đăng Hỏa | Lửa đèn to | Ly Hoả | Càn Kim |
1965 | Ất Tỵ | Phú Đăng Hỏa | Lửa đèn to | Cấn Thổ | Đoài Kim |
1966 | Bính Ngọ | Thiên Hà Thủy | Nước trên trời | Đoài Kim | Cấn Thổ |
1967 | Đinh Mùi | Thiên Hà Thủy | Nước trên trời | Càn Kim | Ly Hoả |
1968 | Mậu Thân | Đại Trạch Thổ | Đất nền nhà | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
1969 | Kỷ Dậu | Đại Trạch Thổ | Đất nền nhà | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
1970 | Canh Tuất | Thoa Xuyến Kim | Vàng trang sức | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
1971 | Tân Hợi | Thoa Xuyến Kim | Vàng trang sức | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
1972 | Nhâm Tý | Tang Đố Mộc | Gỗ cây dâu | Khảm Thủy | Khôn Thổ |
1973 | Quý Sửu | Tang Đố Mộc | Gỗ cây dâu | Ly Hoả | Càn Kim |
1974 | Giáp Dần | Đại Khe Thủy | Nước khe lớn | Cấn Thổ | Đoài Kim |
1975 | Ất Mão | Đại Khe Thủy | Nước khe lớn | Đoài Kim | Cấn Thổ |
1976 | Bính Thìn | Sa Trung Thổ | Đất pha cát | Càn Kim | Ly Hoả |
1977 | Đinh Tỵ | Sa Trung Thổ | Đất pha cát | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
1978 | Mậu Ngọ | Thiên Thượng Hỏa | Lửa trên trời | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
1979 | Kỷ Mùi | Thiên Thượng Hỏa | Lửa trên trời | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
1980 | Canh Thân | Thạch Lựu Mộc | Gỗ cây lựu | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
1981 | Tân Dậu | Thạch Lựu Mộc | Gỗ cây lựu | Khảm Thủy | Khôn Thổ |
1982 | Nhâm Tuất | Đại Hải Thủy | Nước biển lớn | Ly Hoả | Càn Kim |
1983 | Quý Hợi | Đại Hải Thủy | Nước biển lớn | Cấn Thổ | Đoài Kim |
1984 | Giáp Tý | Hải Trung Kim | Vàng trong biển | Đoài Kim | Cấn Thổ |
1985 | Ất Sửu | Hải Trung Kim | Vàng trong biển | Càn Kim | Ly Hoả |
1986 | Bính Dần | Lư Trung Hỏa | Lửa trong lò | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
1987 | Đinh Mão | Lư Trung Hỏa | Lửa trong lò | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
1988 | Mậu Thìn | Đại Lâm Mộc | Gỗ rừng già | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
1989 | Kỷ Tỵ | Đại Lâm Mộc | Gỗ rừng già | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
1990 | Canh Ngọ | Lộ Bàng Thổ | Đất đường đi | Khảm Thủy | Khôn Thổ |
1991 | Tân Mùi | Lộ Bàng Thổ | Đất đường đi | Ly Hoả | Càn Kim |
1992 | Nhâm Thân | Kiếm Phong Kim | Vàng mũi kiếm | Cấn Thổ | Đoài Kim |
1993 | Quý Dậu | Kiếm Phong Kim | Vàng mũi kiếm | Đoài Kim | Cấn Thổ |
1994 | Giáp Tuất | Sơn Đầu Hỏa | Lửa trên núi | Càn Kim | Ly Hoả |
1995 | Ất Hợi | Sơn Đầu Hỏa | Lửa trên núi | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
1996 | Bính Tý | Giảm Hạ Thủy | Nước cuối khe | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
1997 | Đinh Sửu | Giảm Hạ Thủy | Nước cuối khe | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
1998 | Mậu Dần | Thành Đầu Thổ | Đất trên thành | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
1999 | Kỷ Mão | Thành Đầu Thổ | Đất trên thành | Khảm Thủy | Khôn Thổ |
