Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Ngắm sân vườn tuyệt đẹp với ghế cây độc đáo

Con người đã tạo ra ghế cây từ một băng ghế để kết hợp hài hòa với cây xanh. Khi con người muốn làm mới khu vườn nhưng vẫn giữ lại cây xanh, ghế cây được nghĩ tới nhiều hơn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dưới đây là những thiết kế ghế đẹp mắt, ấn tượng và gần gũi nhất khiến cho sân vườn của gia đình bạn tỏa sáng.

sân vườn 
Bạn có thể giữ lại cây và làm băng ghế bao quanh thay vì phải chặt bỏ
các cây xanh để quy hoạch lại sân vườn

sân vườn đẹp 
Ghế cây là một sự kết hợp hoàn hảo

Bạn có thể ngồi ở ghế băng ngằm nhìn thiên nhiên và thưởng thức vẻ đẹp thời tiết trong khi cây cối tỏa bóng mát, mọi thứ được hòa quyện thật hài hòa.

sân vườn độc đáo 

Để làm đẹp sân vườn, bạn có thể sử dụng nhiều hình dạng và kiểu dáng cho thiết kế chiếc ghế cây. Ghế lục gác thường được ưa thích hơn cả bởi nó dễ dàng lắp ghép với nhau.

sân vườn ấn tượng 

Tuy nhiên, nếu muốn độc đáo và ấn tượng hơn, bạn có thể chọ các thiết kế khác. Đơn cử như chiếc ghế hình xoắn ốc được tạo ra bao quanh cái cây này.

sân vườn thoáng 

Nếu cái cây của nhỏ, bạn vẫn có thể tận dụng và xây ngay một cái ghế xung quanh nó. Tuy nhiên, bạn nên lưu ý để cái ghế cách cây một khoảng rộng đủ lớn để cây phát triển lên trong tương lai.

sân vườn lung linh 
Bạn tìm ngay được cái ghế để dựa lưng vào nghỉ ngơi nếu đang ở giữa khu vườn
và sân sau căn nhà, thật tuyệt vời phải không nào

sân vườn hiện đại 

Bạn hãy tìm những băng ghế hình dạng thích hợp nếu muốn đơn giản và hiện đại hơn. Ví dụ, một chiếc ghế hình vuông, đơn giản, bằng phẳng bao quanh cây.

sân vườn rộng 

Tuy nhiên, làm sao với một ngôi nhà sàn cao như thế này? Chẳng có gì thay đổi trên thực tế cả. Bạn vẫn để cái cây ở giữa sàn và đặt một chiếc ghế bằng gỗ bao quanh cây xanh.

(Theo Afamily)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngắm sân vườn tuyệt đẹp với ghế cây độc đáo

Vận trình tử vi trọn đời Tân Sửu nam mang chi tiết

Tân Sửu nam mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao, cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, lựa chọn vợ chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tân Sửu nam mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.

Sanh năm: 1961, 2021 và 2081
Cung ĐOÀI. Trực THÂU
Mạng BÍCH THƯỢNG THỔ (đất trên vách)
Khắc THIÊN THƯỢNG THỦY
Con nhà HUỲNG ĐẾ (phú quý)
Xương CON TRÂU. Tướng tinh CON ĐƯỜI ƯƠI

Ông Quan Đế độ mạng

Tân Sửu mạng Thổ tuổi này,
Số cùng với mạng lắm lần khắc khe
Vận thời đời đổi ngửa nghiêng,
Nhiều phen lận đận lắm lần gian nan.
Nếu sanh mùa Hạ thời may,
Thanh nhàn thong thả ít ai dám bì.
Số này chết hụt nhiều khi,
Nhờ ơn trời Phật không thì mạng vong.
Anh em cha mẹ hai dòng,
Nếu không chồng vợ lòng dòng đôi ba.
Nếu không thay vợ đổi nhà,
Cuộc đời luống chịu vui chiều buồn mai.
Cho hay số phận Thiên Tài,
Tu nhân tích đức phước nhờ mai sau.

xem bói tử vi tuổi Sửu

CUỘC SỐNG

Tân Sửu, cuộc đời nhiều may mắn, đường công danh phát triển mạnh mẽ, có thể vào trung vận có nhiều kết quả về danh phận. Đời sống có thể lên đến tuyệt đỉnh của cuộc đời. Tóm lại tuổi Tân Sửu có nhiều hay đẹp về cuộc sống cũng như về danh vọng và sự nghiệp.

Tuổi Tân Sửu, phát triển mạnh về công danh, trung vận và hậu vận nhiều sung sướng. Số hưởng thọ trung bìn từ 55 đến 60 tuổi. Hiền đức thì tăng thêm niên kỷ, gian ác thì giảm kỷ.

TÌNH DUYÊN

Về vấn đề tình duyên tuổi Tân Sửu có chia làm ba giai đoạn như sau: Nếu bạn sanh vào những tháng này thì cuộc đời bạn có ba lần thay đổi về tình duyên và hạnh phúc, đó là bạn sanh vào những tháng 4, 8, 9 và 12 Âm lịch. Nếu sanh vào những tháng này thì cuộc đời có hai lần thay đổi về tình duyên và hạnh phúc, đó là bạn sanh vào những tháng 1, 2, 3, 5 và 10 Âm lịch. Nếu bạn sanh vào những tháng này thì cuộc đời bạn được hưởng hạnh phúc, một chồng một vợ mà thôi, đó là bạn sanh vào những tháng 6, 7 và 11 Âm lịch.

GIA ĐẠO, CÔNG DANH

Công danh lúc trung vận có thể lên đến tuyệt đỉnh của dạnh vọng đời sống có phần sung túc về vấn đề này. Gia đạo yên hòa, không có gì xảy ra, nhưng về hậu vận thì hay lộn xộn và bê bối.

Phần sự nghiệp hay đẹp, liên quan đến vấn đề công danh, công danh lên cao thì sự nghiệp được vững chắc tiền bạc đầy đủ hoàn toàn sung túc cho cả cuộc đời.

NHỮNG TUỔI HẠP LÀM ĂN

Nếu trong sự làm ăn hay phát triển công danh, bạn nên lựa những tuổi này mà cộng tác hay hợp tác thì có phần tốt đẹp, thâu được những thắng lợi về tài lộc, đó là các tuổi: Quý Mão, Ất Tỵ, Bính Ngọ. Kết hôn hay làm ăn với những tuổi này thì được tốt.

LỰA CHỌN VỢ, CHỒNG

Trong việc kết hôn, bạn nên lựa chọn những tuổi này thì cuộc sống bạn có nhiều tốt đẹp và có phần làm ăn được phát đạt giàu sang, đó là bạn kết hôn với các tuổi: Quý Mão, Ất Tỵ, Bịnh Ngọ, Kỷ Dậu, Canh Tý, Kỷ Hợi. Nếu kết hôn với những tuổi trên bạn sẽ tạo được cuộc sống giàu sang phú quý.

Nếu bạn kết hôn với những tuổi này thì bạn chỉ tạo được cuộc sống trung bình mà thôi, vì những tuổinày chỉ hạp vào đường tình duyên mà không hạp về đường tài lộc, đó là các tuổi: Nhâm Dần, Mậu Thân.

Nếu kết hôn với những tuổi này, đời sống của bạn chỉ tạo được một cuộc sống khả dĩ bảo đảm cho cuộc đời ở mức trung bình và chỉ sống trong sự nghèo khổ triền miên, đó là bạn kết duyên với các tuổi: Giáp Thìn, Bính Thìn.

Có những năm không hạp tuổi, nếu bạn tính việc hôn nhân sẽ không thành, hay thành thì sẽ gặp cảnh xa vắng triền miên, đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi: 18, 24, 30, 36, 42, 48 và 54 tuổi. Những năm mà không nên cưới vợ, nếu cưới vợ thì gặp cảnh trên.

Sanh vào những tháng này cuộc đời bạn sẽ có nhiều vợ, đó là sanh vào những tháng: 1, 2, 3, 4, 8 và 9 Âm lịch.

Tuổi Tân Sửu có những năm khó khăn nhất là những năm ở vào số tuổi: 18, 24, 28 và 33 tuổi. Những tuổi này đề phòng tai nạn hay bịnh tật..

NHỮNG TUỔI ĐẠI KỴ

Những tuổi sau đây, bạn không nên kết duyên hoặc hợp tác làm ăn, vì kết duyên hay hợp tác làm ăn bạn sẽ bị biệt ly hay tuyệt mạng giữa cuộc đời. Đó là bạn kết duyên với những tuổi: Tân Sửu đồng tuổi, Đinh Mùi, Canh Tuất, Quý Sửu, Kỷ Mùi, Mậu Tuất, Ất Mùi.

Như đã nói ở trên, khi phạm nhằm tuổi Đại Kỵ, bạn nên giản dị và cẩn thận đến mức tối đa trong cuộc sống cũng như trong việc làm ăn. Về việc hôn nhân hạnh phúc, nếu gặp tuổi đại kỵ thì nên âm thầm kết duyên hơn là làm rầm rộ, kỵ nhất là mâm trầu hay ra mắt bà con cha mẹ. Đây là vấn đề tạm thời, chứ thật ra gặp tuổi Đại Kỵ mà hiệp hôn hay làm ăn thì quá khó khăn trong vấn đề tài lộc, lẫn công danh và sự nghiệp. Nên tùy theo năm mà cúng sao hạn, nếu gặp hạn trường hợp kết hôn, giao dịch với tuổi Đại Kỵ, vì sao hạn mỗi năm khác và thay đổi suốt 60 năm.

NGÀY GIỜ XUẤT HÀNH HẠP NHẤT

Tuổi Tân Sửu xuất hành vào ngày chẵn, giờ lẻ và tháng lẻ thì thuận tiện nhất trong việc làm ăn cũng như về tài lộc. Xuất hành vào những ngày, giờ nói trên thì rất tốt về tài lộc cũng như về tình cảm.

VẬN TRÌNH TỬ VI TỪNG NĂM

Từ 20 đến 25 tuổi: 20 tuổi, năm phát triển về công danh; tài lộc yếu kém; tình cảm dồi dào. 21 tuổi, năm này khá tốt đẹp về phần tài lộc và cuộc đời. 22 tuổi, kỵ các tháng 3, 4 và 6 Âm lịch, các tháng này không nên đi xa, ngoài ra những tháng khác tốt đẹp. 23 tuổi, năm này quá xấu, không nên làm những chuyện lớn. 24 tuổi, tạm được, làm ăn có đôi phần kết quả, nhưng về tình cảm thì khó khăn. 25 tuổi, được tốt đẹp, năm này đi xa làm ăn thắng lợi.

Từ 26 đến 30 tuổi: 26 tuổi nhiều hy vọng thành công về công danh, tài lộc cũng như tình cảm. 27 tuổi năm này khá tốt có thể vượng phát vấn đề tiền bạc, đi xa vào những tháng 4 và 6 có hại cho bản thân. 28 và 29, hai năm này tạm tốt đẹp nhưng rất nhiều tháng xấu: 28 tuổi xấu vào những tháng 4, 7 và 11; 29 tuổi xấu vào những tháng 1, 7 và 12. 30 tuổi, có thể lên cao về danh vọng, sự nghiệp và cuộc đời.

Từ 31 đến 35 tuổi: 31 tuổi có nhiều hay đẹp về việc gia đình cũng như ngoài xã hội. 32 và 33 hai năm này tạm yên tĩnh công việc làm ăn bình thường. 34 tuổi khá tốt đẹp, công danh và tài lộc lên cao. 35 tuổi, năm này có bịnh hay gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống.

Từ 36 đến 40 tuổi: 36 tuổi khá tốt, bổn mạng vững, cuộc đời có nhiều may mắn. 37 và 38 tuổi hy vọng sẽ thành công hoàn toàn trong trong cuộc sống. 39 tuổi không được tốt hoàn toàn năm đều xấu! nên cẩn thận vào tháng 3 và 6 có tai nạn hoặc hao tài, tốn của. 40 tuổi ảnh hưởng của năm 39 còn, nên lo toan việc gia đình làm ăn lớn sẽ thất bại to.

Từ 41 đến 45 tuổi: 41 tuổi, năm này phát triển làm ăn xây dựng sự nghiệp rất tốt đẹp. 42 tuổi, thành công đôi chút về vấn đề tình cảm, gia đình. 43 tuổi, năm này nên đi xa hay hợp tác, giao dịch tiền bạc, sẽ gặp nhiều việc may. 44 tuổi, năm này trung bình không có gì quan trong xảy ra. 45 tuổi, năm này có thể làm ăn hay hùn hạp làm ăn khá tốt.

Từ 46 đến 50 tuổi: 46 tuổi, được phần thắng lợi về tài lộc cũng như về tình cảm, cuộc sống hay đẹp về công danh và sự nghiệp. 47 và 48, hai năm có hai tháng kỵ, có bịnh trầm trọng hay hao tài tốn của đó là tháng 1 của 47 tuổi và tháng 10 của 48 tuổi, ngoài ra những tháng khác trung bình. 49 và 50, hai năm này vượng phát mạnh, tiền bạc thêm dồi dào và nhiều tốt đẹp.

Từ 51 đến 55 tuổi: 51 tuổi, nhiều tốt đẹp. 52 tuổi, cẩn thận bổn mạng xấu. 53 tuổi trung bình. 54 tuổi khá tốt, trong gia đình, con cái có phần phát triển về danh vọng. 55 tuổi, tạm tốt đẹp về gia đình, bổn mạng có phần yếu kém.

Từ 56 đến 60 tuổi: Khoảng thời gian này nên cẩn thận về tài lộc lẫn tình cảm, bổn mạng có suy yếu. Những năm này rất kỵ việc đi xa.

Vận trình tử vi trọn đời 12 con giáp chi tiết

Xem bói tử vi tuổi Sửu

Xem tử vi năm mới


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận trình tử vi trọn đời Tân Sửu nam mang chi tiết

Mơ thấy con đường: Giải mã giấc mơ về con đường

Nếu bạn mơ thấy con đường rộng và đẹp thì có thể bạn sẽ đón nhận cuộc sống hạnh phúc. Giấc mơ này cũng dự báo rằng những người bạn tốt sẽ luôn ở bên bạn.
Mơ thấy con đường: Giải mã giấc mơ về con đường

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu bạn mơ thấy một con đường rộng và đẹp thì có thể bạn sẽ đón nhận cuộc sống hạnh phúc. Giấc mơ này cũng dự báo rằng những người bạn tốt sẽ luôn ở bên bạn. Ngược lại, giấc mơ về con đường chật hẹp cảnh báo về những rắc rối liên quan đến người thân. Vì vậy, bạn cần hết sức cảnh giác. 


► Lịch ngày tốt gửi đến bạn đọc công cụ xem bói tử vi chuẩn xác theo ngày tháng năm sinh

Than trong khi thay con duong trong giac mo hinh anh
Ảnh minh họa
Nếu bạn mơ thấy một con đường nhựa rộng và còn trong tình trạng tốt thì có thể bạn sẽ đón nhận một sự tiến triển trong công việc tuy chậm nhưng chắc chắn.    Nếu con đường đó bị hư hỏng và chật hẹp thì rất có thể bạn sẽ phải đối mặt với những khó khăn trong cuộc sống.    Nếu bạn nhìn thấy con phố rất dài trong giấc mơ là điềm báo rằng bạn cần kiên trì và chăm chỉ hơn trong công việc mới có thể đi đến thành công.    Một con phố lạ xuất hiện trong mơ báo hiệu về những thành công nhờ vào những mối quan hệ mới.    Giấc mơ về con đường quanh co là điều không may vì nó dự báo về những chuyến đi xa không thuận lợi hoặc những bí mật của bạn có thể bị bại lộ.
Mơ thấy mình cùng người lạ đi trên đường là sự nghiệp sắp đạt thắng lợi.

 
Mơ thấy mình cùng đối thủ đồng hành ngụ ý bạn sẽ đánh bại hắn.

 
Mơ thấy bạn bè hoặc vợ cùng mình đi trên đường phản ánh những suy nghĩ của bạn không thống nhất.

 
Mơ thấy bạn độc lập đi trên đường, điều này tượng trưng cho việc trong cuộc sống bạn phải đương đầu với khá nhiều đối thủ.

 
Mơ thấy trước mặt mình có nhiều con đường nhưng không biết chọn đường nào là ngụ ý tin tức tốt đẹp sắp chuyển tới.

 
Mơ thấy mình quên đường đi và lập tức chuyển hướng, ngụ ý bạn sẽ có may mắn.

 
Nam giới chưa kết hôn mơ thấy mình quên đường đi là bạn sẽ tìm thấy người yêu đồng chí hướng.

 
Người bệnh mơ thấy mình quên đường đi là bạn sẽ được trị liệu tốt và sắp bình phục.

 
Nhân viên văn phòng mơ thấy mình quên đường đi là sắp được thăng chức.

 
Mơ thấy mình không đi chung một con đường với bạn bè hay vợ/chồng là ngụ ý tình cảm thêm thắm thiết.
   Lichngaytot.com
 
Sự thật xung quanh giấc mơ về ngôi nhà
Căn nhà là nơi lưu giữ những khoảnh khắc đẹp nhất của gia đình mỗi người. Mơ thấy nhà thường là điềm lành, báo hiệu những tin tốt đẹp mà có thể bạn sẽ được đón
Giải mã một vài địa điểm thấy trong giấc mơ
Đôi khi bạn mơ thấy mình ở công viên, nhưng cũng có khi ở trong nhà tù. Địa điểm khác nhau thì ý nghĩa mỗi giấc mơ cũng khác nhau.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy con đường: Giải mã giấc mơ về con đường

Đám cưới nơi cửa Phật

Bên cạnh lễ cưới truyền thống, có không ít cô dâu, chú rể chọn cách mở đầu cuộc sống lứa đôi bằng một đám cưới nơi cửa Phật với các nghi thức Phật giáo.
Đám cưới nơi cửa Phật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bên cạnh lễ cưới truyền thống, có không ít cô dâu, chú rể chọn cách mở đầu cuộc sống lứa đôi bằng một đám cưới tại chùa với các nghi thức Phật giáo. Đám cưới này được gọi lễ Hằng Thuận.

Diễn viên Hồng Ánh, Thúy Nga, Diệu Hương cũng đã làm lễ Hằng Thuận ở chùa để mong một hạnh phúc gia đình viên mãn.

1. Ý nghĩa lễ Hằng Thuận:

Lễ Hằng Thuận là nghi thức lễ cưới được tổ chức trang nghiêm tại chùa hoặc thiền viện. Ngoài ra, lễ Hằng Thuận cũng có thể tổ chức tại nhà thờ tổ của dòng họ. Theo tên gọi, “Hằng” là thường xuyên, luôn luôn, còn “Thuận” là hòa thuận, đồng thuận hướng về những điều cao thượng, tốt đẹp trong đời sống. Vì vậy, mục đích chính của lễ Hằng Thuận là để vợ chồng ý thức được tầm quan trọng của hôn nhân, từ đó hướng đến cuộc sống gia đình hạnh phúc, êm ấm.

2. Quy trình tổ chức lễ Hằng Thuận:

Trước khi tổ chức, cô dâu, chú rể và gia đình hai bên phải đến chùa xin ý kiến của sư thầy trụ trì, sau khi nhận được sự đồng ý mới bắt đầu bước vào công việc chuẩn bị cho buổi lễ. Nghi thức của lễ cưới được tiến hành có phần khác với lễ cưới thông thường.
Chủ hôn thường là một vị hoà thượng hay chư tăng. Nếu tổ chức tại chùa, nghi lễ này sẽ được thực hiện ở chính điện của chùa. Sẽ có một chiếc bàn dài được kê ở chính điện, các vị hoà thượng sẽ đứng sau chiếc bàn đó, gia đình cô dâu, chú rể cùng họ hàng, bạn bè đứng ở hai bên theo đúng quy cách “nam tả, nữ hữu” (nhà trai đứng bên trái, nhà gái đứng bên phải).

  • Trước khi làm lễ, vị chủ hôn sẽ hỏi xem cô dâu, chú rể đã quy y chưa, nếu chưa thì thầy sẽ làm lễ quy y cho hai vợ chồng trước, rồi mới tới nghi lễ cưới.
  • Cô dâu, chú rể sẽ quỳ trước bàn thờ để đọc lời nguyện và nhận lời ban phước cũng như lời răn dạy của vị trụ trì buổi lễ.
  • Tiếp đó là nghi lễ “Phu thê giao bái”, cô dâu, chú rể trao nhẫn cưới và cùng nhau nghe sư thầy chủ trì nói về ý nghĩa của việc trao nhẫn.
  • Cuối cùng, đại diện hai bên gia đình sẽ hứa trước tượng Phật và các vị chư tăng về việc chỉ bảo cho cô dâu chú rể nên người, xây dựng gia đình hạnh phúc.
đám cưới
Phật và các vị chư tăng sẽ chỉ bảo cho cô dâu chú rể nên người, xây dựng gia đình hạnh phúc.

Sau khi buổi lễ tại chính điện kết thúc, gia đình hai bên sẽ mời sư thầy, các vị chư tăng cùng họ hàng và bạn bè dự tiệc chay. Thông thường, bữa tiệc này sẽ được tổ chức ngay tại chùa, mâm cỗ cũng đầy đủ các món như gà luộc, nem hải sản, canh măng… Điểm khác biệt là toàn bộ các món ăn đều được chế biến từ thực vật như nấm, mộc nhĩ, khoai, đậu phụ, ngũ cốc…

3. Lợi ích của lễ Hằng Thuận:

Hiện nay, tại Việt Nam có nhiều gia đình theo đạo Phật. Vì vậy, việc tổ chức đám cưới tại chùa theo lễ Hằng Thuận sẽ giúp các cô dâu, chú rể là có thêm lòng tin vào hôn nhân, từ đó cùng nhau xây dựng cuộc sống gia đình hòa thuận, yêu thương, chung thủy, có trách nhiệm và mục đích sống.

Bên cạnh đó, việc tổ chức trong chùa cũng sẽ đem lại cho cô dâu, chú rể một lễ cưới trang trọng. Mâm cỗ với những món chay hoàn toàn, không có bia, rượu vừa giúp gia đình theo đạo Phật tránh khỏi việc sát sinh, đồng thời cũng rất có lợi cho sức khỏe của gia đình và quan khách hai bên.

đám cưới
Hiện nay, tại Việt Nam có nhiều gia đình theo đạo Phật

4. Một vài địa điểm tổ chức lễ Hằng Thuận:

Tại Hà Nội, cô dâu, chú rể có thể đến xin phép tổ chức tại thiền viện Sùng Phúc (phường Cự Khối, Long Biên), chùa Đình Quán (xã Phú Diễn, Từ Liêm), chùa Lý Triều Phúc Sư (50 Lý Quốc Sư, Hoàn Kiếm)…

Tại TP HCM, các đôi uyên ương có thể tham khảo các địa điểm tổ chức lễ Hằng Thuận tại chùa Viên Giác (quận Tân Bình), chùa Giác Ngộ (quận 10), chùa Vĩnh Nghiêm (quận 3)…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đám cưới nơi cửa Phật

Tuổi Sửu và tuổi Tỵ có hợp nhau không? –

Tuổi Trâu và tuổi Rắn có nhiều điểm chung hơn là sự khác biệt: Cả hai đều chăm chỉ, sâu sắc và coi trọng chất lượng hơn số lượng và vẻ hào nhoáng bề ngoài. Hai “hành tinh” này đều đặt gia đình ở ví trí hết sức quan trọng. Họ coi ngôi nhà của mình là
Tuổi Sửu và tuổi Tỵ có hợp nhau không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Sửu và tuổi Tỵ có hợp nhau không? –

Nhanh tay loại bỏ yếu tố phong thủy đe dọa hạnh phúc gia đình

Kiểm tra và loại bỏ những yếu tố phong thủy bất lợi cho hôn nhân ở khu vực phía Tây Nam ngôi nhà sẽ tăng cường vận may trong tình cảm.
Nhanh tay loại bỏ yếu tố phong thủy đe dọa hạnh phúc gia đình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bố trí phong thủy thúc đẩy hôn nhân ở hướng Tây Nam là phương pháp phong thủy thường được sử dụng để gia tăng tình cảm trong gia đình. Việc đầu tiên là kiểm tra và loại bỏ những yếu tố phong thủy bất lợi cho hôn nhân ở khu vực này.

Nhanh tay loai bo yeu to phong thuy de doa hanh phuc gia dinh hinh anh
 
Góc cạnh của cột nhô ra bên ngoài tạo thành tia sát khí, hóa giải lỗi phong thủy này bằng cách để một chậu hoa ở chỗ cạnh nhô ra hoặc treo chuông gió có 5 thanh ngay trước chỗ có góc nhọn.
 
Xà nhà lộ ra bên ngoài thì hãy treo hai thanh nhỏ bằng đồng, rỗng trên xà nhà hoặc dưới trần nhà. Nên treo bằng chỉ hồng để kích thích năng lượng.
 
Nhà có nhiều cửa sổ ở góc Tây Nam khiến tình yêu của người trong nhà dễ tan vỡ, bay đi theo gió. Hãy đóng bớt các cửa hoặc kéo rèm che thường xuyên.
 
Nếu ngôi nhà hoặc phòng ngủ thiếu góc Tây Nam hoặc nhà vệ sinh đang ở hướng đó thì là một bất lợi lớn cho đời sống tình cảm. Treo chuông gió lớn bằng kim loại rỗng để làm suy yếu năng lượng Thổ của nhà vệ sinh hoặc sơn cửa nhà vệ sinh màu đỏ sáng.
 
Bày bình tình yêu ở góc khuyết để tăng cường vận may tình cảm và mang tài lộc đến cho gia đình. Bình màu đỏ đậm hoặc vàng, có hình quả bầu, cổ hẹp hay bình cổ dài và hẹp, đáy lớn đều thích hợp.
 
Một cách khác nhưng không kém phần hiệu quả là treo quả cầu pha lê ở cửa sổ phía Đông. Chọn loại có nhiều cạnh, kích thước từ 2 đến 5cm để có cầu vồng vào buổi sáng. Treo ở của sổ phía Tây sẽ có cầu vồng vào buổi chiều. Cầu vồng tạo ra năng lượng dương, luân chuyển và tích lũy trong nhà, cải thiện tình trạng không khí, biến ngôi nhà thành ngôi nhà ngập nắng, tràn hạnh phúc.
ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhanh tay loại bỏ yếu tố phong thủy đe dọa hạnh phúc gia đình

Quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát Lý Đán Long Phượng Phối

Điển tích Quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát Lý Đán Long Phượng Phối có nguồn gốc từ vở Kinh kịch "Tiết Cương phản Đường"
Quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát Lý Đán Long Phượng Phối

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là điển cố thứ Hai mốt  trong quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát, mang tên Lý Đán Long Phượng Phối (còn gọi là Lý Đán Kết Duyên Long Phượng). 

Điển tích Quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát Lý Đán Long Phượng Phối  có nguồn gốc từ vở Kinh kịch “Tiết Cương phản Đường” (Tiết Cương trở về triều Đường), trong đó, “Lý Đán thăm Phượng Kiều” đã trở thành một trích đoạn vô cùng nối tiếng. Nội dung của điển tích này như sau:

Sau khi Đường Cao Tông qua đời, hoàng hậu Võ Tắc Thiên thừa cơ lạm quyền tiếm vị, khiến cho trong triều đình nội chiến hỗn loạn, tập đoàn họ Võ ra sức sát hại tập đoàn họ Lý, chiến hỏa bùng phát, binh đao xảy ra không ngừng.

Đại thần Mã Chu chuẩn bị cho công cuộc phò tá thái tử Lý Đán, gây dựng lại vương triều nhà Đường, đã khiến Võ Tắc Thiên nối giận. Võ Tắc Thiên sai Võ Tam Tư tiêu diệt Lý Đán. Võ Tam Tư đang đêm đánh vào sơn trại, Lý Đán và Mã Tư bị loạn binh tấn công. Lý Đán đã đối y phục cho một người thân tín rồi trốn thoát, sau đó đi ăn xin khắp các ngõ phố để sống qua ngày.

Lý Đán xin ăn từ Dương Châu đến Thông Châu, được thương nhân giàu có ở Thông Châu là Hồ Phát nhận vào làm người ở, đặt tên là Tiến Hưng. Hồ Phát là người gian xảo xu nịnh, có người cháu gái đến ở nhờ tên là Hồ Phượng Kiều, tư chất thông minh, sắc đẹp như tiên. Sau khi cha là Hồ Đăng qua đời, Phượng Kiều cùng người mẹ góa là Văn thị đến nương tựa vào Hồ Phát. Lý Đán và Phượng Kiều cùng cảnh ngộ nên rất thương cảm đối phương, và hai bên đã nảy sinh tình cảm. Có một điều rất kỳ diệu, đó là bên tay phải của Lý Đán có một nửa nốt ruồi màu đỏ, tay phải của Phượng Kiều cũng có một nửa nốt ruồi màu đỏ, hai nốt ruồi đó có thể hợp lại với nhau, tạo thành một hình vuông vức giống như ngọc tỷ (ấn ngọc của vua). Vì thế, nhờ người mẹ là Văn thị làm chủ, Lý Đán và Phượng Kiều đã định hôn ước.

Lúc này, tướng nhà Đường ở núỉ Thúy Vân là Tào Bưu vâng lệnh chủ soái, mang theo Vương Khâm cải trang, đi khắp nơi tìm thái tử Lý Đán. Họ tìm được đến nhà họ Hồ, vui mừng khôn xiết, muốn đưa Lý Đán trở về cùng bàn bạc việc khôi phục lại đại nghiệp nhà Đường. Lý Đán vẫn chưa nguôi hoài bão, bèn từ biệt Phượng Kiều, cùng Tào Bưu về núi Thúy Vân.

Hồ Phát có người con rể tên là Mã Địch, là một công tử phóng đãng, rất si mê nhan sắc của Phượng Kiều, nhưng cầu hôn nhiều lần đều bị cự tuyệt, đã không đạt mục đích lại còn bị mất mặt. Vì thế, Mã Địch mượn cơ hội Phượng Kiều đi vào miếu xin thẻ cho Lý Đán, cùng bàn mưu với ni cô, nhốt Phượng Kiều ờ trong miếu đế ép kết hôn. Phượng Kiều giả vờ đòng ý, rồi tắm gội, chuẩn bị treo cố tự tử, may sao được người hầu già ngày trước là Hồ Ngoan cứu thoát, chạy đến Lăng Châu, ở nhờ nhà của viên ngoại họ Thôi.

Con trai Thôi Văn Đức của Thôi viên ngoại là Tiến sĩ hai khoa thi Giáp, Ất trong kỳ thỉ Hội, chưa lấy vợ, rất thích Phượng Kiều. Phượng Kiều không biết làm sao, liền nhảy xuống sông đế tỏ rõ khí tiết, may được chiếc thuyền lớn của Đào Nhân đi qua cứu sống, nên theo chiếc thuyền đến Tương Châu, làm a hoàn trong nhà họ Đào.

Lý Đán được sự phò tá của các bề tôi tài giỏi như Mã Chu, đã dựng cờ chống lại nhà Chu của Võ Tắc Thiên tại Hán Dương, nghênh chiến với Võ Tam Tư. Trong cuộc chiến, Mã Chu đã trúng tên độc. Để phá được “phi luân bài của Lý Thành Nghiệp, Lý Đán bèn cải trang thành Lý Quốc Tộ đi đón dâu là con gái của Đào Nhân, đến Đào phủ lấy trộm “Tử dương thần phương”, không ngờ lại gặp Phượng Kiều, người con gái mà mình ngày đêm mong nhớ. Phượng Kiều ngỡ rằng Lý Đán muốn lấy tiếu thư nhà họ Đào, nên rất đau buồn, rắp tâm tìm đến cái chết. Lý Đán chỉ còn cách nói rõ thân phân, kể rõ đầu đuôi câu chuyện lấy trộm “Thần phương”.

Do Lý Đán bị lộ thân phận, nên bị Đào Nhân bắt đưa đi Trường An, Mã Chu sai nữ tướng là Thân Uyển Lan giải cứu Lý Đán ở dọc đường. Sau đó, Lý Đán chỉ huy quân đội tấn công Tương Châu, cứu Phượng Kiều ra, trải qua nhiều gian nan, cuối cùng vợ chồng cũng được đoàn viên. Ngày 24 tháng 6 năm 710, Lý Đán lại một lần nữa đăng cơ, phong Hồ Phượng Kiều làm hoàng hậu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát Lý Đán Long Phượng Phối

Nhìn gò má đoán tính cách, tình duyên

Người có gò má cao thường là người đạt được sự giàu có nhất định bởi theo nhân tướng học, người có gò má cao thường tích cực có ý chí phấn đấu...

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhìn gò má đoán tính cách, sự nghiệp:

Gò má nhô cao:

Nhiều người Á Đông ủng hộ với quan điểm gò má cao sát chồng nhưng cũng chưa có bất kì một bằng chứng khoa học nào chứng minh cho điều ấy. Ngược lại, ở các nước phương Tây những người phụ nữ gò má cao luôn được đánh giá là người có cá tính mạnh mẽ và cuộc sống hôn nhân của họ không hề bị ảnh hưởng bởi quan điểm trên.

Trong công việc, cá tính mạnh mẽ ấy chính là ý trí kiên cường vượt qua mọi khó khăn, có khả năng gánh vác được nhiều việc quan trọng. Hơn nữa, tính cách cởi mở với mọi người giúp họ chiếm được cảm tình của gia đình và bạn bè của mình. Đối với những người gò má cao và chóp mũi to, đây quả là sự kết hợp tuyệt vời. Chủ nhân vốn hiền lành và lương thiện này sẽ gặp nhiều may mắn và thành công hơn trên mọi lĩnh vực.

Người có gò má cao thường là người đạt được sự giàu có nhất định bởi theo nhân tướng học, người có gò má cao thường tích cực có ý chí phấn đấu, tuy nhiên do quyền hành cao hơn năng lực bản thân, nên để củng cố quyền hành cần phải cố gắng quá nhiều, thậm chí dùng cả thủ đoạn, dẫn tới chỗ trở thành kẻ hung hăng, tiểu nhân, dẫn tới hậu quả xấu cho người đó, vậy coi như gò má xếp nhầm chỗ (cao hơn mũi) không tốt.

Cung gò má quá to:

Chủ nhân bản tính khá ương ngạnh và cố chấp. Thường gây mâu thuẫn với mọi người xung quanh vì không chịu nhường nhịn mọi người cuộc sống hôn nhân vì thế cũng có phần khó khăn.

Nhìn gò má đoán tính cách, tình duyên - Ảnh 1

Người có gò má cao thường là người đạt được sự giàu có nhất định

Cung gò má nở rộng:

Việc sở hữu đôi gò má nở to được xem là một hình mẫu lý tưởng, bởi chủ nhân của đôi gò má này là người có trí tuệ sắc sảo, có tinh thần cảnh giác cao và đặc biệt là khả năng nhìn xa trông rộng. Hầu hết ở họ điểm chung nổi bật nhất là có tố chất làm lãnh đạo. Nhờ vào ưu điểm đặc biệt này, bạn có thể thành công ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế với tư cách là đầu tàu.

Nếu cung gò má nở rộng, mũi nhỏ, thì người nay tính tình nóng vội, hay can thiệp chuyện của chồng, gây chuyện thị phi, đa nghi điều này khiến vợ chồng hay xảy ra mâu thuẫn. Cần phải biết kiềm chế và suy nghĩ chín chắn trước khi phát ngôn.

Gò má vừa rộng vừa cao

Trong cuộc sống, người này tự tin làm việc độc lập mà không cần nhận sự giúp đỡ của một ai khác khiến mọi người tưởng rằng bạn theo chủ nghĩa cá nhân. Đôi khi họ lại hơi quá tập trung vào giai đoạn ăn mừng chiến thắng làm bạn bè và người thân hiểu lầm rằng họ tự đắc. Nhưng nhờ sự chân thành, nỗ lực không ngừng khắc phục những nhược điểm của mình, mọi người không chỉ hiểu họ hơn mà còn ủng hộ họ thực hiện tiếp những hoài bão của mình. Độ tuổi trung niên là khoảng thời gian họ gặt hái được nhiểu thành công nhất.

Gò má thấp

Người sở hữu kiểu gò mà này thường nung nấu trong mình nhiều ước mơ và hoài bão cháy bỏng. Tuy nhiên, điểu đó chưa đủ để biến chúng thành sự thật nếu kế hoạch và chiến lược thực hiện không được triển khai. Lý do lớn nhất là họ vẫn chưa đủ lòng tin để xúc tiến một mình và họ lo sợ về khả năng thất bại cao. Đôi lúc tính cách rụt rè, nhút nhát, hướng nội đã làm cản trở họ thực hiện niềm đam mê. Điều quan trọng của mẫu người sở hữu loại gò má này chính là củng cố lòng tin vào chính mình.

Gò má tròn đầy đặn

Không thích sự gò bó, thích phiêu lưu, chan hòa, hướng ngoại, khao khát sự chú ý của mọi người và có khả năng ứng phó với tình huống là những tính cách điển hình của người này. Trên con đường sự nghiệp, họ tỏa sáng và được sống thực với con người mình nhất chính là những công việc liên quan tới nhóm ngành giải trí như diễn viên điện ảnh, người mẫu, hoặc nhà báo,v..v.

Mặc dù áp lực công việc luôn đè nặng đôi vai nhưng sự thông minh và khéo léo của mình đã giúp họ cân bằng được mọi việc. Trong cuộc sống gia đình, họ không chỉ là một người vợ, người mẹ chăm sóc chồng con chu đáo mà còn là nguồn động viên kịp thời cho những người thân yêu.

Người có gò má đầy đặn là người không thích sự gò bó

Riêng với phụ nữ, nhìn tướng gò má, sắc diện gò má còn có thể đoán định vận mệnh và tình duyên, hôn nhân gia đình:

- Gò má thanh, tròn và ẩn, mắt và mũi thanh, chủ nhân là mẫu người vợ hiền, mẹ giỏi, có thể lấy được người chồng thành đạt, có trách nhiệm với gia đình.

- Bờ gò má cao tới Thiên Thương (phía trên chân mày), chủ nhân là người từng trải, song, hôn nhân không mấy tốt đẹp, gia đình gặp chuyện xung khắc hoặc ly tán.

- Cung gò má nhô cao, chủ nhân cả đời nghèo hèn. Cung gò má lõm, chủ nhân không giúp được gì cho chồng con.

- Cung gò má quá to, chủ nhân bản tính dữ dằn, không hiếu thuận, hôn nhân cũng không mấy tốt đẹp, cuộc sống vất vả, về già cô độc.

- Cung gò má nhô cao, trán cao, chủ nhân có lối sống không lành mạnh, có thể khắc tới ba đời chồng.

- Cung gò má cao và to, bàn tay to, chủ nhân có thể chịu đựng được gian khổ, giỏi lập nghiệp nhưng khó hưởng phúc của chồng con.

- Cung gò má cao nhưng mũi lại nhỏ, chủ nhân hay làm trái lời chồng, chồng gặp nhiều khó khăn, cuộc sống hôn nhân không mấy tốt đẹp.

- Cung gò má nở rộng, mũi nhỏ, chủ nhân tính tình nóng vội, hay can thiệp chuyện của chồng, gây chuyện thị phi, đa nghi và đời sống hôn nhân không tốt đẹp.

- Cung gò má có sắc khí vàng tươi, môi đỏ, chủ nhân là cánh tay đắc lực của chồng con, được hưởng hạnh phúc đến già. Nếu có sắc khí vàng sẫm, chủ nhân có cuộc sống nghèo hèn.

- Sắc khí cung gò má xanh biếc, chủ nhân có tâm ý độc địa, khắc chồng, gia đình tan vỡ.

- Cung gò má lúc trắng, lúc đỏ gọi là “khuôn mặt đào hoa”, chủ nhân có lối sống buông thả, hời hợt trong chuyện tình cảm.

- Cung gò má và một số bộ phận khác có sắc trắng bệch, chủ nhân khắc chồng con, hôn nhân không mấy tốt đẹp.

Ngọc Anh (tổng hợp)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn gò má đoán tính cách, tình duyên

Khí sắc mặt mang lại những điềm lành, cát lợi

Khí sắc trên mặt khác nhau thì vận mệnh không giống nhau. Nếu có những khí sắc báo hiệu những điềm lành, cát lợi thì thật hạnh phúc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khí sắc trên mặt khác nhau thì vận mệnh không giống nhau. Cũng có khi cùng một màu khí sắc, nhưng nằm ở vị trí khác nhau trên khuôn mặt, cũng báo hiệu những điềm lành dữ, khác nhau. Ngược lại với khí sắc buồn, hãy quan sát những khí sắc ở đây, chúng báo hiệu những điềm lành, cát lợi.

khi-sac-cat-loi

Sắc xanh: Nếu sắc xanh xuất hiện mãi ở Ấn đường thường người đó sẽ thăng quan. Bên trái bộ vị Kim quỹ nêu có sắc xanh sẽ phát tài, nếu bên phải bộ vị Kim quỹ có sắc xanh người trong nhà sẽ có thêm nhiều đất đai. Bộ vị Sơn căn nếu có sắc xanh sẽ được quý nhân giúp đỡ. Bộ vị Thiên môn nếu có sắc xanh, nội trong 30 ngày sẽ phát tài.

Sắc đỏ: Phần ngoài đuôi mắt xuất hiện sắc đỏ thành võ quan. Giữa Bi trì và Tỉnh bộ có sắc hồng nối nhau, sẽ vì nước mà có tài lộc, còn có thể có được đất đai màu mỡ. Nếu ở góc trán hiển thị sắc đỏ thì sẽ thăng quan tới chức tiết độ sứ, được đi nhiều nơi. Bộ vị Dịch mã nếu xuất hiện nốt màu đỏ sẽ được phú quý.

Sắc trắng: Bộ vị Quân môn nếu có sắc trắng thì vận mệnh sẽ càng cường thịnh và hưng vượng hơn. Bộ vị Thiên phủ và cảnh bộ nếu xuất hiện sắc trắng giống hình rồng chủ sẽ được phong thành thượng tướng. Nếu từ sống mũi đến dưới 2 mắt có vệt trắng dài ngang qua thì trong gia đình sớm có chuyện cưới hỏi.

Sắc vàng: Nếu bộ vị Thiên trung và Nhật giác xuất hiện sắc vàng thì chủ có thể lên đến chức tam công, nếu sắc này giống như đồng xu thì có thể giữ chức tướng công, nếu là người thường sẽ phát tài. Nếu Ấn đường xuất hiện sắc vàng hình tròn giống như mặt trống, nội trong 70 ngày sẽ giữ chức công hầu. Nếu từ bộ vị Giáp quỹ kéo đến giữa tai xuất hiện sắc vàng, người này sẽ giữ chức tam công. Nếu bộ vị Ngưu giác xuất hiện sắc vàng, trâu ngựa trong nhà sẽ sinh sôi.

Nếu bộ vị Giáp quỹ xuất hiện sắc vàng sẽ rất có uy tín khi nắm quyền, trong nhà có vật quý, ngoài ra còn có đầy đủ rượu thịt. Bộ vị Nhập khẩu xuất hiện sắc đen, sẽ phát đại tài. Bộ vị Song ngục xuất hiện sắc vàng, nếu là tội phạm sẽ được ân xá mà có thể về quê nhà chăm lo chuyện ruộng vườn, đồng áng.

Sắc tía: Bộ vị Thiên trung xuất hiện sắc tía hình chữ “bát”, chủ sẽ được phong hầu. Nếu bộ vị Lan đài và bộ vị Nhật giác xuất hiện sắc tía, nội trong 20 ngày sẽ được phong tiết độ sứ, là người đứng đầu đô phủ; được phát tài, việc vui sẽ đến không ngừng, sắc tía xuất hiện ở đường vân Pháp lệnh là điềm báo sẽ nhận được chiếu chỉ của triều đình bổ nhiệm làm quan; nếu là người thường sẽ được miễn trừ tội lỗi. Nếu bộ vị Thọ thượng xuất hiện sắc tía thành 1 nét ngang như chữ “nhất” (—) thì người bên nhà vợ sẽ được như ý.

Nếu bộ vị Huyền bích hiển thị sắc tía như mây cuộn hoặc chuỗi ngọc, trong 3 ngày sẽ thành quan; nếu là người thường sẽ phát tài. Bộ vị Địa giác xuất hiện sắc tía chạy ngang nếu là người thường sẽ được nhà đẹp, làm quan sẽ được thăng quan. Bộ vị Sơn lâm xuất hiện sắc tía sẽ thành quan giám sát. Nếu trên mặt xuất hiện sắc tía sẽ có chuyện vui ứng nghiệm trong 30 ngày, nhưng phải xem kỹ sắc này hiển thị ở bộ vị nào.

Nếu là hiển thị ở bộ vị Nhật giác và Ngọa tâm sẽ thành mệnh quan triều đình. Nếu 2 đầu mày xuất hiện sắc tía sẽ được phong quan đại sứ. Bộ vị Sơn căn có sắc tía hình như đồng xu sẽ phát lộc. Nếu bộ vị Thiên môn có sắc tía sẽ thành đại tướng quân, bộ vị Pháp lệnh xuất hiện sắc tía như hình viên ngọc, trong 20 ngày sẽ thành tuần quan. Nhật giác và Ngọa tâm xuất hiện sắc tía, sẽ thành quan chức của tỉnh.

Bộ vị Thực thương có sắc tía sẽ có thêm nhiều ruộng đất. Bộ vị Sơn lâm có sắc tía, việc vui không ngừng. Dưới mắt có sắc tía, nội trong 3 tháng sẽ cưới được vợ, sinh được quý tử. Bộ vị Tường bích có sắc tía, trong 14 ngày sẽ vào kinh thành làm quan. Bộ vị Bi trì có sắc tía nội trong 30 ngày sẽ thành có quyền chức, nắm quyền sát sinh. Ngư vĩ có sắc tía sẽ thành đạo tặc. Bộ vị Tường bích có sắc tía trải đầy, tính cách sẽ ngang ngạnh.

Bộ vị Thừa tương có sắc tía như hình rồng sẽ thành quan giám sát; nếu là người thường sẽ được nhà đẹp và nhiều lương thực; nếu là tăng nhân sẽ sớm đắc đạo. Ngoại viên xuất hiện sắc tía vàng sẽ thu đươc tài lộc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khí sắc mặt mang lại những điềm lành, cát lợi

Văn phòng của ông chủ nên đặt ở đâu? –

Theo phong thủy, phương vị văn phòng của ông chủ là mấu chốt ảnh hưởng đến tài vận của công ty. Chính vì vậy, ngoài những phong thủy thông thường không được phạm vào, còn cần phải bố trí mệnh cục của ông chủ. Tài vận không tốt, làm ăn không thuận lợ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

i, trì trệ, đầu tiên là mệnh trung nhất định có thông tin này, tiếp đó là phải xem tài vị của văn phòng hay công ty ông chủ có tương thông với vị trí Ngũ hành của phương vị tài vụ hay không. Ông chủ là người đưa ra quyết sách của cả một công ty, cùng là người chủ đạo đối với sự phát triển công ty, phong thủy văn phòng của ông chủ tốt hay không có quan hệ trực tiếp đến sự thành bại hưng thoái của công ty.

img13723290924209483553_e92594fdc3

Vậy thì văn phòng của ông chủ nên đặt ở đâu? Đầu tiên, chúng ta cần kiểm tra hỷ dụng thần trong mệnh của ông chủ ở đâu, tiếp đó phối hợp với vị trí dương vượng của nơi kinh doanh rồi lấy phương thức quần tinh cung nguyệt bố cục văn phòng ông chủ mới là tốt nhất. Chỉ sau khi biết được hỷ dụng thần mệnh cục của ông chủ mới có thể xác định được vị trí văn phòng của ông chủ. Chính vì vậy, trước khi bố trí nhất định phải tìm ra thầy phong thủy chuyên nghiệp để phân tích bố cục. Phong thủy ông chủ mà tốt thì nhà máy, công ty mới có thể thuận buồm xuôi gió, điều này không thể xem nhẹ.

Vật cát tường: Hoa mai ngọc

Ý nghĩa tượng trưng: Thuần khiết, chịu lạnh.

Giải thích: Mai, lá rơi kiêu mộc, chủng loại rất nhiều, chịu lạnh tốt, xuân sớm nở hoa, mùi hương thơm.

Người Trung Quốc xưa cho rằng: Hoa mai “phiêu thiên chất chi chí mỹ, linh lạc hàn nhi độc khai”, là một trong những loài hoa quân tử, cũng là tượng trưng cho nhân cách lý tưởng cao đẹp nhất của văn nhân Trung Quốc xưa. Hoa mai thanh khiết, tinh tuý, không có ai nhìn mà không yêu thích, hoa mai còn được gọi là “thiên hạ ưu vật”, “bang cơ ngọc cốt”, người ta cũng thường ví nó như cô gái ngây thơ, thuần khiết.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn phòng của ông chủ nên đặt ở đâu? –

Mơ thấy chim vẹt: Gánh chịu khó khăn và bị lời đơm đặt ra vào –

Chim vẹt trong mơ mang ý nghĩa của sự khó khăn và những lời đơm đặt. Nếu mơ thấy chim vẹt đứng trên mặt đất, dự báo bạn sẽ kết giao cùng người bất tài vô dụng; mơ thấy chim vẹt bị nhốt trong lồng, bạn sắp gặp phải nhiều khó khăn bất ngờ; chim vẹt là
Mơ thấy chim vẹt: Gánh chịu khó khăn và bị lời đơm đặt ra vào –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy chim vẹt: Gánh chịu khó khăn và bị lời đơm đặt ra vào –

Chọn hướng kê bàn làm việc trong năm 2013 –

Năm nay, những người sinh năm 1988 nên ngồi làm việc theo hướng Bắc và Nam để gặp nhiều may mắn và thu hút tài lộc. Trong năm nay, người Đông tứ mệnh nên chọn hướng Bắc và Nam, tránh hướng Đông và Đông Nam nếu có thể. Trong khi người Tây tứ mệnh nên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm nay, những người sinh năm 1988 nên ngồi làm việc theo hướng Bắc và Nam để gặp nhiều may mắn và thu hút tài lộc.

Trong năm nay, người Đông tứ mệnh nên chọn hướng Bắc và Nam, tránh hướng Đông và Đông Nam nếu có thể. Trong khi người Tây tứ mệnh nên chọn hướng Đông Bắc và Tây Bắc, tránh hướng Tây Nam và Tây.

Đông Bắc được coi là hướng tốt nhất trong năm nay, khi ngôi sao may mắn Bát Bạch (#8) viếng thăm. Tiếp theo là hướng Bắc, với sự xuất hiện của sao chiến thắng Nhất Bạch (#1). Hướng Tây Bắc cũng mang lại may mắn với ngôi sao Thiên vận Lục Bạch (#6). Tiếp theo là hướng Nam với ngôi sao Cửu Tử (#9) Thịnh vượng trong tương lai.

Phong thủy cho rằng, cách tốt nhất để gia tăng vận may là chọn hướng tốt để kê bàn làm việc, kê giường ngủ, chọn vị trí ngồi khi làm những việc quan trọng… Những cố gắng này giúp gia tăng thời lượng đón nhận khí tốt từ vũ trụ và môi trường xung quanh.

Dựa vào năm sinh âm lịch và giới tính, có thể tính được quái số của mỗi người, từ đó biết được 4 hướng tốt nên chọn: Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên và Phục Vị, trong đó Sinh Khí được coi là hướng tốt nhất.

ke-ban-lam-viec-phong-thuy

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là khi nào bạn cũng có thể coi sinh khí là lựa chọn tốt nhất. Đó là do ngoài yếu tố không gian, phong thủy còn chịu tác động của yếu tố thời gian (tùy theo sự di chuyển của các Phi tinh). Nếu hướng sinh Khí của bạn chịu tác động xấu của Cửu Tinh (các sao Ngũ Hoàng, Nhị Hắc, Tam Bích và Thất Xích) hoặc Thần Sát (Thái Tuế, Tam Sát, Tuế Phá) của năm thì sử dụng hướng này chẳng những không mang lại may mắn mà còn có thể mang đến tai họa.

Nói cách khác, sự tốt của mỗi hướng chỉ mang tính tương đối, chúng không cố định mà luôn thay đổi cùng năm tháng. Hơn nữa, người ta cho rằng các Phi tinh (yếu tố thời gian) ảnh hưởng tới sự tốt xấu của mỗi hướng nhiều hơn so với cách tính hướng theo quái số. Vì vậy, khi chuẩn bị bước sang năm mới, người ta phải xem xét lại việc chọn hướng kê bàn, kê giường… cho cả năm tiếp theo (năm ở đây được tính từ ngày 4/2 dương lịch của năm nay tới 3/2 dương lịch của năm sau). Những hướng tốt theo quái số nhưng phạm vào đại kỵ của năm đều không được coi là hướng tốt và nên tránh.

Cần lưu ý rằng hướng xấu tính theo quái số luôn là hướng xấu của bạn, kể cả nếu theo Phi tinh của năm đó là hướng tốt.

Bảng tra cứu quái số theo năm sinh

images872873_bangtra_quaiso

Chọn hướng tốt theo quái số

images872875_chonhuong_quaiso

Chú ý: Nam có quái số 5 chọn hướng như người có quái số 2, nữ có quái số 5 chọn hướng như người có quái số 8.

Giải nghĩa từ:

– Sinh khí: Thu hút tài lộc, danh tiếng, thăng quan phát tài.

– Thiên y: Cải thiện sức khỏe, trường thọ.

– Diên niên: Củng cố các mối quan hệ trong gia đình, tình yêu.

– Phục vị: Củng cố sức mạnh tinh thần, mang lại tiến bộ của bản thân, may mắn trong thi cử.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn hướng kê bàn làm việc trong năm 2013 –

Chuyện ngoại tình của các hoàng hậu Trung Hoa

Trong hậu cung thâm nghiêm, chuyện dan díu tưởng khó bằng lên trời. Ấy thế mà nhiều vị hoàng hậu vẫn xoay xở được để cắm sừng hoàng đế.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Chuyện ngoại tình của hoàng hậu "bệnh" nhất Trung Hoa Theo sử sách ghi lại, Giả Nam Phong là con gái của Giả Sung, ông là một công thần khai quốc thời nhà Tây Tấn. Giả Sung hiếm muộn, lấy vợ sau một thời gian dài mới sinh được hai cô con gái là Giả Nam Phong và Giả Ngọ.

chuyện ngoại tình của các hoàng hậu trung hoa
Giả Nam Phong là vị hoàng hậu xấu hiếm có nếu không muốn nói là kỳ dị trong lịch sử Trung Quốc.

Tấn Vũ Đế có người con trai lớn là Tư Mã Trung, sinh ra đã kém may mắn vì trí não phát triển không bình thường nhưng Tấn Vũ Đế vẫn quyết định lập Mã Trung làm thái tử, sau này Mã Trung lấy Giả Nam Phong và lập làm thái tử phi. Sau đó trở thành hoàng hậu thời Tây Tấn.

Giả Nam Phong thời Tây Tấn là vị hoàng hậu xấu hiếm có nếu không muốn nói là kỳ dị trong lịch sử Trung Quốc. Bà sẵn sàng giết chết người tình của mình nếu thấy chán.

Câu chuyện ngoại tình của vị hoàng hậu hoang dâm vô độ này đã bị bại lộ khi một người tình của bà bị bắt vì tội “ăn trộm”. Người đàn ông này có tên là Lạc Nam. Nhờ có vẻ đẹp hút hồn với thuậtphòng the siêu đẳng, nên mỗi lần hành sự xong, Giả hoàng hậu đều cho Lạc Nam rất nhiều vàng bạc, châu báu.

Lúc bị bắt, Lạc Nam đã khai về sự hoang dâm của Giả Nam Phong. Câu chuyện ngoại tình của vị hoàng hậu cuồng dâm đã lan truyền khắp kinh thành và lan sang cả những nước láng giềng.

2. Tiêu Hoàng hậu - bà hoàng lãng mạn Đó là Tiêu Quan Âm, hoàng hậu của vua Liêu là Gia Luật Hồng Cơ, một phụ nữ tài hoa và lãng mạn, đam mê văn chương nghệ thuật. Bà và chồng từng rất tâm đầu ý hợp, bên nhau xướng họa thi ca. Tuy nhiên, do ông chồng ngày đêm chinh chiến hoặc bận việc chính sự, thời gian để ngâm vịnh cùng bà ngày một ít, khiến người đàn bà đa tài và đa tình cảm thấy lạnh lẽo, trống trải.

Trong những ngày cô đơn, bà ngày một gần gũi với một thi nhân họ Triệu. Thơ ca làm họ đồng cảm với nhau, trở thành tri âm tri kỷ, rồi tình ý dần dần xuất hiện.

Chuyện ngoại tình của các hoàng hậu Trung Hoa
Ảnh minh họa

Thật không may là một bức thư có bài thơ tình Tiêu hoàng hậu gửi cho người yêu không may bị một viên đại thần bắt được và báo với hoàng đế. Thế là bà hoàng – thi sĩ phải chết ở tuổi 35 bằng một dải lụa trắng, còn tình nhân của bà bị giết cả họ.

3. Hồ Hoàng Hậu thời Bắc Tế Vũ Thành Đế: Ăn nằm với Hòa thượng

Hồ Hoàng Hậu nguyên quán của bà ở quận An Định, tỉnh Cam Túc.

Hồ thị được gả cho Trường Quảng quận vương Bắc Tề là Cao Đam (hay Cao Trạm). Năm 561, Cao Đam được lên ngôi hoàng đế, tức Bắc Tề Vũ Thành Đế, Hồ thị được lập làm hoàng hậu. Trong thời gian làm hoàng hậu, bà có mối quan hệ bất chính với đại thần trong triều là Hòa Sĩ Khai, người vốn được Vũ Thành tin tưởng nhất trong triều. Hòa Sĩ Khai được tự do ra vào hoàng cung.

chuyện ngoại tình của các hoàng hậu trung hoa
Ảnh minh họa

Từ khi Hòa Sĩ Khai chết, Hồ thái hậu thường đi đến nhiều chùa chiền và bắt gặp một nhà sư có dung mạo đẹp là Đàm Hiến, bèn tư thông với nhau. Sau đó bà đem Đàm Hiến về cung, lại ban cho nhiều đồ quý mà Vũ Thành Đế từng sử dụng lúc còn sống. Tất cả người trong cung đều biết chuyện, duy có Cao Vĩ chưa hay gì cả. Một lần Cao Vĩ đến cung thỉnh an bà, thấy hai ni cô có dung mạo đẹp, định nạp làm thiếp, sau đó bất ngờ phát hiện ra hai người đó là đàn ông. Sự việc dâm loạn của Thái hậu bị phát giác, bà bị Cao Vĩ giam lỏng ở Bắc cung, tất cả người tình đều bị giết.

4. Võ Tắc Thiên- hoang dâm từ năm 14 tuổi lên Võ Mị Nương được đưa vào hậu cung Đường Thái Tông vào khoảng năm 635 và là một Tài Nhân, tức là một trong chín người thiếp cấp thứ năm.

Sau khi Đường Thái Tông qua đời, Đường Cao Tông (tức Lý Trị) đã đón Võ Mị Nương nhập cung và phong làm Hoàng Hậu. Năm 683, Đường Cao Tông băng hà, thái tử Lý Hiển lên ngôi, tức Đường Trung Tông, Võ Tắc Thiên làm Hoàng thái hậu, nắm toàn bộ chính sự.

Nắm quyền binh biến, nổi tiếng tàn độc, Võ Tắc Thiên còn bị phán xét về tính dâm loạn. Khi ngôi Hoàng đế và cũng từ lúc đó, Võ Tắc Thiên phóng túng nghĩ đến thú chơi xác thịt để thỏa mãn bản năng của mình.

chuyện ngoại tình của các hoàng hậu trung hoa
Ảnh minh họa

Lúc ấy, dù đã 61 tuổi nhưng bà vẫn không ngừng tuyển chọn các mĩ nam, những người khỏe mạnh, khôi ngô và giỏi giang trong chuyện chăn gối để vào cung hầu hạ. Những cuộc ân ái thâu đêm suốt sáng của Võ Tắc Thiên cứ diễn ra liên tục và đều đặn tưởng như kéo dài không hồi kết. Hết người này đến người khác, các mĩ nam trong cung có đêm phục vụ Võ Tắc Thiên, có đêm được nghỉ ngơi dưỡng sức, còn riêng vị nữ Hoàng đế dâm loạn này thì không có đêm nào có thể thiếu đàn ông.

Đến tuổi 80, Võ Tắc Thiên vẫn chọn toàn những nam nhân trẻ trai, sung mãn để thỏa mãn niềm khoái lạc thân xác. Khi nào có sự suy giảm về khả năng ham muốn là ngay lập tức Võ Tắc Thiên cho truyền ngự y để yêu cầu dâng lên bài thuốc bí truyền được chế từ cây ích mẫu giúp bà giữ mãi sự sung mãn cực độ.

Theo Khỏe và Đẹp
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chuyện ngoại tình của các hoàng hậu Trung Hoa

Hướng kê giường hợp người sinh năm 1955 Ất Mùi –

Xem hướng phòng ngủ tuổi Ất Mùi 1955 - Năm sinh dương lịch: 1955 - Năm sinh âm lịch: Ất Mùi - Quẻ mệnh: Ly Hoả - Ngũ hành: Sa Trung Kim (Vàng trong cát) - Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạchh - Hướng tốt: Bắc (Diên Niên); Đông (Sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem hướng phòng ngủ tuổi Ất Mùi 1955

– Năm sinh dương lịch: 1955

– Năm sinh âm lịch: Ất Mùi

– Quẻ mệnh: Ly Hoả

– Ngũ hành: Sa Trung Kim (Vàng trong cát)

– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạchh

– Hướng tốt: Bắc (Diên Niên); Đông (Sinh Khí); Đông Nam (Thiên Y); Nam (Phục Vị);

– Hướng xấu: Tây Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông Bắc (Hoạ Hại); Tây Nam (Lục Sát); Tây (Ngũ Quỷ);

e-glue-wall-decor_132997727282

Phòng ngủ:

Con người luôn giành 30% cuộc đời mình cho việc ngủ, nên phòng ngủ chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng.

Vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)

Gia chủ mang mệnh Kim, Thổ sinh Kim, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Thổ, là hướng Đông Bắc; Tây Nam;

Nếu tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.

Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Vàng, Nâu, đây là màu đại diện cho hành Thổ, rất tốt cho người hành Kim.

Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.

Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng kê giường hợp người sinh năm 1955 Ất Mùi –

Xem tướng ngón chân –

Thông qua việc xem tướng các ngón chân, bạn có thể biết được một chút về vận mệnh cũng như sự giàu nghèo của bản thân. 1. Ngón chân thứ hai dài hơn ngón chân cái Bạn là một người quyết đoán và có khả năng lãnh đạo tốt. Từ thời Ai Cập cổ đại, các vị v

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thông qua việc xem tướng các ngón chân, bạn có thể biết được một chút về vận mệnh cũng như sự giàu nghèo của bản thân.

1. Ngón chân thứ hai dài hơn ngón chân cái

ngon-chan-1

Bạn là một người quyết đoán và có khả năng lãnh đạo tốt. Từ thời Ai Cập cổ đại, các vị vua chúa, những người nắm giữ vị trí cai trị đều có ngón chân thứ hai trong bàn chân dài hơn những người bình thường. Người sở hữu bàn chân như vậy còn là người có tinh thần trách nhiệm cao kể cả trong công việc lẫn cuộc sống hàng ngày.

Không chỉ có vậy, bạn còn là người sôi nổi và tràn đầy năng lượng. Do đó, bạn luôn là trung tâm của các hoạt động vui chơi giải trí.

2. Ngón chân thứ hai và thứ ba cách xa nhau

ngon-chan-2

Nếu đây là hình dáng bàn chân của bạn thì nó nói rằng: bạn đang sở hữu đôi chân của một “điệp viên”. Bạn có khả năng quan sát mọi thứ xung quanh một cách tinh tế, nắm bắt tình hình nhanh chóng và ngụy trang khá tốt cho những cảm xúc bản thân. Điều đó khiến những người xung quanh không thể nắm bắt được suy nghĩ và hành động của bạn.

Tuy vậy tính cách này của bạn đôi khi sẽ gây ra hiểu lầm không đáng có. Trong công việc, bạn luôn được giao nhiệm vụ quan trọng vì sự đáng tin cậy và tính chuyên nghiệp.

3. Ngón chân út cực nhỏ

ngon-chanut

Ngón chân út nhỏ nhắn biểu hiện cho sự ngây thơ trong sáng của bạn. Bàn chân này cũng chỉ ra rằng bạn là người hóm hỉnh và hài hước. Bạn luôn đem lại cho người đối diện cảm giác gần gũi thân thiện, mọi người thường tìm đến bạn để chia sẻ tâm tình.

Bên cạnh đó, trong những thử thách phải đối đầu, bạn khá can đảm, và một khi đã đưa ra quyết định thì không điều gì có thể khiến bạn thay đổi quyết định đó.

4. Ngón chân thứ hai ngả vào ngón chân cái

ngon-chan-4

Bàn chân này cho thấy chủ nhân là một người ủy mị, hay nhớ về những kỷ niệm đã qua. Bạn giàu cảm xúc, nhưng đôi lúc lại quá yếu đuối. Sự yếu đuối ấy nhiều khi khiến mọi người cảm giác khó chịu và có cái nhìn khác đi về bạn.

Mặt khác, bạn lại là một người khá chín chắn. Trước khi quyết định làm một việc gì đó, bạn thường tìm hiểu và suy nghĩ rất kỹ, tính toán trước sau sao cho phù hợp nhất. Điều này sẽ giúp bạn lựa chọn được đúng hướng đi cho công việc cũng như cuộc sống của mình.

5. Ngón chân út cong lại

ngon-chan-ut-cong

Ngón út hướng ra ngoài cho thấy bạn là một người thích sự tự do, phóng khoáng và không muốn bị gò bó. Những công việc cần sự sáng tạo khá phù hợp với bạn. Bạn luôn thích thay đổi và làm mới bản thân. Bạn không thích cái gì cứ lặp đi lặp lại một cách máy móc mà cần phải có sự đổi mới, khiến nó không nhàm chán và cũ kỹ. Trong công việc bạn được đánh giá là một người đầy nhiệt huyết và hăng say. Nhưng cũng có khi sự quá hăng say của mình khiến bạn dễ chán nản và bỏ dở giữa chừng nếu công việc đó không theo mong muốn. Móng chân màu hồng: màu sắc móng chân không chỉ biểu hiện tình trạng sức khỏe, mà còn dự báo vận mệnh của bạn. Những người có móng chân màu trắng sữa thường có vận mệnh ổn định, bình yên. Móng chân màu xám báo hiệu cuộc đời bạn sẽ gặp nhiều trắc trở, đau khổ. Riêng móng chân có sắc hồng hào là biểu hiện đáng mừng của mệnh phú quý. Ngón chân không có đường vân: Nếu mười ngón chân không có đường vân, chứng tỏ người này khá nghèo hèn, dễ bị tán tài.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng ngón chân –

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Ngày tốt giờ đẹp mở hàng, khai bút, xuất hành và đi lễ đầu năm 2017

Ngày tốt giờ đẹp mở hàng, khai bút, xuất hành và đi lễ đầu năm 2017 Đinh Dậu. Xem ngày tốt xấu chi tiết các công việc trong đầu năm mới Đinh Dậu 2017

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xuân sang cội phúc sinh nhành lộc 

Tết về cây đức trổ thêm hoa

Một mùa xuân nữa lại tới, người người nô nức chào một năm mới với biết bao những dự định, mong ước. Dù bất cứ nơi đâu, làm công việc gì đi nữa, ai cũng mong muốn quây quần bên gia đình mình trong những thời khắc thiêng liêng này. Ôn chuyện cũ, kể chuyện mới, cùng đi lễ đầu năm cầu phúc, cầu lộc. Kẻ sĩ thì khai bút, mở cờ; nhà buôn thì mở hàng, cầu may. Tất cả đều hòa quện lại thành một bản sắc dân tộc đặc trưng của người Việt từ bao đời nay. Chiếu theo sự vận chuyển của Âm Dương Ngũ Hành của từng năm mà sinh ra ngày tốt, ngày xấu, ngày nên làm cái này, ngày nên tránh cái kia. Dưới đây là những thống kê về ngày giờ phù hợp được Xem Tướng chấm net chọn lọc để thực hiện những công việc của đầu năm mới:

Ngày tốt xuất hành, khai bút, đi lễ và mở hàng đầu năm mới 2017

- Mùng Một Tết (thứ 7, 28/01): xuất hành, đi lễ và khai bút đầu năm. Xuất hành theo hướng Đông Nam gặp Tài thần, hướng Tây Bắc gặp Hỷ thần.

- Mùng Hai Tết (CN, 29/01):  lễ bái, chùa chiền, cầu tài cầu phúc, khai bút đầu năm, xuất hành và mở cửa hàng. Đi hướng Đông gặp Tài thần, hướng Tây Nam gặp Hỷ thần.

- Mùng Ba Tết (thứ 2, 30/01):  đi lễ bái, chùa chiềng, cầu tài cầu phúc là tốt nhất.

- Mùng Bốn Tết (thứ 3, 31/01): đi lễ bái, chùa chiềng, cầu tài cầu phúc và khai bút đầu xuân là tốt nhất.

- Mùng Năm Tết (thứ 4, 01/02):  đi lễ bái, chùa chiềng, cầu tài cầu phúc và khai bút đầu xuân là tốt nhất.

- Ngày Mùng Sáu (thứ 5, 02/02): rất tốt để mở cửa hàng đầu năm, đi lễ, cúng bái, làm nhiều công việc năm mới khác.

- Ngày Mùng Bảy (thứ 6, 03/02): đi lễ bái, chùa chiềng, cầu tài cầu phúc là tốt nhất.

- Ngày Mùng Tám (thứ 7, 04/02): rất tốt để mở hàng đầu năm, đi lễ ở đền, chùa.

- Ngày Mùng Chín (CN, 05/02): rất tốt để mở hàng đầu năm, đi lễ ở đền, chùa.

- Ngày Mùng Mười (thứ 2, 06/02): rất tốt để mở hàng đầu năm, đi lễ ở đền, chùa.

*) Xuất hành theo hướng Tài thần để cầu tài, cầu lộc, công danh và sự nghiệp.

Ngày giờ tốt mở hàng đầu năm theo từng tuổi năm 2017

Theo như thống kê ở trên, những người chủ cửa hàng, giám đốc công ty, thành viên ban lãnh đạo vào các ngày

  • Mùng 2 (29/01), ngày Bính Thìn.
  • Mùng 6 (02/02), ngày Canh Thân.
  • Mùng 8 (04/02), ngày Nhâm Tuất.
  • Mùng 9 (05/02), ngày Quý Hợi.
  • Mùng 10 (06/02), ngày Giáp Tý.

đều có thể đứng ra làm người đại diện mở hàng đầu năm. Tuy nhiên, với mỗi tuổi đều có những ngày giờ phù hợp nhất để thực hiện.

Sau đây là danh sách mở hàng đầu năm 2017 Đinh Dậu theo tuổi hợp nhất:

- Tuổi Tý:

  • Ngày mùng 02, giờ đẹp: 07h- 09h hoặc 09h - 11h

- Tuổi Sửu: 

  • Ngày mùng 10, giờ đẹp: 05h - 07h hoặc 15h - 17h

- Tuổi Dần: 

  • Ngày mùng 08, giờ đẹp: 07h- 09h hoặc 09h - 11h
  • Ngày mùng 09, giờ đẹp: 07h - 09h hoặc 11h - 13h

- Tuổi Mão: 

  • Ngày mùng 08, giờ đẹp: 07h- 09h hoặc 09h - 11h
  • Ngày mùng 09, giờ đẹp: 07h - 09h hoặc 11h - 13h

- Tuổi Thìn:

  • Ngày mùng 06, giờ đẹp: 07h - 09h hoặc 09h - 11h
  • Ngày mùng 10, giờ đẹp: 05h - 07h hoặc 15h - 17h

- Tuổi Tỵ: 

  • Ngày mùng 06, giờ đẹp: 07h - 09h hoặc 09h - 11h

- Tuổi Ngọ: 

  • Ngày mùng 08, giờ đẹp: 07h- 09h hoặc 09h - 11h

- Tuổi Mùi: 

  • Ngày mùng 09, giờ đẹp: 07h - 09h hoặc 11h - 13h

- Tuổi Thân: 

  • Ngày mùng 02, giờ đẹp: 07h- 09h hoặc 09h - 11h
  • Ngày mùng 10, giờ đẹp: 05h - 07h hoặc 15h - 17h

- Tuổi Dậu: 

  • Ngày mùng 02, giờ đẹp: 07h- 09h hoặc 09h - 11h

- Tuổi Tuất: 

  • Ngày mùng 10, giờ đẹp: 05h - 07h hoặc 15h - 17h

- Tuổi Hợi: 

  • Ngày mùng 10, giờ đẹp: 05h - 07h hoặc 15h - 17h

Lưu ý*: Các giờ tốt ở đây lấy theo giờ Hoàng đạo thường dùng để mọi người dễ tra cứu theo lịch ở tường. Tuy nhiên, bạn là người cẩn thận hơn nữa, nên phối hợp với các giờ Thiên Quan Quý Nhân, giờ Phúc Tinh Quý Nhân, giờ Bát Lộc, tra cứu tại: Xem giờ tốt trong ngày

Trường hợp chọn người khác, ngoài tuổi ra thì cần quan tâm tới tính cách, năng lực, phẩm chất của người đó sao cho phù hợp.

Xem thêm:

Văn khấn khai trương cửa hàng

Tử vi 2017

Xem sao hạn 2017

Hạn Thái Tuế 2017

(Xem Tướng chấm net)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngày tốt giờ đẹp mở hàng, khai bút, xuất hành và đi lễ đầu năm 2017

Vận mệnh có phải do trời định sẵn hay không

Nói về vận mệnh, chắc mỗi người đều phải có phương thức lý giải khác nhau. Chắc chắn vận mệnh là một thành phần tổ quan trọng của nhân sinh quan con người. Chúng ta có thể dùng phương pháp phân tích chữ để lý giải về vận mệnh.
Vận mệnh có phải do trời định sẵn hay không

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mệnh là chỉ sinh mệnh, tức là điều kiện của một người được ra đời. vận là chỉ vận trình, tức là hành trình của một đời người. Mệnh cũng từ đó mà được sinh ra, vận là sự biến hóa do trời định, vận do mình sinh. Vì vậy, mặc dù về mặt triết học cũng tồn tại nhiêu thuyết luận tạo mệnh, nhưng vận mệnh vẫn không thể thay đổi được. Trong Liễu phàm tứ huấn chính là một ví dụ điển hình về cải tạo vận mệnh.

Ngoài ra chúng ta còn biết được mục đích của dự trắc là định hướng được sự phát triển trong tương lai đón cát tránh hung, có được cuộc sống tốt đẹp hơn. Bởi vì đón cát tránh hung thì vận mệnh cũng tự nhiên được thay đổi theo. Nếu vận mệnh thực sự do trời định thì làm thế nào có thể xoay chuyển được Càn Khôn đây?

Sức lực của con người có hạn, bạn không thể thay đổi được vận mệnh nhưng lại có thể thích ứng, thậm chí còn tạo ra ảnh hưởng tới sự biến đổi, cuối cùng là lợi dụng vận trình để cải biến cuộc sống của mình.

Cho nên nói, vận mệnh không phải là trời định, quan trọng nhất là bản thân phải nắm bắt được cuộc sống của chính mình.

Nguồn: Thiệu Vĩ Hoa, Lý Cư Minh, Quang Tuệ
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận mệnh có phải do trời định sẵn hay không

Tướng mạo đàn ông tốt –

Huyệt thái dương còn được gọi là “Cung phu thê” trong nhân tướng học. Người đàn ông có Cung phu thê đầy đặn thường rất trưởng thành về sinh lý và tâm lý. Họ là những người có khả năng tích lũy tiền bạc, bởi Thiên Thương cũng có nghĩa là trữ tiền... T
Tướng mạo đàn ông tốt –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mạo đàn ông tốt –

14 điều tối kỵ CẤM quên trong phòng ngủ

Có khá nhiều điều cấm kỵ trong phòng ngủ mà bạn không thể bỏ qua. Nhà đẹp xin liệt kê những điều cấm kỵ trong phòng ngủ mà bạn cần phải lưu ý và chăm sóc như sau:

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Cửa phòng ngủ đối diện cửa phòng tắm/nhà vệ sinh

Phòng ngủ kiểu này chủ yếu gây ra các bệnh về xương khớp, cơ bắp và cũng khiến tiền bạc bị thất thoát. Phòng tắm/nhà vệ sinh là nơi ẩm ướt, thường lưu lại mùi hôi khó chịu. Vì thế, bạn sẽ hấp thụ phải nguồn năng lượng tiêu cực.

 14 dieu toi ky cam quen trong phong ngu - 1

2. Giường ngủ đối diện cửa phòng

Trường hợp này sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của nhiều bộ phận trên cơ thể. Tùy thuộc cánh cửa đối diện với từng phần cơ thể khi nằm ngủ trên giường sẽ có hậu quả khác nhau, cụ thể:

- Nếu cửa phòng đối diện với phần đầu sẽ gây ra bệnh đau đầu, đau nửa đầu.

- Nếu cửa phòng đối diện với phần thân sẽ gây ra bệnh đau dạ dày và các bệnh liên quan đến khoang bụng.

- Nếu cửa phòng đối diện với phần chân sẽ gây ra các bệnh liên quan đến chân.

 14 dieu toi ky cam quen trong phong ngu - 2

3. Cửa phòng tắm/nhà vệ sinh đối diện giường ngủ

Trường hợp này còn xấu hơn so với trường hợp 1 là cửa phòng ngủ đối diện cửa phòng tắm/nhà vệ sinh. Nó sẽ gây ra chứng đau đầu nghiêm trọng, làm giảm sự tập trung, giảm khả năng suy nghĩ cho chủ nhân căn phòng.

Nếu vấn đề rắc rối này không được giải quyết trong một thời gian dài, nó có thể dẫn đến bệnh ung thư và nhiều loại bệnh tật khác. Do đó, bạn cần thay đổi cách bố trí nội thất trong phòng ngủ, đặc biệt là vị trí kê giường ngủ càng nhanh càng tốt.

 14 dieu toi ky cam quen trong phong ngu - 3

4. Gương soi đối diện giường ngủ

Nằm ngủ đối diện với gương sẽ làm bạn dễ rơi vào trạng thái mê man, ngủ không sâu, khó tập trung suy nghĩ về mọi chuyện.

Hãy xem hình minh họa bên dưới để biết rõ vị trí nên và không nên bố trí gương soi trong phòng ngủ. Nếu thực sự cần/phải có gương soi, bạn chỉ nên bố trí gương ở hai bên đầu giường ngủ. Tốt nhất, cố gắng không để gương trong phòng ngủ.

 14 dieu toi ky cam quen trong phong ngu - 4

5. Thanh xà nhà phía trên giường ngủ

Nằm ngủ ở vị trí bên dưới các thanh xà nhà luôn làm bạn cảm thấy bị áp lực đè nặng. Nó có thể gây ra chứng mất ngủ, thiếu ngủ và đau đầu triển miên.

 14 dieu toi ky cam quen trong phong ngu - 5

6. Giường ngủ đối diện với góc nhọn

Tình huống này có thể gây chóng mặt, đau đầu và các triệu chứng bệnh không thể phát hiện.

Giải pháp: Trong trường hợp 1 góc tường nhô ra, hoặc 1 góc nhọn của đồ nội thất không thể di chuyển được "chĩa" thẳng vào giường ngủ, bạn cố gắng làm mềm các góc nhọn và năng lượng hung hãn bằng cách phủ vải bên ngoài.

 14 dieu toi ky cam quen trong phong ngu - 6

7. Giường ngủ nằm dưới cầu thang

Vị trí giường ngủ này cực kỳ xấu, nó sẽ khiến người nằm trên giường dễ mơ ác mộng và không may mắn.

Giải pháp: Cách tốt nhất và dễ dàng nhất là chuyển giường ngủ đến một vị trí mới tốt hơn, thay vì di chuyển cầu thang.

 14 dieu toi ky cam quen trong phong ngu - 7

8. Phần đầu đối diện bức tường phía sau bồn cầu

Trường hợp này sẽ làm cho bạn phải chịu đựng bệnh đau đầu triền miên, rối loạn ý thức hệ và tâm trí thì rất khó tập trung.

Giải pháp: Di chuyển giường ngủ đến vị trí khác tốt hơn trong phòng. Tuy nhiên, bạn phải luôn lưu tâm đến các lưu ý phong thủy với từng vị trí cụ thể.

 14 dieu toi ky cam quen trong phong ngu - 8

9. Phần đầu đối diện bức tường phía sau bàn thờ

Đây là một trong những vị trí kê giường tối kỵ mà bạn cần phải tránh.

Giải pháp: Di chuyển một trong hai vị trí của giường ngủ hoặc bàn thờ để thoát khỏi những ảnh hưởng xấu đến sức khỏe.

 14 dieu toi ky cam quen trong phong ngu - 9

10. Đầu giường không có điểm tựa vững chắc

Một số người thích xoay chéo giường ngủ để tạo nên bầu không khí lãng mạn hoặc để tránh các thanh xà nhà trên cao, nhưng luôn luôn nhớ rằng, đầu giường cần phải được tựa vào một bức tường bằng phẳng, vững chắc. Nếu không, nó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của giấc ngủ.

 14 dieu toi ky cam quen trong phong ngu - 10

11. Đặt TV, hệ thống âm thanh, điện thoại phía trước giường ngủ

Phòng ngủ là nơi để nghỉ ngơi và hồi phục năng lượng cho ngày mới. Nếu đặt TV trong phòng ngủ, bạn có xu hướng xem các chương trình từ 1 - 2 tiếng cho đến khi cảm thấy buồn ngủ. Việc này sẽ rút ngắn số giờ ngủ xuống và ảnh hưởng đến năng lượng dành cho ngày hôm sau của bạn. Thời gian xem TV càng kéo dài càng ảnh hưởng đến sức khỏe và sự nghiệp.

Trong khi đó, điện thoại di động vẫn phát ra bức xạ ngay cả khi để ở chế độ chờ (stand by). Vì thế, bạn không nên đặt điện thoại di động bên cạnh người khi ngủ.

 14 dieu toi ky cam quen trong phong ngu - 11

12. Lắp điều hòa nhiệt độ ngay trên đầu giường

Nếu điều hòa nhiệt độ được lắp ngay trên đầu giường, không khí lạnh sẽ thổi trực tiếp lên cơ thể bạn. Đặc biệt trong lúc ngủ, lỗ chân lông có xu hướng hơi mở ra nên rất dễ bị các bệnh như cảm lạnh, cứng cơ và đau đầu.

 14 dieu toi ky cam quen trong phong ngu - 12

13. Giường ngủ nằm phía trên/bên dưới bếp nấu hoặc phòng tắm/nhà vệ sinh

Nếu giường ngủ của bạn đang nằm phía trên hoặc bên dưới bếp nấu hoặc phòng tắm/nhà vệ sinh thì chức năng của gan sẽ bị ảnh hưởng. Bởi vì vị trí này làm tăng yếu tố lửa.

Ngoài ra, phòng tắm/nhà vệ sinh là nơi tích tụ vô số vi khuẩn, bụi bẩn... nên sẽ gây ra rất nhiều vấn đề sức khỏe.

 14 dieu toi ky cam quen trong phong ngu - 13

14. Sử dụng vật trang trí cầu kỳ trên trần nhà

Giữ cho trần nhà đơn giản nhất có thể luôn là lựa chọn hoàn hảo, thậm chí là không có gì tốt hơn. Nhiều năm trước, mọi người thích trang trí trần nhà với gương hoặc một vài chi tiết nghệ thuật. Thế nhưng, nó sẽ gây khó ngủ và về lâu dài có thể sinh ra nhiều vấn đề sức khỏe.

 14 dieu toi ky cam quen trong phong ngu - 14

Hy vọng những lời khuyên vừa rồi sẽ giúp bạn cải thiện phong thủy phòng ngủ tốt đẹp hơn!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 14 điều tối kỵ CẤM quên trong phòng ngủ

Xem mồm miệng biết bệnh

Người ta vẫn thường nói: "Bệnh từ mồm vào". Mồm miệng là cửa ngõ của bệnh tật đi vào trong cơ thể. Các loại bệnh do thức ăn không sạch sẽ gây nên: các bệnh đái tháo đường, bệnh cao huyết áp, bệnh béo phì, bệnh thiếu máu ... đều gắn liền với vấn đề thức ăn đưa vào cơ thể qua mồm miệng. Bệnh không những "từ mồm vào", mà bệnh cũng còn có thể gây phản ứng, được thể hiện rõ qua những biến đổi về hình thái mồm miệng, khoang miệng, màu sắc của môi miệng.
Xem mồm miệng biết bệnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mồm miệng, dân gian vẫn thường gọi là mồm mép môi miệng nó do hai mép trên và dưới hợp thành khoang mồm miệng y học gọi là khoang vòng miệng. Mồm miệng, môi mép của con người có tác dụng làm đẹp cho bộ mặt, nhất là xung quanh mồm viền một vành môi màu đỏ, trong giải phẫu học gọi là môi đỏ. Huyết quản ở bộ phận môi đỏ này sát ngang gần bề mặt niêm mạc. Huyết quản mao mạch ở đó rất nhiều, người bình thường, đôi môi đỏ tươi, mềm mại, tươi sáng, độ khô ướt vừa phải, hơn nữa trông tươi non bóng bẩy. Còn nếu đôi môi trông khác thường về hình thái và màu sắc thì đó thường là biểu hiện ở trong người có bệnh. Phương pháp quan sát có:

1. Nhìn vào hình thái môi miệng:

Môi miệng khô: Người bệnh môi miệng khô, thường vẫn phải đưa đầu lưỡi liếm liếm, thậm chí bị nứt nẻ cả môi miệng nữa. Trường hợp này phần lớn thấy ở những người bị sốt cao, khí hậu khô hanh, cơ thể thiếu nước, khi ngủ thích đắp chăn trùm đầu. Ở những người thiếu vitamin B và rất ít ăn các loại rau quả tươi mới và các loại lương thực tổng hợp cũng phần nhiều phát sinh ra những hiện tượng khô mồm miệng khô môi như thế. Viêm môi, chốc mép cũng là một nhân tố quan trọng dẫn tới chứng bệnh khô mồm miệng này. Những biểu hiện chủ yếu của viêm môi miệng là môi mép khô háo, bị tróc bong da, bị nứt nẻ, khi ăn các chất kích thích thuộc loại chua cay sẽ cảm thấy xót đau, khi nói và cười to, mép miệng sẽ bị nứt, rướm máu ra. Người bị nặng, mồm miệng và đôi khoé mép bị sưng tấy lên, mọc mụn nước, bị toét lở, bị đóng vẩy ... do vì nứt nẻ bỏng rát nên làm trở ngại đến việc ăn uống và nói cười. Nguyên nhân thường thấy nhất của bệnh viêm môi miệng là do sử dụng các đồ hoá trang ở môi miệng bị dị ứng. Ngoài ra khô háo mồm miệng còn thấy ở những người uống quá nhiều lượng rượu vào cơ thể và những người bị mắc bệnh dạ dày mạn tính.

Môi miệng bị nứt nẻ, lở loét: Phần nhiều là do tì vị bị nhiệt, thường thấy ở những người bị bệnh dạ dày và ruột ở thể mạn tính. Khi mới phát hiện có lở loét ở môi miệng thì cần phải cảnh giác đi kiểm tra kỹ xem có phải bị bệnh giang mai di truyền không. Nếu ở vùng môi mép mà bị lở loét và có những nốt chấm đen, lên những mụn nước, bị nứt nẻ và bong ra những vẩy ... rồi ở hai bên mép có thể thấy rõ những vân vệt như những tia phóng ra ngoài, phần lớn thì hiện tượng này thể hiện ở cả hai bên mép phát sinh cùng một lúc, cũng có trường hợp cá biệt là chỉ thể hiện ra ở một bên mép thôi. Trường hợp này thường là bị viêm ở bên mép, trong dân gian vẫn thường gọi là bị chốc mép. Đây là chứng viêm da và viêm niêm mạc ở bộ phận mồm miệng.

2. Nhìn màu sắc của môi miệng:

Màu môi bạc thếch: Nếu cả hai môi đều trưáng nhạt, phần lớn thuộc tì vị hư nhược, khí huyết không đủ, trường hợp này thường thấy ở những người bị thiếu máu và bị chứng mất máu. Nếu môi trên xanh tái xám lại, thì phần lớn là do đang bị những chứng bệnh như đại tràng bị hư nhược, bị tiêu chảy, bị chướng khí, bụng quặn đau, bị nhiễm lạnh, vừa sốt nóng vừa sốt rét v.v...

Nếu môi dưới xanh tái xám lại thì đó là hiện tượng do dạ dày bị hư hàn, gây nên miệng nôn trôn tháo, dạ dày phát lạnh, bị những cơn đau dạ dày v.v... gây nên.

Môi đỏ nhạt : Phần lớn thuộc về huyết hư hoặc cả hai phương diện khí và huyết đều suy hư. Có một số người tuy không có bệnh gì lớn, nhưng cơ thể hư nhược nhiều cũng vẫn thường thấy có biểu hiện là môi nhợt nhạt như vậy.

Môi đỏ thẫm: Màu môi rực đỏ, thẫm lại, thường thấy ở những người bị sốt. Đối với những người bị cả hai bệnh tim và phổi, lại có kèm theo cả tâm lực suy kiệt, khi thiếu ô xy trong cơ thể, cũng thường thấy môi đỏ thẫm và tím bầm lại. Trên lâm sàng gọi là tím đen lại. khi màu môi trông đỏ như màu quả anh đào thì thường là đã bị trúng độc hơi than.

Môi màu xanh tái: Đó là do khí trệ, huyết ứ tắc, trường hợp này phần nhiều là do huyết dịch, không lưu thông thoáng mát, rất dễ bị các bệnh cấp tính, nhất là những bệnh cấp tính nguy hiểm về huyết quản, như tắc huyết quản, bị trúng phong ...

Màu môi đen: Xung quanh môi màu đen sạm lại thì đó là do thận đã suy kiệt. Khi mồm miệng khô cháy, đen sạm lại thì đó lại là lúc nguy kịch lắm rồi. Nếu ở những người màu môi đen xịt lại và đục, thì phần lớn là có bệnh ở hệ thống tiêu hoá. Có lúc lại thấy ở những người bí đại tiện, bị tiêu chảy, bụng dưới bị đau tức, bị đau đầu, mất ngủ, chán ăn ... Nếu trên môi lại xuất hiện cả những nốt mẩn, các mảng bớt màu đen, hai bên mép nổi lên những sắc tố ở vành mép thì hiện tượng  này thường thấy ở những người công năng của màng thượng thận bị suy thoái có tính chất mạnh tính. (Bệnh addison). Nếu ở vùng mồm miệng, ở hai bên mép, nhất là ở mép dưới và niêm mạc khoang miệng có những nốt chấm nâu, đen có lúc rất dày và tập trung, không có cảm giác khó chịu, thì có thể là ở trong dạ dày và ruột của người bệnh phát sinh ra thịt thừa (cục thịt nổi lên ở dạ dày và vách ruột, vì niêm mạc phát triển khác thường) có tính đa phát.

3. Nhìn vào hình thái khoang miệng:

Khoang miệng bình thường thì rất thẳng và bóng bảy, sạch sẽ. Nếu niêm mạc ở khoang miệng bị tấy đỏ, mọc lên các mụn nước, bị lở loét hoặc xuất hiện các vết lấm chấm màu trắng vàng, có khi lại kèm theo cả sốt, đau đớn, không ăn được. Đó là đã bị viêm khoang miệng. Lúc bình thường, trong khoang miệng có vô số vi khuẩn, hễ khi sức đề kháng của cơ thể bị suy giảm, các vi khuẩn sẽ sinh sôi nảy nở ra nhiều và nhanh chóng làm cho viêm mạc của khoang miệng, của răng lợi, môi mép và đầu lưỡi bị viêm tấy, có khi cũng có thể là do virus hoặc là do quá mẫn cảm (dị ứng) gây nên.

Những người uống rượu và hút thuốc quá nhiều, cơ thể mệt mỏi, hoặc khi bị những kích thích của răng giả, của răng bị sún, bị sâu, cũng có thể làm cho viêm khoang miệng. Có những phụ nữ mỗi khi có kinh nguyệt cũng bị viêm khoang miệng có tính chất chu kỳ.

Hiện nay, ở một số vùng của nước ta, bệnh về giới tính (bệnh ở bộ máy sinh dục) lại nhen nhóm lại, những hành vi mất vệ sinh không những đã gây bệnh ở bộ máy sinh dục mà có khi còn xuất hiện cả những triệu chứng ở ngay trong khoang miệng.

Những biểu hiện của bệnh về giới tính thường thấy thể hiện những triệu chứng ở ngay trong khoang miệng như sau:

Bệnh giang mai mới mắc về sau này (không phải do di truyền hoặc bẩm sinh).

Bệnh giang mai: Ở thời kỳ đầu bị lây truyền bằng con đường tiếp xúc như hôn nhau chẳng hạn, sau đó từ ba đến bốn tuần, ở môi miệng ở mép, ở lợi, ở phần hàm ếch cứng và mềm, ở má, ở lưỡi và ở phần cổ họng, xuất hiện các nốt mẩn đỏ, những vết lở loét ... Ở thời kỳ thứ hai, bằng con đường giao tiếp tình dục, bệnh xâm nhập vào cơ thể, rồi vào tuần hoàn huyết dịch, từ máu truyền lan đi khắp cơ thể, sau khi nhiễm bệnh từ 9 đến 12 tuần, ở niêm mạc trong khoang miệng xuất hiện những mảng lấm chấm sắc tố có tính đa phát, ở đầu lưỡi và quanh lưỡi xuất hiện các vết loét. Đến thời kỳ thứ ba, qua tiếp xúc về tình dục, cứ thế truyền nhiễm vào cơ thể, sau thời gian từ 10 đến 30 năm, chủ yếu liên luỵ đến phần hàm ếch cứng, làm nó sưng tấy lên rồi mềm nhũn y như nhựa cây vậy, có thể bị vỡ ra làm cho xương hàm bị phá hoại rồi lây lan sang tới cả khoang mồm miệng và lỗ mũi.

Bệnh lậu: Người bị mắc bệnh nhiễm phải song cầu khuẩn của bệnh lậu, từ 3 đến 5 ngày có thể phát sinh ra triệu chứng viêm họng, viêm khoang miệng do bệnh lậu gây nên.

Những biểu hiện của những bệnh thường thấy ở trong khoang miệng còn có cả các nhọt hoặc khối u mẩn đỏ mọng, rồi bệnh cầu khuẩn xâu chuỗi màu trắng, bệnh mẩn mụn đỏ có tính chất đơn thuần nữa. Trong cuộc sống và sinh hoạt không đảm bảo vệ sinh sạch sẽ, có thể dẫn tới các bệnh về sinh dục, gây nguy hại nghiêm trọng đến sức khoẻ của mọi người, đòi hỏi mọi người luôn phải nâng cao cảnh giác.

4- Nhìn vào màu sắc của khoang miệng:

Bình thường thì niêm mạc khoang miệng màu như phấn hồng. Nếu xuất hiện những sắc tố màu đen xám xịt từng đám một, thì phần lớn là biểu hiện công năng của tuyến thượng thận bị giảm sút. Nếu lại xuất hiện những nốt máu hoặc những chấm sắc tố ứ đọng, thì có khả năng là do cơ thể thiếu vitamin C gây nên.

Khi quan sát màu sắc của niêm mạc khoang miệng, phải đặc biệt chú ý xem có xuất hiện những vết "đốm trắng", vết "đốm đỏ", vết "đốm đen" hay không. Bởi vì tỉ suất biến chứng của bệnh ung thư thể hiện ở những vết "đốm trắng", "đốm đỏ" và "đốm đen" tương đối cao, thế mà khoang miệng lại là một trong những chỗ thuộc loại dễ mắc bệnh này, cho nên phải đặc biệt cảnh giác.

Vết đốm trắng: Đây là một loại biến chứng bệnh lý đốm trắng ở niêm mạc khoang miệng thường thấy (các vết "đốm trắng" này dùng tăm quấn bông xát đi không mất được, nó không giống như bệnh tưa mồm (viêm mồm áp tơ). Bệnh này phần nhiều phát sinh ở những chỗ khác nhau của niêm mạc khoang miệng của những ông già, nhưng thấy nhiều ở niêm mạc má. Cũng có trường hợp thấy có cả ở niêm mạc môi, hàm ếch và lưỡi nữa. Tỷ lệ phát sinh bệnh này ở nước ta là trên dưới 8%. Trong số những người có những vết đốm trắng thì có tới từ 1 đến 5% cuối cùng là bị ung thư. Tỷ lệ biến chứng ung thư của vết đốm trắng ở trạng thái khối  u (trạng thái khối u ở đầu vú) cao nhất. Nếu các vết đốm trắng đó lại mọc lên cứng lại, nổi cộm lên và bị loét ra thì đó là điềm báo trước biến chứng của ung thư. Những người hút thuốc lá dễ mắc chứng bệnh đốm trắng này.

Vết đốm đỏ: Đây là một loại biến chứng bệnh lý máu đỏ ở niêm mạc khoang miệng, biểu hiện ra là những mảng lốm đốm màu đỏ tươi, mềm và có đường viền rất rõ ràng, nói chung là không thấy đau rõ rệt (điều này cần kiểm tra để giám định rõ, phân biệt với các chứng bệnh như viêm niêm mạc, bị bỏng, bị xây xước). Một biểu hiện khác nữa là còn có cả những hạt lốm đốm trắng, to bằng những hạt thóc rải rác nhiều chỗ giống y như những hạt lốm đốm màu đỏ tươi nữa, thường lại kèm thêm cả hơi thấy đau đau nữa. Những vết lốm đốm đỏ phần nhiều phát sinh ở rìa lưỡi, ở lòng lưỡi và ở đáy miệng, tỷ lệ phát sinh thấp hơn so với những vết lốm đốm trắng, nhưng tỷ lệ biến chứng ung thư thì lại cao gấp 17 lần so với những vết lốm đốm trắng. Do đó, cần phải đặc biệt chú ý.

Vết lốm đốm đen: Đây là một loại vết lốm đốm màu đen, hoặc màu xanh lam, màu xanh xám, có bờ rõ ràng ở trên niêm mạc khoang miệng, những vết lốm đốm này tương đối nhỏ, hình dạng không đều nhau, không có những triệu chứng gì làm cho người ta thấy khó chịu cả (các sắc tố màu đen trong khoang miệng lắng đọng, trông dày đặc và lan toả khắp, các ung nhọt mọc lên ở huyết quản trông ngoài không giống như các vết lốm đốm đen). Các vết lốm đốm đen phần lớn thấy ở niêm mạc hàm ếch trên, ở răng hàm và ở má. Tỷ lệ bệnh phát sinh ở nam giới gấp đôi nữ giới, tỷ lệ biến thành ác tính trên dưới 30%. Khi đã chuyển biến thành những nốt ung thư sắc tố ác tính thì những vết đốm đen đó lớn to lên, các bờ mép mờ đi, sắc tố không đều nhau và ăn sau vào, có những trường hợp ra máu và nổi lên những nốt ở xung quanh.

Nếu phát hiện những vết lốm đốm có màu sắc như trên thì cần phải kịp thời đến bệnh viện khám và điều trị.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem mồm miệng biết bệnh

Sau lễ thành phục, trước lễ an táng phải làm gì ?

Thời nay đơn giản, để giữ vệ sinh không nên để quá 24 giờ. Thời xưa, có những nhà giàu sang để năm bảy hôm trong nhà, chờ con cháu về đông đủ, để họ hàng, làng xã, hàng tổng hàng huyện đến phúng viếng; để dựng rạp trước sân, dựng nhà trạm dọc đường từ nhà đến mộ để chuẩn bị mọi thứ khí tế và cỗ bàn thết đãi linh đình; để thày cúng chọn ngày, thày địa lý chọn đất an táng, phân kim lập hướng hẳn hoi. Có nhà còn sắm đủ trong quan ngoài quách, quàn tạm trong vườn, vài tháng sau mới làm lễ an táng.
Sau lễ thành phục, trước lễ an táng phải làm gì ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong thời gian chưa chôn có "Lễ triêu tịch điện": Buổi sáng dậy bưng khăn lược vào linh sàng, các con quỳ khóc ba tiếng rồi quấn màn lên cáo từ rằng: "Ngày đã sáng rồi xin rước linh bạch ra linh toạ". Sau đó rước hồn bạch ra đặt vào ỷ, vắt màn, dọn chăn gối, chiều tối lại rước linh bạch vào, đắp chăn thả chiếu, màn xuống. Thờ như lúc sống, chỉ lạy hai lạy (chỉ sau khi an táng, làm lễ thành phâng xong mới lạy bốn lạy theo nghi lễ người chết).

Các buổi tối trước khi chưa chôn, có "Lễ chúc thực" (Trồng bó đuốc trước sân): phường bát âm tấu nhạc, con cháu thay nhau túc trực bên linh cữu, trong nhà ngoài sân đèn đuốc sáng trưng.

Khi thân bằng cố hữu đến phúng điếu, người chủ tang và người chủ phụ đứng cạnh linh toạ và ngoảnh mặt về phía khách, hễ khách lạy hai lạy thì chủ lễ tạ lại một lạy. Khách vái cha mẹ mình ba vái thì vái tạ một vái. Trách nhiệm tiếp trầu, nước, cỗ bàn thuộc về người hộ tang.

Nếu có người con trai nào đi vắng chưa kịp về thì để mũ, khăn xô và gậy cạnh hương án.

Trước khi làm lễ chuyển cữu để chuẩn bị phát dẫn thì áo quan vẫn trở đầu vào trong, coi như lễ người sống, đọc văn cũng chưa dùng chữ "Hiển thảo" (cha) "Hiển tỷ" (mẹ) mà con dùng chữ "Cố phụ" (cha), "Cố mẫu" (mẹ)    

ở thành phố ngày nay đã có nhà ướp lạnh, ở nông thôn để dăm bảy ngày trong nhà, phải làm sao cho khỏi nhiễm uế khí ? - Điều quan trọng nhất là người trị tang phải có kinh nghiệm : áo quan vỏ dày, gỗ tốt, trám thật kín, không để một khe hở nào. Đáy áo quan lót những chất chống ẩm như lá chuối, giấy bản, than, vôi, bỏng nếp... Các khe hở của áo quan được bịt kín trước bằng sơn ta, nhựa đường, dán giấy tráng kim. Nếu để lâu phải có trong quan ngoài quách, giữa quan và quách đổ cát vàng rang khô nóng. Phủ trên thi hài có các thứ hương vị để khử uế khí.

Trước ngày an táng còn có thêm tục "Lễ yết cáo tổ tiên", nếu không đưa được linh cữu, phần lớn các gia đình rước hồn bạch đến nhà thờ họ. Hồn bạch chỉ được đặt phía trước bàn thờ, để ở dưới, không được đưa lên bàn thờ tổ. Nội dung: Báo cáo với gia tiên có thân phụ hoặc thân mẫu về chầu tổ. Xong lại rước hồn bạch về nhà mình, đặt lại trên linh toạ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sau lễ thành phục, trước lễ an táng phải làm gì ?

Xem bói, cổng trời thu nhỏ trên móng tay

Móng tay ngụ ý tốt tiêu chuẩn là hình dáng, độ dài ngắn, dãy mỏng thích hợp. Màu sắc móng tay phải hồng nhuận mà không có màu tạp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Móng tay ngụ ý tốt tiêu chuẩn là hình dáng, độ dài ngắn, dãy mỏng thích hợp. Màu sắc móng tay phải hồng nhuận mà không có màu tạp, nếu không sẽ cho thấy tính cách của người này nóng vội, cố chấp, tố chất cơ thể kém, họ cũng có thể bị mắc bệnh mãn tính, cần phải chú ý.

Móng tay có thể cho thấy tình hình sức khỏe và trạng thái tinh thần. Móng tay của người thành niên từ chân móng dài lên đến hết ngón mất khoảng 100 ngày, điều này cho thấy tình trạng sức khỏe của người đó trong vòng 3 tháng. Do đó, từ hình dạng của móng tay cũng có thể đoán biết được tính cách của con người, nhưng nếu cắt sửa móng tay thì phải quan sát cẩn thận hơn.

xem-boi-mong-tay

1. Hình dáng bên ngoài móng tay

Hình vuông: Người có móng tay kiểu này là người có tâm thái cân bằng, có thể đưa ra được kế hoạch, từng bước tiến tới mục
tiêu. Nhưng khuyết điểm của họ chính là khi kế hoạch đột ngột thay đổi họ không thể đoán biết trước được, về mặt tính cách, người này vô cùng nhạy cảm, thường quá lo lắng, thiếu cảm giác an toàn, cần có người bầu bạn.

Hình thuôn dài: Người có móng tay kiểu này sông nguyên tắc, có vẻ tĩnh tại của nhà lý luận, là người đáng tin cậy nhưng họ thích cười nhạo người khác, đó là một điểm đáng phải phê bình.
 Hình tam giác ngược: Người có kiểu móng tay này tình trạng sức khỏe tưởng như tốt nhưng trên thực tế họ lại rất nhiều bệnh tật, có thể bị cảm nhiễm ảnh hưởng đến não hoặc bị bệnh về tủy sống, thậm chí còn bị trúng gió, phải nhanh chóng tới bệnh viện để điều trị.

Hình mũi nhọn: Người có kiểu móng tay này bạc tình bạc nghĩa, coi trọng lợi ích bản thân, không quan tâm tới người khác. Người không biết cách ăn uống hợp lý cũng thường khiến cho móng tay biến thành hình dạng này.

Hình quả cau: Người có kiểu móng tay này thường thích hư vinh, thích tạo ấn tượng với người khác. Phần lớn họ có nhu cầu vật chất rất cao, không thích chuyên tâm vào chuyện học tập hoặc công việc, vì vậy mà không tích lũy được tiền bạc.

Hình hạnh nhân: Người có kiểu móng tay này là người trầm tĩnh, nho nhã, là mẫu người thục nữ. Họ có cảm hứng, khiếu thẩm mỹ cao, cuốn hút người khác. Nhưng họ thiếu thực tế, khả năng đối phó với tình hình đột xuất khá yếu.

Hình vỏ sò: Người có kiểu móng tay này rất dễ bị cảng thẳng, cho nên thân tâm cũng theo đó mà thể hiện trạng thái căng thẳng cao độ. Nên chú ý thả lỏng, không nên quá miễn cưỡng bản thân.

Hình không theo quy tắc: Người có kiểu móng tay trên to dưới nhỏ này làm việc không có khả năng quán xuyến, không thể làm việc đến
đầu đến đũa. Hơn nữa kiểu móng tay nàv còn cho thấy thề lực của họ đang bị suy giảm. Nếu hai bên móng tay bị lõm xuống thịt, khiến cho tổng thể bị thu hẹp lại, cho thấy khí lực của họ đã gần suy cạn. Mặc dù như vậy nhưng người có kiểu móng tay này rất nhạy cảm trên phương diện tình
cảm, họ có thể cảm nhận được những biến đổi nhỏ, rất thích hợp làm những việc như tư vấn tình cảm.

2. Trạng thái móng tay và tình trạng sức khỏe

Trạng thái móng tay có thế phản ánh được tình trạng sức khỏe. Trạng thái của móng tay thường báo hiệu những căn bệnh tiềm ẩn trong cơ thể.

Hình bán nguyệt bị nứt: Hình bán nguyệt màu trắng ở gốc móng tay sẽ tùy theo tình trạng sức khỏe của cơ thể mà xuất hiện hoặc biến mất. Khi tinh lực dồi dào, hình bán nguyệt sẽ to lên, khi cơ thế không còn sức lực dồi dào nữa thì hình bán nguyệt tự nhiên sẽ biến mất. Móng tay của người nào có hình bán nguyệt người đó sẽ có thể chất khỏe mạnh.

Màu sắc của móng tay: Móng tay xuất hiện màu đỏ nhạt của hoa anh đào khá lý tưởng. Người có móng tay quá đỏ, tính tình dễ nóng nảy, dễ hưng phấn, phải chú ý tới các bệnh về hệ thông tuần hoàn. Người có móng tay khá trắng, tính tình khá lãnh đạm, dễ bị thiếu máu, cần chú ý đề phòng các bệnh về tuần hoàn máu.

3. Cổng trời thu nhỏ trên móng tay

Bộ phận màu trắng hình bán nguyệt ở đoạn gốc móng tay được gọi là hình bán nguyệt. Hình bán nguyệt xuất hiện ở ngón tay cái là lớn nhất, trên ngón trỏ thì khá hẹp, ngón giữa thì khá dài, còn trên ngón vô danh và ngón út lại càng hẹp, thậm chí ở ngón út có thể không xuất hiện hình bán nguyệt. Nếu hình này xuất hiện chiếm 1/5 chiều dài của móng tay cho thấy tình trạng sức khỏe hiện tại rất tốt.

Hình bán nguyệt quá lớn: Biểu thị tốc độ tuần hoàn huyết dịch bên trong cơ thể quá nhanh, dễ bị bệnh cao huyết áp hoặc vỡ huyết quản dẫn tới não xuất huyêt. Mức độ chiếm 1/3 móng tay cũng báo hiệu bị bệnh tim.

Hình bán nguyệt quá nhỏ: Tuần hoàn huyết dịch trong cơ thê quá chậm, tình trạng sức khỏe khác thường, đã ở Vào trạng thái quá mệt mỏi, dễ xuất hiện hiện tượng tụt huyết áp, dẫn tới thiếu máu hoặc máu cung cấp lên não không đủ

Mỏng tay cứng: Móng tay cứng mà tính đàn hồi rất tốt, phần lớn biểu thị tình trạng sức khỏe tốt, là người có cơ thế khỏe mạnh. Tuy cứng mà thiếu sức đàn hồi có ngụ ý ngược lại, biểu thị bên trong cơ thể có bệnh.

Móng tay mềm: Người có kiểu móng tay này cho thấy thế lực rất yếu nhưng chỉ cần không quá mềm là được. Ngoài ra, khi phân tích, phán đoán cũng cần chú ý, móng tay đàn ông thường là cứng, móng tay của phụ nữ thường mềm.

Móng tay dày: Móng tay vừa dày vừa cứng cho thấy tố chất cơ thể khỏe mạnh, giàu sức sống, làm việc vui vẻ, tích cực, có thể khắc phục được nhiều khó khăn. Khuyết điểm chính là quá tự cao tự đại, luôn cho mình là nhất, có ý thức chủ quan mãnh liệt. Đôi khi họ còn vì vậy mà gây thù kết oán.

Móng tay ngắn: Móng tay quá ngắn cho thấy tình trạng sức khỏe không tốt, tim dễ bị bệnh, là người có khả năng kiềm chế kém, không thích hợp với những công việc chịu áp lực cao, thích hợp với những công việc nghiên cứu học thuật.
 Móng tay mỏng: Nếu móng tay vừa mỏng vừa mềm cho thấy bẩm sinh đã có bệnh tật, nói chung là thường mắc nhiều bệnh, thường phải nằm viện, tinh thần bế tắc, tính tình hướng nội. Khi gặp phải chuyện kích động thì họ rất dễ rơi vào tâm trạng lo lắng, bất an.

Móng tay dài: Nếu móng tay quá dài cho thấy thế lực không được tốt, nói chung người này thiếu vận động. Tình trạng sức khỏe cơ thể cũng khiến người khác phải lo lắng, tính tình nhạy cảm, làm việc cẩn thận, tỉ mỉ, lòng đố kỵ mạnh, thường để ý những điều vặt vãnh ở những người xung quanh.

Móng tay lõm xuống: Nếu móng tay bị lõm xuống có nghĩa là ỏ giữa móng tay xuất. hiện vết lõm, cho thấy là người có thần kinh quá nhạy cảm, dễ bị mất ngủ hoặc có hiện tượng nghiện rượu, sử dụng nhiều thuốc, thiếu ý chí, dễ bị chìm đắm.

Móng tay lồi lên: Móng tay có hình dạng lồi lên nghĩa là trên móng tay có chỗ nhô cao cho thấy thể chất không tốt, hệ hô hấp bị bệnh, nên phòng hệnh hen suyễn hoặc bệnh phổi. Chỗ lồi càng cao thì cho thấy vấn đề càng nghiêm trọng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói, cổng trời thu nhỏ trên móng tay

Thân cư Phúc Đức

Những người sinh vào giờ Sửu (1am đến 3am) và những người sinh vào giờ Mùi (1pm đến 3pm) đều có số Thân cư Phúc Đức. Trước khi nói đến những nét đặc biệt của mẫu người này chúng ta hãy bàn qua vài ý nghĩa căn bản của cung Phúc Đức. Trong những chương trước chúng ta có nhắc đến một nguyên tắc căn bản của khoa Tử Vi là nếu Thân cư vào cung nào thì cung đó trở thành lãnh vực chính yếu trong cuộc sống của đương số. Bởi vậy, ý nghĩa đơn giản đầu tiên của cung Phúc Đức là nói về phước đức của đương số có được là do chính bản thân tạo dựng nên hay là do thụ hưởng từ ông bà, cha mẹ, hay của giòng họ nói chung. Cho nên, từ quan niệm đó, khoa Tử Vi xem cung Phúc Đức như nền tảng của một lá số. Nó có thể cứu giải hay làm chiết giảm đi độ số tốt xấu của cung Mệnh hay của một đại hạn, tiểu hạn v.v…Nói một cách khác, cung Phúc Đức cũng như gốc rễ của một cái cây, nếu gốc rễ tốt thì cho dù một vài nhánh cây hư hỏng thì cây cũng có thể ra hoa, kết trái. Nếu gốc rễ đã bị úng thối thì cành cây bên trên dù có xanh tươi thì cũng chẳng được là bao lâu. Cũng có thể đơm hoa kết qủa những cũng không thể tồn tại lâu dài được.
Thân cư Phúc Đức

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ đó chúng ta có một quan điểm đặc biệt đầu tiên của người Thân cư Phúc Đức. Cuộc đời của họ sướng hay khổ, thành hay bại không hoàn toàn do chính khả năng của họ mà phần nào do những trợ lực khác như được người nâng đở, hay thường gặp những vận hội may mắn nào đó. Điều này dễ nhìn thấy ở các lá số Thân cư Phúc Đức mà cung Phúc Đức lại được mọi điều tốt đẹp thì cuộc dời của những người này thường gặp được những may mắn kỳ lạ, giúp họ thành công dễ dàng, hoặc họ có thể vượt qua những hoàn cảnh khó khăn, tai nạn mà không ai có thể ngờ được.

Ngược lại, chúng ta cũng thấy có những người Thân cư Phúc Đức nhưng cung Phúc Đức lại xấu xa mờ ám, cho dù các cung chính yếu Mệnh, Tài, Quan…đều tốt đẹp nhưng chắc chắn cuộc đời của họ vẫn gặp nhiều cảnh thăng trầm.

Như vậy, phải chăng đối với người Á Đông chúng ta thì Phúc Đức là một yếu tố siêu hình đã ảnh hưởng phần nào trong cuộc sống của một đời người?

Một quan niệm khác của khoa Tử Vi đối với cung Phúc Đức là cung này biểu tượng cho cả một giòng họ. Qua cung Phúc Đức mà chúng ta có thể nhìn thấy một cách đại cương về giòng họ của đương sự. Như vậy, những người có Thân cư Phúc Đức thì đặc điểm thứ hai chính là sự liên hệ chặc chẽ của cá nhân đương số với giòng họ của mình. Tùy theo sự tốt hay xấu và ý nghĩa của cung Phúc Đức. Có người tuy khả năng, tài đức không có gì đáng nói cả nhưng vẫn có địa vị chức tước hay bổng lộc nhờ vào sự nâng đở của bà con.

Ngược lại, cũng có người được may mắn, có công danh sự nghiệp, giàu sang phú quý, cũng vì cái tình gia tộc mạnh mẽ, họ phải vươn dài cánh tay đễ cưu mang cho cả giòng họ. Đó là trường hợp mà ông bà chúng ta thường nói: “Một người làm quan, cả họ được nhờ.”

Và một điểm đặc biệt sau cùng của mẫu người này là những gì tốt xấu của cung Phúc Đức sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ sau khoản tiền vận, nghĩa là thời điểm đương số thực sự lăn lộn vào đời. Cung đối diện Phúc Đức là Tài Lộc, và đó cũng là cung đầu tiên chịu ảnh hưởng nặng nề những sự tốt, xấu của cung Phúc Đức. Cho nên người Thân cư Phúc Đức sẽ có những thay đổi khá rõ rệt trong khoản thời gian lập thân. Cuộc sống của họ có thể sung sướng hơn nếu cung Phúc Đức tốt đẹp, hoặc cực khổ hơn nếu cung Phúc xấu, nhất là trên vấn đề tiền bạc.

Tóm lại, mẫu người Thân cư Phúc Đức là những người có tinh thần gia đình, gia tộc rất mạnh. Họ thích cuộc sống đại gia đình và giữ được những liên hệ mật thiết với tất cả bà con trong giòng họ dù gần hay xa. Đây là mẫu người rất nặng tình quê hương. Họ thường lớn lên và sống suốt đời tại nơi chôn nhau cắt rốn của mình chứ không muốn ly hương hay sống rời xa giòng họ của mình.  
 
Đi xa hơn, cung Phúc Đức trên một lá số cũng tương tự như lãnh vực âm trạch của khoa Phong Thủy, tức là chuyên về mộ phần. Qua cung Phúc Đức, chúng ta có thể nhìn thấy những nét tổng thể về mộ phần của một giòng họ, như mộ phần của một người nào phát, mộ phần của ngườ nào hư, hoặc có thể biết được mộ phần của người nào đó trong giòng họ đã kết phát và đang đặc biệt phò trợ cho đương số. 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thân cư Phúc Đức

Luận về Lưu Hà-Thiên Trù-Quốc Ấn

LUẬN VỀ LƯU HÀ THIÊN TRÙ : Lưu Hà sách Tử Vi Trung Quốc không nhắc đến. Nó đi cùng với Thiên Trù và được an theo hàng can của năm sinh tỉ dụ Giáp niên kê sà tàng (tuổi Giáp Lưu Hà ở Dậu, Thiên Trù ở Tỵ).
Luận về Lưu Hà-Thiên Trù-Quốc Ấn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lưu Hà tính chất thâm trầm gian hiểm sát phạt. Lưu Hà cũng như phần lớn các tạp diệu khác gây độc hại khi gặp những sao đã sửa soạn đất phá hoại cho nó. Lưu Hà đóng Mệnh nữ cẩn thận khi sanh đẻ. Lưu Hà đứng với Cự Môn, Hóa Kị dễ bị nạn sông nước. Lưu Hà chỉ gặp sao Thanh Long như rồng gặp nước (nói theo hình tượng) tạo sự hanh thông cho công việc.


Về sao Thiên Trù, phái Trung Châu bên Tàu dùng để luận đoán khả năng ẩm thực. Với chính tinh thì Phá Quân có liên quan đến ăn uống, bằng tạp tinh là Thiên Trù. Trù đây mang nghĩa nhà bếp. Phá Quân đóng Phúc Đức mà gặp Hỏa Tinh, Trung Châu phái bảo nên kinh doanh hàng ăn tốt, xin nhắc là chỉ vào Phúc Đức thôi.

Thiên Trù đóng Mệnh gặp Hỏa Tinh hoặc ở Tài Bạch hoặc Quan Lộc là người có nghề nấu bếp, thích nấu bếp và nấu bếp giỏi, hãy theo ngành hàng ăn để rồi sau kinh doanh.

Thiên Trù ở Mệnh, ở Phúc Đức mà không Hỏa Tinh thì chỉ là con người sành ăn, hoặc mở quán ăn nhưng không phải là tay sành nghề bếp núc. Nếu Thiên Trù, Hỏa Tinh lại thêm cả Long Phượng nữa thì nghệ thuật nấu tuyệt vời.

Các nhà tử vi gia Việt luận về sao Thiên Trù cho là sao thích ăn thịt, lời giải này nông cạn và khôi hài, vậy có sao nào thích ăn rau với muối mè không?

LUẬN VỀ QUÔC ẤN : Quốc Ấn thuộc thổ, chủ về thi cử, công danh, quyền tước và chức vị. Sao này chỉ đi với Thiên Tướng, Thiên Hình và Phục Binh làm thành bộ Binh Hình Tướng Ấn, bộ này tạo ra uy quyền được người vì nể.

Nhưng Quốc Ấn mà gặp Triệt kể như ấn tín bị vỡ mẻ công danh không thuận đạt Thiên Tướng hoặc Tướng Quân gặp Quốc Ấn đều hay cả. Như có câu phú:


Nhật Lộc Mã tại Tỵ cung

Tràng Sinh, Phụ Bật hợp cùng phú vinh

Bằng gặp Tướng Ấn Binh Hình

Hễ thời loạn thế là thành công to

LUẬN VỀ GIẢI THẦN THIÊN KHỐC: Có những sách nói Giải Thần phân ra Thiên Giải và Địa Giải. Có những sách nói Giải Thần phân ra Niên Giải và Nguyệt Giải. Lại có những sách không phâ chia, chỉ đưa ra một sao Giải Thần. Dĩ nhiên là cách an khác nhau, không có trọng tài để biết hư thực.

Tác dụng của Giải Thần là “tiêu tai giải nạn”. Giải Thần mà đứng với Thiên Thọ ở cung Tật Ách tốt nhất suốt đời không bị bệnh nặng.

Giải Thần một mặt tiêu hủy tai nạn, mặt khác nó cũng tiêu hủy luôn cả điều tốt. Bởi vậy cung phối ngẫu mà có Giải Thần thì là triệu chứng ly hôn đấy. Giải Thần gặp Thiên Riêu ở đây tình hình còn phức tạp gấp bội. Đó là một luận đoán không mấy ai lưu tâm.

Sao Thiên Khố chủ về tiền bạc. Đóng cung Tài Bạch và cung Mệnh là người quản thủ tiền bạc giỏi. Sinh năm Giáp Kỷ mà có sao Thiên Khố dễ gây dựng của cải (điều này không mấy chính xác). Chỉ thấy có câu phú nôm ghi rằng:

Hỏi ai Giáp Kỷ mấy người

Gặp sao Thiên Khố tiền rời bạc muôn.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về Lưu Hà-Thiên Trù-Quốc Ấn

Chuyên gia giải thích cách tính năm nhuận chính xác

Theo ThS. Trần Tiến Bình - nguyên cán bộ Phòng Nghiên cứu Lịch (Trung tâm Thông tin Tư liệu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam): "Cách tính năm nhuận âm lịch theo quy luật 19 năm hay tính năm nhuận dương lịch theo quy tắc cứ 4 năm một lần đều hoàn toàn không chính xác".

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Về việc năm 2014 có nhuận tháng 9 hay không, phóng viên đã phỏng vấn chuyên gia nghiên cứu lịch Trần Tiến Bình - người từng công tác tại Viện Hàn Lâm KH&CN VN.

Thạc sĩ Trần Tiến Bình có kinh nghiệm công tác lâu năm tại Ban Lịch Nhà nước, sau này là Phòng Nghiên cứu Lịch (Trung tâm Thông tin Tư liệu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam). Ông Trần Tiến Bình cũng là người trực tiếp biên soạn lịch phát hành rộng rãi trong cả nước.

Trao đổi với phóng viên, ThS. Trần Tiến Bình cho biết, tính lịch phải dùng tới các mô hình thiên văn tiên tiến nhập hàng đống dữ liệu để lập trình tính chứ không thể tính nhẩm được.

 
Thưa ông, hiện tại có khá nhiều những ngộ nhận về việc tính lịch năm nhuận. Ông có thể cho biết một số những sai lầm phổ biến về cách tính lịch?

Còn một vài điều theo tôi là những lỗi rất phổ thông.

Thứ nhất cần phân biệt giữa nhuận trong âm lịch và dương lịch. Năm nhuận của dương lịch chỉ thêm 1 ngày, tức tháng 2 có 29 ngày chứ không có tháng nhuận như âm lịch.

Thứ hai, về dương lịch không phải cứ 4 năm (chia hết cho 4) có một năm nhuận, thí dụ năm 1900 hay 2100 không phải là năm nhuận mặc dù các năm này chia hết cho 4.

Thứ ba, ai đó nói cứ 3 năm âm lịch có 1 năm nhuận cũng không chính xác, thí dụ các năm 2004, 2006, 2012, 2014 đều là các năm nhuận nhưng chỉ cách nhau 2 năm.

Thứ tư, quan niệm cho rằng âm lịch của chúng ta thuần tuý tuân theo tuần Trăng cũng không đúng, như tôi sẽ giải thích ở phần sau, âm lịch mà chúng ta đang sử dụng phải gọi chính xác là lịch âm dương, vì nó vừa tuân theo chuyển động của Mặt Trăng, vừa theo chuyển động của Mặt Trời.

Vậy, cách tính năm nhuận dương lịch chính xác nhất là như thế nào, thưa ông?

Những năm có số chia hết cho 4 được gọi là năm nhuận dương lịch chỉ đúng một phần. Riêng đối với những năm có tận cùng 2 số 0 phải chia hết cho 400 mới là năm nhuận như năm 2000! Như vậy độ dài trung bình của năm dương lịch hiện nay (còn gọi là Tân lịch hay lịch Gregorius) là 365.2425 chứ không phải 365.25 (365 1/4), độ dài 365 1/4 là độ dài của Cựu lịch (lịch Julius) đã thôi không sử dụng trên thế giới từ năm 1582 khi Giáo hoàng Gregorius XIII ban hành sắc lệch cải cách lịch.

Còn đối với cách tính năm nhuận âm lịch thì ra sao, thưa ông?

Ngày mồng một âm là ngày mà Trái đất, Mặt trăng và Mặt trời theo thứ tự nằm thẳng hàng, Mặt trăng quay nửa tối về phía Trái đất (nên người ta thường nói tối như đêm 30), thời điểm này gọi là thời điểm không trăng, hay thời điểm Sóc.

Để có lịch không những tuân theo tuần trăng mà còn phù hợp với thời tiết khí hậu người xưa đưa vào lịch cả các yếu tố liên quan đến vị trí của Trái đất trên quỹ đạo quanh Mặt trời.

Theo ThS. Trần Tiến Bình: "Để có lịch không những tuân theo tuần trăng mà còn phù hợp với thời tiết khí hậu người xưa đưa vào lịch cả các yếu tố liên quan đến vị trí của Trái đất trên quỹ đạo quanh Mặt trời".

Người tính lịch sẽ tính liên tiếp các thời điểm thẳng hàng hay thời điểm Sóc. Nếu hai thời điểm Sóc kế tiếp (sau khi làm tròn đến ngày, không tính giờ) cách nhau 29 ngày thì tháng đó thiếu, còn cách nhau 30 ngày thì là tháng đủ.

Như vậy, ta có lịch theo tuần trăng, ta còn gọi là lịch âm lịch, giống như lịch Hồi giáo. Và lịch này sẽ bị lệch một cách hệ thống so với năm thời tiết vì 12 tháng âm tổng cộng chỉ có trung bình xấp xỉ 354.36 ngày, hụt mất gần 11 ngày so với dương lịch.

Để có lịch không những tuân theo tuần trăng mà còn phù hợp với thời tiết khí hậu, người xưa đưa vào lịch cả các yếu tố liên quan đến vị trí của Trái đất trên quỹ đạo quanh Mặt trời ( hay vị trí của Mặt trời di chuyển trên Hoàng đạo nếu nhìn từ Trái đất).

Và do vậy lịch chúng ta đang dùng gọi chính xác là lịch âm dương. Như vậy, vấn đề là để đưa lịch âm cho phù hợp với chuyển động của Trái đất quanh Mặt trời (tức lịch dương) thì ta phải chèn tháng nhuận để cho phù hợp. Vậy chèn như thế nào, không phải theo chu kỳ 19 năm.

Muốn tính tháng nào có nhuận, người ta phải dựa vào tính giữa ngày Đông Chí (khoảng 21 tháng 12 dương lịch) năm này và năm sau có bao nhiêu điểm sóc. Nếu có 12 điểm sóc thì tháng đủ. Nếu có 13 điểm sóc thì cần phải chèn tháng nhuận vào. Như vậy, ta xác định được năm nào có nhuận.

Để biết tháng nhuận là tháng mấy thì phải tính thêm các trung khí để biết có tháng nhuận trong năm hay không. Trong năm nhuận tháng không có Trung khí là tháng nhuận, tháng này đánh số trùng với tháng trước nó (thêm chữ nhuận). Nếu trong năm nhuận có hai tháng không có Trung khí thì tháng đầu tiên sau Đông chí được coi là tháng nhuận.

Việc tính chính xác lịch có ý nghĩa như thế nào, trong quá khứ, có thời điểm nào lịch Việt Nam bị sai lệch hay không, thưa ông?

Khi bắt tay vào tính lịch năm 2000 chúng tôi đã thấy là lịch Việt Nam năm 1997 bị sai một chỗ vì ngày mồng 1 âm lịch rơi vào 23 giờ 56 phút ngày 29 tháng 12 chứ không phải phải là ngày 30 tháng 12 như công bố, nhưng vì là quá khứ nên chúng ta không xét lại.

Và ngay cả lịch Trung Quốc do Đài thiên văn Tử Kim Sơn công bố cũng có điểm sai lệch so với dữ liệu của Đài thiên văn Naval (Hoa Kỳ), điều này chúng tôi kiểm chứng qua trao đổi với Gs. E. M. Reingold (Hoa Kỳ) một chuyên gia hàng đầu thế giới về lịch pháp...!

 1. Ngày mồng 1 âm lịch, lúc Trái đất, Mặt Trăng, Mặt trời nằm thẳng hàng (điểm Sóc) có phải là Nhật thực không?

Thời điểm xảy ra Nhật thực luôn luôn rơi vào ngày mồng 1 âm (ngày Sóc) nhưng ngày Sóc chưa chắc đã có Nhật thực. 

Trong một tháng âm lịch luôn có ngày Sóc và ngày Trăng tròn nhưng không phải lúc nào cũng xẩy ra Nhật thực hay Nguyệt thực vì mặt phẳng chuyển động của Mặt trăng (gọi là Bạch đạo) nghiêng hơn 5 độ so với mặt phẳng chuyển động của Trái đất (Hoàng đạo).

Nhật thực hay Nguyệt thực chỉ xẩy ra khi các vị trí Sóc và Trăng tròn nằm cạnh một trong hai điểm giao nhau giữa Bạch đạo và Hoàng đạo, gọi là Tiết điểm.

2. Thời đại thông tin hiện nay liệu có thể đưa ra vài công thức đơn giản để bạn đọc tự lập trình tính lịch?

Hoàn toàn có thể nhưng các thuật toán và bảng số liệu sẽ chiếm nhiều trang giấy, chưa kể có bài toán độc giả phải tự giải và tìm ra thuật toán vì không có sẵn, tôi giới thiệu các bước tính và tài liệu tham khảo trong sách ở dưới. 

Có những thuật toán ngắn hơn nhưng lại không chính xác, chẳng hạn thời điểm Sóc chỉ cho phép chính xác đến ngày chứ không đến phút!

3. Thời điểm trước đó các cụ ta tính lịch như thế nào?

Người xưa đã phát triển các mô hình tính toán bằng các phương trình bậc thấp rồi cao dần kết hợp với đo đạc, quan trắc thiên văn như quan Thái Sử Cục Đặng Lộ (đời Trần) đã chế ra Lung linh nghi để khảo sát thiên tượng. 

Cố Gs. Hoàng Xuân Hãn trong cuốn "Lịch và lịch Việt Nam", (đây là một trong các công trình được xét tặng Giải thưởng HCM) cũng đã phải lập trình để phục tính lịch thời Lê, phép lịch có tên là Đại Thống, trong quá trình phát triển đã có hàng chục phép lịch như vậy với độ chính xác tăng dần theo thời gian.

Khi in cuốn sách vào năm 1982 Gs. Hoàng Xuân Hãn cũng chỉ đề nghị các nhà làm lịch sau này dựa vào 4 điểm Khí được phương Tây công bố rồi ước lượng trung bình các Khí khác chứ không ngờ rằng sau đấy với sự phát triển của khoa học bây giờ chúng ta có thể tính chính xác 24 Khí.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chuyên gia giải thích cách tính năm nhuận chính xác

Ngày sinh nói lên những công việc phù hợp với bạn, chuẩn không cần chỉnh

Em thấy cũng thú vị ạ. Mọi người xem qua cho biết. Nếu biết hợp với nghề gì thì biết đâu thành công hơn, làm việc tốt hơn. Mà dù sao cũng mang tính tham khảo nhé, mọi người chú ý.
Ngày sinh nói lên những công việc phù hợp với bạn, chuẩn không cần chỉnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày mồng 1: Bạn logic và độc lập. Bạn phù hợp với những công việc tự làm chủ vì bạn không thích làm theo lệnh của người khác.

Ngày mồng 2: Bạn là một người nhẹ nhàng và biết quan tâm người khác mặc dù bạn sống cảm xúc và hay lo lắng. Công việc tốt nhất dành cho bạn là những nghề nghiệp làm việc theo nhóm.

Ngày mồng 3: Bạn thân thiện và ấn tượng, rất được lòng mọi người xung quanh. Bạn phù hợp với những nghề tiếp xúc với nhiều người.

Ngày mồng 4: Bạn chăm chỉ, trung thành và thực tế. Bạn thích hợp với làm kinh doanh.

Ngày mồng 5: Thông minh, dí dỏm và đa tài chính là con người bạn. Bất cứ công việc nào liên quan tới du lịch và sự đa dạng đều phù hợp với bạn.

Ngày mồng 6: Bạn là một người cầu toàn và luôn tin rằng tình yêu có thể chinh phục tất cả. Những người này thích được chăm sóc người khác, cho nên những nghề liên quan tới giáo dục, y tế, nhà tù hay làm cha mẹ sẽ phù hợp với bạn nhất.


Ngày mồng 7: Hiếu học và nghiêm túc. Rất khó để có thể hiểu những người này vì họ không dễ dàng chia sẻ cảm xúc của mình. Họ phù hợp nhất với những công việc liên quan tới khoa học.

Ngày mồng 8: Bạn khôn ngoan nhưng không ích kỷ. Bạn thường gặp may mắn về tiền bạc và thích hợp nhất với công việc kinh doanh.

Ngày mồng 9: Bạn rất thông minh và hào phóng. Bạn nên kết hôn sớm và có thể làm hầu hết các công việc.

Ngày mồng 10: Bạn nên làm nhiều hơn một thứ cùng một lúc vì bạn là người rất dễ chán. Bạn có thể dễ dàng leo lên đỉnh cao của bất cứ nghề nghiệp nào.

Ngày 11: Bạn có lý tưởng, rất thông minh, là người có trực giác tốt. Bạn sẽ thoải mái khi được làm việc trong các ngành khoa học duy tâm.

Ngày 12: Bạn sáng tạo, có trí tưởng tượng tốt và hòa đồng. Bạn xuất sắc trong ngành thiết kế hoặc ngành luật.

Ngày 13: Bạn thực tế, có kỷ luật và có thể là một nhà quản lý xuất sắc.

Ngày 14: Bạn ưa mạo hiểm và sáng tạo. Bạn sẽ là một nhà phê bình xuất sắc.

Ngày 15: Bạn tư duy độc đáo, hấp dẫn và tham vọng. Bạn có thể phù hợp với công việc trong các cơ quanchính quyền địa phương hoặc một số dự án cộng đồng.

Ngày 16: Có vẻ bạn là một kẻ lười biếng và luôn hành động theo cảm tính. Bạn cũng là một người sắc sảo. Bạn cần làm những công việc luôn có người khác ở xung quanh mình.

Ngày 17: Bạn bảo thủ, thích làm theo kiểu của mình và bị thu hút bởi quá khứ. Bạn sẽ là một giáo viên lịch sử giỏi hoặc phù hợp với những nghề viết lách.

Ngày 18: Gần như bạn lúc nào cũng có hơn 1 nghề nghiệp.

Ngày 19: Bạn thích hợp với những công việc mà bạn có thể làm mọi thứ theo cách của mình.

Ngày 20: Bạn là người hay buồn bã, không thích ở một mình. Công việc thích hợp nhất với bạn là làm cho một công ty nhỏ – nơi mà bạn có cảm giác như là gia đình mình.

Ngày 21: Bạn sinh ra đã may mắn và là một người thú vị. Công việc lý tưởng của bạn là bán hàng.

Ngày 22: Bạn là người mơ mộng, hay lo lắng, có xu hướng tâm linh. Bạn nên làm những công việc mang lại lợi ích cho người khác.

Ngày 23: Bạn là người nhạy cảm và thích hợp với những công việc liên quan tới hóa học và vật lý.

Ngày 24: Bạn chủ động, bướng bỉnh, thích tranh cãi và thích hợp với những công việc mang lại niềm vui cho mọi người.

Ngày 25: Bạn có trực quan tốt, khôn ngoan và kiên nhẫn. Công việc tốt nhất cho bạn liên quan tới lĩnh vực khoa học duy tâm.

Ngày 26: Bạn có cách tiếp cận cuộc sống tràn đầy năng lượng. Bạn là người có khả năng tổ chức xuất sắc và sẽ làm việc tốt nhất trong lĩnh vực kinh doanh.

Ngày 27: Bạn có khả năng lãnh đạo nhưng tính khí thất thường. Bạn có niềm đam mê với du lịch và vận tải nên bạn sẽ làm tốt trong lĩnh vực này.

Ngày 28: Có nhiều triệu phú sinh ra vào ngày này. Ý chí mạnh mẽ và độc lập. Bạn làm việc tốt nhất khi có một cộng sự trong bất cứ công việc nào mà bạn chọn.

Ngày 29: Những người sinh ngày này có khả năng trở thành một nhà ngoại cảm xuất sắc.

Ngày 30: Bạn là một người hấp dẫn và có khả năng bắt chước tài tình, nên công việc phù hợp nhất với bạn là diễn viên.

Ngày 31: Bạn kỷ luật nhưng cũng có khả năng thích ứng nhanh. Bạn thường rất nhớ những người tốt với bạn và những người không tốt với bạn để đáp trả lại khi có cơ hội. Bạn sẽ rất hợp trở thành một hiệu trưởng giỏi.

Theo: Langnhincuocsong


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngày sinh nói lên những công việc phù hợp với bạn, chuẩn không cần chỉnh

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd