Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Những điều cấm kỵ trong phong thủy khi kê giường ngủ –

(1) Về bố trí, phía trước và sau giường không được để gương; cũng không được để gương hướng về phía cửa, bất kỳ cửa nào cũng không được; kỵ phòng vệ sinh đối diện với giường. (2) Giường có thể đặt ở góc tường đối diện với cửa, còn gọi là vị trí ổn t

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

giuong-ngu-9

(1) Về bố trí, phía trước và sau giường không được để gương; cũng không được để gương hướng về phía cửa, bất kỳ cửa nào cũng không được; kỵ phòng vệ sinh đối diện với giường.

(2) Giường có thể đặt ở góc tường đối diện với cửa, còn gọi là vị trí ổn trận. Tuyệt đối không được để giường đối diện với cửa.

(3) Giường ngủ không được để dưới dầm ngang. Nếu là giường một, dầm ngang cho dù đè ở bất cứ bộ phận nào cũng đều ảnh hưởng đến sức khỏe của bộ phận đó. Nếu đè xuống đầu thì ảnh hưởng nghiêm trọng nhất, sẽ hay choáng váng, đau đầu, trí nhớ và khả năng suy xét giảm sút, khiến tâm trạng bất an.

Nếu là giường đôi, ngoài ảnh hưởng đến sức khỏe thì còn cản trở quan hệ giữa hai người. Vì giường ở dưới dầm ngang thì tính tình của con người sẽ trở nên nóng nảy, khó điều khiển được tâm trạng của mình, một số việc vốn dĩ rất nhỏ nhưng cả hai đều không nhường nhau đã làm chuyện bé xé ra to. Rất nhiều cặp vợ chồng ly hôn cũng chỉ vì chuyện rất nhỏ nhặt, càng làm ầm lên lại càng lớn chuyện, cuối cùng là không thể hàn gắn được rạn nứt.

Cách giải quyết: vì dầm ngang là giá đỡ của cả ngôi nhà nên không thể tháo ra được, do đó cách giải quyết duy nhất là thay đổi vị trí của giường. Chỉ cần kê giường sao cho không nằm dưới dầm ngang là được. Nếu không thể di chuyển được giường thì có thể lắp thêm trần giả.

(4) Cửa phòng ngủ không được hướng thẳng vào đầu giường. Xét về phong thủy, đầu giường nên tĩnh không nên động, mà cửa là nơi không khí ra vào, thuộc trạng thái động, vì vậy trong thuyết phong thủy có cách nói cửa phòng hướng thẳng vào đầu giường, sẽ dẫn tới tâm trạng của người ngủ trên chiếc giường đó bất an. Nếu là hai người cùng ngủ trên chiếc giường đó sẽ ảnh hưởng đến tình cảm, giữa hai người sẽ xuất hiện sóng gió trong chuyện tình cảm nếu giải quyết không ổn thỏa thì hai người yêu nhau sẽ trở mặt thành kẻ thù.

(5) Đầu giường phải có chỗ dựa. Đầu giường kỵ nhất là không có bất kỳ chỗ dựa nào. Nếu đầu giường không dựa vào tường hay một vật gì đó sẽ khiến người ngủ trên giường nghĩ ngợi lung tung, càng nghĩ càng không có cảm giác an toàn. Nếu là một đôi nam nữ cùng ngủ trên chiếc giương này thì lại tăng thêm “cơ hội” nghĩ ngợi lung tung cho cả hai, thậm chí còn nghi ngờ đối phương ngoại tình. Đôi khi nguyên nhân chia tay hoàn toàn không phải là cái gì thực tế mà chỉ là sự nghi kỵ lẫn nhau dẫn tới mất tin tưởng, tình cảm cũng không còn.

Cách giải quyết: kê đầu giường sát vào tường, hoặc dựa vào một vật nào đó như tủ quần áo là có thể tăng thêm cảm giác an toàn cho cả hai, tự nhiên sẽ giảm bớt được những nghi kỵ lẫn nhau, tăng thêm sự ổn định cho tình cảm.

(6) Phía trên giường không nên là vị trí của phòng tắm hay chỗ để máy giặt. Phòng ngủ cũng phải tránh nằm ở cuối hành lang.

(7) Giường không được để dưới cửa sổ, sẽ làm mất cảm giác có chỗ dựa. Đuôi giường không được đối diện vào cửa phòng.

(8) Không được treo đèn hay quạt ở phía trên chính giữa giường, vì chúng có thể sinh ra “ám tiễn” cản trở giấc ngủ.

(9) Ga trải giường và gối nên tránh dùng hình vẽ tam giác hay đầu mũi tên. Vì những hình vẽ này thuộc hành Hỏa, sẽ khiến dương khí trong phòng quá nhiều, phá vỡ không khí yên bình.

(10) Hai bên đầu giường không được có góc bàn, góc tủ hướng thắng vào đầu, cổ.

(11) Đầu giường không nên để dàn loa, vô tuyên.

(12) Bức tranh đầu giường không được quá lớn. Đầu giường có tranh có thể làm phòng ngủ đẹp lên nhưng chỉ nên nhẹ, mỏng, ngắn, nhỏ; tối kỵ bức tranh dày, nặng, khung lớn, nếu không một khi móc treo rơi xuống tranh sẽ rơi thẳng xuống đầu, không chết cũng bị thương, do đó không thể không thận trọng.

(13) Dưới gầm giường phải thông gió, không được chất đồ lặt vặt xuống dưới đó.

(14) Gạt tàn đầu giường sẽ gây họa hại thân. Tất cả các khách sạn, nhà khách trên toàn thế giới đều cấm rất nghiêm ngặt việc khách hút thuốc trên giường, vì sợ khách uống rượu say hay ngủ quên mà không nhớ dập tàn thuốc gây ra hỏa hoạn. Thực ra ở nhà cũng vậy, không được hút thuốc trên giưòng. Ngoài nguy cơ hỏa hoạn ra thì hút thuốc trong phòng ngủ đóng kín, một tối hút hai điếu thuốc cũng dễ mắc bệnh về hô hấp.

(15) Không được trải một lớp nilon dưới chăn, làm như vậy không thể chống ẩm được mà ngược lại sẽ khiến cho hơi nước trong chăn khó thoát ra ngoài, khiên cho chăn ẩm ướt và dễ gây bệnh.

(16) Vị trí giường, hướng nằm khi ngủ phải có sự cân nhắc, thường thì hướng Nam Bắc là tốt nhất.

Vì kinh mạch (đông y gọi mạch chính lưu thông khí huyết trong cơ thể là “kinh”, mạch nhánh hay mạch nhỏ là “mạch”) phân bố khắp cơ thể, hướng tuần hoàn đa số là hướng thẳng đứng. Trái đất là một từ trường lớn, đường lực từ xuyên suốt từ Nam đến Bắc, xuyên qua vỏ trái đất lại quay trở lại bên trong trái đất. Chỉ có khiến cho hướng tuần hoàn của kinh mạch giống với hướng đi của đường lực từ thì mới phù hợp với tự nhiên, phù hợp với sinh lý, khí huyết lưu thông thuận lợi, do đó phải chọn hướng ngủ là hướng Nam Bắc. Như vậy khi ngủ quá trình trao đổi chất mới chậm, năng lượng tiêu hao ít, có thể ngủ yên, sâu và ngon giấc.

Nếu chọn hướng Đông Tây thì kinh mạch chủ yếu của cơ thể sẽ vuông góc với đường lực từ của trái đất, đường lực từ này sẽ tác động theo chiều ngang lên đường kinh mạch, khiến khí huyết khó tránh khỏi việc bị cản trở, do đó có thể dẫn đến các chức năng mất cân bằng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều cấm kỵ trong phong thủy khi kê giường ngủ –

Hợp tự là gì ? Tại sao phải hợp tự ?

Hợp tự có nghĩa là : rước các tiên linh các đời vào thờ chung trong cùng một nhà thờ của đại tôn hay của từng tiểu chi. Theo phong tục cổ truyền: Năm đời tống giỗ, hay "Ngũ đại mai thần chủ" (Đến 5 đời thì chôn thần chủ). Thực chất chỉ có bốn đời, tức là làm giỗ cha mẹ (đời 2), ông bà (đời 3), cụ ông cụ bà (hay cố 4 đời) và kỵ (hay can 5 đời).
Hợp tự là gì ? Tại sao phải hợp tự ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cao hơn kỵ gọi chung là tiên tổ, thì không cúng giỗ nữa, mà rước chung tất cả thuỷ tổ, tiên tổ các đời vào chung một nhà thờ mỗi năm tế một lượt. Thần chủ con cúng cha mẹ, đề là Hiền khảo, Hiền tỷ, đến khi người con trưởng chết, cháu đích tôn cúng ông bà, đối thần chủ là Hiền tổ khảo, Hiền tổ tỷ, đến lượt cháu trưởng mất, chắt trưởng tiếp tục thờ cụ là Hiền Tằng tổ khảo (hoặc tỷ), chít (chiu) trưởng thờ kỵ là Hiền Cao tổ khảo (hoặc tỷ).

Sau năm đời thì rước vào nhà thờ tổ rồi chôn thần chủ đó đi. Trong nhà thờ tổ chỉ để duy nhất có một ngôi thần chủ cao nhất (thuỷ tổ hoặc tiên tổ bậc cao nhất của nhà thờ chi đó) gọi là "Vĩnh thế thần chủ".

Gộp chung tất cả tiên tổ của nhiều đời lại để tế chung thay cho từng lễ giỗ, đó là hình thức hợp tự cổ truyền. Song trong phong tục đó còn có nhiều điều bất tiện: Chỉ con trưởng, cháu trưởng, chắt trưởng v.v...nối dòng qua nhiều đời mối được thờ ở nhà thờ chính. Vì vậy con , cháu, chắt những ông con thứ qua nhiều đời phải xây nhiều nhà thờ lớp con thứ, lớp cháu thứ, lớp chắt thứ v.v...

Nếu cứ thế tiếp tục mãi, thì có nơi số nhà thờ còn nhiều hơn cả số nhà ở của người dương trần. Chính vì lẽ trên, nên hồi đầu thế kỷ 20 đến trước CM Tháng 8-1945 ở nhiều nơi đã có phong trào tiến hành hợp tự vào các nhà thờ họ: Dầu cửa trưởng hay cửa thứ, sau khi mất, hết vòng tang, đều được rước linh vị vào thờ ở nhà thờ chung của họ. Linh vị xếp theo thứ tự trên dưới.

Đến ngày giỗ người nào, thì đưa linh vị người đó vào hàng giữa theo thứ bậc, cúng xong lại xếp vào vị trí cũ. Việc hợp tự như vậy: trước là hợp với tâm linh, con cái ở dưới chân cha mẹ, cháu chắt về với tổ tiên, tượng trưng sự đoàn tụ ở cõi âm, sau nữa thuận tiện cho việc chung sức, chung lòng xây dựng nhà thờ, mua sắm tế khí, quanh năm hương khói, gắn bó thêm mối tình ruột thịt trong nội thân. Song cũng có những gia đình, kinh tế dồi đào hơn, lại ở cách xa nhà thờ đi lại bất tiện, nên họ cúng riêng, tiện hơn, không hợp tự. Do đó, ngày nay nên vận động hợp tự, trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hợp tự là gì ? Tại sao phải hợp tự ?

Châu Á sẽ 'lột xác' trong năm Rắn

Tương tự như loài rắn lột da, năm nay sẽ chứng kiến những sự lột xác, thay đổi mạnh mẽ và những biến động cực kỳ to lớn, và có một kết thúc đẹp vào cuối năm, các nhà chiêm tinh dự đoán cho châu Á.
Châu Á sẽ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các nhà chiêm tinh học dự đoán một năm mới nhiều biến động nhưng sẽ có kết thúc tốt đẹp vào cuối năm.

Thị trường chứng khoán khởi sắc nhẹ, căng thẳng leo thang giữa Nhật Bản và Trung Quốc, thêm nhiều thành công cho tác giả của Gangnam Style, là những dự đoán của các nhà chiêm tinh về năm Quý Tỵ.

Kết thúc năm rồng, nhà phong thủy Hong Kong Mak Ling-ling dự đoán thị trường chứng khoán sẽ tận hưởng nửa năm nay đầu thuận lợi trước khi diễn biến hỗn loạn trong nửa cuối năm, giống như dáng hình của con rắn vậy.

"Giống như chuyển động của con rắn vậy, rất nhanh nhẹn, tích cực và sắc nhọn, nhưng cũng vô cùng xảo quyệt và phức tạp", bà nói với AFP.

Mak cũng cảnh báo dù thị trường khởi sắc vào đầu năm nhưng sẽ không thể hồi phục hoàn toàn sau cuộc khủng hoảng của khu vực eurozone và nền kinh tế Mỹ chưa đủ mạnh cho đến tận năm 2014. Bà cũng nói thêm rằng Tổng thống Mỹ Barack Obama cần phải "bớt bảo thủ" hơn để khôi phục nền kinh tế.

Một số nhà chiêm tinh khác cho biết năm Quý Tỵ là một năm rắn nước, tượng trưng cho sự sợ hãi, lại nằm trên yếu tố lửa, tượng trưng cho sự vui tươi và lạc quan. Sự xung đột giữa hai yếu tố đó sẽ gây ra sự bất ổn vào tháng 5.

Chow Hon-ming, nhà phong thủy Hong Kong, nói các yếu tố xung khắc xuất hiện trong tháng 5, nên có thể trong tháng này sẽ xảy ra "cuộc chiến ngắn" giữa Trung Quốc và Nhật Bản khi "hai con rắn" va chạm.

"Tháng 5 là tháng Tỵ, và năm nay cũng là năm Tỵ, hai con rắn sẽ gặp nhau, căng thẳng giữa Trung Quốc, Nhật Bản sẽ lên đến đỉnh điểm và có thể diễn biến thành chiến tranh".

Các nhà dự đoán phong thủy cảnh báo năm "rắn nước đen" sắp đến có thể mang theo một số tai họa như những năm rắn trước đó cũng từng xảy ra những sự kiện chấn động. Ví dụ năm 2001 xảy ra vụ khủng bố 11/9 làm 3.000 người thiệt mạng hay thị trường chứng khoán sụt giảm năm 1921, báo trước một cuộc đại suy thoái của nền kinh tế thế giới.

Trên một phương diện khác, nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình và nghệ sĩ Hàn Quốc Psy, tác giả của ca khúc Gangnam Style gây sốt trong năm qua, là hai nhân vật nổi tiếng sinh năm rắn, được các "thầy bói" dự đoán sẽ có một năm thành công bất chấp đây thường bị coi là "năm tuổi" và kém may mắn.

Ông Tập, sinh năm 1953, và Psy, Park Jae-Sang, sinh năm 1977, sẽ không bị ảnh hưởng của "năm tuổi" bởi ngày tháng năm sinh của họ chứa các yếu tố thuận lợi trong năm nay.

CLSA, một trang web môi giới chứng khoán hàng đầu của châu Á, cũng dẫn lời các chuyên gia phong thủy và đưa ra chỉ số phong thủy - phong thủy index cho năm nay. Trang này cũng cho rằng thị trường sẽ biến động trong nửa cuối năm nhưng chúng ta có yếu tố "hỏa" để lạc quan.

Về tổng thể, "tương tự như loài rắn lột da, năm nay sẽ chứng kiến những sự lột xác, thay đổi mạnh mẽ và những biến động cực kỳ to lớn", và có một kết thúc đẹp vào cuối năm tới, CLSA kết luận.


Trích từ: vnexpress.net
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Châu Á sẽ 'lột xác' trong năm Rắn

Luận đoán tình yêu từ đâu đến theo lá số Tử vi

Thật không đơn giản khi một bậc thầy tử vi lý số lại có thể luận đoán chính xác về người yêu đầu, người chồng, hay người vợ tương lai của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thật không đơn giản khi một bậc thầy tử vi lý số lại có thể luận đoán chính xác về người yêu đầu, người chồng, hay người vợ tương lai của bạn. Nhưng tất cả đều có thể. Và chỉ cần đọc xong bài viết dưới đây, nếu bạn là một người đang nghiên cứu về tử vi bạn sẽ học được cách luận đoán và xem hạn tình cảm tương đối tổng quan, chính xác.

Khi xem đường tình duyên cho các đương số, thường chúng ta sẽ nhận được những câu hỏi đại loại như: Chồng em đến từ đâu, cách nhà em có xa không hay gần? Hoặc, Tình yêu em xuất phát như thế nào? Người yêu em ở phương nào? Bố mẹ hai bên có phản đối không? Người yêu em có lãng mạn không?…

hai-sao-dong-cung

Để trả lời được những câu hỏi trên không phải là điều đơn giản, nhưng đối với môn tử vi đó không phải là điều không làm được…

Để nghiên cứu về Hạn Tình Cảm, Hạn Kết Hôn chúng ta chỉ cần lưu ý tới 2 ngôi sao THIÊN TƯỚNG và TƯỚNG QUÂN. Đây là hai ngôi sao chủ tình yêu, tình cảm trong Tử Vi. Người có hai ngôi sao này đẹp chuyện tình cảm thường êm đẹp.

Hai ngôi sao này xấu xem như một đời sầu với chuyện tình cảm. Nếu mất một còn một cũng được xem là hay, thà mất một còn một còn hơn là mất cả hai.

Nếu Mệnh, Đại Vận, Phu Thê có TƯỚNG hay THIÊN TƯỚNG cố định tất có thiên hướng yêu sớm. Ngược lại là không, nếu có chỉ xuất hiện ở Tiểu hạn, qua năm đó họ lại không bận tâm tới việc đó nữa.

TÌNH YÊU TỪ ĐÂU ĐẾN? CHỒNG ĐẾN TỪ HƯỚNG NÀO? XUẤT PHÁT ĐIỂM CỦA TÌNH YÊU LÀ ĐÂU? 

a. Tình cảm nảy sinh từ đâu

Nhìn trên lá số xem TƯỚNG QUÂN và THIÊN TƯỚNG cố định đóng tại các cung số nào thì tình cảm hay nảy sinh từ cung số đó.

Với bộ TƯỚNG BINH lưu động cũng thế, năm ta có tình cảm cần xem xét xem vị trí lưu TƯỚNG hay BINH ở cung số nào. Ở đâu ta đoán tại đó.

VD: THIÊN TƯỚNG hay TƯỚNG QUÂN tại Quan Lộc ta hay có tình cảm với đồng nghiệp hay trong công việc.

Trong quá trình xem xét ta sẽ dựa vào các cung tam hợp, nhị hợp, xung chiếu và áp vào đại hạn, tiểu hạn để luận đoán chính xác đến ngày giờ, tháng mà đương số có hạn tình cảm.

b. Vợ/chồng thường xuất phát từ mối quan hệ nào

Để xem xét về Người Chồng/Vợ ta quen ở đâu nhìn vào các cung Nhị Hợp và Lục Hội (đứng từ cung Phu Thê để xem xét).

Nếu cung Phu Thê Lục hội hay Nhị hợp với cung Phụ Mẫu thì chuyện tình cảm bị phụ thuộc vào cung Phụ Mẫu, tương tự TƯỚNG QUÂN hay THIÊN TƯỚNG đóng tại Phụ Mẫu, Huynh Đệ chuyện tình cảm cũng bị tác động bởi cung số này. Nếu có thêm ĐÀ LA ở cung Phụ Mẫu thì càng rõ rang về việc Thuận theo cha mẹ trong chuyện tình cảm (ĐÀ LA chủ thuận theo, đong tại cung số nào ta hay thuận theo cung số đó).

c. Tính chất về phương và hướng

Trên Tử Vi ta có các Hướng như trong Phần một của Tử Vi cơ bản đã đề cập. Nhìn vào vị trí của TƯỚNG hay TƯỚNG QUÂN để xem xét về Phương và Hướng của người yêu ta (họ từ Phương nào tới). Tiểu Hạn có bộ TƯỚNG BINH ta nhìn vào đó.

Chắc hẳn mọi người vẫn còn nhớ vị trí các cung ứng với phương hướng trong lá số tử vi. Nhìn vào hình trên tôi xin nhắc lại phương hướng như sau:

Cung Tý: Phương Bắc

Cung Ngọ: Phương Nam

Cung Mão: Phương Đông

Cung Dậu: Phương Tây

Từ 4 hướng chính ta sẽ căn cứ chia ra thành các hướng như sau:

Cung Sửu – Dần: Hướng Đông Bắc

Cung Thìn – Tỵ: Hướng Đông Nam

Cung Tuất – Hợi: Hướng Tây Bắc

Cung Mùi – Thân: Hướng Tây Nam

Theo đó khi xét vị trí của sao Thiên Tướng trên các cung này ta sẽ biết được phương hướng người yêu, hoặc người chồng của đương số đến từ hướng nào so với vị trí nhà ở của đương số. Khi xem trong tiểu hạn nếu đương số có tình duyên thoáng qua thì ta cũng có thể biết được người làm đương số xao xuyến đó đến từ phương nào.

Ví dụ: Sao Thiên Tướng nằm tại cung Mão. Vậy là rõ ràng người hôn phối của đương số sẽ đến từ hướng chính đông.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận đoán tình yêu từ đâu đến theo lá số Tử vi

Chùa Kim Sơn - Hà Nội

Chùa Kim Sơn còn có tên là Am Vạn Linh, chùa Tàu Mã, chùa Kim Mã, nằm ở 73 Kim Mã, quận Đống Đa.Trước đây, vào thời Lý, vùng Kim Mã là pháp trường.
Chùa Kim Sơn - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Kim Sơn còn có tên là Am Vạn Linh, chùa Tàu Mã, chùa Kim Mã, nằm ở 73 Kim Mã, quận Đống Đa. Trước đây, vào thời Lý, vùng Kim Mã là pháp trường, nơi này trở thành nghĩa địa, người trong thôn Kim Mã lập ra một am nhỏ để thờ cúng. Sau này thi hài các chiến sĩ tử trận Đống Đa (1789) trong trận đánh chống giặc Thanh được đưa vào tử tang tại nghĩa địa Kim Mã. Am được sửa lại và gọi là Am Vạn Linh.

Năm 1831 người làng Kim Mã sửa lại am, bên trong dựng tượng Phật, linh vị thờ Vạn Linh đặt ra hai bên, gọi là chùa Tàu Mã. Năm 1897 đổi tên là chùa Kim Sơn. Năm 1932 xây dựng lại chùa, dựng tòa tam bảo, đền thờ Mẫu và đàn Vạn Linh. Năm 1952 nghĩa địa Kim Mã chuyển lên nghĩa trang Yên Kỳ 1953 xây ngũ môn quan. Năm 1952 chùa Linh Sơn ở phố Nguyễn Trường Tộ bị bom Mĩ tàn phá, toàn bộ tượng Phật của chùa Linh Sơn được chuyển về chùa Kim Sơn và đặt trong gian thờ Vạn Linh của chùa Kim Sơn.

Chùa được xây dựng gồm: giải Ngũ Môn ở trước chùa 50m. Trong ngũ môn có treo 1 quả chuông đồng khá lớn và có đặt 1 pho tượng Phật. Qua ngũ môn là một khu vườn trong có bể non bộ, 2 ngọn tháp và nhiều cây cau.

Tiếp đó là một sân gạch rồi đến chùa chính được bố cục ba phần tương đối độc lập. Chính giữa là toà Tam bảo thờ Phật, bên phải là Vạn Linh đàn, bên trái là đền thờ Mẫu. Toà Tam bảo được xây cao hẳn lên và thông sang Vạn Linh đàn và đền thờ Mẫu bằng 2 cửa ngách. Nóc đền thờ Mẫu và nóc Vạn Linh được đắp hình lưỡng long chầu nguyệt.

Nóc tam bảo thì chính giữa đắp bảng ghi ba chữ Kim sơn tự, hai bên bảng là 2 con rồng. Phần bên ngoài có hương án trên đặt 3 ngai thờ Hùng Vương ở giữa, hai bên là hai bệ thờ mỗi bên có 3 tượng nữ thị vệ và binh khí như long đao, kiếm.

Chùa Kim Sơn
Tam bảo Chùa Kim Sơn

Phía sau toà Tam bảo, Vạn Linh đàn và nhà Mẫu có nhà hậu để thờ các vị sư tổ trụ trì tại chùa Kim Sơn đã quá cố và cũng để cho sư ở. Cạnh nhà hậu là cổng hậu trông ra phố Kim Mã. Hiện nay ở chùa Kim Mã có một pho tượng Phật bằng đồng, cao 76,8 cm nặng khoảng trên 30 kg. Tượng được thể hiện tư thế đứng thẳng với tay ấn “vô ủy” trên một bệ dạng hình hộp gần vuông đúc liền khối với tượng. Mặt trước chân bệ có khắc chìm một dòng chữ Lào.

Sư cô Thích Đàm Tiến hiện nay là trụ trì chùa đã tổ chức nhiều lần trùng tu, tôn tạo nhiều hạng mục của ngôi chùa. Chánh điện được bài trí trang nghiêm , Tam quan mới được xây dựng lại bề thế , nhà khách … . Chùa có nhiều pho tượng gỗ có giá trị nghệ thuật. Chùa Kim Sơn đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1985.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Kim Sơn - Hà Nội

Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Nhâm Tuất

Tử vi của người sinh ngày Nhâm Tuất có đặc điểm gì nổi bật? Cùng khám phá ngay!
Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Nhâm Tuất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi của người sinh ngày Nhâm Tuất có đặc điểm gì nổi bật? Cùng khám phá ngay!


Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Nham Tuat hinh anh
 
Nhâm Tuất có trụ ngày đối xứng với Đinh Mão, vào giữa tuế vận Hỏa vượng gặp nhau, người xinh đẹp như Mặt Trăng, lại thêm nhân nghĩa hiền hòa, lấy lễ làm đầu, là Lô trung Hỏa rèn luyện trong lửa nóng.   Trong cuộc sống, sự việc hoàn mĩ vốn hiếm hoi nhưng người sinh ngày Nhâm Tuất thì vẻ ngoài đẹp đẽ, anh tuấn tiêu sái cùng với cao quý, khí chất hội họp, tạo thành một cặp xứng đôi vừa lứa.   Tử vi của người sinh ngày Nhâm Tuất là quan mang, Tý Sửu Không Vong. Người sinh tính tình thiện lương, khoan dung độ lượng, độc lập tự chủ, khí phách tự cường, danh lợi đều từ sự nghiệp mà ra. Người này thông hiểu sự đời, biết đối đãi với người thân.   Dẫu vậy, người có trụ ngày Nhâm Tuất là làm việc không theo trật tự, nhiều khi thành bại khó phân, tốt biến thành không tốt, không tốt lại hóa thành tốt. Mọi việc thành công hay thất bại đều chỉ trong tích tắc. Đặc biệt chú ý, cả đời phòng rắc rối liên quan tới quan tòa, kiện tụng.
 
Xem tử vi trọn đời cho thấy, nam mệnh có tài vận rộng mở, đại bộ phận sau khi lấy vợ thì phát đạt. Nữ mệnh làm thay việc đàn ông, vì kiếm tiền mà lao tâm khổ tứ, năng lực vượt trội, là người vợ hiền, hỗ trợ chồng làm nên sự nghiệp thịnh vượng. Người này lấy chồng hiền lành, nhiều tiền tài nhưng tính tình phong lưu. Đặc biệt chú ý, đến tuổi trung niên đề phòng vấn đề ly hôn, đây là thời gian vận quả phụ rất mãnh liệt.

Sự nghiệp trắc trở với lá số tử vi Phá Quân lâm cung Tài Bạch
Phá Quân lâm cung Tài Bạch là lá số của người trắc trở về đường sự nghiệp, tiền bạc, phải nỗ lực nhiều mới có thành công

Người sinh ngày Nhâm Tuất
khiêm cung biết lễ, thận trọng đáng tin. Tuất Thổ là mệnh chủ với Nhâm Thủy bản khí thiên quan, Tuất Thổ là Hỏa khố, Mậu Thổ là căn nguyên. Mà Nhâm Thủy bề ngoài thì tưởng bị Tuất Thổ khắc chế nhưng thực chất muốn nằm im chờ thời, sức bật kinh người. 
  Vì thế mà người này có tham vọng lớn về sự nghiệp, cứng cỏi kiên định, có mục tiêu lý tưởng rõ ràng, không ngại gian lao khổ ải. Hơn nữa, Tuất Thổ giữa Tân Kim đại vận thuộc loại càng áp lực lớn thì ý chí nghị lực càng mạnh.    Ngày Nhâm Tuất có Đinh Hỏa Chính Tài giấu giữa Tuất Thổ nên dễ bị tình cam tác động hoặc làm việc có phần cảm tính. Nam mệnh đề phòng nữ sắc, nữ mệnh đối với chồng trung thành và tận tâm.   Người có bát tự trụ ngày Nhâm Tuất thích hợp kết hôn với người sinh các ngày: Giáp Dần, Giáp Thìn, Giáp Ngọ, Ất Sửu, Ất Mùi, Ất Tỵ, Ất Mão, Bính Dần, Bính Ngọ, Bính Thìn, Bính Tuất, Đinh Sửu, Đinh Tỵ, Đinh Mùi, Đinh Dậu, Mậu Thìn, Mậu Tuất, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Kỷ Mùi, Kỷ Hợi, Canh Tý, Canh Thân, Tân Hợi, Tân Dậu, Nhâm Tý, Nhâm Dần, Quý Mão, Quý Hợi.  
► Bói tử vi khoa học để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

Trần Hồng (Theo Azg168)

Xem Clip Khỉ Phong thủy mừng năm Bính Thân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Nhâm Tuất

Nằm mơ thấy ngôi bia mộ người chết là điềm gì –

Trong đời sống hằng ngày ngôi mộ là nơi an nghỉ của ta ở thế giới cực lạc, nơi truốt bỏ hết mọi thứ về không còn ưa phiền của cuộc sống. Mơ thấy sự chết chóc cảm giác mang lại cho ta nỗi lo, nỗi sợ ẩn chứa nhiều điều tâm linh. Bạn có bao giờ hoang ma
Nằm mơ thấy ngôi bia mộ người chết là điềm gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy ngôi bia mộ người chết là điềm gì –

Sưu tập các bài viết của AlexPhong

Một bài sưu tập các bài viết của anh AlexPhong để tiện theo dõi.
Sưu tập các bài viết của AlexPhong

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một bài viết mình chép lại các kinh nghiệm của anh AlexPhong trên các diễn đàn.

Kình Đà hiệp Kỵ

1. Tử vi dùng vòng địa chi làm tiêu chuẩn đánh giá các sao khác. Trong đó cơ sở nền tảng là địa bàn gồm 12 cung cố định. Tiếp đến là vòng Thái Tuế và tất cả các sao hàng chi đại diện cho địa chi của năm sinh. Tiếp đến là vòng Lộc Tồn và vòng Trường Sinh. Đến đây coi như bức tranh đã vé xong cái nền. Trên cái nền đó, chính là hoàn cảnh của lá số, các tinh đẩu còn lại như 14 chính tinh, lục cát tinh, lục sát tinh và tứ hóa thao diễn thất tình lục dục của cuộc đời.

Vậy giữa địa chi và thiên can thì dùng cái nào để đánh giá cái nào. Nói cách khác dùng cái nào làm nền cho cái nào. Xin thưa đó là dùng địa chi làm nền cho thiên can, như hệ tọa độ cho các điểm thiên can. Hỏi vì sao, thì đó là tiên đề, đó là quy ước khi lựa chọn 12 cung địa bàn.

Cho nên, vòng Thái Tuế là cơ sở đánh giá tất cả các sao còn lại. Tác giả Thiên Lương vô tình khám phá ra điều này. Tại sao không dùng vòng Lộc Tồn thì đơn giản vì Lộc Tồn theo can, an còn không đủ kín 12 cung thì làm sao dùng làm nền.

2. Có nhiều cách phân loại vòng Lộc Tồn, ông Thiên Lương phân loại theo Thái Tuế, Lộc Tồn Tuế Hổ Phù, Lộc Tồn không Tuế Hổ Phù. Cách phân loại này vô tình trùng hợp một phần cách phân loại của sách cổ. Đó là phân loại theo âm dương. Chỉ có hai loại Lộc Tồn: đó là thuận âm dương hay nghịch âm dương. Với vòng Thái Tuế thì đương nhiên Lộc Tồn phải thuận âm dương mới gặp được Thái Tuế.

Lộc Tồn thuận âm dương là Lộc Tồn của những năm Giáp Ất Canh Tân. Khi Lộc Tồn tuổi dương an cung dương, Lộc Tồn tuổi âm an can âm. Chỉ có Lộc Tồn của 4 tuổi này đi kèm Tuế Hổ Phù hoặc Long Phượng Hổ Cái. Cho thấy phép dùng địa chi để đánh giá thiên can, sơ qua cũng có thể thấy Lộc Tồn 4 tuổi này ưu việt hơn 6 tuổi còn lại.

Lộc Tồn nghịch âm dương là Lộc Tồn của những năm Bính Mậu Nhâm Đinh Kỷ Quý. Khi Lộc Tồn tuổi dương an cung âm, và Lộc Tồn tuổi âm an cung dương.

Vì sao dám nói, người xưa phân loại Lộc Tồn theo cách này. Vì có dấu vết. Dấu vết rất rõ nhưng con cháu không mấy kẻ lần ra. Đố là biểu hiện của song Hao. Trục song Hao vuông góc với trục Lộc Tồn Phi Liêm. Nói cách khác, khi Lộc Tồn cực mạnh thì song Hao phải cực tiểu và ngược lại. Cho nên khi Lộc Tồn trái vị âm dương thì song Hao miếu địa.

Khi Lộc Tồn trái vị âm dương ở tý ngọ tị hợi. Thì song Hao miếu địa ở dần thân mão dậu. Qua đó, hiểu ý tiền nhân rằng Lộc Tồn trái vị âm dương là Lộc Tồn hãm địa. Qua đó, hiểu ý tiền nhân dùng lý âm dương để định vị miếu hãm chứ không phải lý ngũ hành. Hỏi sao khi áp ngũ hành vào lý giải lúc trúng lúc trật. Vì ngũ hành là sản phẩm không hoàn hảo của âm dương. Vì không hoàn hảo nên mới chuyển động (hành). Nhưng cũng vì không hoàn hảo nên mới có sai số. Như một ván cờ ban đầu hai bên cân bằng âm dương. Sau vì một bên đi trước tạo chênh lệch âm dương mà tạo thành cục diện tranh đoạt đồ sát về sau.

Tuổi Bính Mậu Nhâm, Lộc Tồn can dương đóng âm vị, dương lạc vị thì âm đắc vị cho nên Đà La miếu địa ở thìn tuất.

Tuổi Đinh Kỷ Quý, Lộc Tồn can âm đóng dương vị, âm lạc vị thì dương đắc vị cho nên Kình Dương miếu địa ở sửu mùi.

3. Xét qua tứ hóa, tứ hóa là sản phẩm diễn hóa của thập can. Nói cách khác chúng là 4 đứa con lưu lạc của Lộc Tồn. Lộc Tồn không cư tứ mộ thì tứ mộ đối với tứ hóa mà nói cũng không hề ủng hộ nhau chút nào. Cho nên khi Hóa Kỵ cư tứ mộ được coi là đắc địa vì bản chất Hóa Kỵ là xấu. Cái xấu không tung hoành được ở mộ địa có nghĩa là tốt. Ta tự hiểu cho các trường hợp Lộc Quyền Khoa đóng ở tứ mộ cũng coi như bị hạn chế tác dụng.

Xét một câu phú liên quan: Kình Đà hiệp Kỵ vi bại cuộc. Tức Kình Đà giáp hai bên cung có Hóa Kỵ thì rất xấu. Ta là người nay, ta hiểu tính đỏng đảnh của người xưa. Những câu phú người xưa để lại lúc ứng lúc không, vì họ chưa nói hết. Tùy điều kiện mà phân ra ứng hay không. Ở đây ta tìm thử xem Kình Đà hiệp Kỵ khi nào xấu khi nào không, thì coi như hiểu câu phú này. Nôm na là Lộc Tồn đồng cung Hóa Kỵ.

Tại những vị trí Lộc Tồn đúng vị âm dương:

Với Lộc tại dần, can Giáp, Nhật kỵ. Ta thấy Cự Nhật miếu vượng.

Với Lộc tại mão, can Ất, Nguyệt kỵ. Ta thấy Nguyệt hãm.

Với Lộc tại thân, can Canh Đồng kỵ. Ta thấy Đồng Lương miếu địa.

Với Lộc tại dậu, can Tân Xương kỵ. Tại dậu Xương hãm địa.

Tại những vị trí Lộc Tồn trái vị âm dương:

Với Lộc tại tỵ, can Bính, Liêm kỵ. Liêm Tham tại tỵ cực hãm. Trường hợp này có Triệt án ngữ.

Với Lộc tại tỵ, can Mậu, Cơ kỵ. Cơ tại tỵ đắc địa.

Với Lộc tại hợi, can Nhâm, Vũ kỵ. Vũ Phá tại hợi cực hãm.

Với Lộc tại tý, can Quý, Tham kỵ. Tham Lang cư tý hãm địa. Trường hợp này có Triệt án ngữ.

Với Lộc tại ngọ, can Đinh, Cự Kỵ. Cự Môn ở ngọ không được coi là miếu, vì cần tuần triệt mới đập đá lộ ngọc. Ngọc mà ở trong đá đương nhiên ngọc hãm địa.

Với Lộc tại ngọ can Kỷ. Văn Khúc hóa Kỵ. Tại ngọ Văn Khúc hãm địa.

Khi Lộc Tồn chính vị âm dương. Lộc Tồn ngộ Kỵ trong những trường hợp chính tinh miếu vượng, không có Triệt Tuần án ngữ. Trong khi Lộc Tồn trái vị âm dương khi Hóa Kỵ xâm nhập, thường những trường hợp đó chính tinh hãm địa. Chỉ có trường hợp của Thiên Cơ nhìn mặt Thái Âm miếu địa ở hợi mà đắc địa.