2000 | Canh Thìn | Bạch Lạp Kim | Vàng chân đèn | Ly Hoả | Càn Kim |
2001 | Tân Tỵ | Bạch Lạp Kim | Vàng chân đèn | Cấn Thổ | Đoài Kim |
2002 | Nhâm Ngọ | Dương Liễu Mộc | Gỗ cây dương | Đoài Kim | Cấn Thổ |
2003 | Quý Mùi | Dương Liễu Mộc | Gỗ cây dương | Càn Kim | Ly Hoả |
2004 | Giáp Thân | Tuyền Trung Thủy | Nước trong suối | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
2005 | Ất Dậu | Tuyền Trung Thủy | Nước trong suối | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
2006 | Bính Tuất | Ốc Thượng Thổ | Đất nóc nhà | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
2007 | Đinh Hợi | Ốc Thượng Thổ | Đất nóc nhà | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
2008 | Mậu Tý | Thích Lịch Hỏa | Lửa sấm sét | Khảm Thủy | Khôn Thổ |
2009 | Kỷ Sửu | Thích Lịch Hỏa | Lửa sấm sét | Ly Hoả | Càn Kim |
2010 | Canh Dần | Tùng Bách Mộc | Gỗ tùng bách | Cấn Thổ | Đoài Kim |
2011 | Tân Mão | Tùng Bách Mộc | Gỗ tùng bách | Đoài Kim | Cấn Thổ |
2012 | Nhâm Thìn | Trường Lưu Thủy | Nước chảy mạnh | Càn Kim | Ly Hoả |
2013 | Quý Tỵ | Trường Lưu Thủy | Nước chảy mạnh | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
2014 | Giáp Ngọ | Sa Trung Kim | Vàng trong cát | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
2015 | Ất Mùi | Sa Trung Kim | Vàng trong cát | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
2016 | Bính Thân | Sơn Hạ Hỏa | Lửa trên núi | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
2017 | Đinh Dậu | Sơn Hạ Hỏa | Lửa trên núi | Khảm Thủy | Khôn Thổ |
2018 | Mậu Tuất | Bình Địa Mộc | Gỗ đồng bằng | Ly Hoả | Càn Kim |
Phân loại quẻ mệnh có 2 loại : Đông tứ và Tây tứ.
Từ bảng tra trên ta thấy được quẻ mệnh của mình. Nếu thuộc mạng :
==> Thủy, mộc, hỏa là người thuộc mệnh Đông tứ mệnh
==> Thổ, kim thì người đó thuộc mệnh Tây tứ mệnh.
Thế nào là quẻ trạch, phân loại quẻ trạch, cách tìm quẻ trạch quẻ trạch của nhà ở được phân loại theo hướng vị Đông tứ trạch và Tây tứ trạch:
==> Hướng Đông, Đông Nam, Nam hoặc Bắc thuộc Đông tứ trạch.
==> Hướng Tây, Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nam thuộc Tây tứ trạch.
Như vậy, ta đã biết thế nào là quẻ mệnh gồm Đông tứ mệnh và Tây tứ mệnh.
Quẻ trạch gồm Đông tứ trạch và Tây tứ trạch.
Cách tìm quẻ trạch:
Đông tứ trạch | Tây tứ trạch |
– “Chấn” trạch tọa đông – “Tốn” trạch tọa đông nam – “Ly” trạch tọa nam – “Khảm” trạch tọa bắc |
– “Khôn” trạch tọa tây nam – “Đoài” trạch tọa tây – “Càn” trạch tọa tây bắc – “Cấn” trạch tọa đông bắc |
IV/ Vấn đề đặt ra khi chọn nhà phải trạch mệnh tương phối nghĩa là :
1/ Người mệnh: Đông tứ mệnh ở vào Đông tứ trạch
2/ Người mệnh: Tây tứ mệnh ở vào Tây tứ trạch
Là loại tương phối như vậy sẽ sinh cát là tốt hợp và ngược lại
Hay nói cách khác: Đông tứ trạch thì hợp với Đông tứ mệnh – Tây tứ trạch thì hợp với Tây tứ mệnh
Như vậy là mệnh và trạch (người và nhà ở) không cùng loại nên trạch mệnh không tương phối được thế là không tốt.
