Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tướng người chung thủy

Các biểu hiện sau đây càng có nhiều thì người đó càng chung thủy trong tình yêu, bao gồm các dấu hiệu trên thân thể, khuôn mặt, dáng điệu, trên tay chân và nốt ruồi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Trích trong KHÁM PHÁ BÍ ẨN CON NGƯỜI QUA KHUÔN MẶT, DÁNG HÌNH của Đặng Xuân Xuyến -

Theo thuật xem tướng của người phương Đông thì bất luận là nam hay nữ, nếu tập trung nhiều dấu hiệu được liệt kê dưới đây thì đấy là mẫu người chung thủy trong tình yêu.

chung thủy trong tình yêu

1. BIỂU HIỆN TRÊN THÂN THỂ

- Đầu tròn nhưng hơi mảnh dẻ và cổ cao.

- Đầu tròn vừa. Cổ tròn nhưng không nổi gân.

- Đầu suôn nhọn như hình quả trứng.

- Đầu to nhưng thân mình lại nhỏ. Hoặc đầu lớn nhưng đầu lại vuông.

- Tóc đen, chân tóc khít rậm và to sợi.

- Tóc mềm nhưng lại nằm rạp xuống đầu.

- Tóc mềm sợi và lượn sóng.

- Hai bên mang tai có xương nổi cao.

- Cổ tròn, vững và tương đối xứng với đầu và vai.

- Vai nở rộng và eo lưng đầy đặn.

- Ngực nẩy nở vừa phải và dài.

- Phụ nữ vú lớn nhưng không xệ xuống. Núm vú hướng lên phía trên.

- Bụng đầy đặn và hướng lên phía trên.

- Rốn cao lên phía trên, cách xa hạ bộ.

- Tiểu tiện vọt như hạt châu (tua ra như mưa).

- Lông ở âm bộ và dương bộ mượt, mọc không quá nhiều. Đàn bà thì âm bộ hướng lên trên.

2. BIỂU HIỆN TRÊN KHUÔN MẶT, DÁNG ĐIỆU

- Hai mắt tròng đen nhiều, tròng trắng ít.

- Nếu là phụ nữ mắt bên phải nhỏ hơn mắt bên trái, còn nếu là đàn ông thì mắt bên trái nhỏ hơn mắt bên phải.

- Hai mắt lớn, tươi sáng và có thần.

- Chân mày to và đầy đặn.

- Lông mày mọc rủ quắp xuống mắt.

- Tai cứng và mọc cao.

- Hai tai lớn, dầy, cả hai lỗ tai cùng lớn.

- Lưỡng quyền thon nhỏ và ít thịt.

- Lưỡng quyền là hai gu xương nổi thấp, má no đầy nhưng không xệ.

- Trán cao, tròn hơi dô và có vài nếp nhăn cách xa chân lông mày.

- Thân mũi dài, to đều đặn, sống mũi có chiều hơi cong.

- Sống mũi nhỏ, đầu mũi to và tròn.

- Mũi to nhưng cân xứng với khuôn mặt, đầu lỗ mũi to nhưng tròn đẹp, hai cánh mũi nở.

- Nhân trung sâu, rộng như cái máng và tươi sáng. Hoặc nhân trung dài, rộng và ngay ngắn.

- Nhân trung bề ngang hơi hẹp nhưng dài và sâu.

- Khóe miệng hai bên hướng lên trên.

- Miệng ngay ngắn, hai môi đều có lằn vạch đứng.

- Môi trên, môi dưới hài hòa, cân xứng và cùng hướng lên phía trên.

- Hai môi vừa dầy và đều đặn.

- Ngủ thường nằm nghiêng, tay đặt lên người, dáng người ngay ngắn.

- Dáng điệu từ tốn, khoan thai, chắc chắn.

3. BIỂU HIỆN TRÊN TAY, CHÂN

- Cánh tay phía trên hơi gầy, nhỏ, dưới bắp tay đến cườm hơi mập, lớn.

- Cánh tay dài, nhỏ, không cân xứng với dáng hình.

- Bàn tay ướt và gò Kim Tinh nổi cao.

- Bàn tay gầy và mềm yếu.

- Bàn tay khuyết lòng nhưng ngón tay tròn trịa, no đủ.

- Bàn tay mềm nhưng hơi thô kệch.

- Bàn tay cứng và có phần hơi thô.

- Các đầu ngón tay tròn trịa hoặc vông vức, nghiêm chỉnh.

- Lòng bàn tay có ít đường chỉ chằng chịt, rối loạn.

- Móng tay dài và cứng nhưng không dễ gẫy.

- Bàn tay có sắc đỏ đậm hoặc hồng nhạt.

- Phía sau lưng bàn tay có nhiều lằn nhăn.

- Phía sau lưng bàn tay có những chỗ lòm hóp.

- Gò Kim Tinh được no đầy và hồng hào.

- Chân nhỏ, ít nổi gân, ít thịt và xương.

- Bàn chân hơi cong và có ít lông.

- Bàn chân có lũm (lõm) và cứng rắn.

- Các ngón chân cân xứng, đều đặn nhau.

4. BIỂU HIỆN TRÊN NỐT RUỒI

- Nốt ruồi mọc ở gò má bên trái.

- Nốt ruồi mọc ở tại yết hầu, gu xương giữa cổ.

- Nốt ruồi mọc ở dưới gan bàn chân.


(Trích trong KHÁM PHÁ BÍ ẨN CON NGƯỜI QUA KHUÔN MẶT, DÁNG HÌNH của Đặng Xuân Xuyến, nxb Thanh Hóa)

khám phá bí ẩn con người qua khuôn mặt dáng hình

Bài viết được tác giả gửi đến trang nhà Xem Tướng chấm net, tháng 7 năm 2015

Một số sách của tác giả Đặng Xuân Xuyến đã xuất bản như:

  • Tử Vi Kiến Giải - nxb Thanh Hóa
  • Tử Vi Vấn Đáp - nxb Thanh Hóa
  • Vào chùa lễ Phật, những điều cần biết - nxb Văn Hóa Thông Tin
  • Tìm hiểu văn hóa tín ngưỡng trong dân gian - nxb Thanh Hóa
  • Điềm báo và kiêng kỵ trong dân gian - nxb Lao Động - Xã Hội
  • Khám phá bí ẩn con người qua bàn tay - nxb Thanh Hóa
  • Khám phá bí ẩn con người qua khuôn mặt dáng hình - nxb Thanh Hóa

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người chung thủy

Nguyên tắc làm đẹp cho nhà ở –

Phòng cần phải đẹp, căn phòng đẹp có thể khiến con người cảm thấy an nhàn, thoải mái và ấm áp. Cũng giống như con người, căn phòng sau khi được trang hoàng mới trở nên tráng lệ. Tuy nhiên, mọi người thường chú trọng đến việc trang điểm cho chính mìn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

9-21

h mà bỏ quên việc tô điểm cho căn phòng mình ở; hay cho dù có coi trọng việc đó thì cũng không biết bắt đầu từ đâu.

Để khiến ngôi nhà là mái ấm đẹp, dễ chịu thì phải bỏ công sức quan tâm đến. Làm đẹp cho căn phòng có quy luật nhất định nhưng không phải là không thể thay đổi được. Bạn có thể căn cứ vào kinh nghiệm của mình cộng với tham khảo để tạo cho mình một khoảng không gian riêng như ý.

(1) Lấy ánh sáng, vệ sinh

Căn phòng ngoài ngăn nắp sạch sẽ, không bám bụi ra thì ánh sáng đầy đủ là điều vô cùng quan trọng. Nếu cửa sổ nhỏ, lấy ánh sáng không đủ nên sử dụng các đồ màu nhạt và bố trí đèn có ánh sáng mạnh.

(2) Kinh tế, hợp lý

Tất cả đồ đạc và việc sắp đặt chúng phải thuận tiện theo yêu cầu của cuộc sống; không gian phải sử dụng một cách kinh tế, có hiệu quả; cho dù là không gian nhỏ cũng không được biến thành góc chết.

(3) Bài trí đơn giản

Bài trí trong phòng phải có điểm nhấn, có trật tự, đồ đạc không nên quá nhiều, nếu không sẽ có cảm giác bừa bộn. Sự bài trí đồ đạc trong mỗi phòng phải thể hiện được phong cách của phòng đó chứ không được chất đồ lung tung, chẳng hạn phòng ăn không nên để dụng cụ làm vườn, phòng ngủ không nên để đồ làm bếp.

(4) Hài hòa, thống nhất

Đồ đạc lung tung chắc chắn là không đẹp, chất liệu và hình dáng của đồ dùng trong nhà và đồ trang trí dệt may tốt nhất nên thống nhất để thể hiện được cái đẹp của sự hài hòa.

(5) Phối hợp nhịp nhàng

Các loại đồ dùng phải có tỉ lệ thích hợp mói tạo cảm giác hài hòa.

(6) Đối xứng

Việc sắp xếp đồ đạc phải cân bằng, ví dụ hai bên phải đặt ghế sofa có kích cỡ giống nhau, cốc quanh ấm trà phải có kích cỡ thích hợp tạo cảm giác hài hòa, dễ chịu.

(7) Màu sắc hài hòa

Màu sắc trong và ngoài phòng phải hài hòa cân xứng, mỗi căn phòng lại có màu sắc vui mắt riêng nhưng nguyên tắc là mỗi phòng không nên sơn quá hai màu.

(8) Tạo cảm giác

Có 3 thứ có thế tạo cảm giác, đó là màu sắc, đèn và sự bài trí đồ đạc, trong đó đèn là công cụ tốt nhất để điều tiết tình cảm.

(9) Đan xen, thay đổi

Đồ dùng trong nhà tuy cố gắng làm sao cho đơn giản, thống nhất, nhưng cũng phải có sự thay đổi và phối hợp đan xen, ví như sự đan xen thú vị giữa các đồ dùng trong nhà, con người cố ý tạo ra sự cao thấp không giống nhau, màu sắc không giống nhau như vậy mới tạo được cảm giác đẹp mới lạ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguyên tắc làm đẹp cho nhà ở –

Phong thủy nhà ở sớm mang tin vui cho các cặp vợ chồng

Nếu vợ chồng bạn hoàn toàn khỏe mạnh mà mãi không có con, nên chú ý tới một số yếu tố phong thủy nhà ở dưới đây, nó sẽ rất hữu ích cho việc sinh con.
Phong thủy nhà ở sớm mang tin vui cho các cặp vợ chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Nếu vợ chồng bạn hoàn toàn khỏe mạnh mà mãi không có con, nên chú ý tới một số yếu tố phong thủy nhà ở dưới đây, nó sẽ rất hữu ích cho việc cầu con cái.



Ngoài yếu tố con người, môi trường xung quanh, các trường khí phong thủy tích cực sẽ mang lại nguồn sinh khí dồi dào, giúp cuộc sống thêm tươi vui, hạnh phúc.

Nếu vợ chồng bạn có sức khỏe bình thường, kiểm tra y tế không gặp bất cứ trục trặc nào mà vẫn chưa thể có con. Bạn nên thử tìm cách cải thiện hoặc thay đổi phong thủy nhà ở xem sao, biết đâu sẽ có hiệu quả bất ngờ.

Phong thuy nha o som mang tin vui cho cac cap vo chong hinh anh
 
1. Tuyệt đối tránh tình trạng “đấu khẩu sát”


“Đấu khẩu sát” chỉ trong nhà có các cửa đối nhau. Đó có thể là cửa chính đối cửa hậu, cửa sổ đối cửa chính...

Cục diện “đấu khẩu sát” sẽ khiến mối quan hệ vợ chồng gia chủ bất hòa, thường xuyên tranh cãi, khó hòa hợp chăn gối nên khó có con.

Nếu gia đình bạn đang phạm phải điều này, nên thay đổi cấu trúc các cửa hoặc có thể dùng bình phong để ngăn không gian giữa hai cửa, làm giảm ảnh hưởng từ phong thủy xấu.

Phong thuy nha o som mang tin vui cho cac cap vo chong hinh anh 2
 
2. Đặc biệt lưu ý tới phong thủy phòng ngủ


- Kiểm tra xem có những vật nhọn, góc cạnh nào từ bên ngoài đang chĩa vào phòng ngủ hay không. Nếu có bạn nên che chắn hoặc tìm cách ngăn chặn chúng lại nhằm giảm ảnh hưởng xấu về phong thủy.

- Tránh hút bụi, dọn dẹp gầm giường trong giai đoạn đang cố gắng có con, khi mang thai hoặc lúc mới sinh. Không nên làm động những nguồn năng lượng dưới gầm giường, dễ tạo ra sát khí ảnh hưởng không tốt tới việc thụ thai, mang thai.

Mua nhà không xem phong thủy, tiền thì mất mà tật vẫn mang
Cẩn tắc thì vô áy náy. Chọn nhà cũng vậy, chớ nên vội vàng chi tiền cho những căn nhà không hợp phong thủy, hay có địa thế bất lợi… nếu không
- Treo tranh ảnh trẻ em gần giường ngủ. Cách làm này có hàm ý mong muốn sớm sinh con đẻ cái, sinh ra những đứa trẻ xinh xắn, đáng yêu.

- Sử dụng tông màu xanh lá tự nhiên trong phòng ngủ: Các bức tường, chăn, ga, gối, đệm... có màu xanh lá sẽ mang tới nguồn năng lượng tươi mới, chữa lành mọi dấu hiệu tắc nghẽn năng lượng trong phòng ngủ, gây cản trở quá trình thụ thai.

Ngoài ra, bức tường phía sau giường nên điểm thêm tông màu vàng nắng hoặc màu da cam. Vì 2 màu này liên quan đến sự sinh sản (màu của năng lượng trẻ em). Tuy vậy, không nên quá lạm dụng, sẽ khiến căn phòng bí bách, khó yên giấc.

- Đặt vật phẩm phong thủy: Đặt tượng con rồng nhỏ cùng phía với giường, một viên đá trên lưng con voi sẽ giúp đẩy nhanh quá trình mang thai và sinh con trai. Những bức tranh hình trái lựu, hay những động vật nhỏ cũng rất hữu ích trong việc khích lệ có con.

=> ## cung cấp công cụ tra cứu ngày sinh con năm 2016 đẹp nhất và hợp tuổi bố mẹ

Ngân Hà

Những đồ vật không ngờ lại hút vận tiểu nhân xui rủi vào người
– Một số đồ vật xung quanh bạn, nếu không sử dụng đúng cách, nó sẽ thu hút vận tiểu nhân, mang tới điều xui xẻo, ảnh hưởng không nhỏ tới tìn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy nhà ở sớm mang tin vui cho các cặp vợ chồng

Năng lượng lưu thông ở khu vực cầu thang

Có thể tăng cường khí ở khu vực cầu thang bằng cách chiếu sáng. Cũng có thể kết hợp tăng cường bằng cách treo những hình ảnh tươi đẹp trên tường, dọc theo cầu
Năng lượng lưu thông ở khu vực cầu thang

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khu vực cầu thang nên được chiếu sáng

Hãy quan tâm đến năng lượng lưu thông lên xuống ở khu vực cầu thang. Khí trong khu vực cầu thang không được để trong tình trạng bị cản trở. Nếu thấy tình trạng này, bạn phải khắc phục ngay. Tất nhiên, khu vực ở cầu thang có thể chật chội bởi vì cầu thang hẹp nhưng bạn có thể giải quyết bằng cách chiếu sáng khu vực này.

Có thể tăng cường khí ở khu vực cầu thang bằng cách chiếu sáng. Cũng có thể kết hợp tăng cường bằng cách treo những hình ảnh tươi đẹp trên tường, dọc theo cầu thang.

Có thể treo hình ảnh có ý nghĩa bảo vệ ở chân cầu thang và một hình ảnh có ý nghĩa sung túc, vẹn toàn ở đầu cầu thang, tượng trưng cho tiềm năng của ngôi nhà. Đó có thể là một bức tranh về cảnh thu hoạch trên đồng, hoa nở, chim làm tổ hoặc chim bay, trái chín bằng khả năng sáng tạo và trí tưởng tượng của bạn.

(Theo Sắp xếp nhà cửa theo phong thủy)

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Năng lượng lưu thông ở khu vực cầu thang

Cách giữ ban công ngăn nắp, sạch sẽ, thông thoáng –

Theo các nhà phong thuỷ học, chức năng vốn có của ban công là khoảng không gian quan trọng, giao lưu giữa bên trong và bên ngoài nhà, là đường thông quan trọng nạp khí của ngôi nhà. Với tình trạng “đất chật, người đông”, ban công không còn đơn thuần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo các nhà phong thuỷ học, chức năng vốn có của ban công là khoảng không gian quan trọng, giao lưu giữa bên trong và bên ngoài nhà, là đường thông quan trọng nạp khí của ngôi nhà.

Với tình trạng “đất chật, người đông”, ban công không còn đơn thuần là chỗ hóng mát, đón nắng ban mai, nhiều gia đình tận dụng nó làm chỗ để cơi nới phòng, phơi quần áo, đặt máy giặt, tủ đựng dụng cụ, hộp xốp trồng rau…

Dù vậy, bạn cũng cần phải giữ cho ban công luôn gọn gàng, thoáng đãng, sạch sẽ. Ngoài việc quét dọn hàng ngày, bạn cần phải chú ý một số việc như sau:

–   Nhằm giữ lại cho ban công có màu sắc hoà hợp với cảnh quan bên ngoài, thay vì chọn loại vật liệu nhân tạo có độ phản quang và hoa văn đơn điệu để lát nền, bạn hãy chọn vật liệu thuần thiên nhiên như đá phiến chưa gia công mài bóng, hoặc khảm chìm đá cuội để ban công vừa thoáng đãng sạch sẽ, vừa mang hơi thở ấm áp tự nhiên.

bancong

–  Nếu ban công rộng, bạn có thể để một bộ bàn ghế gấp ở đó, tiết trời mát mẻ có thể cùng nhau hóng mát hoặc tụ tập ăn uống, dùng xong xếp bàn ghế lại, ban công vẫn thoáng đãng mà bạn thì có thêm niềm vui. Ngoài ra, để tránh khí hậu mùa hè nóng bức, bạn có thể dùng rèm vải chắc nặng hoặc mành trúc che lại.

Treo vài giỏ phong lan và đặt thêm vài chậu hoa cây cảnh, ban công nhà bạn sẽ trở thành một “lá phổi xanh” có tác dụng làm sạch môi trường, hấp thu khí độc hại, điều tiết độ ẩm, sản sinh oxy, giảm bớt tiếng ồn từ ngoài vào và làm tăng tính thẩm mỹ, tao nhã của ngôi nhà, cũng như mang lại cho người trong nhà một tinh thần sảng khoái.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách giữ ban công ngăn nắp, sạch sẽ, thông thoáng –

Những bài thơ hay chúc mừng đám cưới

Những bài thơ hay chúc mừng đám cưới. Đám cưới là sự kiện trọng đại trong đời, còn gì vui hơn nếu người thân, bè bạn. Hãy tặng cho họ những vần thơ hay nhất
Những bài thơ hay chúc mừng đám cưới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những bài thơ hay chúc mừng đám cưới. Đám cưới là sự kiện trọng đại trong đời, còn gì vui hơn nếu người thân, bè bạn của bạn đang háo hức chuẩn bị cho ngày trọng đại ấy. Bạn hãy chọn ngay cho mình một trong bài thơ hay chúc mừng đám cưới sau đây để làm quà tặng độc đáo cho những người thân yêu ấy.

Những bài thơ hay chúc mừng đám cưới

Mồi kia đã có trên bàn
Bên cạnh lại có ngập tràn là bia
Nào ta cùng hãy khui ra
Rót vào ly đá để cùng nhau chúc mừng
Chúc cho long phụng tương phùng
Chúc cho hai họ nên bà con tiên
Hạnh phúc luôn mãi vẹn nguyên
Xin mời quý vị hãy cùng nâng ly

———

Tôi xin chúc các cụ ông cụ bà
Sống lâu sống khoẻ trẻ không già
Hai họ thông gia tình gắn kết
mãi giữ lương duyên thủa ban đầu

———-

Xin chúc các cô gái chưa chồng
mau mau thanh toán nạn nằm không
tìm hoài tìm mãi rồi sẽ thấy
Để cuối năm nay sẽ lấy chồng

Tôi lại xin chúc các chàng trai
Chưa có bạn gái phải tìm hoài
Chưa có đi tìm rồi sẽ có
Để rồi đám cưới như hôm nay

Tôi cũng lại chúc chú rể cô dâu
Sống mãi bên nhau đến bạc đầu
Đầu lòng sinh trai, sau sinh gái
Họ hàng hai bên thoả nổi lòng

Gái… đẹp duyên nữ tú
Trai… tốt lứa nam thanh
Chim khôn chọn nhánh lựa cành
Gái khôn chọn chốn trai lành gửi thân

Yêu nhau thì phải thương nhau
Thương nhau thì phải yêu nhau
Yêu nhau thì phải đi tàu đi xe
Chiều chiều ra đúng bờ tre
Muốn về thăm quê mẹ thì khỏi đi xe đò
Ngày vui tiéng hát điẹu hò
Tàu anh qua núi xin mời lắng nghe

Chúc mừng đám cưới (tên cô dâu)
Trăm năm hạnh phúc chứa chan nghĩa tình
Đẹp trai tài giỏi (tên chú rể)
(Tên cô dâu) lí lắc xinh xinh quá nào
Hai người hạnh phúc biết bao
Chữ yêu thắm thiết ngọt ngào bay bay
Tình yêu mộng đẹp đắm say
Hai người vui vẻ tháng ngày yêu đương
Chúc cho tình đẹp mãi dường
Vui nhau chung sống yêu thương chẳng ngừng
Chúc cho đám cưới tưng bừng
Một đôi tài sắc khách mừng quá đông
Một đêm hoa chúc động phòng
Vu sơn tuyệt đỉnh mênh mông dạt dào
Một tuần trăng mật đẹp sao
Chúc cho mãi mãi ngọt ngào bên nhau

Hôm nay đám cưới của em
Họ hàng hang hốc đến xem rộn ràng
Đáng nhẽ pháo nổ đùng đoàng
Nhưng bởi cấm pháo, cả làng im re

Tám giờ có 1 chiếc xe
Cắm đầy hoa hoét le te đi vào
Trẻ con bu tới ào ào
Đứa thì sờ lốp, đứa vào bóp phanh

Mẹ em la ó thất thanh:
“Tiên sư bố lũ trẻ ranh quê mùa”
Bố em thấy thế nói đùa:
“Bà lên thành phố mới vừa mấy năm”

Trang điểm thuê hết năm trăm
Đang từ đầu ngõ xăm xăm đi vào
Gặp ai cũng toét miệng chào
Thì ra léo biết đứa nào cô dâu

Chín giờ khách khứa đã bâu
Ồn ào náo nhiệt như trâu xổng chuồng
Cô dâu trang điểm trong buồng
Một lũ gái gú dựa tường đứng xem

Mười giờ đã thấy bem bem
Xe nhà chú rể màu kem, đi vào
Chú rể đáng mặt anh hào
Cao đúng mét rưỡi, đang chào bà con

Chủ hôn đứng dậy lon ton
Quát tháo inh ỏi như còn thanh niên
Hai họ chào hỏi liên miên
Cô dâu chú rể thì đần mặt ra

Mong sao đám cưới qua loa
Để đêm hí hí, thế là xong phim
Bao năm mỏi gối đi tìm
Giờ coi như đã chết chìm cùng nhau

Chủ hôn nói một lúc lâu
Bỗng nhiên Mic tịt (đầu dây bị chờn)
Chả biết làm cách nào hơn
Chủ hôn ngồi xuống, kệ con bà mày

Bây giờ đến đoạn trao tay
Chú rể rút nhẫn mặt mày buồn thiu
Khách khứa thì líu tìu tìu
Đứa bảo 2 chỉ, đứa thì một cây

Cô dâu hỏi nhỏ: “vàng tây?”
Chú rể quắc mắt: “Tây thế léo nào?
Nhẫn anh mua tận Hàng Đào
Em an tâm nhé! Thôi, vào thắp hương!”

Cả 2 đứng trước hương đường
Cô dâu tranh thủ soi gương, vuốt đầu
Chú rể nét mặt âu sầu
Cắm đầu xuống vái, rất lâu, rồi chuồn

Cô dâu cũng có vẻ buồn
Nắm tay bà mẹ, lệ tuôn ầm ầm
Chú rể đóng cửa đánh rầm
Cô dâu giật thót, đâm đầu vào xe

Đến chiều đám cưới vắng hoe
Cô dâu gọi điện: “đã về đến nơi”
Bố em thở hắt một hơi
“Thế là cục nợ có nơi rước rồi”

Cưới nhau từ thưở hai mươi ba
Đến khi hai mươi tám đậm đà năm con ..(hì..hì..)
Năm con đâu đã muốn dừng.
Lỡ (tên cô dâu) muốn nữa biết làm sao đây???
(Tên chú rể) rằng:Lấy chồng thì phải chiều chồng
Anh sao tui vậy cả nhà đông vui!!!(mắc cỡ wá đi…hi…hi…)

Hãy sát đôi đầu, hãy kề đôi ngực
Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài
Những cánh tay hãy quấn riết đôi vai
Và dâng cả tình yêu lên sóng mắt

Hãy khắng khít những cặp môi gắn chặt
Cho anh nghe đôi hàm ngọc của răng
Trong say sưa, anh sẽ bảo em rằng
Gần hơn nữa thế vẫn còn xa lắm

Đêm,đêm,đêm….

Lống nga lống ngống canh dài

Tay chân bủn rủn biết làm gì đây

Chao ơi sao sợ thế này

Có người nào biết chỉ giùm tui chăng ?????

Quen nhau mình tưởng quen chơi
Ai ngờ cưới thiệt mừng ơi là mừng
Trăm năm biết có chăng gì
Cưới nhau thì phải trọn đời bên nhau
Dù cho núi lở sông mòn
Tình ta mãi đẹp, không mòn như sông.

MÙA CƯỚI
Không khí mùa này thấy vui ghê!
Thay phiên đám cưới thấy mà mê!
Mai mốt vào mùa mưa khỏi lạnh
Sang năm con cháu có đầy đàn!!!!

Còn dăm bữa nữa tới ngày vui
(Tên cô dâu, chú rể) nên đôi kết vợ chồng
Chúc cho lửa mặn hương nồng!
Răng long đầu bạc vẫn còn có nhau.

Ngày xưa hai chữ làm quen
Quen rồi bốn chữ chúng mình yêu nhau
Và rồi hai chữ trọn đời
Bây giờ bốn chữ suốt đời bên nhau

Ngày xưa hai chữ làm quen
Quen rồi bốn chữ chúng mình yêu nhau
Và rồi hai chữ trọn đời
Bây giờ bốn chữ suốt đời bên nhau.

MỪNG BỜM LẤY VỢ

Hôm nay Bờm lấy vợ rồi
Từ nay Bờm hết đơn côi một mình
Vợ Bờm trông thật là xinh
Đôi mắt ánh nến lung linh nhìn Bờm
Còn Bờm tóc chải thật thơm
Miệng cười lỏn lẻn dễ thương quá chừng
Cái thời lãng tử đã dừng
Từ nay Bờm phải cầm chừng nghe chưa!
Không được đi sớm về trưa,
Không được để vợ nắng mưa một mình
Vợ giận thì cứ làm thinh
Người ta bớt nóng thân chinh dỗ dành:
Thôi mà! Em giận chi anh?
Anh tuy khờ dại, nhưng anh thiệt tình.
Anh trôi như dải lục bình
May nhờ em vớt , giờ mình có nhau.
Lòng anh nguyện ước trước sau
Yêu em mãi mãi như cau yêu trầu
Đến khi trăm tuổi bạc đầu
Vẫn còn nồng đượm như ngày đầu tiên.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những bài thơ hay chúc mừng đám cưới

Xem tướng khi xòe bàn tay –

Xòe bàn tay trên mặt phẳng và găng hết cỡ. + Ngón cái với bàn tay tạo một góc bằng 60° thì trí tuệ khoát đạt, thích tự do. + Ngón cái trắc diện (Profit) vuông 90n thì tinh thần trong sáng, tính minh bạch. + Ngón cái choạc càng rộng > 90° thì càng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xòe bàn tay trên mặt phẳng và găng hết cỡ.

tuong-phong-khoang

+ Ngón cái với bàn tay tạo một góc bằng 60° thì trí tuệ khoát đạt, thích tự do.
+ Ngón cái trắc diện (Profit) vuông 90n thì tinh thần trong sáng, tính minh bạch.
+ Ngón cái choạc càng rộng > 90° thì càng độc lập suy nghĩ và có bản lĩnh.
+ Ngón cái choạc càng hẹp < 45° thì sông thiếu bản lĩnh, lệ thuộc.
+ Ngón cái choạc < 60° thì khuynh hướng bình thường.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng khi xòe bàn tay –

Nguồn gốc khoa tử vi

Bài viết tìm hiểu nguồn gốc khoa Tử Vi của tác giả Hoàng Quân rất hay. Mời mọi người cùng tham khảo!
Nguồn gốc khoa tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của G.S Hoàng-Quân

A- Nguồn gốc khoa Tử-Vi

- Tranh luận về khoa Tử -Vi hiện nay, người ta có ba giả-thuyết về nguồn gốc của nó:

- Giả-thuyết thứ nhất: Nói rằng đời người có nhiều sự kiện. Các sự kiện khi giao huy với nhau thành ra sự kiện mới. Trong khoa Tử-Vi, mỗi sao biểu tượng cho một sự kiện đó.

- Giả-thuyết thứ hai: Khoa Tử-Vi là một số sự kiện. Nguyên lý của khoa Tử-Vi không giải-thích được. Các ngôi sao chỉ giao huy với nhau trên một tờ giấy.

- Giả-thuyết thứ ba: lại cho rằng nguyên lý của khoa Tử-Vi là Dịch lý. Hi-Di tiên-sinh đã căn cứ vào Dịch lý mà san định ra Tử-Vi. Như đã trình bày ở trên: Các nhà nghiên cứu Tử-Vi ít để ý đến lịch-sử nguồn gốc của nó. Nên diễn tiến lịch-sử bị bỏ quên. Người đời nay muốn tìm, rất khó khăn, nên mới có những giả-thuyết đặt ra theo trí thông minh sâu sắc mà suy diễn.

Trở lại với nguyên lý khoa Tử-Vi, ta hãy căn cứ vào đoạn đối đáp sau đây của Tống-Thái-Tổ với Hi-Di tiên-sinh:

“.. Quả nhân đã đọc Tử-Vi Tinh-Nghĩa kinh do tiên-sinh ban cho. Tiên-sinh là Thần Tiên khác phàm, trên cảm cùng trời, dưới thông cùng nhân gian. Tiên-sinh đã khải ngộ đặt ra từ bao giờ vậy?

Ðáp:

- Không phải bần đạo đâu. Không phải bần đạo đâu. Khoa Tử-Vi uyên-nguyên từ đời Ðông-Tấn. Qua đời Lục-Triều vẫn chưa có qui-tắc nhất định. Ðời Ðường thịnh trị mấy trăm năm, không ai để tâm đến. Vừa qua thiên-hạ đại loạn, thế sự thăng trầm, chết sống vô định, nên Tử-Vi được san định lại. Bần đạo nhân học 6 khoa Thiên-Văn, Lịch-Phổ, Ngũ-Hành, Ngũ-Sự, Tạp-Chiêm và Hình-Tượng thấy cùng một gốc ở vũ-trụ biến dịch, nên tập lại vậy. Xưa kia các vị Chúc-Quan đã tốn nhiều tâm lực nghiên-cứu ra đây... (Triệu-thi Minh thuyết Tử-vi kinh, chương 1).

Như vậy, nguồn gốc khoa Tử-Vi rất xa, và nguyên-lý của nó ở 6 khoa và gốc ở vũ-trụ.

B– Sáu khoa tạo thành Tử-Vi

Uyên-nguyên khoa Tử-Vi là ở 6 khoa cổ trong thời kỳ văn-hóa sơ khai của Trung-Hoa. Thời đại thượng cổ Trung-Hoa: Hoàng-Ðế, Hạ-Vũ, Tây-Châu, Xuân-Thu, tính ra khoảng 2502 năm ( Từ 2752 đến 250 trước Tây-lịch) nói về tư tưởng rất kính sợ trời. Giữa trời và người có sự liên-hệ quan trọng, được biểu dương bằng câu:

Thiên nhân tượng dữ.
Nghĩa là giữa trời và người có cùng mối liên quan với nhau.

Kinh-Thư nói: Thiên sinh chúng dân.

Kinh-Thư nói: Duy Thiên âm chất hạ dân.

Lễ-Ký nói: Vạn vật bản hồ Thiên - Trời có toàn quyền soi xét khắp nơi, trời có phép tắc trị muôn vật, làm khuôn phép cho mọi ngươì, tức là cái nền tảng đạo đức.

Kinh-Thi nói:

Thuợng đế lâm hạ hữu hách
Giám quan tứ phương.

Lại nói:

Thiên giám tại hạ.
Thiên sinh chúng dân.
Hữu vật hữu tắc.

Kinh-Thư nói:

Thiên tự hữu điển.
Thiên trật hữu lễ.

Ấy bởi cái tư-tưởng đó mới phát sinh ra học thuật. Mà giữ về cái quan hệ học thuật ấy có hai chức quan: Quan Chúc coi việc trời, quan Sử coi việc người. Quan Chúc tức là khởi thủy của khoa Tử-Vi vậy.

a) Quan Chúc coi việc trời

Thời cổ chính trị tôn giáo vẫn chưa phân ra hai đường. Cái chức quan coi việc Thần-quyền rất quan trọng. Như tại Ai-Cập có chức Pháp-Lão, Do-Thái có chức Tế-Tự-Trưởng. Ấn-Ðộ phân ra làm 4 tộc: Bà-la-môn, Sát-lị là giòng Ðế-vương. Bà-la-môn chính là giòng Quan-Chúc. Tây-Tạng có chức Lạt-Ma chuyên giữ đại chính trong nước. Xưa kia Giáo-Hoàng La-mã còn có quyền trên cả vua chúa.

Chúc quan Trung-Hoa có hai loại:

* Một là quan Chúc coi việc cúng tế. Ðại biểu tư-tưởng nhân dân mà tâu lên trời để cầu lấy phúc lành. Sách Châu Quan trong thiên Xuân Quan Ðầu có nói về giòng dõi chi lưu chức quan Chúc ấy. Trong sách Tả truyện có chép, khi Tào-Uế luận chiến sự với Lỗ-Hầu, có bàn về các lễ tế thần để thắng trận.

* Hai là Quan-Chúc coi việc làm lịch. Chuyên giữ việc suy xét việc trời để ứng vào người. Ðời Tam-Hoàng có sai quan Nam-Chính là Trọng coi việc trời để họp các thần. Quan Bắc-Chính là Lê coi việc đất để họp dân. Ðời vua Nghiêu có sai quan Hi-Hòa-Kính thuận việc Trời xét về trình độ Nhật-Nguyệt tinh thần mà làm ra lịch để bảo cho dân biết bốn mùa mà làm ăn. Lại xét máy toàn cơ ngọc hành để so sánh 7 chính, tức mặt trời, mặt trăng, ngũ hành tinh: Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ. Quan Chúc coi việc làm lịch có ba phần:

- Hiệp định ngày, tháng, 4 mùa làm ra lịch.

- Suy tính thủy chung năm đức để định mệnh trời. Như thiên Nghiêu-Ðiển có viết: Lịch số trời đã thuộc về mình vua. Ðời sau nói về các vua Tam Ðại chịu mệnh trời cũng gốc ở Lịch-Học. Thiên-Hồng-Phạm có nói về Ngũ-Hành và những lời sấm vĩ đều phát nguyên từ đó.

- Xem xét tinh tượng, bói toán, định cát hung. Ðến đời Xuân-Thu, bọn Tì-Táo, Tử-Thận đều là giòng Chúc Quan coi việc lịch.

b) Quan-Sử coi việc người

Quan Chúc, quan Sử quyền ngang nhau. Sách Châu Lễ có kể đến quan Ðại-Sử, Tiểu-Sử, Tả-Sử, Hữu-Sử, Nội-Sử, Ngoại-Sử.

- Kinh-Thi, do quan Thái-Sử đi nhặt về mà có các bài thơ Lão-Ðam (Lão Tử) cũng là quan Trụ-Hạ-Sử. Trong Hán-Thư, phần Nghệ-Văn-Chí, sử-gia Ban-Cố cũng cho rằng phái Ðạo-Gia là do Sử-Quan mà ra.

Tóm lại, tư-tưởng học thuật cổ Trung-Hoa, tư-tưởng “Thiên Nhân Tương Dữ” như sau:

Quan Chúc coi việc Trời (nguồn gốc Tử-Vi):

Quan Chúc coi việc tế tự.
Quan Chúc coi việc làm lịch (Lịch tương gia tức Thiên-Văn học. Lịch số học, tức âm Dương. Chiêm-tinh-gia tức Phương-thuật).

Quan-Sử coi việc nguời:

Nhà Sử học về sự thực (Tổ Nho-gia).
Nhà Sử học về suy lý (Tổ Ðạo-gia)

Tất cả Thuật số đều phát xuất từ Chúc-Quan làm lịch.

c) Thuật số cổ Trung-Hoa

Trong bộ Hán-thư của Ban-Cố, phần Nghệ-Văn-Chí có đoạn:

“Thuật số do các sử gia Thần-thoại là Hi-Hòa trong nhà Minh-Ðường đã sưu tầm và duyệt lại. Công việc ấy từ lâu bị hủy đi mà không dùng nữa. Sách vở đến nay không còn đủ. Tuy vậy, có phần sách thì còn, mà nguồn thì quá cố từ lâu. Kinh Dịch có câu: Nếu người chính đáng mà không có thì đạo không thể thi hành được đầy đủ. Ðời Xuân-Thu có Lỗ có Tân-Thuận, Trịnh có Lý Táo, Tần có Bốc Yểm, Tống có Tử-Vi. Thời Chiến-Quốc, Sở có Cam-Công, Vệ có Thạch-Thông-Phủ. Hán có Ðường-Ðô. Ðấy là những nhà thuật số giỏi”.

Các khoa thuật số Trung-Hoa là sáu khoa mà Hi-Di tiên-sinh bảo đó là các khoa có cùng nguyên-lý. Tiên-sinh nhân học, rồi hiệp tinh-hoa thành khoa Tử-Vi. Sách Tả truyện có nói nhiều đến các khoa này.

- Khoa Thiên-văn, trong bộ Sử-Ký 130 quyển của Tư-Mã-Thiên đã dành cả quyển 28 nói về Lịch, quyển 29 nói về Thiên-quan. Trong bộ Hán-Thư, Nghệ-Văn-Chí, Ban-Cố để một chương chép về khoa Thiên-văn. Theo Ban-Cố thì Thiên-Văn dùng để xếp đặt thứ tự, biến dịch của 28 sao 5 hành tinh Nhật, Nguyệt, nhờ đấy mà đoán ra tốt xấu. Khoa Tử-Vi đặt căn bản là vận hành tinh tú ảnh hưởng đến con người, nguồn gốc của nó là Thiên-Văn. Kinh Dịch rút từ nguyên-lý vũ-trụ tuần-hoàn, đồng nguồn gốc với Thiên-Văn, nên có câu:

Quan Thiên-Văn dĩ sát thời biến.
Nghĩa là ngắm tượng trời để xét sự thay đổi thời tiết.
(Chu Dịch, Quẻ Bí)

Nguyên-lý căn bản của Tử-Vi là Thiên-Văn. Thiên-Văn và Dịch đều có nguyên-lý là Vũ-Trụ. Chính vì vậy, có nhiều người lầm cho rằng nguyên-lý của Tử-Vi là Dịch lý cũng không lạ.

-Về Lịch-Phổ dùng vào việc đặt vị trí bốn mùa có thứ tự để tính thời tiết bốn mùa, đêm ngày, Hi-Di không mấy chú ý đến tính chất Ngũ-Hành của các sao tại 12 cung. Mà chỉ để ý đến các cách thường kết hợp lại với nhau thành một cường lực nào đó.

-Ngoài ra, khoa Ngũ-Hành, Ngũ-Sự, Tạp-Chiêm, Hình-Tượng cũng đều có nguyên-lý Vũ-Trụ mà Hi-Di tiên-sinh rút ra để đoán vận hạn, tính tình, sống chết, thành bại của con nguời.

Tóm lại, nguyên-lý khoa Tử-Vi có thể tóm lược như sau:

C- Khoa Tử-Vi và tiểu-thuyết thần thoại

Vì sự thiếu sót của Tử-Vi sử, nên hầu hết những nguời bình dân Việt-Nam đều lầm lẫn những nhân vật tiểu-thuyết Thần-kỳ chí-quái, ma trâu đầu rắn với các sao trong khoa Tử-Vi. Ðể rồi khi lo vận hạn, bầy ra cúng sao, coi như đó là những ông Thần có thể ban phước, ban ơn cho người ta. Thậm chí có nhiều nhà Tử-Vi thành danh mà cũng bị lầm lẫn, nguyên do chính vì không học sử Trung-Hoa và bị tiểu thuyết ảnh huởng đến độ tưởng thật (1)

a) Trần-Ðoàn không phải là Tiên-ông. Trần Hi-Di là một đạo-gia tu ở Hoa-Sơn, đời Tống-sơ. Tất cả sách vở đều chép như vậy. Nhưng đến đời Minh, phong trào chương hồi tiểu-thuyết ra đời. Nhiều tiểu-thuyết gia biến Tiên-sinh thành Trần-Ðoàn lão-tổ, có phép tắc vô cùng huyền bí, hô phong hoán vũ. Có tiểu-thuyết gia cho Tiên-sinh sống từ đời Bàn-Cổ. Ðời Ðông-Chu, Tùy, Ðường đều có xuất hiện đấu phép thu học trò. Tiên-sinh chỉ là Ðạo-gia, và trở thành Tiên trong sự tưởng tượng của người sau ông đến hơn 200 năm.

Các Sao trong Tử-Vi và nhân vật Thần-Thoại: Từ sự lầm lẫn Hi-Di tiên-sinh là một Tiên ông, người ta còn lầm lẫn trầm trọng thêm nữa là lầm các Sao trong Tử-Vi với các vị thần trong Tiểu-thuyết.

Rồi khẳng định rằng Hi-Di tiên-sinh căn cứ vào nhân vật Thần-thoại đời Thương-Chu chiến tranh mà đặt cho các ngôi sao. Sự lầm lẫn tai hại này chứng tỏ không hiểu tí gì về Văn-Học-Sử và Sử Trung-Hoa. Có ba điều chứng minh rằng Hi-Di tiên-sinh không hề căn cứ vào nhân vật đời Thương-Chu đặt tên cho các ngôi sao trong khoa Tử-Vi:

Thứ nhất: Các ngôi sao trong khoa Tử-Vi đều là những hành-tinh có thật trong Thiên-Văn. Ðọc bộ Tinh-Kinh của Cam-Hũu-Vu, hoặc của Lưu-Biểu sẽ thấy rõ tính chất tuần hành của Thiên-Hà. Tiểu-thuyết gia lấy các sao trong Thiên-Văn rồi đặt ra những nhân vật ấy là Thần của ngôi sao.

Ðáng buồn thay, có những nhà Tử-Vi khuyên người ta nên căn cứ vào nhân vật tiểu-thuyết để tìm hiểu tính chất các sao thì tránh sao khỏi sai lạc trầm trọng.

Thứ hai: Khoa Tử-Vi được phổ biến vào năm Càn-Ðức nguyên niên (963), vào đầu đời Tống. Còn nhân vật tiểu-thuyết mãi đời Minh mới xuất hiện. Không thể có việc người sống trước 2000 năm bắt chước người sau. Trong bộ

Trung-Quốc Văn-Học Sử của Dị-Quân-Tả Tự-Do thư xã ấn hành tại Hương-Cảng vào niên hiệu Trung-Hoa Dân-Quốc thứ 48, chương II, Minh Ðại văn-học, trang 397 có viết:
“.. Minh-Sử, Nghệ-Văn-Chí chÉp có tới 127 bộ tiểu-thuyết được viết trong đời này, gồm 3307 cuốn.. Nhưng xứng đáng được gọi là tiểu-thuyết có Trung-Quốc tứ đạo kỳ thư.. Mà Tứ-Ðại kỳ-thư tiểu-thuyết đời Minh truyền đến nay còn thực nhiều. Tiến cử ra đây một bộ đó là bộ Phong-Thần Diễn-Nghĩa hay còn gọi là Phong-Thần Bảng (2).. “

Ðoạn trích dẫn trên đầy đủ chứng minh rằng nhân vật Phong-Thần được bịa đặt ra sau Hi-Di tiên-sinh đến 200 năm.

Thứ ba: Tra cứu các bộ chính sử như Kinh Xuân-Thu, Tả truyện, Chiến-Quốc sách không hề thấy nói đến tên nhân vật thần-thoại trong Phong-Thần. Bộ Sử-Ký của Tư-Mã-Thiên:

- Cuốn 4 nói về Thương Kỷ.
- Cuốn 5 nói về Chu Kỷ.
- Cuốn 33 nói về Lễ, Chu-Công thế-gia.
- Cuốn 32 nói Tề, Thái-Công thế-gia.

Chỉ thấy nói đến các nhân vật lịch-sử như: Trụ-Vương, Võ-Vương, Khương-Thượng...vân. vân... Không hề thấy nói đến Dương-Tiễn, Lý-Tĩnh, Lý-Na-Tra, Long-Kiết công chúa, Nguyên-Soái Trương-Quế-Phương.v.v...

c) Kết luận. Tóm lại:

- Khoa Tử-Vi nguồn gốc ở chức Chúc quan đời cổ. Nguyên-lý của nó là vũ-trụ. Dịch lý cũng có nguyên lý từ vũ-trụ nên nhiều người lầm tưởng khoa Tử-Vi có nguyên lý là Dịch lý.

Tiểu-thuyết gia đời Minh tưởng tượng ra những nhân vật thần-thoại, rồi cho các nhân vật ấy thành thần, trấn mỗi người một tinh tú. Không có sự liên hệ khoa-học nào giữa các nhân vật đó và những sao trong Tử-Vi. Hi-Di tiên-sinh là một đạo-gia, không phải là Tiên ông.

  • Một giáo sư tốt nghiệp đại học, vì mê tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung, bị xe cán gẫy ống chân không đi nhà thương bó bột. Nằm ở nhà tập vận nội công như Trương Vô Kỵ mong xương lành. Rút cuộc chân thối phải cưa.
  • Người Nhật có một bản đề tên Trá trọng Tâm, in đời Minh, 120 hồi.

Tài liệu tham khảo:

SÁCH CHỮ HÁN:

  • Tử vi tinh nghĩa: Trần Đoàn bản của cơ quan nghiên cứu Đông Á Châu.
  • Triệu thị minh thuyết Tử vi kinh: Triệu Thị bản của cơ quan nghiên cứu Đông Á Châu
  • Trung quốc Văn học sử: Dị quân Tả
  • Ẩm băng Thất văn tập: Lương Khải Siêu
  • Trung quốc Triết học sử: Phùng Hữu Lang
  • Trung quốc cổ đại xã hội nghiên cứu: Quách mạt Nhược

SÁCH TÂY PHƯƠNG:

  • Pensee Chinoise: M. Granet.
  • Naissance de la Chine: H.Glessner Greel.

KHHB số 74L1


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguồn gốc khoa tử vi

Luật nhân quả của Đạo Phật: Ai lên Niết Bàn, ai đày địa ngục?

Theo luật nhân quả của đạo Phật, sẽ tùy vào nghiệp mà mình đã làm khi sống mà khi chết được lên cõi Niết Bàn hay bị đầy xuống địa ngục.
Luật nhân quả của Đạo Phật: Ai lên Niết Bàn, ai đày địa ngục?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dấu hiệu sau khi chết sẽ báo cho bạn biết, sau kiếp người bạn sẽ trở thành gì.


Dao Phat day cach phan biet nguoi duoc len Niet Ban va nguoi bi day dia nguc hinh anh
 
Luật nhân quả hồi báo của đạo Phật là một trong những giáo lý chính, mang tính cốt lõi căn bản. Khi sống tạo nhiều nghiệp lành, tích cực tu tâm dưỡng tính thì khi chết sẽ được được tôn lên làm Thánh, hay đầu thai làm người. Khi sống mà chỉ làm điều ác, gieo nghiệp ác thì thác đi nhất định bị đày xuống địa ngục làm ngạ quỷ hay kiếp cầm thú.
 
Theo Kinh A Hàm của Phật giáo, người sau khi chết thân thể sẽ mất dần dương khí, trở nên lạnh ngắt nhưng vẫn có một điểm còn ấm nóng sau cùng trước khi lạnh hoàn toàn. Tùy vào vị trí điểm nóng cuối cùng trên thân thể mà biết được, người đó tiếp theo sẽ trở thành gì.
 
Nơi nào Thần Thức thoát ra sau cùng thì nơi đó là nơi còn ấm sau cùng trong thân thể, và có sáu nơi tiêu biểu cho sáu đường tái sinh là đỉnh đầu, mắt, ngực, bụng, đầu gối, hai lòng bàn chân. 6 vị trí ấy biểu hiện cho 6 cõi con người có thể sa vào sau khi chết.
 
1) Đỉnh Thánh: Khi một người đã chết được vài giờ, khắp thân thể chỗ nào cũng giá lạnh như băng, nhưng vẫn còn điểm nóng trên đỉnh đầu, nghĩa là thần thức của người này do nơi đỉnh đầu mà xuất ra khỏi thân xác. Người ấy sẽ siêu thoát về cõi Thánh cảnh.
 
2) Mắt sinh Thiên: Khi điểm nóng sau cùng trên thân thể là hai mắt và trán thì thần thức của người ấy đã sinh về cõi trời, tức là được lên Niết Bàn.
 
3) Tim Người: Khi điểm nóng sau cùng nơi tim, là thần thức của người ấy đã sinh lại cõi người, đầu thai kiếp sau lại được làm người.
 
4) Bụng Ngạ quỷ: Khi điểm nóng sau cùng trong thân thể là bụng, thì thần thức của người ấy đã sinh làm ngạ quỷ, bị đầy xuống địa ngục làm quỷ đói hoặc lang thang thành cô hồn vương vất ở trần gian
 
5) Đầu gối Bàng sinh: Khi điểm nóng sau cùng trong thân thể là đầu gối, thì thần thức của người ấy đã tái sanh vào loại thú, kiếp sau đầu thai thành con vật.
 
6) Lòng bàn chân Địa ngục: Khi điểm nóng sau cùng trong thân là lòng bàn chân, thì thần thức của người ấy đã bị đọa vào địa ngục, bị giam hãm không được tái sinh.  
► Cùng đọc: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm

Theo Xuân Giao

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luật nhân quả của Đạo Phật: Ai lên Niết Bàn, ai đày địa ngục?

Màu sắc và phương hướng được phối hợp phong thủy –

Phía đông hợp với màu đỏ: Theo truyền thống, màu đỏ đại diện cho hỷ khí, lòng nhiệt tình, mạnh dạn tiến lên. Mà trong phong thủy học, phía Đông cũng tượng trưng cho tuổi trẻ tinh thần mạo hiểm, dũng cảm. Cho nên, phía Đông mà đặt một số đồ trang sức

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phía đông hợp với màu đỏ:

Theo truyền thống, màu đỏ đại diện cho hỷ khí, lòng nhiệt tình, mạnh dạn tiến lên. Mà trong phong thủy học, phía Đông cũng tượng trưng cho tuổi trẻ tinh thần mạo hiểm, dũng cảm. Cho nên, phía Đông mà đặt một số đồ trang sức và đồ gia dụng có màu đỏ như những đồ trang sức đeo bằng gỗ đỏ, những tấm thảm đỏ…đều có thể khiến cho mọi người trong nhà tràn đầy sinh lực, có lợi cho sự nghiệp và học hành.

biet-thu

Phía Nam hợp với màu xanh lá cây

Trong phong thủy học, phía Nam chủ tài linh cảm và có khả năng xã giao tốt: màu xanh lá cây lại có ý nghĩa là sinh khí dồi dào. Phía Nam đặt những bồn cây xanh, ngoài việc tăng thẩm mỹ quan màu xanh tự nhiên, cùng có tác dụng tăng thêm quan hệ xã hội.

Phía Tây hợp với màu vàng

Màu vàng dùng để đại diện cho tài phú, mà phía Tây lại được cho là phương vị sự nghiệp và tài vận chủ đạo, nếu đặt những đồ dùng gia dụng màu vàng như: thủy tinh vàng có thể đem lại tài khí thịnh vượng, khiến cho sự nghiệp bay lên cao.

Phía Bắc hợp với màu da cam

Phía Bắc có ý nghĩa với quan hệ vợ chồng, mà màu da cam lại có ý nghĩa nhiệt tình, vui nhộn. Nếu muốn tăng thêm tình cảm giữa hai vợ chồng có thể đặt nhưng cây đèn bàn, tấm thảm nhỏ, gối nhỏ màu da cam ở phía bắc của phòng ngủ thì sẽ có lợi với tình cảm vợ chồng.

Các phương vị khác và phối hợp màu sắc

Phía Tây Bắc + màu trắng = tăng thêm vận quý nhân.