Cho nên có khả năng Kình Đà hiệp Kỵ là cách chơi chữ của tiền nhân khi nói về các diễn hóa âm dương phía trên. Mà ta chỉ cần hiểu đơn giản nó chỉ xấu khi chính tinh đi cùng hãm địa, hoặc nó chỉ xấu với 6 can Bính Mậu Nhâm Đinh Kỷ Quý khi Lộc Tồn trái vị âm dương. Qua đây, cũng thấy rằng chính tinh hãm địa hóa Kỵ bị coi là xấu không cửa bật. Chính tinh hãm địa hóa Lộc Quyền được khen tốt trong nhiều câu phú, ở đây không nhắc lại nữa. Vậy phải chăng chính tinh miếu vượng cát hóa vẫn tốt hơn chính tinh hãm địa cát hóa?

4. Nhân đây ta xét tương quan Triệt với chính tinh cực hãm:

Xét trục tỵ hợi. Trục tỵ hợi là trục rất khốc liệt. Biểu hiện của nó là Không Kiếp đại ma đầu miếu địa, đương nhiên ta phải ngầm hiểu sự khó chịu của các chính tinh, nhất là những cát chính tinh khi đến đây. Tại đây vua tử vi phải ôm kiếm ra trận. Tại đây trinh nữ Liêm Trinh gặp dê xồm Tham Lang. Tại đây thương gia Vũ Khúc gặp tướng cướp Phá Quân. Tất cả những chính tinh dương như Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Liêm Tham đến đây đều gặp khó. Đám văn nhân Cự Cơ Đồng Lương thì phập phù nhưng đỡ khổ hơn vì tính mềm, đến nơi ma giáo lên ngôi cũng đỡ khổ hơn mấy anh cứng đầu. Đến Thái Dương cũng cực hãm ở hợi và tuy vượng ở tỵ thì gặp cảnh đắc thời nhưng trái vị. Thái Âm đối với trục tị hợi thì đỡ hơn vì dù sao ít nhất cũng đắc vị, còn tùy thời, tại hợi thì lưỡng toàn kỳ mĩ, tại tị thì hãm địa nhưng đắc thời.

Xét Vũ Phá. Vũ Phá ở hợi thì không gặp Triệt. Vũ Phá ở tị gặp Triệt với hai can Bính Tân. Bính Đồng Cơ hóa Lộc Quyền, Bính ngó lơ không cứu Vũ Phá. Tân Cự Nhật hóa Lộc Quyền, Tân cũng ngó lơ không cứu Vũ Phá. Trong trường hợp này Vũ Phá có Lộc Tồn đồng cung hoặc tam hợp. Ta biết cũng chẳng đến đâu, mà còn gieo rắc sự ngờ vực liệu Phá Quân có phá Lộc Tồn. Kỳ thực, chẳng phải vậy mà do nhiều yếu tố cộng hưởng lại.

Xét Liêm Tham ở tỵ. Tuổi Bính Liêm Trinh hóa Kỵ. Ta biết Triệt cũng không cứu Liêm Tham trong trường hợp này. Tuổi Mậu Tham Lang hóa Lộc. Ta biết Triệt có cứu Liêm Tham trong trường hợp này, Liêm Tham có song Lộc.

Xét Liêm Phá cư dậu cực hãm. Tuổi giáp có Triệt. Liêm hóa Lộc Phá hóa Quyền Vũ Hóa Khoa chiếu về. Ta biết Triệt cứu Liêm Phá trong trường hợp này. Nhưng tuổi Kỷ Vũ hóa Lộc Tham hóa Quyền, ta biết Triệt có cứu nhưng kém ưu ái hơn so với trường hợp của Giáp.

Xét Liêm Phá cư mão tuổi Đinh. Nguyệt Đồng hóa Lộc Quyền. Triệt ngó lơ Liêm Phá. Tuổi Nhâm Lương Lộc Tử Vi hóa Quyền, Vũ Khúc hóa Kỵ. Như vậy có Quyền Kỵ chiếu về. Trường hợp này Triệt có cất nhắc Liêm Phá hơn trường hợp tuổi Đinh. Như vậy, Liêm Phá thích Giáp Nhâm hơn Kỷ Đinh. Cũng là cái lý dương tìm dương.

Xét Đồng Cự cực hãm sửu mùi. Tại sửu gặp Triệt của Mậu Quý. Tuổi Mậu Tham hóa Lộc, Nguyệt hóa Quyền tại hợi. Ta biết Triệt của Mậu không cứu. Tuổi Quý Phá hóa Lộc Cự hóa Quyền có Kình Dương đồng cung. Ta biết tuổi quý có cứu. Tuổi Bính Đồng gặp Triệt ở Tuất hóa Lộc. Ta nói Đồng được Triệt cứu trong trường hợp này. Tuổi Mậu có Thái Âm hóa Quyền từ cung thân chiếu về. Có cứu nhưng kém tuổi Bính.

Như vậy, Triệt có lúc cứu có lúc không cứu chính tinh hãm địa. Cho thấy nói Triệt cứu chính tinh hãm địa chẳng phải hoàn toàn.

Bí ẩn nhân quả của vòng Thái Tuế

Bí ẩn nhân quả của vòng Thái Tuế, giữ đã lâu giờ chia sẻ với quý độc giả. Cho thấy cái hiểu về vòng Thái Tuế của những người tưởng là hiểu, xưng danh môn nọ kia kỳ thực mới chỉ là da thịt mà thôi.

Nhân (Thiên Không)-Quả (Quả Tú). Nhân quả bất khả đồng cung.

Có ba loại Phượng Các ở địa bàn, đó là:

1. Mã Phượng

2. Hổ Phượng

3. Long Phượng

Hàm ý mỗi con tung cánh một thời. Cũng hàm ý có 3 kiểu bay: bay như ngựa, bay như rồng, bay như hổ.

Có ba loại Thái Tuế ở địa bàn, đó là:

1. Thái Tuế Hoa Cái: vua ngồi dưới lọng rồi nhận Quả Phúc. Sao Hoa Cái mang nghĩa tu hành đầy ẩn ý.

2. Thái Tuế Khốc Hư: vua thở dài rồi nhận Quả Điếu cay đắng.

3. Thái Tuế Mã Phượng: vua rong chơi rồi nhận Quả Hồng gió bụi nhưng đó là sự thành công ở cõi trần.

Chớ tưởng vua nào cũng như vua nào mà ngộ nhận Thái Tuế là toàn tốt đẹp. Cảnh nhà địa chi không vui vẻ như bề ngoài ngó vào mà thấy.

Có ba loại Thiên Mã ở địa bàn, đó là:

1. Mã Tang Hổ: ngựa chở xác, khi vua khóc và Đào Hồng Hỷ gặp nhau vui say, để rồi nhận được Quả Điếu.

2. Mã Khốc Khách: ngựa vượt khó, hướng tới cái Quả Phúc

3. Mã Phượng Tuế: ngựa bay chở vua, dẫn tới Quả Hồng thành đạt

Cùng là ngựa, thân phận nào giống nhau. Đâu cần dùng ngũ hành phân ra mã cùng đồ mà biết ngựa đi về đâu.

Có ba loại hoa đào ở địa bàn, đó là:

1. Đào Thiên Không: xảo trá, hoa giả để nhận Quả Hồng vinh quang đó nhưng luân hồi gió bụi.

2. Đào Hồng Loan: hương sắc để nhận Quả Điếu cay đắng tóc tang.

3. Đào Tử Phù: chỉ còn xác hoa, chứ hoa đã chết ở cách cục Hồng Kiếp cho tuổi tứ mộ. Quá chán kiếp hồng trần gió bụi nên cắt nát đóa hoa đào. Nhưng nhờ Mã Khốc Khách vượt khó mà nhận Quả Phúc vẹn toàn.

Chớ tưởng hoa đào ở đâu cũng là đào hoa.

Có ba loại Kiếp Sát ở địa bàn, đó là:

1. Hồng Kiếp: kiếp hồng trần, đi cùng Thiên Hỷ nên ở đây Sát không còn là giết mà Sát là sát hạch xem có qua được cửa Tham Sân Si không. Hồng Kiếp luôn đi kèm Thiên Không càng làm rõ cái nhân đầy cắc cớ cho tuổi thìn tuất sửu mùi để cuối cùng nhận Quả Phúc.

2. Cô Kiếp: kiếp cô đơn. Có lúc nhận Quả Hồng có khi nhận Quả Phúc.

3. Tử Phù Kiếp Sát: đi kèm chiêu hồn lệnh Tử Phù của thần Nguyệt Đức âm hàn, Kiếp Sát chính là lưỡi hái tử thần. Nên giành cho Quả Điếu.

Chớ tưởng Kiếp nào cũng là kiếp.

Đào Không thì Hồng Quả mà Hồng Không thì Phúc Quả. Tuổi thìn tuất sửu mùi có cách cục Hồng Không (không dính bụi hồng trần, cái nhân tu hành) và Quả Phúc (nhận quả phúc) cho nên tuổi tứ mộ được khuyên tu hành, và tuổi tứ mộ có ưu thế tu hành hơn so với tuổi khác. Ngàn năm chỉ thấy Hồng Không, đến nay mới thấy có Phúc Quả. Cho nên Đào Không thì Hồng Quả có nghĩa cứ gian dối đi cứ giả lả sắc không đi sẽ thành công đấy nhưng rồi ngập trong bụi trần khó thoát. Hơn nữa, ta thấy chỉ có Cô Thần đi với Thiên Không chứ Quả Tú không bao giờ đi với Thiên Không cho thấy không có Quả Không. Vì nhân quả không thể đồng cung. Khi Hồng Quả thì cùng lúc cách cục có Mã Phượng Tuế, cảnh vua cưỡi ngựa đi chơi đậm chất hồng trần là chuẩn mực của thành công nhân thế. Còn ở cảnh Quả Phúc, phải chăng tiền nhân sâu xa cổ vũ cuộc đời Mã Khốc Khách vượt muôn dặm Kiếp Hồng Không để giành được Quả Phúc?

Người xưa nói Hồng Phúc tề thiên. Tử vi coi đời người có ba loại quả: Quả Hồng giành cho vua thể hiện sự rực rỡ thành đạt ở cõi trần. Quả Phúc giành cho người giác ngộ thể hiện sự giải thoát thanh cao, và Quả Điếu để trừng phạt những kẻ buông lơi bản thân rơi vào cám dỗ.

Thật không sai chạy mảy may.

...

12 cung liên hòan có nhiều cách phân loại. Nếu phân loại theo tam hợp thì có 4 bộ tam hợp, đây là cách phân loại của Thiên Lương. Bài trên là phân loại theo bộ tứ nên có 3 bộ tứ: thìn tuất sửu mùi, dần thân tị hợi và tý ngọ mão dậu. Vì bộ tứ xét theo trục, nên coi đồng trục là một loại. Hoàn cảnh của tuổi thìn và tuất giống nhau, hoàn cảnh của sửu và mùi giống nhau. Hoàn cảnh của trục thìn tuất giống trục sửu mùi.

Cho nên ta thấy sau khi phân loại thì sao nào cũng có 3 loại. Ta rất dễ nhớ 3 hoàn cảnh sau:

1. Tuổi tí ngọ mão dậu. Thái Tuế Khốc Hư, khi đó Đào Hồng Hỷ đồng trục, Mã Tang Hổ, cho Quả Điếu. Diễn xuôi là cảnh vua lo buồn, Đào gặp Hồng nên duyên nghiệp, con ngựa chở tang dẫn đến quả Điếu u ám. Dễ nhớ đây là tuổi tứ chính, Thái Tuế và Khốc Hư sẽ đồng trục.

2. Tuổi thìn tuất sửu mùi. Thái Tuế Hoa Cái, Kiếp Sát Hồng Không, Mã Khốc Khách, Quả Phúc Đức. Cảnh đức vua ngồi thiền (Đức Phật ngồi tòa sen), con ngựa vượt khó đưa chủ nhân vượt qua kiếp hồng trần đến với quả phúc. Dễ nhớ đây là tuổi tứ mộ. Thái Tuế Hoa Cái sẽ đồng cung.

3. Tuổi dần thân tị hợi. Thái Tuế Mã Phượng, Đào Không, Quả Hồng. Đức vua cưỡi ngựa che lọng, trong cảnh sắc không đời thường mà đạt thành công to lớn Quả Hồng. Dễ nhớ vì đây là tuổi tứ mã, Thái Tuế và Thiên Mã sẽ đồng trục.

Đến đây bạn dễ nhớ 12 tuổi chung quy chỉ có 3 cảnh trên, tất cả các sao đi vào hệ thống củng cố cho một ý nghĩa mạch lạc. Bạn không còn mơ hồ đi gom từng sao lẻ. Bạn cảm nhận được, cầm nắm được Thái Tuế. Biết "đức vua" của bạn đang trong hoạt cảnh nào. Vậy có thú vị không?

Mới nghe thì thấy có bộ tứ đẹp có bộ không. Kỳ thực là tùy thời mà cái gì lên ngôi ở hoàn cảnh đó. Như tuổi tứ mộ, ta biết cảnh tu hành đầy hứa hẹn nhưng phải hiểu Thái Tuế tứ mộ xét theo triết lý đời thực với hoàng đế là biểu tượng của thành đạt thì thế tứ mộ này là thế kém rồi. Xét theo chuẩn của hoàng đế thì thế Tuế Mã Phượng mới là mặt trời chính ngọ của vị thiên tử đang đương thời hoạt động. Thái Tuế tứ mộ là đức Thái Thượng Hoàng đã qua thời và đi nghỉ ngơi giống Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Cho nên Thái Tuế Hoa Cái chính là cảnh vua ngồi thiền hay hình ảnh Đức Phật tọa trên tòa sen. Theo quan điểm đời là kém, nhưng theo quan điểm đạo là cực phẩm. Tương tự như thế, tuổi tứ chính hay còn gọi là tứ bại, tứ đào hoa. Ta thấy nếu xét từ vị trí ông vua thì đó không phải thời chính trị pháp luật thịnh thế như Mã Phượng Tuế của tuổi tứ mã, cũng không phải thời tâm linh lên ngôi như Thái Tuế Hoa Cái của tứ mộ, mà là thời của Đào Hồng duyên nghiệp thủ diễn. Nôm na có thể hiểu là thời mà cảnh dở khóc dở cười diễn ra nhiều nhất. Nếu nói thời Mã Phượng Tuế chính trị làm chủ, xã hội trật tự theo pháp luật. Nếu nói thời Thái Tuế Hoa Cái, tâm linh làm chủ. Thì thời Đào Hồng Hỷ cảm xúc con người làm chủ, mang đậm chất hỷ nộ ái ố của kiếp người. Đây là thời văn học nghệ thuật phát triển nhưng cũng là thời nhiều loạn lạc nhất của xã hội.

Hiểu theo khách quan thì 3 bộ tứ cân bằng nhau, mỗi bộ thủ diễn một vai trò không thể thiếu của tự nhiên. Bộ tứ mã chính là hình ảnh của Thiên khi thiên tử trị vì. Bộ tứ mộ chính là hình ảnh của Địa khi tâm linh trị vì. Bộ tứ bại chính là hình ảnh của Nhân khi cảm xúc hỉ nộ ái ố của con người trị vì.

...

Đến đây quý độc giả dễ dàng vận dụng ý nghĩa cốt lõi của 3 bộ tứ, bất kỳ người có trí nhớ tệ thế nào cũng nhớ được:

1. Tuổi tứ mã, thời tứ mã dần thân tị hợi là khi chính thống chuẩn mực lên ngôi. Thời này cứ vững tin theo chính đạo mà bước theo chắc chắn sẽ thu được thành công. Hình ảnh lúc trung niên, hình ảnh lúc Lâm Quan. Cho nên Thất Sát miếu địa ở dần thân thỏa sức thi hành chính đạo.

2. Tuổi tứ mộ, thời tứ mộ thìn tuất sửu mùi là lúc ngưng nghỉ, khi tinh hoa hội tụ để chuẩn bị thoát thai sang giai đoạn mới. Thời này là buổi đêm mà người xưa khuyên con người nên ngồi kiểm điểm lại bản thân trong ngày để tiến bộ vào ngày hôm sau. Hình ảnh lúc già. Cho nên Tham Lang miếu địa ở thìn tuất lặng im tích lũy.

3. Tuổi tứ bại, thời tứ bại tý ngọ mão dậu là lúc hoạt động sôi nổi, khi trải nghiệm là cần thiết để đúc rút được kinh nghiệm về sau. Thời này giống thời hoạt động sôi nổi của thanh niên, yêu đương nhiều người, đi chơi nhiều chỗ, va nhiều nên có vui có buồn mà dần trưởng thành. Thời này không thể theo lề lối cứng nhắc hay thụ động chờ đợi mà phải thử và sai, thử và sai nhiều lần mới tiến bộ. Hình ảnh lúc trẻ. Cho nên Phá Quân miếu địa ở tý ngọ nhiệt tình khai phá.

Bây giờ mới biết 3 anh em Sát Phá Tham thì Tham Lang già nhất, Thất Sát mới đang trung niên, còn Phá Quân nghịch ngợm trẻ nhất.

Lộc Tồn

Như bài trước ta đã phân ra hai loại Lộc Tồn: Lộc Tồn thuận lý âm dương và Lộc Tồn nghịch lý âm dương. Bài này ta xét sâu hơn về các dạng Lộc Tồn trên và các hệ quả của nó.

Lộc Tồn tuổi giáp tại dần, Đà La tại sửu, Kình Dương tại mão. Khi đó Khôi Việt tại sửu mùi cứu cánh cho hai vị trí Kình Đà. Tại sửu Đà La hội đủ Khôi Việt. Đà La đắc sửu.

Lộc Tồn tuổi ất tại mão, Đà La tại dần, Kình Dương tại thìn. Khi đó Khôi Việt tại Tý và Thân cứu cánh cho hai vị trí Kình Đà. Tại thìn Kình Dương hội đủ Khôi Việt. Kình Dương đắc thìn.

Lộc Tồn tuổi Canh tại thân, Đà La tại mùi, Kình Dương tại dậu. Khi đó Khôi Việt tại sửu mùi cứu cánh cho vị trí Kình Đà. Tại mùi Đà La hội đủ Khôi Việt. Đà La đắc tại mùi.

Lộc Tồn tuổi Tân tại dậu, Đà La tại thân, Kình Dương tại tuất. Khi đó Khôi Việt dần ngọ cứu cánh cho Kình Đà. Tại tuất Kình Dương hội đủ Khôi Việt. Kình Dương đắc tại tuất.

Như vậy, với 4 tuổi Giáp Ất Canh Tân, Kình Đà đều có Khôi Việt cứu giải và tại vị trí đắc địa thì Kình hoặc Đà luôn hội đủ Khôi Việt. Cho thấy, tử vi quan điểm Lộc Tồn thuận lý âm dương thì Kình Đà là vị trí cần cứu giải chứ không phải Lộc Tồn.

Sang đến 6 tuổi còn lại khi Lộc Tồn trái lý âm dương. Đa số các vị trí của Lộc Tồn có Khôi Việt hội chiếu. Như tuổi Mậu Lộc Tồn tị có Thiên Khôi sửu chiếu. Tuổi Bính Lộc Tồn tị có Khôi Việt từ hợi dậu chiếu lên. Tuổi Kỷ Lộc Tồn ngọ có Thiên Khôi ở tý chiếu. Tuổi Nhâm Lộc Tồn hợi có Khôi Việt ở mão tị chiếu về. Như vậy, tử vi quan niệm Lộc Tồn trái lý âm dương là Lộc Tồn yếu cần có Khôi Việt hội chiếu hỗ trợ. Trong khi Kình Đà của 4 tuổi Bính Mậu Nhâm Kỷ không cần có Khôi Việt hỗ trợ.

Riêng hai tuổi Đinh và Quý, tuy Lộc Tồn trái lý âm dương nhưng không được Khôi Việt hội chiếu, mà các vị trí Kình Đà của hai tuổi này được Khôi Việt cứu giải. Điều đó đồng nghĩa với công nhận Lộc Tồn của Đinh Quý là Lộc Tồn không yếu kém. Có thể đây là sai số của tử vi khi cố tình thêm Khôi Việt để cứu giải Kình Đà. Nhưng khả năng đây là sai số bị loại trừ vì ta biết với tuổi Canh thì Khôi Việt trong các môn khác vốn an ở dần ngọ nhưng bị điều chỉnh sang sửu mùi ở tử vi. Mục đích của việc điều chỉnh đương nhiên là để lá số cân bằng hơn. Nói cách khác, vị trí sửu mùi là vị trí cần hỗ trợ của tuổi Canh. Ta biết ở đó có Kình Đà. Vậy thì, nếu Đinh Quý là sai số của Khôi Việt thì tại sao không điều chỉnh như tuổi Canh. Cho nên có khả năng Khôi Việt của Đinh Quý mở ra một tác dụng đặc biệt nữa của Khôi Việt ngoài mục đích hóa giải Kình Đà.

Ta biết Lộc Tồn là cát tinh, như bài trước đã phân tích thì Lộc Tồn bao hàm toàn bộ tứ hóa. Thế nhưng, áp hai bên Lộc Tồn là Kình Đà mang ý nghĩa xấu, thì Lộc Tồn có thể nói chính là bao hàm của cát hóa Khoa Quyền Lộc. Và Kình Đà là hình ảnh của Hóa Kỵ. Khôi Việt xuất hiện để giải cứu các vị trí có Kình Đà. Vậy còn Hóa Kỵ thì Khôi Việt có cứu giải không.

Bắt đầu từ tuổi Đinh, Khôi Việt ở hợi dậu có thể cứu giải cho trường hợp Đồng Cự Kỵ ở sửu mùi trong tình thế Đồng Cự cực hãm. Nếu thay đổi vị trí của Khôi Việt cứu giải Lộc Tồn ở ngọ, thì Khôi Việt không thể cứu giải cho Đồng Cự.

Tuổi Quý, Khôi Việt ở mão tị có thể cứu giải lý tưởng cho Liêm Phá Kỵ và Vũ Phá Kỵ ở tị hợi và mão dậu. Như vậy, nếu nói chính tinh cực hãm hóa Kỵ là không xấu thì không đúng, vì không xấu thì tại sao Khôi Việt phải cứu giải. Mà phải nói là cực xấu như hoàn cảnh một người đã vừa nghèo đói lại còn mắc bệnh nan y. Nhưng nhờ có Khôi Việt quý nhân đến mà ta có thể nói chính tinh cực hãm hóa Kỵ thì cùng tắc biến thành tốt đẹp. Tốt đẹp ở đây do Khôi Việt mang lại, còn cùng cực thì do Hóa Kỵ gây nên.

Đến đây, ta biết được tác dụng đặc biệt của Khôi Việt được an để lập lại cân bằng cho lá số, cụ thể là cứu giải cho Kình Đà và Hóa Kỵ.

Kiểm tra khả năng cứu giải Hóa Kỵ của Khôi Việt cho 8 tuổi còn lại thì thấy:

Tuổi Giáp Nhật Nguyệt Kỵ sửu mùi có Khôi Việt thủ và chiếu.

Tuổi Ất Nguyệt hãm dần thìn ngọ hóa Kỵ có Khôi Việt tý thân chiếu. Ba vị trí hãm này của Nguyệt là cực hãm vì sai cả thời lẫn vị.

Tuổi Bính Liêm Phá hãm mão dậu và Liêm Tham hãm tị hợi có Khôi Việt thủ chiếu hóa giải. Nếu cực đoan, ta có thể kết luận một thủ bằng hai chiếu.

Tuổi Mậu có Thiên Cơ hóa Kỵ. Do đặc điểm Thiên Cơ hãm địa tại dần và hợi đều do ảnh hưởng của Thái Âm hãm địa ở dần và tị mà ra. Nhưng tuổi Mậu Thái Âm luôn hóa Quyền, đi cùng Thiên Cơ thành cách Quyền Kỵ không tồi. Cho nên Khôi Việt sửu mùi được thiết kế để cứu Thiên Cơ đơn thủ ở hợi mà lờ đi Cơ Nguyệt đồng cung ở dần. Có thể nói không phải không có lý.

Tuổi Kỷ Văn Khúc hóa Kỵ. Văn Khúc cực hãm ở dần ngọ, có Khôi Việt ở tý thân chiếu hội cứu giải.

Tuổi Canh Thiên Đồng hóa Kỵ. Tại sửu Đồng Cự cực hãm, nên có Khôi Việt sửu mùi cứu giải.

Tuổi Tân có Văn Xương hóa Kỵ. Xương cực hãm ở dần ngọ, được Khôi Việt đóng tại dần ngọ cứu giải.

Tuổi Nhâm có Vũ Phá cực hãm hóa Kỵ ở tỵ hợi, có Khôi Việt ở mão tỵ cứu giải.

Như vậy 100% các trường hợp chính tinh cực hãm hóa Kỵ được Khôi Việt cứu giải. Trong khi có 80% Kình Đà hoặc Lộc Tồn được Khôi Việt cứu giải. Có thể nói Khôi Việt được thiết kế để giải cứu chính tinh cực hãm hóa Kỵ là tiên quyết, đồng thời cứu cả Kình Đà nhưng là thứ yếu so với Hóa Kỵ.

Nhưng không đơn giản chỉ có vậy. Từ tinh bàn, ta có thể thu được nhiều hệ quả khác. Như có ý kiến cho rằng Kình Đà miếu tứ mộ. Có ý kiến lại cho rằng Đà La miếu tứ sinh. Nay thì ta biết, đó là do Khôi Việt. Khi có Khôi Việt đó là Kình Đà miếu, nhất là trường hợp đồng cung hoặc hội đủ Khôi Việt, mạnh nhất là tọa Khôi hướng Việt hoặc ngược lại tọa Việt hướng Khôi. Còn nếu nói Kình Đà miếu tứ mộ, rồi Đà La miếu tứ sinh thì lúc trúng lúc trật. Đó không phải bản chất.

Hệ quả tiếp theo là Nhật Nguyệt hóa Kỵ sửu mùi. Các sách đều cho rằng Nhật Nguyệt tranh tối tranh sáng. Cần Hóa Kỵ hoặc Triệt để tách ra. Kỳ thực đó không phải bản chất. Bản chất là Khôi Việt. Do đó khi Nhật Nguyệt sửu mùi Hóa Kỵ mà không có Khôi Việt thì ta biết trường hợp đó chẳng thể phản cách. Triệt ngọ mùi chỉ có ở tuổi Ất Canh. Tuổi Canh thì Khôi Việt đóng tại sửu mùi, tuổi Ất thì Khôi Việt tại tí thân không ứng cứu. Nếu so sánh giữa hai tuổi thì tuổi Ất có Khôi Việt và Quyền Kỵ Lộc Tồn thủ chiếu. Tuổi Canh có Khôi Việt Lộc Khoa tại bản cung. Bù lại tuổi Ất tránh được Đà Kình, còn Canh dính phải Kình Đà. Cân nhau chằn chặn.

Hệ quả tiếp theo là tương truyền Hóa Kỵ đắc địa tứ mộ. Có thể suy nghĩ rằng tứ mộ không chứa Lộc Tồn, Khôi Việt cũng không an La Võng. Vậy thì tứ mộ bất lợi cho toàn bộ tứ hóa, riêng Hóa Kỵ có nghĩa xấu cho nên khi bị kìm hãm tại tứ mộ mà thành bớt xấu chăng. Nhưng đến đây, ta có thể chắc chắn hơn với trường hợp Hóa Kỵ tứ mộ có Khôi Việt thủ chiếu, khi đó chắc chắn rất tốt đẹp cho Hóa Kỵ. Cũng chắc chắn hơn với Kình Đà tứ mộ có Khôi Việt thủ chiếu.

Hệ quả tiếp theo là giả thuyết Kình Đà hiệp Kỵ chỉ là bại cục khi không có Khôi Việt. Ở các bài trước khi chưa xét Khôi Việt, ta ngờ bại cục là do chính tinh cực hãm hóa Kỵ. Nhưng ở bài này ta thấy cả hai trường hợp chính tinh cực hãm đó. Vũ Phá hợi tuổi Nhâm, và Liêm Tham tị tuổi Bính đều có Khôi Việt hội chiếu cứu giải. Nếu đã chấp nhận rằng Khôi Việt đặt ra để giải Hóa Kỵ, thì ta công nhận rằng Kình Đà hiệp Kỵ là nói tất cả các trường hợp còn lại không có Khôi Việt hội chiếu.

Hệ quả nữa, là có thể nhận định Kình Đà mà gặp Hóa Kỵ mới đích thị là Kình Đà sát thủ (tất nhiên không có Khôi Việt cứu giải). Về sau ta còn biết thêm chỉ khi Hình Diêu gặp Hóa Kỵ thành cách Hình Kỵ hoặc Diêu Kỵ thì khi đó Hình Diêu mới là Hình Diêu xấu. Quan điểm này trùng với quan điểm của tứ hóa phái khi cho rằng lục sát tinh gặp Hóa Kỵ mới tác họa, còn không thì vẫn chỉ tiềm tàng dưới dạng rủi ro.

Cũng có thể có ý kiến cực đoan hơn cho rằng, Khôi Việt là quý nhân chỉ cứu những cảnh cùng cực chứ không cứu cảnh bình thường. Nói cách khác, Khôi Việt chỉ cứu Hóa Kỵ do chính tinh cực hãm hóa thành, gọi là mạt lộ gặp quý nhân mà phản vi kỳ cách. Chứ Khôi Việt không cứu giải tất cả Hóa Kỵ.

Nhưng dù sao từ nay quý độc giả dùng Khôi Việt, Kình Đà, Hóa Kỵ trong luận giải sẽ tự tin hơn nhiều cảnh mơ mơ hồ hồ trước đây.

Sự ngoại lệ của can Đinh và can Quý tại sao Lộc Tồn trái vị âm dương mà không kém, thì ta biết về sau Quan Phúc sẽ bù trừ cho. Nhưng đó là chuyện dài, vì sau khi đặt Khôi Việt vào lá số, do Khôi Việt đi cứu giải hết thế xấu của Kình Đà Kỵ, tiền nhân đã phải đặt Hỏa Linh để chuyên khắc chế Khôi Việt. Rồi sau khi lỡ tay thả Hỏa Linh vào rồi thì phải đặt ra Quan Phúc để kiềm chế bớt Hỏa Linh. Cứ thế cứ thế cho đến khi sai số nhỏ xuống mức chấp nhận được.

...

Giờ ta biết Khôi Việt có thể trị được Hóa Kỵ. Ta phân tích lại tượng sau khi đã có cơ sở lập tượng. Bắt gặp câu phú:

Việc người xích mích khá không

Tử Vi Khôi Việt ba ông phải tìm

Việc xích mích ở đây ám chỉ Hóa Kỵ. Khôi Việt thì đã rõ có thể trị Khôi Việt nhưng không rõ vì sao có Tử Vi vì câu phú khác nói "Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí công khanh". Rõ ràng Tử Vi không thích Hóa Kỵ chút nào. Mà chẳng cần câu phú đó, chỉ cần ta biết Tử Vi ưa Lộc Tồn thì đương nhiên không thích Kình Đà Kỵ.

Đi tìm Tử Vi Hóa Kỵ ta thấy Tử Vi chỉ gặp Hóa Kỵ khi Vũ Khúc Hóa Kỵ hoặc Tham Lang Hóa Kỵ, vì đơn giản trong các sao có thể đồng cung hoặc hội chiếu với Tử Vi thì chỉ có hai sao đó có thể Hóa Kỵ. Mà hai sao đó Hóa Kỵ chỉ ở tuổi Nhâm Quý. Khôi Việt của Nhâm Quý đều an ở tị và mão.

Tuổi Nhâm Vũ Khúc Hóa Kỵ nhưng đồng thời Tử Vi Hóa Quyền, khi đó là cách Quyền Kỵ bớt xấu, thậm chí tốt.

Tuổi Quý Tham Lang Hóa Kỵ nhưng luôn có Khôi Việt soi rọi hai cung mão dậu. Trường hợp Tử Tham đối cung ở tý ngọ, thì bạn biết câu phú Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí công khanh rồi. Vì sao tuổi Quý có Lộc Tồn cư tý chiếu Tử Vi ngọ mà sách không kể. Đó là vì Tham Lang hóa Kỵ đồng cung chiếu lên.

Cho nên "Tử Vi Khôi Việt ba ông phải tìm" có nghĩa là khi Tử Vi gặp Kỵ thì cần có Khôi Việt hóa giải, đồng thời khẳng định ý nghĩa Khôi Việt giải Kỵ.

Nhưng nghĩ cho kỹ Khôi Việt sinh ra để giải Kỵ phải chăng Khôi Việt hợp Kỵ. Nói thế tuy không đúng nhưng cũng không sai, vì nếu không gặp thì làm sao hóa giải. Như Quan Phúc sinh ra để hóa giải Hỏa Linh nếu không gặp Hỏa Linh thì ai trị Hỏa Linh, và Quan Phúc khi đó làm gì. Nếu dụng tượng có thể biết tuy hai ông thầy tu quan phúc bắt bọn ma tà Hỏa Linh nhưng Hỏa Linh cũng là đèn nhang để thầy tu Quan Phúc có thể tu hành.

Hóa Kỵ là cãi vã xích mích. Khôi Việt có tượng là trưởng là đầu. Có thể giải quyết cãi vã thì phải chăng Khôi Việt là tượng trưởng bối đứng ra dàn xếp lũ con nít tranh giành, hay Khôi Việt là công lý có thể giải nỗi oan Hóa Kỵ. Sau này khi bạn biết Quang Quý không ưa gì Hóa Kỵ bạn sẽ hiểu vì sao Khôi Việt phải đi cùng Quang Quý để giải Không Kiếp. Đơn giản vì Quang Quý có thể đặc trị Không Kiếp nhưng phòng ngừa Hóa Kỵ xâm nhập phá tan uy tín của Quang Quý, thì Khôi Việt phải chắp tay đứng đó sẵn sàng quét sạch bụi thị phi cho Quang Quý rảnh tay mà cải hóa Không Kiếp.

Quang Quý Hóa Kỵ là cảnh tai tiếng khi làm ơn. Ý nghĩa rất phong phú còn tùy các cách cục đi kèm. Như làm ơn mắc oán, hay lợi dụng tiền từ thiện để tiêu xài cho riêng mình đều là cảnh này. Ân Quang ban ân vì ân mà nên oán. Thiên Quý được người quý, quý quá mà lại thành thù.

Quay lại cảnh Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ. Ta có thể hiểu là Thiên Hình và Hóa Kỵ. Nhưng cũng có thể đó là Kình Dương và Đà La vì hóa khí của Kình là Hình mà của Đà là Kỵ. Khi đó hiểu đơn giản là Tử Vi ưa thích Lộc Tồn chứ không thích gặp Kình Đà. Nhưng tại sao phải sợ Hóa Kỵ của tuổi Quý mà không dám nhận Lộc Tồn từ tý chiếu về. Hàm ý sâu xa ở đây là do chính Hóa Kỵ là chất xúc tác để Kình hóa hình và Đà hóa kỵ. Có Hóa Kỵ Kình mới thể hiện tính hình, có Hóa Kỵ Đà mới thể hiện tính kỵ. Ngược lại, có Khôi Việt thì Kình Đà sẽ không hóa hình kỵ nữa.

Hóa khí chẳng qua là cách nói ẩn dụ của tính chất tiềm tàng. Nó có đấy nhưng chưa gặp xúc tác sẽ chưa bộc lộ. Điều này góp phần làm nên sự huyền ảo của tử vi. Phần nào nói lên tính động của dịch lý.

Khôi Việt tượng là đầu. Là đầu nên làm chủ được cái lưỡi Hóa Kỵ mà giải Kỵ. Là đầu nên sợ sét Hỏa Linh đánh, vì sét đánh trúng đầu không ai nói sét đánh trúng cái mông Thai Tọa. Ông tăng Quan Phúc ngồi thiền Thai Tọa trong đèn nhang Hỏa Linh mà thành được việc. Nhưng để sét đánh thì Hỏa Linh Khôi Việt chưa đủ, khi đó bạn mới chỉ mắc bệnh nhức đầu nhức óc. Để thành cách sét đánh phải có Thiên Hình là hình phạt là hành hạ thì mới rõ nghĩa trời phạt. Cho nên sét đánh phải là "Hỏa Linh Hình Việt".

Sau này bạn sẽ biết vì sao phải có Hình mới gây thương tổn đánh đập trừng phạt trực tiếp, phải có Diêu mới mang ý nghĩa lừa đảo dụ dỗ trực tiếp. Không có Hình thì Hỏa Linh Khôi Việt mới là nhức đầu. Không có Diêu thì Kỵ Đà Khôi Việt là ẩn sĩ, thêm văn tinh thì kẻ ẩn sỹ có tài, có tài nhưng vô dụng nên ẩn sĩ. Nhưng họ không lừa ai vì không có Thiên Diêu.

Dù là một sao, nhưng xúc tác cho ý nghĩa quyết định. Đến đây bạn hiểu phép dụng tượng.

...

Có 12 cung. Cho dù nhiều thần sát đến đâu cũng chỉ có 12 cung. Hết chỗ đứng thì phải dẫm lên chân nhau mà đứng. Mà đứng cùng nhau rồi thì bị đối xử không khác gì nhau cả. Cho nên tối đa số thần sát có ý nghĩa chỉ là 12 hoặc 4 hoặc 3 là đủ.

Long Trì Quan Phù đồng cung, Thiên Không Thiếu Dương đồng cung, Tuế Phá Thiên Hư đồng cung là những ví dụ điển hình. Vì cùng là sao chi năm cho nên dù an ra cả vạn thần sát thì cũng chi biểu hiện cho chi năm từ các góc nhìn. Cho nên càng nhiều thì càng rối.

Trở lại bản đồ các sao an theo can năm. Thấy rằng dù an bao nhiêu sao thì cũng chỉ biểu hiện can năm trên 12 cung. Hiện nay đã có các sao:

12 sao vòng Bác Sỹ

2 sao Đường Phù Quốc Ấn

3 sao Lộc Kình Đà

2 sao Khôi Việt

2 cung gặp Triệt

2 sao Quan Phúc

1 sao Lưu Hà

1 sao Lưu Niên Văn Tinh

1 sao Thiên Trù

Tổng cộng đã là 26 sao cho 12 vị trí. Nghĩa là mỗi vị trí trung bình có 2,2 sao. Mỗi cung bị lặp lại hai lần. Số sao dùng để mô tả cung bị thừa đến hơn 2 lần. Điều này nói lên sự rối rắm của tư duy phương Đông. Ví dụ cung sửu của tuổi Giáp hội tụ tất cả Khôi Việt Đà Quan Phúc Lưu Hà Lưu Niên Văn Tinh, tốt xấu lẫn lộn, chỉ biết luận là tốt.

Cho nên cần thiết phải thanh lọc, chỉ để lại những đại diện có ý nghĩa duy nhất không thể thay thế thì khi luận giải mới không bị loạn.

Với vòng Thái Tuế, ta chia được thành 3 loại. Vậy với 10 thiên can có thể làm vậy không.

Con số 12=3X2X2 cho nên có thể phân thành 2 loại, 3 loại, 4 loại, hoặc 6 loại. Nhưng con số 10=2X5 chỉ có thể phân thành 2 loại hoặc 5 loại.

Phân chia thành 5 loại ví dụ:

Giáp Canh có tương quan Khôi Việt và Lộc Tồn giống hệt nhau chỉ khác vị trí, có thể gom cùng 1 loại.

Ất Tân một loại

Mậu Kỷ một loại

Bính Nhâm một loại

Đinh Quý một loại

Nếu phân tiếp thành 2 loại thì:

Giáp Canh Ất Tân Đinh Quý một loại, loại Kình Đà gặp Khôi Việt

Mậu Kỷ Canh Nhâm một loại, loại Lộc Tồn gặp Khôi Việt

Một loại này bao hàm 3 sao Lộc Kình Đà, 12 sao vòng Bác Sỹ, 2 sao Khôi Việt. Như vậy là gom được 17 sao.

Triệt có cách phân bố không phụ thuộc các sao trên. Cho nên nhất thiết phải xét Triệt không thể ngó lơ.

Phép hội sao

Xét vòng Thái Tuế bạn thấy Tuế Phá luôn xung chiếu Thái Tuế, khi bạn ở Thái Tuế thì chẳng đời nào bạn chịu coi mình có Tuế Phá chiếu về. Khi bạn ở Tuế Phá chẳng thể nào bạn phủ nhận Tuế Phá mà vơ Thái Tuế. Như vậy rõ ràng hai vị trí này là khác nhau. Và rõ ràng là bạn không thể lấy sao chính xung về làm sao của mình được. Nếu coi xung như thủ thì chẳng ai phân ra Lộc Tồn chiếu Phi Liêm, chẳng ai phân ra Phục Binh chiếu Thiên Tướng, Bệnh chiếu Trường Sinh.

Nhưng tại sao trước giờ tam hợp phái lại ôm tất cả các sao xung chiếu cũng như tam chiếu về xét một mớ. Rõ ràng có gì đó không ổn, vì cách xét đó ít ra là sai với ba vòng Thái Tuế, Bác Sỹ và Trường Sinh.

Bây giờ xét tam hợp. Ba vị trí Sinh Vượng Mộ tam hợp với nhau. Nhưng Mộ là mộ, không thể coi là Trường Sinh, Sinh là sinh không thể coi là Đế Vượng. Như vậy Sinh Vượng Mộ cho bạn biết không thể nào xét tam hợp hổ lốn cá mè. Mà chính xác nhất phải xét sao thủ tại cung đó.

Đến đây bạn thừa nhận ít ra với 3 vòng cơ bản Thái Tuế Bác Sỹ Trường Sinh, không thể xét tam hợp cũng như xung chiếu làm sao của mình. Nếu cố tình làm vậy lập tức bị sai lạc.

Xét đến vòng chính tinh bạn thấy tương tự. Không thể nào ngồi ở cung Vũ Khúc bạn kéo Tử Vi tam chiếu về làm như là của mình, vì Tử Vũ Liêm vĩnh viễn tam hợp. Sát Phá Tham cũng vậy. Nói cách cục là để bạn hiểu tình thế của tinh bàn. Nhưng vô tình người xưa mập mờ làm bạn hiểu lầm phép tam chiếu và chính chiếu.

Đến đây lại có hai hướng:

1. Nếu mở rộng suy luận trên cho tất cả các sao, thì bạn chỉ có thể xem sao thủ cung để luận mà bỏ qua xung chiếu và tam hợp. Phép này cũng có lý cho cách xem hạn của nam phái. Đó là đến từng hạn, thì bạn phải gom từng cung lại và bức tranh dần hiện ra.

2. Phép hội sao trên chỉ có ý nghĩa với các vòng sao kín như Thái Tuế Bác Sỹ Trường Sinh, còn các sao đơn như Long Phượng Mã Đào Hồng Cái Tả Hữu đều có thể xung chiếu và tam chiếu, vì những sao đó không có các sao khác vĩnh viễn xung chiếu nó hoặc tam hợp nó. Ở đó là vị trí trống nên có thể chịu ảnh hưởng bởi xung chiếu và tam chiếu. Lập luận này cũng có lý, và từ đây bạn mở ra phép hội sao, biết sao nào chiếu được sao nào không.

Đến đây, bạn biết trong phép xem hạn của tam hợp phái hay nam phái, chỉ có một mình cung hạn được tính. Xem đại vận bạn có một cung, xem xuống tiểu vận bạn có 2 cung, xem đến tháng bạn có 3 cung. Cứ thể tổ hợp lại ra cách cục gì bạn chịu cách cục đó.

Nói về cuốn Tử Vi Đẩu Số Tân Biên của tác giả Thái Thứ Lang

Trong Tử Vi Đẩu Số Tân Biên của Thái Thứ Lang các câu phú được cho vào phần PHỤ GIẢI nằm dưới phần ĐẠI CƯƠNG, có nghĩa là khi áp dụng có mâu thuẫn thì điều chỉnh theo phần đại cương ở trên.

...

Nói chung ông TTL đặt nặng đắc hãm và xét việc theo thứ tự trên dưới chứ không lung tung. Ngôn từ dùng khá chặt chẽ và máy móc, chứ không chém bừa.

Ví dụ:

Phá Miếu gặp cát tinh miếu, Kình Đà Không Kiếp đắc thì thôi, khen lên mây luôn.

Phá hãm gặp Kình Đà Không Kiếp đắc vẫn được phê là: cũng được hưởng giàu sang nhưng hay mắc tai họa.

Chỉ có Phá hãm lại gặp sát tinh hãm thì thôi, đổ mực vào cách cục: nào là cùng khốn, nào là lang thang, nào là nan y, nào là xiềng xích, nào là yểu tử, nào là thê thảm, bla bla bla...

Tóm lại nguyên tắc xét là:

- Chính tinh MVĐ hay hãm

- Sau đó mới đến sát tinh đắc hay hãm

Trường hợp xấu nhất luôn là Chính tinh hãm+Sát tinh hãm, lại không hợp cách nữa thì thôi, mang chuyện địa ngục lên để luận.

Còn chính tinh miếu+cát tinh đắc+sát tinh đắc hợp cách= thiên đường là đây, tiền lắm râu dài trường thọ, bla bla bla...

Ngoài ra, còn một đặc điểm với chính tinh là phân chia thành bộ, rồi bộ này có hợp bộ kia không.

TVĐSTB - trang 317

Phương pháp luận đoán vận hạn:

A. Quan sát

1.Gốc đại hạn 10 năm

2.Lưu đại hạn một năm (để cấp độ xét vẫn trên tiểu hạn)

3. Lưu niên tiểu hạn một năm

a. Sự tương sinh tương khắc giữa: (lúc nào cũng cân nhắc ngũ hành trước)

b. Chính diệu nhập hạn và chính diệu thủ mệnh thuộc cùng nhóm hay khác nhóm.

c. Sự tốt xấu của các sao hội hợp nhập hạn.

Đặc điểm của sách này là thích phân cấp độ, thứ tự ưu tiên rõ ràng. Xét cái gì trước, cái gì sau, cái gì to, cái gì bé, cái gì chính, cái gì phụ. Cho nên đề mục chi chít như lá mít. Việt Nam còn 2 tác giả cũng rất thích cụ thể hóa vấn đề là Thiên Lương (chuẩn hóa vòng Thái Tuế), Việt Viêm Tử (chia 8/2, 7/3 cho tuần triệt). Trung Hoa có Phan Tử Ngư và Liễu Vô Cư Sỹ cũng rất thích sợi tóc chẻ tư, viết cái gì là rõ ràng rành mạch không thích cảm tính chung chung.

Có lẽ, đây là tính hệ thống của cuốn sách. Gặp lá số nào cũng mang barem ra chém như chấm thi từ mục 1 đến 100, trong 1 lại chém từ a đến z.

Có lẽ trước khi đi tu, tác giả là quân nhân.

Đậu phụ, chém.

Cà rốt, chém.

Bắp cải, chém.

Rau sống, chém.

Chém,

Chém,

Chém hết.

Như bản The Mass:

Chém hết cho anh,

Chém hết cho anh,

Mang vào đây, mang vào đây chém, mang vào đây chém cho anh...

Chém, chém, chém, chém hết cho anh...

...

1. Trang 58 TVĐSTB, mục Hóa Lộc, TTL có thòng một câu: "Gặp Lộc Tồn đồng cung: gây ra những sự chẳng lành."

Trang 150, câu 7, 8, 9 đều ca ngợi cách bày đặt của Lộc Tồn và Hóa Lộc không đồng cung mà phải chính chiếu mới tốt đẹp.

Trang 164 câu 4, 5 ca ngợi thêm trường hợp một Lộc thủ một Lộc tam chiếu cũng OK.

Trang 165 câu 7 tác giả vẫn hết sức dè dặt không cho song Lộc đồng cung, dàn xếp rất rõ ràng: một thủ một chiếu.

Thì, tóm lại ý của ông ta vẫn ca ngợi chiếu hội thì đẹp, còn đồng cung thì "chẳng lành". Câu phú Lữ Hậu có lẽ ghép sự "chẳng lành" là "độc đoán" và "chuyên quyền" chứ không có các ngôn từ của địa ngục như "bại liệt" "tan xác" "hỏng người"...

Nếu coi hai lời phán "độc đoán" và "chuyên quyền" là xấu thì toàn bộ hệ thống trên nhất quán. Nhưng bôi thêm "xấu" là phanh thây, bay đầu, ngồi phải bàn chông, tông nhầm lựu đạn thì không có.

2. Theo tinh thần chính xác từng câu từ của tác giả, thì trang 166 câu 16: Khoa mệnh Quyền triều, đăng chung giáp đệ, có giải thích rõ ràng là Khoa thủ mệnh và Quyền chiếu chứ không phải đồng cung cũng không phải tam hợp, vì sao có đặc điểm này?

Tiếp theo, trang 162 mục tứ hóa, duy nhất có Hóa Quyền bị cảnh báo là "nếu gặp Tuần Triệt án ngữ" thì công danh trắc trở thành ít bại nhiều, trong khi 3 hóa còn lại không có lưu ý tuần triệt.

Trang 58 khi giới thiệu về tứ hóa, riêng Hóa Quyền có một đặc điểm:

"Gặp nhiều sao tốt đẹp: làm cho tốt đẹp hơn

Gặp nhiều sao xấu xa: làm cho xấu xa thêm".

còn 3 hóa còn lại không có đặc điểm này.

Truy tiếp Tuần Triệt thay đổi tính chất của các sao như Tử Phủ Nhật Nguyệt Tướng Tướng Hình Thai Ấn Mã Khôi Việt, rồi các sao Tả Hữu, Phục Binh, Quan Phù, Phi Liêm, Lực Sỹ, Lâm Quan có tính chất trợ tốt trợ xấu như Hóa Quyền thì thêm được:

- Hóa Quyền có tính thay đổi cường độ, các hóa khác không có.

- Các sao chủ quyền lực rất kỵ Tuần Triệt.

- Tuần Triệt có tính chất thay đổi cường độ--->phù hợp với tính chất đảo ngược đắc hãm của chính tinh mà TTL dùng rất nhiều trong sách.

Thì, đó người ta gọi là thực học.

...

Phần xem vận TTL có nói khi các sao lưu gặp các sao cố định thì mới tác dụng. Quan điểm này trùng với cách xem của Big boy Vương Đình Chi. Như vậy không phải lúc nào cách cục này cũng được kích hoạt.

...

Tử Vi Đẩu Số Trung Châu Vận Đoán-Vương Đình Chi, trang 319-320:

2. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC KHI SUY ĐOÁN ĐẠI HẠN, LƯU NIÊN, LƯU NGUYỆT, LƯU NHẬT. Phàm đối với các sao mà có "lưu tinh" thì lấy lưu tinh làm chủ. Mệnh bàn vốn có các sao, không xung thì không khởi tác dụng.

...

Ứng kỳ và độ bền của mệnh:

Nhân-->Địa--->Thiên;

vận--->thân--->mệnh;

xinh gái--->đằm thắm--->nhân hậu;

đẹp trai--->tài cao------->dũng cảm;

bằng giỏi--->kiến thức rỗng--->giả dối;

có học--->thiếu tư duy--->trí thức rởm;

giao tiếp vụng--->hảo ý--->chân tình;

Nói chung, cái gì cũng sẽ bộc lộ dần theo thời gian, vị cay xộc lên trong nháy mắt vị đắng ngấm xuống tận trăm năm. Tinh đẩu biểu hiện trong nháy mắt, bản chất của đại vận sẽ biểu hiện trong cả 10 năm. Cái đơn giản lại tổng quát, cái chi tiết lại nhất thời.

...

Tinh đẩu biểu hiện trong nháy mắt, bản chất của đại vận sẽ biểu hiện trong cả 10 năm. Cái đơn giản lại tổng quát, cái chi tiết lại nhất thời.

Có nghĩa là:

Những đại vận thấy tinh đẩu sáng sủa hội tụ, nôm na là đẹp nhưng thành tựu so với vận khác lại tầm thường thì:

1. Xem lại khái niệm "đẹp" của đại vận.

2. Phải có một yếu tố A nào đó ẩn tàng có tác dụng điều chỉnh bề nổi là "đẹp". Phải chăng A là ngũ hành âm dương, phải chăng A là thiên can mệnh cung, hay tứ hóa thiên nguyên thì tùy phái.

Tương tự khi gặp một vận tinh đẩu xấu hội tụ mà thực tế cái xấu không đáng kể, thậm chí hi hữu còn đại phát thì cũng như trên sẽ tìm được yếu tố A.

Nếu chấp nhận có tam tài tức ba cấp độ mạnh yếu rộng lớn khác nhau là Thiên Địa Nhân thì phải chăng phối hợp tinh đẩu chỉ cho biết yếu tố nhân. Quan điểm phân cấp này đối lập với quan điểm hài hòa tất cả ngũ hành của ông Sở Hoàng trong bộ Hỷ Kị. Đây cũng chính là bế tắc trong phần luận ngũ hành của tác giả Nguyễn Phát Lộc khi ông không phân biệt được thứ tự quan trọng của các tương tác.

Nói cách khác, các tính trạng bộc lộ ra bên ngoài chịu chi phối của trình tự DNA bên trong và không biểu hiện hoàn toàn trình tự của DNA.

Thôi, viết vậy, lười quá, ai quan tâm tự tìm nhé.

...

Còn về mệnh cung thiên can. Ví dụ: Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí bô-xít.

Thì, Giáp Đinh Kỷ không hẳn do hóa khí khi phối GĐK vào. Mà có ý kiến cho rằng. Dần ẩn tàng Giáp, Ngọ ẩn tàng Đinh Kỷ nên Tử Vi cư ngọ lấy thiên can của dần ngọ biểu hiện bằng Lộc Tồn.

Rồi Tử vi nam hợi nữ dần cung, Nhâm Giáp sinh nhân phú quý đồng. Do lấy Nhâm can từ hợi và Giáp can từ dần.

Trang 99 TVĐSTB: câu 3. Thái Dương cư ngọ Canh Tân Đinh Kỷ thì Canh Tân lấy do hóa khi, còn Đinh Kỷ lấy do Lộc Tồn.

Điều này dẫn đến điểm rất quan trọng về cách chia đại vận thành nhiều mảnh và có vài ông giấu diếm dùng trên forum trước đây.

Ví dụ:

Sửu, tháng 12 Sau Tiết Tiểu Hàn, Quý chiếm 9 ngày, Tân chiếm 3 ngày, Kỷ

chiếm 18 ngày.

Tức là, đại vận sửu 10 năm: 3 năm đầu đứng chữ Quý, 1 năm sau đứng chữ Tân, 6 năm cuối đứng chữ Kỷ.

Đây cũng là tuyệt kỹ mà tử vi chợ cóc trong mơ cũng không có, các tử vi siêu thị nghiệm thử xem.

...

Và cũng nói luôn, là không bao giờ chứng minh hay hiểu vì sao 1 3 5 đặt ở ngọ dần thìn từ cách an sao tử vi hiện nay. Muốn truy gốc phải tìm từ các văn bản cổ hơn tử vi.

Triệt đóng nhâm quý cũng vậy, nó chỉ là biểu hiện chứ bản chất vì sao nó vậy mà không có tài liệu khác thì giải thích thế quái nào được. Vì trong phép an sao tử vi làm gì có các tiền đề đứng trước nó mà giải thích. Trong tử vi, nó được đặt cái huỵch như tiền đề, muốn giải thích nó bằng chính nó có mà ăn chinsu.

Sơ đẳng về phương pháp luận như vậy các ông còn không nắm được thì còn tìm tòi nghiên cứu cái gì.

Trước một vấn đề, phải biết mình cần gì đã.

Nhận xét về cuốn Tử Vi Đại Toàn của tác giả Thái Đình Nguyên

Đầu tiên là ngưỡng mộ tình yêu đối với tử vi của tác giả. Thiếu TY này mọi thứ chỉ là loại rác không thể tái chế.

Về phương pháp tử vi từ kỷ Jura cho đến thời tên lửa hành trình, đi đâu loanh quanh cũng chỉ vài phương pháp:

- Vòng tròn: dung hòa tất cả, pp này có ông Sở Hoàng với Hỉ kị đại đột phá, có tác giả VDTT với Hoàn Toàn Khoa Học, có Liễu Vô Cư Sỹ với "phải có cả cát tinh và sát tinh mới coi là tốt". Mỗi phái này đưa ra các tiêu chuẩn để lấy điểm trung hòa.

- Điểm mốc: điển hình cho phương pháp luận này là phái ngũ hành, bất kể thế nào cứ sinh là tốt khắc là xấu, đôi khi có phản cách nhưng không nhiều. Triết lý của phái này là: người hàng xóm chết nhưng hai cha con bán quan tài lại mừng thầm. Không có tốt xấu, chỉ có tốt với ai, và xấu với ai. Hôm nay có người thăng quan thì cũng có người vào tù, vấn đề là khí nào trong ngũ khí nắm lệnh. Khí Alex nắm lệnh thì tất cả đàn em của Alex ngồi từ cấp Thứ trở lên, khí Alex thất lệnh thì: alo, alo, anh, anh khỏe không, 5 năm em mới gọi được cho anh, bận quá trời anh ơi...Điển hình có cụ BaLa lấy ngũ hành nạp âm của năm sinh làm chuẩn phán định tất cả phần còn lại của lá số.

- Cung bậc: chia làm các tầng khác nhau để xét như barem thi đại học, Thiên-Địa-Nhân, Sinh-Vượng-Mộ chẳng hạn. Phương pháp này xét theo thứ tự ưu tiên, to nhỏ, nặng nhẹ khác nhau. Cách xem hạn trong Tử Vi Giảng Minh thể hiện phương pháp chia tầng này. Phương pháp này lợi hại ở chỗ xem được cuống và lá, cân phân nặng nhẹ, suy xét thực hư.

Về tĩnh-động thì VN mình theo tĩnh, còn Đài Cảng theo động. Vì theo tĩnh, nên phải ôm 108 sao, trong một vận lại phải dùng các pp phân định sao nào ảnh hưởng nhiều sao nào ảnh hưởng ít. Sản phẩm trôi nổi thị trường là phương pháp sao treo sao rung sao bay. Nhiều người lên đây bán hàng nhái, nhưng tôi khẳng định là: không có đâu. Vì ngay chiều hôm nay, một chân truyền của sao treo rung bay đã ngồi đây cà fe chém gió với tôi.

Quyển TVĐT thay vì chọn cách đứng cao lên-nhìn rộng ra-tổng quát hóa thì lại đi sâu vào lá số, sách viết rất chi tiết phần tính lý tinh đẩu và các cách cục, dùng ngũ hành làm tôn chỉ đoán mệnh. Và nhu cầu thiết yếu là phải dùng các cách Sinh-Tuyệt-Mộ rồi Tuần Triệt theo các tuần hoa giáp để phân định ảnh hưởng nặng nhẹ của sao từ các cung xung chiếu, và tác dụng lên mệnh bàn nói chung.

Nói chính xác thì pp sinh tuyệt mộ này không sai, trước đây có bác Hổ Về Rừng dùng rồi, nhưng tùy hệ phái mà có nên dùng hay không. Chứ không phải thấy mọi người dùng mình cũng ôm vào. Đã khác mạch thì muốn ôm cũng không nổi. Dù sao, cách luận như luận Tử Phá cư sửu của tác giả khá đặc sắc. Quyển này vẫn không thoát khỏi bóng dáng đè nặng của các tiền bối tử vi Việt trước đây để khai sáng một cách nhìn mới, một cách nhìn nào đó thực sự mới và hợp lý, nhưng bạn nào tôn thờ ngũ hành chắc chắn sẽ rất thích quyển này.

Mệnh cục tương khắc, âm dương nghịch lý

Xưa nay mệnh cục tương sinh, và thế âm dương thuận lý được coi là tốt. Nay ta cân phân xem có đúng vậy không.

Thứ nhất, âm dương thuận lý ta biết 6 cường cung sẽ nhận các sao như Tuế Hổ Phù Long Phượng, còn âm dương nghịch lý 6 cường cung sẽ nhận thế Thiên Không Kiếp Sát Thiếu Âm.

Nay xét mệnh cục, có 3 loại tương tác:

- Mệnh cục tỉ hòa

- Mệnh cục tương sinh

- Mệnh cục tương khắc

Nếu mệnh cục tỉ hòa coi như mệnh cục cùng sinh cùng diệt, khi cục trường sinh thì mệnh cũng trường sinh và khi cục tuyệt mệnh cũng tuyệt.

Mệnh cục tương sinh có hai trường hợp, mệnh sinh cục và cục sinh mệnh. Mệnh sinh cục thì mệnh có thể hỗ trợ cục. Ví dụ: mệnh kim cục thủy, khi cục thủy tuyệt khí tại tị thì mệnh kim trường sinh tại tị, tạo thành thế tuyệt xứ phùng sinh. Và ngược lại cho trường hợp cục sinh mệnh.

Mệnh cục tương khắc cũng có hai trường hợp, mệnh khắc cục và cục khắc mệnh. Đã khắc thì hàm ý là không giúp đỡ và hàm ý là không thuần nhất. Ví dụ mệnh kim khắc cục mộc. Mộc khí tuyệt tại thân nhưng tại đó kim vượng.

Trên cách nhìn tổng quát lá số thì khi mệnh cục tương khắc, tại một cung vị bất kì nếu hành khí này vượng thì hành khí kia suy và ngược lại.

Bây giờ xét xem sinh hay khắc là tốt hay xấu. Ta biết cách cục VCD Nhật Nguyệt thích Không Vong và ưa Mộc Suy Tuyệt. Nếu mệnh cục tương khắc, thì khi cục khí mộc suy tuyệt chắc chắn mệnh khí sẽ vượng. Tức nôm na ta hiểu sự mộc suy tuyệt ở đây không hòan toàn.

Đến đây có hai ngã rẽ để hiểu:

1. Cục mộc suy tuyệt rồi thì mệnh cần sinh vượng mộ bù lại cho cục mới là tốt

2. Cục mộc suy tuyệt rồi thì mệnh không nên sinh vượng mộ mới là thuần nhất, nếu không sẽ thành cảnh trống đánh xuôi mà kèn thổi ngược.

Khi mệnh cục đồng hành, hay tương sinh thì sự đồng nhất của mệnh và cục cao hơn so với trường hợp mệnh cục tương khắc.

Đối với cách cục VCD Không Vong Nhật Nguyệt, ta biết cách này ưa Thiên Không cho nên phải là âm dương nghịch lý. Chứng tỏ âm dương thuận nghịch lý còn tùy cách cục mới biết được xấu tốt, không cứ thuận lý là tốt mà nghịch lý là xấu. Nếu thuận lý sẽ phù hợp với cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Tham khi đó Tuế Hổ Phù Long Phượng Hổ Cái sẽ tề tựu. Còn với VCD không vong Nhật Nguyệt lại cần Thiên Không Đào Hồng hơn Tuế Hổ Phù. Cách này còn ưa Mộc Suy Tuyệt hơn Sinh Vượng Mộ. Nhưng khi đó cần mệnh khí sinh vượng hay tử tuyệt?

Tứ mộ khởi biến hóa

Theo quy luật ngũ hành áp trên địa bàn. Tứ mộ là nơi ngừng nghỉ của năm hành. Không cần biết phương pháp gì, cách biện nào thì tứ mộ vẫn là nơi ngưng nghỉ của một hành nào đó, trước khi nó Tuyệt và trước khi hành khác sinh ra. Cho nên vận tứ mộ là vận thay đổi. Thay đổi có hai chiều hướng là từ tốt sang xấu và từ xấu sang tốt. Cho dù người mới học không rõ thay đổi đó là chiều hướng nào thì có thể nắm chắc một điều: tại vận tứ mộ phải có sự thay đổi. Ai đang đắp chăn ấm hãy lo ngại, ai đang co ro dưới gầm cầu hãy hi vọng. Đến tứ mộ đất trời cũng phải đổi thay chứ không nói con người.

Việt Nam đã có nhiều lần thay triều đổi đại vào năm Tuất. Kể cả không thay chiều đổi đại thì những năm thìn tuất cũng có sự kiện đáng kể. Gần đây những năm thìn tuất là sự chống tiêu cực trong giáo dục. Người đương thời Đỗ Việt Khoa anh cứ nhằm năm thìn tuất là tỏa sáng. Sau đó thì không thấy nhắc đến anh nữa. Năm sửu của Việt Nam thường là năm thất bại của các bang hội. Nhiều cuộc khởi nghĩa bị dập tắt năm sửu.

Tiểu vận của nam giới trong tử vi luôn đi thuận. Cho nên những năm La Hầu Kế Đô Thái Bạch của nam giới là những năm tiểu vận rơi vào tứ mộ. Với dân gian mà nói phải ra chùa làm lễ giải hạn. Với nhà tử vi mà nói đó là những năm rơi vào tứ mộ. Không hẳn xấu nhưng phải có thay đổi. Nắm được vấn đề cơ bản này, sẽ giúp ích rất nhiêu cho người mới học xem số, kể cả những người xem lâu năm có tiêu chí để đối chiếu tránh được mông lung. Vì đời người nhiều lắm có hai lần trải qua đại vận tứ mộ.

...

Tất nhiên phải kể đến ảnh hưởng của tinh đẩu, nếu không thì an tinh đẩu làm gì. Nhưng tử vi là bài toán mô tả không gian 3 chiều và 1 chiều thời gian. Muốn xác định được một điểm trong không gian phải dùng ba trục tọa độ x, y, z. Ba trục này đôi một độc lập nhưng không thể thay thế cho nhau. Nếu hỏi như trên là hiểu một trục có thể thay thế cho cả ba. Tất nhiên, không có chuyện đó. Nhưng nếu tìm được một thước đo có thể đánh giá rõ ràng vấn đề, phép đo đơn giản thì thước đo đó có giá trị.

Chân lý là con đường đơn giản nhất trong những con đường tương đương. Điều này đúng với cả chân người.

Về Tứ Hóa Phi Tinh

Xem Nghịch Thủy Kỵ là rõ nhất hàm ý của tứ hóa. Cung A đối xung cung B. Cung A phi hóa Kỵ tới cung B, nhưng cung B vốn sẵn có Hóa Kỵ năm sinh thì gọi là nghịch thủy Kỵ. Hàm ý Hóa Kỵ A muốn trao cho B bị B từ chối vì B đã có Hóa Kỵ rồi. Và Hóa Kỵ do A trao lại chảy ngược lại A thành vòng tuần hoàn vĩnh cửu.

Nghịch thủy Kỵ mang nghĩa tốt cho quan hệ A và B, cụ thể tốt cho A, ý tứ là dòng chảy giữa A và B cứ thế mãi mãi luân chuyển không ngừng nghỉ.

Tuy nhiên, có trường hợp đường dẫn bị thủng và nước rò ra ngoài. Đó là khi cung B tự hóa. Khi cung B tự hóa thì Hóa Kỵ của A trao sang B sẽ được B nhận và tiêu đi mất, thành ra không còn Nghịch Thủy Kỵ nữa. Cho nên xấu.

Phép xem tứ hóa cần lưu ý có hai loại hóa khác nhau. Nếu xem tứ hóa theo kiểu gom sao tam hợp sẽ thành cảnh hóa bay đầy trời.

Loại thứ 1: Tứ hóa do năm sinh gây ra, hoặc tứ hóa do lưu niên gây ra. Đây là tứ hóa ngoại nhập. Nó như cây cỏ gỗ đá của thiên nhiên bày ra, con người có thể tùy đó sử dụng.

Loại thứ 2: Tứ hóa do can cung gây ra. Loại này là tâm ý các cung, nó muốn gì, muốn phi hóa đi đâu, và nó nhận phi hóa từ đâu, tự hóa thế nào đều chính là tứ hóa loại 2 này.

Ta tưởng tượng Chúa Trời đưa quả táo cho con người, thì quả táo này là tứ hóa loại 1. Con người đối với quả táo này có 4 cách xử lý, thì cách cách xử lý này là tứ hóa loại 2 do can cung thủ diễn. Có thể ăn, có thể ném, có thể đem trồng.

Cho nên mới thấy Chúa Trời đưa quả táo, thì chỉ thấy thùy tượng. Phải biết quả táo đó được dùng thế nào thì mới xem được số. Nhưng đừng nhầm hai loại tứ hóa kẻo lại bắt gà lúc 6 giờ chiều.

.........

Người học tứ hóa nên nắm chắc hàm ý của phi hóa trước. Tự hóa là trường hợp riêng của phi hóa tại chỗ. Phi hóa là xu hướng tiềm năng, là con đường giao thông giữa các cung. Muốn có những chiếc xe tải chạy trên đường cần có hóa khí [năm sinh] hoặc hóa khí [lưu niên] xâm nhập.

Tôi nghĩ 90% người tử vi ở Việt nam hiện nay không hiểu ý nghĩa và cách dùng phi hóa.

Ví dụ mệnh nhận Hóa Lộc [năm sinh] nhưng từ đó lại phi Lộc sang tài bạch thì luận sao, phi Kỵ sang điền trạch thì luận sao. Họ đều ngáo ngơ cả.

Phi hóa trong tử vi chính là ý hướng của can chi trong tử bình. Can đó chi đó muốn gì, muốn hướng tác dụng sang đâu, blah bloh.

.........

Tổng hợp

Tứ sát:

Sát Phá Tham của vòng chính tinh

Mộc Suy Tuyệt của vòng Trường Sinh

Kình Đà của can năm sinh

Không Đào Sát của chi năm sinh

Đến đây ta đã có thể xem tử vi theo hệ thống.

Với yếu lĩnh lượng đổi chất đổi, khi có 1 thì gọi là mầm mống, khi có 2 là thành hiện tượng, khi có 3 thì cực điểm, nhưng khi có 4 yếu tố hội tụ thì lại phản vi kỳ, không trở thành có, mà sát lại đảo thành cát.

Tứ sinh:

Tử Vũ Liêm của vòng chính tinh

Tuế Hổ Phù của vòng thái tuế

Lộc Tướng Ấn của vòng lộc tồn bác sỹ

Sinh Vượng Mộ của vòng trường sinh

Tứ sinh được mô tả trong thế chân mệnh thiên tử của topic này. Tứ sinh cộng hưởng với nhau thì hoàn mỹ.

Việc xem số xoay quay Tứ Không, Tứ Sát và Tứ Sinh. Dựa vào hệ thống này thì giờ đây chúng ta có thể xem tử vi một cách toàn diện, không thiếu sót. Và hiểu được cái gì là chính cái gì là phụ. Sau khi đã xác định được khung số, việc xét đoán các tiểu tiết sẽ có định hướng và bớt mông lung hơn, tất nhiên sẽ tự tin và kết quả sẽ chính xác hơn. Xin chúc mừng cộng đồng biết được điều này.

Mệnh Tài Quan trong cách hiểu tổng quát thì cũng là một loại "sao". Loại sao này có thể tổ hợp với bất cứ bộ sao nào phía trên để ra chi tiết cuộc đời. Tức là bạn có 5 yếu tố để xét số rồi đấy. Trước giờ bạn nghĩ cứ phải nhìn từ mệnh tài quan nhìn đi. Giờ bạn đã biết có thể nhìn từ bất cứ cung nào cũng là lá số của mình, và mệnh tài quan cũng chỉ là một tam hợp.

Khi 5 yếu tố cộng hưởng: Mệnh tài quan có Tử Vũ Liêm+Tuế Hổ Phù+Lộc Tướng Ấn+Sinh Vượng Mộ.

Nếu Mệnh Tài Quan là tượng của Sinh Vượng Mộ thì Điền Tật Bào chính là tượng của Mộc Suy Tuyệt. Giả sử Điền Tật Bào của bạn hội tụ 4 yếu tố tứ sinh thì bạn có tứ sinh+ 1 Tuyệt tất nhiên sẽ không tốt bằng ngũ sinh khi Mệnh Tài Quan + 4 sinh rồi.

Và khi đại vận đi đến cung Tật, bạn cũng ngầm hiểu giống như mình từ vị trí Sinh Vượng Mộ đến vị trí Mộc Suy Tuyệt ắt không thể tốt đẹp. Đó là lý thống nhất về quy luật của tất cả các tam hợp.

....

Cũng chẳng có gì phải giữ làm của riêng. Vì có đưa ra cũng chưa chắc đã lãnh hội được.

Có những điều các tiền bối nói trước đây tôi rất coi thường, ví dụ như Nhật/Nguyệt thủ mệnh thì khắc đoạt phụ tinh/mẫu tinh nên cha mẹ mất sớm.

Sau này thực tế thấy nhiều lá số có Thái Dương hoặc Thái Âm thủ mệnh đều: hoặc sau khi cha/mẹ mất thì phát tài phát quyền, hoặc phát tài phát quyền xong trong thời gian ngắn cỡ vài tháng thì cha/mẹ mất. Cách đây không lâu khi cha tôi đưa lá số đối thủ chính trị của ông có Thái Dương thủ mệnh, sau khi lên chức vài tháng cha bại liệt rồi qua đời trong trạng thái thực vật. Tôi mới ngỡ ngàng đốn ngộ, buột miệng bảo: lá số này quả nhiên có Thái Dương thủ mệnh. Ngẫm lại mới thấy ngày xưa quá non nớt, chuyện đời thật rộng lớn mênh mông như biển Thái Bình.

Đó mới chính là phần tâm linh thú vị khó lý giải của tử vi, chứ không phải như mấy thằng ngu có vài thuật toán cơ bản không luận được lại đổ tại cho huyền bí.

Cho nên có lẽ các chiêu thức kinh khiếp nhất đều lộ lộ trong sách rồi, chỉ trách ta quá thông minh mà u mê thôi.

Ta vẫn lang thang buổi chợ chiều

Đường dài bóng đổ dáng liêu xiêu

Từ ngày hôm đó ai đi mất

Ta vẫn đi ngang buổi chợ chiều.

....

Vòng Thái Tuế không chịu tương tác với Không Vong nhưng vòng Trường Sinh thì đặc biệt chịu sự tác động mạnh mẽ của Không Vong. Nói vậy để bạn biết con gà không thể cộng với con vịt mà phải chọn đúng gà.

Vị trí Tuyệt rất hợp với Triệt, thậm chí có người coi nó là Triệt thứ hai.

Vị trí Mộ rất hợp với Tuần, cả hai cùng chủ tích lũy thu hút gom góp.

Cho nên bạn biết Trường Sinh không ưa Triệt Tuần chút nào, trừ khi phải đào dòng chảy với kỹ thuật âu thuyền nâng con tàu qua kênh đào Panama kỳ diệu.

Nói về sát tinh, có Địa Không và Linh Tinh hợp với cách cục VCD Nhật Nguyệt, còn Kình Đà thì phá hoại cách cục này. Mệnh thân đắc cách VCD Nhật Nguyệt rất kỵ hành vận Sát Phá Tham do tính âm dương đối chọi nhau điên đảo. Còn mệnh Sát Phá Tham gặp vận Nhật Nguyệt bạn có thể hỏi vua Quang Trung.

Câu đầu tiên khi nghĩ về cách cục Nhật Nguyệt là bạn phải nhớ tới thông minh. Cách cục Nhật Nguyệt đại diện cho trí thông minh, uyên bác trên bất cứ lá số nào. Cách cục Sát Phá Tham cho biết khả năng hành động. Cách cục Tử Phủ Vũ Tướng cho biết khả năng tổ chức quản lý. Sát Phá Tham thì thiên dương, Nhật Nguyệt thiên âm, còn Tử Phủ Vũ Tướng dung hòa ở giữa.