Ví dụ :
1/ Nếu người thuộc đông tứ mệnh nên chọn đông tứ trạch có chấn, tốn, khảm, ly để ở sẽ sinh lành.
2/ Nếu người thuộc tây tứ mệnh nên chọn tây tứ trạch có cấn, đoài, càn, khôn để ở sẽ sinh lành.
V/ Quẻ mệnh dựa vào ai
Quẻ mệnh lấy quẻ mệnh của người chủ trong gia đình (là người trụ cột trong gia đình). Nếu phong thủy ngôi nhà hợp có lợi cho chủ nhà nhiều tài lộc cả nhà được nhờ và ngược lại. Tóm lại, quẻ mệnh quẻ trạch tương phối phải xem cho chủ nhà.
Ví dụ : chủ nhà là nam
>>>> người sinh năm 1987 Đinh mão (nam), tra từ bảng quẻ mệnh, mệnh là Tốn Mộc
“mộc” thuộc quẻ mệnh đông tứ mệnh nên chọn nhà ở đông tứ trạch, nghĩa là “tốn” trạch tọa đông nam (ngôi nhà tọa đông nam là hợp) nghĩa là phần sau ngôi nhà là đông nam (xem phần I chỉ rõ tọa và hướng)
Ví dụ : chủ nhà là nữ
>>> Người sinh năm 1987 Đinh mão (nữ), tra bảng quẻ mệnh, quẻ mệnh làKhôn Thổ.
“thổ” thuộc quẻ mệnh tây tứ mệnh nên chọn nhà ở tây tứ trạch, nghĩa là “khôn” trạch tọa tây nam (ngôi nhà tọa tây nam là hợp) nghĩa là phần sau ngôi nhà là tây nam.
- Vị trí giường ngủ tốt nhất là nhìn theo hướng Nam Bắc thuận theo sức hấp dẫn của từ trường. Đầu nhìn theo hướng Nam hay hướng Bắc khi ngủ sẽ rất có ích cho sức khỏe
Theo quan niệm phong thủy, phòng ngủ đặt ở phía Tây ngôi nhà có lợi đối với việc cải thiện và bồi đắp tình cảm trong đời sống vợ chồng.
- Cửa phòng ngủ không nên đối diện với cửa nhà bếp để tránh sự ô nhiễm của khói bếp.
- Đầu giường ngủ phải được kê sát tường, có như vậy vận khí của gia chủ mới có nền tảng để phát triển, không bị rơi vào thế cô lập hoặc mất chỗ nương tựa.
Bất kể giường đặt chỗ nào cũng phải để cho ánh sáng mặt trời chiếu được đến mặt giường qua cửa sổ phòng ngủ hoặc cửa phòng ngủ. Điều này rất tốt cho việc hấp thu năng lượng của thiên nhiên và có lợi cho sức khỏe con người.
- Không nên có xà nhà ở phía trên giường ngủ để tránh cho người nằm trên giường không bị cảm giác đè ép, làm tổn hại đến tinh thần. Máy điều hòa không khí, đèn chùm cũng tránh không treo ngay phía trên giường ngủ.
- Giường ngủ không nên đối diện với cửa phòng ngủ. Khi đứng tại cửa phòng ngủ nhìn vào trong, nếu thấy giường bất kể là đầu giường, đuôi giường hay giữa giường cũng đều rơi vào trường hợp cửa xung chiếu trực tiếp (đối diện) với giường.
- Không nên để các vật dụng linh tinh dưới giường ngủ, càng không nên để quần áo cũ bẩn vì sẽ làm bất lợi cho người mẹ và thai nhi.