Phía Tây Nam + màu bã chè/tông màu đất = tăng thêm khả năng ổn định trong nhà.

Phía Tây Nam + đèn treo màu vàng = tăng thêm vận đào hoa.

Những cấm kỵ đối với màu sắc khác

  1. Thiên thanh địa trùng: Màu sắc của trần nhà và các đường nét trên trần nhà nên cố gắng sử dụng những màu nhạt nhất. Đồng thời, màu sắc của nền nhà phải đậm hơn màu của trần nhà. Nếu không thì sẽ khiến cho mọi người khi bước vào phòng cảm giác như không minh mẫn và đảo lộn vị trí.
  2. Trong phong thủy học, trần nhà đại diện cho trời, nền nhà đại diện cho đất, tường vách lại đại diện cho người. Màu sắc của tường vách nên ở giữa màu của trần nhà và nền nhà, tức là càng phải đậm hơn màu trần nhà và nhạt hơn màu của nền nhà, có như vậy thiên, địa, nhân mới đạt đến sự hoà hợp.
  3. Tốt nhất là không nên dùng quá nhiều màu đỏ và màu đen làm màu chủ đạo trong phòng, bởi vì màu đỏ hoặc màu đen quá nhiều đều sẽ khiến cho người sống trong đó bị kích dộng, cực đoan.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Màu sắc và phương hướng được phối hợp phong thủy –

Chùa Thiên Quang - Phú Thọ

Chùa Thiên Quang nằm xen giữa các ngôi đền thờ Tổ trong Khu di tích lịch sử Đền Hùng, Nơi đây hàng năm nhân dân đều đến dâng hương cầu phật
Chùa Thiên Quang - Phú Thọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Thiên Quang tọa lạc tại Núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Chùa Thiên Quang nằm trong khu di tích lịch sử Đền Hùng, trên núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Được xây kề bên đền Hạ, ở độ cao 80m.

Sử sách ghi chép lại thì trước đây chùa có tên là Từ Sơn Thừa Long, có nghĩa là trước thời Hậu Lê chùa có tên chữ là “Từ Sơn thừa long” sau đổi thành “Viễn Sơn Cổ tự”, nay gọi là “Thiên Quang Thiền tự”. Đây là nơi hội tụ của khí thiêng trời đất, phát tâm khai sáng cho dân lành.

Chùa Thiên Quang thờ Phật theo phái Đại Thừa. Trong chùa có đủ các loại tượng: Thích Ca, Cửu Long, Phạm Thiên, Đế Thích, Thiên Thủ Thiên Nhỡn, Di Đà, Văn Thù, Phổ Hiền, Tam Tôn, Tam Thế, Kim Đồng, Ngọc Nữ, Quan Âm Thị Kính, các vị Bồ Tát, Khuyến Thiện, Trừng ác, Thánh Tăng Thổ Địa, Gia Lam chân tể; tượng Hậu và các thị giả…

Trước sân chùa có 2 tháp sư hình trụ, 4 tầng. Lòng tháp xây rồng, đỉnh đắp hoa sen. Trong tháp có bát hương và một tấm bia đá (0,3m x 0,5m) nội dung ghi về các vị Hoà thượng đã tu hành và viên tịch tại đây.

Gác chuông còn được gọi là Tam quan (cổng chùa) nằm thẳng trước cổng chùa. Được xây dựng vào thế kỷ XVII, gồm 3 gian, 2 tầng mái, 4 vì kèo cột kiểu chồng gường kết hợp với bẩy kẻ. Đây là công trình kiến trúc cổ duy nhất còn tồn tại trong Khu di tích lịch sử Đền Hùng.

Trên gác chuông có treo một quả chuông lớn, không khắc ghi niên đại đúc chuông mà chỉ khắc dòng chữ “Đại Việt quốc, Sơn Tây đạo, Lâm Thao phủ, Sơn Vi huyện, Hy Cương xã, Cổ Tích thôn cư phụng”. Các nhà “Đền Hùng học” đoán định niên đại quả chuông này được đúc vào thời Hậu Lê vì Quốc hiệu Đại Việt chỉ có từ thời Lý đến hết thời Lê; nhưng phủ Lâm Thao tới hết thời Lê sơ (đến thế kỷ XV) mới được thành lập. Bài minh chuông ghi lại việc hai thôn của huyện Yên Lạc, phủ Vĩnh Tường quyên góp tiền để đúc chuông.

Chùa Thiên Quang nằm xen giữa các ngôi đền thờ Tổ trong Khu di tích lịch sử Đền Hùng. Hàng năm nhân dân ở khắp mọi miền đất nước về với Đền Hùng dâng hương viếng Tổ đều không quên cắm hoa lễ Phật.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Thiên Quang - Phú Thọ

Bí quyết đoán mệnh của Vương Đình Chi

Một bài viết trình bày bí quyết đoán mệnh của Vương Đình Chi rất hay! Vương Đình Chi là một bậc thầy tử vi!
Bí quyết đoán mệnh của Vương Đình Chi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vương Đình Chi phái Trung Châu có phong cách đoán mệnh khá đặc biệt, thường căn cứ vào tinh thần của mệnh tạo (cung Phúc đức), đạo "xu cát tị hung", và nhấn mạnh sự quan trọng của nỗ lực Hậu thiên, để đưa ra lời giải.

Đẩu Số có thể luận đoán xu hướng vận thế Tiên thiên (Thiên vận) của một người, nhưng quyết định những tao ngộ thực tế trong cuộc đời một con người, còn có "Địa vận" và "Nhân vận".

"Địa vận" có quan hệ đến bối cảnh xã hội, điều này cá nhân không kiểm soát được.

Nhưng, "Nhân vận" thì không phải là như vậy. Mỗi cá nhân đều chịu ảnh hưởng từ Cha Mẹ, Thầy, bạn bè,.v.v... lúc lâm sự, sẽ có những phản ứng khác nhau. Đạo "xu Cát tị Hung" (theo cát tránh hung) thực ra chỉ là kiểm soát phản ứng và quyết định của bản thân, để tìm kết quả có lợi hơn cho mình. Vì vậy hành động của con người thuộc Hậu thiên, thường có thể thay đổi vận thế Tiên thiên. Đây chính là Tinh hoa của Tử vi tinh quyết mà Vương Đình Chi được bí truyền.

Cho nên, người nghiên cứu phải tìm hiểu rõ tính chất "hợp Cục nhập Cách" này của Tử Vi Đẩu Số, lúc luận đoán nhất thiết không được chú trọng hoàn toàn vào những hiển thị vận thế Tiên thiên, mà bỏ qua bối cảnh xã hội (Địa vận) và chủ chương hành động của con người (Nhân vận) thuộc Hậu thiên.

Có một người từng viết thư hỏi Vương Đình Chi rằng, nếu nói mệnh vận có thể dựa vào hành động của con người thuộc Hậu thiên để thay đổi, thế có thể chứng minh mệnh vận đã từng thay đổi không? Ví dụ như, dùng Tử Vi Đẩu Số luận đoán, thấy một người năm nào đó bị họa lao ngục, bèn khuyên người này đừng làm việc gì trái pháp luật. Kết quả người này đã bình an vượt qua, nhưng làm sao chứng minh được, nếu anh ta không nghe lời khuyên, thì nhất định sẽ gặp họa lao ngục?

Vấn đề này đúng là rất thâm sâu, nhất là đối với người không biết Tử Vi Đẩu Số, rất dễ nảy sinh nghi vấn này. Vương Đình Chi đã kể một ví dụ thực tế để chứng minh phép "theo cát tránh hung" là sự thực như sau:

Năm 1984, Vương Đình Chi luận đoán cho một thư ký ngân hàng, phát hiện cô ta vào năm 1996 gặp phải một nhóm sao chủ về bệnh ung thư tử cung, bèn khuyên cô ta đi kiểm tra, kết quả trải qua 3 lần xét nghiệm, mới phát hiện có tế bào ung thư ở giai đoạn đầu, lập tức phẫu thuật cắt bỏ. Vương Đình Chi nghĩ, nếu cô ta không làm phẫu thuật vào năm 1985, thì năm 1986 chắc chắn bệnh sẽ phát, nhưng hiện giờ cô ta đã vượt qua được sự hung hiểm của căn bệnh hiểm nghèo. Có lẽ đây chính là ý nghĩa đích thực của việc nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số.

Nếu như nhất định muốn truy cứu câu hỏi nói trên, liên quan tới ví dụ thực tế chứng minh việc tránh được vận xấu như phạm pháp, phá tài, đương nhiên sẽ khó giống như trường hợp tránh bệnh tật, nhưng đương sự cũng không phải là không còn cách nào để tránh.

KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN THIÊN BÀN

1- Lấy bối cảnh văn hóa xã hội làm nên tảng

Bối cảnh văn hóa xã hội ảnh hưởng đến "cách" luận đoán, đó là điều rất quan trọng cần phải lưu ý khi dùng Đẩu Số để đoán mệnh.

Vương Đình Chi nói: "Nữ mệnh có Thất Sát tọa thủ cung mệnh của Lưu niên, nếu như cung Tử tức của nguyên cục gặp lục sát tinh: Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp, mà các sao của Lưu niên lại không tốt, chủ về sinh đẻ có nguy cơ". Nhưng luận đoán này đã khiến cho Vương Đình Chi bị hố, ông xem mệnh bàn của người phụ nữ này, hỏi bà ta năm ngoái có sinh con không? Lúc sinh con có bị phiền phức nhiều không? Người phụ nữ trả lời: "Vâng, năm ngoái có sinh con, nhưng sinh đẻ thuận lợi", Vương Đình Chi nhíu mày, người phụ nữ nói thêm: "Có điều tôi dùng phương pháp gây tê toàn thân để sinh con". Thực sự, Ông không biết có phương pháp gây tê toàn thân để sinh con. Chiếu theo lý, "gây tê toàn thân" cũng là có vấn đề rồi, nhưng lúc sinh con người phụ nữ không cảm thấy đau khổ và đau đớn, nên không cho rằng có phiền phức mà thôi.

Sinh con không ưa gặp Phá Quân, chủ về sinh con khó dưỡng. Đây cũng là thuyết của cổ nhân, nhưng Vương Đình Chi cũng bị hớ, đứa con của người phụ nữ này, lúc mới sinh ra được các Bác sỹ dùng kỹ thuật hiện đại chữa trị khiếm khuyết bẩm sinh về Tim cho đứa bé, nhưng người ta không cho đó là tai nạn, cũng không cho rằng đứa bé khó nuôi.

Do đó có thể biết, Tử Vi Đẩu Số chỉ có thể luận đoán xu hướng của một vận mệnh, Hậu thiên có thể thay đổi tính chất của xu hướng này. Nhất là ngày nay khoa học tiến bộ, vốn có thể xoay chuyển vận thế Tiên thiên, những xu hướng mà cổ nhân đã lập thành định luận.

Có thể cử một số ví dụ để chứng minh Tử Vi Đẩu Số không phải là "túc mệnh luận", tức chẳng thể luận đoán ra chuyện "không thể thay đổi được". Bởi vì khuynh hướng Tiên thiên tuyệt đối có thể dùng việc làm Hậu thiên của con người để bổ cứu (như mệnh bàn vừa kể trên, y học hiện đại có thể cứu sống một đứa bé, khiến cho luận đoán "sinh con khó dưỡng" không còn chính xác). Cổ nhân căn cứ bối cảnh xã hội cổ đại để đưa ra luận đoán, rất nhiều trường hợp không còn phù hợp với xã hội hiện đại.

Cổ nhân nói: "Tham lang Liêm trinh đồng cung, nam mệnh phần nhiều phóng đãng, nữ mệnh phần nhiều đa dâm", nếu cứ y như sách mà nói thẳng, ngày nay như vậy là quá cứng nhắc. Vương Đình Chi kể: ông có quen biết một nhà thiết kế quảng cáo có địa vị khá, cung mệnh là hai sao "Tham lang Liêm trinh" tọa thủ, nếu nói phóng đãng, tính chất cũng chính xác, bởi vì người này "có máu" nghệ thuật, đã từng phiêu bạt khắp nơi, nhưng sự nghiệp lại thành tựu.

Cho nên đặc tính của một đời người tuyệt đối không thể dùng hai chữ "phóng đãng" để khái quát. Đây là do xã hội cổ đại khác với xã hội ngày nay. Thời cổ, những người thích phiêu bạt giang hồ, dù có tài năng cũng khó phát huy, bởi vì xã hội ngày xưa bảo thủ, không ai dám làm "lãng tử", lại không có nghề nghiệp nào tạo cơ hội cho người ta phát huy tài năng nghệ thuật. Nhưng xã hội ngày nay đã khác, có nghề thiết kế quảng cáo để phát triển, đo đó biến thành không phải là "phóng đãng".

Năm xưa, Vương Đình Chi học Đẩu Số với thầy là Huệ Lão, Huệ Lão đã chỉ điểm cho Vương Đình Chi một điều rất hay, ông nói: "Theo kinh nghiệp luận đoán của thầy trong những năm gần đây, nữ mệnh có Phá Quân hóa Lộc ở cung mệnh, dường như đều có khuynh hướng giải phẫu thẩm mỹ". Đương nhiên thời cổ đại không có giải phẫu thẩm mỹ, vì vậy Huệ Lão chỉ nói nhẹ nhàng một câu, mà đã gợi mở rất lớn cho Vương Đình Chi. Sau nhiều năm nghiên cứu vô số mệnh bàn, ông cũng phát hiện ra một số tính chất mới của các tinh hệ.

Năm xưa, Huệ lão rất tán dương hai vị Đẩu Số gia, một vị là Lục Bân Triệu, từng mở lớp dạy Đẩu Số, trước tác Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa, có tặng cho Huệ lão một bộ, Vương Đình Chi lúc đó có chép lại. Một vị khác là Bắc phái cao thủ Trương Khai Quyền, với bộ Tử Vi Đẩu Số nghiên cứu, tác phẩm của tiên sinh vào thập niên 50 của thế kỷ trước đã có tác dụng mở đường. Phương pháp đoán mệnh của hai vị danh gia đương nhiên đều có sắc thái đặc biệt, họ không giữ bí mật mà công khai sở học, là tài liệu tốt để nghiên cứu Đẩu Số.

Những điều Huệ lão truyền lại cho Vương Đình Chi, có nhiều chỗ khác với Lục Bân Triệu và Trương Khai Quyền. Như Thái âm ở cung Tai Ách, Lục tiên sinh cho rằng chủ về bệnh tiêu chảy kiết lị; còn Huệ lão thì cho rằng chủ về táo bón, hoàn toàn tương phản. Huệ lão từng bảo Vương Đình Chi sưu tập tư liệu để nghiên cứu thêm xem sao.

Do đó có thể thấy, phong cách của bậc danh sư là không khiến cho đệ tử phải sùng bái điều mình bí truyền, như vậy mới khiến cho Tử Vi Đẩu Số phát triển theo hoàn cảnh xã hội.

2- Quan sát toàn diện 12 cung

Kỹ thuật luận đoán thực ra rất đơn giản, trước tiên phải vượt ra khỏi khái niệm "tam phương tứ chính", sau đó phải lưu ý phản ứng giữa các tinh hệ với nhau, tinh hệ A gặp phải tinh hệ B sẽ xảy ra một số tình hình đặc thù nào đó, đây là căn cứ dùng để luận đoán.

Thông thường khi đối mặt với một tinh bàn, người mới học hay mắc một bệnh, đó là xem trọng việc luận đoán "tam phương tứ chính" của cung mệnh, cung Thiên Di, cung Tài bạch, cung Quan lộc một cách thái quá, mà không quan sát tinh bàn một cách tổng hợp. Bởi vì con người ngày nay phần lớn đều có tâm lý chú trọng vấn đề tiền tài và sự nghiệp, xem đó là ưu tiên hàng đầu.

Phương pháp luận đoán như vậy rất dễ rời vào luận đoán vụn vặt. Vương Đình Chi cho bết kinh nghiệm rằng, cần phải tuần tự theo các bước sau đây để quan sát tinh bàn, mới có thể lý giải mệnh vận của mệnh bàn một cách toàn diện.

3- Các bước luận đoán mệnh bàn

Học Tử Vi Đẩu Số, thực ra chỉ cần nắm vững 3 điều:

3.1- Phương pháp an sao
3.2- Tính chất cơ bản của tinh hệ
3.3- Căn cứ vào tinh bàn như thế nào để đoán vận trình.

Tiết này sẽ bàn về điểm sau cùng, mục đích để tạo hứng thú cho người mới học luận đoán, bởi vì rất nhiều người sau khi đọc rất nhiều sách Đẩu Số vẫn không luận đoán được tinh bàn.

3.1- Trước tiên xem cung Phụ Mẫu, rồi xem cung Điền trạch

Từ cung Phụ Mẫu và cung Điền Trạch, có thể luận đoán xuất thân của đương số, và mức độ được hưởng sự che trở của cha mẹ. Như vậy, đến khi quan sát cung mệnh, mới có thể quyết định đương số thích nghi với vận thế sáng lập sự nghiệp "tay trắng làm nên", hay là thích nghi với vận thế giữ gìn, bảo thủ cái đã có.

Điểm này rất trọng yếu, bởi vì, giả dụ một người có cung Phụ Mẫu và cung Điền trạch đều tốt, nhưng khi trong vận bàn lại hiện rõ vận trình "tay trắng làm nên", điều này chứng minh gia đình của đương số rất có thể xảy ra một lần suy sụp. Ngược lại cung Phụ mẫu và cung Điền trạch đều xấu, liên tiếp hai ba vận trình đều có tính bảo thủ, không có sự đột phá, thì rất khó luận đoán đương số có cơ hội tốt để xoay chuyển hoàn cảnh.

3.2- Đồng thời quan sát cung Mệnh và cung Phúc đức

Thông thường sao hiển thị ở "tam phương tứ chính" của cung Mệnh, là vận trình khá thực chất, như hưởng thụ vật chất, tài phú nhiều ít, sự nghiệp thuận lợi hay trở ngại. Còn sự hiển thị ở "tam phương tứ chính" của cung Phúc đức là hưởng thụ về hoạt động tinh thần và tư tưởng của một người.

Nếu tính chất của hai cung vị đều tốt, người này đương nhiên chẳng có gì bất lợi, hơn nữa còn có thể luận nhất định đương số có một gia đình tốt. Trái lại, nếu cung Mệnh tốt, còn cung Phúc đức lại khá tệ, như vậy cần phải chú ý hôn nhân của đương số có thể không như ý, hay có khả năng đương số chỉ dựa vào may mắn mà giầu có, nên sự hưởng thụ tinh thần của đương số chẳng cao thượng, hoặc cảnh ngộ của đương số tuy khá tốt, nhưng bị bệnh tật đeo đẳng.

3.3- Căn cứ vào sự quan sát hai hạng mục trên để tìm ra cung nào có điểm đặc biệt đáng chú ý

Nếu nghi ngờ đương số hôn nhân bất lợi, thì cần phải kiểm tra cung Phu Thê, nghi ngờ đương số mắc bệnh mãn tính khó khỏi thì cần phải kiểm tra cung Tai Ách, nhất định phải tìm ra một số tinh hệ từ tinh bàn, đủ để giải thích tính chất phối hợp của cung Mệnh và cung Phúc đức, sau đó mới có thể đưa ra luận đoán.

Xin đưa ra một ví dụ thực tế:

- Nữ mệnh, cung mệnh Thiên cơ Thái âm, trong đó Thiên cơ hóa Khoa, Thái âm hóa Lộc tại cung Thân
- Hội Thiên đồng hóa Quyền ở cung Tài bạch tại Thìn, là "Hóa Lộc Hóa Khoa Hóa Quyền hội", trong Đẩu Số là một kết cấu tốt.
- Cung Phúc có Cự môn hóa Kị, hội hợp với Phu thê gặp Hồng Loan, Hàm trì, đối cung lại gặp Thiên diêu (tức cung Tài)
- Kết cấu tinh hệ này, biểu thị khả năng do sinh hoạt hôn nhân gây nên sự đau khổ tinh thần, vì vậy cần phải kiểm tra tổ hợp tinh hệ ở cung Phu Thê.
- Thái dương Lộc tồn tọa thủ cung Phu ở Ngọ, chồng chẳng nghèo, nhưng hội Cự môn hóa Kị ở cung Phúc tại Tuất, xấu nhất còn hội hợp Thiên lương, Thiên hình, thêm sao Hỏa tinh ở đối cung (tức cung Quan ở Tý), tổ hợp tinh hệ này biểu thị không có duyên vợ chồng
- Nhưng không có duyên vợ chồng có mấy loại tính chất. Ví dụ như Phu và Thê không cùng chí hướng, gặp nhau ít mà xa nhau nhiều, chồng có tình nhân bên ngoài, chồng mắc nhiều bệnh,.v.v... Muốn quyết định thuộc loại tính chất nào, chỉ xem 12 cung của mệnh bàn, thì không có cách nào giải quyết được, mà càn phải xem Đại vận và Lưu niên.

3.4- Căn cứ tình hình của các cung để luận đoán vận hạn

Xem xét vận thế của Đại hạn và Lưu niên, thường thường có thể bổ sung cho luận đoán, và có cái nhìn tinh bàn một cách tổng hợp. Như trong ví dụ trên, chỉ cần xem xét mỗi một Đại hạn của cung Phu Thê, là có thể đưa ra luận đoán chuẩn xác.

Đại hạn Canh Tuất từ 25 - 34 tuổi, cung Tuất biến thành cung Mệnh của Đại hạn, cho nên cung Mậu Thân (vốn là cung mệnh của nguyên cục, tức thiên bàn) biến thành cung Phu Thê của Đại hạn.

Sao Lộc tồn của Đại hạn bay vào cung Phu Thê (tức lưu Lộc, bởi vì Lộc tồn của Đại hạn Canh Tuất ở cung Thân), nhưng đồng thời cũng có lưu Kình và lưu Đà của Đại vận giáp cung (gọi tắt là vận Kình vận Đà).

Cung Phu thê của nguyên cục có hiện tượng giáp Kình giáp Đà, thấy khéo trùng hợp, nhưng khéo trùng hợp như vậy tất phải có lý lẽ của nó. Vả lại, cung Phu thê của Đại vận còn hội hợp Thiên đồng hóa Kị, do đó có thể khẳng định, trong Đại hạn này vợ chồng tất có vấn đề.

Xem xét tiếp, thì phát hiện vào năm Quý Hợi 1983, cung Phu thê của Lưu niên có vấn đề lớn. Cung Phu thê của Lưu niên ở cung Dậu, "Tử vi Tham lang" tọa thủ, nhưng Tham lang hóa Kị vào năm Quý, đồng thời có lưu Kình của Đại hạn đồng cung. Sát diệu hội hợp Đà la của cung Tị, lưu Kình của cung Sửu, cho tới các sao Vũ khúc, Phá quân, Liêm trinh, Thất sát. Kết cấu tinh hệ kiểu này, có tính chất là "không có niềm vui gia đình", xấu nhất tức là "lưu Kình của Lưu niên" xung động "lưu Kình của Đại hạn", đồng thời xung khởi Hóa Kị của tinh hệ "Tử vi Tham lang".

Do đó luận đoán sơ bộ là: sinh hoạt vợ chồng của người này hoàn toàn không hòa hợp. Sau khi hỏi thăm thì biết năm Quý Hợi kết hôn, sau khi kết hôn một tháng thì phát hiện người chồng bị mắc chứng rối loạn khả năng tính dục.

Kiểm tra cung Tai Ách của người chồng, thì thấy "Thiên cơ Thái âm" tọa thủ, có Linh tinh Đà la đồng cung, hội hợp Thiên lương và Xăn xương hóa Kị, đồng thời "tam phương tứ chính" lại có các sao Hàm trì, Hồng loan, Đại hao, còn có thêm Âm sát. Tổ hợp tinh hệ dạng này, theo kinh nghiệm từ Vương Đình Chi, là thuộc chứng quá túng dục mà dẫn đến âm phận hư tổn. Có thể luận đoán, thời kỳ trước hôn nhân, người chồng này đã rất trác táng. Vì vậy, Vương Đình Chi đề nghị người chồng gặp một vị lương y trứ danh để chữa trị, dưỡng âm bồi nguyên khí. Kết quả đầu năm Ất Sửu 1985, đôi vợ chồng nọ tìm đến Vương Đình Chi để cám ơn đã cữu vãn cuộc hôn nhân sắp đổ vỡ của họ.

3.5- Kỹ thuật quan sát tình hình Cát Hung của các cung

Dựa vào các bước quan sát đã thuật ở trên, thông qua một ví dụ thực tế, tin rằng bạn đọc đã có cái nhìn sơ lược về phép tắc luận đoán tinh bàn, nhưng còn cần phải thành thục một số kỹ thuật.

Dưới đây, tôi xin trình bầy các kỹ thuật quan sát để bạn đọc tham khảo

- Mượn sao an cung

Khi một cung vị không có chính diệu, cần phải mượn sao của đối cung nhập vào bản cung, gọi là "mượn sao an cung". Về điểm này, thông thường các sách Đẩu Số chỉ đề cập sơ qua, nhưng có hai then chốt mà lâu nay không có ai bàn tới.

Khi "mượn sao an cung", ắt cần phải mượn toàn bộ tinh hệ của đối cung để đưa vào bản cung (vô chính diệu), mà không chỉ đưa chính diệu để an cung mà thôi, đây là then chốt thứ nhất.

Ví dụ tinh bàn của một Nam mệnh: cung Phu Thê ở Thìn, vì vô chính diệu có Tả phụ Đà la đồng độ, nên phải mượn tinh hệ của đối cung, đó là cung Quan có Cơ Lương, Hỏa tinh, Hữu bật đồng độ tại cung Tuất, sau khi "mượn sao an cung", kết cấu của cung Phu Thê biến thành Thiên lương, Thiên cơ hóa Kị, Hỏa tinh, Đà la, Tả phụ, Hữu bật.

Nhưng điểm này có quan hệ không lớn, bởi vì tính chất tinh hệ của đối cung vốn đã đủ gây ảnh hưởng đến bản cung. Tức dù không "mượn sao an cung", tính chất tinh hệ của bản cung và đối cung hợp chiếu, đại khái cũng giống tính chất sau khi "mượn sao an cung". Nhưng có một then chốt khác, đó là khiến toàn bộ cung Phu Thê phát sinh biến hóa.

Khi tìm "tam phương tứ chính" của một cung vị, nếu cung vị nào đó không có chính diệu tọa thủ, thì cung vị này vẫn phải "mượn sao an cung", sau đó mới hội hợp với bản cung. Đây là then chốt thứ hai. Nhiều người sau khi đọc rất nhiều sách Đẩu Số, vẫn không cách nào luận chuẩn xác, là do không biết then chốt này.

Vẫn từ ví dụ trên, cung Phu thê ở cung Thìn, hội hợp với hai cung Thân - Tý, lại xung hợp với đối cung (Tuất), cấu tạo thành "tam phương tứ chính". Hai cung Thân Tuất đều có chính diệu, không xảy ra vấn đề gì. Nhưng cung Tý chỉ có một sao Văn Khúc, không thuộc nhóm chính diệu, do đó cần phải nhìn đến đối cung của cung Tý là cung Ngọ để "mượn sao an cung", mượn Thiên đồng, Thái âm, Linh tinh, Kình dương.

Tới đây, toàn bộ tinh hệ của cung Phu Thê biến thành cách: "tứ sát kèm sát", tức là Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, lại có thêm tổ hợp chính diệu Thiên cơ (hóa Kị), Thiên lương, Thiên đồng Thái âm, Thái dương (hóa Khoa), Cự môn. Có thể luận đoán sinh hoạt hôn nhân không được tốt đẹp, tuy không nhất định là phải ly hôn, nhưng có khả năng dị mộng đồng sàng. Thái dương hóa Khoa còn có thêm Cự môn, chủ về vợ chồng giữ gìn thể diện, cho nên dù có oán trách chồng, nhất định cũng không nói lời chia tay.

Từ ví dụ trên có thể thấy, "mượn sao an cung" là một đại pháp môn trong phép luận đoán Đẩu Số. Nhất là hai then chốt kể trên, điều mà xưa nay cổ nhân xem là "bí pháp", không dễ gì truyền ra ngoài.

Các sao của Thiên bàn và Nhân bàn ảnh hưởng lẫn nhau

Cần chú ý, tính chất của một nhóm tinh hệ, thường thường có thể bị tính chất của một nhóm tinh hệ khác phá hoại, đây gọi là "tinh diệu hỗ hiệp".

Về điểm này có thể đơn cử một ví dụ thực tế để chứng minh:

Nữ sinh trung học, sinh năm Giáp Tý 1994 tham dự cuộc thi Trung học, mệnh tại Tý có tinh hệ "Thiên phủ Vũ khúc", Linh tinh, Hàm trì, Đại hao đồng độ tọa thủ, hiện đang ở Đại vận Quý Mão.

Chiếu theo Lưu niên của năm Giáp Tý, cung mệnh ở Tý có "Thiên Phủ Vũ khúc", hơn nữa còn có Vũ khúc hóa Khoa năm Giáp, ở hai cung Thân và Ngọ, hội hợp Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, lại có thêm Lộc tồn của cung Ngọ trùng điệp với lưu Lộc của Đại vận ở bản cung. Đây là cách Lộc tinh và Văn tinh hội hợp, tạo thành cách là "Lộc Văn củng mệnh". Theo phép luận đoán thông thường, cuộc thi năm nay sẽ không thất bại.

Ở đây cần chú ý "cung Mệnh của lưu niên" (cung Tý), có hai tạp diệu Hàm Trì và Đại Hao, chúng cùng đồng độ ở một cung, sức mạnh khá lớn, chủ về tình cảm nam nữ mang lại tình cảm không tốt.

Lúc này, cần phải kiểm tra "cung Phúc đức của lưu niên" của cô gái này (tức nguyên tắc đồng thời xem xét cung Mệnh và cung Phúc đức). Cung này ở cung Dần có Tham Lang độc tọa, nhưng đang ở Đại hạn can Quý nên Tham lang hóa Kị; đối nhau với Liêm trinh, cũng đối nhau xa xa với Hồng loan (cung Thân).

Lại thấy cung Dần hội hợp với các sao phụ tá ở hai cung Thân và Ngọ, là Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, có thể nói là "đào hoa" tụ về cung Phúc đức.

Trong tình hình này, Vương Đình Chi luận đoán, cô nữ sinh này tuy thành tích học tập không tệ, nhưng đáng tiếc là năm đó đã rơi vào tình huống yêu đương, vì vậy ảnh hưởng đến thành tích thi cử. Cô nữ sinh này cũng vì thi cử thất bại nên mới tìm đến Vương Đình Chi.

Thông qua thí dụ này có thể biết, chỉ vì "cung mệnh của lưu niên" xuất hiện các tạp diệu Hàm trì, Đại hao, khiến cho tính chất của tinh hệ "Lộc Văn củng mệnh" phát sinh biến hóa. Đây là một ví dụ tốt về nguyên tắc: "các sao ảnh hưởng lẫn nhau".

"Sao đôi" xuất hiện thì sức mạnh tăng thêm

Khi luận đoán Đẩu Số, một nguyên tắc quan trọng mà ít người biết, đó là "Kiến tinh tầm ngẫu". Đây là kỹ thuật luận đoán bí truyền của phái Trung Châu, mà Vương Đình Chi được truyền thừa.

Gọi là "Kiến tinh tầm ngẫu" (gặp sao thì tìm đôi), bởi vì trong Đẩu Số có nhiều cặp "sao đôi", khi gặp một mình thì sức mạnh hữu hạn, nhưng khi xuất hiện thành đôi, thì sức mạnh được tăng cường. Về điều này, thực ra cổ nhân cũng đã tiết lộ đôi chút.

Ví dụ cổ nhân đưa ra nguyên tắc: "phùng Phủ khán Tướng" (gặp Thiên phủ thì phải xem Thiên tướng), "phùng Tướng khán Phủ" (gặp Thiên tướng thì phải xem Thiên phủ), bởi vì Thiên Phủ và Thiên Tướng là cặp "sao đôi". Nhưng cổ nhân thích giữ "bí mật", cho nên thường thường chỉ nói sơ qua mà thôi.

Liệt kê một số cặp "sao đôi" để tham khảo:

+ Chính diệu:
- Thiên phủ và Thiên tướng
- Thái Dương và Thái Âm
- Thiên Đồng và Thiên Lương
- Liêm Trinh và Tham Lang

+ Phụ diệu:
- Tử Phụ và Hữu Bật
- Thiên Khôi và Thiên Việt

+ Tá diệu:
- Văn Xương và Văn Khúc
- Lộc Tôn và Thiên Mã

+ Tạp diệu:
- Hồng Loan và Thiên Hỷ
- Hàm trì và Đạo hao
- Long Trì và Phượng Các
- Ân Quang và Thiên Quý
- Tam Thai và Bát Tọa
- Cô Thần và Quả Tú
- Thiên Khốc và Thiên Hư
- Thiên Phúc và Thiên Thọ
- Đài Phụ và Phong Cáo.

Nhưng, như thế nào mới gọi là "sao đôi" xuất hiện? Sức mạnh lớn nhỏ của nó có thể dựa vào nguyên tắc dưới đây để định.

- Loại tình huống có sức mạnh nhất là "sao đôi đồng cung". Ví dụ như tình huống "Thái dương Thái âm" đồng cung tại Sửu, cùng thủ một cung, kết cấu tinh hệ kiểu này có sức mạnh tuyệt đối không thể xem thường.

- Kế đến, loại tình huống có sức mạnh khá nặng là "sao đôi chiếu nhau", ví dụ ở hai cung Thìn và Tuất, thì Thái dương và Thái âm chiếu vào nhau, sự phát huy sức mạnh lẫn nhau của chúng cũng không thể xem thường.

- Tiếp đến nữa là tình huống hội hợp "Song phi hồ điệp thức", tức là "sao đôi" chia ra ở hai bên "hợp cung", ví dụ lấy cung Ngọ làm bản cung, đi nghịch cách 3 cung đến cung Dần gặp Thiên Khốc, đi thuận cách 3 cung đến cung Tuất gặp Thiên Hư, là cặp "sao đôi" Khốc Hư lấy tư cách "song phi hồ điệp" hội hợp với cung Ngọ (là bản cung), đối với cung Ngọ phải chịu sức ảnh hưởng cũng nặng. Nhưng đối với hai cung Dần Tuất mà nói, sự hội hợp của Thiên khốc và Thiên hư so với cung Ngọ thì không có gì quan trọng, bởi vì chúng không thuộc loại hội hợp "Song phi hồ điệp thức".

- Cuối cùng là hội hợp "Thiên tà thức" (kiểu đối lệch). Ví dụ lấy cung Tý làm "bản cung", tương hội với Văn khúc ở cung Thân, và Văn xương ở đối cung (cung Ngọ), đối với cung Tý là "bản cung" mà nói, hai cung vị Thân và Ngọ có vị trí đối nhau không chuẩn, do đó hình thức xuất hiện "sao đôi" kiểu này có sức mạnh hơi kém.

Tóm lại, sức mạnh của các tình huống xuất hiện "sao đôi" theo thứ tự giảm dần như sau:

Đồng cung => Đối nhau.=> Tam hợp hội chiếu => Một ở tam hợp một ở đối cung hội chiếu => Các sao tương hội ở tam hợp cung (như Thiên khốc và Thiên hư ở hai cung Dần và Tuất).

Như đã nói, nguyên tắc vừa thuật được người xưa xem là "bí truyền". Cho nên dựa theo sách cổ để học Đẩu Số, thường thường sẽ biết được sự hội hợp một số sao có tác dụng rất mạnh, nhưng có lúc lại thấy sự hội hợp của chúng không hiển thị tác dụng mạnh như vậy. Đây là vì không biết các hình thức hội hợp vừa kể trên để tính toán sức mạnh hơn kém của chúng.

"Tá cung an sao", "Tinh diệu hỗ thiệp", "Kiến tinh tầm ngẫu", là Vương Đình Chi được sư phụ bí truyền, đây là ba kỹ thuật trọng yếu, dùng để luận đoán tinh bàn của phái Trung Châu. Tiền bối của phái Trung Châu là Lục Bân Triệu khi soạn bộ Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa cũng không chịu tiết lộ những bí truyền này.

KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN ĐỊA BÀN

Địa bàn tổng cộng có 14 chính diệu. Về cách an, toàn bộ giống như Thiên bàn, trong đó thì phép an sao Tử Vi có khác.

Tử vi của "Thiên bàn" là lấy thiên can của Năm sinh và ngũ hành Dần thủ, để tìm Nạp âm của cung mệnh, rồi lấy Nạp âm ngũ hành để tra Cục số, thì xác định được cung vị của Tử Vi.

Tử Vi của "Địa bàn" cũng vậy, ta lấy thiên can của Năm sinh, và ngũ hành Dần thủ, nhưng không phải để tìm ngũ hành nạp âm của cung Mệnh, mà là tìm ngũ hành Nạp âm của cung Thân. Do đó "Địa bàn" lấy cung Thân làm chủ. Sau đó tra được nạp âm của cung Thân, chiếu theo phương pháp của "Thiên bàn", căn cứ ngũ hành Cục số, để tìm cung vị Tử vi.

Sau khi đã biết "Địa bàn", ta rất dễ xem xét được căn nguyên của thiên tính và bản chất Tiên thiên của mệnh tạo. Nhờ vậy, ta sẽ hiểu tại sao rất nhiều người có địa vị cao quý trong xã hội, nhưng họ lại có những hành vi nhỏ mọn rất là hạ lưu. Đây là vì các sao của cung mệnh tại "Địa bàn" rất tốt, nhưng các sao của cung mệnh ở "Thiên bàn" tiên thiên lại không cao quý cho lắm.

Trái lại, có rất nhiều người nghèo nàn, hoặc không được hưởng một sự giáo dục tốt, nhưng họ lại có tư tưởng rất thanh cao, và hành vi rất đáng khâm phục. Đây là do các sao ở cung mệnh ở "Thiên bàn" phần nhiều là sao xấu, nhưng ở "Địa bàn" lại có nhiều sao rất tốt cung hội chiếu.

Các sao của "Địa bàn" cũng vậy, cần phải chú ý xem chúng nhập miếu hay lạc hãm, sinh vương hay tử mộ, để phân biệt sự cao thấp của chúng.

Xin đơn cử ví dụ, người sinh giờ Tị, ngày 17 tháng 5, năm Quý Sửu, Vương Đình chi tôi chú giải như sau: (sách Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa bổ chú )

Lục tiên sinh chủ trương dùng "Địa bàn" để tìm "căn nguyên tiên thiên". Đây là điểm rất đáng chú ý, không phải là phát biểu của một người hiểu biết nửa vời. Nhưng dùng "Địa bàn" để tính "giao thế thời" thì Lục tiên sinh hoàn toàn không có nhắc đến.

Theo Vương Đình Chi, thì mỗi giờ sinh của một người có thể chia thành "tam bàn" Thiên - Địa - Nhân. Điều này, cần phải căn cứ vào Tổ đức để phân biệt, chứ không nhất định giới hạn trong "giao thế thời".

Liên quan đến phương pháp an sao ở "Địa bàn" và "Nhân bàn", điều mà xưa nay vẫn được coi là "bí truyền", thực ra rất là đơn giản.

Trước tiên, cứ theo phương pháp an sao của mệnh bàn, mệnh bàn này tức là "Thiên bàn", rồi lấy cung Thân của "Thiên bàn" đổi thành cung mệnh, dùng can chi của cung Thân để định Cục và Ngũ hành, an Tử vi và Thiên phủ, như vậy là được thêm một bàn khác, gọi là "Địa bàn".

Nếu không dùng cung Thân, thì lấy cung Phúc Đức của "Thiên bàn" đổi thành cung mệnh, rồi dùng can chi của cung Phúc Đức để định cục ngũ hành, sau đó an Tử vi và Thiên phủ, như vậy là được thêm một mệnh bàn khác nữa, gọi là "Nhân bàn", nói một cách chính xác thì đây là "nhân bàn của địa bàn".

Nếu cung Mệnh và cung Thân đồng cung, thì "Thiên bàn" và "Địa bàn" hoàn toàn giống nhau. Nếu cung Thân và cung Phúc đức đồng cung, thì "địa bàn" và "nhân bàn của địa bàn" hoàn toàn giống nhau.

Chú ý phân biệt, "Thiên bàn" - "Địa bàn" - "Nhân bàn", chỉ có cung Mệnh là khác cung độ, trong đó 14 chính diệu được bài bố khác nhau, còn các sao khác ở các cung viên đều không thay đổi.

KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN NHÂN BÀN

1- Cung phi động và tác dụng giao thoa của lưu diệu

Nguyên cứu Tử Vi Đẩu Số, nếu chỉ quan sát các sao ở 12 cung "Thiên bàn", thì chỉ có thể luận đoán cách cục cơ bản của mệnh tạo (tức khuynh hương Tiên thiên). Nhưng người có cách cục tốt, chưa chắc Năm hạn nào cũng tốt ; người có cách cục xấu, chưa chắc Năm hạn nào cung xấu. Do đó cần phải mang tinh bàn "phi động" ra để nghiên cứu tỷ mỉ, xem vận thế của Mệnh tạo trong mỗi một Năm hạn. Đây mới là chỗ tinh hoa của Đẩu Số. (Thuyết "phi động" người đầu tiên nói đến là Quan Vân Chủ Nhân trong Tử Vi Đẩu Số tuyên vi).

Đẩu số giống với khoa Tử Bình, cứ 10 năm được coi là một Đại hạn. Đại hạn khởi đầu từ cung mệnh, dương nam âm nữ đi thuận, âm nam dương nữ đi ngược, đếm đến cung vị nào thì đó là cung Mệnh đại hạn 10 năm. Rồi cũng khởi đầu từ cung mệnh của Đại hạn đếm theo chiều nghịch (của chiều kim đồng hồ), bày lần lượt 11 cung còn lại, mà không cần chú ý đến tên gọi gốc của "Thiên bàn".

Giả thiết mệnh tạo là Dương nam, thuộc mộc tam cục, Mệnh lập tại Dần, xét Đại hạn Mậu Thìn 23 - 32 tuổi, cung mệnh của Đại hạn ở cung Mậu Thìn, tức là cung Phúc đức của Thiên bàn tại Thìn, thế là từ cung Mậu Thìn, bầy bố theo chiều nghịch

- Cung Đinh Mão là cung Huynh đệ của Đại hạn
- Cung Bính Dần là cung Phu thê của Đại hạn
- Cung Ất Sửu là cung Tử Tức của Đại hạn
...v.v...
- Cho đến cung Kỷ Tị là cung Phụ Mẫu của Đại hạn

Tới đây, có thể căn cứ vào tổ hợp sao của các cung, tham khảo những điều đã luận thuật ở chương trước để luận đoán, thì có thể biết mệnh tạo trong đại hạn 23 - 32 tuổi sẽ gặp các tình huống cát hung thế nào.

Tinh bàn gốc đã bài bố chỉ là "Thiên bàn", hoặc Địa bàn cố định bất động, lúc muốn luận đoán 12 cung của Đại hạn, còn phải thêm vào các "Lưu diệu" thuộc đại hạn đó. Lưu diệu được dùng trong phái Trung Châu có mấy loại như dưới đây:

1)- Lưu diệu dựa vào thiên can của cung mệnh (đại hạn) để an: lưu Hóa Lộc, lưu Hóa Quyền, lưu Hóa Khoa, lưu Hóa Kị, lưu Lộc (lộc tồn), lưu Dương (kình dương), lưu Đà (đà la), lưu Khôi (thiên khôi), lưu Việt (thiên việt), lưu Xương (xăn xương), lưu Khúc (văn khúc)

2)- Lưu diệu dựa vào địa chi của cung mệnh (đại hạn) để an: lưu Mã (thiên mã)

Theo ví dụ trên:
- Cung mệnh của Đại hạn từ 23 - 32 tuổi là ở cung Mậu Thìn, cho nên can Mậu là can của cung mệnh Đại hạn
- Vì vậy trong Đại hạn này, căn cứ vào can Mậu, thì lưu hóa Lộc là Tham Lang, lưu hóa Quyền là Thái Âm, lưu hóa Khoa là Thái Dương (??? kiểm), lưu hóa Kị là Thiên Cơ, lưu Lộc ở cung Tị, lưu Dương ở cung Ngọ, lưu Đà ở cung Thìn.
- Lại vì Thìn là chi của cung mệnh Đại hạn, cho nên lưu Mã ở cung Dần.

Người mới nghiên cứu Đẩu Số, tốt nhất nên điền các "lưu diệu" vào một tinh bàn mới (Nhân bàn), còn đối với người đã thuộc phương pháp an sao, thì các lưu diệu ở đâu chỉ nhìn một cái thì biết liền, không cần điền vào tinh bàn. Nhất là lúc luận đoán "Lưu niên", "Lưu nguyệt", "Lưu nhật", giả dụ như điền hết các Lưu diệu vào thì cả tinh bàn chi chít toàn sao, sẽ làm rối mắt, đồng thời sẽ làm ảnh hưởng đế sự suy nghĩ tính toán. Do đó thuộc lòng phương pháp an sao là rất quan trọng. Nếu không thì nên lập nhiều tinh bàn - tức là nhân bàn của từng thứ loại.

Khi luận đoán Lưu niên - Lưu nguyệt - Lưu nhật, thì có một nguyên tắc cần phải biết như sau:

1) Phàm có các Lưu diệu thì lấy Lưu diệu làm chủ, các sao ở mệnh bàn gốc (thiên bàn) không xung thì không sinh ra tác dụng (xin nhắc lại là nếu không xung thì không sinh ra tác dụng). Ví dụ như, tinh bàn gốc có Lộc tồn ở cung Tị, lưu Lộc ở cung Thân, cả hai chẳng ở phương vị tam phương tứ chính. Hay như Kinh dương gốc ở cung Ngọ, lưu Dương ở cung Dậu, còn Đà là gốc ở cung Thìn, lưu Đà ở cung Mùi, cung không có quan hệ hội hợp với các sao ở tam phương tứ chính. Cho nên khi luận đoán, Kình dương, Đà la, Lộc tồn của tinh bàn gốc tuy có ảnh hưởng đối với 12 cung của Đại hạn, nhưng tác dụng không lớn. Trái lại, lưu Lộc, lưu Dương, lưu Đà sẽ có tác dụng khá lớn.

2)- Nếu các sao ở trong tin bàn gốc, xung hội với "Lưu diệu" ở tam phương tứ chính, thì sác mạnh tăng thêm, hai bên sẽ phát huy tác dụng. Ví dụ như Lộc tồn nguyên cục ở tại cung Tị, lưu Lộc ở cung Hợi, nguyên cục "Lộc" và "Lưu Lộc" hai bên đối xứng. Hoặc như Kình dương ở cung Ngọ mà lưu Dương ở cung Tí, Đà la ở cung Thìn mà lưu Đà ở cung Tuất, như vậy nguyên cục và Lưu hai bên cũng đối xứng, làm cho tổ hợp các sao mạnh thêm nhiều. Do đó khi luận đoán 12 cung của Đại hạn, toàn bộ 6 sao trong đó 3 sao của nguyên cục và 3 sao "lưu" đều có tác dụng.

3)- Các sao xung động với "lưu diệu" thì lấy trường hợp đồng cung là mạnh nhất ; trường hợp tương xung ở đối cung là kế đó ; trường hợp hội chiếu ở cung tam hợp là cuối cùng.

4)- Khi luận đoán Đại hạn, cần lưu ý quan hệ xung hội của tinh bàn gốc với "lưu diệu" của Đại hạn.

Lúc luận đoán Lưu niên, cần lưu ý quan hệ xung hội giữa lưu diệu của Đại hạn với lưu diệu của lưu niên. Các sao tương đồng ở tinh bàn gốc có ảnh hưởng rất nhỏ, trừ trường hợp có hai "lưu diệu" đồng thời xung động, nếu không, về căn bản không cần lưu ý. Theo như ví dụ trên, lúc luận đoán Lưu niên, Lộc Tồn của tinh bàn gốc ở cung Tị, không có Lộc Tồn của Đại hạn ở tam phương tứ chính hội chiếu, cũng không có Lộc Tồn của Lưu niên hội chiếu. Nên khi luận đoán Lưu niên, có thể không cần lưu ý gì thêm.

Nhưng Kình dương, Đà là, Lộc tồn của đại hạn thì có Kình dương, Đà la, Lộc tồn của lưu niên ở đối cung của chúng xung đột, sức mạnh của hai bên mạnh thêm. Do đó khi luận đoán Lưu niên, chỉ cần xem xét Kình dương, Đà la, Lộc tồn của Đại hạn và Lưu niên.

Như tình huống ví dụ đã nói trên, Lộc tồn gốc tại cung Tị, Lộc tồn của đại hạn ở cung Tý, Lộc tồn của Lưu niên ở cung Hợi, theo đó Lộc tồn gốc tuy không hội chiếu với Lộc tồn của đại hạn ở cung Tý, nhưng xung hội với Lộc tồn của Lưu niên ở cung Hợi, do đó vẫn có thể phát sinh sức mạnh.

Có điều, giả dụ Lộc tồn của Đại hạn ở cung Dậu, như vậy lại tương hội với Lộc tồn gốc tại cung Tị, thì sao Lộc Tồn này, do đồng thời có lưu Lộc của Đại hạn ở Dậu và lưu Lộc của Lưu niên ở Hợi, tam phương hiệp trợ, nên sức mạnh của nó tuyệt đối không được xem thường.

Lúc luận đoán Lưu nguyệt, chỉ xem trọng lưu diệu của Lưu nguyệt và lưu diệu của Lưu niên. Chỉ khi nào lưu diệu của Đại hạn cũng ở trong tình huống bị xung động mới có sức mạnh, các sao tương đồng trong tinh bàn gốc (Thiên bàn), sức ảnh hưởng rất nhỏ, có thể không cần lưu ý gì thêm.

Lúc luận đoán Lưu nhật, sức mạnh lần lượt giảm thêm, thông thường lưu diệu của Đại hạn, và các sao tương đồng của tinh bàn gốc có thể không cần lưu ý gì thêm.

Các nguyên tắc kể trên rất quan trọng, khi luận đoán Đại hạn, Lưu niên, Lưu nguyệt, Lưu nhật, không được xem thường. Nếu không sẽ rối mắt, mà không cách nào luận đoán. Nhất là khi luận đoán Lưu nhật, trong tinh bàn đầy dẫy lưu diệu, hơn nữa, nhất định tình trạng Cát Hung sẽ lẫn lộn, nếu không biết nguyên tắc cái nào lấy cái nào bỏ, thì sẽ không biết định tính chất Cát Hung của các sao hội hợp như thế nào.

2)- Quy tắc quan sát các sao của Đại hạn và Lưu niên

Sau khi biết rõ các nguyên tắc thuật ở trên, và đã tìm hiểu về "tinh bàn phi động", cho tới cách nhập thêm lưu diệu, tốt nhất ta nên bắt đầu từ Đại hạn và lưu niên, để nghiên cứu phương pháp luận đoán.

Để tiện cho việc thuyết minh, tốt nhất tôi xin đơn cử một ví dụ thực tế:

Mệnh bàn của một phụ nữ, âm nữ, kim tứ cục, mệnh chủ Văn khúc, Thân chủ Thiên đồng, mệnh lập tại cung Ất Mùi vô chính diệu gặp Tuần Không.

Điều đáng chú ý là cung Phu ở Tị có Thiên cơ, Hữu bật, Thiên mã đồng độ, hội tinh hệ Thiên đồng, Cự môn hóa Lộc ở cung Tân Sửu (Di), Thái âm ở cung Kỷ Hợi, cung Đinh Dậu vô chính diệu (Phúc), vì vậy mượn Thiên lương, và Thái dương hóa Quyền ở cung Tân Mão để "nhập cung an sao" cho cung Đinh Dậu. Các sao có tổ hợp dạng này thoạt nhìn thấy rất tốt, Hóa Lộc, Hóa Quyền và Lộc tồn cùng chiếu, có vẻ như có thể lấy được người chồng giầu sang.

Nhưng Thiên cơ ở cung Phu vốn có tính chất hiếu động, trôi nổi, thêm vào đó còn có Thiên mã đồng độ, tính chất hiếu động trôi nổi càng tăng. Cung Phu không ưa Tả phụ Hữu bật, nhưng hai sao này lại đồng độ và hội hợp cung Phu. Ngoài ra, Thái dương và Thiên lương, Thiên đồng và Cự môn đều chẳng phải là tổ hợp sao có lợi cho cung Phu, cho nên cung Phu trong mệnh bàn có thể nói là cát - hung lẫn lộn. Cát hay Hung thì ảnh hưởng của Đại vận là tất lớn.

Lúc vào Đại hạn Bính Thân từ 14 - 23 tuổi, cung Phu ở cung Giáp Ngọ, thấy Tử vi xung chiếu Tham lang ở Tý, gặp thêm các sao đào hoa Hồng loan, Thiên hỷ, Hàm trì, Thiên diêu, nhưng đáng tiếc lại hội chiếu Văn xương hóa Kị ở cung Mậu Tuất, sao Kị này lại xung khởi Liêm trinh hóa Kị của Đại hạn ở đồng cung ; sao Văn xương là sao lễ nhạc, Liêm trinh là sao chủ về tình cảm, cùng lúc đều Hóa Kị, cho nên trong đại hạn này, tìm không được người bạn đời ký tưởng là điều có thể thấy trước. Huống hồ Kình dương và Linh tinh ở cung Mậu Tuất lại xung khởi lưu Dương của đại hạn cung Giáp Ngọ, cho nên ắt sẽ có sóng gió, trắc trở về tình cảm.

Đến đại hạn Đinh Dậu từ 24 - 33 tuổi, cung Phu của đại hạn ở cung Ất Mùi, vô chính diệu, mượn Thiên đồng và Cự môn ở đối cung để "nhập cung an sao" cho cung Mùi. Trong đại hạn Đinh Dậu thì Cự môn hóa Kị, cùng với sao Hóa Lộc của nguyên cục tổ hợp thành tinh hệ "Kị xung Lộc", đồng thời có Thái âm hóa Lộc ở cung Kỷ Hợi, Thái dương hóa Quyền ở cung Tân Mão hội chiếu. "Âm Dương Lộc Quyền" hội hợp, vì vậy đây là vận trình kết hôn, nhưng có lưu Dương của đại hạn ở cung Ất Mùi và Cự môn hóa Kị cùng thủ cung Phu của đại hạn, nên đã ngầm phục nguy cơ; thêm vào đó "Thái dương Thiên lương" có Thiên nguyệt đồng độ, là tinh hệ chủ về bệnh mãn tính thuộc hệ thần kinh, mà cung Kỷ Hợi lại có Địa kiếp, do đó cuộc tình duyên này thực tình không dám khen ngợi, tâng bốc.

Năm Mậu Ngọ 1978, cung Mệnh của lưu niên và cung Phu của lưu niên cùng hội hợp Tham lang hóa Lộc ở cung Canh Tý, lại thêm các sao "đào hoa" đồng độ, vì vậy chủ về "thành hôn mà không có nghi lễ chính thức". Tốt nhất ta xem tình huống cung Phu của lưu niên (cung Nhâm Thìn) có lưu Đà đồng độ, xung hội với Đà là của mệnh bàn, cũng chẳng thể khen.

Cho nên sau khi kết hôn năm Kỷ Mùi 1979, vào năm Quý Hợi 1983 cung Phu của lưu niên mượn tổ hợp "thái dương Thiên lương" và Thiên nguyệt ở cung Tân Mão, để "nhập cung an sao" cho cung Đinh Dậu, bị Kình dương của lưu niên ở cung Tân Sửu hội chiếu, dẫn động lưu Đà của đại hạn ở cung Quý Tị, thế là tình cảm vợ chồng đổ vỡ, nguyên nhân là do chồng sử dụng ma túy (bệnh mãn tính thuộc hệ thần kinh).

Lại xem cung Phúc (Kỷ Hợi) của đại hạn Đinh Dậu, bị lưu Dương và lưu Đà của đại hạn hội chiếu, ở tinh bàn gốc lại có Địa không, Địa kiếp (Kỷ Hợi), thêm vào đó lại xung chiếu Thiên cơ, Thiên mã, Hữu bật từ cung Quý Tị, cho tới mượn phép "an sao nhập cung" của cung Tân Sửu là tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" cho cung Ất Mùi, và "Thái dương Thiên lương", đều là nhóm sao chủ về điều tiếng thị phi.

Còn trùng hợp một điều nữa là, cung mệnh của đại hạn Đinh Dậu cũng hội hợp với tinh hệ đồng dạng, đây chính là tượng trưng cho tinh thần của mệnh tạo ở trong tình huống rất bối rối khó xử.

Năm Giáp Tý 1984, "Vũ khúc Thiên tướng" ở cung Phúc (Canh Dần) bị Thái dương hóa Kị ở cung Tân Mão và Kình dương của lưu niên, cùng với Cự môn hóa Kị ở cung Tân Sửu và Đà la của lưu niên giáp cung. Đây là tổ hợp tam trùng "Hình Kị giáp ấn", "song Kị giáp", "Dương Đà giáp", mà còn là cách xấu "Linh Xương Đà Vũ". Vì vậy năm đó đã từng có ý không còn muốn sống, nhưng may mắn được Lộc tồn của đại hạn ở cung Giáp Ngọ, nên không chết.

Từ phân tích ở trên, thiết nghĩ bạn đọc đã có cái nhìn nhật định về phương pháp luận đoán các sao của mệnh bàn.

Bây giờ ta xem thêm một ví dụ khác, đồng thời nghiên cứu vài quy tắc về cách quan sát các sao.

Nữ mệnh, âm nữ, Mệnh chủ Tham lang, Thân chủ Hỏa linh, mệnh nguyên cục ở cung Giáp Tý có Tham lang tọa thủ. Trong mệnh bàn, cung vị xấu nhất là cung Đinh Tị (tức cung Nô), cung vị này có Kình dương và Đà la giáp cung, trong cung có Thiên cơ hóa Kị tọa thủ, cấu tạo thành cách xấu "Kình Đà giáp Kị", mà Thiên cơ lại có Hỏa tinh đồng độ, cũng đồng dạng bị Kình Đà giáp cung, tính cứng rắn hình khắc, cũng vì vậy mà mạnh thêm. Mở mệnh bàn ra, trước tiên nên tìm ra cung vị xấu nhất hoặc tốt nhất, là quy tắc 1 của phép quan sát các sao.

Có 3 cung vị bị cung Đinh Tị gây ảnh hưởng, đó là Tân Dậu, Quý Hợi, Ất Sửu, trong đó có cung Tân Dậu là xấu nhất, bởi vì nó đồng thời tương hội với Linh tinh của cung Ất Sửu, tức là bị 2 sao Hỏa tinh và Linh tinh cùng chiếu xạ theo kiểu "song phi hồ điệp"

Cung Tân Dậu là cung mệnh của đại hạn từ 34 - 43 tuổi (Tử nữ). Sau khi tìm ra cung vị xấu nhất hoặc tốt nhất, tiếp đến phải tìm ra "tam phương ức hiếp" mà nó bị ảnh hưởng, tức là vì bị chúng ảnh hưởng mà biến thành cung xấu hay biến thành cung tốt, đây là quy tắc 2 của phép quan sát các sao.

Do cung mệnh của đại hạn có khuyết điểm, vì vậy cần  tiếp tục tìm ra cung vị nào xấu hơn trong đại hạn. Ta có thể lưu ý cung Bính Thìn (quan lộc), trong cung nguyên cục có Thất sát và Đà la tọa thủ ; lúc vào đại hạn Tân Dậu thì Đà là của nguyên cục tương xung với lưu Đà của đại hạn của cung Canh Thân (Tài bạch), do đó tính cứng rắn hình khắc được phát động, hơn nữa còn đối diện với lưu Dương của đại hạn ở cung Nhâm Tuất, tính cứng rắn hình khắc càng mạnh thêm. Cung Bính Thìn là cung Tai Ách của đại hạn Tân Dậu, cho nên ta cần lưu ý xem trong hạn có vận xấu gì về phương diện cung Tai Ách hay không.

Sau khi tìm ra vận hạn tốt xấu, ta lại tìm cung vị tốt xấu của vận hạn này, để quyết định vận hạn này tốt thế nào, xấu thế nào, là quy tắc 3 của phép quan sát các sao.

Đến đây, ta quay trở lại cung Đinh Tị (cung Nô) của nguyên cục được xem là xấu nhất, cung vị này là cung mệnh của lưu niên Nhâm Tuất, có "Liêm trinh Thiên phủ" và Thiên hình đồng độ, lại có lưu Dương của đại hạn và lưu Đà của lưu niên bay vào. Hai lưu diệu này chia ra cùng hội chiếu với Kình dương và Đà la của mệnh bàn gốc, sức mạnh hai bên mạnh thêm. Càng xấu hơn là, vào năm Nhâm Tuất có Vũ khúc hóa Kị ở cung Giáp Dần đến hội chiếu; toàn bộ tinh hệ ở cung mệnh của lưu niên biểu thị có tổn thương thuộc kim. Sau khi tìm ra cung vị xấu nhất của đại hạn, tiếp theo là tìm lưu niên xấu, là quy tắc 4 của phép quan sát các sao.

Rồi ta lại truy tìm tiếp, xem năm Quý Hợi kế tiếp ở cung Tai Ách, là năm bị Văn xương lưu Hóa Kị của cung Kỷ Mùi, và Thiên cơ hóa Kị của cung Đinh Tị hội chiếu. Cung Mậu Ngọ là cung Tai Ách của lưu niên, có Tử vi và Kình dương đồng độ, Kình dương này bị Kình dương của đại hạn xung động, hội hợp với "Liêm trinh Thiên phủ" và Thiên hình của cung Nhâm Tuất, còn bị Tham lang hóa Kị của lưu niên tương xung, thêm vào đó còn có Thiên Hư và Thiên Khốc đồng độ, lại hội Địa kiếp của cung Giáp Dần. Cho nên có thể luận đoán, mệnh tạo vào năm Quý Hợi phải bị phẫu thuật. Sau khi tìm ra sự kiện, tiếp tục truy xét của năm kế tiếp, là quy tắc 5 của phép quan sát các sao

Sau đây ta tiếp tục phân tích một tinh bàn của nam mệnh làm ví dụ. Dương nam, Thủy nhị cục, Mệnh chủ Tham lang, Thân chủ Hỏa tinh.

Mệnh bàn nguyên cục:

- Cung mệnh lập tại cung Quý Hợi, có Thiên cơ (Hóa Kị) Hỏa tinh, Thiên tài, Thiên nguyệt, Lâm quan tọa thủ.
- Phụ mẫu lập tại cung Giáp Tý, có Tử vi ngộ Tiệt không, Vượng
- Phúc đức lập tại cung Ất Sửu, có Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên không, Tiệt không, Suy
- Điền trạch lập tại cung Giáp Dần, có Phá quân, Thiên mã, Địa không, Cô thần, Nguyệt giải, Thiên vu, Âm sát, Bệnh
- Sự nghiệp lập tại cung Ất Mão, vô chính diệu, có Thiên quan, Thiên phúc, Hồng loan, Thiên hình, Tử.
- Giao hữu lập tại cung Bính Thìn, có Thiên phủ, Liêm trinh, Đà la, Hữu bật, Hoa cái, Mộ.
- Thiên di lập tại cung Đinh Tị, có Thái âm, Lộc tồn, Thiên thọ, Kiếp sát, Phá toái, Nguyệt đức, Tuyệt
- Tật Ách lập tại cung Mậu Ngọ, có sao Tham lang (Hóa Lộc) Kình dương, Bát tọa, Tuần không, Thiên khốc, Thiên hư, Thai
- Tài bạch lập tại cung Kỷ Mùi, có Thiên đồng, Cự môn, Linh tinh, Thiên việt, Tam thai, Long đức, Dưỡng
- Tử tức lập tại cung Canh Thân, có Vũ khúc, Thiên tướng, Địa kiếp, Tam thai, Phỉ liêm, Trường sinh
- Phu thê lập tại cung Tân Dậu, có Thái dương, (Khoa) Thiên lương, Thiên hỉ, Hàm trì, Thiên đức, Mộc dục.
- Huynh đệ lập tại cung Nhâm Tuất, có Thất sát, Tả phụ, Phượng các, Ân quang, Thiên quý, Quả tú, Giải thần, Quan đới.

Mệnh bàn này, điều khiến ta chú ý nhất là cung Mệnh có Thiên cơ hóa Kị đồng độ với Hỏa tinh, nhưng cung Di (Đinh Tị) lại là Thái âm hóa Quyền đồng độ với Lộc tồn, vì vậy có thể luận đoán, mệnh tạo lợi về tiền tài nếu rời xa quê hương.

Nhưng Thái âm lạc hãm, hội Thái dương hóa Khoa ở cung Dậu cũng rơi vào nhược địa, thêm vào đó còn bị tinh hệ "Thái dương Thiên lương" ở Dậu và Thiên cơ ở Hợi xung chiếu, cung Sửu hội hợp lại vô chính diệu, phải mượn "Thiên đồng Cự môn", Linh tinh, Thiên việt của cung Mùi để "an sao nhập cung" cho cung Sửu. Vì vậy có thể luận đoán mệnh tạo ở nơi xa, tuy có thể phát tài, nhưng điều tiếng thị phi, thậm chí phạm pháp.

Vận trình sáng sủa nhất là từ 32 đến 41 tuổi vào đại hạn Giáp Dần, cung Di của đại hạn này là cung Canh Thân có Vũ khúc hóa Khoa, cung mệnh của đại hạn này là cung Giáp Dần có Thiên mã có lưu Lộc tồn của đại hạn, thành cách "Lộc Mã giao trì", lưu Lộc còn xung động Tham lang hóa Lộc của cung Ngọ, vì vậy trong đại hạn này mệnh tạo có thể phát tài ở nơi xa.

Nhưng cũng trong đại hạn này, cung Phụ mẫu của đại hạn (cung Ất Mão) vô chính diệu, phải mượn thái dương hóa Kị (vốn là hóa Khoa) và Thiên lương để theo phép "an sao nhập cung" cho cung Phụ mẫu, dẫn đến tình hình có lưu Dương và Thiên hình đồng độ, cho nên không những chủ về cha mất trong hạn này, hơn nữa, lưu niên đến hai cung Mão và Dậu còn sợ rằng sẽ có sự cố phạm pháp.

Năm Canh Thân 1980 cung mệnh của lưu niên này có Vũ khúc (đại hạn thì hóa Khoa, lưu niên thì hóa Quyền), có Thiên tướng và Lộc tồn của lưu niên đồng độ, thêm vào đó, cung Di của lưu niên lại có Thiên Mã của lưu niên bay vào, thành cách lưỡng trùng "Lộc Mã giao trì", vì vậy chủ về năm đó thu hoạch rất khá.

Nhưng năm kế tiếp, cung mệnh lưu niên tới cung Tân Dậu có Thái dương (đại hạn thì Hóa Kị) và Thiên lương, hội hợp Văn khúc (lưu niên thì Hóa Khoa) và Văn Xương (lưu niên thì Hóa Kị) của cung Sửu, lại hội hợp với Thiên đồng và Cự môn (lưu niên thì Hóa Lộc) mượn của cung Mùi để an sao, còn hội hợp với Thái âm hóa Quyền và Lộc tồn của tinh bàn gốc. Ta nên chú ý cung Dậu, có lưu Dương lưu Đà của đại hạn cùng chiếu, thêm vào đó còn có Thiên hình từ cung Mão và Kiếp sát từ cung Tị đến hội. Cho nên năm đó (1981), tuy có Lộc tồn của lưu niên xung khởi Lộc tồn của tinh bàn gốc, nhưng vẫn chủ về có dính dáng đến pháp luật, kiện tụng và phá tài.

Đến năm Ất Sửu, cung mệnh lưu niên là cung Sửu vô chính diệu, mượn "Thiên đồng Cự môn" và Linh tinh, Thiên việt của đối cung để nhập cung, lại có Đà la của đại hạn đồng độ, rồi lại hội hợp với Thái âm lạc hãm (lưu niên thì Hóa Kị) và Thái dương (đại hạn thì Hóa Kị), vì vậy mà bị cuốn vào vòng thị phi, bất hòa, tranh chấp.

Tương lai đến năm Đinh Mão, cung mệnh lưu niên là cung Mão, vẫn là cung vô chính diệu, lại mượn Thái dương hóa Kị từ cung Dậu là đối cung, để "an sao nhập cung" cho cung Mão, lại hội hợp với Cự môn (lưu niên thì Hóa Lộc) và Thiên cơ hóa Kị, mà còn kèm theo Đà la của lưu niên, nguyên cục lại có Hỏa tinh, Linh tinh cùng chiếu, lại gặp thêm các sao hung Thiên hình, Đại hao, Thiên nguyệt, nên cẩn thận, nếu không e rằng sẽ vì phạm pháp mà phá tài lớn.

Ghi chú về phép định Tiểu hạn

Tiểu hạn là chủ về Cát - Hung của một năm. Do phái Trung Châu không dùng Tiểu hạn, mà chỉ dùng Lưu niên để luận đoán, nên Tôi không trình bày phép định Tiểu hạn trong chương này.

3)- Cách luận đoán Lưu nguyệt

Dùng Đẩu Số để luận đoán Lộc Mệnh, không nên thường xuyên luận đoán cát - hung của lưu Nguyệt, bởi vì quá tỉ mỉ, bất kể cát hay hung cũng đều sẽ ảnh hưởng đến tâm trạng của mệnh tạo. Nhưng cũng có một số tình huống, thí dụ như năm đó dễ xảy ra tai nạn giao thông, thì tốt nhất là luận đoán lưu Nguyệt để trợ giúp thêm, xem vào tháng nào có hung hiểm để cố tránh đi xa bằng xe cộ. Bởi vì trên thực tế khó mà hoàn toàn không đi xa trong vòng một năm, cho nên luận đoán lưu Nguyệt để bổ trợ.

Đơn cử một ví dụ:
Mệnh tạo bị tai nạn giao thông, vì vậy mà gãy xương, Vương Đình Chi tôi căn cứ vào mệnh bàn để truy tìm điềm báo của sự cố: Âm nữ, Thủy nhị cục, Mệnh chủ Cự môn, Thân chủ Thiên cơ. Mệnh lập tại cung Ngọ, có Cự môn (hóa Kị), Lộc tồn tọa thủ.

Vào tháng 5 năm Ất Mão 1975, cung mệnh của đại hạn ở cung Mậu Thân, có "Thiên đồng Thiên lương" đồng độ, có Địa không và Địa kiếp đối củng, hội hợp Thiên cơ, Hỏa tinh ở cung Nhâm Tý (vốn là hóa Khoa, đại vận thì hóa Kị), với Thái âm (hóa Lộc) Thiên hình đồng độ ở cung Giáp Thìn.

Cung Di của lưu niên ở Giáp Dần vô chính diệu, mượn sao của cung Mậu Thân để "an sao nhập cung", biến thành Địa không và Địa kiếp đồng cung (cung Dần) hội hợp với Cự môn hóa Kị (còn gọi là "Kình Đà giáp Kị"), còn hội hợp với Thái dương lạc hãm ở cung Canh Tuất.

Kết cấu của tinh hệ đã hiển thị điềm hung hiểm trong đại hạn này, vì vậy cần phải tìm năm nào xảy ra.

Mệnh tạo vào năm Tân Hợi 1971 và năm Quý Sửu 1973 đều đã từng lái xe đi xa, nhưng chưa bị thương gì (bạn đọc thử luận đoán xem tại sao). Nhưng đến năm Ất Mão 1975, cung mệnh của lưu niên ở cung Ất Mão, trùng hợp với tình hình Kình dương của lưu niên và Đà la của lưu niên giáp cung (tuy chẳng phải "giáp Kị", nhưng do Thiên phủ ở cung Mão không hóa Kị, nên cũng thuộc tính chất không cát tường), hội cung Hợi vô tính diệu, nên mượn "Liêm trinh Tham lang" của cung Tị để an sao, hai sao lại bị lưu Dương và lưu Đà của đại hạn giáp cung. Ngoài ra, ở đối cung là cung Dậu có "Vũ khúc Thất sát", cung Mùi là Thiên tướng của "Hình Kị giáp ấn".

Điều xấu nhất là, cung Tai Ách của lưu Niên bay đến cung Tuất có Thái dương lạc hãm ở đây, tương chiếu Thái âm (vốn gốc hóa Lộc, lưu Niên thì hóa Kị), Đà la của đại hạn, Kình dương của lưu Niên và Thiên hình; hội hợp với "Thiên đồng Thiên lương", Đà la của lưu niên ở cung Dần, và hội hợp với Cự môn hóa Kị (Hóa Kị này xung khởi Thiên cơ hóa Kị của đại hạn) và lưu Dương của đại hạn ở cung Ngọ. Các sao sát - kị đều nặng, nên năm đó chủ về có tai nạn.

Sau đó mới xem đến lưu Nguyệt.

Năm Mão, Đẩu Quân tại cung Hợi, tức tháng Giêng khởi từ cung Hợi, đến tháng Năm thì cung mệnh của lưu Nguyệt đến cung Mão, tức là trùng với cung mệnh của lưu Niên. Tính phép độn can, năm Ất Mão khởi Mậu Dần (tháng Giêng), tháng Năm thì can chi của cung mệnh là Nhâm Ngọ, vì vậy cung Di có Vũ khúc Hóa Kị (cung Dậu), cung mệnh của lưu Nguyệt lại có Kình Đà của lưu Niên giáp cung, hơn nữa Kình Đà của lưu Nguyệt còn xung khởi Đà la Kình dương của lưu Niên, xung khởi Đà la Kình dương của đại hạn, toàn bộ đồng loạt bắn vào cung Tai Ách của lưu Nguyệt ở cung Tuất. Cung Tuất còn bị Đà la của lưu Nguyệt đối nhau với Thiên hình ở cung Thìn, còn bị Thái âm hóa Kị từ cung Thìn vây chiếu. Do đó luận đoán vào tháng 5 mà xuất hành sẽ có hung hiểm.

Vũ khúc hóa Kị và Thất sát đồng độ ở cung Di (Dậu) đã hiển thị tính chất bị thương tổn thuộc Kim.

Từ ví dụ này có thể biết, muốn luận đoán lưu Nguyệt, cần phải bắt đầu tìm từ đại hạn, sau đó tìm lưu Niên, tiếp sau đó rồi tìm lưu Nguyệt, thì mới có ý nghĩa ứng dụng thực tế. Bởi vì, mục đích luận đoán lưu Nguyệt chỉ là trợ giúp trong việc "xu cát tị hung". Nếu cứ tìm loạn xạ một tháng để luận đoán, do không có mục đích nên quá mông lung, sẽ dễ lạc vào mê cung.

Thêm một ví dụ về Cách luận đoán lưu nguyệt

Bé gái sinh năm Nhâm Tuất 1982, dương nữ, Thổ ngũ cục, Mệnh chủ Lộc tồn, Thân chủ Văn xương.

- Mệnh lập tại cung Kỷ Dậu, có Vũ khúc (khóa Kị), Thất sát

- Năm kế tiếp mắc bệnh không thuyên giảm, cha mẹ của bé gái mời Vương Đình Chi luận đoán. Vương Đình Chi cho rằng: có thể đường hô hấp có khối u, khuyên nên mời bác sỹ chuyên khoa kiểm tra thật kỹ lưỡng. Cha mẹ liền mang bé gái nhập viện kiểm tra, đã chứng thực là khí quản có khối u, may mà chưa ác hóa, có hy vọng trị khỏi.

- Cung Tai Ách mệnh bàn này là Thái âm tọa thủ tại cung Giáp Thìn, nhưng có tứ sát Linh tinh, Kình dương ở Điền trạch cư Tý tam phương ức hiếp, mắc bệnh là điều không còn nghi ngờ, vấn đề là mắc bệnh gì. Thái âm vốn chủ về bệnh âm phần hao tổn, nhưng cung Tai Ách của mệnh bàn nhiều lúc chẳng hiện thị bệnh tật khi còn bé, trái lại, có thể thấy ở cung mệnh.

- Một tuổi chưa vào hạn cung Dậu trong tinh bàn, lưu Niên Nhâm Tuất Vũ khúc hóa Kị ở tiểu hạn một tuổi (tức cung mệnh của thiên bàn), cho nên luận đoán là đường hô hấp có khối u.

- Hạn 2 tuổi của bé gái ở cung Tài bạch tại cung Ất Tị, là năm Quý Hợi, gặp Kình Đà của lưu Niên của tam phương hội chiếu tiểu hạn tại cung Ất Tị, trong cung Tị lại có Tham lang hóa thành sao Kị, còn hội hợp với tạp diệu Thiên hình ở Sửu, Kiếp sát, Đại hao, chủ về mắc bệnh có tính chất hao tổn. Trong thực tế, năm đó bé gái tiếp nhận xạ trị, thể chất đương nhiên bị hao tổn.

- Hạn 3 tuổi ở cung Tai ách tại Thìn, lưu Niên là năm Giáp Tý, trong hạn Thái âm tọa thủ mà có Thái dương hóa Kị tại Tuất vậy chiếu, còn có tứ sát tinh cùng chiếu, bệnh tình rất nguy hiểm, sau may mắn có thể vượt qua là nhờ sức của Thiên lương và Hoa cái hội chiếu. Hơn nữa, Kình Đà của thiên bàn chưa bị Kình Đà của lưu Niên xung khởi, sức ảnh hưởng chưa mạnh mà thôi.

- Đến hạn 4 tuổi dần dần khởi sắc, được Thiên thọ vây chiếu nên không có tai biến gì. Mệnh này rất khó xác định có yểu mạng hay không, bởi vì có liên quan đến Tổ đức, cha mẹ của bé gái đều đôn hậu hiền hành, nên đại hạn lúc 3 tuổi đã an nhiên vượt qua, có thể nói là sự may mắn trời ban

Phụ lục: phương pháp tính tiểu hạn cho trẻ con

Cách tính tuổi để khởi Đại hạn là căn cứ vào ngũ hành cục số, tối thiểu là thủy nhị cục hai tuổi mới vào vận, tối đa là hỏa lục cục phải sáu tuổi mới vào vận. Vì vậy từ lúc sinh ra cho tới khi vào vận có một khoảng trống, phải lấy phương pháp tính tiểu hạn cho trẻ con để bổ xung.

Tính hạn của trẻ con tổng cộng có 6 cung, nhưng khi ứng dụng thì căn cứ vào tuổi khởi đại hạn để làm chuẩn, ví dụ 3 tuổi khởi vận thì chỉ đi 3 cung. Các cung tính hạn từ khi sinh ra cho tới khi vào đại hạn như sau:

- Một tuổi ở cung Mệnh
- Hai tuổi ở cung Tài bạch
- Ba tuổi ở cung Tật ách
- Bốn tuổi ở cung Phu thê
- Năm tuổi ở cung Phúc đức
- Sáu tuổi ở cung Sự nghiệp (quan lộc)

Khi xem tính hạn cho trẻ con, chỉ xem "tam phương tứ chính" của bản cung, không bày bố thêm 11 cung còn lại. Nói cách khác, chỉ luận đoán cung Mệnh (tức bản cung), không luận đoán kèm lục thân và hoàn cảnh xung quanh. Đây là chỗ giới hạn của phương pháp tính hạn cho trẻ con.

4)- Cách luận đoán lưu nhật

Vương Đình Chi không chủ trương luận đoán lưu Nhật, bởi vì "nước trong quá thì không có cá, người xét nét quá thì không có bạn", không nên mang vận trình ra luận đoán quá chi li. Nhưng trong một số tình hình cá biệt, thì luận đoán lưu Nhật có lúc lại cần thiết. Ví dụ trường hợp luận đoán "tử kỳ" cho một người bệnh sắp chết, để gia đình chuẩn bị hậu sự, hoặc là Tháng có thể xảy ra tai nạn giao thông, mà có chuyện cần thiết nhất định phải đi, bất đắc dĩ không còn cách nào, buộc phải chọn Ngày để đi.

Luận đoán lưu Nhật là khởi ngày mồng 1 từ cung mệnh của lưu Nguyệt, ngày muốn luận đoán rơi vào cung vị nào đó, thì cung đó là cung mệnh của lưu Nhật, sau đó tham chiếu vạn niên lịch để tìm "can chi" ngày muốn luận đoán, thông qua can chi này để tính lưu diệu của lưu Nhật.

Ví dụ như tháng 4 cung mệnh (của lưu nguyệt) ở Tuất, tức là khởi ngày mồng 1 ở cung Tuất, đi thuận, nếu muốn tìm cung mệnh của lưu nhật ngày mồng 4, thì đếm thuận đến cung Sửu là được. Tra vạn liên lịch, tháng 4, năm Ất Sửu, can chi của ngày mồng 4 là ngày Nhâm Tuất, do đó lấy can chi "Nhâm Tuất" để tìm lưu diệu, như Thiên lương hóa Lộc, Tử vi hóa Quyền, Thiên phủ hóa Khoa, Vũ khúc hóa Kị, Lộc tồn ở cung Hợi, Mã nhật ở cung Thân,.v.v...

Nếu có tháng Nhuận, thì lấy nửa tháng đầu tính thuộc tháng trước, nửa tháng cuối tính thuộc tháng sau. Lưu nhật thì vẫn luân chuyển theo chiều thuận. Năm Giáp Tý đó Nhuận tháng Mười, từ ngày mồng 1 đến ngày 15 của tháng 10 nhuận là thuộc tháng Mười, từ ngày 16 đến ngày 29 của tháng 10 nhuận là thuộc tháng 11.

Ví dụ như lưu Nguyệt tháng 10 ở cung Dậu, tức cung này khởi ngày mồng 1 đếm thuận đến ngày 13 và ngày 25 thì trở về cung Dậu, đến cung Dần là ngày 30, vẫn đếm tiếp theo chiều thuận đến ngày mồng 1 của tháng 10 nhuận, tức là cung Mão làm cung mệnh của ngày mồng 1 tháng 10 nhuận. Muốn an lưu diệu thì phải tra vạn niên lịch để biết ngày mồng 1 là ngày Tân Dậu, vì vậy lấy can Tân để tra lưu diệu.

Còn ngày 16 của tháng 10 nhuận, thì khởi từ cung mệnh của tháng 11, tức là cung Tuất, đi theo chiều thuận. Lưu nguyệt dùng can chi của tháng 11, tức tháng Bính Tý, đối với lưu nhật đương nhiên vẫn dùng can chi của ngày đó.

Đơn cử một nhật bàn làm thí dụ:

- Dương nữ, mộc tam cục, Mệnh chủ Vũ khúc, Thân chủ thiên tướng.
- Mệnh lập tại cung Mậu Tuất, có Liêm trinh (hóa Kị) Thiên phủ
- Phụ mẫu tại cung Kỷ Hợi, có Thái âm, Thiên khôi, Thiên hỉ
- Phúc đức tại cung Canh Tý, có Tham lang, Văn khúc
- Điền trạch tại cung Tân Sửu, có Thiên đồng (hóa Lộc), Cự môn, Thiên hình, Phá toái.
- Sự nghiệp tại cung Canh Dần, có Vũ khúc, Thiên tướng, Đài phụ, Long trì
- Giao hữu tại cung Tân Mão, có Thái dương, Thiên lương, Địa không
- Thiên di tại cung Nhâm Thìn, có Thất sát, Đà la, Thiên hư
- Tật ách tại cung Quý Tị, có Thiên ơ, Lộc tồn, Đại hao, Thiên vu, Thiên diêu, Hồng loan
- Tài bạch tại cung Giáp Ngọ, có Tử vi, Hữu bật, Linh tinh, Kình dương
- Tử tức tại Ất Mùi, có Thiên nguyệt, Địa kiếp
- Phu thê tại cung Bính Thân, có Phá quân, Tả phụ, Thiên mã, Thiên khốc
- Huynh đệ tại cung Đinh Dậu, có Hỏa tinh, Thiên việt.

Đương số đang ở trong đại hạn Ất Mùi, cung Mùi vô chính diệu, mượn các sao của cung Sửu để an. Thế là biến thành Thiên hình và Thiên nguyệt đồng độ, có Địa kiếp và Địa không tương hội.

Thiên đồng và Cự môn chủ về bệnh liên quan đến thần kinh cột sống. Cho nên trong đại hạn này, mệnh tạo có thể mắc bệnh này, mà còn là mãn tính. Bởi vì Thiên hình và Thiên nguyệt là điềm bệnh tật triền miên, kéo dài khiến cho người bệnh giống như bị tra tấn. Có Thái dương và Thiên lương hội hợp, làm mạnh thêm tính chất này.

Tra lưu niên, đến năm Nhâm Tuất, cung mệnh của lưu niên ở Tuất, có Liêm trinh hóa Kị hội Vũ khúc (lưu niên thì hóa Kị) ở Dần, Đà là của lưu niên bay vào cung Tuất, xung động Đà la và lưu Dương của đại hạn ở cung Thìn, còn xung động cả lưu Đà của đại hạn. Lại còn gặp Kình dương của lưu niên ở cung Tý và lưu Đà của đại hạn ở cung Dần, lại xung khởi Kình dương Linh tinh ở cung Ngọ đến hội, cho nên có thể đoán định năm đó ắt sẽ có tai ách.

Tính chất của Tai ách là gì? Do Vũ khúc hóa Kị xung khởi Liêm trinh hóa Kị, thông thường đều chủ về tai nạn chảy máu, có điều, năm đó cung Thiên di (Nhâm Thìn) là Thất sát tọa thủ, nên không phải tai ách chảy máu ở nơi khác.

Có nhiều loại tai ách chảy máu, nữ mệnh có thể là đường sinh dục, trụy thai, cũng có thể là vết thương có mủ, đương nhiên cũng có thể là bị thương do kim loại. Thế là phải truy tìm đến cung Tai ách của lưu niên.

Cung Tai ách của lưu niên ở cung Quý Tị, có Thiên cơ tọa thủ, bị hai sao Kình dương Đà la đều xung động giáp cung, và Thái âm hóa Kị ở Hợi xung chiếu, chủ về tổn thương, Thái âm và Thiên cơ tương hội, chủ về bệnh liên quan đến hệ thần kinh, còn tương hội với tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" và Thiên hình ở cung Sửu, lại hội hợp với "Thái dương Thiên lương" mượn ở cung Mão nhập cung Dậu, tam phương ứng hiếp, dó đó có thể đoán định là bị thương bát ngờ gây ảnh hưởng đến thần kinh cột sống.

Tra đến lưu nguyệt, năm Nhâm Tuất tháng Giêng khởi Nhâm Dần, mà Đẩu quân năm Tuất cũng trùng hợp ở cung Dần, cho nên lấy cung Dần làm cung mệnh của lưu Nguyệt.

Tháng Nhâm Dần thì Vũ khúc lại hóa Kị, trùng điệp với lưu niên hóa Kị, sức mạnh rất lớn, lại tương hội với lưu niên Đà, nguyệt Đà của cung Tuất, còn tương hội với Kình dương và Linh tinh ở cung Ngọ (tam phương tứ chính của hai sao này bị vận Đà, niên Đà, nguyệt Đà, niên Dương, nguyệt Dương xung khởi, nên, tuy là Kình dương và Linh tinh của nguyên cục, nhưng vẫn có tác dụng [ví lưu nguyệt của cung mệnh), vì vậy có thể đoán vận trình của tháng này không được tốt.

Tra lưu nhật đến ngày mồng 5 là ngày Nhâm Tý, cung mệnh của lưu Nhật ở cung Ngọ, vì can của ngày là Nhâm, nên Vũ khúc của cung Dần lại hóa Kị lần nữa, thành Vũ khúc ba lần hóa Kị, xung động Liêm trinh hóa Kị ở cung Tuất. Ở tam phương tứ chính tổng cộng gặp 8 sát tinh Kình dương Đà la và Linh tinh, cực kỳ nghiêm trọng.

Thêm vào đó, cung Tai ách của lưu nhật, là cung Sửu có "Thiên đồng Cự môn" và Thiên hình, còn bị lưu nhật hóa Kị và lưu nhật Kình dương giáp cung. Vì vậy ngày hôm đó (ngày 5 tháng Giêng, năm Nhâm Tuất 1982) khó tránh tai nạn giao thông, chảy máu, gãy xương, sau trị khỏi vẫn còn bị tổn thương thần kinh cột sống, phải vật lý trị liệu.

Người phụ nữ này sau khi bị tổn thương, ảnh hưởng đến sinh hoạt tính dục, chồng vì vậy mà thay đổi, đến năm 1985 Ất Sửu có nguy cơ phải ly hôn. Bạn đọc thử xem xét cung Phu của bà ta từ lưu niên Nhâm Tuất xem sao.

5)- Cách luận đoán lưu thời

Tử Vi Đẩu Số tuy có phương pháp luận đoán "lưu thời", nhưng khi luận đoán lưu thời, sẽ rơi vào tình trạng chi ly thái quá, nên phái Trung Châu ít dùng đến.

Phép tính lưu thời là khởi cung mệnh của giờ Tý ở cung Tý, khởi cung mệnh của giờ Sửu ở cung Sửu,.v.v... đến khởi cung mệnh của giờ Hợi ở cung Hợi. Nhưng can chi thì dùng ngũ Thử độn như sau:

- Ngày Giáp Kỷ khởi giờ Giáp Tý
- Ngày Ất Canh khởi giờ Bính Tý
- Ngày Bính Tân khởi giờ Mậu Tý
- Ngày Đinh Nhâm khởi giờ Canh Tý
- Ngày Mậu Quý khởi giờ Nhân Tý

Như đối với ví dụ trên, ngày Nhâm Tý khởi giờ Canh Tý, đến giờ Ngọ độn can là Bính, cung mệnh của lưu thời ở Ngọ, có Liêm trinh hóa Kị, còn có Kình dương bay vào cung mệnh, cho nên tai nạn giao thông xảy ra vào lúc 12 giờ 20 phút, là thuộc giờ Ngọ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết đoán mệnh của Vương Đình Chi

Chàng trai tuổi nào đáng tin cậy nhất?

Nếu đang kết thân với những anh chàng tuổi Thìn, Sửu, Hợi, Mùi, Ngọ thì bạn có thể yên tâm tuyệt đối, bởi họ rất đang tin cậy.
Chàng trai tuổi nào đáng tin cậy nhất?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

thin_1407835062.jpg

No1: Chàng trai tuổi Thìn

Những anh chàng cầm tinh con Rồng có tinh thần trách nhiệm cao với bất kỳ chuyện gì do họ khởi xướng. Không những vậy, họ còn sở hữu tài vận sáng lạn, tính cách ôn hòa, điềm tĩnh, làm việc gì cũng quang minh lỗi lạc nên được nhiều người tin tưởng và giao phó trọng trách lớn.

Trong tình yêu, người tuổi Thìn chân thành và chu đáo nên dành được tình cảm nồng thắm và sự tin tưởng tuyệt đối của đối phương. Sau khi kết hôn, họ sẽ mang lại cuộc sống hạnh phúc mỹ mãn cho người mình yêu thương.

thin-3648-1407836778.jpg suu-1337-1407836778.jpg hoi-7377-1407836778.jpg mui-8470-1407836778.jpg
No.1 Tuổi Thìn No.1 Tuổi Sửu No.1 Tuổi Hợi No.4 Tuổi Mùi

Mr.Bull


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chàng trai tuổi nào đáng tin cậy nhất?

Luận về Địa Không Địa Kiếp

Không Kiếp tên gọi tắt của hai sao Địa Không Địa Kiếp. Có người cho rằng Địa làm sao Không, vậy thì Thiên Không Địa Kiếp đi một cặp. Lý luận này sai vì Thiên Không là một sao riêng biệt. Địa Không Địa Kiếp là một cặp.
Luận về Địa Không Địa Kiếp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Thiên Không so với Địa Không nhu hòa hơn và có tác dụng khác hẳn. Tính chất Địa Không theo cổ nhân viết: ”Tác sự hư không, bất thành chính đạo thành bại đa đoan” (làm việc coi thường, không theo chánh đạo, thành bại theo nhau)

Nói tóm lại Địa Không chẳng làm điều gì phải, với Địa Kiếp cổ nhân viết “Tác sự cơ cuồng” (làm việc bừa bãi)

Thực tế kinh nghiệm cho thấy Không Kiếp không hẳn như những lời phê trên đây. Không Kiếp phải tùy thuộc chính tinh chúng đi cùng để mà luận đoàn.

Có rất nhiều trường hợp nhờ Không Kiếp mà tốt, biến ra một cách cục kỳ lạ. Tỉ dụ: Thái Dương Thiên Lương gặp sao Xương Khúc Không Kiếp phải đoán là con người có tư tưởng mới lạ, táo bạo nhưng vững vàng, thànhc ông qua nghiên cứu học thuật, đem những điều tân kỳ cho tư tưởng nếp nghĩ. Vậy thì Không Kiếp đâu có xấu.

Cổ nhân ngại Không Kiếp bởi lẽ Không Kiếp ưa làm đảo lộn, đột biến không hợp với xã hội bảo thủ nền nếp. Nhưng hiện tại xã hội luôn luôn chuyển dịch, bảo thủ an định có nghĩa là không phát triển thành trưởng, Không Kiếp hẳn nhiên khả dĩ mang đến lợi ích để thoái khỏi tình trạng thiếu tiến bộ

Địa Không thuộc âm hỏa chủ về phiêu lưu mạo hiểm, lên thác xuống ghềnh. Tâm tính bất định, thích biến đổi, đôi lúc mơ tưởng đến mức ảo tưởng, thích khác người, không chấp nhận ý nghĩ gì được coi làm khuôn vàng thước ngọc sẵn sàng dấn thân, chấp nhận gian khổ.

Địa Kiếp thuộc Dương hỏa chủ bôn ba, lúc cát lúc hung. Tính tình ngoan cố, cô độc, hỉ nộ vô thường, dám làm dám hành động không do dự và toàn làm những việc trái khoáy không cần biết thành hay bại, thành thì vui, bại không buồn.

Không Kiếp đều khởi từ cung Hợi mà tính đi để đặt định vị trí. Địa Kiếp theo chiều thuận. Địa Không theo chiều nghịch. Hợi là giờ cuối cùng của một này. Tới Hợi là thời gian của ngày hôm ấy chấm dứt mọi sự mọi vật đều thành bảo ảnh, thành không hư. Không Kiếp tự chỗ không hư ấy mà dấy lên.

Hợi cung thuộc thủy. Không Kiếp thuộc hỏa. Thủy chủ trí, hỏa cùng chủ trí. Thủy Hỏa giao chiến tất cả đều hủy diệt thành Không, đều hết Kiếp để chuyển hoán thành một tình thế mới tuyệt đối. Nếu không xong thì Kiếp Không qui ẩn tu hành như Chiêu Lý Phạm Thái sau khi thất bại với mưu đồ phù Lê, sau khi Tương Quỳnh Như đã chết.

Không Kiếp là hai sao của thành bại, chứ không phải chỉ có bại thôi. Câu phú:”Mệnh lý phùng Không Kiếp, bất phiêu lưu tất chủ bần khổ” sai, chỉ luận đoán mới có một chiều.

Địa Không tác sự hư không, hư không đây là thái độ chống đối phủ định ẩn chứa cái can trường muốn thay cũ, đổi mới, mưu vọng này phần bại nhiều hơn phần thắng là lý đương nhiên. Thời xưa quyền lực bảo thủ cực mạnh, không ưa tư tưởng hay hành động có tính cách chống lại truyền thống cho nên nhìn Địa Không bằng con mắt hiềm thù bảo là tác sự hư không.

Địa Kiếp tác sự sơ cuồng, hành động của con người không câu nệ tiểu thuyết, tư tưởng đi ngược với trào lưu thời thượng, dĩ nhiên quyền lực bảo thủ không mấy bằng lòng mà gọi bằng sơ cuồng điên điên chẳng ra đâu vào đâu
Như vậy những hình dung gán cho Không Kiếp “hư không” và “sơ cuồng” ta nên hiểu theo cái nghĩa “phản truyền thống”, “phản trào lưu” của những hành động không thích ứng với xã hội đã thiết lập trật tự đâu vào đó.

Người có tư tưởng triết học, có khí chất nghệ thuật ngay cả những người trong lĩnh vực khoa học nếu có được Không Kiếp mới thành công đến mức sáng tạo.

Những luận bàn về Tử vi đời nhà Thanh đưa ra thuyết :” Kim Không tắc minh, Hỏa Không tắc phát” nghĩa là Kim gặp Không như chuông đồng rỗng tạo âm thanh, Hỏa gặp Không như lửa được dưỡng khí bốc cháy mạnh. Thuyết này không xuất hiện vào đời Minh. Có thể nó xuất phát từ thời kỳ động loạn của Minh mạt chăng?

Kim có người cho rằng Kim tứ cục và Hỏa là Hỏa lục cục. Không đúng. Các nhà Tử vi đời Thanh muốn nói về những sao Kim Hỏa gặp Địa Không đó.

Như Vũ Khúc, Thất Sát thuộc Kim hội với Địa Không thường là những số mạng cuộc đời gian khổ cuối cùng thành đạt phấn phát.

Như Liêm Trinh, Thái Dương, Thất Sát (Thất Sát vừa Hỏa vừa Kim) gặp Địa Không do nhẫn nại phấn đấu mà nên công.

Chỉ nói ngộ “Không” tắc minh, tắc phát không nói đến ngộ Kiếp, rõ ràng Địa Kiếp không cùng một tác dụng ảnh hưởng như Địa Không. Điều trên cũng chứng minh rằng cuộc đời nhiều lúc bị tỏa triết, bị đẩy vào chỗ cùng cực đến phải thay đổi lại thành hay về sau, như thi không đậu rồi đi lính mà nên tướng nên tá.

Về Địa Kiếp có những trường hợp nó rất hợp với Tham Lang Hỏa Tinh. Địa Kiếp đem đến biến động đảo lộn để Tham Linh ứng phó mà phấn phát, hoặc Tham Hỏa cũng thế. Đừng câu nệ hay thành kiến, cứ thấy Không Kiếp là đã mang ngay ấn tượng không tốt. Một trường hợp khá đặc biệt: Phúc Đức có Không Kiếp mà Mệnh cung Tham Hỏa hay Tham Linh vẫn kể làm số phát mau.

Không Kiếp đồng cung hay Không Kiếp hội tụ vào Mệnh, hay Không Kiếp giáp Mệnh ảnh hưởng ngang nhau về tốt xấu

Câu phú Không Kiếp giáp Mệnh vi bại cục không nhất định là với số nào cũng đúng. Câu phú “Sinh lai bần tiện Không Kiếp lâm Tài Phúc chi hưởng” không nhất định với số nào cũng thế. Tuy nhiên Tài Bạch mà bị Kiếp Không thì thật hiếm trường hợp tốt vì tính chất keo bẩn.

Địa Không Địa Kiếp có ba thế: a) Đồng cung b)giáp c)hiệp. Không Kiếp đồng cung chỉ thấy ở Tỵ hay Hợi, còn giáp hiệp thì ở mọi chỗ.

Có câu phú:”Không Kiếp Tỵ hợi phản vi giai luận nghĩa là Mệnh có Không Kiếp kể là tốt. Tốt mức nào còn tùy chúng hội hợp với những chính tinh nào? Kiếp Không thường ăn ý với hung tinh hơn cát tinh.

Qua kinh nghiệm rồi qua chứng dẫn sách vỡ, nhiều trường hợp hai sao Liêm Trinh Tham Lang ở Hợi hay Tỵ mà đứng cùng Không Kiếp rất thành công khi vào lĩnh vực nghệ thuật. Liêm Tham vốn là hai sao đào hoa, Tham là chính đào hoa, Liêm là phó đào hoa, trong khi Không Kiếp lại biểu tượng cho những tư tưởng khác lạ mà nên vậy. Nhưng Thiên Riêu, đào hoa, Mộc Dục mà đứng với Không Kiếp lại không biến hoá như trên.

Xin nhắc lại Không Kiếp tuy hơi giống nhau trên tính chất, nhưng có một điểm khác khá tinh tế ấy là : Địa Kiếp chủ về phản trào lưu, Địa Không chủ về phản truyền thống; Địa Không dễ được tiếp thu hơn Địa Kiếp.

Riêng với nữ mệnh mà bị Không Kiếp, nếu đứng trên quan niệm Nữ chủ an định thì Không Kiếp thành phiền vì Không Kiếp vốn gây sự điêu linh do chất phản trào lưu, phản truyền thống ít hợp với đời sống nữ.

Không Kiếp Tỵ Hợi gặp Tướng Mã và hóa Khoa là người can trường, có mưu cơ, công danh càng tốt vào đất loạn thời loạn, Không Kiếp Dần Thân cũng tương tự nhưng không bằng Tỵ Hợi.

Không Kiếp Dần Thân gặp Tử Phủ tất làm hại Tử Phù. Không Kiếp đứng cùng Tả Hữu ở Mệnh, tâm ý thích lừa gạt. Không Kiếp hãm gặp Hỏa Linh Tuế Kị dễ bị trộm cướp. Không Kiếp Hồng Đào vào số nữ thường gian truân với duyên tình.

Không Kiếp đứng với Hóa Quyền trắc trở công danh. Tại sao đứng với Hóa Quyền lại vậy. Vì tính chất của Hóa Quyền là tích cực và ổn định. Ở đâu có Hóa Quyền thì tính tích cực và ổn định tăng cao. Tính chấp Không Kiếp ngược lại làm thành sự mâu thuẫn với Hóa Quyền.

Dưới đây là những câu phú nói về Địa Không Địa Kiếp:

- Địa Kiếp độc thủ thị kỳ phi nhân

(Mệnh Địa Kiếp đứng một mình luôn luôn cho ý mình là phải. Địa Kiếp độc thủ làm tăng tính phản trào lưu đến mức quá lạm mà nên thế)

- Dần Thân Không Kiếp nhi ngộ quí tinh thăng trầm vô độ

(Mệnh Dần Thân Không Kiếp thủ chiếu đứng cùng với cát tinh như Tử Phủ Đồng Lương Khôi Việt, Xương Khúc thường lên voi xuống chó)

- Tỵ Hợi Kiếp Không nhi phùng Quyền Lộc hoạnh đạt tung hoành
(Kiếp Không Tỵ Hợi có Quyền Lộc tài giỏi nghênh ngang nhưng cũng lại rất bôn ba, mau phát mau tàn chóng)

- Sinh sứ Kiếp Không thủ Mệnh do như bán thiên triết sỉ
(Kiếp Không thủ Mệnh ở Tỵ Hợi Dần Thân là nơi của sao Tràng sinh lên như diều gặp gió, xuống như chúi vào bùn đen).

- Kiếp Cơ ngộ Hỏa tất ngộ hỏa tai
(Mệnh Thiên Cơ Địa Kiếp gặp Hỏa Tinh xung chiếu hoặc đồng cung hay gặp hỏa hoạn)

- Nhan Hồi yểu tư do hữu Kiếp Không Đào Hồng Đà Linh tọa thủ
(Thầy Nhan Hồi chết yểu chỉ vì Mệnh có Kiếp Không Đà Linh toạ thủ. Số thầy Nhan Hồi làm sao mà biết chính xác thế. Chẳng qua chỉ mượn cái chết yểu của một người tương đối tiếng tăm để đặt cách cho các sao thôi, vì vậy cũng có câu khác:”Căn Xương hãm ư Thiên thương Nhan Hồi yểu triết”)

- Kiếp Không Phục Binh phùng Dương nhẫn lột thượng kiếp đồ
(Mệnh Kiếp Không Phục Binh Kình Dương làm côn đồ kẻ cướp)

- Địa Kiếp chi đan tâm phương lẫm
(Địa Kiếp thủ Mệnh với nhiều quí tinh thì lòng dạ sắt son, với thị kỷ phi nhân gần nhau, lòng dạ sắt son đôi lúc cũng vì thị kỷ mà ra)

- Mệnh cung ngộ Kiếp Tham lãng lý hành thuyền
(Mệnh Địa Kiếp đứng cùng Tham Lang cuộc đời nổi trôi bất định. Kiếp Tham Ngọ Tí Mão Dậu không phải là Tỵ Hợi)

- Mệnh Không Thân Kiếp lại hội song Hao ư chính diệu, thiểu học đa thành mạc ngộ Phúc Âm, Hao tinh niên thọ nan cầu vượng hưởng
(Mệnh Không Thân Kiếp thêm song Hao mà Mệnh không chính tinh thì học giỏi. Nhưng Mệnh Không Thân Kiếp lại tối kị gặp Đồng Lương. Phá Quân hãm thì khó thọ)

- Mệnh Thân dù có lâm Không Kiếp
Gia Triệt Tuần chẳng khiếp tai nguy.

- Kiếp Không Hình Kỵ Đà Dương
Gian nan bệnh tật mọi đường lo âu

- Tử cung Không Kiếp trùng gia
Binh phùng huyết tán, thai bảo phù hoa
(Cung tử tức có Không Kiếp khó khăn khi sanh nở)
- Phúc cung hãm ngộ Kiếp Không
Họ hàng lắm kẻ hành hung ở ngoài

- Kiếp Không tan sạch ra tro
Đề phòng kẻo phải lộ đồ nam kha
(Vận hạn gặp Kiếp Không hãm phải thận trọng không thì bao thành quả đã tạo dựng mất mát hát)

- Phu Thê Không Kiếp trùng xung
Trải hai ba bộ mới xong cửa nhà.

- Kiếp Không ai nấy khá ngừa
Lâm vào huynh đệ đơn sơ một mình
(Thiếu anh em hoặc xa cách anh em)

- Đà La Địa Kiếp chiếu phương
Gặp Hỏa Linh nạn bất tường chẳng sai

- Tử phùng Không Kiếp hiển gian
Hoặc là tứ sát trong làng gian phi

- Không Kiếp Tỵ Hợi đồng sang
Công danh hoạnh phát phải tường cơ vi

- Mấy người thu ấn triệt hồi
Bởi sao Không Kiếp đứng ngồi không yên

- Cung Quan mừng được Đào Hồng
Thiên di tối kị Kiếp Không lâm vài

- Kìa ai tiền phú hậu bần
Bởi chưng Không Kiếp chiếu tuấn vận sau

- Đất Tí Ngọ Sửu Thân bó Lộc
Hội Kiếp Không là gốc tàn suy

- Lộc ngộ Không Kiếp đồng qui
Cũng là vô dụng hóa vi cơ hàn.

- Tuế ngộ Không Kiếp vận suy
Cứu tinh Mệnh có Tử Vi mới lành

- Hồng Đào Không Kiếp đồng danh
Ấy phương yểu tử đã dành một hai
(Hồng với Kiếp Không khó công danh phú quí. Đào Hoa Không Kiếp lận đận tình duyên không phải yểu tử)

- Quyền Hao Không Kiếp chớ màng
Kẻ trên biếm loại khỏi đàng công danh

- Địa Kiếp với Hồng sanh phu vị
Cung Mệnh hay duyên ấy trăm năm
- Mệnh xấu duyên dứt tơ tằm
Sinh ly sẽ định loan phòng mười năm

- Triệt Tuần Không Kiếp giao lâm
Mối mang dang dở ba lần mới nên
(Triệt Tuần Không Kiếp vào cung phối)

- Thiên Di Không Kiếp khốn sao
Hồn qui dặm liễu gặp nào người thân.

- Không Kiếp Thiên Tướng gian truân
Khoa tinh niên thiếu giữ tuần đăng khoa
(Đây là Không Kiếp đóng cung Quan Lộc cùng với Thiên Tướng)

Qua những câu phú, qua những luận bàn của sách vở thì Không Kiếp chỉ tốt khi đóng đúng cách và hội hợp đúng cách mệnh cung, còn đóng các cung khác Tài quan Thê Tử Phúc và hiện lên qua vận hạn hoặc giáp hiệp thì không mấy tốt đẹp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về Địa Không Địa Kiếp

Chùa Địch Lộng - Ninh Bình

Địch Lộng có nghĩa là tiếng sáo thổi là một danh lam thắng cảnh bậc nhất của tỉnh Ninh Bình. Tại đây còn lưu giữ 3 pho tượng Tam Thế Phật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khu di tích Động – Chùa Địch Lộng nằm ở xã Gia Thanh, Gia Viễn, Ninh Bình, Việt Nam. Địch Lộng có nghĩa là tiếng sáo thổi là một danh lam thắng cảnh bậc nhất của tỉnh Ninh Bình. Động – chùa Địch Lộng đẹp tới mức được giới vua chúa quyền quý xưa xếp vào nhóm “Nam thiên đệ nhất động”.

Nếu như vua Tự Đức ban tặng Hương Tích là Nam thiên đệ nhất động, chúa Trịnh Sâm ban tặng Bích Động là “Nam thiên đệ nhị động” thì Địch Lộng cũng được vua Minh Mạng ban tặng là “Nam thiên đệ tam động”, có nghĩa động đẹp thứ ba ở trời Nam.

Điểm độc đáo nhất là quần thể chùa – động Địch Lộng tọa lạc dưới một chân núi cao, phía trước là con sông Đáy chảy hiền hòa. Trong chùa là những ngôi chùa, đình với nhiều lối kiến trúc độc đáo, được lưu giữ từ hàng trăm năm nay. Ở đây có đền thờ Lý Quốc Sư, hồ Bán Nguyệt, 5 tháp cao 3 tầng và 3 gian hạ.

Đặc biệt, tại đây còn lưu giữ 3 pho tượng Tam Thế Phật sơn son thếp vàng được ban vào thời vua Thiệu Trị và tượng Phật Bà Quan Âm, tượng A Di Đà được tạc bằng đá xanh nguyên khối.

Cách ngôi chùa chính 105 bậc đá, là một một hang động đẹp kỳ vĩ. Động chia thành 3 vòng, được người đời gọi là hang thờ phật, hang tối và hang sáng. Bên trong động, toàn bộ lối đi đã được làm bậc lên xuống, tạo thành những vòng cung kỳ vĩ và huyền ảo. Nhiều nhũ đá, được tạo ra từ thiên nhiên trông giống những con vật linh thiêng như rồng, lân, voi quỳ… Từ vùng trũng nhất của động, lên “cổng trời” dài chừng 50m. Đứng trên đây có thể bao quát toàn cảnh quần thể chùa, động Địch Lộng và những cụm khu dân cư xung quanh.

chùa địch lộng
Tam quan trong hang Địch Lộng

Điều đặc biệt, là những nhũ đá ở đây thay đổi theo ánh sáng. Lúc thì màu vàng, màu đỏ trông rất kỳ ảo, du khách gõ vào những nhũ đá sẽ tạo thành những tiếng vang khắp động. Phía trong hang tối, thắp một nén nhang sẽ có cảm giác thanh thản, nhẹ nhõm như đang dứt khỏi thế giới

Hang Tối nằm ở phía trái, vào hang du khách sẽ thấy ngay khối nhũ đá to, tròn, nhẵn lì mọc từ nền hang nhô lên. Đó là bầu sữa mẹ của tạo hoá, có nhiều nhũ đá từ trên nóc động chẩy xuống trông giống như những cột chống trời. Tại đây, du khách sẽ có cảm giác như lạc vào cõi trùng điệp của đá có đủ mọi hình dạng ngoại mục. Mỗi không gian của vách động, trần động là một bức tranh nghệ thuật, những nét trạm khắc tuyệt vời của thiên nhiên, đạt đến mức tinh xảo mà con người không thể nào làm được.

Đi hết hang Tối là đến hang Sáng, vì ở trên cao cửa hang Sáng thắt hẹp lại, có khoảng lộ thiên, khi có gió thổi mạn vào trong động phát ra âm thanh của đá nghe như tiếng sáo. Vì vậy động mang tên là Địch Lộng.

Trong động nhiều bậc thang đã được dựng lên để phục vụ du khách tham quan, và vãn cảnh động

Hang phía ngoài được nhiều người gọi là hang thờ Phật. Chính tại nơi đây, nhiều bậc tao nhân mặc khách gặp cảnh động quá đẹp nên tức cảnh sinh tình đề tặng rất nhiều thơ văn.
Vẻ đẹp của Địch Lộng đã được nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương ghi lại như sau:

“Gió đập cành cây khua lắc cắc
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong
Ở trong hang núi còn hơi hẹp
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng
Qua cửa mình ơi, nên ngắm lại
Nào ai có biết nỗi bưng bồng”.

Dưới chân động là khu vườn Thành Đạo, tương truyền Đức phật Thánh ca là Thái tử con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Gia. Ngài Đản sinh ngày trăng tròn tháng 4 năm 624, trước tây lịch tại vườn Lâm Tỳ Ni. Khi trưởng thành thái tử bỏ lại cung vàng điện ngọc, quyết xuất gia tìm cầu chân tý cứu khổ cho chúng sinh, trải qua 6 năm tu hành khổ hạnh và 49 ngày nhập định dưới cây Bồ Đề, ngài đã giác ngộ thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, chúng đệ tử của ngài rất đông, tiêu biểu là 10 đệ tử đứng đầu tăng đoàn.

Chùa Địch Lộng hàng năm đều tổ chức lễ hội vào thời gian từ ngày 6 đến 10 tháng giêng Âm lịch, kéo dài đến hết tháng 3.

Cụm di tích Động – Chùa Địch Lộng điểm đến tham quan thú vị của du khách và phật tử trong và ngoài nước.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Địch Lộng - Ninh Bình

Cách chọn mai cảnh ngày Tết theo phong thủy

Cách chọn mai đẹp trong dịp tết không khó, nhưng nếu muốn lựa chọn cây mai hợp phong thủy thì chúng ta cần tìm hiểu một chút kiến thức.
Cách chọn mai cảnh ngày Tết theo phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hoa mai tượng trưng cho phẩm tiết cao quý, khí phách của người quân tử, là niềm cảm hứng rất kinh điển trong thơ ca. Và là biểu tượng may mắn trong cả năm, nếu sáng mùng 1 Tết hoa mai nở.

Hoa mai cũng có rất nhiều loại: tứ quý màu đỏ, hồng mai, bạch mai, chi mai màu trắng pha hồng, hoàng mai màu vàng, mai chiếu thủy màu trắng phớt, song mai màu trắng muốt. . . nhưng phổ biến hơn cả là hoa mai vàng.

Một số lưu ý khi chọn mua Mai:

Mai đẹp không chỉ ở hoa mà quý ở dáng cây. Nên chọn những cây nhánh đẹp cân đối. Vỏ đen tự nhiên, không đốm vảy nấm mốc. Không nên chọn cây quá nhiều nhánh, các nhánh to nhỏ chênh nhau quá nhiều.

Những cành mai có dáng đẹp, với các hình dáng một “lão mai” gốc to, da sần sùi, mọc rong rêu càng tốt, nhánh khẳng khiu và có thể có những hình thể như: Chân quỳ, Hạc bay, Phụng Hoàng…

Ngoài những nét trên, người mua mai còn chú trọng đến sự phân chia các nhánh trên một gốc mai. Nhánh to, nhánh nhỏ, sự sắp xếp các nhánh. Có thể phân chia tên gọi tùy sự phong phú của các tay chơi mai chuyên nghiệp.

Nhìn chung có các điểm cần chú ý khi lựa chọn một nhành mai: các cành phân chia thứ lớp, bông rải đều, nhánh to khỏe, nhánh uyển chuyển, nụ mập, lá non vừa nhú.

Không nên chọn cây nhiều nụ

Tất nhiên là hoa càng nhiều thì cành mai trông càng đẹp, nhưng hãy nhớ rằng hoa có nở đẹp và lâu bền hay không còn tùy vào khả năng nuôi dưỡng của cành, cây, nhất là trong điều kiện chưng bình.

Hãy chọn cành hoặc cây mai có nụ vừa phải và phân bố đẹp trên cả cành. Các nụ hoa phải đủ “bụ bẫm” để nở kịp ba ngày Tết là tuyệt vời nhất.

Bông hoa mai đẹp, to, tròn

Cánh hoa mịn, đều nhau, không có cánh hoa bị tật. Màu sắc và độ to của hoa rất đa dạng, tùy vào sở thích mỗi người mà chọn lựa cho phù hợp, chứ đó không phải là tiêu chí chọn hoa mai đẹp.

Chú ý về lá mai

Một cành mai đẹp không thể là cành mai trụi lá hoặc lá xanh um nhiều như hoa. Tốt nhất nên chọn cành mai nhiều hoa và nụ, điểm những chiếc lá non xanh mềm hoặc đỏ tía.

Chọn cây mai chắc gốc

Lấy tay lắc nhẹ thấy cây và đất ở gốc vững chắc là được. Lựa cây có nụ không bị héo, rũ cuống, vì bị héo chứng tỏ cây đang kiệt sức do thiếu nước, đứt rễ hoặc bị bệnh.

Nếu trên cành còn sót lại một vài chiếc lá cũ hoặc có thêm vài chiếc lá đã già xanh, hãy ngắt bỏ chúng, điều này sẽ giúp giảm sự thoát hơi nước của cành mai.

Khi có hiện tượng hoa héo, không còn cách cứu chữa, cần phải vứt hoa đi trước khi hoa héo và rơi rụng đầy nhà ngay trong chính nhà bạn đầu năm mới vào sáng ngày mùng 1 Tết.

Trong phong thủy, nếu đầu năm mà chứng kiến hoa héo và rơi rụng, thì trong nhà có sự chia cách, hoặc nhiều sự cố không tốt xảy ra trong năm mới.


Nguồn: Phong  Thủy Tổng Hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách chọn mai cảnh ngày Tết theo phong thủy

Top 3 con giáp rất khó cho mượn tiền

Người tuổi Tý khá keo kiệt, họ nổi tiếng về khoản tính toán chi li. Ngay cả nhu yếu phẩm thường ngày họ cũng rất tiết kiệm.
Top 3 con giáp rất khó cho mượn tiền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

NO 1: Tuổi Tỵ

Làm bạn với người tuổi Tỵ rất tuyệt vời, họ nhiệt tình, vui vẻ, nhưng đó là lúc đôi bên đều không có vấn đề nào phát sinh. Khi chuyện tiền nong của bạn gặp trục trặc và muốn mượn tiền từ người tuổi Tỵ? Tốt nhất bạn đừng nghĩ đến chuyện đó, trước khi bạn kịp mở miệng thì họ đã nhìn thấu bạn rồi, và họ sẽ đi trước một bước đó là than vãn gần đây họ rất nghèo, muốn mượn tiền từ người tuổi Tỵ phải nói là rất khó đấy.

con-giap-6072-1409967341.jpg

NO 2: Tuổi Tý

Người tuổi Tý khá keo kiệt, họ nổi tiếng về khoản tính toán chi li. Ngay cả nhu yếu phẩm thường ngày họ cũng rất tiết kiệm, trừ khi bạn là người mà họ yêu, còn không mượn tiền từ trong túi họ là chuyện không thể. Giả sử bạn là bạn bè của người tuổi Tý, đúng lúc bạn đang hết tiền, trừ khi bạn có mối quan hệ kết nghĩa hoặc đôi bên rất hợp nhau thì may ra họ mới cho bạn mượn, còn nếu không thì... đừng mơ.

NO 3: Tuổi Dậu

Người tuổi Dậu không hề tiếc khi chi tiền, nhưng đó là đối với bản thân họ mà thôi. Họ sống rất xa hoa, ăn những món ngon và mua những món đồ xa xỉ, nhìn vào trông họ rất có tiền và chắc mượn cũng không khó - đó là do bạn nghĩ vậy thôi. Ngay khi bạn vừa mở miệng mượn tiền, họ sẽ đóng vai một kẻ nghèo khổ, tiền bạc đều đã mua cái nọ sắm cái kia, điều này quá rõ ràng là họ không hề muốn cho bạn mượn xu nào cả.

Chocopie (theo sina)




 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 con giáp rất khó cho mượn tiền

Trong công ty, văn phòng và nhà ở nên treo tranh phong thủy nào? –

Theo phong thủy, treo tranh lên tường ở nơi làm việc, công ty, nhà ở, sẽ làm cho không gian sáng sủa hơn, sẽ khiến cho căn phòng ngập tràn ánh sáng cũng như nguồn dương khí, mang lại sức sống mới và những điều cát lành cho văn phòng làm việc, công ty

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong thủy, treo tranh lên tường ở nơi làm việc, công ty, nhà ở, sẽ làm cho không gian sáng sủa hơn, sẽ khiến cho căn phòng ngập tràn ánh sáng cũng như nguồn dương khí, mang lại sức sống mới và những điều cát lành cho văn phòng làm việc, công ty, nhà ở của bạn. Củ thể như thế nào chúng ta cùng đọc bài viết sau để biết được tranh phong thủy nào nên dùng nhé!

tranh 3

Nội dung

  • 1 Tranh phong thủy nên dùng trong công ty, văn phòng và nhà ở
    • 1.1 Tranh đồng Long Phụng (Rồng Phượng)
    • 1.2 Tranh đồng Ngũ Phúc Lâm Môn (bốn chữ)
      • 1.2.1 Phúc
      • 1.2.2 Lộc
      • 1.2.3 Thọ
      • 1.2.4 Khang
      • 1.2.5 Ninh
    • 1.3 Tranh đồng Cửu Ngư Quần Hội (9 cá chép bên lá sen)
    • 1.4 Tranh đồng Song Hạc (2 con hạc)

Tranh phong thủy nên dùng trong công ty, văn phòng và nhà ở

Tùy thuộc vào mục đích và vị trí, chúng ta có thể tìm những loại tranh phù hợp, để mang lại nhiều vận khí, tài lộc cho nơi làm việc, công ty hoặc nhà ở.

Bên cạnh đó, mỗi loại tranh đều có một ý nghĩa riêng và điểm mạnh riêng, như tranh hoa sen và cá chép mang đến sự no ấm, dư giả quanh năm…

Tranh đồng Long Phụng (Rồng Phượng)

Rồng và Phượng vốn là biểu tượng rất cao qúy nằm trong bộ Tứ Linh. Rồng tiêu biểu cho cha, người chồng, người quân tử, Hoàng đế.

Còn phượng là biểu tượng của người phu nhân, người vợ, Hoàng hậu. Sự kết hợp của Rồng và Phượng là biểu tượng tuyệt vời của hạnh phúc lứa đôi, sự may mắn thịnh vượng về công danh, tài lộc và địa vị xã hội.

Dùng tranh Rồng Phượng treo trong phòng ngủ để đem đến một cuộc sống gia đình hoà thuận êm ấm, con cái tốt lành, treo tại phòng khách, phòng làm việc sẽ có tác dụng chống lại hung khí, đem đến sự vượng phát tài lộc và công danh.

Cũng có thể dùng trong phòng đọc sách, phòng làm việc để tăng cường trí tuệ và sự tăng tiến về học vấn, quan hệ xã hội…

Tranh đồng Ngũ Phúc Lâm Môn (bốn chữ)

Với lòng ước mong năm mới được đón 5 điều phúc vào nhà, đó là: Phúc – Lộc – Thọ – Khang – Ninh

Phúc

Nghĩa là những điều may mắn, tốt lành. Phúc thường đi liền với đức: “phúc đức” (những người có đức thì sẽ có phúc)

Lộc

Nghĩa là lương của các quan lại thời phong kiến, như người ta thường nói “quyền lộc cao trọng’. Lại cũng có nghĩa là của cải do Trời, Phật hay các đấng thiêng liêng ban cho, gọi là lộc trời, lộc thánh!

Thọ

Nghĩa là sống lâu, đây là mong ươc ngàn đời của con người. Ngày xưa, tuổi thọ con người rất thấp, chính vì thế mà thọ càng trở thành nỗi ao ước của con người. Người ta đi tìm thuốc trường sinh bất lão để mong kéo dài tuổi thọ. Và dù có được sống đến già, người ta vẫn yêu quý chữ thọ, vẫn muốn sống lâu…

Khang

Nghĩa là mạnh khỏe, người ta nói rằng người khỏe mạnh thì có trăm điều mong ước, còn người ốm yếu thì chỉ có một ước mong: đó là sức khỏe! Cái mà mọi người, già, trẻ, giàu, nghèo đều mong muốn có chính là sức khỏe!

Ninh

Nghĩa là bình yên, một cuộc sống bình yên, thanh thản là cần thiết cho bất cứ ai trên cõi đời này. Một gia đình mà vợ chồng bất hòa, con cái hư đốn thì lộc, thọ, khang có bao nhiêu đi chăng nữa cũng là vô nghĩa…

Tranh đồng Cửu Ngư Quần Hội (9 cá chép bên lá sen)

“Sen”, chữ hán đọc là “liên” đồng âm với “liên” (liên tục, liên tiếp, liền nhau), “cá” chữ Hán đọc là “yu” (ngư) đồng âm với “dư” (dư dả). Sen – cá biểu ý cho sự “dư dả liên tục” nghĩa là không phải lúc dư lúc thiếu.

Tranh vẽ 9 con cá, lợi dụng sự đồng âm giữa 九 ‘cửu’ là chín và 久 ‘cửu’ là lâu dài để cầu chúc dư dả lâu dài.

Ngoài ra, cá chép là biểu tượng cho sự kiên trì, bền chí, linh thiêng và cao quý. Trong truyền thuyết thường câu chuyện cá chép vượt vũ môn hoá rồng, vì thế cá chép được coi như rồng nên cá chép còn là biểu tượng của sự tăng tiến công danh và nổi tiếng.

Trong làm ăn buôn bán thì cá chép đại diện cho Thuỷ Khí tức là nguồn tài lộc dồi dào. Cá chép là một trong những vật phẩm vô cùng tốt cho cả hai phương diện công danh và tài lộc.

Tranh đồng Song Hạc (2 con hạc)

Hạc là biểu tượng của sự may mắn và sự trường thọ bắt nguồn từ xa xưa, dưới thời của hoàng đế Phục Hy (Trung Hoa).

Treo tranh hạc ở phía Nam thì sẽ sinh sôi nhiều cơ hội tốt, ở phía Tây thì nó mang vận may cho con trẻ nhà gia chủ, phía đông thì hạc chở khí tốt có lợi cho con trai và cháu trai, và nếu nằm ở phía Tây Bắc, nó kích hoạt sự trường tồn cho cả dòng tộc nhà gia chủ, đặc biệt là tuổi thọ của tộc trưởng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trong công ty, văn phòng và nhà ở nên treo tranh phong thủy nào? –

Mơ thấy mình khóc –

Trong chiêm bao bạn mơ thấy mình khóc nức nở, bạn lo lắng không biết có điềm báo xấu hay tốt. Nhưng theo các chuyên gia giải mã giấc mơ đã nghiên cứu và chứng minh được răng nước mắt sẽ cuốn trôi mọi nỗi buồn. Trong giấc mơ, nó là điềm báo thuận lợi.
Mơ thấy mình khóc –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy mình khóc –

Mạn đàm về tội lỗi: Như thế nào thì gọi là tội lỗi

Tội lỗi thì ai cũng có, dù ít dù nhiều, khi chưa trở thành bậc thánh nhân thì ai cũng giống nhau ở chỗ đều có tội lỗi gây ra, tự tạo nghiệp mà có nhân quả
Mạn đàm về tội lỗi: Như thế nào thì gọi là tội lỗi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tội lỗi ai cũng có, dù ít, dù nhiều. Khi chưa trở thành các bậc Thánh, ai cũng giống nhau ở chỗ là đều có tội cả. Có khác chăng là mức độ gây nghiệp, tạo tội nhiều hay ít, về phương diện này hay phương diện kia mà thôi. Tội lỗi, theo tuệ giác của Thế Tôn, đó là những hành vi tạo tác bất thiện được tạo ra nơi việc làm, lời nói và suy nghĩ của con người.

Câu chuyện về tội lỗi

Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, dạy các Tỷ kheo:

Này các Tỷ kheo, có bốn hạng người này hiện hữu, có mặt ở đời. Thế nào là bốn ? Có tội, nhiều tội, ít tội và không có tội.

Thế nào là hạng người có tội? Này các Tỷ kheo, có hạng người thành tựu thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp có tội. Như vậy là hạng người có tội.

Và thế nào là hạng người nhiều tội? Này các Tỷ kheo, có hạng người thành tựu thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp có nhiều tội. Như vậy là hạng người có nhiều tội.

Thế nào là hạng người có ít tội? Này các Tỷ kheo, có hạng người thành tựu thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp không có tội nhiều, chỉ có ít tội. Như vậy là hạng người có ít tội.

Và thế nào là hạng người không có tội? Này các Tỷ kheo, có hạng người thành tựu thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp không có tội. Như vậy là hạng người không có tội.
Có bốn hạng người này, này các Tỷ kheo, hiện hữu, có mặt ở đời.

(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ II, chương 4, phẩm Loài người, phần Có tội [lược], VNCPHVN ấn hành 1996, tr.72)

LỜI BÀN

Tội lỗi là một trong những thuộc tính cơ bản của chúng sanh. Con người có mặt ở trên đời thì tội lỗi có mặt. Thậm chí từ trong quá khứ, trước khi được sinh ra, tội lỗi hay nghiệp đã đóng vai trò chi phối, là tác nhân chính để hình thành nên hình dáng, tính cách, hoàn cảnh của mỗi cá nhân trong hiện tại. Vì thế, con người là sự kế thừa tội lỗi, nghiệp lực của chính mình và do vậy, người sống trên đời có tội cũng là chuyện bình thường.

Khi chưa trở thành các bậc Thánh, ai cũng giống nhau ở chỗ là đều có tội cả. Có khác chăng là mức độ gây nghiệp, tạo tội nhiều hay ít, về phương diện này hay phương diện kia mà thôi. Tội lỗi, theo tuệ giác của Thế Tôn, đó là những hành vi tạo tác bất thiện được tạo ra nơi việc làm, lời nói và suy nghĩ của con người.

Tuy chúng ta chấp nhận có tội vì hiện ba nghiệp chưa thanh tịnh nhưng tội phải ít và nhỏ thôi và điều cần thiết nhất là tự thân phải rõ biết điều đó. Khi còn trong thân phận chúng sanh, biết rõ những hạn chế, thói hư tật xấu của chính mình để phấn đấu, vươn lên, loại trừ điều ác, đạt đến sự hoàn thiện là tối cần. Con người sở dĩ ngày càng tạo nhiều tội lỗi, một phần do không nhận chân được điều xấu ác hoặc xem những điều xấu ác hiện tồn tại với số đông là bình thường, thậm chí không ít người còn tự mãn với những thành tựu dựa trên nền tảng tham sân si.

Hơn ai hết, người con Phật cần phải trở về với chính mình, biết rõ mọi hành vi của tự thân nhằm kiểm soát, từng bước làm chủ, chuyển hóa ba nghiệp thân khẩu ý xấu ác. Đạt đến sự hoàn thiện, không tội lỗi là một lộ trình dài. Nền tảng cơ bản của lộ trình đó là tuệ tri, biết rõ tự thân có tội nên trước hết phải cố gắng để không tạo thêm nhiều tội lỗi đồng thời phát huy thiền quán để thấy mọi tội lỗi đều xuất phát từ tâm, tâm thanh tịnh tức ba nghiệp thanh tịnh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mạn đàm về tội lỗi: Như thế nào thì gọi là tội lỗi

Lời Phật dạy về lòng từ

Qua Lời Phật dạy về lòng từ, không chấp vào tà kiến mà nhận biết với đức hạnh viên mãn và khuất phục được ham muốn, người như thế sẽ không còn nhập
Lời Phật dạy về lòng từ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có thể cho rằng đây là một lối nói văn vẻ để chỉ Kinh Từ Bi theo cách của Tăng đoàn Amaravati Shanga, một tổ chức tu tập của các học giả phương Tây hành trì Phật giáo theo truyền thống Nguyên Thủy.

Kinh Từ Bi là một đoạn kệ ngắn trong phẩm Con Rắn (Uraga Vagga) thuộc Kinh Tập (Sutta Nipata), là một bộ phận của Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka) trong hệ thống Nikaya.

Lời Phật được ghi nhận trong Kinh Tập được các học giả phương Tây chuyên về Kinh điển Phật giáo coi là gần gũi nhất với những lời dạy nguyên thủy của Đức Thế Tôn.

Kinh Từ Bi đã được nhiều người dịch ra tiếng Anh. Bản dịch của Edward Conze dựa trên bản tiếng Sanskrit, còn những bản dịch sau này dựa trên tiếng Pali.

Về nguyên ủy của Kinh Từ Bi, có thuyết nói như sau:

Bấy giờ gần đến mùa mưa. Sau khi nhận các đề mục thiền quán từ Đức Thế Tôn, một nhóm Tỳ kheo đi tìm một nơi thích hợp để an cư tu tập. Chúng Tỳ kheo này đến được một khu rừng và ở lại đó để thực hành thiền quán.

Tuy nhiên, các vị thần trú trên cây cối trong khu rừng đó cảm thấy sự hiện diện của chúng Tỳ kheo là điều bất tiện với họ nên đã tìm cách cản trở. Đêm đến, họ thực hiện đủ những kiểu quấy rối khiến các Tỳ kheo cảm thấy bất an không thể tu tập được.

Chư Tỳ kheo liền trở về gặp Phật thưa lại tự sự. Đức Thế Tôn dạy chư Tỳ Kheo bài Kinh Từ Bi và bảo quý vị ấy hãy trở lại chỗ cũ, cùng đọc tụng bài Kinh này lúc vào rừng. Chư Tỳ kheo yên tâm nghe lời Phật dạy.

Tư tưởng từ ái của lời Kinh được chư Tỳ kheo tụng đọc đã thấm nhuần khu rừng khiến các vị thần trú trên cây cối trong rừng cảm thấy an lạc, thay vì quấy rối chư Tỳ kheo, họ đã phát tâm kính mộ và hộ trì các vị đệ tử của Phật.

Sau ba tháng an cư, chúng Tỳ kheo nói trên đều chứng đắc quả A la hán.

Bài Kinh Từ Bi này có tính cách bảo hộ, vừa là những đề mục thiền quán và là một trong những bản Kinh được phật tử theo truyền thống Nguyên thủy tụng đọc nhiều nhất.

Bản dịch Việt ngữ dưới đây căn cứ vào bản dịch tiếng Anh của Tỳ kheo Thanissaro. Ông nguyên là một học giả Hoa Kỳ chuyên về lịch sử trí tuệ châu Âu, nhưng đã từ bỏ sự nghiệp học thuật để tu tập theo truyền thống Kammathana Thái Lan.

Đây là điều nên làm bởi một người thiện xảo với ý hướng muốn đạt đến trạng thái an lạc:

Có năng lực, chính trực và công minh, dễ dạy bảo,hòa nhã và không kiêu mạn, biết đủ và dễ cung dưỡng, ít bận rộn vì nhiệm vụ, sống cuộc sống thanh thoát, có nhiều khả năng an tĩnh, biết kềm chế, khiêm tốn và không ái luyến kẻ thân thuộc.

Đừng làm bất kỳ điều gì dù nhỏ nhặt nhất mà bậc thiện trí sẽ phiền trách.

Hãy nghĩ: Nguyện cho mọi chúng sinh đều an lạc, bất kể các chúng sinh ấy thuộc loài nào, yếu hay mạnh cũng không ngoại lệ, cao to hay trung bình hoặc thấp bé, dễ nhận biết hay khó nhận biết, hữu hình hay vô hình, gần hay xa, đã sinh hay đang chờ tái sinh. Nguyện mọi chúng sinh ấy đều an lạc.

Nguyện đừng ai dối lừa người khác hay khinh miệt bất kỳ ai ở bất cứ nơi nào, hoặc vì giận dữ hay bực tức mà cầu cho người khác phải chịu đau khổ.

Như một người mẹ sẵn sàng hy sinh cuộc sống để bảo vệ đứa con duy nhất của mình, cũng vậy người mong muốn an lạc hãy trau dồi từ tâm trải đến mọi chúng sinh.

Hãy trau dồi tâm từ để trải lòng từ ái khắp vũ trụ, cả trên, dưới và bốn phương tám hướng sao cho không bị ngăn ngại, với không một chút thù hằn, ghen ghét.

Cho dù đứng hay đi, ngồi hay nằm, bao lâu còn tỉnh thức, hãy quyết tâm với chánh niệm như trên.

Đó chính là nơi an trú cao thượng nhất tại đây và ngay bây giờ.

Không chấp vào tà kiến mà nhận biết với đức hạnh viên mãn và khuất phục được ham muốn dục lạc, người như thế sẽ không còn nhập vào bào thai.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lời Phật dạy về lòng từ

5 điềm báo bạn sắp gặp vận may về tình hoặc tiền

Nếu gặp phải một trong năm dấu hiệu dưới đây thì hãy chuẩn bị tinh thần chào đón vận may, có thể là tiền bạc, có thể là tình cảm, chúng đang trên đường đến với
5 điềm báo bạn sắp gặp vận may về tình hoặc tiền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

bạn.


Có bướm bay vào nhà


5 diem bao ban sap gap van may ve tinh hoac tien hinh anh

Bướm bay vào nhà báo hiệu những dấu hiệu may mắn

Chúng ta hay quan niệm khi bướm bay vào nhà có nghĩa là "các cụ về" nhưng theo dân gian khi bướm bay vào nhà có nghĩa là bạn đang có những dấu hiệu may mắn, sắp gặp được quý nhân. Nếu con bướm có màu sắc tươi sáng sẽ mang tin tốt liên quan đến tình cảm, nhân duyên. Còn nếu là bướm màu xám, đen thì quý nhân sẽ mang đến tin vui trong công việc hoặc nghề nghiệp. Bạn cũng đừng nỡ xua đuổi con bướm hoặc bắt hay vô tình giết nó, điều đó sẽ làm giảm vận may của bạn đấy!
 

Cây cối đột nhiên đâm chồi nảy lộc, đơm hoa kết trái

  Thông thường, biểu hiện phong thủy ngôi nhà không tốt hoặc người trong nhà có chuyện không vui, bệnh tật thì cây cối hay vật nuôi cũng cùng "tâm trạng" ủ dột, héo tàn. Ngược lại, mọi thứ đều tươi tốt, hoa nở, cây cối đâm trồi nảy lộc thì là biểu hiện của sự sống, khởi đầu của những điều vui tươi, may mắn và thành công. Bạn cũng nhớ nếu đã trồng cây hay nuôi con vật thì hãy thường xuyên chăm sóc chúng.
 

Chó chạy vào nhà


5 diem bao ban sap gap van may ve tinh hoac tien hinh anh

Chó màu vàng chạy vào nhà báo hiệu sự thịnh vượng và hạnh phúc 

"Chó đến nhà thì có", người ta cho rằng khi một con chó lạc vào nhà của bạn là một dấu hiệu rất thuận lợi, vì đồng nghĩa bạn sẽ có thêm người đồng hành trung thành, cùng nhau vượt qua những trở ngại trong cuộc sống. Chó màu đen mang lại sự giàu có, bảo vệ. Chó màu vàng mang lại sự thịnh vượng và hạnh phúc, còn những chú chó màu trắng mang lại tình yêu và sự lãng mạn.
 

Dơi làm tổ trong nhà

  Đây là một trong những dấu hiệu mạnh mẽ nhất cho thấy gia đình bạn sẽ gặp những may mắn trong tiền bạc, tài chính. Theo quan niệm tâm linh thời xưa, dơi là biểu tượng của sự giàu có dồi dào.
 
Người xưa tin rằng con dơi chỉ làm tổ ở những nơi tốt lành - họ cho rằng cảm nhận của dơi rất nhạy bén nên nó có thể "ngửi" ra nơi có dòng khí tốt. Nếu các con dơi bay đến và làm tổ dưới mái hiên nhà bạn thì điều này báo hiệu niềm vui, sự may mắn sắp tới với bạn.

 

Bản thân chú ý hơn đến diện mạo

  Bất kể là nam hay nữ thì khi tinh thần không tốt, họ đều bơ phờ mệt mỏi, không buồn chú ý đến bề ngoài. Nhưng nếu đột nhiên bạn lại chăm chút hơn cả về đầu tóc lẫn quần áo thì có nghĩa là tinh thần của bạn đang dần phấn chấn lên. Bên cạnh đó, nếu bạn thích sự náo nhiệt, điều này sẽ mang lại nguồn năng lượng tốt. Rủi ro đang tan mất, vận đen qua và vận may đang mỉm cười với bạn.

ST.
Những dấu hiệu cơ thể cho thấy bạn sắp có tiền, thậm chí trúng Vietlott 10 điềm báo tâm linh khiến tài vận gia đình không ngóc đầu lên được Thực hư chuyện nghe tiếng chim lợn là điềm báo có người chết?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 điềm báo bạn sắp gặp vận may về tình hoặc tiền

Cách lựa chọn phòng cho trẻ nhỏ –

Từ trung tâm ngôi nhà nhìn về phía Tây Bắc, đây là vị trí của chủ nhà. Nếu đặt phòng trẻ ở hướng Tây Bắc sẽ khiến trẻ phát triển thể chất sớm, không có lợi cho học hành. Vốn dĩ là thứ của người lớn lại đem cho trẻ con đương nhiên là không thích hợp.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

phong-ngu-huong-dong-kich-thich-be-thong-minh

Từ trung tâm ngôi nhà nhìn về phía Tây Bắc, đây là vị trí của chủ nhà. Nếu đặt phòng trẻ ở hướng Tây Bắc sẽ khiến trẻ phát triển thể chất sớm, không có lợi cho học hành.

Vốn dĩ là thứ của người lớn lại đem cho trẻ con đương nhiên là không thích hợp. Hướng Tây Bắc tượng trưng cho uy quyền, sự to lớn. Đứa trẻ ở hướng đó tất nhiên là có tài năng ở một vài mặt nào đó nhưng nó sẽ trở nên quá già dặn mà mất đi sự ngây thơ của trẻ con, thích giảng đạo lý với người khác, khiến người lớn xung quanh cũng phải chau mày. Trong tình hình đó, các bạn cùng trang lứa với đứa bé dần xa lánh, không có lợi một chút nào đốĩ với tương lai của trẻ.

Nếu có thể thay đổi một cách lý tưởng thì bé trai nên ở phòng hướng Đông, bé gái nên ở phòng hướng Nam hay Đông Nam. Nếu ngay cả điều này cũng không làm được thì để trẻ ở phòng có hướng thuộc một trong 12 chi. Vì các hướng này đều là hướng cát. Đứa trẻ sinh năm con rồng nên ở phòng hướng Đông, sinh năm chuột nên ở phòng hướng Bắc.

Nếu không gian có hạn, không thể làm thành một phòng cho trẻ thì chỉ còn cách giải quyết bằng màu sắc. Phòng của trẻ có thể thay bằng các màu ấm như màu sữa, màu hồng, hoặc màu vàng. Màu xám hay màu lam có cảm giác lạnh lẽo, không phù hợp sơn phòng trẻ con. Chỉ cần thay đổi màu sắc phòng trẻ như trên là có thể cải thiện được không khí trong phòng.

Đối với phòng trẻ ở tầng 2, hướng Tây Bắc, sau khi tiến hành thay đổi như ở trên có thể treo một số đèn trang trí trên trần để tăng cường ánh sáng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách lựa chọn phòng cho trẻ nhỏ –

Những nét phú quý của bạn gái nằm ở đâu trên cơ thể?

Vòng ba to, lông mày dài... chính là những đặc điểm mang lại cho người sở hữu sự giàu sang, phú quý.
Những nét phú quý của bạn gái nằm ở đâu trên cơ thể?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Vòng 3 nở đều đẹp, cân xứng

de31e316-ba94-4890-a9cc-5347ce-3369-2584

Khi người phụ nữ sở hữu cặp mông tròn, đều đẹp, cân xứng, dù ngực có thể hơi nhỏ nhưng lại là người có tướng tốt. Người phụ nữ có tướng này thường là sống an nhàn, sung sướng. Người có cặp mông đều đẹp còn là người "mắn đẻ", giỏi việc nuôi dạy con cái và có tướng vượng phu.

2. Khoảng cách giữa hai mắt, hai lông mày xa nhau

1-4622-1401878164.jpg

Các nét trên gương mặt người phụ nữ có thể hài hòa, có thể không, nhưng hai lông mày có khoảng cách xa nhau thường là người có cuộc sống tốt, luôn được người thân, bạn bè giúp đỡ. Những người này có tiền tài, danh vọng và sức khỏe đáng được nhiều người ngưỡng mộ. Khoảng cách giữa hai mắt rộng cũng cho thấy họ là người thoáng trong chi tiêu, có tầm nhìn xa trông rộng và dễ gặt hái thành công trong sự nghiệp.

3. Lông mày dài

0-5213-1401878164.jpg

Độ dài lông mày thường được đo bằng mắt, lý tưởng nhất là lông mày phủ qua mắt, dài hơn một chút so với chiều dài của mắt. Đây là người thông minh, bao dung, nhân hậu. Những người này thường sống thọ, cuộc sống đạt nhiều công danh, tiền tài và thường được nhiều người giúp đỡ.

4. Tai ép sát vào đầu

00-3295-1401878164.jpg

Tai ép sát đầu có thể không đẹp, nhưng người có tai ép sát vào đầu, vành ngoài và vành trong của tai rõ ràng, tai cao hơn lông mày thường là người thông minh, sáng suốt và có khả năng làm lãnh đạo. Cuộc đời những bạn gái có tai ép sát đầu thường gặp nhiều vinh hoa, phú quý, đường công danh thuận lợi. 

Hạnh Yunnie

2-1398152604-362x0-1369-1401877273.jpg

Phái nữ có tướng mạo thế nào thì sẽ gặp may mắn

Những cô gái có vầng trán cao, đôi mắt to, ngón tay dài... khá tài hoa, thông minh, thuận lợi và trong chuyện tình cảm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những nét phú quý của bạn gái nằm ở đâu trên cơ thể?

Đền thờ trạng nguyên Trần Tất Văn - Hải Phòng

Đền thờ Trạng nguyên Trần Tất Văn cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 13 km về phía Tây nam, tại Đền thờ Trạng nguyên Trần Tất Văn có nhiều lễ hội
Đền thờ trạng nguyên Trần Tất Văn - Hải Phòng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

“Vị tiểu quốc bất học vô nhân, lễ nghĩa hà túc thâm trách.
Mẫn An Nam vô cô xích tử, phong nhận nhẫn sử hoành la”.

Hai Câu thơ nổi tiếng nói về bối cảnh mà Trạng nguyên Trần Tất Văn đã dốc hết tâm lực, trí tuệ, sự hiểu biết, tài ngoại giao ứng đối của mình cho việc soạn bài biểu nhân danh “Sơn hà xã tắc” gửi triều đình nhà Minh. Ngày nay người dân thờ trạng nguyên Trần Tất Văn tại Đền thờ cùng tên: Đền thờ trạng nguyên Trần Tất Văn. Nay đền thờ này nằm tại xã Thái Sơn, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng. Từ đó vào ngày mùng 6 đến ngày mùng 8 tháng 8 âm đền thờ trạng nguyên sẽ tổ chức lễ hội rước trạng nguyên.

Đền thờ Trạng nguyên Trần Tất Văn cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 13 km về phía Tây nam, bằng các loại phương tiện giao thông như ô tô, xe máy, xe đạp có thể dễ dàng đến với di tích bằng đường bộ qua quận Kiến An.

Trạng nguyên Trần Tất Văn sinh ra trong một gia đình họ Trần – dòng dõi nhà nho ở thời hậu Lê (1428-1527) tại làng Nguyệt Áng, xã Thái Sơn, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng. Do xuất thân là dòng dõi quý tộc, được thừa hưởng tư chất thông minh và được học hành đầy đủ nên ngay từ nhỏ Trần Tất Văn đã nổi tiếng về hiếu học, chăm ngoan. Ông là Trạng nguyên duy nhất của huyện An Lão dưới thời phong kiến, đồng thời đứng thứ 30 trong tổng số 47 Trạng nguyên của cả nước.

Khi làm quan dưới triều nhà Mạc, thấu hiểu được tấm lòng và tình cảm của người dân quê hương, ông đã bỏ tiền hưng công xây dựng trên mảnh đất hương hoả của gia đình ông một ngôi chùa để người dân ở đây có điều kiện sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng, tu thiện, tích đức. Người dân làng Nguyệt Áng truyền tụng rằng chùa quan Trạng tên chữ là Vĩnh Khoái Tự có quy mô rất rộng rãi, khang trang nằm trên một gò đất cao ráo, rộng tới 1/2 mẫu Bắc bộ.

Sau khi quan Trạng qua đời, nhân dân địa phương đã dựng ngôi đền để thờ phụng tưởng nhớ ơn đức của quan Trạng. Đền được xây dựng nằm gần sát toà phật điện. Đền quay cùng hướng với ngôi chùa nhìn về phía Tây Bắc, cách nơi linh địa này không xa phía trước là dòng sông Đa Độ uốn khúc chảy qua và đằng sau là dãy núi sừng sững trụ vững với thời gian.

Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947-1948), các công trình kiến trúc đền, chùa quan Trạng cũng như các công trình văn hoá tín ngưỡng khác của địa phương Nguyệt Áng đã phải tiêu thổ kháng chiến. Mặc dù ở Nguyệt Áng đã trải qua bao lần san lấp mặt bằng để phục vụ sản xuất nông nghiệp, song đến nay, khu đất linh địa, đất xây đền, chùa quan Trạng ngày xưa vẫn còn gần như nguyên vẹn.

Với vị trí thuận lợi, Đền thờ trạng nguyên Trần Tất Văn sẽ là một điểm du lịch tâm linh hấp dẫn của người dân trong và ngoài thành phố.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền thờ trạng nguyên Trần Tất Văn - Hải Phòng

Những phương pháp xua đuổi tà khí không ma quỷ nào dám tới gần

Trong cuộc sống chúng ta thường sẽ gặp phải một số chuyện không may mắn, không tốt lành, hãy áp dụng các phương pháp xua đuổi tà khí dưới đây nhé.
Những phương pháp xua đuổi tà khí không ma quỷ nào dám tới gần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong cuộc sống chúng ta thường sẽ gặp phải một số chuyện không may mắn, không tốt lành. Ví dụ như bát tự thân nhược, mệnh cục có âm khí hay gặp sự việc tâm linh khó lý giải, nhìn thấy năng lượng vô hình. Để bảo vệ bản thân, tăng cường vận trình, duy trì trạng thái tinh thần ở mức tốt nhất, tránh xui xẻo hãy áp dụng các phương pháp xua đuổi tà khí dưới đây nhé.  

1. Dùng ngọc trừ tà quỷ


phuong phap tru ta 1
 
Ngọc thạch thu nạp tinh hoa nhật nguyệt, bình được linh khí của đất trời, bách tà đều không thể xâm nhập được. Đặc biệt vào buổi tối, ngọc có thể phát ra ánh sáng, tuy rằng mắt người thường không thể thấy rõ ràng nhưng ma quỷ tà mị không dám lại gần. Vì lẽ đó mà phương pháp xua đuổi tà khí đơn giản nhưng hiệu quả chính là mang một miếng ngọc bên mình.   Trong nhà bày ngọc hoặc vật phẩm phong thủy làm bằng ngọc (nhấn mạnh là ngọc tự nhiên không qua xử lý) thì sẽ mang tới nhiều điều cát lợi, ngăn chặn tà khí, bảo hộ bình an, trợ giúp cuộc sống.   Khi lui tới những nơi nhiều âm khí, tà khí như bệnh viện, tự miếu, nơi hỏa táng, nghĩa trang, nơi vắng vẻ, nhà bỏ hoang thì hãy đeo ngọc để hỗ trợ dương khí, loại trừ ảnh hưởng của âm khí.Đeo ngọc phong thủy không chỉ để ngắm mà còn chiêu nạp phúc khí.   Người làm các công việc cần quan hệ với ban ngành chính phủ hoặc luật pháp kiểm sát tố tụng, quân đội, bộ ban ngành – những ngành nghề thuần dương cũng rất thích hợp để đeo ngọc, trung hòa lệ khí, cân bằng âm dương, tránh dương quá thịnh mà dẫn tới kiêu ngạo, làm chuyện sai lầm.   

2. Kim Cương hộ pháp có thể trừ tà


phuong phap tru ta
 
Kim Cương hộ pháp là bài chú trong kinh Kim Cương của Phật giáo, có tác dụng loại trừ ma quỷ, ngăn ngừa tà khí. Đây là cách thức trừ tà đơn giản dành cho những người tin vào sức mạnh của Phật giáo. Đeo bên mình bản mệnh Phật hoặc Phật ngọc rồi niệm chú Kim Cương, hoặc niệm A Di Đà Phật là đã có thể bảo vệ được chính mình rồi.   

3. Vật màu đỏ dùng để trừ tà

  Dân gian truyền lại một giả thuyết là năm bản mệnh nên mặc đồ lót, tất màu đỏ để giảm bớt hung họa, tăng may mắn. Màu đỏ quả thật có tác dụng trừ tà, ma quỷ sợ đỏ. Trong cuộc sống hàng ngày thường ít dùng màu đỏ thẫm, chỉ có kết hôn – chuyện vui mừng trọng đại mới dùng màu này.    Nếu ở trong nhà có năng lượng vô hình hoặc phạm đường xung, hành lang, văn phòng có lỗi phong thủy thì nên bày vật màu đỏ để giảm bớt sát khí. Cửa phòng làm việc bày vật trang trí màu đỏ không những tăng cường vận khí mà còn hóa giải thị phi, ngăn chặn tiểu nhân, rất có ích.   

4. Đồ dùng sinh hoạt trừ tà


phuong phap tru ta 2
 
Trong nhà có tỏi, hạt tiêu, hành tây – các loại gia vị có khả năng trừ tà thì rất tốt. Bên cạnh đó, nhà có kiếm đỗ đào, chuỗi hạt bằng gỗ đào, vòng tay ngọc thạch hay những vật phẩm phong thủy trừ tà khác thì sẽ có trợ giúp, bảo vệ bình an cho gia trạch.   

5. Người chính trực nghĩa khí có thể trừ tà

  Không cần dùng phương pháp xua đuổi tà khí nào cao siêu, theo dân gian, chính khí cương trường có thể tránh quỷ. Người càng chính trực, tinh lực càng dồi dào thì dương khí càng mạnh, khiến ma quỷ phải e dè sợ hãi. Vì lẽ đó người xưa nói: "Không làm việc trái với lương tâm, không sợ nửa đêm quỷ gõ cửa".    Bình thường làm thêm việc thiện, tích lũy hạnh lành thì nhất định không quỷ nào dám bén mảng tới. Ngược lại làm việc cẩu thả, nội tâm bất an, dương khí tự tổn hại. Bên cạnh đó thân thể càng khỏe mạnh, tâm tình càng vui vẻ thì dương khí càng vượng, tránh xa các loại tà khí.   
phuong phap tru ta 3
 
Nhiều người nửa đêm đi qua nghĩa trang, núi hoang, nhà hoang, nơi nhiều âm khí mà không hề sợ hãi, cũng chẳng gặp hiện tượng lạ bởi chính khí thịnh vượng, trong lòng sáng rõ, không thẹn với lương tâm, quỷ thấy cũng kính nể, không dám gần người . Một thân chính khí là vật trừ tà hữu hiệu nhất, lâu bền nhất trong suốt cả cuộc đời.
  Bách thiện lấy hiếu làm đầu, vạn ác lấy dâm làm đầu. làm thêm việc thiện, đừng sát sinh hãy phóng sinh, chính là tu luyện. Không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu, không dùng ma túy, không xa xỉ, không tham lam, không ức hiếp người khác, không hãm hại người khác. Chăm chỉ tích đức, tự dưng chính khí vây quanh.
Muốn hóa sát, trừ tà, vượng tài - tìm đến tiền Ngũ Đế Lưu ý quan trọng khi sử dụng bảo kiếm phong thủy trấn trạch an gia 8 loài cây trừ tà nên trưng trong nhà đón năm mới Nghi lễ trừ tà thời khởi thủy và nỗi hoài nghi tâm linh
Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những phương pháp xua đuổi tà khí không ma quỷ nào dám tới gần

Bí ẩn núi Kim Cương ở Nga

Người Nga đã giấu kín một bí mật khổng lồ trong suốt 40 năm qua: mỏ kim cương lớn gấp 10 lần lượng dự trữ kim cương của thế giới.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nga vừa tiết lộ một thông tin có thể làm rung chuyển thị trường kim cương toàn cầu đến tận gốc rễ: họ đã phát hiện mỏ khổng lồ chứa kim cương chất lượng cao đang nằm bên dưới hố thiên thạch ở Siberia, với số lượng phải lên đến hàng nghìn tỉ carat, đủ để cung cấp cho thế giới trong 3.000 năm tới.     Theo ITAR-Tass, hố thiên thạch Popigai, đường kính 100 km và nằm ở vùng phía bắc hẻo lánh của Nga, đã được hình thành từ 3,7 triệu năm trước sau khi một tiểu hành tinh bề ngang từ 5 - 7 km đâm xuống bề mặt trái đất. Vụ va chạm đã tạo ra một mỏ đầy kim cương thuộc dạng đặc biệt, được tạo ra khi một vỉa kim cương có sẵn bị một vật thể khổng lồ đâm vào với tốc độ khủng khiếp.    Theo Christian Science Monitor, Nikolai Pokhilenko, Giám đốc Viện Địa khoáng Novosibirsk cho hay những kim cương trên cứng gấp 2 lần kim cương bình thường, là nguồn cung cấp lý tưởng cho các mục đích công nghiệp và khoa học. Ông cũng tuyên bố rằng số kim cương bên dưới có thể lớn gấp 10 lần dự trữ toàn cầu, tức cả nghìn tỉ carat. Một carat tương đương 200 mg, là đơn vị đo lường chuẩn dùng cho đá quý và khoáng chất.   Tính đến nay, Popigai là hố va chạm lớn thứ 4 trên thế giới, chỉ sau Chicxulub (bên dưới bán đảo Yucatan ở Mexico), Sudbury (Canada) và Vredefort (Nam Phi). Theo ITAR-Tass, chính phủ từ thời Liên Xô đã phát hiện mỏ đá quý trên vào những năm 1970 trong một sứ mệnh khoa học, nhưng đã quyết định giấu kín vì đang có ý định phát triển ngành kim cương nhân tạo. Họ cũng không muốn khuấy động thị trường thế giới và làm giảm giá trị của mỏ Mirny ở Đông Siberia, vốn đã mang lại lợi nhuận khổng lồ cho Moscow, với khả năng cung cấp cả chục triệu carat mỗi năm vào giai đoạn đỉnh cao. Đây cũng là hố khai thác lớn thứ hai thế giới, và trực thăng bị cấm bay qua miệng hố để tránh trường hợp bị hút vào. Tuy nhiên, hiện mỏ Mirny đã không còn hoạt động do lợi nhuận giảm, nên Moscow muốn quay lại nghiên cứu hố Popigai.      Trong hơn 1 thế kỷ kể từ khi phát hiện mỏ kim cương ở phía nam châu Phi, lúc đó là thuộc địa của Anh, Tập đoàn de Beers, trụ sở tại Luxembourg, đã thành công khi thống trị thế giới kim cương do kiểm soát được 80% nguồn cung trên toàn cầu. Thế độc quyền đã đã bị phá vỡ vào năm 2000, khi các nước như Nga và Úc bắt đầu phát hiện và sản xuất kim cương từ các mỏ đá quý của mình, khiến thị phần của de Beers giảm xuống còn 45%. Nếu mỏ Popigai đúng như lời đồn, ngành kim cương thế giới sẽ chứng kiến những sự thay đổi mạnh mẽ, đặc biệt nếu như chất lượng của nó tốt như tuyên bố của Giám đốc Pokhilenko.   Hạo Nhiên Trích dẫn từ www.thanhnien.com.vn
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí ẩn núi Kim Cương ở Nga

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd