Tướng phụ nữ có ria mép |

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn sáng thích hợp chiếu từ trái qua phải, từ sau lên trước, từ trên xuống dưới. Vì thế, phong thủy cũng rất quan tâm đến việc thiết kế chiếu sáng cho văn phòng. Hãy cùng Lịch ngày Tốt tìm hiểu về cách bố trí ánh sáng văn phòng chuẩn phong thủy.
![]() |
Lượng ánh sáng ảnh hưởng trực tiếp tới người làm việc trong phòng |
Phía trên đỉnh đầu không nên có đèn treo lớn. Đèn sẽ gây phản quang trên mặt bàn khi chúng ta làm việc. Như vậy vừa không có lợi cho mắt vừa thiếu tập trung khi làm việc. Mặt khác, nếu có sự cố xảy ra, đèn có thể gây nguy hiểm đến tính mạng. Bạn có thể đặt đèn chiếu sáng tại bàn làm việc của mình ở vị trí phù hợp.
Nguồn sáng không đúng phong thủy gọi là “phản quang sát”. Phản quang trước đây phần lớn đều do các hồ ao bên ngoài công trình kiến trúc tạo nên. Khi gặp ánh sáng, chúng chiếu sáng vào trong phòng tạo ra phản quang sát.
Nếu phản quang của nước sông hồ chiếu vào trong phòng thì sẽ sản sinh ra sóng ảnh lay động. Nó tạo ra ánh sáng ảo trên trần nhà, khiến người làm việc khó tập trung tinh thần, thậm chí còn nảy sinh tâm lý căng thẳng.
Hiện nay, ở các đô thị, thành phố đều sử dụng kính trong việc thiết kế bức tường. Việc làm này cũng tạo ra phản quang. Phản quang từ những bức tường này vô cùng mạnh. Nó có thể phá hoại khí trường tốt vốn có trong phòng làm việc.
Để hóa giải điều này, đối với những văn phòng bình thường có thể sử dụng loại kính tối màu thay cho kính trong suốt khi lắp cửa. Ngoài ra, có thể dùng rèm, đặt chậu cây cảnh, bể cá trên bệ cửa sổ, vừa để ngăn chặn xung sát vừa tạo mỹ quan cho môi trường.
Các bài viết sau cùng chủ đề, có thể bạn quan tâm:
(Theo Phong thủy văn phòng làm việc nơi công sở)
Xưa đến nay có rất nhiều người thông qua xem tướng để biết vận mệnh của một người trong đó có xem tướng nốt ruồi. Nó không những báo hiệu vận mệnh tương lai mà tướng nốt ruồi còn có ý nghĩa dự báo về sức khỏe. Chúng ta phải chú ý nốt ruồi ở trán tính tình nóng nảy, dễ có bệnh về tim; nốt ruồi ở mũi thì nóng dạ dày, hệ tiêu hóa không tốt… Củ thể như thế nào chúng ta cùng xem tướng nốt ruồi để biết tình trạng sức khỏe của bạn như thế nào để kịp chữa trị nhé!
Nội dung
Chức năng phổi hoạt động không bình thường, cần lưu ý đến hệ hô hấp, hạn chế ăn xoài, khoai môn, hải sản và những thức ăn dễ gây dị ứng.
Liên quan đến chức năng của buồng trứng và cơ quan sinh sản, hạn chế sống phóng túng hoặc kiêng khem quá mức, cần ra ngoài hít thở không khí trong lành nhiều hơn.
Dễ đau thắt ngực, rối loạn nhịp tim, tim đập nhanh, hạn chế vận động mạnh, tránh hút thuốc, đồ ăn cay.
Nóng dạ dày, hệ tiêu hóa hoạt động không bình thường, cần hạn chế ăn đồ lạnh.
Áp lực nhiều, tính tình nóng nảy, dễ tạo nên các vấn đề về tim mạch và hệ tuần hoàn máu, nên ngủ sớm và uống nhiều nước hơn.
Chức năng gan hoạt động không bình thường, cần lưu ý đến những thói quen hàng ngày, duy trì tâm trạng vui vẻ, cần hít thở không khí trong lành, tránh các tụ điểm quá náo nhiệt, ồn ào.
Dễ táo bón, cơ thể bên trong tích tụ nhiều độc tố, nên ăn nhiều hoa quả và rau xanh, cần điều chỉnh lại thói quen ăn uống.
Rối loạn nội tiết tố, cần hạn chế ăn đồ lạnh.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Khánh Linh (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Chỉ có một thiểu số ít hơn là dùng âm lịch thường xuyên để nghiên cứu hay áp dụng vào các bộ môn khoa học huyền bí, như lấy số tử vi hay coi ngày lành tháng tốt cho chuyện làm đám cưới hỏi, khai trương công việc làm ăn v.v.
Hiện nay nghề làm lịch số của Trung Quốc không còn giữ được bí mật theo kiểu cha truyền con nối như xưa, vì nhờ vào phương tiện in ấn dồi dào từ sách vở ghi chép còn sót lại để nghiên cứu. Hơn nữa, Âm lịch cũng không còn thực dụng, vì hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đang chính thức dùng Dương lịch. Dù vậy, hậu quả của việc bảo vệ bí mật trong mấy ngàn năm trướcđây, cũng đã vô tình đánh mất đi cơ hội dành cho những thế hệ về sau này của Trung Quốc, nghiên cứu và tìm ra vận hành của Thái dương hệ, trước Âu châu ít nhất là vài trăm năm!
Nếu tình cờ mỗi năm một lần, chúng ta thấy xuất hiện một từ quen thuộc gọi theo tên âm lịch của năm đó, như năm nay 2002 là Nhâm-Ngọ, 2003 là Quý-Mùi, hay năm tới 2004 Giáp-Thân, thì dám chắc ai cũng đã ít nhất một lần thắc mắc, bằng cách nào và dựa vào đâu, các nhà lịch số Trung hoa phát minh ra những từ ngữ trên? Nói rõ hơn là mười (10) Thiên Can và mười hai (12) Ðịa Chi. Xin nhắc lại ở đây, 10 Can gồm: Giáp, Ất, Bính, Ðinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Bài viết này sẽ dựa trên một vài dữ kiện kiểm chứng được của khoa học, để truy tìm lại phương pháp làm lịch mà các Chiêm tinh gia Trung hoa thời xưa có thể đã xử dụng. Bằng với tinh thần tôn trọng sự thật và học hỏi, người viết xin minh xác là những gì được trìnhbày sau đây có thể chưa được chính xác đúng hoàn tòan như đã xảy ra. Nhưng hy vọng sẽ là những ý tưởng khởi đầu, hay nếu có thể được, coi như là một đề nghị nghiên cứu thêm cho những vị có nhiều năng khiếu tự nhiên giỏi về các bộ môn Tử vi Lý số, để cùng làm sáng tỏ những gì đã bị hiểu nhầm là khoa học huyền bí.
Nội dung chính của bài viết này sẽ trình bày và giải thích tại sao, chỉ bằng mắt thường quan sát với phương tiện ghi chép còn thô sơ, các chiêm tinh gia Trung hoa đã tính được ra Thiên can, Ðịa chi và LụcTuần Hoa Gíap, hay khái niệm về vận hành 60 năm trong âm lịch. Phần cuối của bài viết sẽ giải thích một vài điều thắc mắc về những bí ẩn của khoa Tử vi Ðẩu số.
Nguồn gốc Lịch số
Âm lịch (lunar calendar) hay việc soạn thảo lịch số dựa vào vận hành của mặt trăng không phải bắt đầu từ Trung hoa như nhiều người lầm tưởng. Theo dữ kiện cóđược từ các nhà khảo cổ với bằng chứng rõ rệt, thì nền văn minh Sumerian, phát triển bên cạnh con sông Tigris cách đây hơn 6000 năm (khoảng từ năm 5000-4000 BC, để sau này thành trung tâm của xứ ngàn lẻ một đêm, hay ngày nay còn gọi là Baghdad, thủ đô của Iraq) đã biết làm lịch dựa vào vận hành của mặt trăng. Ðế quốc La mã ngay trong thời trước Julius Cesar ( 40 BC ) cũng dùng loại Âm lịch này. Chọn mặt trăng để làm lịch có thể bởi hai lý do: Dễ nhìn vì ánh trăng ban đêm không nóng gay gắt và khó nhìn như mặt trời ban ngày. Thay đổi hình dạng thường xuyên từ khuyết tới tròn dễ thấy hơn là mặt trời hầu như ít khi thay đổi. Tuy nhiên, còn một lý do khá quan trọng khác ít người nghĩ đến, là do yếu tố thiên nhiên. Xứ Ai cập (Egypt) nằm ngay trên đường Phân cực Hoàng đạo (Tropic of Cancer, khoảng 23°27 từ xích đạo) nên đa số nhiều người đã thấy được hiện tượng mặt trời chiếu thẳng trên đỉnh đầu. Nghĩa là trong khoảng từ 20 tháng 3 đến 20 tháng 9, nếu cắm một cái cọc thật thẳng đứng, sẽ thấy bóng của cây cọc nhập trùng ngay dưới gốc của nó vào lúc 12 giờ trưa, ít nhất là trong vài ngày (Chỉ những nước nằm giữa đường xíchđạo và Bắc bán cầu trong khoảng Vĩ tuyến từ 0 - 23°27 mới thấy được hiện tượng trên. Ngược lại, trong vùng Nam Bán cầu thì khoảng từ 20 tháng 9 đến 20 tháng 3). Nhờ quan sát hiện tượng đó, dân Ai cập cách đây khoảng hơn 4000 năm đã tính ra gần đúng số ngày trong năm (365 thay vì 355 như Âm lịch), và cũng chính là lý do họ chọn làm lịch theo mặt trời, lưu truyền Dương lịch cho đến bây giờ!
Các thủ đô của Trung hoa như Trường An hay Bắc kinh, vì nằm trong vùng ôn đới cách xa trên đường Phân cực (Tropic of Cancer) nên không thấy được hiện tượng nói trên, cũng như khôngcó ấn tượng nhiều về mặt trời, và cũng là lý do dể hiểu tại sao họ đã dùng mặt trăng để làm lịch.
Theo đúng như trong sử Trung hoa ghi lại thì khoa Lịch số đã có từ thời Hoàng Ðế, cách đây hơn 4000 năm, do các chiêm tinh gia soạn ra (nghĩa nguyên thuỷ là nhà thiên văn hay chuyên gia coi sao trên trời, không phải bị biến nghĩa ra thành "thầy bói toán" như về sau này!) chiêm tinh gia biên soạn lịch số để định chuẩn thời gian cho việc hành chánh và cai trị của triều đình Vua quan, nhưng đồng thời cũng giúp rất nhiều cho nghề nông trongviệc tiên đóan thời iết hay thu hoạch mùa màng. Chắc chắn trong giai đoạn đầu khi mới có cho đến khoảng sau thời Hán Cao tổ, âm lịch cũng không tránh khỏi nhiều sai lầm, nhất là rất đơn sơ và chưa có Thiên can hay Ðịa chi như sau này. Bằng chứng là trong thời kỳ phát triển của Chu Dịch (1150 - 500 BC) cũng chưa nghe nói đến. Phải đến thời "Tam Quốc" của Khổng Minh (Gia cát Lượng) vào khoảng 200-300 AD thì mới có văn tự rõ rệt nói về các Thiên Can, đồng thời xuất hiện các khoa lý số như Kỳ Môn Ðộn Giáp, Thái ất Thần toán, hay Lục Nhâm Ðại Ðộn v.v. Hầu hết các sử gia Trung quốc đều công nhận là chỉ vào thời kỳ của Nhà Hán, sau mấy trăm năm chiến tranh liên miên từ thời Ðông chu Liệt quốc, nền văn minh Trung hoa mới thật sự khởi sắc và đi lên trong Thiên niên kỷ đầu tiên (0 -1000 AD).
Theo chínhsử ghi lại, những nghiên cứu và phát minh của Trung hoa thật sự đã bắt đầu từ thời Tần thủy Hoàng, khi vị Hoàng đế tài giỏi nhưng tàn bạo này, có thể động viên hay chiêu dụ được nhiều đạo sĩ (coi như là khoa học gia theo tiêu chuẩn thời đó), trong việc thám hiểm, đi tìm kiếm các kỳ hoa dược thảo để luyện thuốc trường sinh bất tử cho ông. Dưới nhận xét bình thường thì cho rằng đó là việclàm xa xỉ, hoang tưởng và mê muội. Nhưng trong lãnh vực nghiên cứu khoa học ngày nay, Tần Thủy Hoàng rất xứng đáng được coi như đã có công sáng lập một cơ cấu kiểu Hàn lâm Viện khoa học đầu tiên cho nhân lọai! Những chi phí trong việc chiêu đãi hay thưởng công cho các đạo sĩ thời đó, dưới cái nhìn thiếu hiểu biết cho là phung phí, nhưng so với tỷ lệ ngân sách dành riêng cho khảo cứu khoa học ngày nay thì chẳng có nghĩa lý gìcả, dù là của một nước đang phát triển! Chính nhờ làm việc và sống chung tập thể với nhau đó, đã vô tình tạo ra môi trường tốt đẹp cho những sáng kiến mới, thi đua học hỏi, trao đổi kiến thức giữa các đạo sĩ với nhà vua, và có thể đã là cơ sở đóng góp cho nhiều phá minh quan trọng về khoa học và kỹ thuật sau này của Trung quốc. Hoá chất Lưu huỳnh dùng để làm thuốc súng, than đá, thủy ngân, chì, nam châm có từ tính, cách luyện thép, bàn ính (abacus), v.v. có thể đã được bắt đầu nghiên cứu hay tìm ra trong thờ kỳ này. Thí dụ về những huyền thoại phù phép mà Khổng Minh xử dụng, là do những phản ứng đặc biệt từ các hoá chất độc hại như lưu huỳnh, thuỷ ngân hay các loài dược thảo trộn chung với nhau khi bị đốt cháy. Kết qủa là làm cho đối phương bị gây mê, mất trí hay mạng vong trong những vùng gọi là bát qúai trận đồ. Nhưng một trong những thành quả tốt đẹp hơn hết chính là bộ môn xem thiên văn khí tượng bắt đầu xuất hiện được nhiều người biết đến. Nhờ vậy mà khoa lịch số đã được hiệu chỉnh, thay đổi đúng hơn cho tới bây giờ!
Phương pháp soạn Âm lịch
Có thể chia ra làm hai giai đọan phát triển chính cho việc soạn thảo âm lịch.
Giai đoạn I: Kéo dài khoảng gần 2000 năm từ thời Hoàng đế cho đến thời Khổng tử. Trong giai đoạn này chỉ có ngày, tháng và năm. Chưa có chia ra giờ cũng như chưacó thiên can và địa chi. Công việc soạn lịch vào thời sơ khai này rất là dễ hiểu, không có gì phức tạp như nhiều người thường lầm tưởng. Những chiêm tinh gia thời đó chỉ dựa vào khoảng cách giữa hai tuần trăng tròn để tính số ngày cho một tháng. Khoảng cách của một năm thì được định bằng thời điểm vào lúc Trăng tròn nhất, khoảng ngày rằm tháng 8 (sau này thành ra tết Trungthu), và một phần dựa vào thời tiết thay đổi của 4 mùa.
Khó khăn duy nhất lúc ban đầu là cứ cách khoảng chừng hai năm thì tháng có trăng tròn nhất bị kéo dài thêm một tháng. Ðó là những tháng nhuận, và cách giả iquyết thực tế đơn giản lúcbấy giờ là thêm nguyên một tháng vào những năm nhuận. Còn làm sao họ biết được năm nào nhuận là do phỏngchừng và dựa vào kinh nghiệm riêng của những đời trước theo kiểu cha truyền con nối. Chính cách làm theo lối thuận tiện như trên, nên âm lịch thường bị thành kiến cho là thiếu chính xác! Có thể trong thời kỳ này, tháng nhuận chỉ được thêm vào trong tháng trước tháng có trăng tròn nhất là tết Trung thu(?) Chỉ sau này khi bắt đầu ăn mừng ngày tết Nguyên đán và để không bị sai ngày quá xa, nên những nhà soạn lịch phải chia ra cho đều, thêm tháng nhuận vào các tháng khác.
Ngoài ra có vài chi tiết cần được để ý là hệ thống Âm lịch dựa vào thiên can và địa chi chỉ có phân biệt tối đa là 60 năm, nên nếu muốn viết lịchsử, họ thường dùng năm cai trị của Vua hay triều đại làm chuẩn. Thí dụ như trong sách thường viết là năm thứ mấy đời Vua nào đó gặp thiên tai bão lụt v.v. Lâu dần trở thành thói quen dùng luôn cho đến khi bị ảnh hưởng của nền văn minh Tây phương thay đổi.
Về giờ giấc, lịch số ở thời kỳ đầu cũng chưa chia ra 12 giờ như sau này. Ðể định giờ, họ dùng cách nói phỏng phừng theo vị trí của mặt trời, mà mãi cho đến bây giờ, nông dân ít học ở các vùng quê vẫncòn dùng, như khi nói mặt trời vừa lên quá ngọncây (khoảng 8 đến 9 giờ sáng mùa hạ), hay mặt trời đứng bóng giữa trưa khoảng 12 giờ v.v.
Những gì vừa trình bày có thể kiểm chứng bằng bộ sách Chu dịch đã được soạn ra khoảng từ thời nhà Chu (1150 BC) cho đến thời Khổng tử (550 BC). Cụ thể là việc lập quẻ Dịch. Trong bộ Chu Dịch chính bản chỉ ghi cách lập quẻ duy nhất là dùng cỏ Thi, còn gọi là phép bói cỏ Thi, mà không dùng đến giờ nào như Khổng Minh dùng để bấm độn sau này. Các lời bàn của 64 quẻ trong bộ Chu Dịch nguyên thuỷ hoàn toàn không có nói rõ về giờ giấc.
Giai Ðoạn II: Từ thời Khổngtử cho tới nhà Ðường khoảng chừng 1000 năm. Thời kỳ này văn minh Trung Hoa bắt đầu khởi sắc đi lên. Các Ðạo sĩ hay Chiêm tinh gia làm việc có phương pháp và khoa học hơn. Nhờ vậy, họ đã tìm ra hay khám phá được chu kỳ vận chuyển của các hành tinh trong Thái Dương hệ, và từ đó âm lịch mới được thay đổi để thêm vào Thiên can, Ðịa chi, Lục tuần Hoa giáp (hay chu kỳ 60 năm). Trướckhi đi sâu vào chi tiết, và để quý đọc giả dễ theo dõi vấn đề hơn, người viết xin nhắc lại một vài dữ kiện căn bản như sau:
Trong những đêm tốt trời không mây, nếu dùng mắt thường chúng ta có thể đếm được cả vài trăm ngôi sao là chuyện thường. Tuy nhiên, tất cả đều thấy gần như cố định không thay đổi theo năm tháng, vì không phụ thuộc vào một hệ thống vệ tinh như Thái dương hệ, hoặ cgiả có chu kỳ di chuyển quá lớn đến cả ngàn vạn năm. Còn lại, trừ trường hợp đặc biệt như sao chổi (Comet) và sao băng (Asteroid), chúng ta chỉ thấy được những hành tinh thuộc Thái dương hệ dic huyển mà thôi. Trong tám (8) hành tinh chính, trừ mặt trời và mặt trăng, mắt thường của chúng ta chỉ thấy được có năm(5) hành tinh. Ðó là Thủy tinh(Mercury), Kim tinh(Venus), Hỏa tinh(Mars), Mộc tinh(Jupiter), và chót là Thổ tinh(Saturn). Ba(3) hành tinh không thấy được bằng mắt thường là Diêm vương tinh (Uranus), Hải vương tinh (Neptune) và Thiên vương tinh(Pluto). Không biết có phải là trùng hợp ngẫu nhiên của tạo hóa, hay sắp đặt khéo léo của con người, trong 8 quái (Bát quái hay 8 hành?) của Dịch lý, các "Khoa học gia" thời đó chỉ thấy được có 5 quái: Ðịa, Sơn, Thủy, Lôi, và Hỏa, nên phát minh ra Ngũ hành (Ngườ viết đã trình bày trong bài "Những khám phá mới về Dịch lý và Ngũ hành" cách đây hơn hai năm.) .
Ðể tìm hiểu về 5 hành tinh thấy được chuyển động như thế nào, các Chiêm tinh gia thời đó đã dùng một phương pháp đơn giản nhưng rất khoa học, là ghi chép lại vị trí của các hành tinh sau một thời khoảng nhất định. Thời điểm tốt nhất để xem thiên văn là mỗi tháng một lần vào cuối hay đầu tháng, lúc trăng hoàn toàn bị che mất (đêm 29, 30 hay 1). Muốn định rõ vị trí của cácsao, có lẽ họ cũng biết dùng theo phương pháp chấm tọa độ, nhưng kém chính xác rất nhiều. Dùng sao Bắc đẩu làm chuẩn và theo đồ hình Bát quái, họ có thể định phương vị (hay khẩu độ) của một sao, và kế đến là cũng theo lối ước chừng độ cao của mặt trời để định khoảng cách từ đường chân trời. Thí dụ như để định vị ngôi sao ở 220 độ từ hướng Bắc (theo chiều kim đồng hồ) và 25 độ cách chân trời nằm ngang, họ có thể nói là nằm ở giữa cung Khôn (hướng Tây-Nam) cách chân trời khoảng một gang tay chẳng hạn. Về sau để được chính xác hơn, có thể các chiêm tinh gia đã dùng đến các tên của quẻ dịch để phân chia thành 64 cung trên vòng tròn. Ðó chính là lý do tạisao các nhà nghiên cứu về sau cóthể hiểu lầm vì bị nạn "tam sao thất bổn", nên tưởng là môn lịch số có nguồn gốc từ Dịch lý mà ra.
Dù bằng cách nào thì cũng nhờ khái niệm tuần hoàn và chu kỳ âm dương của Dịch lý, chiêm tinh gia thời đó có thể tin chắc là các vì sao đều chuyển động theo một chu kỳ nhất định nào đó. Nếu không thì có lẽ họ không bỏ thì giờ quá lâu cho cả một đời người để tìm ra gần đúng chu kỳ của 5 hành tinh trong Thái dương hệ, trước Âu châu cả hơn ngàn năm!
Kết quả công trình nghiên cứu và ghi chép vị trí sao của các Chiêm tinh gia Trung hoa nói trên cho thấy là cứ mỗi 60 năm thì cả 5 hành tinh đều quay trở về lại gần vị trí cũ! Ðặc biệt hơn hết, là vào khoảng cuối năm Quý Hợi và đầu năm GiápTý thì cả 5 hành tinh đều hội tụ lại, và nằm sát với nhau chung một hướng. Xin nhắc lại đây để tránh hiểu nhầm, nhờ tìnhcờ ngẫu nhiên quan sát thấy hiện tượng 5 sao tụ hội về một chỗ trước khi phân tán ra, nên có thể các nhà lịch số cho rằng đó là khởi điểm đầu tiên cho chu kỳ 60 năm, và họ đặt tên cho năm có hiện tượng đó là GiápTý, đứng đầu trong bảng lục tuần hoa giáp.
Sau đây là bảng tóm lược số vòng chu kỳ quay quanh mặt trời của 5 hành tinh, dựa theo thời gian một (1) năm của trái đất làm chuẩn:
Dựa vào bảng tính toán chu kỳ ở trên cho thấy có một vài chi tiết cần chú ý: Sau khoảng chừng 20 năm thì các sao tụ về tại một vị trí khác, và phải sau gần 60 năm của trái đất, thì cả bốn(4) sao Thủy tinh, Hỏa tinh, Mộc tinh, và Thổ tinh mới quay về gần đúng vị trí đầu tiên hay xê xích một chút. Khoảng cách sai số sau 60 năm là từ 10 đến 30 cung độ (arc), do các số lẻ thứ nhất của số chu kỳ trong 60 năm đều nằm trong giới hạn của 0 - 0.1 hay 0.9 - 1.0 theo vòng tròn (360 độ) của mặt trời. Ðối với người quan sát các hành tinh đứng từ vị trí trên trái đất và ở một gốc độ chéo, thì chắc sẽ nhìn thấy khoảng cách hay độ xê xích nhỏ hơn rất nhiều, hoặc có thể không thấy được độ sai biệt bằng mắt thường! Riêng trường hợp của Kim tinh (Venus) tuy nằm gần như đối diện với vị trí cũ (số lẻ 0.54), nhưng chu kỳ quay chung quanh mặt trời chỉ có chừng hơn 7 tháng, nên chỉ cần thêm khoảng 4 tháng (cũng còn trong 1 năm của trái đất) là quay vòng trở lại để hội tụ cùng các sao.
Như vậy, với một vài bằng chứng ở trên có thể tạm kết luận rằng: Chuyện các chiêm tinh gia Trung hoa cách đây hơn 1000 năm đã tìm ra chu kỳ gần đúng của 5 hành tinh là sự thật hiển nhiên rất dễ hiểu theo khoa học. Hình vẽ thứ hai sau đây cũng để minh chứng cụ thể cho thấy vị trí của 5 hành tinh vào tháng 2 năm 1984 (dương lịch, âm lịch là 30 tháng Chạp năm Quý Hợi, gần tết Nguyên đán) theo cách tính đúng qũy đạo chính xác của khoa học ngày nay.
Tuy nhiên cũng xin lưu ý và nhấn mạnh một lần nữa là do sự trùng hợp ngẫu nhiên đưa đến, không phải cứ 60 năm là các sao phải tụ về ở cùng một phương vị giống như vậy. Lý do là vì các sai số khoảng 0.06 cho Mộc tinh và 0.037 cho Thổ tinh như đã nói, nên phương vị của các sao tụ hội lại cũng thay đổi xê xích mộtchút sau khoảng 60 năm. Muốn các sao tụ hội về cùng phương vị gần giống như cũ phải mất khoảng 1600 năm, hay gần 27 lần của chu kỳ 60 năm! Nhưng dù vậy cũng chỉ gần đúng mà thôi. Nghĩa là trong thực tế không hề có sự trùng nhập lại giống y hệt như cũ được!
(Chú thích: Mercury bị che bởi Venus và Mars nên không thấy trong hình)
Nhân đây cũng nên nhắc đến một sự kiện lịch sử có ảnh hưởng rất nhiều đến vận mệnh của cả nước Việt nam. Do bởi các vua chúa Trung hoa thời bấy giờ vì quá tin vào lập thuyết của các chiêm tinh gia, cho rằng một khi các tinh tú đều chầu về một phương nào thì nơi đó tụ hội được nhiều linh khí, nghĩa là có "Thánh nhân" hay bậc đế vương sinh ra đời! Bởi vậy nên tính ra trong khoảng 400 năm ( 400 - 800 AD) vào thời nhà Ðường, các Sao đều chầu về phương Nam (gần giống như hình vẽ trên), làm cho họ phải lo sợ. Từ nguyên nhân đó, mới có việc sai phái đạo sĩ Cao Biền làm Thái thú để tìm cách trấn yểm phương Nam. Ngoài ra sau này họ cũng thường gởi các "Gián điệp" giả dạng đội lốt tu sĩ hay thầy Ðịa lý và thầy thuốc bắc để dò tìm nhân tài của Việ nam. Một khi phát hiện được nơi nào có "thần đồng" hay thiếu niên giỏi chữ là họ tìm đến để thử tài và tìm hiểu. Nếu đúng thì bằng nhiều cách như dụ dỗ, mua chuộc nếu cha mẹ nghèo, xin cho làm con nuôi để "dạy dỗ và huấn luyện chữ nghĩa v.v. Ðó là lý do tại sao trong những câu chuyện kể về các vị thần đồng Nho học của Việt nam thời xưa, thường nói tới việc có những người "khách lạ" tìm đến để ra câu đối và thử tài thông minh!
Nếu những gì nói trên đúng theo thuyết của các chiêm tinh gia Trung hoa, thì trong số những đứa trẻ sinh năm 1984-85 ở Việt nam sẽ cho ra nhiều thiên tài xuấtchúng ngoại hạng trong tương lai (!?) Ðúng hay sai thì chưa biết, nhưng ứng nghiệm vào các quốc gia thuộc vùng Ðông nam A¨ thịnh vượng giầu có hơn trong vòng 20 năm qua, và dĩ nhiên kết qủa là sẽ cho ra nhiều trẻ em thần đồng nhờ được nuôi dưỡng huấn luyện và giáo dục trong môi trường tốt hơn!
Nói chung với cách tính phỏng chừng và đơn giản dựa vào ba sao là: Hỏa tinh (Mars) có chu kỳ gần 2 năm, Mộc tinh (Jupiter) có chu kỳ khoảng 12 năm, và Thổ tinh có chu kỳ gần 30 năm, các nhà làm Lịch số đã tìm ra mẫu số chung gần đúng là 60 năm để cả ba sao tụ hội lại gần nhau, và có cùng chung một cung, hay cùng phương vị theo bát quái (mỗi cung khoảng 45°.)
Ðiều cần biết thêm ở đây chính là chu kỳ gần 2 năm của sao Hỏa (Mars), nghĩa là cách khoảng một năm thì các chiêm tinh gia thấy sao Hỏa nằm ở vị trí hướng đối ngược lại. Do hiện tượng trên trùng hợp với lý thuyết về Dịch hay luật âm dương, nên có thể các nhà lịch số tin rằng thời gian cũng giống như vậy là cứ một năm Dương một năm Âm thay đổi đều nhau!
Mộc tinh (Jupiter) là sao quan trọng nhất có chu kỳ gần đúng 12 năm. Quan trọng theo các nhà Lịch số thời bấy giờ có thể từ hai lý do. Thứ nhất, đó là sao duy nhất để phân biệt và chuẩn định sự khác biệt của các năm. Thổ tinh (Saturn) vì xa và khó thấy hơn, nhất là chu kỳ đầu tiên quá lâu và có tới gần 30 năm không chính xác bằng Mộc tinh. Riêng Hỏa tinh thì lại càng không chính xác vì chu kỳ quá ngắn chỉ có khoảng gần 2 năm. Thứ hai, dựa vào kinh nghiệm tích lũy từ quan sát và thực nghịêm của các chiêm tinh gia theo lối cha truyền con nối có thể đã kéo dài trong vài trăm năm, sau Mặt trời và Mặt trăng, Mộc tinh có ảnhh ưởng nhiều nhất đối với con người và Trái đất (sẽ giải thích thêm ở mục Tử Vi). Chính vì vậy, họ đã dùng chu kỳ 12 năm của Mộc tinh để đặt tên cho 12 năm, còn gọi là Thập nhị Ðịa chi. Dám chắc mới đầu chỉ có tên bằng con số 1, 2, 3, 4,...12. (Nếu để ý thì thấy các số lẻ 1, 3, 5...thuộc số Dương, số chẳn 2, 4, 6... là số Âm, phù hợp với Dịch lý đã nói ở trên). Còn tại sao sau này lại có tên của 12 con vật là Tý, Sửu, Dần...v.v, thì lại thuộc một vài lý do khác không nằm trong phạm vi bài viết này, nên xin miễn bàn ở đây. Nói chung, yếu tố quan trọng là nhờ vào quan sát thực nghịêm, một phương pháp thông dụng trong nghiên cứu khoa học.
Sau cùng, có lẽ các chiêm tinh gia cũng chỉ thấy có sao Thổ tinh là có chu kỳ lâu nhất trong 5 hành tinh, nên theo trình độ hiểu biết thời bấy giờ, họ cho rằng đó là vị thần chính của nhà Trời ảnh hưởng đến mọi sự sắp đặt và thay đổi của "Thượng đế", nên gọi là Thiên Can (?). Nhưng tại sao là 10 mà không là 5, vì 5 nhân 12 mới bằng 60? Hỏi vậy là xem thường khả năng về Toán của chiêm tinh gia! Nếu chỉ dùng 5 số Thiên can ghép với 12 Ðịa chi sẽ bị trở ngại ngay, nhất là không giải quyết được nguyên tắc Âm Dương, một năm Dương và một năm Âm đi liền với nhau như đã giải thích về chu kỳ của sao Hỏa ở trên. Ðể giải tỏa vấn nạn đó, các chiêm tinh gia buộc phải dùng gấp đôi con số 5 lên thành 10, tuy vẫn duy trì 5 đặc tính Ngũ hành của Thiên can. Bởi vậy cho nên bây giờ chúng ta mới có hai Can đi liền với nhau có cùng chung một Hành (theo thuyết Ngũ hành), và có một Dương và một Âm. Thí dụ như Giáp với Ất (hành Mộc), Bính với Ðinh (Hỏa), Mậu với Kỷ (Thổ), Canh với Tân (Kim) và Nhâm với Quý (Thủy).
Ngoài ra, do ảnh hưởng của thuyết Ngũ hành, việc đặt hay gọi tên 5 hành tinh theo Ngũ hành là hoàn tòan dựa vào màu sắc khi nhìn bằng mắt thường, và không có liên hệ gì với đặc tính vật lý. Theo lý thuyết của Ngũ hành về màu sắc, gọi là Mộc tinh vì có sắc xanh. Hỏa tinh vì có sắc đỏ như lửa. Thổ tinh vì có sắc vàng, Kim tinh (Venus) vì có sắc trắng do có độ sáng mạnh, và Thủy tinh (Mercury) có sắc đen vì quá gần mặt trời nên không thấy được sáng lắm!
Tóm lại hệ thống Âm lịch dựa vào các hành tinh chính sau: Mặt trời để định Giờ và Ngày, Mặt trăng dùng cho Tháng, Mộc tinh (Jupiter) dùng cho Năm hay 12 Ðịa chi, và sau cùng Thổ tinh (Saturn) và Hoả tinh (Mars) dùng để định Thiên can (Âm hoặc Dương) và Ðại Chu kỳ 60 năm hay LụcTuần Hoa Giáp. Ghi nhận thêm ở đây là theo âm lịch, mỗi tháng chia ra làm 3 tuần, có khoảng từ 9 đến 10 ngày, gồm: Thượng, Trung, và Hạ tuần. Về sau này thì các nhà soạn lịch tính và thêm vào các ngày đặc biệt như Ðại hàn, Tiểu hàn, Lập Đông, Hạ chí v.v
Những Bí ẩn của khoa Tử vi
Trong suốt hơn một ngàn năm, bộ môn Tử vi được coi như là khoa học huyền bí bởi tất cả các yếu tố an sao và giải đóan đều dựa theo một vài công thức định trước, mà không có sự giải thích hay chứng minh lý do tại sao. Dù tin hay không tin, thực tế cho thấy khoa tử vi cũng đã được lưu truyền trong dân chúng khá lâu, và ít nhất cũng đã có một số người chấp nhận, nghĩ rằng có thể dùng để đoán được phần nào vận mệnh tương lai của con người! Ðiều đáng ngạc nhiên là nếu đúng theo dữ kiện cho thấy, khoa Tử vi hiện tại này chỉ còn có Việt nam là đất dụng võ, dù có nguồn gốc từ Trung hoa. Ngay cả các sách viết về Tử vi ở TrungHoa cũng có nhiều, nhưng họ không thích xài Tử vi mà lại chọn các môn khác thông dụng hơn như Tử Bình (gọi tắt là Bát tự có 8 chữ, lấy số theo hàng Can và Chi của Năm, Tháng, Ngày và Giờ). Một lý do có thể giải thích là vì sau này họ đã khám phá và thấy được rằng, vận hành của các sao không được chính xác như đã tin tưởng lúc ban đầu!
Những gì được người viết phát hiện và trình bày sau đây cho thấy vài đặc tính khoa học của bộ môn Tử vi. Trần Ðoàn (được coi như ôngTổ sángchế ra Tử vi) hay các vị thầy tiền bối của ông vào khoảng thời nhà Ðường, có thể đã tiến xa hơn và biết khá nhiều về vận hành của các hành tinh. Nhưng tiếc rằng vì các điều kiện thực tế chủ quan về văn hóa xã hội thời bấygiờ, nên họ đã dấu kín và giữ kín bí mật tối đa, nhất là không muốn giải thích hay viết sách để lại lưu truyền cho hậu thế.
Cung An mệnh. Theo quan niệm về triết lý nhân sinh của Khổng giáo chịu ảnh hưởng ít nhiều đạo Lão, mỗi người sinh ra đều có một số phận được an bài trước gọi là thiên mệnh. Các nhà lý số hay tử vi gia Trung hoa dựa vào lý thuyết trên nên tin rằng, khi một đứa bé vừa sinh ra đời là chịu ảnh hưởng định đoạt cho số phận bởi các tinh tú hiện diện trên trời ngay thời điểm đó. Câu văn nổi tiếng thường nghe là "...sinh ra đời dưới một ngô isao..." phản ánh niềm tin trên. Nói cách khác, khi một đứa trẻ sinh ra đời tại một địa điểm nào trên trái đất, sẽ chịu ảnh hưởng của tất cả các tinh tú chiếu vào ngay tại thời điểm đó, và định đoạt số mệnh luôn cả đời cho đứa bé vừa sinh!
Không phải tự nhiên mà các Tử vi gia (TVG) bày đặt ra cách an mệnh trong Tử vi như sau: Khởi từ cung Dần (hay tháng Giêng) đếm theo chiều thuận (kim đồng hồ) đến tháng sinh, rồi từ đó lại đếm ngược cho tới giờ sinh để an cung mệnh. Dựa vào triết lý số phận cùng cách an cung mệnh cho thấy, các TVG thời đó đã khám phá ra được hai đặ ttính vận hành của trái đất và mặt trời, một đúng và một sai!
Thứ nhất, đúng là họ đã biết trái đất tự xoay vòng quanh lấy chính nó theo chiều ngược với kim đồng hồ! Trò chơi lồng đèn xoay (còn gọi là đèn kéo quân hay đèn cù) rất thịnh hành vào thời nhà Ðường, cho thấy các TVG lúc bấy giờ có thể đã có khái niệm về trái đất tròn và xoay. Nhưng như đã viết ở trên, họ đã giữ làm bí mật gia truyền, và nhất là sợ nguy hiểm cho chính bản thân và gia đình do quan niệm "Thiên cơ bất khả lậu" hoặc vì những người cầm quyền như Vua Chúa không tin (giống như trường hợp của Gallileo). Một lý do khác là ngay chính các TVG cũng không hiểu và không giải thích được hiện tượng tại sao con người không bị rơi ra ngoài nếu trái đất xoay tròn! Thêm vào, các hiện tượng thiên nhiên như nhật thực hay nguyệt thực, đã tạo cơ hội để các TVG hiểu ánh sáng từ mặt trăng là do từ ánh sáng mặt trời chiếu vào và thỉnh thoảng lại bị trái đất che (cho trường hợp nguyệt thực). Có thể với cách suy luận tầm thường và đơn giản theo lối chứng minh "phản đề" là: Nếu Trái đất nằm yên không xoay, thì dựa vào quan sát hàng ngày cho thấy mặt trời, mặt trăng, năm (5) hành tinh và đa số các tinh tú thấy được, phải "chạy" xung quanh trái đất mỗi ngày một lần! Ðiều này cho thấy hoàn tòan vô lý vì nhờ các hiện tượng nhật thực và nguyệt thực. Cụ thể như nhờ có hiện tượng nhật thực toàn phần giữa ban ngày, các TVG đã thấy được các ngôi sao và các hành tinh hiện ra, dù trong chốclát. Nghĩa là không phải vào ban ngày, các tinh tú chạy xuống dưới đất rồi đến tối mới hiện lên!
Thứ hai, các TVG đã hiểu sai khi khám phá ra và tin rằng mặt trời quay chung quanh trái đất mỗi năm một lần theo chiều thuận kim đồng hồ! Nhưng thật là may mắn cho khoa Tử vi, cái sai về lý thuyết lại trở thành đúng trên thựctế! Lý do là nhờ luật tương đối về chuyển động. Nghĩa là nếu các TVG đang đứng trên trái đất nhìn mặt trời, trong khi trá iđất di chuyển xung quanh mặt trời theo chiều ngược kim đồng hồ, thì cũng giống như các TVG đứng trên trái đất nằm yên, và nhìn mặt trời di chuyển xung quanh trái đất theo chiều thuận kim đồng hồ!.
Những bằng chứng trên cho thấy khi an cung mệnh, các TVG đã theo gần đúng nguyên tắc vận hành của trái đất và mặt trời, xác định vị trí tương đối lúc đứa bé sinh ra đời trong thái dương hệ. Tuy nhiên, xin được nhấn mạnh và giải thích rõ ở đây thêm một chút để tránh sự hiểu lầm. Ðúng ra, phần nào là do ảnh hưởng thể xác của người mẹ, do tính di truyền hay phù hợp với môi trường vào thời điểm đó, nên "chuyển bụng" mà sinh ra đứa bé, hơn là do cơ thể đứa bé sinh ra chịu ảnh hưởng của các hành tinh!
Vòng Tử vi và Thiên Phủ: Coi như quan trọng nhất cho lá số tử vi nên dựa vào tất cả bốn yếu tố là Năm, Tháng, Ngày và Giờ sinh. Nghĩa là chịu ảnh hưởng của Mặt trời, Mặt trăng và năm hành tinh. Theo nhận xét của người viết thì có thể sau khi định vị trí của đứa rẻ khi mới sinh ra đời dựa vào tháng và giờ, các TVG còn dựa vào hai yếu tố sau cùng là vị trí của các hành tinh hay thiên can, và vị trí của Mặt trăng hay ngày sinh. Nhưng làm sao họ biết sao Tử vi phải được an ở đâu dựa vào ngày sinh (?), và đây vẫn còn là một bí ẩn cần được nghiên cứu thêm. Câu trả lời tạm thời là có thể các TVG đã dựa vào quan sát thực nghiệm hình ạng và khuôn mặt của hàng trăm (hay vài ngàn) đứa trẻ trong một thời gian kéo dài cả mấy trăm năm. KhoaTướng số cũng cóthể nhờ đó mà phát sinh ra. Nên nhớ là ngày nay các nhà coi Tử vi chuyên nghiệp cũng cần phải dựa vào hình dạng hay tướng mạo để "điều chỉnh" và kiểm chứng lại trước khi bàn tới lá số của người nào.
Vòng Thái tuế: Trong số những người Việt nổi tiếng một thời nghiên cứu về khoa Tử vi, có thể TVG Thiên lương (bút hiệu) là người đã khám phá ra những yếu tố quan trọng đặc biệt nhất về vòng an sao Thái tuế. Vòng Thái tuế theo quan niệm của nhóm nghiên cứu TVG Thiên Lương, có ảnh hưởng nhiều đến thái độ sống và cách ứng xử của con người đối với xã hội. Tại sao vòng Thái tuế lại đóng một vai trò chính trong khoa Tử vi? Câu trả lời là vì đã dựa vào sao Mộc tinh (Jupiter). Các chiêm tinh gia từ xưa đã quan sát và biết chu kỳ đặc biệt duy nhất gần 12 năm của Mộc tinh trong Thái dương hệ. Nhưng yếu tố chính quan trọng ở đây là họ đã cảm nhận được ảnh hưởng của Mộc tinh đối với các sinh vật đang sống trên trái đất, nhất là con người theo từng năm (bởi vậy nên SaoThái tuế bao giờ cũng an theo năm sinh, nghĩa là sinh năm nào thì an Thái tuế ở ngay cung đó).
Theo dữ kiện khoa học tìm thấy được, Mộc tinh (Jupiter) hay saoThái tuế có hai đặc tính nổi bật nhất trong Thái dương hệ. Thứ nhất là Hành tinh lớn thứ hai chỉ nhỏ hơn Mặt trời, với đường bán kính trung bình khoảng chừng 70 ngàn cây số (km), gấp 11.2 lần Trái đất. Do đó, lực hấp dẫn (gravity) của Mộc tinh lên Trái đất rất là đáng kể (chỉ sau Mặt trăng quá gần với Trái đất). Thứ hai, và đây mới chính là điều đáng nói, ảnh hưởng từ trường của Mộc tinh mạnh nhiều hơn khoảng 10 lần của Trái đất. Yếu tố sóng từ trường như các phát hiện gần đây cho thấy, ảnh hưởng rất nhiều trên não bộ của con người nhất là cho các trẻ em! Thí dụ cụ thể là cách đây mấy năm, đã xảy ra hiện tượng một số các trẻ em Nhật bị ói mửa và bất tỉnh vì coi một chương trình truyền hình! Hay giới y học càng ngày càng có khuynh hướng tin và công nhận các loại sóng từ trường, từ các dụng cụ điện tử hay các đường dây điện cao thế, có thể gây nguy hại cho não bộ con người nếu hấp thu quá nhiều!
Trở lại chuyện tử vi, theo lý giải của phái TVG Thiên lương nếu người nào an mệnh tại cung có sao Tuế phá, xung chiếu với cung thiên di có sao Thái tuế, thì người đó thường hay bất mãn chống đối, sinh bất phùng thời, v.v. Ðể kiểm chứng hiện tượng trên, người viết chọn một lá số thí dụ để cho cung mệnh có được sao tuế phá: Người tuổi Canh-Thìn (1940), sinh tháng 9, giờ Tý, mệnh an ở cung tuất. Sauđó, dùng cách định vị trí của các hành tinh vào thời điểm nói trên, thì thấy rằng vị trí trên mặt đất vào giờ đó đối diện thẳng với sao Mộctinh, và ở vị trí gần nhất, theo hình vẽ sau:
Dựa vào hình vẽ trên cho thấy người sinh tháng 9 giờ Tý và người sinh tháng ba giờ Ngọ đều an mệnh tại cung Thìn và có cùng sao Tuế phá tại mệnh. Khác biệt duy nhất của hai trường hợp trên là chỉ có người sinh tháng 9 mới chịu ảnh hưởng hoàn toàn của Tuế phá, trong khi người sinh tháng 3 thì ngược lại không ảnh hưởng tí nào vì nhờ mặt trời che hoàn tòan! Một yếu tố có thể là do ảnh hưởng của sóng từ trường quá nhiều từ mộc tinh, nên não bộ của đứa bé lớn lên sẽ có khuynh hướng phát triển nhiều, thuộc loại thông minh hơn người, và thường đưa đến trường hợp chống đối những chuyện chướng tai gai mắt, nên dễ đưa đến bất mãn vì không hùa theo với người được (trường hợp của Cao Bá Quát trong lịch sử). Mặt khác có thể do thiếu giáo dục và hướng dẫn, dễ kết bè đảng với kẻ xấu (Kiếp, Không, Sát Phá Tham hãm địa) thành tay đạo tặc gian hùng v.v. Nên nhớ là những tay đạo tặc gian hùng có tiếng tăm phần đông đều thuộc loại thông minh hơn người rất nhiều !
Hai hành tinh gần mặt trời nhất cũng có thể làm cơ sở để an một số sao trong Tử vi. Kimtinh (Venus) có chu kỳ 0.61 và quay trở lại vị trí cũ (khoảng chừng 5 vòng) cho mỗi 3 năm tròn của trái đất, nên có một số sao trong Tử vi chỉ an theo ba (3) nhóm gồm: Thìn Tuất Sửu Mùi (Tứ mộ), hay Dần Thân Tỵ Hợi và Tý Ngọ Mão Dậu.
Ðặc biệt Thủy tinh (Mercury) quay quanh mặt trời quá mau, cứ mỗi ba tháng làm 1 vòng, trong khi trái đất cứ ba tháng lại di chuyển một phần tư (1/4) vòng chung quanh mặt trời, nên theo vị trí tương đối của người đứng quan sát từ mặt đất sẽ thấy như Thủy tinh chỉ di chuyển trong 4 vị trí chia đều trên vòng tròn (vì tầm nhìn quan sát bị gián đoạn không liên tục, do vị trí của Thủy tinh quá gần mặt trời). Phải chăng vì vậy mà sao Thiên Mã và một số sao khác chỉ an trong 4 cung thuộc trong 3 nhóm trên (?)
Những gì vừa được trình bày cho thấy mặc dù khoa Tử vi đẩu số không được hoàn hảo và còn nhiều nghi vấn theo tiêu chuẩn khoa học hiện đại, nhưng dám chắc rằng đó chính là biểutượng cho tinh hoa của nền văn minh Ðông phương, một thời rạng rỡ đã qua trong thiên niên kỷ đầu tiên của nhân loại, và hy vọng sẽ có ngày trở lại trong vinh quang của thiên niên kỷ thứ ba này.
Nguyễn Cường
Sacto 1/ 2003
Vạn vật trên thế giới, bất kể là hữu hình hay vô hình, có sinh mạng hay không có sinh mạng đều tồn tại trong ngũ hành, có quan hệ chế ước cân bằng lẫn nhau.
![]() |
![]() |
i thì đó là một điều đen đủi. Bát quái chia các phương hướng nói chung thành tám hướng Chấn, Tốn, Khảm, Li, Càn, Đoài, Cấn, Khôn. Trong đó, Chấn, Tốn, Khảm, Li được coi là bổn quẻ Đông; còn lại Càn, Đoài, Cấn, Khôn là bổn quẻ Tây. Quẻ Chấn đại diện cho hướng Đông, quẻ Tốn đại diện cho hướng Đông Nam, quẻ Khảm đại diện cho hướng Bắc, quẻ Li đại diện cho hướng Nam, quẻ Càn đại diện cho hướng Tây Bắc, quẻ Đoài đại diện cho hướng Tây, quẻ Cấn đại diện cho hướng Đông Bắc, quẻ Khôn đại diện cho hướng Tây Nam. Một ngôi nhà (bao gồm cả các công ty hay những toà nhà lớn) nếu nằm ở hướng chính Đông nhìn về hướng chính Tây sẽ có quẻ mệnh là Chấn, nếu nằm ở hướng Đông Nam nhìn về hưống Tây Bắc thì quẻ mệnh là Tốn, nếu nằm ở hướng chính Bắc nhìn về hướng chính Nam thì quẻ mệnh là Khảm, nằm hướng chính Nam nhìn về hướng chính Bắc có quẻ là Li, nằm ở hướng Tây Bắc nhìn về hướng Đông Nam có quẻ mệnh là Càn, nằm hướng chính Tây nhìn về hướng chính Đông thì quẻ mệnh là Đoài, nằm hướng Đông Bắc nhìn về hướng Tây Nam có quẻ mệnh gọi là Cấn, nằm hưống Tây Nam và nhìn về hướng Đông Bắc thì có quẻ mệnh là Khôn.
Trong số các quẻ mệnh trên, ngôi nhà nào có quẻ mệnh là một trong các quẻ Chấn, Tôn, Khảm, Li sẽ thuộc nhóm nhà nằm ở các hướng Đông. Còn ngôi nhà nào có quẻ mệnh là một trong bốn quẻ Càn, Đoài, Cấn, Khôn sẽ thuộc nhóm nhà nằm ỏ các hướng Tây.
Nếu một người tự bỏ vốn để kinh doanh độc lập thì cần phải lấy năm sinh của chính người đó để xem số tướng. Nếu là các công ty chung vốn làm ăn thì nên xem số bằng năm sinh của người đứng đầu công ty (như chủ tịch hội đồng quản trị). Nhưng nếu người chịu trách nhiệm lón nhất của công ty trên thực tế chỉ có vai trò đứng tên chứ không tham gia trực tiếp vào điều hành hoạt động kinh doanh của công ty thì phải xem bằng năm sinh của người chịu trách nhiệm điều hành thực tế lớn nhất (như tổng giám đốc). Để xác định xem quẻ mệnh của một công trình kiến trúc có phù hợp với số mệnh con ngưòi sống và làm việc trong đó hay không, cần lưu ý một số điểm sau:
– Hướng của cổng hoặc cửa chính của công trình kiến trúc gọi là “hướng”, hướng ngược lại của nó gọi là “tọa”. Phong thủy học coi “tọa” là cơ sở. Chẳng hạn một ngôi nhà quẻ Đoài và “tọa Tây hướng Đông” (tức nằm ở hướng Tây nhưng nhìn về hướng Đông) đồng nghĩa với cửa chính của nó nằm ở hưóng Đông nhưng từ trong cửa nhìn ra sẽ là hướng Đông.
– Khi đo đạc để xác định vị trí và phương hướng, phải đặt la bàn (hoặc kim chỉ nam) ở vị trí trung tâm của công trình kiến trúc. Khi kim la bàn dừng hẳn lại, nếu đầu mũi kim chỉ về hướng nào thì đó chính là hướng chính Bắc. Từ hướng chính Bắc, sẽ xác định được góc độ của các hướng còn lại. Trước tiên nên phác thảo một sơ đồ vẽ hình ngôi nhà. Sau khi đã xác định chính xác vị trí cửa chính, phòng bếp, phòng khách theo một tỉ lệ nhất định, hãy sử dụng la bàn để đối chiếu. Thông qua cây kim la bàn, chúng ta có thể xác định được cửa chính thích hợp nằm ở hưóng Đông hay hướng Đông Bắc, hay hướng Bắc của cả ngôi nhà, cũng có thể biết được vị trí chính xác để xây phòng bếp vị trí ngồi của người phụ trách cao nhất của ngôi nhà.
– Sau khi đã xác định được sơ đồ và vị trí thích hợp, có thể kiểm tra đối chiếu với sơ đồ số mệnh của người phụ trách cao nhất để biết được các vị trí ấy có phù hợp với số mệnh của người này hay không.
– Khi thiết kế xây dựng công ty, phải coi việc xác định vị trí của cửa chính, văn phòng hay phòng vệ sinh, phòng bếp và vị trí lắp đặt các thiết bị quan trọng… là công việc trọng tâm. Đối với các văn phòng làm việc thì trọng tâm cần lưu ý là cửa chính, phòng vệ sinh, phòng bếp, phòng tiếp khách hoặc phòng làm việc…
– Trong các công ty hay nhà xưởng, cửa chính và phòng làm việc nhất thiết phải nằm ở hướng cát (hướng may mắn). Trong khi đó, phòng bếp, phòng vệ sinh và khu vực chứa rác nên nằm ở hướng hung (hướng dữ). Còn ở các văn phòng thì cửa chính, phòng tiếp khách vị trí ngồi của người phụ trách và vị trí các chủ quản quan trọng nên được bố trí ở hướng cát, bếp và phòng vệ sinh nên nằm ở hướng hung.
– Nếu cửa chính mở tại hướng Bắc, vị trí ngồi của ngưòi phụ trách ở hướng Nam, phòng tiếp khách nằm ở hướng Đông, phòng bếp hướng Tây Bắc, phòng vệ sinh hướng Tây mà người có quẻ mệnh thuộc một trong bốn quẻ Đông là Chấn, Tốn, Khảm, Li thì sự phối hợp đó sẽ đem lại may mắn. Ngược lại, nêu quẻ mệnh của người đó nắm trong bốn quẻ Tây là Càn, Đoài, Cấn, Khôn thì đó là một điềm dữ.
Mậu Tý nam mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.
Sanh năm: 1948, 2008 và 2068
Cung CÀN. Trực MÃN
Mạng THÍCH LỊCH HỎA (lửa sấm chớp)
Khắc THIÊN THƯỢNG THỦY
Con nhà XÍCH ĐẾ (phú quý)
Xương CON CHUỘT
Tướng tinh CON CHÓ SÓI
Phật Bà Quan Âm độ mạng
Vốn người cốt cách cang cường,
Ấy là Mậu Tý con người đảm đang.
Thuận sanh thì đặng làm quan,
Cha mẹ vui vẻ lập đ àng ăn chay.
Số này phước lớn chẳng vừa,
Nhờ ơn Trời Phật độ trì là may.
Duyên nợ cũng phải đời đời,
Sau này gia đạo mới là bình yên.
Vận xưa lận đận lo phiền,
Đến khi vận giữa tài nguyên tới gần.
Vận sau sẽ thấy tấm thân thanh nhàn.
Tuổi Mậu Tý thuộc mạng Hỏa. Số trường tồn. Cuộc đời tuy không gặp nhiều may mắn lắm. Tuy vậy về mặt xã hội vẫn giữ được một địa vị trung bình. Tuổi này có được một cuộc sống khả dĩ giúp được cho đời sống êm ấm cá nhân, thích những cái mới lạ, bản thể hay chạy theo tư tưởng. Suốt cuộc đời không có những sôi động đặc biệt về danh vọng, tuy có, nhưng vẫn ở trong sự trầm lặng và những sự hoạt động từ từ hơn là những sôi nổi để chiếm đoạt.
Tóm lại: Cuộc sống vẫn ở trong mức độ trung bình không lên cao và không ở trong tình trạng quá thấp kém về tài lộc.
Tuổi Mậu Tý có nhiều lao tâm khổ trí, suốt cuộc đời chỉ ở trong một mức sống trung bình. Hay lo nghĩ không lúc nào được thảnh thơi về tâm trí. Nếu gặp tuổi vợ trùng hợp thì có thể được giàu sang nhưng ít con. Nhưng nếu gặp tuổi không trùng hợp như trên đã chỉ thì nghèo lại đông con. Số hưởng thọ trung bình khoảng độ từ 50 đến 55 là mức tối đa. Số này có phước lộc. Nếu có tu tâm, dưỡng tánh, tạo nhiều phước đức thì hưởng thêm được 5 năm nữa.
Tuy nhiên số mạng của tuổi Mậu Tý có nhiều thay đổi, tùy theo sự quyết định của tình duyên, và sự lựa chọn cho hạp với tuổi tác và cuộc sống thì có thể lên cao và sống sang giàu, và cũng có thể trở lên nghèo khó, nếu không tìm được những tuổi không trùng hạp với mình. Vì lẽ tạo hóa đã sinh ra con người, khi lớn lên phải có lương duyên. Sự lựa chọn tuổi tác rất quan hệ và mật thiết với sự sống hiện tại. Bởi thế, không thể xem từng cá nhân mà nhận xét được cuộc đời, mà luôn luôn phải có sự trùng hợp của hai tuổi. Nghĩa là khi muốn nhận xét cuộc đời cần phải nhận xét cả hai tuổi của người có vợ hay sắp có vợ, mới biết được sự trùng hợp của nó.
Những biến chuyển của cuộc đời và sự giàu sang phú quý! Vì con người luôn luôn thay đổi cuộc sống tùy theo tình trạng và hoàn cảnh hiện tại. Sự lựa chọn tình duyên cũng rất quan hệ với cuộc sống của bạn vậy. Và sau đây là duyên số thay đổi của bạn trong cuộc đời. Nếu bạn sanh vào những tháng này thì cuộc đời của bạn phải hai lần thay đổi lương duyên, đó là những tháng Giêng, Ba, Tư, Sáu, Tám và Mười Hai. Nếu bạn sanh vào những tháng này thì lương duyên bạn trở lên chung thủy và hạnh phúc. Tháng Hai, tháng Chín và tháng Mười. Và nếu bạn sanh vào những tháng này, thì sự thay đổi vợ chồng như thay áo, có thể từ ba lần sắp lên, đó là những tháng Năm, tháng Bảy và tháng Mười Một.
Tuổi Mậu Tý ít khi hưởng được hạnh phúc, có thể có nhiều sự đau khổ về vấn đề tình duyên. Những buồn lo khổ não quá nhiều. Tuy nhiên sau một thời gian dài, sau khi tuổi đầu nhiều sương gió thì mới vững bền được.
Vì là cuốn vận mạng và Tử Vi suốt đời bạn. Sự liên quan mật thiết về vấn đề tình duyên và sự nghiệp, cuộc đời rất quan trọng, nên tác giả phải dành riêng hay sẽ giúp bạn trong những phần sau, lồng trong sự lựa chọn lương duyên, hay là những diễn tiến của cuộc sống. Tuy nhiên về cá nhân thì như sau:
Tuổi Mậu Tý công danh lên bổng xuống trầm, khó thoát qua được những thảm trạng buồn não về công danh. Vì lẽ công danh quyết định cho cả sự nghiệp và đời sống hằng ngày, nên cần phải có sự liên quan với tuổi tác vợ chồng, mới hiểu được một cách rành mạch hơn. Phần trên chỉ là sự sơ lược công danh của bạn và cá nhân của bạn mà thôi. Gia đạo lúc đầu hãy còn nhiều sóng gió, tuổi nhỏ hay có những mặc cảm gia đạo không hoàn toàn êm ấm và kéo dài cho đến 23 tuổi mới có được hạnh phúc hoàn toàn, về phần con cái chỉ vào mức độ trung bình, tùy theo sự lựa chọn lương duyên trùng hạp tuổi, cũng có thể có hào con và hào của một lượt, nếu có tuổi trùng hạp trong vấn đề lương duyên.
Tuổi Mậu Tý tuy không có một sự nghiệp vĩ đại khả dĩ sống trong sự giàu sang phú quý, nhưng vẫn có một cuộc sống khá xứng đáng, mọi nghi thức đưa đến một sự nghiệp, đó là trong những may mắn bất thường chớ không phải tạo bằng nhiều mồ hôi và nước mắt, những may mắn đó thường vào những tuổi 36 và 37, tuổi 37 là tuổi của bước đầu hoàn thành sự nghiệp trong đời bạn, tiền tài cũng lên cao vào những lúc 27, 28 và tiến triển cho đến khi hoàn thành sự nghiệp. Nghĩa là bạn phải kéo dài mười năm tiền tài và xây dựng tiền bạc mới hoàn thành sự nghiệp và sống trong an nhàn của tuổi bạn.
NHỮNG TUỔI HẠP LÀM ĂN
Trước khi muốn làm ăn mà không sợ thất bại, phải căn cứ vào tuổi người mà mình muốn hợp tác và quan trọng hơn hết là tuổi vợ chồng. Vậy khi muốn khuếch trương những dự tính, hay muốn phát triển sự nghiệp công danh, bạn cần lưu những tuổi sau đây:
Trước khi làm ăn hay phát triển những dự tính, bạn cần lựa những tuổi trùng hạp. Nghĩa là: Tuổi Mậu Tý gặp tuổi Nhâm Tý, tuổi Kỷ Sửu hay Quý Tỵ. Những tuổi này giúp bạn thành công hơn là thất bại. Gặp tuổi hạp thường có tiền bạc dồi dào và có khi giúp bạn hoàn thành sự nghiệp mau chóng hơn. Nếu gặp những tuổi khác bạn sẽ không được hoàn toàn thành công và hay mang lấy thất bại, cuộc đời như đi trong đ êm.
Trong cuộc sống, việc lựa chọn lương duyên là vấn đề quan trọng nhất cho cuộc đời bạn, có khi sự lựa chọn đó không trùng hạp với tuổi, có những rối rắm thường xảy ra trong gia đình hạnh phúc, thường hay bê bối và sự làm ăn khắc kỵ không tạo được một hy vọng và triển vọng cho cuộc đời. Bạn muốn có một cuộc sống êm ấm hạnh phúc, tiền bạc dồi dào, sự nghiệp vững vàng, công danh lên cao, một cuộc sống hoàn toàn vinh hiển, không gì bằng tạo được một người vợ hiền đức và trùng hạp với tuổi mình.
Những tuổi mà bạn kết hợp lương duyên hạnh phúc có thể phát đạt, giàu sang, đó là những tuổi sau đây: Kỷ Sửu, Đinh Dậu, Đinh Hợi, Ất Mùi.
Bạn kết hôn với tuổi Kỷ Sửu, sẽ có những trường hợp sau đây:
Kết hôn với người tuổi Mậu Tý và Kỷ Sửu, rất trùng hợp về đuờng công danh, việc gia đạo được êm ấm, người vợ luôn luôn hiền lành và rất trật tự, tiền tài luôn luôn dư dả, cuộc sống hiển vinh, xe hơi nhà tốt, người vợ hay lo tính, hiền từ đạo đức, tuy nhiên người vợ thường có đau bịnh, trùng hạp về tiền tài, nhưng con cái trung bình.
Kết hôn với người tuổi Đinh Dậu: Số phú quý, giàu sang, nhưng lại không con, nếu có cũng rất khó nuôi, có phần nuôi con nuôi. Đời sống rất sung túc. Kết hôn với tuổi Đinh Hợi: Gặp số tốt về công danh sự nghiệp, vợ chồng hòa thuận, con cái trung bình, có đầy đủ phúc đức tạo nên cơ nghiệp. Kết hôn với người Ất Mùi: Bạn được danh phận tuy không giàu sang phú quý, nhưng gia đình êm ấm, vợ chồng thuận hòa. Số vợ giữ được tiền tài nhưng lại có đau bịnh nhỏ. Làm ăn mau phát đạt.
Những tuổi trên, đều có những sự trùng hợp của mỗi tuổi. Tuy nhiên phần chắc đều sống trong sự cao sang, quyền quý, tiền bạc dư dả, cuộc sống an nhàn, phần con cái tùy theo mỗi tuổi mà định được sự ít nhiều của nó. Nhưng kết quả đều được hay đẹp liên quan rất lớn đến cuộc đời.
Nếu bạn kết hôn với những tuổi này thì có một cuộc sống trung bình, đó là những tuổi: Mậu Tý, Nhâm Thìn, Giáp Ngọ, những tuổi tuy có sự hợp nhưng không làm cho đời sống được phát triển mạnh mẽ, có thể có được một sức sống trung bình trong cuộc sống.
Nếu gặp những tuổi này thì bạn và số phận ở trong cuộc sống hẩm hiu, khó thoát được qua những, cơn lo buồn và khổ não, bởi số kiếp ở trong sự bần cùng túng quẫn liên miên, đó là những tuổi: Canh Dần, Bính Thân, Nhâm Dần.
Một việc đại kỵ cho tuổi bạn không nên lựa chon hôn nhân, đó là năm 19, 23, 25, 31 tuổi. Những tuổi nầy rất kỵ hôn nhân. Nếu có xảy ra trong những năm ở vào những tuổi này, bạn sẽ có sự xung khắc, dù gặp người trùng hợp tuổi, bạn cũng gặo cảnh chia ly, buồn bực và nhiều lo lắng, nên tránh đi những năm mà bạn gặp ở vào những tuổi này.
Tuổi Mậu Tý, Nam mạng sanh vào những tháng này sẽ có nhiều vợ. Sự thay đổi vợ thường xuyên hay gặp được cảnh buồn não, khổ tâm về đ àn bà. Ít khi lương duyên được ở suốt đời, đó là những bạn sanh vào những tháng 1, 7, 2, 6 và 9 Âm lịch. Những tháng này, người con trai sẽ có nhiều vợ và hay đau khổ về đ àn bà.
N ếu bạn cần đến sự sống làm nên sự nghiệp, và một cuộc sống lâu bền, thì nên tránh đi những tuổi này: Tân Mão và Quý Mão. Gặp hai tuổi trên, bạn bị rất khắc kỵ, chẳng những không tạo được cuộc đời mà còn gây ra bao điều khó nhọc, chết chóc bất ngờ.
Nhắc lại tuổi Mậu Tý chỉ đại kỵ có hai tuổi Tân Mão và Quý Mão, việc lương duyên nếu gặp sẽ không được lâu bền, và sẽ có một người chết trong hai. Nếu lỡ yêu thương nhau nên làm như nầy: Người con gái tự nhiên đến ở nhà người trai. Không nên có những sự cưới hỏi, tiệc tùng ra mắt bà con. Đại kỵ nhất là mâm trầu. Nếu có sự cưới hỏi, tiệc tùng hay ra mắt gặp giờ khắc, tháng khắc, một trong hai người sẽ chết bất đắc kỳ tử, trong khoảng thời gian một năm sau đó.
Tuổi Mậu Tý thuộc mạng Hỏa, tánh tình nóng nảy, hay sanh ra nhiều thất bại trong việc giao dịch, giao thương hay tất cả những công chuyện làm ăn khác. Những năm mà tuổi Mậu Tý gặp rất nhiều khó khăn cho bản thể cũng như về cuộc đời là những năm 20 tuổi, 23, 27 và 33 tuổi. Muốn vượt được qua những khó khăn đó, bạn cần nhờ những tuổi Kỷ Sửu, Đinh Dậu, Đinh Hợi, Ất Mùi, thì có thể nhờ sự trùng hợp mà thoát khỏi được. Nhưng nếu có trường hợp ở vào những tuổi không phải như trên, bạn sẽ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống cũng như về bản thân vào những năm đã kể trên.
Bất kỳ ngày nào trong cuộc đời, tuổi Mậu Tý cũng có thể xuất hành hay đi làm ăn rất hạp nhứt và ít khi mang đến thất bại, đó là sự xuất hành đúng theo ngày chẵn, giờ chẵn và tháng chẵn, ngày, giờ rất trùng hợp với tuổi của mình và sẽ mang lấy nhiều kết quả. Nếu sự ra đi, xuất hành, gặp ngày lẻ tháng chẵn, hay giờ lẻ, ngày chẵn thì ít khi được việc, và có thể gặp ngày đại kỵ trong những ngày giờ trên.
Từ 19 đến 21 tuổi: Năm có nhiều sóng gió trong cuộc đời, suốt năm không bao giờ có thể yên lặng trong tâm trí. Con người và sự sống có thể mang lấy nhiều thương đau hơn, chưa có một đức tin hay một sự sống khá vững chắc. Tháng 7 và 8 trong năm Bính Ngọ nên đề phòng tai nạn. Nhưng đến năm Đinh Mùi, sẽ gặp nhiều may mắn hơn đôi chút. Hai năm liền trong một hoàn cảnh sống hoàn toàn sôi động và khác biệt. Sự làm ăn và sự nghiệp lẫn cả công danh bấp bênh! chưa có sự vững chắc lắm.
Từ 22 đến 25 tuổi: Ba năm này bạn sẽ có thành công đôi chút về công danh, có thể có được tiếng tăm và phát hiện một sự làm ăn rõ rệt. Tất cả mọi công việc đều có thể hoàn thành hơi sớm, sau sẽ có đổ vỡ. Nhưng gặp những năm số mạng lên cao nên sự làm ăn và việc dự tính được thực hiện một cách mỹ mãn hơn. Năm 24 tuổi có thay đổi lương duyên, hay thay đổi chuyện làm. Để tiến vượt bực lên con đường sự nghiệp, cẩn thận về việc giao dịch hay sự xã giao với phái nữ. Không nên quá thân mật với giới này, sự nghiệp sẽ bị đổ vỡ.
Từ 26 đến 30 tuổi: Tuổi 26 chưa có gì sôi động, chỉ có làm ra được nhiều tiền bạc, nhưng không vững bền, làm nhiều, tiền bạc nhiều, nhưng tiêu hao không mấy chốc. Tình trạng đó kéo dài cho đến tuổi 29. Tiền bạc, sự nghiệp và công danh mới phát triển mạnh, cho đến qua 30 tuổi, lại có những sự sụp đổ nhỏ nhặt. Tuy vậy cũng có thể phát hiện sự việc và bắt đầu một cuộc làm ăn và óc xây dựng sự nghiệp trở nên mạnh mẽ và bền vững hơn, thời gian này kéo dài cho đến 5 năm sau.
Từ 31 đến 37 tuổi: Cuộc sống có thể dễ chịu hơn vào khoảng tuổi 33 và 34, tuy vào tuổi 33 có nhiều thay đổi và bị hạn nặng, nhưng sau khi vượt qua sự khó khăn đó thì bắt đầu tiến triển lên đến mức độ tột cùng của cuộc sống, tuổi Mậu Tý cuộc sống chỉ ở mức độ trung bình, hoàn thành sự nghiệp, tạo được cuộc sống an nhàn trong những năm nầy.
Từ 38 đến 45 tuổi: Cuộc sống trở lên trầm lặng và khác biệt. Sự nghiệp cũng đến mức bình thường sau khi bôn ba và lo lắng hoàn thành và thành công mỹ mãn. Những năm nầy sự làm ăn và gia đạo chỉ trong mức sống êm ấm và thường nhựt vào khoảng năm 40 tuổi, có một lần đau nặng hay suýt bị nạn. Khó mà chữa trị và nếu mà thoát qua được thì hưởng nhiều hạnh phúc và con người trở lên trầm lặng lạ thường cho đến hết năm 45 tuổi mới có thể phát triển thêm sự nghiệp và tiền tài được.
Từ 46 đến 50 tuổi: Những việc làm ăn nên phát triển mạnh mẽ vào những năm nầy, những năm có đầy đủ về sự vượng phát, về mọi khía cạnh, tình cảm, tài lộc, con cái và cả sự phát triển nghề nghiệp. Gia đình hoàn toàn yên vui, tiền bạc dồi dào, phát triển mạnh mẽ về sự nghiệp làm ăn.
Từ 50 đến 55 tuổi: Những năm nầy lại càng sôi động hơn, cần phải đề phòng đau bịnh hay những tai nạn có thể xảy ra cho cuộc đời bạn bất thình lình, kiên nhẫn và chịu đựng cầu mong ở Trời Phật thoát khỏi tai nạn. Đừng hy vọng quá nhiều về cạnh tranh sự nghiệp, lo an phận là tốt hơn cả. Trong thời gian này cần giữ phúc đức nhiều hơn là lo tiền bạc.
Xem thêm:
Vận trình tử vi trọn đời 12 con giáp chi tiết
Xem bói tử vi tuổi Tý
Xem tử vi năm mới
![]() |
Bát quái được ví như trái tim của phong thủy. Đó là dạng bát giác được chia ra làm 8 phần, lần lượt tượng trưng cho Phú Quý, Danh Vọng, Hôn Nhân, Con Cái, Quý Nhân, Sự Nghiệp, Học Vấn và Gia Đình.
Thực tế, mỗi nhà phong thủy sử dụng Bát quái theo cách khác nhau. Tuy nhiên, vẫn có điểm cơ bản nhất định. Trong đó, vị trí của cửa chính là quan trọng nhất. Hãy hình dung bạn đang nhìn vào phòng khách và lưng bạn hướng về phía cửa. Tùy thuộc vào vị trí của cửa chính mà bạn sẽ định ra vị trí tương ứng với phần nào trên Bát quái.
Bạn có thể dễ dàng vẽ 1 hình Bát quái cho bất kỳ hình dạng nào của mặt bằng ngôi nhà. Căn cứ vào đó, chủ nhà sẽ xác định vị trí của phòng khách tương ứng với cung nào thì năng lượng của cung đó sẽ ảnh hưởng đến nó.
• Phòng khách nằm ở cung Hôn Nhân, Gia Đình hoặc Quý Nhân sẽ dự báo trước không khí ấm áp và thân thiện.
• Phòng khách nằm ở cung Học Vấn sẽ là nơi học tập lý tưởng, con cái làm rạng danh tiên tổ, vinh hiển phụ mẫu.
• Ở cung Con Cái, phòng khách sẽ luôn đầy ắp tiếng cười trẻ thơ.
• Ở cung Sự Nghiệp, nhiều khả năng, gia chủ sẽ phải thường xuyên mang công việc về nhà.
• Ở cung Danh Vọng, phòng khách sẽ trở thành nơi trưng bày vật quý. Tuy nhiên, chủ nhân nên cân nhắc từng món đồ trước khi bài trí để tránh rắc rối không đáng có.
• Phòng khách nằm ở cung Phú Quý là tốt nhất. Nhưng gia chủ phải luôn giữ phòng sạch sẽ, ngăn nắp.
Tiếp đến, bạn sẽ sử dụng Bát quái vào chính phòng khách của mình. Một lần nữa, lưng bạn lại hướng về phía cửa và lại đặt Bát quái như vị trí ban đầu. Có nghĩa là cung Phú Quý ở góc trái trên, Hôn Nhân ở góc phải trên và tương tự cho những cung khác. Hãy sử dụng Bát quái để quyết định cách sắp xếp đồ đạc trong phòng.
• Nếu thường xuyên làm việc tại phòng khách thì nên đặt bàn làm việc ở vị trí ứng với cung Sự nghiệp để tạo thuận lợi cho công việc và thăng tiến sự nghiệp.
• Điện thoại có thể đặt ở cung Quý Nhân. Bằng cách này, gia chủ sẽ bớt đi những phiền phức, mệt mỏi.
• Cung Học vấn rất thích hợp đặt kệ sách hoặc bàn học cho trẻ.
• Bộ ghế đôi đặt ở cung Hôn Nhân sẽ giúp tình cảm vợ chồng thêm mặn nồng, sâu sắc.
• Bộ sofa đặt ở cung Gia Đình sẽ tạo nên không khí ấm cúng cho những buổi sinh hoạt chung.
Phải nhớ rằng, ở bất kỳ vị trí nào trong phòng cũng cần ngăn nắp, sạch sẽ. Nếu có chút bề bộn sẽ phản tác dụng.
Muốn tăng hiệu quả cho cung nào đó thì nên đặt vật mang tính biểu tượng vào vị trí đó. Chẳng hạn như ngọn đèn hoặc chậu cá. Đặc biệt nước và cá là những biểu tượng mang lại sự thịnh vượng trong phong thủy.
Sự kết hợp tốt nhất là 2 chú cá vàng (tượng trưng cho sự may mắn và giàu năng lượng) và 1 chú cá đen (tượng trưng cho sự an lành).
Nếu bạn không thích nuôi cá, có thể dùng thác nước nhân tạo hoặc chậu nước với hoa hoặc sỏi.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Trúc Loan (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Chùa Thánh Chúa nằm trong khuôn viên trường ĐH Quốc gia Hà Nội và trường ĐH Sư phạm I Hà Nội (quận Cầu Giấy, Hà Nội). Từ cổng số 1 hoặc cổng số 2 trường Đại học Sư phạm Hà Nội tại địa chỉ 136 đường Xuân Thuỷ, phường Dịch Vọng Hậu, quận Cầu Giấy, đi một quãng, đến gần sân vận động của trường, sẽ thấy cổng chùa Thánh Chúa với tấm biển lớn bằng đá hoa cương: Bộ Văn hoá – Chùa Thánh Chúa – Di tích lịch sử văn hoá đã xếp hạng. Ngôi chùa này được Bộ Văn hoá và Thông tin công nhận di tích lịch sử – văn hoá cấp quốc gia vào ngày 21-1-1989.
Nơi đây còn lưu câu ca dao:
Ngàn năm nay có mấy chùa/ Có chùa Thánh Chúa hai vua tôn thờ
Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì chùa đã có từ trước năm 1064, đã là nơi lui tới của hai vua triều Lý và triều Lê. Chùa được xây dựng thời Lý, trước năm 1064, tại làng Vòng, một làng cổ, nơi sản sinh ra cốm Vòng nổi tiếng. Sau chùa trở thành di tích chung của hai phường Dịch Vọng và Mai Dịch, quận Cầu Giấy.
Tương truyền, lúc bấy giờ vua xuân thu đã nhiều, tuổi 40 mà chưa có con trai nối dõi, sai tri hậu nội thần Nguyễn Bông làm lễ cầu tự ở chùa Thánh Chúa, sau đó Ỷ Lan phu nhân có mang sinh hoàng tử Càn Đức – tức Nhân Tông”. Theo sử sách ghi lại, gần 400 năm sau, chùa lại là nơi ẩn tích của bà Ngô Thị Ngọc Giao cùng con là thái tử Lê Tư Thành, bởi loạn Nghi Dân. Sau loạn, thái tử được hai vị tôi trung thành của triều đình là Đinh Liệt và Nguyễn Xí rước về lên ngôi hiệu là Lê Thánh Tông. Sau vua nhớ ơn đã phong tặng cho sư sãi và trùng tu lại chùa.
Ngày nay chùa có cảnh quang khang trang, thanh tịnh. Tam quan xây hai tầng, tầng trên có 3 cửa tò vò treo chuông, khánh. Chùa xây hình chữ Đinh, tiền đường 7 gian, đầu hồi bít đốc, bộ vì nóc kiểu “chồng giường giá chiêng“. Trên kiến trúc trang trí các hình rồng, phượng, hổ phù.
Chùa thờ Phật với hệ thống tượng khá phong phú (77 pho) gồm cả tượng gỗ và tượng đất nung, trong đó có nhiều pho tượng mang phong cách thế kỉ thứ 17. Các hiện vật gỗ sơn son thiếp vàng, chạm trổ tinh tế. Điện Mẫu còn có một số pho tượng mang phong cách nghệ thuật thế kỳ 19 có giá trị cao. Trong chùa còn có đồ thờ tự như hoành phi, câu đối, bia đá, chuông đồng phản ánh phong cách nghệ thuật của các thế kỹ 17 – 20.
Trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm sau này, chùa Thánh Chúa còn là nơi tập kết của nghĩa quân, là nơi đề ra kế hoạch phục giết tên quan năm Pháp ngày 19 tháng 5 năm 1883. Đây cũng là nơi tập kết của du kích hồi kháng chiến 9 năm, là trạm giao liên, là trụ sở của Quận uỷ Trấn Tây, địa điểm liên lạc giữa Quận uỷ và Thành uỷ Hà Nội, giữa vùng tạm chiến và vùng tự do.
Hằng năm, chùa Thánh Chúa tụ hội vào ngày 25 tháng giêng âm lịch. Đó là dịp nhiều hoạt động văn hoá cổ truyền được triển khai đồng loạt: hát chèo đò Đưa thuyền về Tây Trúc, hát chèo tích Phật, múa hoa sen, múa chim phượng, cùng cả loạt trò chơi dân gian mang tính thể thao như bắt chạch trong chum, bịt mắt đập niêu, thi đấu cờ bỏi, v.v.
Chùa Thánh Chúa và hội chùa là một nét đẹp của di sản văn hoá, một dấu tích của Thủ đô ngàn năm văn hiến.
Bếp là nơi lưu trữ rất nhiều món đồ lặt vặt – từ đồ ăn đến đồ dùng. Và đôi khi những món đồ lặt vặt ấy lại trở thành "kẻ xâm lăng" trong gia đình, khiến chúng ta mệt mỏi với những ngăn tủ lộn xộn và chật cứng, rất khó tìm kiếm và sử dụng. Trong bài viết này, mình xin chia sẻ một số giải pháp và kinh nghiệm riêng trong việc tổ chức những ngăn đựng đồ lặt vặt, làm gọn đẹp tủ bếp và thuận tiện khi sử dụng.
1. Kiểm kê và phân loại
Hãy định kỳ kiểm tra các loại đồ dùng và thực phẩm của bạn. Loại bỏ bớt một số món đã không còn phù hợp hoặc hết hạn sử dụng. Với những món còn dùng được, hãy phân chia nhóm sản phẩm để sắp xếp có hệ thống và tập trung.
2. Phân khu chức năng phù hợp
Sau khi đã phân loại, hãy đưa các nhóm đồ dùng vào các ngăn chức năng phù hợp, ví dụ: thực phẩm khô, đồ ăn vặt, đồ làm bếp, chén bát, thiết bị nhỏ, đồ làm vệ sinh và chất tẩy rửa… Cần đề cao tính thuận tiện khi sắp xếp. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm không gian cũng như thói quen sinh hoạt của từng nhà, tuy nhiên có một nguyên tắc chung là những món thường xuyên sử dụng được tập trung một chỗ, để gần tầm với; những thứ ít sử dụng có thể để xa hơn.
3. Sử dụng các hộp đựng
Thường thì rất nhiều món lặt vặt mà chúng ta mua về không có hộp đựng: đường, muối, hạt nêm, đậu, mè, bánh kẹo, các thể loại gia vị… Nếu cứ để bao bì thì sẽ rất lộn xộn và khó sử dụng, nên tốt hơn hết là cho vào các loại hộp đựng. Gia vị có chai lọ riêng, phù hợp với chế độ bảo quản cũng như tần suất và cách thức sử dụng của từng loại. Ngũ cốc, bánh kẹo, đồ khô… cũng có thể cho vào hộp với kích thước phù hợp và tương đối đồng nhất để dễ sắp xếp, ưu tiên các loại hộp đựng có nắp đậy kín để tránh kiến, tránh ẩm và có màu trong suốt hoặc trắng mờ để dễ nhìn thấy bên trong. Nhớ là khi loại bỏ các bao bì, hãy ghi lại hạn sử dụng của từng món trên những mẩu sticker nhỏ và dán dưới đáy hộp. Nên dùng loại sticker chuyên dùng cho văn phòng, dính tốt nhưng rất dễ lột ra chứ không bám chết như các loại keo dán mua ở siêu thị.
4. Dùng các đồ vật giúp tiết kiệm không gian
Những ngăn tủ đóng sẵn với kích thước như nhau có thể hạn chế phương án sắp xếp của chúng ta, do đó hãy sử dụng những đồ dùng giúp tiết kiệm diện tích, tổ chức khu vực nhỏ và tận dụng chiều cao không gian như giá phân tầng, thanh chia ngăn kéo, hộp đựng chia ngăn, các kệ xếp chồng lên nhau, khuôn xếp chén dĩa thành chồng cao mà không bị đổ, khuôn đựng đồ hộp, các đồ đựng chuyên biệt để tiết kiệm không gian tủ lạnh… Trong trường hợp dùng kệ phân tầng, nên sắp xếp hợp lý để dễ lấy. Những đồ ở phía dưới không quá cao và ở phía trên không quá nặng, nếu cần rổ nên dùng loại có tay kéo để rút ra dễ dàng.
5. Sử dụng những đồ dùng xếp gọn
Đồ đạc của chúng ta không phải lúc nào cũng giữ số lượng cố định mà khi nhiều khi ít, cũng có khi loại bớt kha khá đồ thừa, cũ sau khi kiểm kê nên các loại đồ đạc dùng để chứa nó vô tình lại trở thành vật thừa chiếm diện tích. Tất nhiên, bạn không thể vứt đi khi nó còn tốt và có thể sử dụng cho những lần sau. Một giải pháp là hãy sử dụng những đồ dùng xếp gọn. Rất nhiều thứ ở nhà mình như hộp đựng đồ, kệ phân tầng, bàn ghế nhỏ... đều có thể xếp gọn khi không cần sử dụng để dễ lưu trữ.
6. Chuẩn bị những bộ đồ ăn đẹp
Bữa ăn gia đình nên là thời gian để thưởng thức, chứ không phải "cố nuốt cho trôi" – nhất là vào những khi rảnh rỗi, dịp cuối tuần hay ngày kỉ niệm. Chất lượng cuộc sống ngày càng cao khiến chúng ta không chỉ cần ăn ngon mà còn muốn tận hưởng trong một không gian đẹp. Một chút trang trí hoa lá thiên nhiên ở góc bếp hay bên bàn ăn sẽ gúp khung cảnh lãng mạn hơn. Chén bát, thìa nĩa là những thứ bình thường phục vụ nhu cầu ăn uống cơ bản, nếu biết chọn lọc thì bữa ăn càng thêm thú vị và tiện lợi.
Căn bếp gọn đẹp không nhất thiết phải là một căn bếp hiện đại và cầu kì (tất nhiên nếu có điều kiện thì chẳng tội gì lại không đầu tư một cái bếp thật ưng ý). Cái đẹp có thể nằm trong sự đơn giản, không quá tốn kém mà vẫn thể hiện sự tinh tế và khoa học. Ra đường, chúng ta đã phải đối mặt với sự ô nhiễm quá nhiều từ khói bụi, kẹt xe, khí thải, môi trường độc hại… nên đừng để bản thân phải chịu thêm sự "ô nhiễm tầm nhìn" khi trở về mái nhà yêu dấu, mà ở đó bếp là nơi thắp lửa hồng cho tổ ấm.
![]() |
► Mời bạn đọc: Những câu nói hay về tình yêu và suy ngẫm |
Chuột là con vật đứng đầu trong 12 con giáp, nổi bật với tính cách thông minh, nhanh nhẹn và thân thiện, tuy nhiên vận số của người tuổi Tý theo giờ sinh sẽ khác nhau. Hãy cùng Lịch ngày Tốt tìm hiểu nhé!
Sinh giờ Tý (23h-1h)
Người tuổi Tý sinh giờ Tý có sự nghiệp thuận buồm xuôi gió; nếu kết hôn muộn chuyện con cái không được thuận lợi như ý.
![]() |
Thường là người tài cao, có số đi xa, đào hoa, ít bạn. Số hợp với nữ giới, không hợp nam giới. Trong cuộc sống hay gặp phải những điều không may mắn như bị kiện tụng, tranh chấp…
Sự nghiệp thành công, nhà cao cửa rộng, gặp hung thường được hóa giải. Số hợp với nam, không hợp nữ. Nếu là con trai thì phá của, hay mắc phải chuyện thị phi.
Là người táo bạo, dũng cảm, gan dạ. Tuy sự nghiệp không phát triển cao nhưng vẫn được người khác nể trọng, khâm phục.
Theo luận giải tử vi trọn đời 12 con giáp, người tuổi Tý sinh giờ Thìn là người thiếu kiên định, sống xa quê hương. Tuy nhiên, cuộc sống khá thuận lợi, được hưởng phúc trọn vẹn.
Họ ít may mắn trong cuộc sống, là người nghĩ một đằng làm một nẻo, số phải đi nhiều. Nên đề phòng thất bại trong cuộc sống và đường công danh.
Số nhàn nhã, gia đình phong lưu, tài vận tốt. Tuy nhiên, hay gặp vạ miệng và tiếng oan.
Là người thông minh, nhanh nhẹn, hoạt bát. Cuộc sống gia đình bình thường, sự nghiệp lúc thành, lúc bại.
Số thuận buồm xuôi gió, tuy có lúc bị tổn hại tài sản nhưng vẫn giữ được thanh danh đến cuối đời.
Số được hưởng phúc, con cái đông vui, cuộc sống ấm êm. Tuy nhiên, cần đề phòng tai nạn sông nước.
Là người ít gặp may mắn trong cuộc sống; nên nhẫn nhịn trong giao tiếp và biết chờ thời cơ tiến lên.
Là người có quyền chức nhưng lại gặp nhiều bất lợi trong quan hệ với mọi người. Nên giữ gìn thân thể, đề phòng tai nạn và ngộ độc.
Các bài viết sau cùng chủ đề, có thể bạn quan tâm:
(Theo Nhân duyên & tướng cách đàn bà)
Nghề buôn bán bất kỳ thời nào cũng không thể loại bỏ yếu tố may rũi trong công việc làm ăn. May rủi là một thực thế ở ngoài khả năng kiểm soát của con người nên người ta đành trông cậy vào những sức mạnh siêu tự nhiên,và trong tập quán khai trương không tránh khỏi những điều mê tín. Có một số nghi thức vô hại, có một số có tác dụng tích cực đối với việc buôn bán, đương nhiên cũng có vài điều bất lợi . người buôn bán mỗi đầu ngày đều có “mở hàng”, mỗi đầu năm lại “khai trương”, tùy theo tầm cỡ và tính chất việc làm ăn mà thực hiện những nghi thức khác nhau.
Một người buôn bán nhỏ ở chợ thì đầu ngày phải dọn hàng sớm, bày biện hàng hóa sao cho hấp dẫn khác, chuẩn bị cho mình một tâm lý phấn khởi chờ đón người “mở hàng” cho mình. Để cho sự “mở hàng” tốt đẹp, người bán phải chuẩn bị hàng hóa bao bì để làm vừa lòng khách hàng đã đành, lại còn phải chuẩn bị “tiền lẻ” để thối lại trong trường hợp cần thiết. Khách hàng đưa tiền mà mình bối rối vì không có tiền thối lại, khiến việc mua bán trục trặc là điều kiêng kỵ. Kỵ nhất là đầu ngày đầu năm mà đi “đổi tiền”. vỉ không ai muốn cái may (hoặc rủi) của mình chạy qua người khác hay ngược lại. Khách mở hàng đưa tiền lớn, người bán có sẵn tiền thối lại, tiền bạc sòng phẳng, coi như một mở hàng tốt đẹp, vì có “đồng ra đồng vào”.
Việc “thuận mua vừa bán” cũng là một mở hàng tốt đẹp; người bán thường không nói thách quá cao với người khách đầu tiên, e họ trả giá sát quá hay không chịu mua, mở hàng mà không bán được là xui xẻo. Người buôn bán dở cho rằng phải “chửi” người khách mở hàng mà không mua, hay đối phong long để xả xui. “vía” người mở hàng cũng quan trọng, những người “nặng bóng vía” mặt mũi lầm lì, tướng tá lù đù không nên “mở hàng” người ta. Người buôn bán có kinh nghiệm thường ghi nhận một số khách quen có “vía tốt”, mời mọc hya nhờ họ “mở hàng” để lấy hên.
Việc buôn bán là để kiếm tiền, nên nhiều người buôn bán thờ cúng Thần Tài, người bán hàng rong hay bán lẻ ở chợ thì thờ Tần Tài ở nhà, trước khi đi bán thì thắp một cây nhang để khấn vái Thần Tài phù hộ buôn may bán đắt. Ngày đầu năm đầu tháng hay rằm thì cúng hoa quả. Thường thì Thần Tài được thờ ở ngay cửa hàng, trước khi mở hàng chủ cũng thắp một nén nhang. Do yêu cầu phòng cháy, nhiều chợ đông qui định cấm đốt nhang hay giấy vàng bạc trong chợ, nên nhiều người chỉ khấn suông Thần Tài. Với luật lệ con người Thần Thánh cũng chước cho.
Tất cả những nghi thức “mở hàng” đầu ngày đó được “nâng cao” vào ngày “khai trương” đầu năm. Như cúng Thần Tài trang trọng hơn, có gà thịt tôm cua ngoài hoa quả. Trước khi khai trương phải chọn ngày giờ tốt, có người đi chùa rước lộc về gởi Thần Tài giữ, nhờ người có “vía tốt” mở hàng. Ngày tốt thường là ngày chẳn như mùng 2, mùng 4, mùng 6. Có khi ngày tốt nhằm vào mùng hai Tết, người ta vẫn cúng mở hàng, mua bán tượng trưng, rôì đóng cửa hàng đi chơi tiếp. Với những người buôn bán hàng ăn uống và làm dịch vụ giải trí ngày Tết thì không thể đợi đến ngày tốt mà bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Lúc đó phải coi giờ, vì trong ngày xấu vẫn có giờ tốt. Đại khái thần thánh cũng chước cho qui luật thị trường.
Những người kinh doanh lớn thì có nghi thức khai trương xôm tụ hơn, rước lân rồng đến cùng Thần Tài. Bài múa lân khai trương khác với múa lân chúc Tết. Rồng bạc và rồng vàng được ưa chuộng vì tượng trưng cho vàng bạc tới nhà. Sau phần múa lân rồng, thường có biểu diễn võ thuật và khí công. Người ta tin là điều đó đem lại “khí lực” cho công việc làm ăn phát đạt. điều đó cũng thu hút dân chúng tụ tập xem và cổ vũ, taọ không khí “tấp nập” cần thiết cho việc kinh doanh.
Khai trương mở hàng không chỉ là hoạt động thương mại mà còn là một khía cạnh văn hóa. Ngày xưa việc khai trương là nghi thức trọng đại được tiến hành nghiêm túc chặt chẽ, có nhiều điều kiêng kỵ. Ngày nay rất nhiều kiêng kỵ đã bãi bỏ vì không phù hợp nếp sống mới, và vì người buôn bán có tri thức hơn về quản l kinh doanh, hiểu biết thị trường. Thí dụ trước đây người ta không mua bán vào ngày mùng một Tết, nhất là thức ăn uống. (Lệ xưa nhà nhà đều dự trữ thức ăn cho ngày Tết, mùng Một không mua sắm).
Nhưng ngày nay tết nhất người ta lại kéo nhau đến các khu vui chơi, đương nhiên nảy sinh nhu cầu ăn uống. kinh doanh ẩm thực không thể nào “nghỉ tết” hay chờ mùng 6 mới khai trương. Nhiều người buôn bán nhỏ quanh năm suốt tháng không có cả ngày nghỉ tết, nên cũng không bận tâm chuyện “khai trương”. Nhiều người giỏi kinh doanh lợi dụng “khai trương” như một cơ hội quảng cáo, tính toán ngày giờ, nghi thức khai trương khoa học và dựa theo cơ chế thị trường, chủ động taọ thuận lợi cho việc làm ăn.
Tuy việc kinh doanh vẫn có yếu tố may rủi, nhưng người ta tự mình dốc hết sức rồi mới trông cậy đến trời.
Nhà văn Lý Lan
Thuộc hỏa. Hợp với phương Nam. Có thể làm các nghề chiếu sáng, quang học, nhiệt độ cao, các dung dịch nóng, các chất dễ cháy, các loại dầu, rượu, thực phẩm, thức ăn nóng, nghề cắt tóc hay các đồ hoá trang, đồ trang sức, công tác văn nghệ, văn học, văn phòng phẩm, văn hóa, văn nhân, nhà sáng tác, biên soạn, nghề giáo viên, thư ký, xuất bản, công vụ và công việc kinh doanh về những mặt đó.
Thuộc thổ. Hợp với vùng giữa, hay ở ngay vùng đó. Có thể làm các nghề về thổ sản, đất đai, ở nông thôn, chăn nuôi các loại gia cầm, làm về vải vóc ,trang phục, thêu dết, về đá, về than, về vùng núi, về xi măng, kiến trúc, mua bán nhà ở, áo đi mưa, ô dù ; đắp đập, sản xuất các loại bình lọ, thùng chứa nước, làm người trung gian, môi giới, nghề luật sư, nghề quản lý nghĩa trang, tăng ni và những công việc, kinh doan liên quan đến các mặt đó.
Thuộc thủy. Hợp với phương Bắc. Có thể theo các nghề hàng hải, buôn bán những dung dịch không cháy , nước đá, các loại cá, thuỷ sản, thủy lợi, những đồ ướp lạnh, đánh lưới, chỗ nước chảy, cảng vịnh, bể bơi, ao hồ,bể tắm. Người đó thường hay phiêu bạt bôn ba, lưu thông, hay thay đổi. Tính thuỷ,thanh khiết, là những chất hóa học không bị bốc cháy, làm nghề trên biển, di động, có kỹ năng khéo léo, biết dẫn đạo, du lịch, đồ chơi, ảo thuật, là ký giả, trinh sát, du khách, là những công cụ dập tắt lửa, câu cá, nghề chữa bệnh hoặc kinh doanh dược liệu, làm thầy thuốc, y tá, nghề chiêm bốc.
Thuộc kim. Hợp với phương Tây. Có thể theo đuổi các nghề hoặc kinh doanh có liên quan với vật liệu kim loại, tính cách cứng rắn, quyết đoán, biết võ thuật, giám định, là quan thanh liêm, tổng quản ; làm các nghề ô tô, giao thông, kim hoàn, công trình, trồng cây ; khai thác mỏ, khai thác gỗ, nghề cơ khí.
ựa vào loại hình công việc nào và cá tính của bạn ra sao.
Nếu bạn là một nhà nghệ thuật, nhạc sỹ, nhà văn hay là một người cần sự yên tĩnh trong môi trường làm việc, phòng làm việc nên đặt ở đằng sau phòng khách, tách rời với sự náo nhiệt của những con đường bên ngoài. Để có thể đạt được môi trưởng vừa ý, khi mở cửa sổ hoặc cửa chính ra là có thể nhìn thấy vườn hoa, khiến tự nhiên sẽ làm kích hoạt linh cảm.
Mặt khác, nếu công việc của bạn cần có một gian phòng để khách đến tham quan thì văn phòng của bạn nên để gần phía trước của văn phòng. Cửa sổ phía trước nhà có thể cho bạn nhìn thấy khách đến, hơn nữa có thể lập tức ra nghênh đón nhưng cửa vào cần thiết là nơi mỹ quan và sạch sẽ, đừng quên, bạn phải để lại ấn tượng ban đầu thật tốt đẹp.
Trong văn phòng của bạn cần phải chú ý để khách lưu lại ở vị trí ngồi thích hợp, để khi hai bên nói chuyện cảm thấy thoải mái, tự tại.
– Lấy số của Nguyên vận, sau đó xác định cực trung tâm của căn phòng.
– Xác định rõ phương hướng của căn phòng.
– Lấy sao chủ đương vận nhập vào Trung cung.
– Phi tinh hướng bàn và sơn bàn.
– Lấy vượng tinh đương lệnh của năm và các sao tốt của vận sắp tới đặt ở phương vị đó làm tài vị.
– Tuổi và thứ tự trong nhà của chủ nhà không giống nhau nên hướng phòng, hướng cửa cũng phải thay đổi theo sự thay đổi
của tài vị.
Thế nào gọi là khí trong phong thủy học
“Khí” theo quan niệm cổ đại là một khái niệm rất trừu tượng. Quan điểm duy vật cho rằng đó là nguyên tố ban đầu cấu thành nên thế giới; quan điểm duy tâm cho rằng đó là sản phẩm của phái Tinh thần khách quan. Các bậc tiên triết cho rằng: Khí không tồn tại ở đâu cả, “khí” cấu thành nên vạn vật, khí không ngừng vận động biến đổi.
Khí trong thuật phong thủy là một khái niệm quen thuộc, quan trọng. Có sinh khí, tử khí, dương khí, âm khí, thổ khí, địa khí, thừa khí, tụ khí, nạp khí, khí mạch, khí mẫu. “Khí” là nguồn gốc của vạn vật, “khí” biến đổi vô cùng, “khí” quyết định phúc hoạ của con người, là âm trạch hay dương trạch, đều cần chú ý đến thừa sinh khí và tránh tử khí.
Chức tước quan trường cũng là chính là tung hoành ngay dọc. Mặc dù không nhìn rõ hình bóng của dao kiếm, nhưng khó tránh khỏi ân oán giang hồ, việc có một bàn tay tuyệt đẹp hộ thân thì có thể thoát khỏi cảnh bất lợi. Hãy xem bói chỉ tay để nhận biết xem bạn cỏ phải là người có tướng tay tung hoành như vậy không.
Đường Vận mệnh như cột chống trời, nghĩa là chỉ hình dáng hoàn chỉnh không đứt đoạn, đường Vận mệnh thẳng và rõ ràng, báo hiệu đây là người có ý chí siêu phàm, có đủ dũng khí tiến về phía trước, không e sợ bất cứ gian nan hiểm trỏ nào.
Do không bao giờ chịu đứng sau người khác, nên rất cỏ khả năng tự mình lập nên sự nghiệp.
Đường Công danh rõ ràng, là đường chỉ thẳng ỏ dưới chân ngón vô danh, biểu thị là người nhiệt tình, vui vẻ, tính tình lạc quan, có tài giao tiếp nhất định, ở bên ngoài có thể kết giao được với rất nhiều người có cùng chung chí hướng, có tác dụng lớn trong việc thúc đẩy con đường sự nghiệp bản thân.
Mặc dù trong sự nghiệp gặp phải bất cứ khó khăn cản trở nào thì đéu có thể chủ đông khắc phục.
Đường Trí tuệ có đuôi vểnh lên trên, tức là chỉ phần đuôi của đường Trí tuệ cong hướng lên phía trên, cho thấy là người có trí tuệ cao. mọi việc đều có thể tính toán tỉ mỉ, để có thể đạt được lợi ích thực tế. Nhưng họ thường vì sự nghiệp mà trong lòng luôn cảm thấy nặng nề, bỏ qua những suy nghĩ vể nhân tình thê thái, thậm chí có thế để xảy ra những chanh chấp về phương diện quan hệ giữa con người trong xã hội, vì vậy cần chú ý thay đổi.
Tư duy lý tính, làm việc chăm chỉ, nhưng quan hệ giao tiếp xã hội kém.
Tên gọi là “phù hiệu” của một người. Nó không chỉ để phân biệt người này với người khác trong cộng đồng. Nó còn là dấu hiệu riêng biệt trong xã hội.
Mỗi người có một hay nhiều tên gọi trong cộng đồng. Song trong xã hội thì chỉ có một tên “chính tắc” và có thể thêm tên hiệu, tên bí danh. Tên chính tắc (tên huý, tên cúng cơm) dùng trong quan hệ hành chính, giao dịch. Nó mang nhiều ý nghĩa và nó cũng chứa đựng nhiều điều kiện, nhiều quy tắc (bất thành văn).
Bởi thế việc đặt tên cho hậu duệ, hay khi muốn thay một cái tên mới không phải là tuỳ tiện, hú họa hay tự tiện đươc. Vì một cái tên được đặt “chính tắc” thì nó đã được luật pháp công nhận, cộng đồng chấp nhận, xã hội công nhận. Tên lúc này thể hiện đầy đủ các thứ “lực” mà nó có như: định danh, ấn định quyền lực, quyền sở hữu, danh giao dịch vv…
Tên vì thế ảnh hưởng không nhỏ đến vận mệnh của một con người.
Tranh Phong Thủy trước đây ít hoặc chưa từng xuất hiện ở Việt Nam, nhưng ở Trung Hoa, cái nôi của nghệ thuật Phong Thủy thì đã rất thịnh hành. Tranh Phong Thủy là một loại tranh được thiết kế đặc biệt cho ngành Phong Thủy. Bởi vì ngoài tác dụng trang trí, nó còn có tác dụng điều hòa sinh khí, mang lại tài lộc, sức khỏe, thịnh vượng cho căn nhà, đồng thời chấn tà khí, xua đuổi những điềm dữ, điềm hung. Sở hữu những bức tranh Phong Thủy trong nhà, gia chủ vừa cảm thấy an tâm để làm ăn, lại có thêm những tác phẩm nghệ thuật giúp ngôi nhà trở nên quyến rũ và hấp dẫn hơn.
Để hỗ trợ cho công việc, không ít doanh nhân đã lựa chọn những vật khí phong thủy - những vật được coi là mang lại tài lộc, thành công cho chủ nhân. Và những vật khí mà doanh nhân lựa chọn thường là chuông gió, con vật linh thiêng, pha lê, thủy tinh, thuyền vàng, rồng, tiền xu, tranh phong thủy, đá quý, Ngê, Kỳ Lân, Rùa, Cây tài cây lộc… Riêng với tranh phong thủy, một biểu tượng chiếm vị trí quan trọng đó là những chú cá. Cá đại diện cho sự giàu sang, phú quý bởi ngay trong tiếng Hán thì cá đã mang ý nghĩa của sự sung túc.
+ Cá chép: Theo quan niệm phương Đông, cá Chép tượng trưng cho sức khỏe và tài lộc. Trong đường quan lộ, cá Chép là biểu tượng của sự thăng tiến, công danh. Treo tranh cá chép ở nhà riêng hay văn phòng sẽ mang tới cho nguồn bạn tài lộc dồi dào. Trong kinh doanh, cá chép còn tượng trưng cho sức mạnh, lòng dũng cảm khi nó thường bơi ngược dòng nước, cộng với đức tính bền bỉ và sự cố gắng dẻo dai, đã có thể vượt Vũ môn để hóa Rồng, nên người ta còn coi cá Chép như một hiện thân của Rồng, con vật linh thiêng cao quý
+ Cá chép Nhật (Koi): giống cá này có màu sắc rất đẹp và đa dạng với những màu đen, đỏ, trắng…cũng được coi là biểu tượng của sự giàu có và thành công. Tranh vẽ loại cá này kết hợp với tiểu cảnh để tạo ra khung cảnh sơn thuỷ hữu tình không những có tác dụng thư giãn cho gia chủ mà còn mang lại nhiều may mắn.
Vị trí gợi ý:
Những bức tranh cá phong thủy được xem là món đồ mang lại may mắn và có thể được sử dụng để đặt trong văn phòng hoặc tại phòng khách nhà bạn.
Các loài cá thường mang lại điềm tốt, và may mắn. Có một số loài cá thường đi thành đôi vậy nên nếu chúng hiện diện trong cuộc sống của bạn nó sẽ mang lại nhiều điều tốt lành cho hôn nhân của bạn cũng như góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho gia chủ.
Nguồn: VietGem (st)
Tuổi Ngọ chủ về hành Hỏa, do đó để phong thủy nhà cửa phù hợp cho người tuổi Ngọ, chúng ta cần chú trọng về phương diện Hỏa.
Về phương hướng.
Nên lấy hướng Nam là hướng chủ đạo cho căn phòng của bạn và tìm cách tăng hỏa khí hướng này. Cách tăng hỏa khí dễ nhất là dùng ánh sáng. Hãy để ánh sáng tự nhiên vào đầy đủ khu vực này. Bên cạnh đó, cố gắng đừng cho các công trình phụ (toilet, nhà kho, nhà bếp…) chắn ở hướng Nam. Tốt nhất bạn nên sắp đặt ban công và cửa sổ quay về hướng Nam để đón thật nhiều ánh nắng vào phòng. Ngoài ra, bạn cũng nên bố trí để tăng hỏa khí ở khu vực hướng Tây – Tây Bắc (Tuất) và Đông – Đông Bắc (Dần).
Về màu sắc.
Màu của hành Hỏa là màu đỏ. Thông thường màu đỏ với ý nghĩa may mắn là biểu tượng của tình yêu lãng mạn, là can đảm nhiệt huyết, là màu của thách thức, đam mê, là màu của sự sống và sự sung túc, giàu có. Nên người tuổi Ngọ cũng nên lấy màu này làm tông màu chủ đạo.
Hãy dùng những gam màu đỏ cho rèm cửa, ga giường và bàn ghế trong phòng. Bên cạnh đó, bạn cũng có thể xen kẽ một số đồ vật màu trắng (Kim) hoặc xanh lá (Mộc) để tăng thêm độ hài hòa cho không gian quanh mình. Đồ nội thất nên có chất liệu chính bằng gỗ, tránh chất liệu kim loại vì Hỏa khắc Kim, có rất nhiều biến tấu để bạn chọn như gỗ ép, gỗ vân, gỗ phủ sơn mài… Vật phẩm phong thủy cũng nên tuân theo nguyên tắc này sử dụng chất liệu đá, gỗ và có màu sắc phù hợp như đỏ, cam, xanh. Trong và ngoài căn nhà nên có cây xanh vì Mộc sinh Hỏa. Đương nhiên nếu kích hoạt quá tay yếu tố Hỏa thì cũng không tốt cho gia chủ, vì thế nên sử dụng gương, bể cá để kích hoạt Thủy khí, cân bằng Hỏa khí cho căn nhà.
Về hình tượng Ngọ
Bên cạnh hướng Nam và màu đỏ chủ đạo, yếu tố không thể bỏ qua khi bày trí phong thủy cho người tuổi Ngọ là các hình tượng. Bạn nên trang trí nhà bằng cách trưng bày hình ảnh ngựa (bộ tranh “Mã đáo thành công” chẳng hạn). Bên cạnh đó là các hình tượng ngựa bằng gỗ hoặc kim loại cũng là một sự lựa chọn tốt. Đặt hình ảnh con ngựa trang trí ở khu vực Ngọ trong nhà. Để tăng cường năng lượng của khu vực này, hãy trưng bày hình ảnh con ngựa màu trắng và màu đỏ – đây được cho là gam màu dương. Bạn cũng có thể chọn ngựa gỗ, vì theo ngũ hành thì Mộc sinh Hỏa.
![]() |
► Theo dõi: Tử vi hàng ngày, tử vi hàng tuần được cập nhật liên tục, chuẩn xác tại Lichngaytot.com! |
Người tuổi Hợi thân thiện hòa nhã, được rất nhiều người yêu quý. Song trong chuyện tình cảm, người tuổi Hợi hợp với tuổi nào? Nên kết hôn với con giáp nào để có được hôn nhân mỹ mãn? Hãy để Lịch ngày tốt tiết lộ câu trả lời bạn nhé. Người sinh năm Hợi đa phần đều đa mưu túc trí, cũng hoạt bát vui vẻ. Tính cách hài hước cũng giúp họ có những mối quan hệ tốt đẹp. Tuy nhiên, khi làm việc, họ lại thường để cảm xúc lấn át khá nhiều. Đây là những người làm việc theo cảm hứng nhưng có sức sáng tạo cao, năng lực xuất chúng. Có điều, chính vì bản thân họ quá xuất sắc nên có phần trọng lợi danh, tính chiếm hữu vô cùng lớn. Với tính cách như vậy, ai mới là người hoàn hảo cho họ? Trong tình yêu hôn nhân, người tuổi Hợi hợp với tuổi nào? Hôm nay, chúng ta hãy cùng nhau khám phá bí mật này nhé.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Thông thường đường chỉ tay xuất ngoại nằm bên dưới đường tình duyên hoặc đường trí tuệ hay đường trí đạo. Các bàn tay đều khác nhau, nhưng nói chung những đường chỉ tay chạy song song bên cạnh bàn tay từ ngón út chạy xuống.
Đường đi lên từ cổ tay
Những đường bắt đầu từ đường vận mệnh
Đường đi lên từ đường vận mệnh
Đường song song với gò Thái Âm
Những đường song song dưới ngón tay út là các đường xuất ngoại. Nếu trên các đường này có thể những nhánh con rẽ ra thì tương lai bạn sẽ định cư ở nước ngoài.
Những đường dài từ rìa bày tay chạy vào trong lòng bàn tay và những đường dài không bị đứt đoạn ở cổ tay thì có nghĩa là bạn sẽ có nhiều tiền bạc và tài lộc trong chuyến xuất ngoại lần này.
Nếu bạn có một đường thẳng trong lòng bàn tay mà cắt ngang đường trí tuệ thì báo hiệu rằng bạn sẽ bị thương trong lần xuất ngoại lần này.
Nếu trên khu vực gò Thái Âm có những dấu Nhân “X” thì biểu hiện rằng bạn sẽ tốn nhiều tiền bạc cho việc làm giấy tờ, thủ tục, sẽ gặp khó khăn, thất bại nhiều lần thì mới thành công.
Trên đây là những giải đáp về đường chỉ tay xuất ngoại trên lòng bàn tay. Những đường chỉ tay này không xuất hiện từ khi còn nhỏ mà chỉ xuất hiện khi bạn trưởng thành, có dự định đi ra nước ngoài, hoặc một số đường chỉ tay xuất ngoại chỉ xuất hiện khi bạn đã xuất ngoài thành công.