- Không nên đặt gương đối diện với giường ngủ, nếu nửa đêm giật mình thức giấc, người ngồi dậy sẽ dễ bị hoảng hốt vì thấy bóng mình trong gương, lâu ngày sẽ gây ra chứng tự kỷ ám thị. Tốt nhất là gắn gương ở mặt trong của tủ quần áo trong phòng ngủ.
- Một điều cần lưu ý, bạn không nên dùng màu đỏ tươi để sơn tường của phòng ngủ. Màu đỏ rực rỡ chỉ khiến cho tinh thần con người thêm hưng phấn vì bị kích thích cao độ. Con người trong tình trạng kích động như thế về lâu dài sẽ dễ bị suy sụp tinh thần, gây ra tâm lý bực dọc, nóng nảy.
Song song với việc lựa chọn màu sắc, ánh sáng cũng là một yếu tổ rất quan trọng trong không gian phòng ngủ. Do là không gian yên tĩnh nghỉ ngơi nên phòng ngủ không phù hợp với ánh đèn có độ sáng mạnh, gây tâm lý căng thẳng, bất an. Do đó, tốt nhất phòng ngủ nên chọn loại đèn có ánh sáng dịu nhẹ, các loại đèn hắt có tác dụng thư giãn tinh thần sau một ngày làm việc mệt mỏi.
- Không trưng bày đao kiếm, hung khí, tượng thần hay bàn thờ… trong phòng ngủ làm ảnh hưởng đến trường khí ổn định, bình an của phòng ngủ.
Hạn chế trang trí phòng ngủ bằng những vật dụng bằng kim loại bởi những vật dụng kim loại này mang tính lạnh nên không thích hợp với không gian ấm cúng, yên tĩnh cần có của phòng ngủ.
Chùa Sà Lôn hay còn có tên thường gọi là Chùa Chén Kiểu, chùa nằm tại xã Đại Tâm, huyện Mỹ Xuyên cách Trung tâm thành phố Sóc Trăng khoảng 12 km về hướng Bạc Liêu. Đây là ngôi chùa có thiết kế khá đặc biệt khi được ốp bằng những mảnh vỡ của chén, dĩa kiểu tạo nên những bức tranh đa sắc, sinh động.
Chùa Sà Lôn tọa lạc trong khuôn viên rộng lớn với những hàng cây sao dầu thẳng tắp vút ngọn lên trời xanh. Chùa Sà Lôn được xây dựng vào năm 1815 với vật liệu và kiến trúc đơn sơ. Về sau, chùa được tu bổ vài lần, đặc biệt, khi bị hư hại nặng vì chiến tranh, chùa Sà Lôn mới được dần xây dựng kiên cố, bắt đầu từ năm 1969.
Xung quanh chùa là tường rào trang trí hình tượng tiên nữ Apsara đang múa, tượng trưng cho hòa bình và thịnh vượng. Hai bên cổng vào có 2 tượng sư tử đá, mặt hướng ra quốc lộ. Phía trên là 3 ngôi tháp được chạm khắc, trang trí theo kiến trúc truyền thống của đồng bào Khmer Nam bộ. Dọc lối vào chùa là 2 hàng tượng thần Kâyno (kerno), đây là những bức tượng có khuôn mặt tiên nữ Apsara – tượng trưng cho sắc đẹp vĩnh hằng và thân hình chim thần Garuda – tượng trưng cho sức mạnh.
Chánh điện chùa có ba mái hình chóp. Mái cao nhất hình tam giác, hai đầu đao mỗi bên cong vút như vành trăng khuyết. Mái chánh điện được trang trí nhiều họa tiết màu sắc đẹp mắt. Tường rào và tường chánh điện dán gạch men nhiều màu đẹp đẽ. Chánh điện nằm trên 2 lần nền với 2 bậc cấp. Hai bên đầu bậc cấp nền chính có hai cột đá hình vuông. Đầu mỗi cột đá có tượng đá kỳ lân. Mặt chính và mặt hông mỗi cột đá đều có khắc hai hàng chữ Hán. Nền chánh điện lót gạch bông. Phía trong gian chánh điện, cùng với không khí trang nghiêm, hòa quyện khói hương, du khách sẽ thấy khoảng 20 tượng Phật lớn nhỏ với nhiều tư thế tọa thiền khác nhau. Xung quang tường là những tranh vẽ kể về cuộc đời của đức Phật Thích Ca, từ khi người sinh ra cho đến khi đắc đạo.
Giữa sân Chùa Chén Kiểu là cột cờ, với hình tượng rắn thần Nagar xòe 5 đầu khá sinh động, nhằm nhắc đến điển tích rắn xòe đầu ra để che mưa cho Đức Phật khi người tọa thiền. Rắn thần Nagar là trang trí quan trọng trong nghệ thuật điêu khắc của Phật giáo Khmer. Người Khmer Sóc Trăng nói riêng và Nam bộ nói chung, chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Ấn Độ, vì thế Phật giáo Tiểu thừa là tôn giáo chính, chi phối đời sống tinh thần của họ. Chính vì vậy, họ chỉ thờ Phật Thích Ca, mà không thờ các vị Quan âm hay Bồ Tát khác.
Phía sau chùa là Khu vườn Phật Thích Ca giảng đạo và nhập Niết bàn, mô phỏng khá sinh động quá trình ra đời, đi tìm chân lý, giác ngộ cho đến khi nhập cõi Niết bàn của đức Phật Thích Ca.
Đặc biệt, trong chùa có hai căn phòng, là nơi lưu giữ một số đồ gỗ của “Công tử Bạc Liêu”, Trần Trinh Huy (1900-1974).
Chùa Sà Lôn là ngôi chùa gốm cổ nhất ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Với lối kiến trúc độc đáo kết hợp hài hòa văn hóa giữa 3 dân tộc Kinh, Hoa, Khmer, chùa Chén Kiểu đang thu hút nhiều khách du lịch chiêm ngưỡng và tỏ lòng thành kính nơi cửa Phật. Đây là 1 trong 18 điểm đến du lịch, mà du khách không thể bỏ lỡ khi có dịp về Sóc Trăng.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
Một gò Thái âm đầy đà, cao, rộng, người có óc phiêu lưu, thích bềnh bồng trên sóng nước, giàu mơ mộng nhưng có khả năng sáng tác, có óc sáng chế.
Một gò Thái âm nổi cao thái quá và mềm mại, người bất nhất, không chủ định, giàu tham vọng.
Một đặc điểm cần để ý khi nghiên cứu gò Thái âm là phải quan sát đồng thời vớiđường Trí Đạo, vì đường Trí Đạo chảy về gò Thái Âm hoặc tràn vào gò Thái Âmđều xác định ảnh hưởng của sức tưởng tượng của người. Hơn nữa, tất cả những sự xáo trộn về tâm thần tập trung trong đường Trí đạo đều được xác định một cách rõ ràng trong gò Thái Âm. Và, khi mà gò Thái âm nảy nở quá mức người sẽ chắc chắn bị xáo trộn về tâm thần hoặc xúc động thái quá, hoặc cả hai, tâm thần và xúc động cũng bị xáo trộn
Nếu một gò Thái âm nổi cao, gặp một gò Thuỷ tinh đầy đặn và một ngón út trội, người sẽ hứa hẹn một khả năng sáng tác dồi dào, có thể là một văn nhân hay thi sĩ.
Khi một gò Thái âm thật nổi, cần phải quan sát các đầu ngón tay và ngón cái, vì một hình thức như thế trong một bàn tay yếu, mỏng mảnh, người sẽ mất tất cả vì quá mơ mộng. Nếu bàn tay gân guốt, các ngón đều đặn trong hình thức gò Thái Âm này, người sẽ có tầm hoạt động sâu và mãi mãi.
Một gò Thái Âm tràn đầy ra ngoài bìa bàn tay chứng tỏ người mộng mơ đến trở thành mê tín.
Trích KHÁM PHÁ NHỮNG BÍ MẬT CỦA BÀN TAY
_ Bác sĩ Joef Ranald_
![]() |
(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)