Cho nên nghĩ tới Nhật Nguyệt là nghĩ tới thông minh và trường thọ. Còn lại tùy bạn gia giảm khi cách chưa hoàn thiện hoặc bị phá.

...

Không Kiếp là lưỡi kiếm sắc bén. Khôi Việt là cái chuôi, Quang Quý là cái vỏ. Xuất chiêu mạnh yếu xem cục khí, ai cầm kiếm xem chính tinh.

Lưỡi kiếm mà không có chuôi và vỏ thì không dùng được. Cố dùng đứt tay.

Hỏa Tinh là ngọn lửa, Thai Tọa là chân đế. Quan Phúc là nắp chụp. Cục khí là dầu hỏa. Thành ngọn đèn Huê Kỳ sáng rực. Với Linh Tinh tương tự thành ngọn lửa hàn xì.

Không có chân đế và nắp chụp ngọn lửa không dùng được.

....

Đầu tiên nói về thể dụng. Thể dụng là nội hàm bất biến của quẻ. Nó phụ thuộc vào vị trí hào động là ở đâu. Ví dụ Thiên Phong Cấu thì mãi mãi là kim khắc mộc. Cho nên thể dụng cho biết cái Thế của quẻ. Thế đứng, thế chủ động hay thế bị động, thế chính danh hay thế danh bất chính đều do thể dụng mà ra. Ví dụ thể là kim khắc dụng mộc thì mình được thế chủ động. Mình là vua còn dụng là bề tôi. Nhưng ngoài thế còn có lực. Vào mùa xuân, kim tuyệt không khắc nổi mộc vượng. Vào thời Hiến Đế vua không bảo được Tào Tháo. Vào thời Chúa Trịnh thì vua Lê chỉ là cái bóng. Cho nên nhìn vào mùa gieo quẻ thì bạn biết lực lượng của hai phe thể dụng. Bạn biết có khắc nổi không, có sinh nổi không. Nó cho biết thực hư của mối quan hệ thể dụng. Bề ngoài Hiến Đế và Tào Tháo là vua tôi. Bên trong thì Tháo nắm quyền.

Yếu tố thứ ba là tên quẻ. Tên quẻ cho biết tính chất của thời đó. Địa Thiên Thái và Thiên Địa Bĩ đều là Thổ sinh Kim. Nhưng một thời thái một thời bĩ. Ý nghĩa quẻ có mối liên hệ chặt chẽ với tương quan nội quái ngoại quái. Bạn kiểm nghiệm sẽ hiểu sự kì diệu này. Vì dụ Bĩ là nội sinh ngoại không tốt. Thái là ngoại sinh nội nên tốt. Thiên Trạch Lý lễ dã lộ hành. Nội ngoại đều là kim nhưng ngoại quái Càn là quái mạnh. Nội quái Đoài yếu đuối thụ động hơn, phải chịu sự uốn nắn và chuẩn mực của càn, cho nên nghĩa quẻ là theo lề lối khuôn phép mà đi. Lý nghĩa đen là cái giày. Giày có khuôn thước. Sau khi dựa vào những cơ bản trên và thực hành. Bạn sẽ nắm vững cách xem.

....

Phát hiện quan trọng: tiểu vận có tác dụng lên tên cung hơn là thái tuế. Ví dụ tiểu vận đóng cung quan lộc thì năm đó công việc có biến chuyển. Thái tuế đóng đó thì chưa hẳn nha.

Thái tuế có tác động mạnh lên chính tinh cung nó đóng hơn là tên cung. Ví dụ cung điền có Thái Dương. Thái tuế đóng đó thì ảnh hưởng của Thái Dương lập tức phát huy. Chuyện điền trạch thì chưa chắc.

Lưu niên đại vận cho kết quả chung cuộc cả năm. Thành bại phải xem LNDV.

Nếu lười có thể nháng qua LNDV là có thể dự đoán kết cục. Ví dụ một năm mà Không Kiếp hãm rồi tóe loe hao bại xung quanh. Cho dù tiểu vận và thái tuế đẹp cũng không đến đâu. Kiểu được cấp trên hứa thật nhiều rồi thất hứa thật nhiều. Nhưng đừng dùng LNDV đoán tên cung. Nó có đóng vào phụ mẫu. Sự việc chưa chắc liên quan phụ mẫu.

Nhiều người xem tử vi lâu năm cũng không phân biệt được 3 loại vận này nên đành dự đoán cảm tính, sự mơ hồ thế nào không nói cũng biết

Chúc bạn thành công

....

Chính tinh là tâm thái, phụ tinh cho mô tả chính xác. Ví dụ: "cái áo" cụt lủn chỉ cho biết là cái áo, nhưng áo bộ đội, hay áo khoác, hay áo rét, hay áo gió, hay bra, thì tùy thuộc vào phụ tinh. Thoáng qua bề ngòai tướng người thì do chính tinh làm chủ. Cụ thể con người đó thế nào thì do phụ tinh chi tiết thêm.

Phân cách phải nắm chắc tầng bậc, thứ tự mới không thể nhầm lẫn. Vũ trụ có trật tự của nó, thời gian có thứ tự trước sau. Chỉ cần thay đổi thứ tự, ý nghĩa thậm chí bị đảo ngược.

...

Đó là thuận lý tự nhiên. Tử vi và đời có những cách thuận lý cũng có những cách nghịch lý. Thuận lý thì bền và được quần chúng ủng hộ. Nghịch lý thì cũng có thể thành công, nhưng phải trả giá bằng tai tiếng hoặc tù tội hoặc mạng sống. Ví dụ đi ăn cướp sẽ có tiền nhanh nhưng hậu quả là bỏ mạng hoặc đi tù. Tiếc là bây giờ nhiều người đi theo con đường bất chấp này.

Biểu hiện thành hình của sự nghịch lý tự nhiên là các vị trí sát tinh. Cứu cánh của nó là miếu đắc địa, tức vị trí cân bằng âm dương của sát tinh. Khi sát tinh miếu địa, thành công vang dội và bất ngờ nhưng bạo phát bạo tàn. Bạo tàn vì căn lõi của nó là sự nghịch lý rồi, nên không thể bền.

Tổng hợp từ Facebook

- Mệnh khắc xuất là sướng trước khổ sau hay khổ trước sướng sau?

- Khổ trước sướng sau.

- Vì sao có thể biết như vậy?

- Vì bốn mùa xuân hạ thu đông có trật tự rõ ràng.

...

Âm dương đã nghịch lý thì mệnh cục trái tính âm dương. Trái tính âm dương rồi thì sinh hay khắc đều không có tác dụng mạnh. Cho nên:

- Âm dương là tiên quyết, ngũ hành là hậu quyết.

Xét mệnh cục tương khắc phải trong không gian âm dương thuận nghịch lý.

Học mãi mới hiểu vì sao đời kêu oai oái mệnh cục tương sinh hay tương khắc đều chẳng khác gì nhau.

...

Trong tử vi thì dương mặc định cho tốt. Âm cho xấu. Ví dụ Tử Vi cung dương bao giờ cũng tốt hơn cung âm. Dương là thuần nhất rõ ràng. Âm là tạp loạn mập mờ. Ví dụ các chính tinh đồng cung dương là các sao cùng tính chất gặp nhau. Các chính tinh đồng cung âm là chính tinh khác tính chất gặp nhau.

Nếu tháng giờ cùng tính âm dương, mệnh thân đóng cung dương.

Nếu cung mệnh và năm cùng tính âm dương, đó là âm dương thuận lý, xác suất gặp sao tốt rất cao.

Nếu cung mệnh và tháng cùng tính âm dương, không gặp Hình Riêu.

Nếu cung mệnh và giờ cùng tính âm dương, không gặp Không Kiếp.

Cục dương với ngày dương tốt hơn ngày âm.

Cục âm thì hỗn độn có tốt có xấu.

Nếu tháng và ngày cùng tính âm dương Thai Tọa sẽ đóng cung dương.

Như vậy chưa cần lập lá số. Xem tổ hợp năm- tháng- ngày- giờ nếu thấy cùng tính âm dương nhiều sẽ tốt nhiều. Khác tính âm dương sẽ kém tốt.

Xem vận nếu nhập vận cung dương thấy nhiều sao xấu e rằng khó cứu vì cái xấu là thuần nhất. Nhập vận cung âm thấy nhiều sao tốt coi chừng cái tốt thiếu ổn định. Tuổi âm nhập vận cung dương tất nhiên phải chịu nhiều chóe ngoe. Cho dù nhiều sao tốt cũng không thể mãn ý như tuổi dương nhập cung dương.

Xem ra phép âm dương cô đọng quá mà ít người chịu dùng triệt để.

...

Thái Thứ Lang cho rằng mệnh VCD hợp vận Sát, Phá, Liêm, Tham, lục sát, lục bại. Cung VCD thì hợp Tuần Triệt án ngữ. Nhưng sách vở khác như Thiên Lương chỉ đề cập đến Bạch Hổ mà không hề nhắc tới 5 bại tinh còn lại là Tang Khốc Hư song Hao.

Kì thực do yếu quyết: " hỏa không phát, kim không minh". Dẫn đến mệnh rồi sao hợp với VCD đều phải là hỏa hoặc kim. Mà Tang mộc, Khốc Hư đều thuộc thủy. Song Hao thì Thái Lang cho là hỏa. Có sách cho là thủy. Các sách không dùng Hao cho VCD chắc quan điểm Hao thủy. Còn theo Thái Lang thì dùng Hao cho cung VCD ngon lành.

...

Cái gì nghịch với Đạo (quy luật tự nhiên) thì không bền. Cái gì thuận với Đạo thì không thể vội.

...

Nhược điểm song Hao: có tiền là tiêu, có sức là chơi.

Đặc điểm song Hao: tích độc nhanh, thải độc nhanh. Nên song Hao đi kèm sát tinh dễ trúng độc cấp tính mà đột quỵ. Song Hao kèm cát tinh phú quý không thể bền.

Nhược điểm Lộc Tồn: tụ không thể tán. Nên Lộc Tồn khả giải sát tinh nhưng lại làm ngưng trệ tam hóa. Dẫn đến hóa khí khó phát tác. Dễ nhiễm độc mạn tính. Khi phát hiện không thể cứu.

Hóa Kị phúc đức có xu hướng tự kỉ. Đi kèm Đà Riêu thì khó chữa. Hay nghĩ đến việc tự sát hoặc bi quan không lối thoát.

...

Trong mệnh lý, có những yếu tố luôn đi thuận, thể hiện quy luật bất biến. Ví dụ: vòng thái tuế, bốn mùa xuân hạ thu đông, quy luật sinh khắc của ngũ hành. Sách nói: "Thiên địa bất nhân coi vạn vật như chó rơm". Hàm ý các quy luật tự nhiên cứ vận hành như vậy bất kể ý muốn con người ra sao. Người tốt hay người xấu nhảy từ tháp Effel xuống đều chết vì trọng trường tác dụng bất kể tốt xấu.

Nhưng liên quan đến con người luôn có thuận và nghịch. Như đại vận phải tính tới yếu tố nam nữ. Vong Trường Sinh Vòng Bác Sĩ đều kể tới yếu tố nam nữ. Cách an Hỏa Linh cũng kể đến nam nữ. Tiểu vận cũng kể đến yếu tố nam nữ. Cho nên các sao trên có thể xếp vào phần Nhân.

Tuy nhiên, các quy luật tự nhiên (chỉ an thuận hoặc chỉ an nghịch) hay còn gọi là phần Thiên luôn có ảnh hưởng lấn át áp đặt lên phần nhân. Tính chất của các sao đó như các hằng số bất biến. Sự luận giải cũng đơn nhất không đa nghĩa. Và là tiêu chuẩn để hiệu chỉnh khi có sự mập mờ từ các suy luận khác. Nhược điểm của yếu tố Thiên là thô mộc, thiếu chi tiết tinh xảo, rõ ràng nhưng chung chung.

...

Tham Sát Phá: tham sân si. Tham có lúc hóa Lộc hóa Quyền hóa Kỵ nhưng không hóa Khoa. Lòng tham có thể làm con người giàu có quyền lực cũng có thể gây họa (Kỵ) nhưng không thể mang lại sự sáng suốt (Khoa).

Phá có thể hóa Lộc, Phá có thể hóa Quyền, nhưng không hóa Khoa và Kỵ. Si mê có thể đem lại giàu có và quyền lực nhưng không đem lại sự sáng suốt nhưng cũng không gây họa ( có ý kiến cho rằng trong Phá luôn có tính Kỵ rồi nên không cần hóa Kỵ nữa).

Nhưng Sát tức sân hận thì không hóa, không thể chuyển hóa hay rất khó chuyển hóa.

...

Trong tử vi:

1. Dương là quy ước của tốt. Âm là quy ước của xấu.

2. Thuần tốt hơn Tạp.

3. Nếu tạp thì cân đối tốt hơn thiên lệch.

Điều 1 thể hiện qua vị trí khởi điểm của các cát tinh và chính tinh. Điểm hai thể hiện trong cách cục. Điểm ba thể hiện trong sự miếu đắc của sát tinh.

...

Thứ 7 là ngày dành cho gia đình.

Chủ nhật là ngày dành cho bản thân.

Những ngày còn lại dành cho xã hội.

Written by người phản đối những khuyến khích làm việc cả ngày thứ 7 và CN của bọn chủ người Nhật.

Quy luật tự nhiên có nhịp điệu có chu kỳ. Mặt trời mọc rồi lặn hàng ngày. Từ lâu loài người đã phát hiện ra chu kỳ 7. Tại vị trí số 7, năng lượng yếu nhất và cần phải tĩnh dưỡng. Trong tử vi đó là ngôi Thất Sát đứng thứ 7 kể từ vị trí sung mãn là Thiên Phủ. Phủ trù phú thì Sát rất nghèo. Phủ đầy năng lượng thì Sát ít năng lượng. Phủ vượng thì Sát diệt. Trong Tarot, con bài số 7 của cả bốn nguyên tố đều mang nghĩa xấu. Thất côn chủ tranh đoạt. Thất kiếm chủ trộm cắp. Thất cốc chủ mê muội. Thất tiền chủ sự nghỉ ngơi. Thất tiền mang ý nghĩa khá nhất tứ nguyên tố thì cũng không thể hoạt động được.

...

Tử vi là tà đạo và chỉ có những người chính khí ngút trời mới có thể làm chủ được nó. Còn lại đều bị tử vi dắt vào con đường lầm lạc, đều làm nô lệ cho nó và bị tâm ma sai khiến bất kể kẻ đó bao tuổi, tài cao bao nhiêu. Cho nên học tử vi mà thấy càng ngày Tham Sân Si càng lộ rõ và ngấu nghiến tâm can thì kẻ đó đã bước vào ma đạo rồi. Những lời khuyến cáo của tôi hay bị bọn u mê coi thường. Chúng không hiểu bản chất tà ngụy của các thuật bói. Chúng không hiểu vì sao các đại đức họ chỉ khuyên người đời tu tâm chứ đừng ham cầu bói toán. Biết sẽ chết lúc nào. Nhưng không biết bệnh gì. Dù biết bệnh gì. Nhưng không biết cách chữa thì biết làm gì. Hay cái biết đó để phục vụ cho lòng tham của tâm, tham phúc và sợ họa. Phúc không phải đuổi theo mà được. Phúc do nó tự tìm mình mà đến. Họa không phải đuổi mà đi. Họa do nó tự bỏ ta mà đi. Vạn sự do tâm. Tâm thiện phúc đến. Tâm ác họa đến. Bọn bói toán chỉ cầu biết cái biểu hiện mà không biết được nguyên nhân thì sao chúng có thể giúp người. Chưa nói trình độ của chúng thì như gia cầm lục súc.

...

Tứ hóa là bốn loại tâm lý cảm xúc, nói gọn là tâm thế. Hóa Kỵ là tâm thế tiêu cực. Tứ hóa phái cho rằng lục sát tinh không đáng sợ, đáng sợ là khi Hóa Kỵ đến kích phát lục sát tinh tác họa. Lục sát tinh nó như tính xấu tiềm ẩn trong con người bạn do DNA quy định khi chúng ta sinh ra. Nhưng nếu không có tâm lý tiêu cực thì lục sát tinh đó cũng không tác họa. Con người sơ sinh mang hai tính thiện ác. Thiện như cát tinh, ác như lục sát. Nhưng nếu không vào hoàn cảnh nhất định của cả thân và tâm, thì những căn ác đó không có điều kiện nảy nở mọc thành quả, thậm chí còn lặn mất. Hóa Lộc bản chất là loại tâm lý tích cực, có tác dụng kích phát theo hướng lạc quan. Khi đi cùng lục sát, Hóa Lộc biến lục sát thành kỳ cách. Ví dụ như sự tinh xảo của các nghệ nhân hay các cầu thủ bóng đá. Họ dùng cái quái cái tinh xảo đó để phục vụ cái tốt. Hoa sen trong bùn là tượng tương ứng của Hóa Lộc trong lục sát. Diêu Đà Kỵ là một cách cục thể hiện sự kích phát của Hóa Kỵ. Bản chất là Kỵ kích phát Đà Diêu. Trong cách cục có thể chỉ có Đà Diêu, khi gặp vận có Kỵ kích phát sẽ xảy ra chuyện không hay.

Qua bài này, bạn hiểu thêm về tứ hóa, cảm thấy sờ được, nắm được tứ hóa chứ không mơ hồ như kinh điển từ ngàn xưa. Ngoài ra, chịu khó áp dụng bạn còn hiểu được ứng kỳ. Cứ khi nào Hóa Kỵ nhập hoặc xung cung lục sát thì xấu. Cứ khi nào Hóa Lộc nhập hoặc xung thì khả quan. Không có Lộc Kỵ kích phát thì không sợ sát tinh. Tất nhiên đi ngang con chó, nó đã không bảo gì đừng có đá vào mõm nó.

...

Thái Âm cặp với 3 người đàn ông: Cơ Nhật Đồng.

Thái Dương cặp với 3 người đàn bà: Cự Nguyệt Lương.

Tử Vi làm việc với 5 đồng đảng: Phủ Tướng Sát Phá Tham.

Nhóm sao âm chủ quan hệ con người hơn là nhóm sao dương. Nhóm sao dương chủ quan hệ công việc hơn là nhóm sao âm.

...

Cần nghiêm khắc nhìn lại thuyết tam tài. Đây là thiếu sót lớn nhất của giới mệnh lý ngày nay.

...

Tượng Khí Số và Lý. Mãi không hiểu Lý là gì sau mới biết Lý là câu chuyện.

Khách hàng không mua rượu vang, họ mua câu chuyện về nút gỗ sồi gắn với chai rượu ấy. Vì câu chuyện hàm chứa mạch xuyên suốt từ lúc hình thành chai vang đó. Câu chuyện cho họ thấy sự có lý. Câu chuyện cho họ lý do mua nó và uống nó chứ không phải loại vang khác.

Tử vi cũng có Lý bên cạnh Tượng Khí Số. Lý của tử vi là câu chuyện hợp lý giữa các tương tác sao. Khách hàng muốn nghe câu chuyện xuyên suốt toàn lá số. Nên hãy túm được mạch chuyện và kể cho họ. Mà muốn làm được việc đó thì phải giỏi. Cố gắng giỏi nhé.

...

Những người có Không Kiếp thủ mệnh, nhất là Không Kiếp hãm địa là những người khi nói chuyện hay tỏ ra biểu hiện nguy hiểm. Không hẳn họ muốn vậy, và cách nhìn sự thế của họ như vậy. Sự việc có thể đơn giản thường lại bị họ làm cho rối tung lên. Một người vá xe bình thường cũng có thể trở thành điệp viên quốc tế trong mắt họ. Tuy nhiên, đó chỉ là thùy tượng của Không Kiếp. Tùy tình huống cụ thể mà cân phân khác nhau. Nhưng qua đó, ta thấy được cuộc đời phụ thuộc vào cách nhìn đời hơn là phụ thuộc vào đời thực. Thấy sự việc nguy hiểm sẽ có tâm thái tương ứng đối phó với sự việc đó. Phải chăng truyền thuyết các đại sư ngồi thiền, chim chóc rắn rết có thể bu quanh là có thật?

[Mình cũng đang tỏ vẻ nguy hiểm ^^]

Vậy sao Khôi Việt Quang Quý giải quyết được sự "tỏ vẻ nguy hiểm" này?

...

Cách nghiên cứu một sao trong tử vi rất đơn giản. Bạn cứ nhìn thẳng vào nó, trong khi mọi thứ xung quanh nó thay đổi thì bạn vẫn nhìn thẳng vào nó. Rồi bạn sẽ nhận ra nó, nhận ra mối liên hệ giữa bầu trời sao xung quanh nó với nó.

...

Ngũ hành là thuộc tính. Âm dương là trạng thái. Cùng là sắt nhưng có sắt nguội sắt nóng, có sắt khối sắt vụn, có sắt thuần sắt tạp.

...

Trong tử vi. Yếu tố A có tính chất tiên thiên của nó. Nhưng khi gặp yếu tố B thì cát hung là sự tương tác giữa A và B. Nói cách khác đó là hậu thiên của A. Ví dụ A là đèn, B là trời nắng. AB là đốt đèn giữa trời nắng. Cho nên cần lắm nhận thức đúng đắn khi xem vận. Cùng cái đèn đó nhưng trong đêm thì lung linh huyền ảo.

Hay như mệnh Sát Phá Tham đến đại vận Nhật Nguyệt, dù Nhật Nguyệt có rực rỡ cùng các cát tinh đi kèm đến đâu thì cũng khó mà tốt đẹp. Cái nhìn này khác với cái nhìn khi nhập đại vận nào đó, không cần xét đến vốn mệnh là gì.

...

Tuần và Triệt là Không Vong. Không Vong có nghĩa là thời gian không thực. Trong đó Triệt là quá sớm. Tuần là quá muộn. Thái Dương hợp Triệt vì mặt trời chủ tán xạ chủ sáng sớm. Thái Âm hợp Tuần vì mặt trăng chủ thâu liễm thu vào. Cho nên khi Nhật Nguyệt hãm địa tức mặt trời và mặt trăng sai thời. Gặp Tuần Triệt thì thời được điều chỉnh lại.

Vấn đề ở chỗ muộn là muộn bao lâu, sớm là sớm bao lâu. Có thể ngẫm mà biết được.

...

Trong tử bình, động tĩnh do địa chi báo. Cát hung do thiên can quản. Ví dụ tiểu vận năm ất mùi, chắc chắn chi mùi được hiện và chi sửu bị xung. Vào năm đó sửu và mùi đều có chuyện. Nhưng cát hay hung phải xem biểu hiện của can ất. Dụng Kỷ, Ất phá Kỷ thổ dụng thần là hung. Dụng Canh, Ất hợp Canh là cát.

Trong tử vi thì địa chi năm vận cho biết cung bị động. Nhưng động cát hay động hung phải xem thiên can. Nôm na phái tứ hóa khẳng định cách xem của mình.

...

Ngũ hành sinh khắc đi cùng nhau song song. Có sinh mới có khắc và ngược lại. Kim khắc mộc để mộc sinh hỏa. Dao chẻ củi đốn cây để mang đi đốt. Thủy dập hỏa thành tro để hỏa sinh thổ. Hỏa khắc kim để kim sinh thủy. Lửa nung kim loại tan chảy thành lỏng. Thổ ngưng thủy để thủy bớt tràn lan có thể dưỡng mộc. Mộc khắc thổ để thổ sinh kim. Cây mọc trên đất để chuyển khoáng vào đất.

Đó là khắc để mà sinh. Và còn sinh để mà khắc.

Hỏa sinh thổ để thổ khắc thủy cứu hỏa.

Thổ sinh kim để kim khắc mộc cứu thổ.

Kim sinh thủy để thủy khắc hỏa cứu kim.

Thủy sinh mộc để mộc khắc thổ cứu thủy.

Mộc sinh hỏa để hỏa khắc kim cứu mộc.

Cho nên xét ngũ hành đầy đủ cần biết cả sinh khắc vậy. Vì sao chưa sinh vì chưa bị khắc. Bị khắc mới chuyển hóa. Vì sao còn khắc vì khắc chưa đủ để sinh.

Tiếp theo là ngũ hành phản khắc nha. Bình thường dương khắc dương nhưng phản khắc là âm khắc dương.

Bình thường thủy khắc hỏa. Nhưng âm hỏa (ngọn lửa không trực tiếp) phản khắc thủy thì thủy cũng sinh mộc. Ví dụ lửa đun nước nước hóa hơi (mộc).

Thổ khắc thủy nhưng thủy phản khắc xói mòn thổ mà lộ kim.

Kim khắc mộc (cây) nhưng âm mộc (khí) phản khắc ăn mòn làm kim loại chảy nước.

Phản khắc có thể luận như sau:

Hỏa khắc kim nhưng kim hóa thủy phản khắc lại hỏa làm hỏa sinh thổ.

Kim khắc mộc nhưng mộc hóa hỏa khắc lại kim làm kim sinh thủy.

Mộc khắc thổ nhưng thổ sinh kim khắc lại mộc làm mộc sinh hỏa.

Thổ khắc thủy nhưng thủy sinh mộc phản khắc lại thổ làm thổ sinh kim.

Thủy khắc hỏa nhưng hỏa sinh thổ phản khắc lại thủy làm thủy sinh mộc.

Nếu nắm được do khắc mà sinh và do sinh mà khắc thì thông đạt ngũ hành.

...

Lửa là dương hỏa. Nhiệt là âm hỏa. Gặp lửa có thể bén ngay nhưng quá trình truyền nhiệt cần có thời gian. Cái gì cần có thời gian cần có tích lũy số lượng mới chuyển hóa thì cái đó thuộc về âm.

Cô cảnh sát giao thông xinh đẹp dắt bà cụ qua đường cho phóng viên chụp ảnh. Là hiện tượng âm hay dương? Phải chăng là âm khi hai nhân vật trong sự việc là nữ. Nhưng không, đó là dương. Vì hiện tượng trên là không thường thấy là đặc biệt, là nỗ lực 5 phút đã có thể thực hiện được. Thời gian ngắn thì bạn biết ngay là dương. Âm cần có quá trình. Số lượng ít bạn biết ngay là dương. Âm cần xảy ra ở nơi nơi.

Vậy thì hiện tượng âm là gì với giao thông. Đó là quy hoạch quy mô lớn. Đó là giáo dục ý thức tham gia giao thông của người dân trong thời gian dài. Đó là hệ thống cống ngầm tương xứng với số dân trên mặt đất. Đó là không đập cầu đi bộ mới xây để dựng cầu vượt. Những cái đó cần có tầm nhìn cần nỗ lực trong thời gian dài. Nó thuộc về âm. Nếu nó thành công thì toàn bộ thành phố chuyển mình thành tiêu biểu giao thông của thế giới. Cái tiêu biểu đó là dương.

Chứ cái dương nhỏ nhoi dắt bà cụ qua đường làm trò lòe con mắt người dân để gây thiện cảm. Chỉ làm trò được vài lần, nhiều quá thành lố. Trong khi tắc vẫn tắc, khổ vẫn khổ, ăn chặn vẫn ăn chặn, mất lòng tin vẫn mất lòng tin.

Cái âm tác dụng cần thời gian. Thủy xói mòn thổ cũng cần thời gian. Nước chảy đá mòn chính là hiện tượng thủy phá thổ. Phản khắc thuộc âm. Âm cần bền bỉ lâu dài và tích lũy. Không khí ăn mòn kim loại tức mộc (khí) phá kim cần thời gian. Khắc là gì. Khắc là thuận theo tự nhiên. Phản khắc là gì. Phản khắc là nghịch lại tự nhiên. Nghịch lại thì khó. Khó thì phải từ từ bền bỉ, không thể sốt xình xịch.

Trong phim bến Thượng Hải, quá trình tán gái của Hứa Văn Cường là thuận thiên, anh đến với Trình Trình trong thế dương Thái Sơn áp đỉnh. Nhưng quá trình tán gái của Đinh Lực là thế âm. Anh phải mài mòn Trình Trình theo thời gian, kiên trì ít một ít một. Và cuối cùng con cóc ăn thịt thiên nga.

...

Mỗi người có một mối quan tâm cũng như gắn bó vào một mấu chốt trong từng giai đoạn cuộc đời. Lá số tử vi có 12 cung. Có tốt có xấu. Nói theo thiên hướng là sở trường sở đoản mỗi người không giống nhau. Mới đầu xem tử vi ai cũng xem dàn trải mọi việc. Sau khi có kinh nghiệm mới biết thế nào là trọng điểm. Với một tay phó tổng cục trưởng. Vấn đề chủ chốt là có lên chức được nữa hay không. Điều chuyển công tác thế nào. Tất nhiên sức khỏe là điều quan trọng với mọi người nhất là quan chức có tuổi. Trọng điểm là sức khỏe và công tác, những lĩnh vực còn lại ít ảnh hưởng hơn. Có những trường hợp cụ thể khác nhau nhưng mấu chốt vẫn là công tác và sức khỏe.

Với những hoàng hậu và phi tần. Vấn đề là con trai có lên làm vua không. Làm vua lâu bền không. Thì cuộc đời bà mẹ sang trang. Có những bà thái hậu có con ở ngôi thời gian ngắn thì bị chết, không rõ bệnh hay tự chết, cho nên bà đó dành phần đời còn lại đi tu. Đi tu là đúng vì tuy trẻ nhưng cuộc đời coi như chung kết rồi. Bà ấy có đi buôn, có viết sách, có làm gì nữa thì cơ bản thế cục đã định.

Cho nên số phận do chúng ta lựa chọn một phần. Chúng ta chọn công chức hay buôn bán thì cuộc đời sẽ xoay quanh những khung chính đó. Và cung trọng điểm theo đó mà hiện. Hơn nữa cơ bản trong mỗi một giai đoạn cuộc đời, ta ngồi nghĩ cũng biết điều chủ chốt là gì mà khi điều đó thay đổi thì mọi thứ thay đổi.

...

Mộc là khí. Mộc ứng với gió trong tứ nguyên tố. Trong Dịch, quẻ Tốn là gió thuộc mộc. Trong Đông y, thủy sinh mộc mộc sinh hỏa, thủy ứng với tinh, mộc ứng với khí, hỏa ứng với thần. Tinh sinh khí khí sinh thần. Lấy ngọn đèn bấc làm ví dụ thì dầu là tinh thủy dưới đáy. Bấc là khí mộc ở giữa kết nối. Ngọn lửa chính là thần hỏa phía trên cùng.

Lại có thủy đới mộc, hóa ra chính là xăng. Mộc ở đây là khí là nhẹ. Nhờ thành phần hydrocarbon no và nhẹ này mà xăng duy trì sự cháy. Mộc sinh hỏa.

Hôm trước nói về phản khắc hôm nay nói về phản sinh. Mộc sinh hỏa nhưng hỏa cũng thiêu đốt mộc, hỏa càng sáng thì mộc càng tiêu. Kim sinh thủy nhưng thủy càng nhiều càng mòn kim. Thủy sinh mộc nhưng mộc nhiều hút cạn nước. Hỏa sinh thổ nhưng thổ nhiều thì hỏa cũng tắt. Thổ sinh kim nhưng kim nhiều thì thổ không còn là thổ.

Quá trình sinh là tiệm tiến lượng đổi chất đổi. Cho nên dương không sinh dương. Âm không sinh âm. Mà dương sinh âm, khi âm đã trưởng thì âm lại sinh dương. Mới đầu củi nhiều lửa ít. Củi là dương lửa là âm. Sau lửa to củi ít dần. Lửa dần thành dương mà củi dần thành âm. Đó chính là chuyển hóa âm dương.

...

Tứ sinh là nơi vấn đề phát sinh. Thích hợp với các sao ưa tung hoành như Thiên Mã Không Kiếp, song Hao Thất Sát Vũ Tướng Đồng Lương cung dương.

Tứ bại là nơi vấn đề vừa phát sinh. Thích hợp với các sao bại tinh như Khốc Hư miếu tí ngọ. Tang Hổ miếu mão dậu. Song Hao miếu mão dậu. Cơ Cự miếu mão dậu. Cho nên có ý kiến cho rằng Cơ Cự phù hợp với các bại tinh như Tang Hổ Khốc Hư Song Hao. Thực ra chúng là những kẻ đồng hương.

Tứ mộ là nơi an tĩnh, nơi tập hợp lại binh lực, nơi ủ mưu để chuyển hóa từ cũ sang cái mới. Cho nên tứ mộ phù hợp với những sao ưa sự an định như Tả Hữu Xương Khúc Hóa Kị Thai Tọa Quang Quý Cơ Lương Liêm Phủ. Và không phù hợp với các sao thích động như Đồng Cự. Đồng ở mộ như đứa trẻ bị nhốt ở nhà. Cự vốn là ám tinh ở mộ u ám càng không ai soi rọi làm sáng cho, nên càng hôn ám.

Nguyên lý của cát tinh hay sát tinh miếu là sự thuận lợi do phù hợp với địa bàn mang lại. Những cung đó coi như quê hương của các tinh đẩu đó. Nhưng sát tinh miếu vượng còn tuân theo 1 nguyên lý nữa đó là sự kìm hãm cái xấu. Kìm hãm sự mất cân bằng. Đây gọi là chế hóa.

Nguyên lý trên giống như sự thuần cách trong tử bình. Nguyên lý dưới giống như sự cân bằng theo phép lấy dụng thần theo thân vượng nhược của tử bình.

Tuy nhiên nhìn lại 3 phân cách trên. Thì tứ bại và quê hương của lục bại Tang Hổ Khốc Hư Hao tuy có gây mệt mỏi nhưng không phải là sự sát phạt tột cùng cực đoan. Bại và hao có thể hiểu như cơn ốm, như vụ tai nạn có thể đền tiền mà xong, như sự mệt mỏi nhọc nhằn không xấu để chết mà chẳng tốt để vui.

Sát địa chính là tứ sinh. Tứ sinh chính là tứ sát. Quê hương và hộ khẩu vĩnh viễn của Kiếp Sát Thiên Mã. Nơi thường trú và địa bàn ưa thích của Không Kiếp. Ở tứ sinh sự việc chỉ có hai thái cực, một là tột cùng vui sướng, hai là tột cùng bi thảm. Không có chỗ cho kiểu nửa buồn nửa vui nửa âu sầu như tứ bại. Ở đây tính chất con bạc của Không Kiếp được ủng hộ triệt để.

Tứ sinh chính là tứ sát.

Tứ bại chính là tứ thành.

Tứ ám (mộ) lại chính là tứ vinh.

...

Địa Không: trộm.

Địa Kiếp: cướp.

Trộm cướp gặp nhau rất tâm đầu ý hợp.

Địa Không là không được.

Địa Kiếp là có rồi mất.

Không Kiếp gặp nhau an ủi nhau thôi thì tôi cũng như anh.

Tên khai sinh của Địa Không là Thiên Không. Sau này nhập tịch Việt Nam thì đổi thành Địa Không. Cho nên Không Kiếp bản chất là "của thiên trả địa". Cái có lấp ló cái không.

Thiên Cơ là hỏi. Cự Môn là đáp. Cơ Cự gặp nhau là là có hỏi có đáp nên miếu địa.

Thiên Đồng là đồng ý. Cự Môn là phản đối. Đồng Cự là phản đối gặp đồng ý nên hãm địa.

Cự là gái trẻ. Cơ là trai trẻ. Trai trẻ gặp gái trẻ thì đăng đối.

Cự là gái trẻ. Nhật vượng là trai trẻ. Nên Nhật vượng thì Cự vượng.

Cơ là trai trẻ. Nguyệt vượng là gái trẻ. Nên Nguyệt vượng thì Cơ vượng.

Nhật hãm là trai già. Trai già gặp gái trẻ thì khó hợp nên Nhật hãm thì Cự hãm.

Nguyệt hãm là gái già. Gặp Cơ là phi công. Nên Nguyệt hãm thì Cơ hãm.

Đồng là đồng ý. Âm là im lặng. Đồng Âm im lặng và đồng ý.

Cự là hỏi. Cự Nhật là người đàn ông hỏi ở dần thân. Khi đó Đồng Âm là người phụ nữ đồng ý ở tý ngọ. Đó là tượng thuận vợ thuận chồng.

Nhật còn là thông minh. Nguyệt là hiền ngoan. Cự Nhật là hỏi thông minh. Đồng Âm là sự đồng ý ngoan ngoãn. Nhật khôn thì Nguyệt ngoan.

Đồng là cậu bé trai. Lương là cô bé con của Nguyệt vĩnh viễn tam hợp Nguyệt. Đồng Lương gặp nhau thì đăng đối. Đồng đồng ý, Lương thì lành vì là con của mẹ hiền (Thái Âm).

Cơ Cự Đồng Lương về động từ là hỏi đáp thuận tòng, về tính chất là linh hoạt hiền lành nhẹ nhàng, về giới tính Cơ Đồng là trai Lương Cự là gái. Về tuổi tác thì Đồng Lương nhỏ tuổi Cơ Cự thì thành niên. Tham Liêm là trung niên. Nhật Nguyệt thể hiện chung lúc già lúc trẻ.

Cơ Lương cũng là cách miếu vì Cơ thiện Lương lành. Cơ trai thành niên gặp cô gái nhỏ.

Nhật là ý chí. Nguyệt là tấm lòng. Trai cần khôn. Gái cần ngoan.

...

Tham Lang hình là thủy khí là mộc, tính dâm và tham lam. Khí mộc nên hợp với Hỏa Linh vì ngũ hành sinh khắc theo khí không theo hình. Nhưng tính dâm tham theo hình không theo khí. Mang tính đào hoa nên tại tứ bại địa Tham hãm địa. Hãm vì tính dâm tham không được kiềm chế. Hãm vì Tham ưa lén lút ẩm ướt tối thui ở tứ mộ hơn là những nơi đường đường chính chính như tứ chính (cũng là tứ bại). Tại tứ bại Tham làm hủ hóa Tử Vi.

Tại tứ mộ nhất là âm mộ sửu mùi. Tham miếu địa vì tìm được bạn tình và không gian phù hợp đó là Vũ Khúc. Sự đam mê hào hoa của Tham gặp được sự khéo léo tài năng của Vũ Khúc. Sự bừa phứa của Tham được khuôn chỉnh bởi sự cương nghị của Vũ Khúc. Tính mộc của Tham được âm kim của Vũ khắc chế. Trong khi tính mộc của Tham khắc chế tính thổ của Tử Vi nên sự hoang tàng của con dê Đát Kỷ này khống chế hoàn toàn Trụ Vương cường tráng.

Nhiều bạn hỏi khi nào là tứ chính, khi nào là tứ bại. Thực ra, chính và bại chỉ là hai cách gọi khác nhau của cùng 1 sự. Tuy nhiên phân tiếp theo âm dương thì Tý Ngọ là chính còn Mão Dậu là bại.

Tử Vi tại mão dậu bị Tham khống chế hoàn toàn. Đất mão dậu luôn là niềm đau của Tử Phủ Vũ Tướng.

Tại Tý Ngọ ít ra Tử Vi đóng cung dương và tại ngọ Tử Vi tại chính vị ngôi cửu ngũ chí tôn.

Cũng như tứ mã tứ sinh dần thân tị hợi. Tử Vi ở dần thân gặp Thiên Phủ được coi là tốt hơn tị hợi. Cho nên dần thân có thể coi là sinh địa. Còn Tử Vi cầm kiếm Thất Sát ở tị hợi. Thứ nhất là âm cung khó hợp tính dương của Tử. Thứ hai là khi đó đức vua phải chinh chiến. Cho nên tị hợi có thể coi là mã địa phù hợp hơn là sinh địa.

Đất tứ mộ cũng chia âm dương. Dương mộ là La Võng. Âm mộ là sửu mùi. Đối với Tử Vi tại la võng đi cùng Tử Tướng xung đối Phá Quân. Ít ra vẫn là cung dương và chính danh với Tử Vi. Còn tại âm mộ sửu mùi bị Phá Quân quấn chặt thành thần bất trung tử bất hiếu. Sự bất nhân của Phá thìn tuất vẫn đường đường là một người anh hùng chứ không ám tàng như Tử Phá. Đó cũng là tính chất khác nhau cơ bản của cung âm cung dương. Tại la võng Nhật Nguyệt cũng xung nhau quyết liệt chứ không quấn quít như sửu mùi. Cho nên nếu nói tính chất tứ mộ là kìm hãm sa lầy thì đó là âm mộ. Còn dương mộ có hẳn một tên khác là La Võng. Cái tên thiên la địa võng thể hiện phần nào tính chất khốc liệt của dương mộ. Dương mộ không phải chỗ hãm lại bằng âm mưu mà là chỗ khuất phục bẵng võ lực bằng bá đạo.

...

Trong lá số tử vi có 6 cung cùng là cung dương và 6 cung cùng là cung âm. Như cung mệnh tài quan phuc di thê là có cùng tính âm dương. Và 6 cung còn lại như phụ tử nô điền tật bào có cùng tính âm dương. Cùng tính âm dương thì có thể xung chiếu tam hợp với nhau, gây ảnh hưởng với nhau trực tiếp. Khác tính âm dương thì chỉ có thể gặp nhau qua giáp hợp hại. Nói cách khác giáp hợp hại là cách mà các cung khác tính âm dương gặp nhau. Các cung khác tính âm dương thì các sao phân bố ở đó cũng khác chủng loại tính lý. Nói cách khác các sao đó không bao giờ có thể cộng hưởng theo cách ngưu tầm ngưu mã tầm mã. Sự cộng hưởng của cùng tính âm dương là cộng hưởng gây tăng cường độ số lượng. Sự cộng hưởng khác tính âm dương là cộng hưởng gián tiếp, gây tốt hay xấu theo thời gian lâu dài chứ không ngay tức khắc như cộng hưởng cùng tính lý.

Có 5 cặp sao vĩnh viễn nhị hợp nhau như Phủ và Nhật; Cơ và Phá; Vũ và Nguyệt; Đồng và Tham; Liêm và Lương.

Tính chất của các căp nhị hợp không cùng loại mà cũng không đối nghịch chan chát. Vì dù sao không thể cộng cũng không thể trừ do khác thứ nguyên hay hông cùng loại. Chúng tồn tại song song với nhau như hai mặt của vấn đề. Cơ hệ thống hợp với Phá bát nháo. Khi Cơ miếu thì Phá hãm còn khi Phá miếu thì Cơ hãm. Nhưng ngũ hành của Cơ là mộc được âm thủy của Phá sinh trợ. Cơ và Phá cùng là sao âm. Tức âm dương ngũ hành của các cặp sao này thuận nhau. Nhưng sự đắc hãm là đối nghịch. Điều này hợp lý vì hai mặt của một vấn đề khó mà cùng tỏa sáng.

Phủ Nhật hỏa thổ tương sinh cùng là sao dương. Phủ chủ gom chứa ẩn giấu che chở, Nhật chủ tỏa sáng phát huy quảng bá.

Đồng Tham cùng là sao dương thủy mộc tương sinh. Tham chủ vơ vét tư túi, Đồng chủ phúc chia sẻ xởi lởi.

Vũ Nguyệt cùng là sao âm kim thủy tương sinh, Vũ chủ luồn lách khéo léo, Nguyệt lại chủ thu liễm an định.

Liêm Lương đều là sao âm, hỏa thổ tương sinh. Lương hình mộc khí thổ chủ lành chủ bao dung. Liêm chủ nguyên tắc hình phạt.

Các bộ sao lục hại vĩnh viễn gồm có: Tử vi Cự Môn; Cơ Tướng; Sát Nhật. Các sao Tử Cự Tướng Sát không tham gia nhị hợp chỉ tham gia lục hại. Với Tử Vi đó là sự cô độc chí tôn không cần sự ám trợ của bất kì ai. Với Cự Môn đó là sự chống đối bẩm sinh, không thích ai giúp và không thích giúp ai. Với Tướng Sát cũng vậy. Sát thủ cô độc Thất Sát và sự chấp chưởng hành chính không lôi thôi của Thiên Tướng.

Cặp Sát Nhật cùng là sao dương và hỏa khắc kim. Tính chất xây dựng quảng bá của Nhật bị đối chọi bởi tính hủy diệt của Thất Sát.

Thiên Cơ và Thái Dương là hai sao vừa hợp vừa hại. Nhưng Cơ hợp cái xấu là Phá và hại cải tốt là Tướng. Còn Nhật hại cái xấu là Sát và Hợp cái thiện là Phủ. Những sao như Đồng Lương chỉ hợp không hại, điều đó nói lên tính cách không tranh giành của Đồng Lương. Tham Lang tuy là tham trong tham sân si nhưng cũng không tham gia lục hại thể hiện cái xấu thụ động của Tham, cái xấu không áp đặt không tranh đoạt.

Từ hại hợp hiểu được tính trừ ác của Thái Dương và xu hướng theo ác của Thiên Cơ. Thái Dương tuy là văn tinh nho nhã nhưng dám tranh đấu với cái ác. Hình ảnh cho Thái Dương là các trí sĩ cách mạng như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu. Họ đều là người có học và không phải tay dao súng nhưng không phải vì thế mà sợ ác phụ tà.

Cũng hiểu sự chống đối bất mãn của Cự Môn khi công khai bác bỏ ngôi của Tử Vi. Mặc dù bị thổ của Tử Vi áp chế nên sự chống đối của Cự là vô lực nhưng dù sao đức vua chắc chắn phải đạp lên miệng thế gian mà thi hành vương đạo.

Cặp đối xung vĩnh viễn Phá Tướng vừa hợp vừa hại với Thiên Cơ. Nhưng thế lục hại của Cơ Tướng lạ kì ở chỗ Cơ mộc được Tướng thủy sinh. Đây là cặp lục hại tương sinh duy nhất. Có thể nó mang hai hàm nghĩa. Một là phe chính nghĩa Thiên Tướng không thể bị khắc chế. Hai là Thiên Cơ cũng không phải sao ác. Hoặc cũng có thể tính hệ thống của Cơ cạnh tranh tính bảo thủ cơ chế của Thiên Tướng.

Nôm na có thể hiểu. Nhị hợp là hỗ trợ, sự hỗ trợ nhưng không tham gia cùng như đồng bọn (tam hợp). Hỗ trợ như cha mẹ hỗ trợ con ăn học nhưng cha mẹ không thi hộ được. Lục hại là sự cạnh tranh. Cạnh tranh nhưng không đối đầu hay hủy diệt nhau. Cạnh tranh như các bạn học cùng đi thi, như môn thể thao đua ngựa. Hợp và hại không cùng thứ nguyên nên không thể cộng dồn tăng lượng như tam hợp. Nhưng ảnh hưởng của nó không thể không xét đến trong tử vi. Có điều nếu cứ gom sao tả pí lù cùng với tam hợp xung chiếu tất sẽ sai và thêm rối.

...

Thế đối xung vĩnh viễn của chính tinh đòi hỏi hai chính tinh đó cùng 1 vòng Tử Vi hoặc Thiên Phủ. Phủ đối Sát và Tướng đối Phá, cho thấy sự đặc biệt nghiêm trọng của Sát Phá nên cần sự coi chừng trông nom của Phủ Tướng.

Thế nhị hợp và lục hại vĩnh viễn cần sự đóng góp của 2 chính tinh thuộc 2 tinh hệ khác nhau, 1 sao từ Tử Vi và 1 sao từ Thiên Phủ.

Tinh hệ chòm Tử Vi có một đặc điểm là không có sao nào vĩnh viễn xung chiếu sao nào, tất cả các sao đều xung với cung vô chính diệu. Và đặc biệt hơn, toàn bộ tam hợp xung ngôi Tử Vi đều không có chính tinh. Ví dụ ngôi Tử Vi ở tý thuộc tam hợp thân tý thìn thì tam hợp xung đối với nó ở dần ngọ tuất không có chính tinh nào thuộc chòm Tử Vi. Nói cách khác chòm Tử Vi không có nội xung và ngôi Tử Vi không chịu sự tương xung của tam hợp đối.

Thế nhưng Tử Vi có vây cánh vĩnh viễn là Vũ và Liêm. Thiên Cơ có vây cánh Thiên Đồng. Vây cánh từ tam hợp vĩnh viễn thể hiện đồng bọn đồng đảng hay chính bản thể sao đó ở vị trí khác. Như Nguyệt với Lương như Phủ với Tướng, cùng một gốc sinh ra, theo thời sinh vượng mộ khác nhau mà diễn hóa khác nhau. Các sao có tam hợp vĩnh viễn cơ bản là sao đa hình, có nhiều bộ mặt chứ không thuần nhất. Vũ hay Liêm cũng là bộ mặt hay trạng thái lúc nào đó của Tử Vi. Phủ hay Tướng cũng là hai bộ mặt của cùng một sự vật. Nguyệt hiền thì Lương lành.

Nhưng ngôi vị Thái Dương không tam hợp với bất cứ chính tinh nào trong chòm tử vi. Thái Dương cũng không xung đối với chính tinh nào. Nói cách khác Thái Dương duy nhất và đơn độc như mặt trời vĩ đại rọi ánh sáng về 3 cung tam hợp và chính chiếu với nó. Nó cũng không có bộ mặt hay biến thể nào khác. Phe xung đối Thái Dương có Đồng Cơ trong tam hợp khác với ngôi Tử Vi bất khả chống đối.

Từ bố trí chòm Tử Vi có thể thấy hình bóng quân thần khánh hội bất khả chống đối của Tử Vi và sự cô độc chí tôn của vầng Thái Dương ban phát ánh sáng vô lượng tới các cung.

Trong chòm Thiên Phủ, một mạch 7 sao liên hoàn. Tam hợp Sát Phá Tham vĩnh viễn xung tam hợp Phủ Tướng, Tham Lang ở vị trí dễ thở nhất không bị áp chế. Cự Môn là hình ảnh của Thái Dương bên chòm tử vi khi không tam hợp cũng như không xung chiếu với bất cứ cung nào. Trong tam hợp xung đối với Cự Môn là Nguyệt Lương một phe hiền lương vốn có. Dựa trên nguyên tắc bày sao của chòm Thiên Phủ thì Cự Môn phải mang tính tà ám xấu xa đối với tính hiền lành của Nguyệt Lương. Nếu Nguyệt Lương không tranh giành thì Cự Môn như cái hố đen hút sạch tất cả những gì tam hợp hay đối xung với nó. Nên tượng Cự Môn là cánh cửa lớn là cái mồm là hố đen chuyên hút vào. Đối lập với sự tỏa sáng của Thái Dương luôn ban phát tỏa ra. Cho nên khi Cự gặp Nhật sáng, Cự Môn no nê ánh sáng nên vượng địa. Qua đó thấy thêm sự ích kỷ của Cự Môn. Trước giờ người đời chỉ hiểu Cự là chống đối chứ không hiểu sức hút khủng khiếp của nó. Chính vì tính câu hút khủng khiếp mà nó rất hợp với các sao Không Vong như tuần triệt, mà dấu vết của tính chất này là cách cục Thạch Trung ẩn ngọc. Cự hút sáng vì nó là vùng ám tối. Cho nên chắc chắn không thể hợp với Hóa Kỵ chủ đêm đen và cũng là sao thu liễm. Cự Kỵ bị xếp vào phá cách là vì vậy. Cự Môn ghét sự ám tối của tứ mộ vì Cự đã ám vốn khát khao ánh sáng vào tứ mộ không thể khá lên nên Cự hãm tứ mộ. Ở tứ sinh, Cự nhận được ánh sáng từ Thái Dương nhưng sự miếu hãm của Cự tại tứ sinh phải nhìn mặt Thái Dương, nếu Thái Dương miếu thì Cự vượng nếu Thái Dương hãm thì Cự đói ánh sáng cũng hãm địa. Nhưng khi Thái Dương ở ngọ thì Cự hãm ở tuất, mặc dù cùng tam hợp. Điều đó cho thấy sự khác nhau của tam hợp và xung chiếu. Xung chiếu và đồng cung thì Nhật vượng có thể bù cho Cự thành vượng. Nhưng trong tam hợp thì không. Xung chiếu chính là rọi đèn vào trực diện, tác dụng ngay lập tức, còn tam hợp là hợp chứ không phải xung chiếu. Một Cự hãm dù tam hợp Thái Dương nói lên điều đó và nói lên rằng trong đội của bạn có những người giỏi và người kém, người giỏi đó không chuyển hóa người kém tốt lên, nhưng kẻ thù sẽ làm anh ta giỏi lên.

Và khi Cự gặp Cơ thì Nhật Nguyệt đồng cung sửu mùi. Cự miếu khi đồng cung với Cơ mặc dù Cơ không có ánh sáng như Nhật, phải chăng Cơ có 1 cái gì đó khác mà Cự cần được bổ khuyết. Cự có một nhu cầu nào đó được Cơ đáp ứng.

Tứ mộ bít bùng thì Tuần Triệt là sự trải rộng.

Tứ mộ là tối ám thì Tuần Triệt là sự quang đãng.

Tứ mộ trợ tối thì tuần triệt trợ sáng.

Cự Môn cần khoảng không và ánh sáng, một khao khát chính đáng và hướng thiện, như người tù trong địa ngục hướng về thiên đường rực rỡ cao xa.

Cự muốn đối cung của nó là khoảng trống, cho nên nó thích đối cung vô chính diệu như Cự Cơ mão dậu. Cự Nhật dần thân. Nếu đối cung là chính tinh thì mong sao đó là ánh sáng của Thái Dương ở tị hợi. Ở sửu mùi tuy Cự đồng cung với Đồng, đối cung là vô chính diệu nhưng hiềm là đất tứ mộ không phù hợp nên Cự hãm địa.

Cách đồng cung của Cự có Cự Đồng Cự Nhật Cự Cơ. Trong trường hợp Cự Cơ đối cung ở tý ngọ, cần sự hỗ trợ của Tuần Triệt để tạo khoảng trống, Cơ ví như tảng đá lấp mặt Cự Môn nên cách cục gọi là Thạch Trung Ẩn Ngọc. Nói về tính không của địa bàn thì tứ sinh hay tứ mã gần với tính không nhất. Trong khi tứ mộ tĩnh tứ chính chuẩn mực thì tứ mã thay đổi và chuyển động. Vì có bóng dáng tính không nên Không Kiếp thích tứ mã, tại tứ mã dần thân tị hợi Cự Môn cũng khá thoải mái với Thái Dương. Người cha kèm cô con gái. Đến cung mão dậu thì gả cho chàng trai trẻ Thiên Cơ. Người mẹ kèm chàng trai trẻ Thiên Cơ đến mão dậu thì trao cho cô gái trẻ Cự Môn. Từ cung tý Cự nhìn thấy tình yêu của đời mình ở Thiên Cơ ở ngọ, chàng tỏa sáng nhẹ nhàng làm Cự muốn nghịch chuyển không thời gian đến với chàng qua cây cầu Tuần Triệt. Đến sửu Cự Môn kết hôn với chàng trai Thiên Đồng ham chơi. Hai vợ chồng choảng nhau suốt ngày rồi ra tòa. Sang cung dần Cự về với người cha già Thái Dương tu dưỡng vá víu lại bầm giập của đời gái sau khi bị Thiên Đồng vầy vò. Trong khi đó Thiên Cơ cũng ngược đường ngược nắng về tìm Cự, và anh chị tìm thấy tình yêu của đời mình ở mão dậu. Hai vợ chồng buôn bán xuất nhập khẩu điên đảo chẳng mấy chốc thành cự phú. Rồi Cự gặp chồng cũ ở tứ mộ. Thiên Đồng giờ đã tướp như xơ mướp. Khi Cự đến tị thì người cha Thái Dương đã già ở hợi. Cự lại đến ngọ hướng về người chồng Thiên Cơ và mong sao nhịp cầu Tuần Triệt giúp họ đến với nhau.

...

Trong tử vi, các chính tinh cùng tam hợp vĩnh viễn như Tử Vũ Liêm và Sát Phá Tham thì tương sinh, đối xung như Phủ Sát và Tướng Phá thì tương hòa, lục hại như Nhật Sát hay Tử Cự mới tương khắc. Cho thấy sự đối xung dù trái ngược tính chất sao nhưng vẫn là sự tương hỗ lẫn nhau tạo sự cân bằng nhất định. Trong khi thế tương khắc của ngũ hành phản ánh sự khác biệt cả về tính chất và bất phối hợp. Các cặp sao miếu vượng đồng cung đa số là tương sinh tương hòa. Chỉ trừ có cặp Cự Nhật và Tham Vũ là có tương khắc. Các cặp sao cực hãm đa số nằm ở tị hợi mão dậu có trường hợp tương sinh như Vũ Phá, nhưng Vũ Phá đều là sao âm. Sự phối hợp hai sao âm như Liêm Phá hay Vũ Phá đều là sự cực đoan. Không tốt so với các trường hợp 1 sao dương 1 sao âm đồng cung.

Miếu hãm là sự tổng hòa của âm dương+ngũ hành+tính lý. Nhưng trên cái nhìn tổng quát ngũ hành tương sinh và tỉ hòa đa số tốt hơn tương khắc dù ngũ hành là bài toán gần đúng. Sự phối hợp cộng hưởng các sao đòi hỏi cần có sự phối hợp ngũ hành âm dương làm nền tảng.

Miếu hãm của sao là sự tổng hợp thực dụng nhất từ âm dương ngũ hành và tính lý. Nói về địa bàn thì đất có thổ công sông có hà bá. Tị hợi và mão dậu là địa bàn xảy ra chính tinh cực hãm nhiều nhất. Mão dậu là đất ưa thích của bại địa song Hao và Tang Hổ Hình Riêu. Tị hợi là đất ưa thích của Không Kiếp. Đã là cung âm và là đất ưa thích của sát bại tinh thì chính tinh cát tinh đến đó phải chịu tù túng hãm địa. Duy có Cơ Cự miếu mão dậu. Duy có Tử Sát tạm ổn tị hợi. Tuy là tạm ổn nhưng thế Tử Sát là một thế yếu của Tử Vi.

Ba sao có tính chất tiên thiên mặc định xấu của tử vi là Sát Phá Tham. Nó là hình bóng Mộc Suy Tuyệt. Trong đó Sát là Tuyệt, Tham là Mộc Dục và Phá là Suy. Sát Tuyệt nên hoành hành cung tứ tuyệt, miếu ở dần thân và đắc ở tị hợi. Tuy nhiên là sao dương nên thoải mái nhất ở dần thân. Tham lộng hành ở tứ bại áp chế và hủ hóa Tử Vi. Phá bất nhân nghịch tử ở tứ mộ và ngụy quân tử hóa Tử Vi. Ở cung âm trong trục sở trường, 3 sao trên đều đồng cung Tử Vi.

Đã là 3 sao xấu. Cho nên khi hãm địa là xấu nhất. Và sự xấu nhất nằm trên tị hợi mão dậu. Trục tị hợi có thể gọi thay bằng trục sát. Trục mão dậu có thể gọi thay bằng trục bại.

Cực hãm có thể phản hóa thành kì cách, nhưng cũng có thể Hóa Kị để tồi tệ thêm. Như Vũ Phá tuổi nhâm, Liêm Tham tuổi quý là cách cục Kình Đà hiệp Kị điển hình. Tử Tham tuổi Quý là cách cục Tử Tham song Hao Kị. Thế Hóa Kị của Tham luôn có Hóa Lộc từ Phá Quân tam hợp. Cũng như tuổi Nhâm thế Hóa Kị của Vũ luôn có Quyền của Tử Vi tam hợp.

Nói cách khác trong Quyền của Tử Vi có tàng Kị. Trong Lộc của Phá Quân cũng có tàng Kị. Tuổi Giáp thì Liêm Hóa Lộc luôn có Vũ hóa Khoa củng cố. Tuổi Bính có Lộc Quyền song hành. Tuổi Đinh có Khoa Quyền song hành.

Như vậy là có đủ các cặp:

Lộc Quyền

Khoa Quyền

Lộc Khoa

Lộc Kị

Quyền Kị

...

Mệnh tuần thân triệt Cơ Nguyệt Đồng Lương

Mệnh triệt thân tuần cần vô chính diệu

Mệnh trước, thân sau. Triệt tác dụng mạnh 30 năm đầu. Tuần dai dẳng cả đời. Vì sao có con số 30 vì thời gian chỉ có số 60. Chia đôi hai nửa thì 30 thuộc nửa đầu. Con số 30 của triệt nói rằng triệt khỏe mạnh 30 năm đầu.

Cho nên mệnh triệt thân tuần là chính cách không vong. Như trứng gặp trứng, đá gặp đá. Sách Thái Thứ Lang cho rằng mệnh triệt thân tuần thì cần vô chính diệu là vì vậy. Vì không vong khi đó là chính cách.

Nói về thời gian thì sát tinh bộc phát sau đó tàn phai. Cát tinh thì bền vững ổn định. Trong tử vi cát tinh nhiều hành thổ và Tả Hữu Xương Khúc đều đắc ở tứ mộ. Biểu tượng thủ lãnh của tử vi là ngôi Tử Vi cũng được gán hành thổ. Vị phó vương thiên phủ cũng được gán hành thổ. Trong môn tử vi, thổ đại diện cho trung dung đại diện cho chuẩn mực. Như Tử Vi là điểm chuẩn của 14 chính tinh. Lộc Tồn là điểm chuẩn của chính vị thiên can. Thể hiện sự ổn định bền vững. Tử Vi tốt nhất gặp Lộc Tồn chứ không phải Khoa Quyền Lộc. Phủ Tướng thậm chí không cần Khoa Quyền Lộc.

Ngoài đời thực cũng vậy. Cái gì gian ác hay xảo trá ban đầu hoành hành rất mạnh, nhưng về lâu về dài, ảnh hưởng càng kém dần. Nói cách khác cái gì không có sự bền vững là sát tinh. Cái gì mưu mẹo chỉ có tác dụng nhất thời. Về lâu về dài, những cái hào nhoáng đó bong đi mất chỉ còn cốt lõi bản chất thủ diễn. Mới đầu đi tán gái hỏi vợ, tay xảo trá bóng mượt chiều lòng. Khi đã đạt mục đích hay không đạt mục đích. Chúng lật lọng giở dói. Vì sự tốt đó không phải bản chất của chúng mà vì mục đích chúng phải giả tốt. Vì sao thiên hạ bị lừa. Vì mới đầu bọn đi lừa có một túi đường. Chúng ném cái chóc vào tai con mồi. Đường rơi xuống tim nở hoa. Cô gái tin tưởng giao tiền bạc và thân thể cho chúng sử dụng lạm dụng rồi chán rồi thì chúng chà đạp.

Cho nên Hoàng Thạch Công phải thử Trương Lương 3 lần mới giao sách. Thử 3 lần xem độ nhẫn có dài không. Thử 3 lần xem tâm có suy chuyển không. Thử 3 lần xem lớp sơn tử tế có bong ra hay không. Gia Cát cũng phải thử 3 lần xem Lưu Bị có nhẫn không. Hay khi ông cần thì ông cần vậy. Lúc bất cần thì khỏi vòng cong đuôi. Sự nhẫn chính là độ bền mà nó không có ở sát tinh nhất là sát tinh hãm địa. Trong tư duy của người kém thành công, có điểm chung là thiển cận. Thiển là nông còn cận là gần. Không nghĩ sâu và không nhìn xa. Nếu chúng ta cứ nhìn sâu và xa mãi thì chúng ta đều là người lương thiện. Vì lương thiện là sự cư xử cân bằng. Vì nhìn xa mãi thì gieo nhân nào gặp quả đó. Không thể khinh suất coi thường.

Điểm chung của Lê Văn Luyện, Nguyễn Đức Nghĩa, Nguyễn Hải Dương là sự manh động không tính hậu quả. Đó cũng là đặc tính của sát tinh. Là sự vô trách nhiệm với việc mình làm. Thường thì người ta vì cái lợi trước mắt mà sẵn sàng thiêu đốt tương lai. Vì cơn đói mà ăn mất bát thóc giống. Sự cân bằng giữa lâu dài và tức thời chính là hạnh phúc.

Cát tinh, người tốt có điểm chung là sự bền vững lâu dài. Đòi hỏi chữ nhẫn. Đòi hỏi thử thách. Theo thời gian cái gì bên trong cùng sẽ biểu hiện và lộ ra sau cùng. Cho nên cần thời gian. Cần thời gian để trồng cây, để xây dựng một thương hiệu, hay phát triển nghề. Chúa cũng cần thời gian để truyền giáo. Ngày đầu bị truy quét cực kì gian khổ. Nhưng cái tốt cái đẹp luôn may mắn rơi vào kẽ đá và mọc lên. Vì cái tốt kiên trì hơn cái ác. Triệt rất mạnh mẽ 30 năm đầu. Nó thuộc kim cho đúng tượng con dao hay dây thép. Đã siết là thành hình và có tì vết. Nó áp mệnh thì tác dụng rất mạnh mẽ triệt để, cho nên mệnh cần vô chính diệu mới hợp cách. Còn tuần áp mệnh thì mức độ không mạnh như triệt. Các sao mềm như Cơ Nguyệt Đồng Lương có thể chịu được. Trong đó Đồng Cơ là một bộ tam hợp. Nguyệt Lương là một bộ tam hợp. 4 sao mềm nhất tử vi lý số.

Có người hỏi khi nào có thể phản vi kì cách. Chỉ có thể phản vi khi có yếu tố dương. Không có dương thì không thể phản vi. Như Không với Kiếp, phản vi chỉ có thể là Không. Hai tên bất lương Không Kiếp thì Không có đầu óc và thích lọc lừa. Kiếp khỏe chân tay và thiên về cướp bóc. Nói với Không, khuyên nhủ Không và chuyển hóa Không dễ hơn Kiếp. Không thuộc dương có sự bao quát dù cực đoan. Kiếp thuộc âm có sự cụ thể và chi tiết. Sát tinh âm như cái xấu đã thành hình khó mà chuyển hóa. Sát tinh dương như cái xấu mới sinh còn có thể uốn nắn. Cho nên muốn phản cách phải có yếu tốt dương. Phải có cái mầm của sự vươn lên ở trong bùn thì mới thành. Dương mộc là cây còn sống. Âm mộc là gỗ đã chết. Cây sống có thể uốn, cây chết chỉ có thể đục và ghép mà thôi.

....

Con người có hai cực đại là sinh và tử. Sinh được mặc định là cát, tử được quy ước là hung. Cát hung là việc của bản thân mình còn việc sinh tử liên quan đến người thân thì gọi là việc hiếu hỷ. Trong đó việc hỷ là việc có thêm người. Việc hiếu là việc có người thân qua đời. Trong chòm thái tuế 12 cung, việc hiếu được đánh giá bởi tam hợp Tang Tuế Điếu, trong đó ý nghĩa của Tang Môn và Điếu Khách khá rõ ràng chủ việc tang và người tới viếng. Việc hỉ được đánh dấu bởi chòm Đào Hồng Hỉ với Thiên Hỷ vĩnh viễn xung Hồng Loan. Tang và Hỷ là hai tam hợp liền kề nên không bao giờ xung chiếu nhau tạo cảnh dở khóc dở cười tróe ngoe.

Thiên Hỉ cũng được bố trí để không gặp được Thiên Mã. Nhưng chỉ khi đóng ở tứ chính là Hồng Hỷ không gặp Cô Quả. Còn lại Hồng Hỉ luôn gặp cô quả. Tức là có vui nhưng cô đơn.

Xét kĩ hơn thì Tuế Hổ Phù chủ cãi vã tranh chấp. Tang Tuế Điếu chủ tan buồn. Đào Hồng Hỉ chủ vui vẻ. Và Âm Long Trực chủ không cạnh tranh mà an phận.

Tức là có 4 thái cực: cạnh tranh, an phận, vui, buồn. Vui buồn có lẽ là hai thái cực rõ ràng. Còn cạnh tranh hay an phận đều gây nên những ấm ức. Tuế Hổ Phù ngoài nghĩa cạnh tranh có thể gọi là THẮNG. Còn Âm Long Trực ngoài nghĩa an phận có thể gọi là THUA. Vậy là có Vui, Buồn, Thắng, Thua.

Thắng thua xong lại vui buồn

Buồn vui rồi lại mưu cầu thắng thua

....

Cái gì hợp với Không sẽ ghét Mộ. Cái gì hợp với Mộ sẽ ghét Không. Vì Không là giải tỏa phóng khoáng thì Mộ là kìm nén tích tụ. Không là rộng thì Mộ là đọng. Không là cho thì Mộ là giữ. Nhật Nguyệt cần khoảng không để soi rọi. Nhật Nguyệt ghét tứ mộ o bế. Đồng Cự thích Không để đồng thoáng cửa mở, nên Đồng Cự ghét tứ mộ vì Đồng tắc còn cửa đóng. Hóa Kị thích tứ mộ an tĩnh như con mèo lười. Hóa Kị ghét Không thành mông lung. Nếu không gặp Không thì ít ra gặp tứ mã tung hoành. Quý nhân không cư tứ mộ nên Quý Nhân chẳng ngại Không Vong. Các cát tinh thích an định ở tứ mộ nên các cát tinh chẳng cần quý nhân. Quý nhân là dành cho hiểm cảnh. Tứ mộ như phe của bên bảo thủ bên có sẵn bên đang nắm quyền, chứ tứ mộ không hợp cho phe cách mạng. Cách mạng thích tứ mã xung động. Không Kiếp là sao âm nên thích tị hợi hơn dần thân. Đồng Lương phe chính nghĩa thích dần thân cung dương hơn tị hợi. Khi mộ gặp không vong thì không vong phá mộ. Dương mộ cứng như đá ong nên gia La Võng khẳng định. Âm mộ nhão như bùn lầy. Nên Triệt Kình phá La Võng vì Triệt chủ cắt phá chia tách. Âm mộ nhão nhoét nên cần Tuần để thu hút đóng khung. Cho nên Nhật Nguyệt ở sửu mùi cần triệt chia tách tại bản cung. Nhưng cung vcd ở mùi thì cần tuần để thu hút ánh sáng Nhật Nguyệt.

....

Sự cộng hưởng của các vòng sao trong tử vi cũng tương tự sự cộng hưởng các yếu tố trong đời. Ví dụ sự cộng hưởng của thời gian của sức khỏe của sự nghiệp của gia đình. Nếu thuở sức khỏe tốt mà tiền bạc sự nghiệp cũng tốt, gia đình cũng đầm ấm là lí tưởng. Còn nếu không có sự cộng hưởng. Ví dụ lúc khỏe thì nghèo, già rồi không mấy thời gian lại giàu thì không có mấy thời gian hưởng. Lúc khỏe thì nghèo lúc giàu thì yếu tiền cũng chỉ để chữa bệnh. Lúc nghèo thì cả nhà sum vầy. Giàu rồi gia đình li tán. Cho nên sự cộng hưởng của các vòng sao là quan trọng. Lúc lên được tất cả cộng hưởng nên năng lượng rất mạnh. Lúc xuống thì sự cộng hưởng năng lượng xấu cũng tạo ra sự chấm dứt gọn gàng. Cách cục Trúc La là sự cộng hưởng sát tuyệt của các vòng sao Trường Sinh (Mộc Suy Tuyệt); chính tinh ( Sát Phá Tham); Thái Tuế (Đào Hồng Không Sát). Khi đầy đủ các yếu tố thiên địa nhân, sự sát sẽ xảy ra. Đó là cốt yếu của cách cục. Cách cục cần có sự phối hợp của các vòng sao thuộc tam tài chứ không chỉ 1 tài thiên hay địa hay nhân.

Bạn xét thử Linh Xương Đà Vũ?

....

Trời tròn đất vuông. Tự nhiên tròn. Khoa học vuông. Nếu thứ nguyên của vuông là 1 thì thứ nguyên của tròn là pi. Nếu thứ nguyên của tròn là 1 thì thứ nguyên của vuông là pi. Thứ nguyên của vuông và tròn không thể nào cùng là số nguyên. Pi là số vô tỷ. Cho nên khoa học mãi mãi chỉ tiệm cận tự nhiên. Không tài nào trùng khít. Nguyên tắc lề lối xã hội loài người cũng vuông. Luật pháp loài người cũng vuông. Đời thực thì lại tròn. Con người từ xưa đã phát hiện ra sai khác này nên đã bỏ vuông mà theo tròn. Đó là những người đi tu. Đó là sự phát biểu Đạo khả đạo phi thường đạo. Đạo là hình tròn không thể mô tả bằng hình vuông dù số hình vuông là rất lớn. Người theo tròn thì thờ chân lý. Người theo vuông thì thờ chiến thắng. Người chiến thắng được gọi là thành công. Còn người theo tròn thì không có thành công. Vì không có thành công nên không có thất bại. Nhưng Phật phải ở trong chùa. Phật phải ở trong đời.

Có đạo thì cũng có đời

Đời không muốn thấy đạo truyền ở đâu

Vì tròn nên đời không hiểu đạo. Khi kể về đạo phải dùng vuông để kể thì đời mới hiểu. Vuông là ngón tay chỉ. Tròn là mặt trăng. Vì tròn nên không thể nắm bắt không thể đặt để. Nên tròn phải được bọc bên ngoài là vuông. Để có thể đặt để trên bàn trên kệ thờ cho người đời ngắm nhìn tròn.

Nhìn vuông là để ra tròn

Thấy tròn là lúc chẳng còn thấy vuông

...

Cự là trả lời. Cơ là hỏi. Không hỏi mà trả lời là vô duyên cho nên Cự gặp được Cơ là miếu địa.

Cự là logic. Cơ là con số. Cự gặp Cơ là vừa có số vừa có lý. Cự không thì thiên về logic. Cơ không thì thích cụ thể. Cho nên Cự Cơ thành kì cách. Nhiều nhà toán học có Cự Môn ở mệnh. Cũng nhiều thầy giáo dạy toán có cách cục Cơ Không Kiếp.

Cự là nói. Cơ là suy nghĩ. Cự Cơ là nói có nghĩ.

...

Càn là càn rỡ. Khôn là khôn ngoan. Li là li tán. Khảm là hợp vào. Tốn là tốn kém. Cấn là lấn cấn. Chấn là chấn động. Đoài là đòi hỏi.

Tưởng đùa mà thật.

...

Mệnh là cái đầu. Thân là đôi tay. Phúc là tâm.

Không Kiếp là dối trá. Hỏa Linh là điên loạn. Kình Đà là cố chấp.

...

Tâm thiện đến đâu, phúc sâu đến đó.

Tâm nhẫn đến đâu, phúc lâu đến đó.

...

Tuần là bùng binh. Triệt là đèn xanh đèn đỏ. Một cách hóa giải xoay tròn. Một cách hóa giải ngăn chặn.

...

Bùng binh là một sự ngăn trở đối với đường thẳng và sự nhanh. Nhưng bùng binh là cơ hội để các xe chuyển hướng an toàn.

Đèn giao thông là sự ngăn trở của đường thẳng và sự nhanh. Nhưng cũng là cơ hội để các xe chuyển hướng an toàn.

Đối với các xe không muốn chuyển hướng thì Tuần và Triệt là sự cản trở. Tuần thì chuyển chậm và liên tục. Triệt thì đóng mở đóng mở. Sự xung đột của Sát Phá Tham ở mức độ nào đó cần có sự hạn chế điều chỉnh của TT. Đây chính là các tổ lái đường phố. Tử Phủ là xe nguyên thủ trong nước. Nhật Nguyệt là xe nguyên thủ quốc tế. Tử Phủ Nhật Nguyệt ít thích Tuần Triệt.

...

Tiểu vận tốt trong đại vận xấu như ngày nắng trong mùa mưa.

...

Lá số bà Nancy Reagan cách cục Phủ Tướng triều tam không hội đủ Tả Hữu Long Phượng Lộc Ấn nên quý cách. Mệnh VCD ngoài Nhật Nguyệt có thể nhận sự đầm ấm của Phủ Tướng. Vì Phủ Tướng không hóa nên ưa thích Lộc Tồn. Vì VCD không vong nên ưa thích Mộc Suy Tuyệt.

Cơ bản những tranh cãi tồn tại vì người đời không chịu tìm cách cục khi xem một lá số tử vi. Quý? cách cục gì? Phú? cách cục gì?

...

Cách cục VCD đắc tam không hội song Lộc là kì cách. Nếu không có song Lộc mà chỉ có tam không thì nhiều ý tưởng, thông minh nhưng không có thành quả.

...

Lá số VCD của Trần Lập tại dậu được tổ hợp Tử Phủ Vũ Tướng khá tốt đẹp. Tổ hợp Nhật Nguyệt tịnh minh thiếu song Lộc và bị sát tinh xâm phạm. Đại vận Nhật Nguyệt phát mạnh nhưng mệnh VCD đến đại vận Sát Phá Tham là vận Trúc La nên gặp ác hạn. Mệnh thân nhiều sát tinh có Tuần Triệt án ngữ như bom Văn Phú nổ chậm. Hình thái cách cục giống lá số Lý Tiểu Long và John Lennon, sát tinh ngộ chế. Đến khi không thể chế thì tác họa.

Kì lạ cả thái tuế Lưu niên ĐV và tiểu vận đều hội cung tật. Phải chăng gợi mở một cách xem vận?

Tiểu vận có Riêu Y Bệnh Phù. Năm Bính Liêm hóa Kị xung tật. Kị thủ có thể thoát nhưng Kị xung thì khó né. Đại vận Bính Tý Liêm lần nữa hóa Kị xung tật. Xem ra không phải ngẫu nhiên mà Hóa Kị cố tình tác họa. Một bản mệnh vốn bị Kị xung ẩn tàng sự bất trắc sẽ đến trong cuộc đời. Đến vận liên hoàn Kị xung nữa thì không đỡ nổi.

...

"Lộc tùy Kị tẩu" cho biết rõ thế nào là Kị xung, thế nào là Lộc xung, thế nào là phát xạ, thế nào là thu liễm.

Nếu Lộc là ánh sáng thì Kị là con mắt.

...

Hóa Lộc thủ, Hóa Quyền chiếu và ngược lại Quyền thủ Lộc chiếu trường hợp nào tốt hơn? Trả lời câu hỏi cơ bản này là cả một nghệ thuật cầu kì.

...

Vốn có một Hóa Kị, lại thêm một Kị đến xung. Tốt hay xấu? Chọn đúng thiên đường, chọn sai ra đường. Đây cũng là một nghệ thuật cầu kì.

...

Cung vốn có Hóa Kị, vận có Hóa Lộc đến xung hàm ý tốt hay xấu? Chọn đúng là thiên đường, chọn sai là ra đường. Lại một nghệ thuật cầu kì.

...

Cung phu, cung nô, hay cung tử tức liên quan trực tiếp việc có người yêu nếu người đó chưa kết hôn?

...

Nhân có bạn nói về nhất lục cộng tông. Lưu ý nhất lục cộng tông là cặp đối ngẫu nhưng chỉ có một chiều thuận sinh là chiều nghịch của địa bàn. Nghĩa là xem phúc để rõ hơn về nguồn tử tức. Xem tật để rõ hơn nguồn phúc. Xem mệnh để rõ hơn nguồn họa. Xem tài để rõ hơn nguồn điền.

Nhưng cũng có nghĩa là xem tử để rõ hơn về hậu của phúc. Xem nô để rõ hơn về hậu của phối, cho nên có ý kiến cho rằng nô là vợ hai hoặc chồng hai. Cái đó đúng. Xem phúc để rõ hơn về hậu của họa. Xem điền để rõ hơn tiền có tích lũy được không. Bắc phái xem điền để biết có của tích lũy không. Xem họa để rõ hơn hậu của mệnh.

MỆNH ---> HỌA --->PHÚC

PHỤ--->TÀI--->ĐIỀN

PHỐI--->NÔ--->MỆNH

Bạn có liên hệ gì duyên khởi duyên diệt của VẬN?

Đây cũng là một nghệ thuật cầu kì.

Cung số 6 là đối xứng của cung bên cạnh cung 1. Nói chung loanh quanh là chủ sự tiếp diễn. Cho nên nhất lục cộng tông nghĩa là cùng 1 tổ mà ra.

...

Nếu xếp các việc con người làm theo một thang bậc thiện- ác đúng- sai. Thì ranh giới thiện-ác đúng-sai sẽ được tâm lý con người quy ước là ở giữa. Dù cái thang đó có dài ra hay ngắn lại theo thời gian thì lằn ranh tâm lý luôn rơi vào giữa.

Luật pháp là sự quy ước cái ĐÚNG. Thế nào là ĐÚNG thì xem luật. Không đúng luật là sai. Nếu không có luật pháp thì không có căn cứ để xử đúng sai. Luật pháp thay đổi theo thời gian căn cứ vào thực tế và kinh nghiệm xử thế của loài người. Và luật pháp luôn có xu hướng tiệm cận chân lý nhưng không phải chân lý.

Người có đạo đức đơn giản là người tuân thủ luật pháp. Sống thời nào theo luật pháp thời đó. CÔNG LÝ là cái lý của công chúng. Công chúng là đa số xã hội. Họ quyết định thế nào là Đúng.

Luật pháp là giao ước giữa người và người với nhau. Để khi xảy ra chuyện thì căn cứ vào đó để xét và xử.

Người bị luật pháp giết là người bị người giết. Người chết già là người bị trời giết vì những quy luật hạn chế của sinh giới.

Thái Tuế là luật pháp, Bạch Hổ là công an, Quan Phù là viện kiểm sát.

...

Cơ bản thì số phận có hai phần. Phần do mình chủ động và phần do mình thụ động. Nỗ lực bản thân chỉ có thể thay đổi phần chủ động. Còn phần bị động thì vô phương. Mở rộng phần chủ động càng rộng càng tốt cũng là một cách thay đổi số phận. So sánh khập khiễng là nắm đằng chuôi. Gốc rễ là Tâm. Thân cành là Ý. Lá quả là hành động. Vì vạn vật đồng nhất thể nên cơ cấu bộ máy quốc gia cũng vậy. Tâm chính là ý thức hệ, cộng sản hay tư bản. Ý chính là ý thức hệ được diễn giải thành văn bản như Hiến Pháp Luật Pháp. Hành chính là sự thực hành những quy ước đó. Số phận phần chủ động được quyết định trực tiếp bởi hành động. Mối quan hệ này tuân theo quy luật tự nhiên. Hành động thế này sẽ tương ứng có hậu quả thế này. Hành động thế kia có hậu quả thế kia. Hành động thường theo thói quen. Hành động cũng chính là lựa chọn. Chọn làm cái này không làm cái kia. Chọn người này không chọn người kia. Hành động là chuỗi các lựa chọn. Lựa chọn thì bị quyết định bởi Ý. Ý chính là muốn hay không muốn. Ý bị quyết định bởi tâm. Tâm ác thì có ý giết người. Tâm thiện thì không nảy Ý giết người. Dù cả hai loại tâm có rơi vào hoàn cảnh như nhau thì lựa chọn cũng khác nhau. Trả đũa hay không trả đũa. Lấy hay bỏ. Thông minh là cấp độ của Ý. Sáng ý là thông minh. Tối ý là ngu. Thông minh là có tài. Có người tài mắt có người tài tay. Nôm na đều sáng ý. Tài là có làm được không? Đức là có nên làm hay không? Thông minh không có nghĩa là tâm tốt. Vì ý nằm dưới cấp độ của tâm. Ý như con sao. Sắc hoặc cùn. Tâm quyết định con dao đó nấu ăn hay chém người. Cho nên muốn đổi số phận thì tu Tâm. Tâm dẫn Ý tốt theo. Ý lại chỉ thân làm gì. Kết quả của hành động chính là phần chủ động của số phận. Biểu hiện của số phận thay đổi là thói quen thay đổi. Biểu hiện của số phận thay đổi là quan điểm thay đổi. Cụ thể là cách làm thay đổi. Ba cái đó chưa thấy thay đổi thì ta chỉ già đi và chờ may rủi của phần còn lại của số phận rơi xuống thôi.

...

Thanh kiếm cắm xuống là biểu tượng của quyền lực, sự răn đe. Kiếm chỉ lên trời là khởi nghĩa tấn công. Kiếm giương ngang là phòng thủ. Đó là tam kiếm.

...

Vì sao lấy vòng Thái Tuế làm thước đo các sao khác mà không lấy vòng Lộc Tồn? Vì vòng Thái Tuế không phụ thuộc vào địa bàn như vòng Lộc Tồn Bác Sĩ. Lộc Tồn ít ra phải né tứ mộ.

Vòng Trường Sinh còn phụ thuộc hơn khi Trường Sinh buộc phải đóng ở 4 cung dần thân tị hợi.

...

Các bạn học tử vi có phương pháp có hệ thống dù chưa giỏi rồi sẽ giỏi. Còn không có hệ thống, dù nay đoán trúng mai lại đoán trật cũng chẳng biết vì sao.

...

Thông thường tam hợp phái cho rằng xung chiếu và thủ là giống nhau. Nhưng tứ hóa phái cho rằng thủ và chiếu là khác nhau, thậm chí còn có một chiều. Đó chính là phép hội sao: sự phân biệt chiều hội chiếu.

...

Việc xem vận hạn cần có nguyên tắc. Có nguyên tắc mới hiểu căn nguyên. Như một người vốn có tính ăn cắp. Gặp được kho hàng mới nảy sinh lòng tham. Đến khi người gác lơ là mới thực hiện hành vi ăn cắp. Chứ không phải ai lúc nào thấy kho hàng cũng ăn cắp.

Xem vận cũng vậy. Hiện nay đa số xem vận từ ngọn. Thấy tiểu vận quét vào cung nào liền đoán sự việc liên quan cung đó. Thì làm sao trúng. Lá số lập nên cho biết tiềm năng ý hướng của mệnh tạo. Nhưng đó chỉ là cách cục chứ không cho biết cát hung. Đến đại vận thì những ý hướng đó bắt đầu nổi rõ hơn. Và trận địa bày sẵn. Khi lưu niên dẫm phải đúng kíp nổ. Sự kiện liền xảy ra. Như vậy sự kiện có gốc có thân mới có ngọn. Truy tìm từ gốc có thể dò được năm lưu niên ứng kì. Trong đại vận có khả năng phát quyền. Lưu niên tới kích hoạt sẽ phát quyền. Trong đại vận không phát quyền. Lưu niên tới đấm bùm bụp vào cung quan cũng không đổi. Xem tiếp về gốc của quyền. Như Quang Trung bẩm sinh là thiên tướng quân. Đến vận phát quyền sẽ khác hẳn người thường. Mình không có, đến vận mượn được chỉ là cái áo sặc sỡ bên ngoài mà thôi. Quá vận sẽ trở lại con số 0 ban đầu. Nên cơ bản lộ trình xem vận là Thiên- kết cấu lá số (chủ tư chất tiềm năng thiên khiếu sở trường), Địa- đại vận dẫn hóa (chủ cách cục và xu hướng cát hung), Nhân- lưu niên ứng kì (chủ cát hung). Xem trong đại vận có tín hiệu phát tài mới tìm lưu niên phát tài. Đại vận tuy vẫn là cách cục nhưng đã đóng khung ấn định cát hung rồi.

...

Trong cả rừng phú và sách, các bạn học tử vi hãy chọn cho mình những nhận định chuẩn mực (nói cách khác là ví dụ mẫu). Học thuộc và kiểm nghiệm nhiều lần nhận định đó. Sau tích lũy các nhận định đó sẽ hình thành yếu lĩnh của phép xem. Còn hơn lan man ôm đồm quá nhiều nhận định. Nếu cả quyển sách tóm lược vào 10 câu trọng yếu. Thì 10 câu đó là gì?

Hàng Long Thập Bát Chưởng cũng vậy. Đó là 18 chưởng tiêu biểu đủ để toàn diện cho phép đánh. Tuy là trong thực tế có nhiều biến hóa đa đoan nhưng con số 18 đủ để đại diện những trọng yếu. Nắm vững 18 phép đó có thể tự biến hóa toàn diện. Các tiền bối trải qua quá trình nghiên cứu và chắt lọc thấy rằng không thể rút xuống 17 chiêu, còn nếu để 19 chiêu thì thừa. Như một giáo trình ngoại ngữ, các vấn đề đưa ra là chọn lọc với mục đích là đơn giản nhất nhưng toàn diện nhất. Cho nên học trọn vẹn một giáo trình tốt hơn mỗi quyển học một tí.

Sách của Trung Châu tuy tỉ mỉ nhưng nhược điểm là dễ gây loạn. Nếu người đọc rút được những câu trọng điểm và từ đó nương vào thì đỡ khổ hơn.

...

Ăn mặc là hình thức, phòng ở là nội tâm. Macbook là hình thức, quản lý file là nội tâm. Cả hai đều quan trọng, nội tâm là bên trong nên theo thời gian sẽ bộc lộ ra sau.

...

Con đến trường để học tập. Học tập để khai phá tiềm năng của bản thân rồi sau này đóng góp xã hội. Giáo dục là để phát hiện sở trường và vun đắp sở trường, định hướng thành sản phẩm hữu ích cho cộng đồng. Chứ học tập không phải để hơn người, không phải để hơn con nhà hàng xóm như tiềm thức ăn sâu vào đa số phụ huynh Việt. "Mày cũng chẳng bằng con người ta".

...

Theo chiều nghịch của địa bàn: quan ---> mệnh ---> tài. Cung quan là khí chất bên trong mệnh. Cung tài là biểu hiện bên ngoài mệnh.

Nói về đời thực, tiền tài là phục sức bề ngoài. Khả năng và khí chất ẩn ở bên trong.

...

Khi năm sinh gửi tứ hóa đến các cung. Các cung có 4 thái độ đối với hóa khí được gửi đến. Đó chính là tự hóa. Đây là mô phỏng chính xác nhất tâm tư của đời người. Khi người khác yêu (Hóa Lộc) bạn. Bạn có 4 cách đối đáp: yêu lại (Lộc), kiêu kì (Quyền), hòa nhã (Khoa), thu mình lại (Kị). Tương tự khi người khác đánh (Quyền) bạn, bạn có thể: cười nhăn nhở, đánh lại, phân bua, và sợ hãi. Bạn tươi cười chào (Hóa Lộc) người khác. Người khác có thể niềm nở lại, có thể kiêu, có thể chừng mực, có thể sợ hãi bị bạn lừa. Đó là phản ứng nằm ngoài ý muốn của ta.

Cho nên đừng có ngồi trách đời sao phũ với mình. Đời nó phũ chung với mọi người. Còn cách phản ứng với cái phũ đó là do mình

...

Điền của nô chính là nô của điền, đó là cung tài bạch. X của Y chính là Y của X với bất kì X hay Y là gì.

...

Hoá Kị cung phối ý là một người cũng thấy nhiều. Hoá Lộc cung phối ý là bao nhiêu người cũng còn ít. Hoá Kị là ghét, Hoá Lộc là yêu quá. Yêu quá hay ghét quá đều dẫn đến một kết cục chung. Điều này khác với nhận định truyền thống rằng cứ Khoa Quyền Lộc là tốt. Ai dè trong thực tế Lộc cũng cho kết quả li hôn. Cho nên hiểu bản chất cách cục và hiểu qua loa về cách cục cho kết quả sai một li đi một dặm. Tương tự thì Khoa Quyền cung phối cũng không hề dễ chịu.

...

Nếu tam hợp phái là phái của tam hợp thì tứ hoá phái là phái của chính xung.

...

Phụ mẫu của vợ mình là bố mẹ vợ chính là phối của phụ mẫu. Tức phối của phụ mẫu mình là ông bà thông gia của bố mẹ mình.

Tử tức của phụ mẫu chính là phụ mẫu của tử tức, hay chính là con dâu của bố mẹ mình, tức mẹ của con cái mình, tức vợ mình.

Bào của phụ mẫu chính là phụ mẫu của bào. Bào của phụ mẫu là cô dì chú bác mình, chính là phụ mẫu của bào tức bố mẹ của tụi anh em họ mình.

Tử tức cố định là con mình, thì Tử tức của phép di cung là con dâu con rể. Phối của mình là vợ mình, phối của bố mẹ mình là thông gia. Như vậy bản chất cung phối là thông gia.

Qua di cung anh em là anh em họ.

Nhờ đó ta biết phép di cung là phép "phối chéo", âm với dương và dương với âm. Khi dương với dương là chính, âm với âm là chính, thì âm với dương là chéo. Trong đời thực có mối quan hệ bố mẹ vợ, anh em họ, chẳng lẽ trong mệnh lý không có.

...

Cát tinh hãm: tiền hung hậu cát, ví dụ Thái Dương hãm thành công muộn, đây chính là thiếu dương trong tứ tượng.

Sát tinh miếu: tiền cát hậu hung, ví dụ Không Kiếp miếu bạo phát bạo tàn, đây chính là thiếu âm trong tứ tượng.

...

Vận đến vòng Thái Tuế là đến thiên thời, vận đến tam hợp mệnh như được là chính mình. Cát hung là do trời nhưng sướng khổ do mình cảm nhận. Giả sử tam hợp mệnh không trùng tam hợp Thái Tuế thì ví dụ tinh giản nhất là: đến tam hợp Thái Tuế được làm vua, còn đến tam hợp mệnh được sống như chính mình. Làm vua là thành công nhưng sống như chính mình là hạnh phúc. Kiếp nhân sinh ảo diệu ở chỗ là được cái này mất cái kia. Đây chính là dạng thiếu âm thiếu dương trong tứ tượng. Người học thường bị loạn những chỗ này. Đây cũng là yếu quyết để xem vận. Tam hợp mệnh là một dạng "đúng" như tam hợp Thái Tuế thì nô và tật chính là "sai", cho nên đặt Thiên Thương và Thiên Sứ làm dấu.

...

Theo nhất lục cộng tông:

Cung di là cung bào hậu thiên. Gọi là anh em xã hội, những người bạn quen từ xã hội.

Cung thê là điền hậu thiên. Vợ chính là gia đình. Người xưa gọi là hiền nội.

Cung phúc là tật hậu thiên, tử là phúc hậu thiên, tật là mệnh hậu thiên.

Cung quan là tử tức hậu thiên. Công việc là đưa con tinh thần. Đi nghịch nhất lục từ mệnh đến quan là 5 bước, bằng đi thuận từ mệnh đến quan cũng là 5 bước.

Cung bào là quan hậu thiên, là quan của cung điền. Về điền là về vườn. Bào là công việc lúc về vườn.

...

Khó khăn của tử vi không phải là tìm ra cái mới, mà sử dụng cái đã có đúng như vai trò của nó, sắp xếp cái đã có đúng như trật tự của nó, một cách đơn giản nhất.

...

Tang Tuế Phá cùng âm dương nhưng nghịch ngũ hành. So với dương tử phúc thuận ngũ hành nhưng nghịch âm dương, cái nào tốt hơn? Trả lời được thì bạn giỏi nhì thế giới.

...

Trước đây tư duy của chúng ta cho rằng Tuần và Triệt là cản trở, rồi tiến bộ hơn lại cho rằng Tuần Triệt là lực lượng điều chỉnh. Để rồi vẫn mơ hồ câu hỏi: vậy miếu địa gặp Tuần Triệt thì xem thế nào.

Bây giờ hãy thay đổi đi. Hãy nghĩ rằng TT là cách điều chuyển năng lượng khác đi. Nghĩa là miếu hay hãm khi gặp TT vẫn là miếu hãm. Nhưng ví dụ Tuần câu hút năng lượng Nhật Nguyệt về, vo lại, nén dần, nén dần, đến khi thật chặt thì mới làm một cái nổ bum. Đó, mới là Tuần Triệt.

...

Tuần tích tụ dồn nén đến cực hạn thì bung ra. Triệt vét sạch dốc sạch năng lượng đến cực hạn thì co lại. Triệt giống như dùng doping, kích thích và vét sạch sức lực dùng khi đó để ngày mai nằm bệt mệt mỏi gấp n bình thường. Tuần cộng, triệt trừ. Tuần già Triệt trẻ. Tuần muộn, Triệt sớm. Đó là cách sử dụng năng lượng của Tuần Triệt vậy.

...

Thái Dương ngọ nên gặp Triệt, Thái Dương tí nên gặp Tuần. Chân lí giản dị vậy thôi.

...

Không phải cứ số nào cũng lên chức là hay, số nào giàu là hay. Quan trọng là đi đúng con đường của mệnh thì cuộc đời sẽ hanh thông. Còn cứ chạy theo thói đời thì sẽ đau khổ. Xem tử vi để nhìn ra con đường của mệnh. Công chức hay binh nghiệp hay tá điền. Đi con đường nào cũng có cái hay riêng. Sự an phận của người hiểu và không hiểu mệnh ở chỗ đó. "Số tôi không giàu" từ người bi quan và người hiểu mệnh nói ra khác nhau ở chỗ đó. Phương Tây gọi là sở trường sở thích. Phương đông chúng ta gọi là Số Phận. Làm một bà nội trợ hạnh phúc chồng con thành đạt còn hơn bon chen làm bà công chức làng nhàng. Hạnh phúc là đi đúng con đường vận mệnh của mình. Không hão vọng, dù con đường số mệnh của mình nhàn hay vất vả. Chỉ cần là số mệnh của mình, mình sẽ đi hết con đường đó. Đó chính là kiên định, đó chính là cá tính, đó chính là đặc sắc. Đi đúng đường mình sẽ tôn trọng đường người khác. Anh đánh cá việc anh, tôi kiếm củi kệ tôi. Giúp được nhau thì tốt, không thì đường ai nấy đi. Vui với cái của chính mình sẽ thông cảm với cái của người khác. Tử vi giúp con người thấy được con đường vận mệnh.

...

Lưu niên Thái Tuế:

Hoá Lộc nhập/ xung mệnh còn Hoá Kị nhập/ xung thê: lấy vợ.

Hoá Lộc nhập/ xung thê còn Hoá Kị nhập/ xung mệnh: bỏ vợ/ vợ bỏ.

Vì sao? Phải chăng vì một khi phụ nữ họ đã nắm được Hoá Lộc, họ cần chồng làm gì? Không phải, mà vì sự vận hành của Lộc Kị, cái chúng ta nói với nhau thành công thức như trên chỉ để dễ nhớ.

...

Lưu niên phi Hoá Lộc nhập tật, Hoá Kị nhập mệnh thì năm đó báo hiệu là năm xấu. Đừng nhầm Lộc di mệnh Kị nhé. Lộc di mệnh Kị lại tốt.

...

Tất cả nhận định của tiền nhân trong tử vi đều đúng, vấn đề là đúng đến đâu?

...

Thái Tuế Lộc Tồn chỉ là cột mốc, lên hay xuống do thời vận. Thời vận thay đổi từ các dấu mốc đó. Lên xuống tuỳ trường hợp.

John Lennon, Nguyễn Cao Kỳ, Tưởng Giới Thạch, John Kennedy, Muhammad Ali, Tôn Trung Sơn đều "ra đi" trong đại vận Thái Tuế.

...

Vận trình như nắng mưa bên ngoài. Cái cây còn sống thì nắng mưa rồi cũng qua hết. Nếu cây đã chết, vào nắng sẽ khô, ngâm mưa sẽ mục. Vấn đề không phải mưa nắng mà là nội tại cái cây.

Trong tử vi cái gì là nội khí?

...

Các tình yêu thấy chưa. Chung quy cứ phải Hoá Lộc Hoá Quyền. Cho dù cực hãm, làm cái phản hoá là xong. Tự cường là tự do. Kể cả có Không Kiếp Hoả Linh, có Quyền Lộc là thành Tôn Trung Sơn vĩ đại. Tiền và quyền có thể sai khiến và sử dụng côn đồ cũng như quân đội. Tuy nhiên để bền vững phải có Khoa và Kị.

...

Địa chi cho biết cái gì. Thiên can cho biết như thế nào. Cho nên vận địa chi như lưu niên thái tuế và tiểu vận, dù xem cách nào cũng chỉ cho biết cái gì. Thiên can tứ hoá mới cho biết cát hung. Sự cát hung do tứ hoá biểu hiện cũng giản dị. Như đại vận cung mão của Mao Trạch Đông, mới nhìn thì Không Kiếp hãm địa VCD, nhưng đại vận có Lộc Quyền nguyên thuỷ và Lộc Quyền đại vận xung chiếu, đại vận đó thành công quyết định, đả bại Tưởng thống nhất Trung Hoa. Như số của Tôn dù có Hoả Linh Không Kiếp, có Lộc Quyền chuyển thành cát cách. Thành công trong con mắt người đời, đó là Lộc Quyền.

...

Thượng trung hạ cách của tử vi có thể nhìn thấy từ vị trí của tứ hoá nguyên thuỷ. Thông thường các tổ hợp như tứ hoá toàn phùng là cực mạnh, Khoa Quyền Lộc là mạnh, sau đó đến Lộc Quyền, rồi Quyền Khoa, Quyền Kị... Các tổ hợp thiếu Hoá Lộc yếu hơn các tổ hợp khác. Ví dụ như Khoa Quyền hay Quyền Kị đều không tồi nhưng không thể so với Lộc Quyền. Kể cả Lộc Khoa cũng là tổ hợp khuyết thiếu. Đôi khi đơn hoá hợp cách lại có tác dụng tốt hơn nhị hoá hay tam hoá lủng củng.

...

Quang Quý Thai Toạ là dạng hoá khí của tứ cát Xương Khúc Tả Hữu. Xương Khúc Tả Hữu khi hoá cũng có thể thành Khoa Kỵ nhưng không thể thành Quyền Lộc. Vì tiến hoá của XKTH đã là Quang Quý Thai Toạ. Ứng dụng là gì? Là các sao hoá khí có thể dùng làm cơ sở để xét đoán. Tinh đẩu khi chưa hoá cũng như cá chép, hàm ý và tình tứ chưa rõ ràng. Còn khi đã hoá, là rồng, ý tứ là rõ rệt, biểu hiện cũng đơn nhất, tính chất cũng tinh tuý. Cho nên tứ cát Tả Hữu Xương Khúc ít được nhắc đến, hay nói đúng hơn là không cần nhắc đến. Chỉ xét tương tác tứ vinh, tứ hoá và lục sát đã đủ bao hàm trong đó: chính là tương tác của cát tinh và sát tinh. Thêm Không Vong đại diện thiên hãm, La Võng đại diện địa hãm, Thương Sứ đại diện nhân hãm. Gộp là lục hãm. Quý tinh, tứ hoá, sát tinh, và lục hãm phơi bày là đầy đủ căn cứ xét đoán một lá số. Không thể thiếu sót.

...

Sinh 1 đến 6, thuỷ nhị cục

Sinh 7 đến 12, mộc tam cục

Sinh 13 đến 18, kim tứ cục

Sinh 19 đến 24, thổ ngũ cục

Sinh ngày 25 đến 30, hoả lục cục

Là chính cục.

...

Tháng chủ cung, ngày chủ tinh.

...

Hình: có vẻ bề ngoài là cái máy bay

Lý: bay được

Khí: nhiên liệu

Vận: may hay rủi

Dụng: tầm ảnh hưởng bao lâu bao xa, bao nhiêu quan trọng? Máy bay do thám không người lái tuy nhỏ nhưng tầm ảnh hưởng có khi hơn Boeing 747.

Máy bay mô hình bán cho trẻ em khá giống bề ngoài nhưng không bay được. Máy bay đồ chơi bay được nhưng tầm ảnh hưởng chỉ là đồ chơi, tầm ảnh hưởng chỉ là vài trăm mét, sức bền chỉ là vài chục phút.

Nhưng mà có hình rồi mới xét lý, có hình lý mới xét khí. Không có hình lý chỉ có mỗi khí thì như hồn không có xác nhập vào, như địa chi không có thiên can biểu hiện.

Lý là sự hợp lý, hợp lý về khí động học, hợp lý về trọng trường mới bay được.

Hình lý khí cần tương xứng với nhau. Nếu không cân xứng thì vô dụng. Khí vượng thì lớn, khí suy thì nhỏ, khí âm thì lâu, khí dương thì mạnh mẽ.

Lý trong tử vi là cách cục. Cách cục là tổ hợp có lý của vài sao. Cách cục đó thấm đậm khí âm dương ngũ hành thì mạnh mẽ, không thì hời hợt nhếch nhác.

Hình dáng: chuẩn cho vận động viên bơi lội.

Lý: bơi đúng kỹ thuật

Khí: yếu

Vận: đen

Kết quả: vô dụng

Khí: vượng

Vận: đỏ

Kết quả: 100 huy chương vàng Olympic

...

Nói về tam hợp phái có thể gói trong hai câu:

Bị rách nhưng lại có vàng

Tuy rằng miếu đổ thành hoàng còn thiêng

...

Cự Môn hoá Lộc: tán dương, khen ngợi

Cự Môn hoá Quyền: đe doạ, hạ lệnh

Cự Môn hoá Khoa: giảng giải

Cự Môn hoá Kị: oán trách

Cự Môn Không Kiếp: nói dối

...

Miếu hãm của tinh đẩu có giá trị đáng kể. Cho dù không gặp phản cách Lộc Quyền nhưng sự miếu đắc của sát tinh vẫn cho kết quả tốt đẹp. Cho nên nếu gặp Hoá Kị tứ mộ, hay Kình Dương tứ mộ đơn lẻ. Có thể nhận định đó là tốt. Miếu hãm của tinh đẩu dù sao cũng do Khí mà ra. Tinh đẩu là cái Hình, cách cục là sự có Lý, miếu hãm là một biểu hiện của Khí.

...

Bệnh tật thuộc về mộ. Ngưng đọng trì trệ. Cần gặp Không để khai phá sự ngưng trệ này. Nên bệnh nhẹ gặp Không thì khỏi, bệnh nặng gặp Không thì vong.

...

Chính tinh mệnh thân của con cái ứng với chính tinh cung tử tức của cha mẹ, hoặc cung mệnh thân của cha mẹ. Cho nên đôi khi vận cha mẹ mất chưa chắc đã động cung phụ mẫu mà động tinh đẩu chính là chính tinh mệnh thân của cha mẹ. Ví dụ cha mệnh Thiên Tướng đến năm mất thì vận người con nhập đúng cung có Thiên Tướng.

...

Cách xem tiểu vận cho tuổi âm cần được rà soát lại nghiêm ngặt.

...

Trước khi học cách xem vận cần nắm được học thuyết tam tài thì sẽ không bị thừa hay thiếu.

...

Không có một quy luật hay công thức nào đơn điệu như kiểu vận rơi trúng cung thê thì cưới, hay Hoá Kị xung thê thì li hôn, vì vận rơi cung thê có thể cưới có thể bỏ, Kị xung cung thê có thể cưới có thể bỏ. Bởi vì đó chỉ là một yếu tố. Cần có ít nhất ba yếu tố độc lập mới đủ cho hệ quy chiếu tam tài. Cho nên có những vòng lặp 10 năm hoặc 12 năm khi thiên can hay địa chi quay lại đúng như vậy nhưng sự kiện thì không giống nhau.

...

Đàn ông lấy vk rồi thì mang tượng Thái Âm.

Đàn bà lấy ck rồi thì mang tượng Thái Dương.

...

Vượng suy là quan hệ can và chi. Hợp phá là quan hệ can và can. Hợp xung là quan hệ chi và chi. Chung quy tử bình chỉ có hai loại quan hệ này, cùng âm dương và khác âm dương. Cho nên dụng thần cũng chỉ có hai loại: một loại theo vượng suy và một loại theo cách cục.

Mối quan hệ can can hay chi chi là mối quan hệ tiềm năng, tức là có thể xấu cũng có thể tốt, chưa thể kết luận. Ví dụ địa chi tương xung có thể kích phát cũng có thể huỷ diệt. Yếu xung mạnh là kích phát. Mạnh xung yếu là huỷ diệt. Mối quan hệ can- chi hay mối quan hệ vượng suy là mối quan hệ có thể kết luận. Nói cách khác quan hệ can-can chi-chi là quan hệ cần, quan hệ can-chi là quan hệ đủ.

Nhưng như vậy cho biết cách cục dụng thần cần xét trước. Sự mạnh yếu của cách cục được xét bằng vượng suy. Từ đó mà có cách cục cao thấp.

Trong bốn trụ thì năm ngày cùng tính âm dương. Tháng giờ cùng tính âm dương. Năm như phúc đức, ngày như bản mệnh. Năm là gốc mệnh của mình, là mình khi nhỏ. Ngày là mệnh sau này mình tạo ra được. Tháng là lực lượng phủ chụp mình quản mình. Giờ là lực lượng mình tạo ra và do mình quản. Nó như quan và tài của tử vi. Cho nên khi năm hay ngày bị vận tới xung. Sự ảnh hưởng là trực tiếp rõ ràng. Khi tháng và giờ bị xung, sự ảnh hưởng là gián tiếp và từ từ. Có thể ví dụ cực đoan như bản thân bị ốm và vk con bị ốm. Đều là ảnh hưởng nghiêm trọng nhưng một trực tiếp một gián tiếp khác nhau.

...

Mỗi tam hợp lấy một cung đại diện. Tứ tượng của tử vi có thể là: ta (mệnh), người (nô), phúc (phúc), hoạ (tật).

...

Thái Dương cư tỵ miếu địa nhưng là cung âm, vì thế bên ngoài có danh có tí rực rỡ, nhưng mà bên trong không có thực như bên ngoài. Ví dụ: có danh nhưng mà nghèo, hoặc có tài nhưng không gặp thời. Cái lệch về âm dương ảnh hưởng đến bên trong, đến sự lâu dài, chứ không dễ thấy như bề ngoài.

...

Thái Tuế chủ danh cho nên chủ cả dự. Danh là tiếng, dự là được người khác khen. Người thuộc vòng Tuế Hổ Phù đến chết cũng coi mình là chân lý, đến chết cũng không nhận sai. Thế nhưng tuế hổ phù không làm người đó chủ động trong hành động của mình. Con người có thể phân ra hai loại: sống chủ động và sống bị động. Trong tứ hoá thì Lộc Quyền là chủ động, Khoa Kị là bị động. Còn trong cách cục thì song Lộc là chủ động. Nhật Nguyệt chiếu hư vô có tam Không là đỉnh cao của cách cục Không Vong. Nó cấu thành bởi tam tài thiên địa nhân là: Không Vong, Nhật Nguyệt và song Lộc. Không Vong là môi trường cho vầng Nhật Nguyệt soi rọi, nhưng cần có song Lộc mới hoàn hảo. Sự có mặt của song Lộc nói lên sự chủ động. Hạt giống thành công của đời người.

Tử Vi cư ngọ vô Hình Kị

Giáp Đinh Kỉ vị chí công khanh

Vì Tử Vi khi đó gặp Lộc Tồn là tử vi chủ động. Tử vi Hình Kị là Tử Vi bị động.

...

Dương âm cùng tồn tại nhưng dương luôn thống âm. Xem nhé.

Đàn bà tuy đòi hỏi nữ quyền, bình quyền. Ok hết nhưng chung quy trong thế giới này đàn ông vẫn thống trị. Chị em nên mở lòng chấp nhận sự thực này nhé.

Thiên luôn áp địa. Khi cả thiên hà này hỗn loạn sao bay khắp nơi thì cái quả cầu bé nhỏ này cũng chẳng thay đổi được gì.

Bà cả luôn lấn át bà hai, vì chính quy. Danh chính thì ngôn thuận. Này Hà Hồ, chị cho mượn ck chị đấy nhé. Dùng xong nhớ trả chị còn cho người khác mượn.

Quân đội chính quy và cảnh sát luôn lấn át xã hội đen. Về lòng dân cũng như về bài bản hệ thống. Hơn nữa, quan mà đi ăn cướp vẫn dễ hơn bọn trộm cắp đường chợ.

Khoa học luôn lấn át huyền học (vì tâm lý con người). Khoa học là ánh sáng, huyền học là bóng tối. Bóng tối là nơi không có ánh sáng. Trong con mắt và ngôn từ người đời, bóng tối bị định nghĩa bằng ánh sáng. Huyền học cũng đang bị định nghĩa bằng khoa học. Thực ra, đó là nhu cầu chủ quan của con người. Chứ bóng tối và ánh sáng ngàn năm cùng tồn tại, không có nhu cầu định nghĩa. Ngay khi huyền học phơi bày được quy luật gì, người đời xếp cái đó vào khoa học. Thứ chưa biết và đã biết mãi cứ là hai mảng âm dương quyện với nhau.

Thực ra âm dương vốn không hơn kém gì nhau. Nhưng tâm lý con người ta phân biệt. Tâm lý chúng ta hướng sáng hơn tối, hướng khô hơn ướt, hướng thiện hơn ác. Chứ đối với Đạo mà nói, thiện hay ác chẳng khác gì nhau. Khoá sắt hay khoá vàng đều là khoá.

Vậy vì sao có âm dương? Vì con người tự phân biệt ra vậy. Để làm gì? Để có cái nói với nhau về vũ trụ. Một vũ trụ bản chất của nó là vũ trụ không lời.

...

Ngũ dương tòng khí bất tòng thế

Ngũ âm tòng thế vô tình nghĩa

Dương chủ ấn định xác lập. Như một nhân sĩ cách mạng đi theo lý tưởng của mình. Đó là lí do trai tráng rời bỏ gia đình đi tòng quân chiến đấu.

Âm như cảm xúc, đi theo bản năng và xu hướng mà bất kể lí do lí trí. Đó là lí do Mị Châu rải lông ngỗng.

Cho nên phản cách chỉ xảy ra với sát tinh dương như Địa Không, Kình Dương và Hoả Tinh. Quý cách có Kình Dương nhập miếu chứ không có Đà La nhập miếu. Âm tòng thế nên không thể sáng lập cái mới, không sáng lập cái mới thì không thể phản cách.

...

Khi mà những thứ mình thiết lập đã cho thành quả thì đời phải chùng xuống lấy đà. Khi đó phải thiết lập cơ sở mới, và cần có thời gian để thiết lập mới nở hoa. Chứ lúc đó còn u mê tiếc nuối thì suy nghĩ thoái hoá quá. Giống như bố mẹ cho nền tảng cung Mệnh, ba mươi năm hưởng tràn cung mây, rồi sang cung Thân đời mình mình lo, bố mẹ già mà nền tảng mới con xây chưa vững thì phải chịu khó khăn một thời gian. Xã hội cũng vậy, trải qua thời kì thiết lập các bộ luật thời đại, kiểu hình thái xã hội. Đến lúc cơ sở hạ tầng phát triển vượt quá thiết lập thượng tầng cũ thì phải thay đổi. Lúc đó người ta gọi là thời chiến hay thời loạn. Tử vi cứ ba cung thì lại đến mộ. Tứ sinh là sinh, tứ chính là vượng, vượng xong lại mộ để ẩn tàng để an nghỉ để xốc lại quần áo. Sau đó lại tứ sinh, tứ đẹp rồi lại tứ mộ tức tứ già.

Nhịp đời cứ lên xuống như hình sin. Lúc xuống không phải là thoái mà là lấy đà. Nên chuẩn bị lấy đà mới trước suy thoái không? Không. Vì lúc đó cái cũ chưa vươn tới đỉnh cao. Lộc Tồn thiết lập, Kình Dương vút rồi Đà La sa xuống, Lộc Tồn mới xuất hiện, Kình Dương lại vút cao.

...

Sát tinh là vũ khí. Kình là giáo dài, Đà là đao sắc. Hoả Linh là dùi cui điện, súng ống bom mìn. Không Kiếp là vũ khí người tức quần chúng cách mạng.

Cách tốt cần có 1 đến 2 sát tinh ngoài những cát và quý tinh khác. Tốt nhất là có một sát tinh. Hoặc hai sát tinh cùng cặp. Nếu cách cục không có sát tinh, chỉ như cái vỏ bề ngoài đẹp đẽ nhưng bên trong rỗng tuếch. Các tổ hợp chính tinh không phải Tử Phủ Nhật Nguyệt rất cần sát tinh yểm trợ. Lí do là vua chúa không cần mang theo đao kiếm nhưng cầm dùi cui điện cầm điện thoại cầm nút điều khiển bom, quan quân nhất định phải có vũ khí bên mình. Bách tính cũng cần cuốc xẻng xà beng để lao động. Cuốc xẻng xà beng tức Kình Đà. Búa liềm tức Kình Đà.

Quần cát ủng nhất sát thì đó là cực quý. Tưởng có một Linh Tinh kèm cát hoá. Bill Gates có một Linh Tinh kèm thượng cách Nhật Nguyệt tịnh minh song Lộc. Linh Tinh của Bill Gates là công nghệ thông tin. Tôn có đủ Hoả Linh Không Kiếp Lộc Quyền, nhưng sát tinh của Tôn hơi nặng nên tàn phá cơ thể không thể chịu nổi. Ôm cả bom dẫn theo quần chúng cách mạng thì thành trì ọp ẹp Mãn Thanh sao chịu nổi.

Tử Phủ Nhật Nguyệt hợp Hoả Linh. Hoả Linh là hương hoả là hào quang là ánh sáng của đế vương của thần phật. Bảo Đại có một Linh Tinh cung thân trong tổ hợp Tử Vũ Liêm. Tay cầm dùi cui điện làm trùm hai chục năm với Tử Vi đắc Lộc Tướng Ấn.

Cho nên Tử Phủ không hợp Kình Đà. Vua gì lăm lăm thanh kiếm, vua gì cầm cuốc xẻng xà beng của giai cấp công nông lên dốc. Kình Đà có vẻ là vũ khí trang bị của giai cấp bình dân như công nông binh lính, không phải thứ vũ khí hào hoa của giới thượng lưu.

Không Kiếp đi với Đồng là quần chúng cách mạng. Không Kiếp đi với Tướng là quân đội nhân dân. Không Kiếp đi với Phá Quân là tổ chức khủng bố. Không Kiếp đi với Tử Vi: đế ngộ hung đồ. Vì vua là ngôi chí tôn chính chủ, có bao giờ thích quần chúng cách mạng. Gặp phải lũ nữ tặc táo tợn thì thân trai còn đâu mảnh chip vắt hông. Lộc Tướng Ấn là ấn ngọc giáp vàng của hoàng thượng, cũng đời nào muốn lọt vào tay Không Kiếp thảo dân cho chúng bán đồ cổ làm món tiền như Đại Nam Quốc Ấn.

Có vũ khí rồi nhưng ta cần Lộc Quyền để sử dụng hiệu quả thành công món vũ khí đó.

Vậy công thức thành công là gì: thiểu sát + đa cát quý + cát hoá.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tập các bài viết của AlexPhong

Không nên đặt cành vàng, lá ngọc xin ở chùa lên bàn thờ

Nhiều người đi lễ hay mua những cành vàng lá ngọc, đồ hàng mã đẹp để dâng cúng, rồi lại xin lộc mang về trưng trên bàn thờ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo ông Nguyễn Mạnh Cường, nhà nghiên cứu Phật học (Viện Nghiên cứu Ứng dụng và Tiềm năng con người), không nên tùy tiện mang các thứ được coi là “lộc” sau khi cúng bái về bày lên bàn thờ. Trước khi đặt lên bàn thờ bất cứ vật gì cũng nên suy xét.

Bày “đồ giả” liệu có tốt?

Theo ông Nguyễn Mạnh Cường, đa phần người dân sau khi đi lễ mang lộc về cắm ở nhà mình, coi đấy là lộc. Nhưng tốt nhất mọi người không nên mang về vì ở những nơi đó có thể có vong, rồi đủ thứ bám vào… Nếu tới di tích mua những cành vàng lá ngọc đó dâng lên, công đức sẽ được bề trên chứng giám thì nên hóa đi, không nên mang về nhà.

Ông Nguyễn Quang (chuyên gia trang Tử vi lý số Việt) cũng cho rằng, bàn thờ là nơi tâm linh, thanh tịnh nên những cành vàng lá ngọc không nên đặt lên. Những thứ cành vàng lá ngọc có nhiều điều khó nói như: Bày bán chỗ có sạch không, cất giữ thế nào, có bị ô uế hay không… “Không nên đi bất cứ đến chùa chiền, đền phủ nào cũng xin lộc về đặt lên bàn thờ, cũng không nên tùy tiện đặt các thứ đó lên bàn thờ. Muốn trưng thì cần biết rõ gốc tích của nó”, ông Quang nói.

Theo Đại đức Thích Thanh Hải – Trụ trì chùa Nghi Khê (Hải Dương), bày cành vàng lá ngọc lên bàn thờ cúng là theo triết lý dân gian, còn theo nhà Phật thì không có điều này. Trước đây, những ngày đầu xuân người dân đi hái lộc thường là những chồi non, nhưng giờ họ thay bằng hình thức mua những cành vàng lá ngọc, hoa… cầu sự phú quý. Đó có thể coi là lấy may đầu xuân chứ không phải vật để thờ cúng. Mọi người có thể bày lên bàn thờ nhưng khi tới ngày Rằm tháng Giêng thì hóa luôn. Ngay cả hoa giả cũng chỉ là phần trang trí chứ không thuộc vào lễ nghi thờ cúng. Bàn thờ cúng là phải sạch sẽ, thanh tịnh, không nên đặt những cái đó vào sẽ làm bàn thờ trông không được thông thoáng. Việc cắm cành vàng, lá ngọc cài ngược cài xuôi nhằm mong phú quý nó thuộc về tâm tà, mê tín. Chính tín là đồ thờ trên bàn thờ phải là đồ thật, thanh tịnh.

Theo các nhà nghiên cứu, không nên mang các đồ đã cúng bái về bày bàn thờ. Ảnh: T.L
Có nhiều người cho rằng, bày  “đồ giả” lên bàn thờ sẽ mang tội bất kính. Tuy nhiên, theo Đại đức Thích Thanh Hải, việc bày biện các đồ giả trên thì không có gì là bất kính hay có lỗi cả. Có lỗi hay không là ở nơi tâm ý, thái độ và việc làm của chúng ta chứ không phải ở nơi đồ vật. Điều quan trọng là ở nơi tấm lòng thành kính của Phật tử. Nếu như Phật tử dâng cúng những phẩm vật sang trọng, đẹp đẽ, giá trị mà không có lòng chí thành thì đó mới là mất trang nghiêm, bất kính. Tuy vậy, trong việc thờ phụng thì giả tạo cũng không nên. Những đồ bày trên bàn thờ là biểu hiện của tấm lòng nên sẽ không tốt khi dùng lễ giả để mong biểu thị tấm lòng chân thật.

Không tùy tiện cắm chân hương vòng vào bát hương

Từ bao đời nay, ở các nơi thờ tự chùa chiền, đình đền, phủ đều có que sắt cắm trong bát hương để thắp hương vòng. Nhưng trong gia đình thì có nên đặt những que hương sắt vào bát hương để thắp hương vòng hay không?

Ông Nguyễn Mạnh Cường cho rằng, theo các nhà tâm linh, bát hương thể hiện cho cái đầu của gia chủ, khi bốc bát hương mà không lèn chặt, thì sau một thời gian tro hương sẽ chắc lại, dân gian cho là có thể làm gia chủ đau đầu. Bàn thờ nếu có đủ ngũ hành là tốt. Nhưng các đồ kim loại như đỉnh đồng, lư đồng, bát hương đồng, hạc đồng, đỉnh đồng, chân nến… những đồ cúng lễ bằng kim loại cũng không nên đặt nhiều. Bởi theo nhiều nhà tâm linh, nếu đặt đồ kim loại đồng nặng và lớn sẽ không tốt cho sức khỏe gia chủ. “Người dân nếu muốn thắp hương vòng trong những ngày lễ Tết thì hãy đốt ở ngoài bát hương, như đặt trong đĩa, vừa không động bát hương, vừa dễ làm sạch bàn thờ”, ông Cường tư vấn.

Đại đức Thích Thanh Hải cho biết, trên bàn thờ ngày Tết cần phải có hoa tươi. Người Việt Nam thường sử dụng hoa cúc, hoa huệ, hoa dơn, hoa mai, hoa đào trong cúng gia tiên ngày Tết... Song trên bàn thờ không nên kết hợp nhiều loại hoa sẽ giảm sự thanh thoát, mất thẩm mỹ. Trên bàn thờ lúc nào hoa trái cũng tươi tốt, nhang đèn sáng và bàn thờ sạch sẽ là điều lý tưởng.  “Ngoài ra, nhiều gia đình có thói quen bày tiền vàng lưu trên bàn thờ cả năm là không nên. Năm mới bước sang một công việc mới, những đồ trên bàn thờ cần đốt hóa để mọi thứ đều mới. Cần phải hóa số tiền vàng đó vào ngày 23 tháng Chạp hàng năm giúp cho gia chủ có sự luân chuyển về tiền bạc dồi dào, năm sau nhiều hơn năm trước. Theo quan niệm dân gian, nếu để quên không hóa vào cuối năm, việc làm ăn của năm tới sẽ bị ngưng trệ, gặp nhiều khó khăn”, Đại đức Thích Thanh Hải cho hay.

Bàn thờ cần luôn thanh tịnh, đồ cúng lễ chỉ nên bày hương, hoa, trà, quả, bánh kẹo, xôi oản… chay tịnh. Muốn bày mâm cỗ mặn nên đặt riêng ở mâm dưới phía trước bàn thờ, rồi cắm nén hương vào đó để báo và mời các cụ thụ hưởng.

Theo Hà Dương – Hà My (Gia đình & Xã hội)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Không nên đặt cành vàng, lá ngọc xin ở chùa lên bàn thờ

Thế nào gọi là Bát Trạch? –

Bát trạch chính là chỉ căn nhà của tám loại quẻ hào phương vị khác nhau là Càn, Khôn, Cấn, Đoài, Khảm, Li, Chấn, Tốn. Phong thủy học dùng chu kỳ Tam nguyên Giáp Tý 180 để đoán thuộc tính bát quái của con người, can, chi mỗi năm. Trong đó Càn, Khôn,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bát trạch chính là chỉ căn nhà của tám loại quẻ hào phương vị khác nhau là Càn, Khôn, Cấn, Đoài, Khảm, Li, Chấn, Tốn.

Phong thủy học dùng chu kỳ Tam nguyên Giáp Tý 180 để đoán thuộc tính bát quái của con người, can, chi mỗi năm. Trong đó Càn, Khôn, Cấn, Đoài gọi là Tây Tứ mệnh. Khảm, Li, Chấn, Tốn gọi là Đông Tứ mệnh. Người có Tây Tứ mệnh chỉ hợp sống trong căn nhà Tây Tứ trạch Càn, Khôn, Cấn, Đoài. Người có Đông Tứ mệnh hợp sống trong căn nhà Đông Tứ trạch Khảm, Li, Chấn, Tốn. Nếu sai sống trong căn nhà sai khác mệnh sẽ gặp họa hung ngay.

p51

Trong cuốn “Dương Trạch thập thư – Luận phúc nguyên” có viết: “Cái quyết sơ thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Thuyết nhân sinh phản ra lưỡng nghi là Đông vị, Tây vị. Tứ tượng là Đông Tứ vị, Tây Tứ vị. Bát quái là Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Li, Khôn, Đoài…Tất cả những điều trên là chỉ tạo hoá tự nhiên của trời đất. Nếu Phúc nguyên (tức là thuộc tính sinh niên bát quái) sai thì Đông tứ sửa Tây, Tây Tứ sửa Đông, cát tinh biến thành hung tinh, tuy ngoại hình và nội hình là cát nhưng không thể dùng được, quan hệ rất lớn”. Như vậy, những người có cung mệnh khác nhau sẽ ở trong những ngôi nhà không giống nhau. Tiếp đó cũng phải nghiên cứu đến vị trí toạ hướng, hướng cửa, đường đi, giếng nước, nhà bếp, chuồng nuôi, lối thoát nước…Nếu dùng lung tung sẽ không tốt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thế nào gọi là Bát Trạch? –

Chùa Bích Động - Ninh Bình

Chùa Bích động là một trong những điểm hấp dẫn nhất xứ sở du lịch này. Chùa Bích Động tọa lạc trên dãy núi đá vôi, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.
Chùa Bích Động - Ninh Bình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ninh Bình là xứ sở chùa chiền ở Việt Nam – khu điểm du lịch trọng điểm quốc gia Việt Nam. Chùa Bích động là một trong những điểm hấp dẫn nhất xứ sở du lịch này. Chùa Bích Động tọa lạc trên dãy núi đá vôi Trường Yên, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.

Chùa Bích Động nguyên có tên “Bạch Ngọc Thanh Sơn Đồng” – có ý nghĩa một ngôi chùa bằng đá rất đẹp và trong trắng như ngọc ở nơi sơn cùng thủy tận. Chùa được xây dựng trên dãy núi đá vôi, đây là một di tích lịch sử văn hóa thuộc khu du lịch quốc gia Tam Cốc – Bích Động đã được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt. Đây là một kiểu động phổ biến ở Ninh Bình, động Bích Động là một trong những thắng cảnh nổi tiếng được mệnh danh là “Nam Thiên đệ nhị động” – động đẹp thứ nhì của trời Nam chỉ sau động Hương Tích (Hà Tây cũ).

Chùa xây dựng vào sườn núi và được chia làm ba cấp gọi là: chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng, nằm trên dãy Ngũ Nhạc sơn, trên núi có hình tượng ông Quan Vân đội mũ cánh chuồn, ngắm nhìn bốn phía như đang chiêm ngưỡng và giới thiệu một thắng cảnh tuyệt đẹp của đất Hoa Lư. Phía trước là cánh đồng Tràng Thi và một dòng sông uốn khúc xuyên qua nhiều thung lũng và núi non hiểm trở, bao bọc xung quanh là dãy núi Phi Vân trùng điệp. Đây đã từng là nơi tập luyện thủy binh chống quân xâm lược Nguyên- Mông lần thứ nhất của đời nhà Trần.

Câu chuyện kể gắn liền với Bích Động bắt nguồn từ hai vị sư tên Trí Kiên và Trí Khê quê ở Nam Định trong hành trình thuyết pháp, truyền bá đạo Phật, năm 1705 dừng chân ở núi Bích Động khi ấy mới chỉ có một ngôi chùa nhỏ, đã quyên góp thập phương để xây dựng ba ngôi chùa dựa lưng vào vách núi, giữa thiên nhiên đất trời giao hòa đẹp lộng lẫy như hiện nay.

Bước vào chùa Hạ, một bức Đại tự bằng chữ Hán ở chính giữa có ghi “Thanh thản cổ mộ” – thanh bạch từ xưa đến nay. Trên cùng là tòa tam thế. Ba vị này là người biết trước được mọi việc ở ba thế giới khác nhau là Thượng giới, Hạ giới và Âm giới. Kế đến là ba vị Phật, ngồi chính giữa là đức Phật Di Đà, bên phải là Quan Âm Bồ Tát, bên trái là Đại Thế Trí Bồ Tát.

Vị ngồi hàng thứ ba, đầu đội vương miện là bà chúa Ba- Công chúa thứ ba đời vua Trang Vương đi tu đắc đạo thành Phật (còn gọi là Phật Bà nghìn mắt nghìn tay). Vị đứng thứ tư mặc áo đỏ, tay chỉ thiên, tay chỉ địa là Thích Ca Mâu Ni (còn gọi là Phật Tổ Như Lai). Người mặc võ phục đứng bên phải là Bát Đại Kim Cương, đứng bên trái là đại diện cho tứ trực công tào- coi xét việc chính sự trong giới nhà Phật. Cuối cùng là ba vị ngồi bên trái là Chí Kiên, Chí Thể và Chí Tâm đã có công thành lập và xây dựng nên chùa Bích Động. Hai tượng Phật đá bên ngoài là Nam Tào- Bắc Đẩu, coi xét sổ sanh tử. Tấm bia lớn bằng đá bên phải là tên những người đóng góp xây dựng chùa Bích Động.

Từ chùa Hạ bước lên khoảng hơn 100 bậc theo đường hình chữ S tới lưng chừng dãy núi Ngũ Nhạc là chùa Trung. Chùa này đã trải qua ba thời kỳ có tên khác nhau: thời kỳ đầu (1428) có tên là chùa Động, đến 1740, đời vua Lê Cảnh Hưng, chùa này được mở mang, xây dựng thêm và được đặt tên là: Bạch Ngọc Thạch Sơn Đồng. Đến 1786 dưới thời vua Tự Đức được đặt tên là chùa Bích Động. Phía trên của mái chùa có mười chữ Hán màu vàng là: Giá Lam Thần Đại Hùng Bảo Điện Nam Thiên Tổ- nghĩa là tất cả các vị sư tổ ở trời Nam này đều xuất phát từ chùa Bích Động ra đi. Về mặt bài trí ở chùa Trung, Phật Tổ Như Lai có cửu long phù giá. Hai tượng ngồi phía ngoài là Vân Thù Bồ Tát, bên trái là Phổ Hiền Bồ Tát, bên trong chính cung là Thánh hiền (ai muốn học hành thành đạt thì cầu vị này) v.v…

Ở chùa Trung còn có đường lên Động Tối. Ngay trước cửa động, một chiếc chuông đồng cổ kính với những đường nét chạm trổ rất tinh xảo. Nhìn ra phía ngoài là cầu Giải Oan. Hầu hết khách qua đây thường “thỉnh” lên ba tiếng chuông ngân nga như để “giải oan” cho tâm hồn mình ở nơi cửa Phật được thanh thản.

Trong động có ba pho tượng đá sừng sững uy nghi. Chính giữa là đức Phật Di đà, bên phải là Vân Thù Bồ Tát, bên trái là Quan Âm Thị Kính và hình tượng Lão Thọ bằng đá, biểu tượng cho sự trường tồn bất tử v.v…

Những bậc đá lên chùa Thượng được đẽo gọt, xếp thành 40 bậc cấp. Có thể nhìn thấy rõ đá được xếp thành tường trên cao để tạo thành một khoảng sân nhỏ trước chùa. Chùa Thượng chính là ngôi chùa đầu tiên được xây dựng ở Bích Động. Chùa nhỏ, bên trong chỉ có thể đứng khoảng năm người là chật. Cửa chùa đóng, nhưng có thể nhìn từ bên ngoài nhìn vào thấy thờ Phật Bà Quan Âm.

chùa bích động
Chùa Trung – Chùa Bích Động – Ninh Bình

Hai bên chùa có hai miếu thờ; hướng bắc thờ Sơn thần, hướng nam thờ Thổ địa. Cạnh chùa có một bể nước được gọi là “bể nước Cam Lồ”. Tục truyền, ngày xưa ở quanh chùa Thượng có loại cây tên Sơn Kim Cúc. Cây nở ra hoa màu vàng, cánh hoa nhỏ, phơi khô làm trà; người ta cho biết loại trà này là loại thuốc trị bệnh mắt mờ.

Bỏ ra một quãng đường khá dài dưới chân núi để lên chùa Thượng. Trong không gian phiêu bồng, bước chân qua cây cầu bao quanh hoa sen nở, rồi lên tận chùa Thượng đi tìm hoa Sơn Kim Cúc, ngắm nhìn núi Ngũ Nhạc giao hòa, đủ thỏa lòng một chuyến hành hương cổ tự giữa non sông.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Bích Động - Ninh Bình

Ý nghĩa của bong bóng trong giấc mơ

Là vật khá nhẹ, bong bóng có thể bay lên cao và nổ vỡ trong không trung. Nếu thấy những quả bong bóng trong mơ biểu thị rằng bạn đang đánh mất dần hy vọng
Ý nghĩa của bong bóng trong giấc mơ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Là vật khá nhẹ, bong bóng có thể bay lên cao và nổ vỡ trong không trung. Nếu thấy những quả bong bóng trong mơ biểu thị rằng bạn đang đánh mất dần hy vọng trong việc tìm kiếm tình yêu. Những quả bong bóng còn biểu thị cho tính ngạo mạn và sự tự đề cao bản thân quá mức. 


Y nghia cua bong bong trong giac mo hinh anh
Ảnh minh họa
  Thấy những quả bong bóng màu đen trong mơ biểu tượng cho sự chán nản. Nếu những quả bong bóng đó đang hạ thấp xuống thì mức độ chán nản đó càng tăng lên.   Thấy một quả bong bóng bay lên hoặc bạn thả bong bóng biểu thị hoàn cảnh khó khăn, có thể bạn sẽ gặp nguy hiểm vì vậy hãy đề phòng cẩn thận.
Mơ thấy mình thổi bong bóng, ám chỉ kế hoạch mà bạn đang thực hiện có thể là rất lớn nhưng lại không hợp lý. 
  Thấy một quả bong bóng xuất hiện trong chốc lát rồi biến mất biểu thị cho kế hoạch chưa được thực hiện hoặc kế hoạch thiếu tính thực tế. Nó cũng có thể tượng trưng trạng thái căng thẳng hiện tại của bạn.    Mơ thấy bạn ở trong một quả khinh khí cầu ám chỉ rằng đây là thời điểm khắc phục tình trạng trì trệ của bạn. Giấc mơ này cũng có thể biểu thị cho việc bạn đang mất dần điểm tựa trong cuộc sống. 
 
Nằm mơ thấy bong bóng bay điềm báo sự hão huyền và mông lung,mục tiêu khó đạt được.   Nằm mơ thấy bong bóng hình trái tim đang bay biểu thị rằng bạn đang đánh mất dần hy vọng trong việc tìm kiếm tình yêu.   Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa của bong bóng trong giấc mơ

Mơ thấy chuỗi hạt là cát mộng

Giấc mơ về những chuỗi hạt vừa là cát mộng tiên báo chủ nhân của nó sẽ nhận được sự trợ giúp của quý nhân, vừa mang đến những lời cảnh báo để đề phòng trước
Mơ thấy chuỗi hạt là cát mộng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Giấc mơ về những chuỗi hạt vừa là cát mộng tiên báo chủ nhân của nó sẽ nhận được sự trợ giúp của quý nhân, vừa mang đến những lời cảnh báo để đề phòng trước những điều bất trắc.


Giải mã giấc mơ thấy chuỗi hạt:

Mo thay chuoi hat la cat mong hinh anh
Ảnh minh họa 

Chiêm bao thấy mình đeo một chuỗi ngọc trên cổ là điềm báo sắp tới bạn sẽ nhận được sự giúp đỡ của người giàu có.

Chiêm bao thấy mình lần chuỗi bồ đề thì bạn cũng sẽ được quý nhân phù trợ.
 
Chiêm bao thấy mình được người khác biếu một chuỗi ngọc là điềm xấu, đừng vội vui mừng, sắp tới bạn sẽ gặp rắc rối với pháp luật đấy. Tuy nhiên,nếu mơ thấy mình vứt bỏ chuỗi hạt đó thì có nghĩa là bạn sẽ tránh được rắc rối đấy.   Chiêm bao thấy mình đem bán một chuỗi ngọc thì nên thận trọng, đây là điềm bao mất của.

Chiêm bao thấy mình đang xâu cườm hoặc đang buộc một chuỗi ngọc, điều này nhắc nhở bạn đã quên việc quan trọng cần phải thực hiện.    Nằm mơ thấy mình đang gỡ rối một chuỗi hạt cườm cho thấy rằng có một số vấn đề trong cuộc sống hiện tại của bạn mà bạn cần phải làm cho nó cân bằng hơn.

► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy chuỗi hạt là cát mộng

Bính Ngọ mệnh gì –

Người sinh 1966, Bính Ngọ, có Ngũ hành năm sinh là Thiên Hà Thuỷ, nhưng Mệnh Cung của Nam và Nữ khác nhau: 1. Nam Cung ĐOÀI, hành KIM, hướng Tây, quái số 7, sao Thất Xích, Tây tứ mệnh (Hướng nhà tốt: Tây Bắc, Đông bắc, Tây Nam, Tây). Đeo đá màu Vàng,
Bính Ngọ mệnh gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bính Ngọ mệnh gì –

Điểm danh những con giáp tài phúc song toàn

Thế mới nói, người tuổi Ngọ chính là con giáp tài phúc song toàn, tình duyên viên mãn, công thành danh toại, làm gì cũng dễ.
Điểm danh những con giáp tài phúc song toàn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Không chỉ nhờ phúc phận tốt, nhân duyên tốt đẹp mà những con giáp dưới đây còn dựa vào thực lực của mình để chinh phục mọi ước mơ trong cuộc sống, giúp công danh, sự nghiệp rạng ngời.
 


Cẩm nang chọn số điện thoại vượng vận cho 12 con giáp Ngả mũ kính phục những con giáp đắc ý cả tình trường và thương trường
1. Người tuổi Ngọ   Mang trong mình tính cách độc lập, hào sảng, phóng khoáng và vô cùng lạc quan, người tuổi Ngọ luôn biết cách biến thách thức thành cơ hội để thể hiện sức sống mạnh mẽ, kiên cường của mình, đây cũng chính là con giáp tài phúc song toàn nhất trong 12 con giáp.   Nhìn vẻ ngoài của họ có vẻ tùy tiện thế thôi, nhưng khi đã vào công việc, việc gì ra việc đó, cũng nghiêm khắc chẳng kém ai. Lúc cương có cương, lúc nhu cần nhu, cách cư xử khéo léo ấy đã mang tới ít nhiều thuận lợi và thành công cho tuổi Ngọ.   Vận quý nhân của người cầm tinh con Ngựa cũng khá vượng, gặp khó khăn có người giúp đỡ, việc tốt có người tự mang đến. Thế mới nói, đây chính là con giáp tài phúc song toàn, tình duyên viên mãn.  
Diem danh nhung con giap tai phuc song toan hinh anh
 
2. Người tuổi Dần   Không chỉ phóng khoáng trong cách đối nhân xử thế, con giáp tài phúc song toàn tuổi Dần còn khá hài hước, dễ hòa nhập tập thể và trở thành tâm điểm của mọi sự chú ý.    Cách làm việc quyết đoán, cộng thêm tư duy logic đầy sáng tạo, trí tuệ thông minh vượt trội giúp tuổi Dần dễ dàng công thành danh toại. Dù vận khí không được coi là quá may mắn, nhưng nhờ thực lực bản thân, lối suy nghĩ tích cực mà họ có thể chinh phục hết thử thách này tới mục tiêu khác.   Hơn thế, đây chính là một trong những cao thủ biết nắm bắt cơ hội, tiến lùi đều có kế sách nên công việc cứ thế trôi chảy. Họ làm việc hết mình và rất biết cách hưởng thụ cuộc sống, nên lúc nào trông họ cũng tràn đầy nhiệt huyết.  
Diem danh nhung con giap tai phuc song toan hinh anh 2
 
3. Người tuổi Thân   Ngay từ khi sinh ra, những chú Khỉ đã được thừa hưởng tư duy linh hoạt, tính cách sôi nổi, đi tới đâu là có thể “truyền lửa” tới đó.    Họ làm việc dứt khoát, suy nghĩ thấu đáo trước khi hành động, trên hết, con giáp này biết cách kết hợp khéo léo giữa tài năng cá nhân và sự đoàn kết của tập thể. Vì thế, chưa đầy 35 tuổi đã có thể trở thành ông/bà chủ, phát triển sự nghiệp rực rỡ muôn màu. Đến năm 40 tuổi thì phúc lộc song toàn, hưởng lộc con cháu.   4. Người tuổi Tuất   Chân thành, chung thủy, trước sau như một là ưu điểm nổi trội trong tính cách của người tuổi Tuất. Dù là về phương diện sự nghiệp hay tình yêu, tính cách ấy mang tới sự tin tưởng, cảm giác an toàn cho mọi người xung quanh.    Sở hữu khả năng tính toán tài chính nhạy bén, tài lộc của tuổi Tuất vượng phát theo thời gian. Với thực lực bản thân, sau 30 tuổi họ đã có thể biến ước mơ trở thành hiện thực, sự nghiệp phát triển rực rỡ muôn phần.    
► Lịch ngày tốt tổng hợp mọi thông tin về mười hai con giáp bạn nên xem

Ngân Hà

Những cô nàng khiến phái mạnh “hồn xiêu phách lạc” trong 12 con giáp
Sở hữu những nét quyến rũ từ trong ra ngoài, những nàng giáp dưới đây có sức hút mãnh liệt đối với phái mạnh ngay từ cái nhìn đầu tiên.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm danh những con giáp tài phúc song toàn

Nghe lời Phật dạy về sự vĩnh cửu trong cuộc đời

Phật dạy thế gian không điều gì là vĩnh cửu, trường tồn theo thời gian. Sống trên đời ai chẳng có thời điểm rơi vào đau khổ, tuyệt vọng. Biết buông bỏ ắt số
Nghe lời Phật dạy về sự vĩnh cửu trong cuộc đời

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– mệnh được cải biên theo chiều hướng tốt.



Sinh thời, Phật Thích Ca Mâu Ni từng răn dạy và thuyết giáo về thứ gọi là vĩnh cửu, trường tồn theo năm tháng. Ngài cũng chỉ ra 4 thứ trên đời không thể tồn tại vĩnh cửu. Đó là:

Nghe loi Phat day ve su vinh cuu trong cuoc doi hinh anh
 
1. Hữu thường giả tất vô thường


Bất luận thứ gì tồn tại thì đều thay đổi, có sinh rồi ắt diệt, hữu biến thành vô, chẳng gì là có thể bảo trì được trạng thái ban đầu. Bản chất từ từ cải biến và cuối cùng là cũng mất hẳn đi.

Trong cuộc đời mỗi con người, không ai dám khẳng định rằng cuộc sống được trải toàn hoa hồng, mà không phải đối mặt với khó khăn, thử thách, nỗi buồn, sự thất vọng.

Trong thời điểm nào đó, nhân sinh ắt sẽ trải nghiệm đủ mùi vị cuộc sống. Người mẹ sinh ra đứa con thì hạnh phúc nhường nào, nhưng đổi lại, để có được niềm hạnh phúc ấy, họ đã trải qua những tháng ngày gian khổ, những cơn đau cùng cực. 

Ngay cả cơ thể mỗi người cũng không ngừng biến đổi. Hỏi có ai thoát khỏi sinh, lão, bệnh, tử chăng?

Những thứ hữu hình rồi cũng trở nên vô hình, biến thành cát bụi, bay vào không gian. Vậy nên vì sao phải chấp niệm, giữ khư khư cho mình những điều buồn đau, tủi nhục mà không buông bỏ để cuộc đời được cải biên sang trang mới?

Những hiểu lầm trong tín ngưỡng thờ Phật
Trong tín ngưỡng dân gian có rất nhiều điều cấm kỵ, tuy nhiên, có những điều không phải thuộc về Phật giáo nhưng chúng ta vẫn lầm tưởng đó là
2. Phú quý giả tất bất cửu


Giàu có không thể là vĩnh cửu. Vật chất chỉ là đồ phòng thân, thứ của cải phù du đâu thể ở mãi bên bạn, lúc lìa xa trần thế thử hỏi có ai còn dùng đến nó nữa.

Tục ngữ có câu “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời” để khẳng định thêm rằng, vật chất, sự giàu có không bao giờ có khái niệm vĩnh cửu.

Trừ khi bản thân mỗi con người làm việc thiện, tích nhân đức, gieo nhân thiện thì mới có thể bảo trì được vinh hoa phú quý cho đời con đời cháu.

Ngặt một nỗi, là người ai chẳng có lòng tham, thậm chí còn là lòng tham vô đáy, có nhiều rồi lại muốn nhiều hơn, nhiều rồi lại muốn mãi mãi. Vì thế, đếm trên đầu ngón tay cũng không thấy có người muốn quyên tặng hay bố thí, làm việc thiện giúp đời. Vậy nên, giàu có chẳng thể kéo dài mãi được.

Nghe loi Phat day ve su vinh cuu trong cuoc doi hinh anh 2
 
3. Hội hợp giả tất biệt ly


Tụ hợp thì ắt có biệt ly, đâu có ai nắm tay được cả ngày. Ngày hôm nay cha mẹ, anh chị em quây quần bên bữa cơm gia đình nồng ấm, nhưng chưa chắc ngày mai, ngày kia lại được tận hưởng cảm giác đó cùng nhau.

Vì thế, đã sinh ra ở trên cõi đời, hãy biết trân trọng những phút giây chúng ta còn được ở bên, cùng sẻ chia và hướng về điều thiện. Đố kị, ghen ghét, thù hằn để làm gì khiến tâm can dằn vặt, khổ đau, khi nhắm mắt xuôi tay rồi mọi thứ đều biến vào hư vô hết, còn lưu lại được gì đây?

4. Cường kiện giả tất quy tử


Dù có mạnh khỏe tới đâu, cuối cùng cũng quy về cái chết. Dù tuổi trẻ, sức khỏe mạnh mẽ tới đâu đi nữa thì cũng có thời điểm ra đi, cho dù sống thọ đến mấy cũng chẳng thể “trường sinh bất tử”, chẳng thể trái với quy luật tự nhiên.

Vì thế, dù là ai đi nữa, hãy tận dụng từng phút giây được sống, được hít thở trong bầu không khí của tình yêu thương nhân loại, để sống thật hữu ích, sống an nhiên, tự tại để khi chết đi cũng bình an, viên mãn.

Đừng cậy khỏe mà tự tung tự tác với đời, làm những chuyện trái với đạo lý con người. Có chăng, hãy tận dụng sức lực của tuổi trẻ để gắn kết tình yêu thương, gieo mầm thiện, gặt trái lành, tự giúp mình và giúp đời thêm đẹp.

Nghe lời Phật dạy về sự vĩnh cửu theo phong thủy, ngũ hành trong cuộc đời để ghi nhớ mà có thể buông bỏ mọi ưu phiền, sầu não, thức tỉnh chính mình trên con đường tìm tới sự bình yên trong tâm hồn mỗi chúng ta bạn nhé!

Tâm Nhân

Có phải người lương thiện thường hay chịu thiệt?
Chúng ta thường nói với nhau rằng “thật thà thường bị thua thiệt”, nhưng Phật dạy nhân sinh có nhân quả, thua thiệt là vì khuyết thiếu trí

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nghe lời Phật dạy về sự vĩnh cửu trong cuộc đời

Điểm danh 3 chòm sao sống ảo, thích yêu qua mạng

3 chòm sao sống ảo thích yêu qua mạng thường xuyên tìm kiếm nhân duyên cho mình giữa biển người mênh mông mà không cần mất công đi lại, gặp gỡ nhiều.
Điểm danh 3 chòm sao sống ảo, thích yêu qua mạng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thời đại công nghệ thông tin, mọi người đều sử dụng internet như một công cụ giao tiếp hữu dụng. Đặc biệt, 3 chòm sao sống ảo thích yêu qua mạng dưới đây thường xuyên tìm kiếm nhân duyên cho mình giữa biển người mênh mông mà không cần mất công đi lại, gặp gỡ nhiều.


► Cùng bói tình yêu theo cung hoàng đạo để biết hai bạn có hợp nhau không

Diem danh 3 chom sao song ao, thich yeu qua mang hinh anh
 

Cự Giải: thích vòng vo

  Cự Giải khuyết thiếu cảm giác an toàn, ngại ngần khi phải đối diện với người lạ. Vì thế, họ là chòm sao sống ảo, thông qua những cuộc nói chuyện gián tiếp mà có thể thấu hiểu nhau, có tình cảm với nhau. Cự Giải cảm thấy yên tâm hơn, cũng tự tin hơn vì đối phương chưa biết mình là ai, nếu có vấn đề gì cũng không tổn thương quá lớn.   Cự Giải nguyện dùng cách hiện đại nhất nhưng cũng ngốc nghếch nhất để rút ngắn khoảng cách với đối phương. Trước hết, giao tiếp qua mạng, dần dần quen thuộc rồi có thể tiến xa hơn, gặp gỡ ngoài đời thật. Tuy hơi vòng vo một chút nhưng đó là cách Cự Giải bảo vệ bản thân.  

Kim Ngưu: thích ve vãn

  Chòm sao Kim Ngưu cực kì kiên trì, biết rằng chuyện gì cũng phải từ từ mới đạt kết quả tốt, không thể nóng vội được. Nồng nhiệt và nhanh gọn không phải phong cách yêu đương của Kim Ngưu, nên cho nhau khoảng thời gian tìm hiểu, tán tỉnh thật lâu để chắc chắn đã.   Vì thế, chòm sao sống ảo này thường không ngay lập tức muốn gặp gỡ đối phương mà chủ động kéo dài cuộc tán gẫu qua mạng, ve vãn đối phương, phô bày điểm tốt của mình cho người kia thấy, coi như là bước đệm cho sự tiến triển sau này.
Diem danh 3 chom sao song ao, thich yeu qua mang hinh anh
 

Xử Nữ: thích mơ hồ

  Xử Nữ là chòm sao thích sự mơ hồ, ám muội, mà khoảng cách chính là điều kiện tốt nhất để sinh ra sự mờ ám. Xử Nữ xoi mói như thế, đến soi gương nhận xét chính mình còn không thấy hài lòng thì có thể vừa mắt ai cơ chứ. Vì thế, tốt nhất là quen biết và tìm hiểu nhau qua mạng, tránh để lộ nhiều thông tin cá nhân, gây phiền phức sau này.   Đây là một cách để Xử Nữ bảo vệ an toàn cho chính mình trước người không quen biết. Cứ tìm hiểu nhau qua các câu chuyện trước, nếu tạo dựng được lòng tin thì mới có thể tiến tới gặp gỡ và phát triển. Nên chòm sao sống ảo này không ngần ngại làm quen, kết bạn, trò chuyện với nhiều người qua internet nhưng ít khi để lộ thân phận lắm.
Điểm danh 3 chòm sao nam sáng suốt, vượt cả ải mĩ nhân Học 3 chòm sao mạnh mẽ cách trút bỏ áp lực công việc Xác định đối thủ của 12 chòm sao ở nơi công sở
Trần Hồng  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm danh 3 chòm sao sống ảo, thích yêu qua mạng

Top 5 con giáp dễ bị lừa trong ngày cá tháng tư

Thông minh và tinh ranh như người tuổi Tý lại có thể dẫn đầu danh sách con giáp dễ bị lừa trong ngày Cá tháng Tư ư? Cùng xem thực hư ra sao nhé.
Top 5 con giáp dễ bị lừa trong ngày cá tháng tư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Thông minh và tinh ranh như người tuổi Tý lại có thể dẫn đầu danh sách con giáp dễ bị lừa trong ngày Cá tháng Tư ư? Chính xác, vì có câu “thông minh phản thông minh”, vì muốn đạt được nhiều nên phải suy nghĩ nhiều, hoài nghi vô kể, đôi khi tự sập bẫy của chính bản thân mình.


Top 5 con giap de bi lua trong ngay ca thang tu hinh anh
 
No5. Người tuổi Ngọ


Nhân lúc người tuổi Ngọ trong 12 con giáp còn “tâm hồn treo ngược cành cây”, mơ màng về một nơi xa xăm nào đó, nếu bạn thực hiện chiến dịch công kích ngày Cá tháng Tư, đảm bảo chắc chắn con giáp này dễ dàng “chui đầu vào lưới”.

Bản tính người cầm tinh con Ngựa vốn phóng khoáng, không để tâm chuyện nhỏ nhặt. Vì thế, nếu có bị chơi khăm trong ngày này, họ cũng cười xuề xòa rồi bỏ qua hết, tất cả chỉ là vui vẻ thôi mà.

No4. Người tuổi Tỵ

Sức “miễn dịch” của người tuổi Tỵ với những trò đùa tinh quái có vẻ không cao. Đây cũng là một trong những con giáp dễ bị lừa trong ngày Cá tháng Tư nhất.

Top 5 con giap de bi lua trong ngay ca thang tu hinh anh 2
 
Chỉ cần bạn nhắc “trúng tim đen” về đối tượng mà con giáp này đang thầm thương trộm nhớ, ắt họ sẽ sập bẫy trong sự vui mừng khôn xiết.

No3. Người tuổi Thìn

Dù rất tỉnh táo và có sự phòng bị nhất định trong ngày Cá tháng Tư, nhưng người tuổi Thìn lại không ngờ rằng, những đứa bạn thân lại có thể chơi khăm mình đến vậy.

Ăn món ăn có mùi vị lạ, uống đồ uống không giống bình thường hay mặc một chiếc áo có những hình thù kỳ dị đằng sau... là điều mà con giáp này có thể phải trải qua trong ngày 1/4 đó.

Top 5 con giap de bi lua trong ngay ca thang tu hinh anh 3
 
No2. Người tuổi Mão

Sự thông minh, lanh lợi thường ngày của người tuổi Mão bỗng giảm đi trông thấy khi bị vướng vào những trò đùa tinh quái của bạn bè hay đồng nghiệp xung quanh ngày Cá tháng Tư.

Nếu không tinh ý, “Mão nhi” có thể ngồi vào chiếc ghế dính đầy tương cà hoặc có thể đánh răng với bàn chải đầy tương ớt... trò nghịch ngợm của những cô/cậu bạn cùng phòng.

Tại sao lại có ngày Cá tháng Tư?
Chúng ta vẫn biết ngày ngày 1 tháng 4 là ngày Nói Dối – hay ngày Cá tháng Tư. Vào ngày này, mọi người trên khắp thế giới được phép trêu đùa
No1. Người tuổi Tý

Thông minh và tinh ranh như người tuổi Tý lại có thể dẫn đầu danh sách con giáp dễ bị lừa trong ngày Cá tháng Tư ư? Chính xác, vì có câu “thông minh phản thông minh”, vì muốn đạt được nhiều nên phải suy nghĩ nhiều, hoài nghi vô kể, đôi khi tự sập bẫy của chính bản thân mình.

Lợi dụng sơ hở này, bạn bè có thể nghĩ ra nhiều trò tinh quái, thậm chí là có chút vô tâm dành riêng cho người tuổi Chuột. Có thể là hẹn bạn ở đâu đó rồi cho leo cây hoặc hứa hẹn trả số tiền vay nợ nhưng lại bắt bạn phải mời ăn uống một chầu ra trò.

Ngọc Diệp

3 con giáp dẫn đầu danh sách vận khí thăng cấp bất ngờ trong tháng 4
– Nếu tháng 3 trôi qua trong lặng lẽ, ảm đạm thì tháng 4 lại hứa hẹn nhiều niềm vui, sự may mắn bất ngờ ở mọi phương diện cho những con giáp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 5 con giáp dễ bị lừa trong ngày cá tháng tư

Nghe chuyên gia phong thủy bàn về sự may rủi trong Dịch Ảnh

Dịch Ảnh chính là cái Lý của Dịch trong một tấm ảnh, theo Thanh từ Dịch học sĩ Trần Quốc Thái.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Sự sống của một đời người phải đi trong cái lý trật tự sinh – trưởng – suy – tàn của Dịch Lý. Bên cạnh đó mỗi cá nhân chúng ta trong sự mưu sinh cộng hưởng với tập thể, môi trường… với các nhu cầu Danh – Lợi – Tình từ thể chất đến tinh thần mà đời người ít nhiều phải trải qua các giai đoạn thịnh – suy trong các lãnh vực đó.

Bởi dòng sông Dịch Biến luôn chảy không ngừng. Mọi sắc diện, thần thái, tình huống,thời vận của ta cũng đổi thay theo dòng chảy đó. Để giữ lại những thời điểm hạnh phúc, những khí phách kiên cường, những thần thái rạng rỡ, những tinh thần yêu thương…con người chúng ta đã nghĩ ra nhiều cách. Chụp ảnh cũng là một cách được tiền nhân nghĩ ra từ lâu, và được phát triển thành bộ môn nghệ thuật hết sức tinh tế và hướng thượng.

Ở góc độ Dịch Lý, mỗi giai đoạn hóa thành hình tượng nào đó, đều có cái lý riêng của nó. Nói ngắn gọn hơn là “Tượng nào thì có cái lý đó”. Tượng chăm sóc, âu yếm thì phải có cái lý yêu thương nhau. Tượng đơm hoa kết trái là phải có cái lý nẩy nở sinh sôi. Tượng mùa gặt thì phải có cái lý gặt hái thành quả trong công việc. Tượng hân hoan tươi cười thì phải có cái lý tâm viên ý mãn. Tượng đến nhà thấy trẻ con sạch sẽ quần áo chỉnh tề tươi cười vui vẻ thì phải có lý gia đạo đang thời làm ăn hưng vượng. Tượng hoa mai, hoa đào nở rộ thì phải có cái lý mùa xuân đến.

Một tấm ảnh là một giai đoạn hóa thành còn gọi là một hình tượng gọi tắt là tượng, mà “có tượng là phải có lý”. Vậy “Ảnh nào thì có lý đó” cũng như “Lý nào thì có ảnh đó”. Vậy một tấm ảnh là biểu tượng cho một giai đoạn biến dịch được giữ lại theo cái lý của nó, gọi là Dịch ảnh.

Nói cách khác, dịch ảnh là cái lý của dịch trong một tấm ảnh.

Trong Dịch Lý, mỗi giai đoạn hóa thành nào đều có cái lý tiền hậu, trước sau, tương lai và quá khứ của nó. Ví như bức ảnh mùa gặt mang cái lý đạt thành quả được treo trước mặt bàn làm việc là nói lên cái lý tương lai đi tới sẽ được thành quả. Còn như treo sau lưng bàn làm việc thì mang cái lý quá khứ hoặc hiện tại được thành quả vậy.

Từ đó để tôn tạo một ý tưởng, một hình ảnh, một mục tiêu để đạt được trong thời gian tới, ta có thể dùng cái lý của Dịch Ảnh để tạo ra một tấm ảnh như ý muốn để treo trước mặt nơi làm việc cũng là để có niềm tin, có cái “tượng và lý của Dịch Ảnh” thì sẽ đạt được trong tương lai vậy.

Dịch Lý là một Minh Triết, là ngôn ngữ của muôn loài vạn vật, tất cả đều có tiếng nói chung thông qua Lý Dịch này. Dịch Ảnh cũng vậy, mỗi tấm ảnh là một dịch ảnh, mỗi dịch ảnh là một tiếng nói. Khi ta treo một bức ảnh trong phòng làm việc và giao tiếp quan sát hằng ngày thì sẽ tạo nên một tâm lý, một lực vô hình ảnh hưởng tác động lẫn nhau lâu ngày sẽ tạo nên một thời vận theo cái lý của Dịch Ảnh đó.

Mọi thứ được bắt đầu theo cái “lý khai sinh” của nó, lý khai sinh của một năm là những ngày đầu năm, nên đầu năm chúng ta thường chúc nhau những lời hay ý đẹp, tặng cho nhau những món quà may mắn, như ý, nhằm có một năm được Phúc – Lộc – Thọ - Khang – Ninh.

Nghe chuyen gia phong thuy ban ve su may rui trong Dich anh
 

Dịch Ảnh: Khai bút đầu năm

Từ đó một tấm Dịch Ảnh may mắn đầu năm sẽ có ảnh hưởng cho sự may mắn suốt năm vậy.

Một tấm Dịch Ảnh được chụp vào lúc nào và thượng ảnh vào thời điểm nào là tốt nhất?

Theo Dịch Lý trong mỗi giờ, phút trôi qua đều có một Quẻ Dịch. Mỗi quẻ dịch đều có một ý nghĩa theo cái lý của nó, mà ta gọi nôm na là giờ tốt, giờ xấu… Nếu một Dịch Ảnh được chụp và thượng ảnh đúng giờ hợp với cái lý của Dịch thì sẽ phát huy sức ảnh hưởng của nó gấp bội phần.

Không gian vị trí thượng Dịch Ảnh cũng phải hợp với lý khí của Dịch. Trong nhà Dịch Ảnh phải được để nơi trang trọng, chính yếu như giữa bức tường sạch sẽ, bằng phẳng. Phòng khách, phòng thờ, phòng đọc sách thì thượng Dịch Ảnh mang lý cao thượng, công danh, tài lộc, thu hoạch, lý tưởng, địa vị. Phòng ngủ thì thượng Dịch Ảnh mang lý yêu thương, đùm bọc, che chở, sum họp…Phòng ăn thì thượng Dịch Ảnh mang lý sum họp, ẩm thực, tài thực, hoa quả…

Ngoài ra, không gian đối diện của Dịch Ảnh cũng là phần đáng lưu ý không kém phần quan trọng. Bởi lý khí xung chiếu nên tránh những tượng bất tường (xui xẻo) để đối diện Dịch Ảnh, như tượng gươm, đao, sừng nhọn của các loài thú có tính sát khí, chiến tranh, WC… xung vào ảnh cũng không tốt. Vị trí Dịch Ảnh tránh treo lên giữa cột, hoặc trong kẹt, trong hóc, nơi bị che khuất, âm khí, tĩnh mịch, u tối, mờ ám, ô uế…

Tóm lại Dịch Ảnh có tầm ảnh hưởng đến thời vận tâm lý của ta rất nhiều, nên trong dịp đầu xuân chúng ta cần có ý thức đôi chút về kiến thức của Dịch Ảnh mà kiến tạo ra một Dịch Ảnh tốt đẹp để có mục tiêu lý tưởng nhằm đạt được trong năm mới này.

Trước thềm năm mới Xuân Bính Thân 2016 xin chúc toàn thể anh chị em có những tấm Dịch Ảnh đầy Yêu thương – Hạnh phúc – May mắn và Thành đạt.

Thanh Từ Dịch Học Sĩ Trần Quốc Thái


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nghe chuyên gia phong thủy bàn về sự may rủi trong Dịch Ảnh

Những đại kỵ trong đám tang cần tránh tuyệt đối

Người xưa có câu: “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Cưới hỏi, ma chay đều quan trọng như nhau. Nếu phạm phải những điều đại kỵ trong đám tang dưới đây, cả người sống và người đã khuất đều khó mà yên ổn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Người dự đám tang ăn mặc lòe loẹt, hở hang

Trang phục phù hợp nhất khi đi dự lễ khâm liệm, an táng hay cải táng là màu đen hoặc trắng. Mặc những đồ lố lăng, lòe loẹt, hở hang là điều cần tránh.

Ngoài ra, phụ nữ có thai, trẻ em hoặc những ai bị chó dại cắn không nên đi tới đám tang. Họ có thể bị nhiễm hơi lạnh từ thi thể người mất vì ốm đau, bệnh tật, không tốt cho sức khỏe và cả mặt phong thủy.

Trong trường hợp nhà có trẻ nhỏ, phụ nữ mang thai sống gần gia đình có tang, nên đặt lò than đốt vỏ bưởi hoặc bồ kết để trừ uế khí.

2. Chó mèo nhảy qua thi thể người chết

Khi thi thể người chết chưa được đặt vào quan tài, phải cử người coi giữ ngày đêm, vừa tỏ lòng thương tiếc, lại ngăn không cho chó hay mèo nhảy qua xác. Bởi như vậy dễ xảy ra hiện tượng quỷ nhập tràng (người chết bật dậy để bắt người sống). Đây là một trong những điều đại kỵ trong đám tang, cần phải tránh tuyệt đối.

Nhung dai ky trong dam tang can tranh tuyet doi hinh anh
 
3. Nước mắt rơi vào thi hài khi khâm liệm

Người xưa quan niệm rằng, nếu để nước mắt rơi xuống khi khâm liệm sẽ khiến con cháu làm ăn khốn khó. Vì thế, dù thương xót người quá cố tới đâu cũng phải đứng xa một khoảng nhất định, tránh để nước mắt nhỏ vào thi hài.

4. Đi thật nhanh khi khiêng linh cữu

Dân gian có tục giữ cho thi hài người chết được nằm yên, vì thế, khi khiêng linh cữu cần phải nhẹ nhàng, cẩn thận, tránh đi nhanh. Thậm chí, những người khiêng linh cữu phải cố tình đi thật chậm để thể hiện sự lưu luyến với người đã khuất.

5. Khi về vẫn cố quay đầu lại

Hạ huyệt người đã khuất xong, khi ra về, những người đưa tang phải tuyệt đối tránh quay đầu lại.

6. Cưới gả trong thời gian để tang cha mẹ


Trong thời gian để tang cha mẹ phải kiêng kị việc cưới hỏi, lấy chồng lấy vợ để tỏ lòng kính trọng, thương tiếc người đã khuất.

Theo quan niệm xưa, thời gian để tang là 3 năm. Nhưng ngày nay, việc kiêng cữ không còn kỹ lưỡng như trước. Một số gia đình có thể lấy vợ, gả chồng cho con sau giỗ đầu.

Nhung dai ky trong dam tang can tranh tuyet doi hinh anh 2
 
7. Chôn đồ dùng của người sống cùng người chết hay dùng đồ thừa của người chết


Khi chôn cất người chết, kiêng dùng quần áo hay đồ dùng của người còn sống cho người mất vì như vậy là người mất đã mang đi một phần của người sống, khiến người đó có thể bị ngớ ngẩn, hay quên.

Ngoài ra, người sống cũng kiêng nằm giường thừa, mặc quần áo thừa, dùng đồ thừa của người chết để lại.

8. Để ánh sáng mặt trời soi trực tiếp khi cải táng

Trước khi cải táng (sang cát), thông thường các đình sẽ xem ngày, giờ tốt. Việc cải táng luôn được thực hiện về đêm để tránh ánh sáng mặt trời. Vì có nhiều trường hợp thi thể sau nhiều năm vẫn còn nguyên vẹn, nếu để ánh sáng mặt trời chiếu vào, thi thể sẽ rữa ngay và teo lại.

9. Dùng quan tài bằng gỗ liễu

Theo quan niệm của dân gian, quan tài kỵ dùng gỗ cây liễu. Bởi cây liễu không có hạt, sợ đời sau không có người nối dõi. Chất liệu tốt nhất để làm quan tài là gỗ cây tùng hoặc cây bách.

10. Không chọn ngày tổ chức tang lễ và vị trí chôn cất


Xem ngày, xem giờ và vị trí chôn cất là việc làm vô cùng quan trọng, để tránh những điều không may xảy ra. Vị trí của mộ tốt hay xấu có thể ảnh hưởng đến con cháu đời sau. Dưới đây là một số kiêng kỵ khi chọn vị trí chôn cất:

– Không được chôn cất ở nơi có tảng đá lớn

– Không chôn cất ở nơi có bãi cát và nước chảy xiết

– Không chôn cất ở kênh rạch và nơi hoang vắng

– Không chôn trên đỉnh núi cô độc

– Không chôn xung quanh đền, chùa, miếu

– Không chôn gần nhà tù

– Không chôn nơi đồi núi hỗn loạn

– Không chôn nơi phong cảnh u sầu

– Không chôn nơi ẩm ướt hoặc địa hình không ổn định.

11. Một số điều kiêng kị khác

Người chết vì treo cổ tự tử: Theo tục lệ xưa, người thân phải chém đứt dây mà không tháo dây vì như vậy mối oan nghiệt mới dứt, tránh bị họa chết chóc sau này.

Người chết ngoài đường, chết đuối: Thân nhân người chết phải tổ chức tang lễ tại nơi chết hoặc dựng lán ngoài đồng để làm lễ, kiêng đưa xác về nhà vì có âm khí sẽ không có lợi cho việc làm ăn, sinh sống của những người trong nhà.

Con cái mất trước cha mẹ: Kiêng việc cha mẹ đích thân đưa tang con, vì con cái mất trước là nghịch cảnh, bất hiếu, gây nhiều đau thương. Cha mẹ có thể đau buồn mà ngất trên đường đi đưa ma, ảnh hưởng tính mạng, nên phải làm vậy để vơi nỗi buồn, tránh trùng tang.

Ngọc Điệp
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những đại kỵ trong đám tang cần tránh tuyệt đối

Vì sao không nên cắt móng tay vào ban đêm?

Tâm linh dân gian cho rằng, không nên cắt móng tay vào ban đêm. Tưởng như đây chỉ là kiêng kị truyền miệng, nhưng thực chất lại có nguyên lý.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo quan niệm dân gian, không nên cắt móng tay vào ban đêm, đặc biệt với trẻ nhỏ còn không nên cắt vào lúc đang ngủ. Việc tưởng chừng như mang tính tâm linh này lại có cách lý giải theo phong thủy ngũ hành.

Theo khoa học, móng tay của con người là chất sừng, có tác dụng bảo vệ phần thịt mềm ở các đầu ngón tay, ngón chân phải tiếp xúc nhiều với các vật. Nó giống như tấm lá chắn, giữ gìn tính ổn định và an toàn cho các chi, tăng cường sự mẫn cảm cho các ngón tay trong khi tiếp xúc. Không những vậy, móng tay lại cần các dây thần kinh đầu ngón tay, có tác dụng điều tiết mạch máu và điều hòa nhiệt độ cơ thể. 

me
Theo quan niệm dân gian, không nên cắt móng tay vào ban đêm, đặc biệt với trẻ nhỏ còn không nên cắt vào lúc đang ngủ. 

Vì thế mà nên cắt móng tay vào ban ngày, khi hệ thần kinh của con người khá mẫn cảm, buổi tối thần kinh mệt mỏi lại tác động đến nơi này thì không nên. 

Còn dân gian thì thường truyền nhau, nếu cắt móng tay vào ban đêm sẽ dễ bị nấm móng hoặc bị mất hồn. Nguyên nhân của điều này là những câu chuyện dân gian mang đậm tính chất tâm linh, huyền bí hoặc dựa trên nguyên lý phong thủy âm dương ngũ hành.

Về phong thủy, khi đứa trẻ chưa đủ 12 tuổi, tức là chưa hoàn tất một vòng cầm tinh thì chính là hồn xác chưa hoàn thiện. Nếu nửa đêm mà cắt móng tay thì “điệu hồn” sẽ bay mất, khiến đứa trẻ ốm đau bệnh tật, thậm chí mất mạng. Kị nhất là sau 11 giờ đêm. Sau lan ra áp dụng cả với người trưởng thành.

Về mặt truyền thuyết, bắt nguồn từ câu chuyện một người phụ nữ xinh đẹp nhưng bị chồng mưu sát, trước khi chết người chồng cắt hết những chiếc móng xinh đẹp của nàng. Vì thế, nếu nửa đêm mà cắt móng tay thì oan hồn người phụ nữ với đôi bàn tay cụt móng sẽ xuất hiện đòi báo thù. Tất nhiên, đây chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng.

Tại Nhật Bản cho rằng “Cắt móng tay ban đêm thì không tốt”. Người ta cho rằng nếu cắt móng tay vào ban đêm thì sẽ không thể gặp được cha mẹ khi mất. Cũng có lý do cho rằng thời xưa vì không có dụng cụ cắt móng tay nên sử dụng là các loại dao, kéo, các vật dụng có cạnh sắc, nhọn trong điều kiện thiếu sáng nên dễ bị thương. Có nhiều giả thuyết không rõ ràng đưa ra như là “Cắt móng tay buổi tối” => “Cuộc đời ngắn lại”.

Theo Phunutoday/ Khỏe & Đẹp
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao không nên cắt móng tay vào ban đêm?

Chọn tranh phong thủy cho người tuổi Dậu –

Tuổi Dậu: Gồm có các tuổi sinh năm: 1945 – 1957 – 1969 – 1981 – 2005. Những người tuổi này nên chọn tranh gì để thu hút vận may cho mình. Chúng ta cùng đọc bài viết sau để biết được người tuổi Dậu nên chọn tranh nào nhé! Tranh phong thủy hợp với ngườ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Dậu: Gồm có các tuổi sinh năm: 1945 – 1957 – 1969 – 1981 – 2005. Những người tuổi này nên chọn tranh gì để thu hút vận may cho mình. Chúng ta cùng đọc bài viết sau để biết được người tuổi Dậu nên chọn tranh nào nhé!

Nội dung

  • 1 Tranh phong thủy hợp với người tuổi Dậu
    • 1.1 Tranh phượng hoàng, bách điểu triều phụng
    • 1.2 Y nghĩa của tranh phong thủy
    • 1.3 Vị trí treo tranh

Tranh phong thủy hợp với người tuổi Dậu

tranh-phuong-hoang1

Tuổi Dậu khi muốn chọn tranh phong thủy để mang lại may mắn, thì nên chọn một trong các loại tranh sau:

Tranh phượng hoàng, bách điểu triều phụng

Tranh phượng hoàng, Bách điểu triều phụng, Tam dương khai thái, Trăm con sơn dương, phượng là con trống, hoàng là con mái, đôi chim vua của loài chim này thuộc linh điểu; hoặc các tranh hoa điểu, mẫu đơn; thuyền chở châu báu…

Y nghĩa của tranh phong thủy

Tam dương khai thái là mở ra vận hội mới, thái bình tốt đẹp; phượng hoàng song phi, bách điểu triều phụng là vợ chồng hoà thuận, sự nghiệp hanh thông, địa vị tôn quý, con cháu xum vầy hoà mục, đỗ đạt thành công…

Vị trí treo tranh

Treo phòng khách, vị trí trung tâm, treo ở nhà thờ họ, nhà trưởng họ hoặc vị trí trung tâm trong gia đình. Tốt nhất nên căn cứ ngũ hành bản mệnh và phong thuỷ cung lập mệnh để treo cho hợp vị.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn tranh phong thủy cho người tuổi Dậu –

Thay đổi phong thủy để tìm được công việc tốt

Một công việc không chỉ đem lại cho bạn thu nhập mà caonf là cách hòa nhập xã hội và khẳng định năng lực bản thân. Những mẹo phong thủy dưới đây có thể giúp
Thay đổi phong thủy để tìm được công việc tốt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Bạn đang tìm một công việc mới? Bạn đang căng thẳng để bắt đầu sự nghiệp? Một công việc không chỉ đem lại thu nhập mà còn là hình thức hòa nhập xã hội và sự khẳng định khả năng của một cá nhân. Một công việc làm cho bạn hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu, tình cảm và tài chính. Có thể những mẹo phong thủy nho nhỏ dưới đây sẽ giúp bạn tìm được nó.  


1. Đặt ảnh những người có sự nghiệp và thành tựu nghề nghiệp mà bạn ngưỡng mộ ở khu vực phía Bắc của căn phòng. Khu vực này kết nối với dòng chảy năng lượng trong cuộc sống nghề nghiệp của bạn, cũng được gọi là đường dẫn tới cuộc sống. 

Thay doi phong thuy de tim duoc cong viec tot hinh anh
Những người có sự nghiệp thành công sẽ là nguồn cảm hứng cho bạn
 
2. Bạn cũng có thể treo những hình ảnh tươi sáng, rạng rỡ ở phía Tây Bắc để kích hoạt năng lượng hỗ trợ vận may khi có sự điều chuyển hoặc bắt đầu, đẩy nhanh tiến độ tìm được công việc của bạn.
 
3. Phía Tây Bắc treo một chiếc chuông bằng kim loại hoặc một khung ảnh viền kim loại. Phía Bắc đặt đồ vật thuộc yếu tố Thủy (gương, bể cá, vật trang trí màu xanh, đen). Đây là khu vực tượng trưng cho sự nghiệp của bạn. Cũng đừng quên chú ý tới phía Đông Nam – vị trí của tiền tài và sự giàu có. 

Thay doi phong thuy de tim duoc cong viec tot hinh anh 2
Đặt gương hoặc đồ vật viền kim loại ở phía Bắc căn phòng

4. Hãy chắc chắn rằng trong phòng bạn cửa trước không bị chặn, tủ quần áo không tồn trữ quá nhiều, có không gian mở dưới giường và không quá lộn xộn. 

Thay doi phong thuy de tim duoc cong viec tot hinh anh 3
Sắp xếp phòng ở gọn gàng 
 
Treo chuông quanh nhà thay vì gửi hồ sơ xin việc hay gặp gỡ với những người phù hợp sẽ là sự lãng phí lớn về thời gian. Phong thủy nên được sử dụng hợp lý trong những nỗ lực tìm kiếm công việc của bạn. Chăm sóc tốt năng lượng của mình bằng cách tập thể dục, ăn uống đầy đủ, sống trong môi trường phong thủy tốt và giữ thái độ tích cực, lạc quan; bạn sẽ có được công việc xứng đáng. Nó có thể đến rất bất ngờ, vì vậy hãy kiên trì và tỉnh táo.    
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thay đổi phong thủy để tìm được công việc tốt

Đền Trần Hưng Đạo - TP Hồ Chí Minh

Đền Trần Hưng Đạo ở phường Tân Định, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Đền thờ vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo thì đây là ngôi đền to nhất ở phía Nam.
Đền Trần Hưng Đạo - TP Hồ Chí Minh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đền thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo ở số 36 đường Võ Thị Sáu, phường Tân Định, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong số nhiều ngôi đền thờ vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo thì đây là ngôi đền to nhất ở phía Nam.

Đền Trần Hưng Đạo được xây dựng năm 1932, trong một khuôn viên rộng lớn của chùa Vạn An cũ. Đến năm 1957, theo đồ án của kiến trúc sư Nguyễn Mạnh Bảo, Hội Bắc Việt tương tế đã khởi công xây dựng lại đền vào ngày 28 tháng 7, và hoàn thành vào ngày 11 tháng 7 năm 1958. Về sau, đền còn được tu bổ nhiều lần.

Đền có 3 cổng trông ra đường Võ Thị Sáu. Ngay đầu sân là bức tượng Trần Hưng Đạo uy nghi bằng xi măng màu vàng đen. Cổng chính chỉ mở vào ngày rằm, ngày 30 (âm lịch) hằng tháng, và những ngày có lễ hội lớn trong năm. Hằng ngày, khách đến viếng thăm bằng cổng phụ. Qua cổng chính là một khoảng sân rộng lát gạch. Ở đầu sân, có đặt một pho tượng Trần Hưng Đạo bằng xi măng cốt sắt.

Đền được xây theo hình chữ “Đinh” rộng 200m2, có 3 dãy cửa liền nhau trông ra sân. Trong đại sảnh có nhiều hoành phi, câu đối ca ngợi tài năng, đức độ và những chiến công hiển hách của người anh hùng trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông cuối thế kỷ 13.

Trong đền còn thờ các vị tướng lĩnh có công với nước ở đời nhà Trần như Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng. Ở nơi thờ chính có tượng Trần Hưng Đạo bằng đồng trong tư thế ngồi cao 1,70m, do thợ đúc đồng Ngũ Xã đúc năm 1957. Phía trái là bàn thờ đặt bài vị hai người con gái của Trần Hưng Đạo. Bên phải thờ bốn người con trai. Bên phải sân đền là nhà bảo tàng nhỏ, trưng bày một số hiện vật, văn bản, bản đồ, đoạn trích bài hịch của ông.

chính điện
Chính điện đền

Bên cạnh các hạng mục trên, bên phải sân đền (ngoài cổng nhìn vào) còn có nhà “Trưng bày lịch sử đời Trần” được xây kiên cố. Bên trong ngôi nhà trưng bày một số hiện vật, như văn bản, bản đồ, đoạn trích bài hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, v.v…

Hằng năm, đền thờ đều có tổ chức các ngày lễ lớn, trong số đó có lễ giỗ (20 tháng 8 âm lịch) và lễ sinh (10 tháng Chạp âm lịch) của Trần Hưng Đạo,…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền Trần Hưng Đạo - TP Hồ Chí Minh

Cách hóa giải giường ngủ trên bếp –

Phong thủy cho rằng bếp nấu tránh đặt dưới phòng ngủ. Vì thế, tùy vào không gian nhà nên có cách bố trí sao cho tránh được yếu tố này. Theo chuyên gia phong thủy, một trong các yếu tố tránh của phong thủy là phòng ngủ trên bếp nấu, đặc biệt là giường

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy cho rằng bếp nấu tránh đặt dưới phòng ngủ. Vì thế, tùy vào không gian nhà nên có cách bố trí sao cho tránh được yếu tố này.

Theo chuyên gia phong thủy, một trong các yếu tố tránh của phong thủy là phòng ngủ trên bếp nấu, đặc biệt là giường ngay trên đầu bếp thì càng cần phải tránh. Bởi bếp thuộc tính hỏa, trong quá trình nấu nướng khí hỏa sẽ bốc lên các không gian bên trên và ảnh hưởng đến người cư ngụ trong các phòng đó. Dù là nhà mái bê tông, thì việc này cũng cần tránh bởi khói và hơi nóng bốc lên cũng có thể làm phần mái này có nhiệt độ tăng cao hơn.

file.246488

Trong khi đó, phòng ngủ luôn cần sự yên tĩnh, mát lành. Vì thế, khi giường ngủ kê ngay trên bếp sẽ rất khó chịu, khó ngủ. Phong thủy cho rằng, giường ngủđặt trên bếp có thể khiến người ngủ trên đó dễ nảy sinh tâm lý nóng nảy, khó chịu hoặc hay ốm đau.Khi gặp tình huống này, gia chủ nên thay đổi cách bố trí các phòng trong nhà. Ví dụ, nên di chuyển phòng ngủ sang một không gian khác và thay vào đó là phòng đọc, phòng sinh hoạt chung…

Đối với các trường hợp nhất thiết phòng đó phải là phòng ngủ thì gia chủ vẫn có thể linh hoạt bằng cách kê giường ngủ sao cho vị trí không trùng với bếp nấu bên dưới. Phía tầng giường nên trùng là tủ lạnh, bồn rửa chén, bàn ăn… Tuy nhiên, các trường hợp này cần được bố trí sao cho hài hòa, tránh sắp xếp lộn xộn làm ảnh hưởng đến bố cục chung của toàn căn nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải giường ngủ trên bếp –

Hoa quý cát tường

Các loài hoa không chỉ có tác dụng làm đẹp mà còn mang ý nghĩa may mắn, hưng thịnh, tăng tài vận, cho ngôi nhà. Gợi ý một số loại hoa quý cát tường nên dùng để
Hoa quý cát tường

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

trang trí nhà cửa.

Hoa quy cat tuong hinh anh
 
Cỏ cát tường: loài dễ sống trong nước, trong bùn, nhỏ bé nhưng xinh xắn, quanh năm có màu xanh tươi tốt, tượng trưng cho “cát tường như ý”. Tương truyền khi cỏ cát tường nở hoa thì gia chủ sẽ có nhiều niềm vui đến cùng lúc.   Quýt: cùng với hồng biểu trưng cho sự đại cát, kết hợp với hoa bách hợp thì ngụ ý trăm sự đại cát   Mai: loài hoa báo hiệu mùa xuân phương Nam, kết hợp với chim khách (hỷ thướng) thì mang nghĩa báo hỷ. Năm cánh hoa mai tượng trưng cho năm vị thần may mắn, mang đến vui vẻ, hạnh phúc.   Trà: loài hoa còn có tên khác là ngọc danh, màu sắc đẹp, cao quý, là loài hoa phú quý trong các loài hoa.   Sen: tượng trưng cho phẩm đức cao thượng, trong sáng, thanh khiết. Đặt sen trong nhà vừa tươi mát, vừa thanh tịnh lại có khí chất.   Cây lá lĩnh: phong thủy cho rằng cây lá lĩnh là loài thực vật may mắn, đỗ đạt.   Tùng: loài cây bốn mùa xanh tốt tượng trưng cho sức khỏe và trường thọ, cùng với cúc hoặc chim hạc thành hình tượng nghệ thuật trong tranh cát tường, ngụ ý tiếng hạc báo hiệu sự trường tồn, vĩnh cửu.    Vạn tuế: cây xanh bốn mùa, biểu đạt vạn sự như ý, hạnh phúc diên niên.   
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hoa quý cát tường

Các lễ hội ngày 9 tháng 11 Âm Lịch - Hội Hạ Thái

Hội Hạ Thái được tổ chức định kì hàng năm vào ngày 9 tháng 11 âm lịch tạilàng Hạ Thái, xã Duyên thái, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây cũ nay thuộc Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 9 tháng 11 Âm Lịch - Hội Hạ Thái

Các lễ hội ngày 9 tháng 11 Âm Lịch - Hội Hạ Thái

Lễ Hội Hạ Thái

Thời gian: tổ chức vào ngày 9 tới ngày 11 tháng 11 âm lịch.

Địa điểm: làng Hạ Thái, xã Duyên thái, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây cũ nay thuộc Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn thành hoàng làng là ông Bùi Sĩ Lượng (quan võ thời Lê, diệt Mạc) và Bà Đinh Thị Trạch (người đàn bà tự nộp mình cho hổ để cứu dân làng).

Nội dung: Mở đầu lễ hội là dựng cây nêu cạnh giếng, tiếp đó là lễ rước, lễ mộc dục, lễ cáo yết ở miếu và tế ở đình. Phần hội có: đấu vật, múa sênh tiền, múa sư tử, chạy thi, tổ tôm điếm...


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 9 tháng 11 Âm Lịch - Hội Hạ Thái

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd