Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Chùa Đồng Quang - Thành Phố Hà Nội

Chùa Đồng Quang nằm trong một đoạn ngõ hẹp sau khi bước qua dưới cổng tam quan của ngôi Đạo quán ở số 119 trên phố Tây Sơn, đối diện với gò Đống Đa.
Chùa Đồng Quang - Thành Phố Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Đồng Quang nằm trong một đoạn ngõ hẹp sau khi bước qua dưới cổng tam quan của ngôi Đạo quán ở số 119 trên phố Tây Sơn, đối diện với gò Đống Đa. Đứng trên gác tam quan trước kia có thể nhìn thấy miếu Trung Liệt trên gò ở bên kia phố. Chùa, quán và miếu góp phần tạo thành quần thể di tích rộng lớn của trận Đống Đa oai hùng. Đáng tiếc rằng cả quán lẫn chùa nay đã bị các nhà dân xây sát đến mức không thể sát hơn. Năm 1990 chùa được xếp hạng Di tích Lịch sử Nghệ thuật Kiến trúc.

Chùa Đồng Quang xây từ giữa thế kỷ 19. Theo văn bia thì khu đất xây dựng chùa xưa là nơi giao chiến giữa quân Tây Sơn và quân địch Mãn Thanh. Thời Thiệu Trị, quan Tổng đốc Hà Nội là Đặng Hầu đã cho thu táng những thi hài chết trong trận Đống Đa ở đầu đường cuối ngòi thành 12 gò, lấy nhân công và tiền của hai trại Thịnh Quang và Nam Đồng để làm mộ điện tế lễ vong hồn những người tử trận.

Đến năm Tự Đức thứ 4 (1851), quan Kinh lược Nguyễn Văn Giai khi cho mở đường, mở chợ ở vùng này lại thấy có nhiều xương khô nên cho đắp thêm một gò mộ nữa (tức gò Đống Đa ngày nay). Ông kêu gọi các nhà hảo tâm góp tiền dựng thêm 5 gian nhà nữa để tế lễ. Đây chính là tiền thân của chùa Đồng Quang.

Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm cho biết vào thời gian này Hà Nội bị vỡ đê, có mấy pho tượng Phật trôi dạt đến, mọi người cho rằng ứng với việc làm chùa mới, sau đó sư các chùa cúng thêm 6 pho tượng nữa, dân làng đặt tượng thờ và gọi là chùa Đồng Quang (chùa của hai trại Nam Đồng và Thịnh Quang). Những năm sau đó như 1886, 1915, 1956 và 1999, chùa tiếp tục được trùng tu, xây dựng để có quy mô như ngày nay.

Chùa có kiến trúc hình chữ Đinh (亭), bao gồm tiền đường và thượng điện. Trong khuôn viên chùa Đồng Quang còn có tự đàn, sau mở rộng xây thêm dần các nhà tả vu, hữu vu, nhà tổ và vườn tháp mộ bên cạnh thượng điện. Cả ba sân trước, giữa và sau đều lát gạch đỏ trên những diện tích khá nhỏ.

Cổng chính cũ nay đã mất, mặt trước chùa không còn gì ngoài các cột nghi môn bị tường bít xây áp chắn. Sân trước có nhiều cây nhỏ và tượng Quán thế âm Bồ tát. Nhà tiền đường rộng 5 gian, bờ nóc đắp hổ phù đội toà sen, có rồng chầu hai bên. Kiến trúc vì mái kiểu chồng rường, giá chiêng, hạ kẻ, phần trên của hai vì hồi theo kiểu kẻ chuyển. Nền chùa lát gạch vuông và được đắp khá cao so với mặt sân.

Chua dong quang
Lễ cầu siêu – Chùa Đồng Quang

Thượng điện ba gian chạy dọc, vì kèo chồng rường, giá chiêng, xây bệ cao dần để bài trí tượng Phật. Chùa có 37 tượng Phật, sau này có thêm 14 tượng Mẫu và 4 tượng ở gian thờ vua Quang Trung. Ngoài ra có 7 cửa võng sơn son thếp vàng, 5 khám thờ, 14 bia đá và 2 quả chuông. Tất cả đều mới được trùng tu, kể cả vườn tháp mộ bên mé phải.

Phần lớn các cổ vật trong chùa Đồng Quang đều có niên đại muộn. Nghệ thuật trang trí thể hiện ở các cốn rường, kẻ, câu đầu theo các đề tài hổ phù, rồng lá, mây lá, vân mây, riềm mái có hoa giấy, mai lão, trúc lão. Hai cốn nách vì giữa chạm nổi rồng ẩn trong mây, thuộc phong cách nghệ thuật điêu khắc gỗ của thế kỷ 20.

Chùa Đồng Quang đã được Nhà nước xếp hạng Di tích Lịch sử Nghệ thuật Kiến trúc ngày 27/12/1990.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Đồng Quang - Thành Phố Hà Nội

Phong thủy là khoa học hay mê tín dị đoan?

Phong thủy chính thống là một bộ môn khoa học như các ngành khoa học khác và thực hành phong thủy không phải là việc mê tín, hay mang hình thức thờ cúng.
Phong thủy là khoa học hay mê tín dị đoan?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Với việc khẳng định Phong thủy chính thống là một môn khoa học, người viết bài này nêu quan điểm rằng Phong thủy chính thống không liên quan gì đến mê tín, thờ cúng hay tôn giáo. Mỗi người đều có niềm tin riêng cho bản thân mình.
Tác giả cũng cho rằng Phong thủy chính thống vẫn không thể tách rời khỏi yếu tố văn hóa hay niềm tin của mình. Việc sử dụng Phong thủy chính thống đơn thuần chỉ mang lại lợi ích cho bản thân, giúp đỡ bản thân, và tận dụng những luồng khí tốt có sẵn trong tự nhiên. Và khi chúng ta không nhập nhằng giữa tâm linh và Phong thủy, thì cả hai có thể tồn tại song song nhau như thực tế, và giúp chúng ta có cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn.
Phong thủy không phải là “mê tín dị đoan”

Trong một thời gian dài, Phong thủy bị xem là mê tín dị đoan, là “tà giáo”, là lừa bịp,... Ngày nay, suy nghĩ của người phương Đông và phương Tây đã thay đổi theo hướng tích cực hơn nhưng còn rất nhiều người vẫn chưa công nhận Phong thủy là một bộ môn khoa học.
Vậy thực chất Phong thủy là cái gì? Đó là một môn khoa học ứng dụng, hay chỉ là một sự giả tạo, hay chỉ đơn giản là niềm tin?
Từ “Khoa học” có nguồn gốc từ tiếng Latin “scientia” có nghĩa là “kiến thức”. Theo Wikipedia, khoa học đơn giản là “bất kỳ một lĩnh nào cung cấp kiến thức một cách có hệ thống”. Vậy, Phong thủy cổ điển có đáp ứng được những gì được đề cập trong định nghĩa này hay không?
Bây giờ tôi sẽ cùng các bạn thử xem xét quy trình, chu trình những nhà khoa học đưa ra những kết luận mang tính khoa học như thế nào? Họ làm các thí nghiệm, quan sát kết quả, làm lại thí nghiệm, nếu cần thiết để đảm bảo kết quả là giống nhau giữa các lần thí nghiệm, sau đó họ ghi chép lại quá trình thí nghiệm và kết quả đạt được. Bạn có thấy rằng, trong bất kỳ một ngành khoa học nào, thành tố quan trọng nhất cũng là sự quan sát, thực nghiệm,…
Phong thủy được hình thành như thế nào?

Trước tiên, việc Phong thủy cổ điển là một lĩnh vực nghiên cứu có hệ thống, nghĩa là có những hình mẫu cơ bản, nguyên tắc cơ bản như Ngũ hành, Âm dương, Hà đồ (Tiên thiên bát quái), Lạc thư (Hậu thiên bát quái),.... Các kiểu mẫu này ngoài Phong thủy còn được ứng dụng vào rất nhiều bộ môn siêu hình khác. Có những bằng chứng thực nghiệm, quan trọng hơn hết là đã được ghi chép từ trước đến nay mà không phải là những mẫu chuyện được thêu dệt nên. Bằng chứng là những tài liệu ghi chép từ thời nhà Đường, như các trước tác của Dương Quân Tùng (Dương Công) như Thanh Nang Áo Ngữ; Thiên Ngọc Kinh; Ngọc Xích Kinh; Táng Thư,.. khẩu truyền các bí quyết Tầm long - Điểm huyệt - Lập hướng, Thu sơn xuất sát, Tiêu sa nạp thuỷ, Điên điên đảo, Việt Nam có Địa lý Tả Ao,…và những kinh nghiệm cổ điển được phác thảo trong những tài liệu cổ điển khác. Trong Phong thủy cổ điển, không chỉ lưu truyền các thế đất, các nguyên lý về khí, mà còn có các bản vẽ của núi non và nước. Những khái niệm từ xưa về Phong thủy vẫn không hề thay đổi cho đến ngày nay và cả trong tương lai. Mỗi khái niệm luôn đi kèm với những lý giải hợp logic.
Phong thủy là một bộ môn khoa học siêu hình có phương pháp rõ ràng dựa trên nguyên lý Âm dương, Ngũ hành, và việc sử dụng phương hướng để tác động lên các khí có trong tự nhiên. Trong Phong thủy chỉ có môi trường, không có Phật hay Chúa hay Thần thánh. Nếu quan sát các bạn sẽ nhận ra rằng tất cả những bộ môn từ Y thuật, Võ thuật, Kinh dịch, Thuật số,… Những bộ môn này đều dựa trên lý thuyết Âm dương và Ngũ hành, trong những tài liệu viết cổ từ thời nhà Đường đến nhà Minh, không chứa đựng bất kỳ một yếu tố nào có liên quan đến tôn giáo, hay có bất kỳ một đề cập nào liên quan đến việc bạn phải phó mặc số phận của bạn vào một vật thể hay hình tượng nào đó, và càng không yêu cầu người làm Phong thủy phải thờ cúng bất kỳ cái gì, cũng như dùng gương bát quái để hóa giải sát khí. Việc nhìn nhận Phong thủy là sự mâu thuẫn với niềm tin tôn giáo của một người hay là sự chấp nhận niềm tin tôn giáo trước khi ứng dụng về cơ bản rõ ràng đã không đúng.
Trong việc ứng dụng Phong thủy cổ điển, việc sử dụng những phương pháp hóa giải là việc tuân theo, và nếu có diễn ra thì đều có liên quan đến 5 nguyên tố của ngũ hành:  Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ. Thực hành Phong thủy từ xưa đã không cần đến việc đặt những vật dụng vào nhà, hay chọn màu hợp phong thủy để sơn nhà, và tất nhiên là không cần thiết phải nhét vào góc nhà những vật dụng mang tính chất linh thiêng. Phương pháp hóa giải hay điều chỉnh hiệu quả nhất cho một người đó là sử dụng Khí tự nhiên thông qua việc nương theo, thay đổi dòng khí hay tận dụng những vị trí chiến lược để đón nhận được dòng khí tốt.
Phong thủy không liên quan đến thờ cúng

Thêm nữa, Phong thủy là việc sử dụng không gian và thế đất bằng cách tận dụng những gì tự nhiên và những gì sẵn có trong môi trường của con người, tận dụng những điều sẵn có, những nguồn năng lượng đang tồn tại trong môi trường tự nhiên. Phong thủy còn chú trọng đến nhân tố Thời gian, Con người, Phương hướng, và Địa điểm của đất, nhà, hay tài sản của người sử dụng. Và những bộ môn khi thực hành không chú trọng đến tất cả những yếu tố trên hay ngược lại, chú trọng đến những tục lệ thờ cúng, kính bái đều không phải là Phong thủy cổ đại.
Tuy nhiên, không phải sự quan sát nào cũng được củng cố trở thành một nguyên lý Phong thủy sau này. Một vài trong số đó đóng vai trò như một phép thử để đưa ra những kết luận chính xác hơn. Cho đến đầu những năm 1900, Phong thủy chỉ được sử dụng cho hoàng gia. Vì vậy, các nghiên cứu thường kéo dài liên tục qua nhiều đời. Chính việc này đã cho phép các nhà phong thủy quan sát một cách tỉ mỉ và liên tục những thực nghiệm và đưa ra kết luận giúp phát triển bộ môn khoa học này. Các sách và học thuyết Phong thủy hiện đại chỉ điều chỉnh lại dựa trên những gì còn lưu truyền lại cho phù hợp với thế giới hiện đại. Và sự nghiên cứu kế thừa, sự phát triển không ngừng của Phong thủy hiện đại dựa trên nền tảng Phong thủy cổ điển không khác gì so với những môn khoa học khác. Nếu chỉ nhìn nhận khoa học là Vật lý, là hóa học, là địa lý hay một bộ môn nào đó nói riêng, thì đó mới chỉ là cách nhìn hạn hẹp về khoa học. Khoa học chứa đựng trong nó ngành khoa học xã hội như Nhân loại học, Xã hội học; ngành khoa học trắc địa như Địa lý; Môi trường học và các ngành khoa học ứng dụng như cơ khí, khoa học máy tính, công nghệ và tâm lý,…
Ngày nay, những bộ môn siêu hình được xem là lập dị, huyền bí. Nhưng không chỉ Phong thủy có tính chất siêu hình mà những bộ môn đáng tôn kính của văn hóa phương Tây đều có tính siêu hình. Aristotle là một trong những nhà tư tưởng siêu hình nổi tiểng, ngoài ra còn có thể kể đến Rene Descartes và Allbert Einstein. Người Trung Hoa, kể cả các nhà khoa học với tư tưởng triết học, xem Phong thủy và 05 bộ môn nghệ thuật của Trung Quốc là những bộ môn siêu hình. Bát tự, Phong thủy, Nhân tướng, Kỳ môn độn giáp vì tất cả những bộ môn này đều xuất phát từ nhu cầu xa xưa của người Trung Quốc muốn tìm hiểu về số phận, vũ trụ, nhân dạng, chiến thuật quân sự và hầu hết những nhu cầu này đều có tính chất siêu hình và triết học.
Nhiều người vẫn còn hoài nghi và cho rằng “Khí” không tồn tại hoặc không thể đo lường được các “Khí” trong Phong thủy, nên không thể xem bộ môn này là khoa học. Đây cũng là một quan niệm không đúng! Vậy chúng ta hiểu việc mà trước khi Micheal Faraday giải thích sự liên quan giữa điện và từ trường. Điện và từ trường vào thời điểm trước đó cũng không thể đo lường một cách định lượng được. Điều này không có nghĩa là từ trường và điện không tồn tại trước đó. Giống như vậy, kính hiển vi điện tử đã giúp khai phá ngành vi trùng, vi rút học, điều đó không có nghĩa là trước khi kính hiển vi xuất hiện không có vi trùng và vi rút. Nếu các bạn vẫn cho rằng “Khí” không tồn tại, vậy các bạn giải thích thế nào cho các hiện tượng sau đây: Tại sao trái cây, hoa quả, cây xanh, cây hoa trồng những nơi khác nhau có sự khác nhau?; Hoặc tại sao trái cây, hoa quả trồng trái mùa vụ, trái vùng địa lý sẽ có hương vị khác nhau? Thêm nữa, sữa, thực phẩm chức năng được tổng hợp rất đầy đủ vitamin, khoáng chất,..nhưng vẫn không thể thay thế được sữa mẹ, thực phẩm trồng trọt tự nhiên, và trong dân gian thường nói: “ Địa linh nhân kiệt” cũng mang hàm ý đất tốt, phong thủy tốt sẽ có người tốt, người tài.
Từ đó có thể kết luận rằng khi phát sinh nhu cầu tìm hiểu thì tất cả mọi thứ trên thế giới này đều có thể được đo lường được bằng cách này hay cách khác, công cụ này hay công cụ khác. Vì vậy, “Khí” trong Phong thủy cũng có thể đo lường được. Vấn đề còn lại là dùng dụng cụ hay thiết bị gì để thực hiện công việc này. Người Trung Hoa đã có dụng cụ để đo lường khí trong Phong thủy đó là hệ thống Lịch (âm dương), La bàn (La kinh), và kỹ năng quan sát.

Ngày nay chúng ta có thể sử dụng công cụ hỗ trợ trong việc tìm kiếm địa điểm tiên tiến hơn như Google Earth hoặc Google Map hoặc sử dụng la bàn điện tử, và công thức tính theo phương pháp phi tinh (phương pháp tính quỹ đạo khí) cũng có thể được tính toán tự động bằng các thiết bị điện tử, lập trình bằng máy tính nếu bạn muốn. Tôi thấu hiểu và cảm thông khi nhiều người vẫn còn hoài nghi bộ môn phong thủy, vì nó có nguồn gốc quá lâu đời, tư liệu gốc thất lạc nhiều, đồng thời trong quá trình truyền bá, thực hành đã bị huyễn hoặc, thần thánh hóa, do sự không đồng nhất trong truyền đạt lý thuyết (chân và ngụy) chân truyền hay không chân truyền, giấu bí kíp,… Màu sắc đó được dân gian truyền miệng nhau: “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”.

Phong thủy là khoa học và nghệ thuật

Phong thủy không chỉ là một môn khoa học mà còn mang tính nghệ thuật. Vì nghệ thuật trong khoa học chính là việc chọn phương pháp, kỹ thuật thích hợp để áp dụng trong một trường hợp cụ thể và những trường hợp nào không được áp dụng những kỹ thuật hay phương pháp trên.

Và cũng vì là khoa học nên Phong thủy có những quy tắc và công thức chung. Tuy nhiên, việc chọn quy tắc hay công thức nào là tùy vào sự quan sát, diễn giải, và đánh giá từng trường hợp cụ thể, đây chính là tính nghệ thuật trong Phong thủy, ví dụ như mỗi một nơi có tính chất môi trường khác nhau, thế núi, thế nước khác nhau sẽ sử dụng những quy tắc cụ thể khác nhau phù hợp với thế núi, thế nước và môi trường, đó chính là nghệ thuật. Tuy nhiên tất cả những quy tắc hay nghệ thuật đều xoay quanh nguyên lý âm dương và ngũ hành.

Ngày nay, nhiều người công nhận Phong thủy là một môn khoa học ứng dụng hơn là một môn khoa học đơn thuần. Tôi cũng hy vọng nó sẽ được mọi người công nhận là khoa học ứng dụng, để việc phổ cập, phổ biến rộng rãi những kiến thức chính thống nhiều hơn nữa trong giới học thuật và người thực hành giống như cách người phương Tây phổ biến tất cả học thuật để mọi người cùng học tập, hiểu biết thấu đáo, bởi việc xem đây mới là bí kíp, hay đây mới là chân truyền, thì nó sẽ tiếp tục lạc hậu so với các ngành khoa học khác. Chúng ta nên có kiến thức phong thủy, vì Phong thủy cũng có thể cung cấp cho người ứng dụng một công cụ mà qua đó có thể giúp họ cải thiện được chất lượng cuộc sống như sức khỏe, sự giàu có, và cả mối quan hệ xã hội.
Ngoài ra, bộ môn khoa học này có cơ sở để đảm bảo rằng nhà cửa, văn phòng, nơi làm việc, và môi trường sống nói chung sẽ làm thuận lợi cho những mục tiêu và nỗ lực của con người. Và khi chúng ta không nhập nhằng giữa tôn giáo và Phong thủy, thì cả hai có thể tồn tại song song nhau như thực tế, và giúp chúng ta có cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy là khoa học hay mê tín dị đoan?

Tướng phụ nữ xấu –

Theo quan niệm“Nam ngoại nữ nội”, dưới nhãn quang tướng học Á đông, những tướng tốt đối với đàn ông không bắt buộc phải là tốt với đàn bà. Tướng tốt của nam giới, lại xấu của nữ giới Theo chiêm nghiệm của tôi, có mấy ví dụ có thể liệt kê như sau: - Đ
Tướng phụ nữ xấu –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng phụ nữ xấu –

Lời Phật dạy về việc ca hát của tứ chúng

Âm nhạc và ca hát – đối với hàng cư sĩ, nếu biết sử dụng khéo léo, đúng mục đích, là một phương tiện truyền thông tốt trong các sinh hoạt Phật giáo.
Lời Phật dạy về việc ca hát của tứ chúng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Này các tỳ-khưu, đây là năm điều bất lợi khi ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài. Này các tỳ-khưu, không nên ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài; vị nào ngâm nga thì phạm tội dukkata (tác ác) – (Luật tạng, Tiểu phẩm)

1. Cư sĩ tại gia

Đối với người cư sĩ tại gia nguyện giữ 5 giới căn bản, ca hát không là vấn đề. Đức Phật không ngăn cấm người cư sĩ ca hát, sử dụng âm nhạc. Điều quan trọng là gìn giữ tâm ý, không để lôi cuốn, loạn động bởi âm thanh qua bài ca, tiếng hát, nhạc điệu. Âm nhạc và ca hát – đối với hàng cư sĩ – nếu biết sử dụng khéo léo, đúng thời, đúng mục đích, là một phương tiện truyền thông tốt trong các sinh hoạt Phật giáo.

Tuy nhiên, nếu người cư sĩ nguyện giữ 8 giới (bát quan trai giới) – thông thường trong các khóa thiền hay những ngày bố tát tịnh tu – không ca hát là điều giới thứ 7 cần phải tuân giữ:

“Trong đêm nay và ngày nay, ta nguyện sống tránh xa không xem múa, hát, nhạc, diễn kịch, không trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang…” (Tăng chi bộ, chương Tám pháp).

2. Sa-di, sa-di-ni xuất gia

Không ca hát là giới thứ 7 trong 10 giới căn bản của hàng sa-di, sa-di-ni:

– Ðệ tử thực hành giới tránh múa, hát, nhạc, kịch (Tiểu bộ, Tiểu tụng).

3. Tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni xuất gia

Riêng giới không múa hát, thổi kèn, đàn, xem múa hát, nghe đàn kèn tuy không ghi rõ trong giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa nhưng có ghi trong các điều liên quan đến tội Tác ác (dukkata) [*], thuộc Tiểu phẩm (Chương V), của Luật tạng. Duyên sự như sau (dựa theo bản Việt dịch của Tỳ-khưu Indacanda):

… Một lần nọ, tại thành Rājagaha (Vương xá) có lễ hội ở trên đỉnh núi. Các tỳ-khưu nhóm Lục sư (lục quần tỳ-khưu) đã đi xem lễ hội ở trên đỉnh núi. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

– Tại sao các sa-môn Thích tử lại đi xem vũ, ca, luôn cả tấu nhạc, giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?

Các tỳ-khưu đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ-khưu ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, đến trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Ngài khiển trách nhóm Lục sư ấy, rồi bảo các tỳ-khưu rằng:

– Này các tỳ-khưu, không nên đi xem vũ, ca, hoặc tấu nhạc; vị nào đi thì phạm tội dukkata (tác ác). [*]

[*] Theo Gs Rhys Davids (Vinaya Texts – bản dịch Anh ngữ Luật tạng), “dukkata” dịch là “wrong doing” (làm xấu, tác ác) là những lỗi nhẹ, chỉ cần tự sám hối là đủ.

4. Ngâm nga theo âm điệu ca hát

Ngay cả đến việc ngâm nga các bài kệ, bài pháp với các âm điệu trầm bổng du dương cũng bị đức Phật khiển trách và ngăn cấm. Một lần nọ, các tỳ-khưu nhóm Lục sư ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

– Các sa-môn Thích tử này ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài giống y như chúng ta ca hát vậy.

Các tỳ-khưu đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ-khưu ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, đến trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Ngài khiển trách nhóm Lục sư ấy, rồi bảo các tỳ-khưu rằng:

– Này các tỳ-khưu, đây là năm điều bất lợi khi ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài:

Bản thân vị ấy bị say đắm trong âm điệu,
Khiến cho những kẻ khác cũng bị ảnh hưởng say đắm trong âm điệu,
Hàng cư sĩ tại gia phàn nàn, chê cười vị ấy,
Trong khi ra sức thể hiện âm điệu, thiền định của vị ấy bị phân tán,
Điều cuối cùng là vị ấy khiến dân chúng thực hành theo đường lối sai trái.

Này các tỳ-khưu, đây là năm điều bất lợi khi ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài. Này các tỳ-khưu, không nên ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài; vị nào ngâm nga thì phạm tội dukkata (tác ác) – (Luật tạng, Tiểu phẩm).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lời Phật dạy về việc ca hát của tứ chúng

6 chòm sao thẳng thắn luôn nói "không" với chiêu trò

6 chòm sao thẳng thắn và có tinh thần trung thực cao dưới đây luôn nói “không” với những mánh khóe, thủ đoạn. “Thật thà là cha giả dối”, chưa chắc họ đã phải
6 chòm sao thẳng thắn luôn nói "không" với chiêu trò

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

6 chòm sao thẳng thắn và có tinh thần trung thực cao dưới đây luôn nói “không” với những mánh khóe, thủ đoạn. “Thật thà là cha giả dối”, chưa chắc họ đã phải chịu thiệt thòi đâu nhé.


6 chom sao luon noi khong voi chieu tro hinh anh
 
Bạch Dương
“Tôi không phải là kẻ hữu dũng vô mưu đâu! Hừ, các bạn phải hiểu rõ một chút, là vì tôi không thèm sử dụng quỷ kế mà thôi”. Bạch Dương thẳng thắn, chính trực không bao giờ thích những trò lén lút. Mà kì thực, muốn lén lút họ cũng chẳng có tâm cơ và trình độ.
 
Kim Ngưu
“Làm người thì phải quang minh chính đại, hơi sức đâu mà sử dụng tới mấy phương pháp bàng môn tà đạo kia”. Kim Ngưu thật thà không thích những điều không ngay thẳng.
 
Cự Giải
“Đã làm người thì phải đối xử nhân hậu với nhau, giở mánh khóe thủ đoạn ra thì còn gì là chính nghĩa và công bằng”. Cự Giải dịu dàng và thương người, lúc nào cũng muốn đối xử tốt và ngay thật với tất cả mọi người.
 
Sư Tử
“Tôi là kẻ sống trong sạch, ngay thẳng, nếu sử dụng mấy cái mánh khóe thủ đoạn kia thì nhân phẩm con người tôi sẽ bị hạ thấp!”. Sư Tử kiêu ngạo là thế, tài năng là thế đâu cần phải sử dụng đến chiêu trò.
 
Xử Nữ
“Chuyện của tôi, tôi còn lo chưa xong, hơi sức đâu mà đấu đá với người khác!”. Xử Nữ bận rộn lắm, đầu tắt mặt tối với những dự định cơ.

Nhân Mã
“Xì, có thời gian rảnh rỗi thì chi bằng đi chơi, thám hiểm cho đã đi, rõ là đám người rảnh hơi!”. Nhân Mã vô tư chẳng nghĩ gì khác ngoài du ngoạn.

Theo Mật ngữ 12 chòm sao
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 6 chòm sao thẳng thắn luôn nói "không" với chiêu trò

Một số phương án cải thiện ban công(phần 1) –

Nhà ở lấy được ánh sáng tự nhiên sẽ tiết kiệm được nguồn năng lượng, khiến cho tinh thần mọi người thoải mái dễ chịu. Hầu hết các nhà thiết kế đều chủ ý đến không gian ban công, nếu diện tích nhà nhỏ cách làm thông thường là làm thông ban công với ph

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

òng cạnh nó, tạo ra không gian phòng rộng hơn; nếu diện tích nhà đủ rộng thì việc cân nhắc bố trí ban công sẽ nhẹ nhàng hơn. Bất luận là mở rộng không gian hay tạo không gian mới, quan trọng nhất vẫn là ý tưởng sáng tạo.

ban-cong-dep-2011

Việc cải tạo ban công đã có lịch sử khá lâu, ban công có sớm nhất được tạo cho phòng bếp và phòng tắm. Sau này đã xuất hiện ban công thiết kế cho phòng luyện tập thể thao, vườn hoa, phòng trà. Mỗi phương pháp cải tạo đều tồn tại điếm khiếm khuyết của nó. Vì vậy, khi chọn phương án cải tạo ban công phải coi trọng dến chức năng theo nhu cầu thông thường nhất của bản thân, cố gắng nâng cao hiệu suất sử dụng nó.

Ban công có rất nhiều chức năng, có thể trở thành bộ phận kéo dài ra của phòng khách, làm tăng tính thông thoáng của không gian, cũng có thể trở thành không gian giải trí độc lập, cũng có thể là nơi nghỉ ngơi, thư giãn. Dưới đây là một số ý kiến xung quanh vấn đề cải tạo ban công, xin cung cấp để độc giả tham khảo.

(1)     Biến ban công thành phòng ở

Để tận dụng hết không gian ban công, người ta hay cải tạo nối thông nó với phòng bên cạnh, đồng thời dùng cửa sổ thấp có rèm che ngăn cách với bên ngoài. Diện tích phòng ngủ quá nhỏ hoặc thiếu ánh sáng nghiêm trọng có thể dùng phương án này để mở rộng không gian sử dụng, tăng thêm ánh sáng trong phòng.

(2)     Ban công là một phòng sách nhỏ

Diện tích nhà hẹp thường không có không gian phòng sách hoặc phòng làm việc riêng, nếu cải tạo làm thông ban công với bên trong nhà, đó có thể trở thành một phòng sách mới.

(3)    Ban công biến thành khu chứa đồ.

Nhà ở với không gian thu nạp quá ít, từ phòng bếp, lối đi không thể nào thấy được bên ngoài, nếu ban công cạnh phòng bếp thì góc ban công có thể cải tạo làm nơi đặt tủ chứa đồ, nơi chứa hoa quả, thức ăn hàng ngày ăn không hết hoặc chứa những vật phẩm không thường dùng.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Một số phương án cải thiện ban công(phần 1) –

Việc chọn 12 con giáp ở các nước

Lịch Pháp là phát kiến của các nền văn minh tối cổ và điều này liên quan đến việc phát hiện ra vòng hoàng đạo. Người Ai Cập đã sớm phát hiện ra vòng này và đặt tên là vòng Zodiac (nghĩa đen là vòng động vật). Vòng này được khắc trên tảng đá lớn. Ðây là dấu tích cho thấy người xưa ở các nơi khác nhau trên thế giới đều đã quan tâm quan sát bầu trời và họ đặt tên cho các cung hoàng đạo (cũng có nghĩa là cho các ngôi sao trong cung đó) bằng tên của các loài vật hoặc rút ra từ truyền thuyết, hoặc gắn với cuộc đời họ, thậm chí gây nguy hiểm cho họ, trường hợp không có tên con vật thì người ta đặt theo hình thế ngôi sao.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ta có thể quan sát bảng sau:

CÁC SAO TRÊN 12 CUNG HOÀNG ÐẠO


Cách đặt tên của vòng Zodiac và của âm lịch theo mười hai con giáp không liên quan gì đến nhau. Sự so sánh này để cung cấp cho các bạn cách nhìn tổng quan của quan niệm thiên văn Ðông Tây và cách gọi của Việt Nam để cho dễ gọi khi chiêm nghiệm bầu trời sao.

Các sao trong vòng Zodiac dùng để chỉ 12 cung Hoàng Ðạo chứ không phải để gọi tên tháng. Tạp chí Horoscope (chiêm tinh học) của Pháp xuất bản hàng tháng đều thấy sự tương ứng của tháng hiện tại với 12 cung Hoàng Ðạo này để đưa ra lời dự đoán và lời khuyên cần thiết. Cách gọi 12 cung Hoàng Ðạo được gọi theo danh từ của Pháp nhưng nghĩa của chúng thì không đổi. Ðó là Bélier, Taureau, Gémaeux, Cancer, Lion, Vieges, Balance, Scorpion, Sagitaire, Capicornes, Versau vàPoissons.

Cách gọi tên hàng tháng có nguồn gốc từ lịch sử Roma.

Ban đầu, lịch này quy định một năm có 10 tháng, thứ tự như sau:

1.      Martius : Vũ thần

2.      Aprilius : nảy mầm

3.      Maius: phồn vinh

4.      Junius : mẫu thuần

5.      Quintilis :

6.      Sextilis :

7.      September :

8.      October:

9.      November :

10.  December :

Về sau người ta thêm vào hai tháng nữa là:


Hai tháng này được thêm vào đầu năm, thành 2 + 10, từ đó Martius thành tháng 3.

Cách mạng Pháp 1789 cũng đưa ra lịch Cộng Hoà của mình vào ngày 22/9/1973. Nguyên tắc xác định tên tháng của lịch này dựa trên đặc điểm thời tiết hay mùa màng:


Như vậy, ở đây không có con vật nào được dùng để đặt tên cho tháng. Cách đặt tên tháng theo nông lịch như trên cũng đã có trong thời cổ Trung Quốc. Ðã có một thời kỳ dài người Trung Quốc gọi tên tháng bằng tên các loài cây, loài hoa thường gặp trong tháng trong mùa đó:

Tháng giêng là nguyên nguyệt

Tháng hai là hạnh nguyệt

Tháng ba là đào nguyệt

Tháng tư là hoè nguyệt

Tháng năm là lưu nguyệt

Tháng sáu là hà (sen) nguyệt

Tháng bảy là đồng nguyệt

Tháng tám là quế nguyệt

Tháng chín là cúc nguyệt

Tháng mười là mai nguyệt

Tháng mười một là giá (lau) nguyệt

Tháng mười hai là lạp (tế lễ) nguyệt

Như vậy sự lên ngôi của các con vật để trở thành mười hai con giáp chẳng phải dễ dàng. Người Phương Tây vẫn giữ nguyên vòng Hoàng Ðạo Zodiac và bảo tồn tên gọi của các tháng mà họ đã kế thừa từ người La Mã.


    1. 1) Mười hai con giáp
    2. 2) Việc chọn mười hai con giáp ở các nước
    3. 3) Quan niệm về tính cách con người theo các tuổi:
      Bên Nhật
      Phương Tây
    4. 4) Tại sao có chuyện "Cầm tinh" 12 con vật ?
    5. 5) Vì sao người xưa đều cầm tinh các con vật ?
    6. 6) Chuyện lấy tên các con vật đặt tên cho năm ?

Lược trích từ sách "12 con giáp"


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Việc chọn 12 con giáp ở các nước

Sưu tầm về Dịch thuyết

Một bài viết tổng hợp về Kinh Dịch của cụ Hà Uyên. Rất hay!
Sưu tầm về Dịch thuyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dịch dĩ đạo âm dương

"Dịch dĩ đạo âm dương" chỉ rõ nét đặc sắc của Kinh Dịch, trình bày về lý âm dương. Câu này, có xuất xứ trong Trang Tử - Thiên hạ luận, nguyên văn cả câu là: "Thi bày tỏ cái chí, Thư là để thuật lại công việc, Lễ là để hướng dẫn hành động, Nhạc là để dẫn dắt chí tuệ. Dịch nói về lý âm dương, Xuân Thu chỉ rõ danh phận".

Trang Tử - Thiên hạ thiên viết: "Dịch là để nói về âm dương". Sử ký - Thái Sử công tự tự viết: "Dịch làm sáng tỏ trời đất, âm dương, tứ thời, ngũ hành. Cho nên Dịch sở trường ở chỗ biến". Những lời đó đều nói về tôn chỉ căn bản của Dịch, là vạch rõ quy luật tự nhiên biến hóa của âm dương. Hàn Khang Bá - Hệ từ truyện chú kế thừa Vương Bật lấy Lão Trang để giải thích tông chỉ của Dịch, viết: "Đạo nhất âm nhất dương gốc ở Hư vô. Lại nói: Đạo là gì? Đó gọi là Vô. Không có gì không thông, không có gì là không bắt nguồn từ đó, cái đó gọi là Đạo. Đã là tịch nhiên vô thể, thì không thể là Tượng, phải vận dụng hết "Hữu" thì "Vô" mới hiển dụng. Cho nên đến như "Thần vô phương nhi Dịch vô thể", thì Đạo có thể thấy được vậy. Bởi thế, cùng biến thì tận thần, nhân thần mà minh đạo, âm dương tuy khác nhau, nhưng đồng nhất ở Vô. Ở âm mà vô âm, âm do đó sinh ra; ở dương mà vô dương, dương do đó mà hình thành, cho nên nói 'nhất âm nhất dương' vậy".

Tư Mã Thiên, người thời Tây Hán nói "Dịch dĩ đạo hóa". Ông cho rằng, nội dung đặc sắc của Kinh Dịch là ở chỗ nó nêu lên cái lý biến hóa của sự vật, cho nên ông nói: "Lễ là để ước chế lòng người, Nhạc là để khởi phát cái hòa, Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để biểu đạt tâm trạng, Dịch là để chỉ ra sự biến hóa, Xuân Thu là để chỉ ra cái 'nghĩa'. Kéo đời loạn đưa trở về ngay chính, không gì hơn là đọc Xuân Thu".

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Thần diệu biến hóa, khiến cho dân noi theo"; và, "Thấu hiểu được lẽ thần diệu, biết được lẽ biến hóa, đức sẽ lớn mạnh vậy".

Sử ký - Hoạt kê liệt truyện tự Khổng Tử nói: "Lục nghệ, quy về nói từng thứ một thì, Lễ là để chế ước con người, Nhạc là để khởi phát cái 'hòa', Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để diễn đạt tâm trạng, Dịch là để tỏ rõ thần kỳ biến hóa, Xuân Thu nói về cái nghĩa. Thái sử công nói: Đạo trời lồng lộng, chẳng lớn lắm sao? Trong cái lời nói vi diệu ấy, cũng có thể hiểu được".

Hệ Từ - Thượng truyện viết: "Ôi, đạo của Dịch rộng thay, lớn thay! Lấy nó mà nói về việc ở xa thì không bao giờ cùng, lấy nó mà nói về việc ở gần thì bình thản chính đính, nó bao gồm đầy đủ cả mọi việc trong trời đất". (Phù dịch quảng hĩ, đại hĩ! Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự. Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc tỉnh nhi chính. Dĩ ngôn hò thiên địa chi gian tắc bị hỉ). Việc lập ra quẻ, từ gốc đến thân, từ thân ra cành, tự nhiên thuận hành, đủ trời đất người, có phân có hợp, có tiến có thoái, có ngang có dọc, có thuận có nghịch, v.v...nhưng không có gì, đi mà không lại, tới mà không lui, thấu hiểu tự nhiên.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa nói: "Câu trên là muốn chỉ rõ tầm vóc quảng đại của Dịch lý. Lẽ biến hóa của Dịch thông khắp bốn phía xa, cho nên gọi là 'quảng'; nó thông tới tận trời, cho nên gọi là 'đại". Lại nói: "cái lẽ biến hóa của Dịch cùng cực u thâm, không bao giờ ngừng nghỉ", "cái lẽ biến hóa của Dịch, ở nơi gần, thì giữ được bình thản yên tĩnh mà chính đính, không hỗn loạn vậy".

Du Diễm - Chu Dịch tập thuyết nói: "Đạo Dịch rất quảng đại. Từ việc gần, việc xa, cho đến mọi việc trong trời đất này, không có gì không phải là Dịch. Lấy Dịch mà suy việc xa thì lý thông suốt, không hề trở ngại. Lấy Dịch mà bàn việc gần, thì lý đầy đủ rõ ràng ngay trước mắt, thản nhiên mà chính đính.Lấy Dịch mà bàn luận mọi việc trong vòng trời đất, thì lý lẽ của mọi sự mọi vật đều đủ cả trong đó. Có thể gọi là quảng đại vậy".

Lễ ký - Kinh giải viết: "Khiết tịnh tinh vi, Dịch giáo dã" (Trong sạch thuần khiết, tinh vi, đó là cái giáo lý của Dịch vậy). Chú giải cho câu nói này, Khổng Dĩnh Đạt - Lễ ký chính nghĩa viết: "Dịch cho rằng, đạo làm người ngay chính gặp điều lành, tà vạy ắt sẽ gặp điều dữ, không dâm lạm thái quá, như vậy gọi là 'khiết tịnh'; cùng lý tận tính, lời lẽ vi nhiệm thì gọi là 'tinh vi' vậy".

Dịch chi thất tặc

Câu nói này được viết trong Lễ Ký - Kinh giải. Ý nghĩa câu "dịch chi thất tặc" cho rằng nghiên cứu Dịch, nếu không biết tự tiết chế trong lời dạy của Dịch, thì sẽ có mối lo làm tổn thương tới Lý, làm hại tới vật. Làm người mà cung kính, không cẩu thả thì đủ để giúp cho nội tâm được chính trực. Hành vi thích hợp cũng đủ để giúp cho vẻ ngoài được đoan phương. Trịnh Huyền - Lễ Ký chú viết: "Thất, có nghĩa là không có khả năng tiết chế trong lời dạy của Dịch", lại nói "Dịch tinh vi, ái ố tương công, viễn cận tương thủ, tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại". Nghĩa là: Đạo Dịch rất tinh vi, yêu ghét đối chọi nhau, xa gần chấp thủ nhau, vậy thì nó không thể chứa người khác ý, nếu không sẽ dẫn tới tai hại.

Khổng Dĩnh Đạt - Lễ Ký chính nghĩa viết: "Dịch chủ ở sự thuần tĩnh nghiêm chỉnh, xa gần chấp thủ nhau, yêu ghét đối chọi nhau, nếu không biết tiết chế, ắt sẽ bị tai hại". Khổng Dĩnh Đạt lại phân tích lời chú giải của Trịnh Huyền "Dịch tinh vi", ý muốn nói Dịch lý rất vi diệu sây sắc, cầu tránh xác đáng, không dung chứa người khác mình. Dịch nói "ái ố tương công" là để chỉ sáu hào của quẻ Dịch, hoặc hào âm cưỡi hào dương, hoặc hào dương nén hào âm, kề cạnh nhau mà không có sở đắc, gọi là "ái ố tương công". Nói "viễn cận tương thủ", là chỉ bỉ thủ có ứng là xa gần hợp nhau. Hoặc nếu xa mà không có ứng, gần mà không hợp nhau, thì không thể hòa hợp đến với nhau được.

Câu "tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại", là ý muốn nói, nếu ý hợp nhau thì dù xa mà vẫn yêu nhau; nếu ý xa nhau, thì có gần mà vẫn ghét nhau, tức là không nên cùng với người không giống mình, nếu không sẽ bị tổn hại như bị giặc làm hại vậy.

Dịch khí tòng hạ sinh

Chu Dịch Càn tạc độ có câu: "Dịch khí tòng hạ sinh", nghĩa là Dịch lý thuyết minh quá trình phát sinh của sự vật, đều xuất phát từ sự vận động của "Khí"; mà sự sinh - thành của Khí đều thuận từ dưới lên trên, từ vi tế đến hiển hiện rõ ràng. Do vậy, 6 hào của các quẻ trong Dịch, đều được liệt theo thứ tự từ dưới lên trên.

Chu Dịch Càn tạc độ viết: "Vật do cảm nhau mà động, các vật cùng loại thì ứng với nhau, Khí của Dịch được sinh ra từ dưới". "Khí của trời đất tất có đầu có cuối. Vị trí của sáu hào đều từ dưới lên trên. Cho nên, Dịch bắt đầu từ cái Một, một phân ra hai, hai thông ở ba,... ở bốn, thịnh ở năm, kết thúc ở trên cùng".

Trịnh Huyền chú: "Dịch vốn không có hình, từ vi tế mà hiển hiện ra, khí từ dưới sinh ra, nên lấy hào dưới cùng làm khởi đầu vậy". "Dịch vốn không có hình thể, do Khí biến mà sinh ra cái Một, cho nên Khí từ dưới mà sinh ra".

Bàng thông

Điều lệ dịch học do Ngu Phiên đề xướng. Ý nói hai quẻ sáu hào so sánh với nhau, thể của hào âm dương khác nhau, tức là đây là dương thì kia âm, đây là âm thì kia dương, bàng thông với nhau từng cặp một. Ngu Phiên nói: "Quẻ Tỵ bàng thông với Đại hữu, quẻ Đại hữu bàng thông với quẻ Tỵ". Các quẻ khác giống như vậy.

Bàng thông là một trong những điều lệ quan trọng trong Dịch thuyết của Ngu Phiên. Xét, Văn ngôn truyện quẻ Càn nói: "Lục hào phát huy, bàng thông tình dã", ý nói hào của Dịch biến động chẳng dừng. Ngu Phiên đã căn cứ vào đây mà lấy danh từ "bàng thông", nhưng biến đổi ý nghĩa mà sáng tạo thành Dịch lệ của mình. Tới đời Minh thì Lai Tri Đức phát minh ra Tổng quái, Thác quái, được người đương thời gọi là "tuyệt học", trong đó Thác quái tức là áp dụng lệ Bàng thông của Ngu Phiên.

Trích dẫn

Sáu Hào phát huy biến động, biến thông tình - lý sự vật. Hào ở quẻ này là Âm, thì hào tương ứng của quẻ kia là Dương. Ở quẻ này là hào Dương, thì hào tương ứng ở quẻ kia là Âm.

Một sự vật nếu có thành tựu, thì sự vật ấy ắt phải đắc vị - đắc thời - đắc trung. Muốn duy trì một sự vật gì (?), thì chớ để nó phát triển tối đa, mà phải luôn cảnh giác phòng bị mặt trái của nó. Có như vậy, mới không nhận lấy mặt trái của nó.

Cho nên nói tình dã

Thành Ký tế định

Một trong những điều lệ Quái biến do Ngu Phiên đề xướng, nói rằng các hào vị bất chính đều sẽ biến thành chính, quẻ thành Ký tế, hào vị mới định.

CHI CHÍNH

"Chi" giống như nói "biến". "Chính", là chỉ hào âm cư âm vị - ngôi vi chẵn, hào dương cư dương vị - ngôi vị lẻ. Đây là một trong những điều lệ do Ngu Phiên đề xướng.

Trong quẻ, phàm hào vị nào bất chính đều cần phải biến cho thành chính, tức là điều mà Dịch truyện cho là "chính" và "đáng vị", cũng gọi là "chi biến". Theo điều lệ này, thì hào Sơ phải là dương, hào Nhị phải là âm, hào Tam phải là dương, hào Tứ phải là âm, hào Ngũ phải là dương, hào Thượng phải là âm. Khi quẻ sáu hào đều "chính", thì quẻ thành Ký tế, hào vị đã định, bởi vậy còn gọi là "thành Ký tế định". Ngu Phiên dùng thể lệ này để thuyết giải nhiều thể lệ biến của Dịch. Như quẻ Truân lời hào Lục Nhị là "Thập niên nãi phu", ông giảng là: "Khôn số thập, tam động phản chính, Ly nữ đại phúc, cố thập niên phản thường nãi phu, vi thành Ký tế định dã". Có nghĩa là: quẻ Truân, Chấn hạ Khảm thượng, duy có hào Tam bất chính, biến động đến chính, thành Ký tế mà hạ thể là Ly, thì mới có lời giải thích như trên". Lại như tượng truyện hào Cửu Nhị quẻ Vị tế viết: "Vị Sơ dĩ chính, Nhị động thành Chấn, cố thành chính", hào Cửu Tứ nói: "Động chính, đắc vị", hào Lục Ngũ nói: "Chi chính tắc cát", hào Thượng Cửu nói: "Chung biến chi chính, cố vô cữu". Nghĩa là quẻ Vị tế sáu hào đều thất chính, Ngu Phiên thuyết giải năm hào đều nên biến đến chính. Duy thiếu chỉ có một hào Lục Tam thì cũng theo lệ ngày mà suy ra.

Tam biến thụ thượng

Ngu Phiên đề xuất điều lệ Dịch học, chỉ hào thứ Ba biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng, còn gọi là "Quyền" hay là "Quyền tượng". Chu dịch tập giải khi bàn về quẻ Gia nhân, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Hào Tam đã biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng. Đổi thì được đắc vị. Cuối cùng sẽ tốt". Lại dẫn Tượng truyện nói: "Chỉ hào Tam động. Hào Thượng đổi vị trí với hào Tam thành Ký tế định". Đây là nói quẻ Gia nhân chỉ có hào Thượng Cửu là thất chính, thì lấy hào Cửu Tam đã chính, biến thành hào âm, đổi vị trí với hào Thượng Cửu, thì sau hào đều chính mà thành Ký tế.

Xét thấy, lệ này của Ngu Phiên, lời chú ở sách Chu dịch tập giải đã dẫn, chỉ thấy có hai quẻ Gia nhân và Tiệm, đều thuộc quẻ mà hào Tam và hào Thượng là hào dương. Hào Tam là dương, vốn đã được chính, lại biến thành hào không chính, sau đó đổi ngôi vị với hào Thượng Cửu, khiến hai hào đều được chính. Phép này ngược với lệ: "Chi chính thành Ký tế". Bởi vậy, Ngu Phiên mới tự đặt tên là phép Quyền nghi.

Chu dịch tập giải ở hào Thượng Cửu quẻ Tiệm dẫn chú Ngu Phiên, nói: "Hào Tam đã đắc vị, lại biến nhận với hào Thượng là quyền. Khổng Tử nói: có thể hợp đạo, không thể quyền nghi, cũng không lạ vậy".

Phản quái

Điều lệ Dịch học do Ngu Phiên đời Tam quốc đề xướng. Nghĩa là lấy 6 hào của quẻ 6 vạch đảo ngược lại thành quẻ khác. Như quái tượng quẻ Quán, đảo ngược lại thì thành quái tượng quẻ Lâm. Quẻ Quán và quẻ Lâm hỗ nhau, thành quẻ phản quái.

Người đời sau cũng gọi là quẻ "phản đối", gọi như vậy thấy không chính đính với học thuyết của Ngu Phiên, do vì chữ "đối" theo nghĩa âm đối dương hay dương đối âm, ví như quẻ Quán có quẻ đối là quẻ Đại quá.

Nhưng trong 64 quẻ của Kinh, có 8 quẻ gồm Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Trung phu, Tiểu quá, Đại quá có hình quẻ đặc biệt, đảo ngược cũng không biến đổi, nên không có "phản quái".

Lý Đỉnh Tộ - Chu dịch tập giải ở phần quái từ quẻ Di, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản phục không suy, cũng như Càn Khôn Khảm Ly Di Trung phu Tiểu quá Đại quá". Trong Dịch thuyết của Ngu Phiên, dùng rất nhiều thí dụ về "phản quái". Như Chu dịch tập giải, ở quái từ quẻ Thái, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản là Bĩ. Ở quái từ quẻ Minh di lại nói: phản là Tấn. Ở quái từ quẻ Tiệm nói: phản thành Quy muội, v.v..." Xét, thể lệ phản quái, hoặc phản đối, thực ra là một trong những đặc trưng vốn có của hình thái 64 quẻ trong Kinh.

Tuân Sảng

Tuân Sảng (128 - 190), người Dĩnh Xuyên, Dĩnh Âm, này là thành phố Hứa Xương, tỉnh Hà nam, thời Đông Hán, tự là Từ Minh, còn có tên là Tư. Thủa nhỏ ham học, 12 tuổi đã đọc được Xuân Thu, Luận Ngữ, ông đam mê kinh truyện, không chúc mừng thăm viếng ai, được người đương thời gọi là "Tuân thị bát long, Từ Minh vô song", và được Thái úy Đỗ Kiều khen rằng "có thể làm thầy người khác".

Hậu Hán thư - Tuân Sảng truyện, thì trước tác rộng khắp các loại kinh, tử, sử cộng hơn trăm thiên của ông đều thất truyền. Về Dịch học theo cổ văn Dịch của Phí Trực, lấy Thập dực giải thích nghĩa Kinh, ông đã sáng tạo nghĩa lệ đặc trưng "Càn Khôn thăng giáng", kết hợp dùng cả thể lệ quái biến, tiêu tức để giải thích yếu chỉ của Kinh, tác phẩm Dịch giải của ông đã thất truyền.

Hậu Hán thư - Nho lâm truyện viết: "Vào thời Kiến Vũ, Phạm Thăng truyền bá Mạnh thị Dịch để dạy cho Dương Chính, còn Trần Nguyên và Trịnh Chúng đều truyền bá Phí thị Dịch, về sau Mã Dung cũng truyền dạy cho Trịnh Huyền. Trịnh Huyền soạn Dịch chú, từ đó Dịch học họ Phí thịnh hành, mà Dịch học họ Kinh suy yếu".

Quái biến, thể lệ Dịch học của Tuân Sảng, có thể thấy được đại cương phép quái biến thông qua phép Càn Không thăng giáng, nhưng còn có biệt lệ:

1- Có loại từ Càn Khôn mà biến ra, như Thoán truyện quẻ Khiêm dẫn lời Tuân Sảng nói: "Càn lai chi Khôn" (Khôn từ Càn mà biến ra), lại dẫn trong Thoán truyện quẻ Giải: "Càn động chi Khôn, Càn Khôn giao động, động nhi thành Giải" (Càn động biến thành Khôn, Càn Khôn giao động, do động mà biến thành Giải).

2- Có loại từ Lục tử biến ra, như Thoán truyện quẻ Truân nói: "Đây vốn là quẻ Khảm. Xét, hào Sơ thăng lên Nhị, hào Nhị giáng xuống Sơ, đó là cương nhu bắt đầu giao nhau". Lại dẫn Thoán truyện quẻ Mông nói: "Đây vốn là quẻ Cấn. Xét, hào Nhị tiến lên (thăng) chiếm ngôi hào Tam, hào Tam lùi xuống (giáng) hào Nhị, cương nhu đắc trung cho nên thông".

3- Có loại từ tiêu tức quái biến ra, như quái từ quẻ Tụng dẫn lời Tuân Sảng nói: "Dương đến chiếm ở hào Nhị mà phu động ở hào Sơ". Tiêu Tuần cho rằng ở đây nói quẻ Tụng là gốc ở quẻ Độn. Lại như Thoán truyện quẻ Bĩ dẫn: "Đây vốn là quẻ Thái chỉ âm từ trên xuống, ở vào giữa quẻ Càn".

Dịch thuyết của Tuân Sảng nói đến quái biến còn lại không nhiều, lệ ấy có phải chỉ chừng ấy không, thì chưa rõ. Đến khi Dịch học của Ngu Phiên ra đời, thì thể lệ quái biến càng trở nên tỉ mỉ và có hệ thống.

THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương".

Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn. Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người hậu Hán chú Dịch thường dùng Nguyệt quái nhưng không nói rõ, cho rằng Nguyệt quái mọi người đều biết, bất tất phải nói kỹ, điều đó cho thấy tính quan trọng của Nguyệt quái".

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy".

TRỊNH HUYỀN VÀ DỊCH VĨ CHÚ

Trịnh Huyền là Kinh học gia, Dịch học gia nổi tiếng đời Hán. Cống hiến quan trọng đối với Dịch học của ông là: chú thích kiệt xuất công trình Dịch Vĩ, với trước tác đồ sộ và sắc bén, Trịnh Huyền đã trở thành tập đại thành của Tượng - Số dịch học đời Hán.

Trịnh Huyền (127 - 200) người đất Cao Mạt, thời Đông Hán, tự là Khang Thành, ông nổi danh là một đại sư về Dịch học, tinh thông Ngũ hành, là người kế thừa đầu tiên của Kinh thị dịch học.

Trịnh Huyền nghiên cứu Phí thị dịch học, sau đó ông theo nhà kinh học nổi tiếng Mã Dung nghiên cứu Cổ văn kinh. Học xong, ông về làng giảng dạy ngũ kinh. Do chính biến giữa Hoạn quan với Đại thần thời Hán Linh Đế, ông bị bắt giam; Ra tù ông đóng cửa không đi đâu, ở nhà viết sách.

Ông trước tác nhiều về Ngũ kinh, hậu như chú giải toàn bộ, như Chu dịch chú - Tùy thư - Kinh tịch chí được chép thành 9 quyển, Dịch tán, Dịch luận, tác phẩm nổi tiếng nhất của Ông là Dịch vĩ chú được chép trong Tứ khố toàn thư. Đặc biệt của sách này là hào thần, thần ở đây có nghĩa chỉ về ngôi sao, vì Trịnh Huyền coi 12 hào của Càn và Khôn là 12 'thần' tức 12 ngôi sao, ông dùng Dịch để lập thuyết về Thiên văn học. Trịnh Trần đời Thanh có soạn 4 quyển Trịnh học lục, đây là tư liệu quan trọng để nghiên cứu về Trịnh học. Ngoài ra, Vương Ứng Lân thời Nam Tống biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú; Mã Quốc Hàn biên soạn Tân bản Trịnh thị Chu dịch; Viên Quân đời Thanh biên soạn Trịnh thị di thư.

Trịnh Huyền là đệ tử của Mã Dung, quan điểm học thuật giống như Mã Dung, trên cơ sở kế thừa Kinh thị dịch học mà phát huy Phí thị học.

Chu dịch chú của Trịnh Huyền đã thất lạc. Tùy thư - Kinh tịch chí đã sao chép được 9 quyển, đời sau có biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú một quyển, sách tương đối có tính đại biểu. Những tư liệu trong Tứ khố toàn thư còn lưu giữ đều là những tư liệu nghiên cứu về Trịnh Huyền với Dịch học.

Sách Dịch vĩ được Trịnh Huyền chú giải có trình độ lý luận rất cao. Trên cơ sở của Kinh Phòng về bát quái, hào vị tương kết tương hợp, Trịnh Huyền đã xây dựng thêm số Ngũ hành thành Đại biến số để giải thích số Đại diễn và số Trời Đất của Dịch.

Dịch nói: 天一地二。天三地四。天五地六。天七地八。天九地十。Thiên nhất Địa nhị, Thiên tam Địa tứ, Thiên ngũ Địa lục, Thiên thất Địa bát, Thiên cửu Địa thập”. Số lẻ là dương thuộc Thiên; số chẵn là âm thuộc Điạ. Cho nên ta mới có 10 số thiên-nhiên, dàn thành 5 cặp âm-dương: (1, 2), (3, 4), (5, 6), (7, 8), (9, 10). Trịnh Huyền chú giải: 河以通乾出天。洛以流坤吐地符。河龍圖發。洛龜書成。河圖有九篇。洛書有六篇。(Hoàng-hà để thông hiểu quẻ Kiền suy ra từ trời. Lạc-thủy để lưu hành quẻ Khôn nhả địa-phù. Hoàng-hà Long-đồ phát-xuất, Lạc-thủy Quy-thư hoàn thành. Hà-đồ gồm 9 thiên, Lạc-thư gồm 6 thiên).

Tiêu Diên-Thọ 焦延壽, tự Cống, là sư phụ của Kinh Phòng, đã truyền lại cho Kinh Phòng nguyên lý Hào thần. Sách có chép "Bát-quái Lục-Vị-Đồ 八卦六位圖", lấy ngũ-hành, 10 can (nạp-giáp), 12 chi (trang chi) phổ vào các hào của bát-quái. Đó chính là một thuật của Kinh Phòng. Phép Hào thần sau này đã được Trịnh Huyền sử dụng lấy làm hào âm dương để giải thích Dịch, được ghi lại trong sách Dịch Hán Học 易漢學 của Huệ-Đống 惠棟, Quyển IV, có chép Đồ này.

Số Ngũ hành được xuất hiện sớm nhất ở Thượng thư - Hồng phạm viết: "Đầu tiên là ngũ hành. Thủy nhuận hạ, hỏa viêm thượng, mộc khúc trực, kim tùng cách, thổ viên giá sắc" (Nước thấm xuống làm nên vị mặn, lửa bốc lên làm ra vị đắng, gỗ cong thẳng làm nên vị chua, kim theo thay đổi làm nên vị cay, đất để gieo cấy làm nên vị ngọt). Thông qua đây, Trịnh Huyền lấy số Ngũ hành để chú giải về số trời đất trong Dịch, viết: "Khí của trời đất mỗi thứ có 5. Theo thứ tự ngũ hành, 1 là thủy đó là số trời, 2 là hỏa đó là số đất; 3 là mộc đó là số trời; 4 là kim đó là số đất; 5 là thổ đó là số trời". Ông lại nói: "Số trời đất là 55, với ngũ hành khí thông. Phàm ngũ hành giảm 5, đại diễn lại giảm 1 cho nên thành 4".

Trịnh Huyền chú thích Dịch vĩ rất rõ ràng khúc triết, ông phát triển "Hào thần thuyết" của Dịch vĩ lấy 6 hào của quẻ, tương phối với 12 thần trong 1 năm. Cứ 2 quẻ Dịch đối, ứng trực cho 1 năm, 64 quẻ ứng trực cho một vòng 32 năm, khởi đầu từ hai quẻ Càn Khôn, kết thúc ở hai quẻ Ký tế và Vị tế. Mục địch của Trịnh Huyền là cho quái và hào tương ứng với nội hàm của Thời gian, dẫn tới hiệu quả Thời gian tương ứng với Tiết khí. Hào Thần đối ứng tương tự như với phương pháp Nạp giáp vào quẻ vào hào với vận trình thời gian cho từng năm mới. Tức là: đối với quẻ dương thì đi theo chiều thuận, đối với quẻ âm thì đi theo chiều nghịch. Ta lấy quẻ Càn Khôn làm ví dụ:

Càn vận hành theo chiều trái:

- Hào Thượng: tháng Chín - kiến Tuất

- Hào Ngũ: tháng Bảy - kiến Thân.

- Hào Tứ: tháng Năm - kiến Ngọ

- Hào Tam: tháng Ba - kiến Thìn

- Hào Nhị: tháng Giêng - kiến Dần

- Hào Sơ: tháng Một - kiến Tý.

Khôn vận hành theo chiều phải:

- Hào Thượng: tháng Tư - kiến Tị

- Hào Ngũ: tháng Hai - kiến Mão

- Hào Tứ: tháng Chạp - kiến Sửu

- Hào Tam: tháng Mười - kiến Hợi

- Hào Nhị: tháng Tám - kiến Dậu

- Hào Sơ: tháng Sáu - kiến Mùi

Trịnh Huyền dùng thuyết Hào thần để chú giải quẻ Dịch, chính là do Hào thần đã phản ánh được quy luật âm dương tiêu trưởng, khi Hào thần kết hợp với âm dương khí hóa, đã giải thích được sự thuận nghịch, thành bại của sự - vật, phát huy đầy đủ nguyên lý của Dịch về sự tương ứng giữa con người với thế giới tự nhiên.

Đặc điểm của Trịnh Huyền là lấy Kinh để chú giải Nghĩa, có nghĩa là lấy Dịch kinh chú giải Dịch truyện, cũng như lấy Kinh để giải Vĩ, đây là ông căn cứ vào thuyết lấy âm dương ngũ hành làm cơ sở, Ông đã đề xuất tăng cường ý - nghĩa cho âm dương của Tượng hào, đồng thời dùng Âm dương hào, để giải thích Dịch. Ông cũng đề xuất xây dựng quan điểm của Lão Tử để giải Dịch, như Trịnh Huyền chú Dịch vĩ với Dịch tam nghĩa, lấy tư tưởng vô vi vô vật của Lão để trình bầy mọi điều, Ông viết: "Noi theo Dịch mà vô vi, thì tính của thiên hạ không thể không tự hình thành. Với điều đó, ta có thể nói Dịch đạo là vô vi. Cho nên, trời đất, vạn vật, tất cả đều biến thông".

THUYẾT GIẢI DỊCH CỦA KINH PHÒNG

Kinh Phòng là người khai sáng phái tượng - số Hán dịch, cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học của Dịch học, sự phát hiện ra những điều mới trong Dịch của ông, đã gây được những ảnh hưởng sâu sắc. Đời sau đã coi ông với Mạnh Hỷ là đại biểu cho các nhà Dịch học đời Hán, điều này đã khẳng định vị thế của ông trong Dịch học.

Kinh Phòng (77 - 37 tr.CN) người Tây Hán, người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông vốn họ Lý. Ông học dịch ở Tiêu Diên Thọ, rất thích âm luật, sau chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển.

Ông biên soạn rất nhiều, nhưng theo Hán thư - Nghệ văn chí, thì nay chỉ còn 11 thiên Tai dị Mạch thị Kinh Phòng, 2 thiên Ngũ lộc xung Phòng lược thuyết, Kinh thị đoạn gia. Trừ 3 quyển Kinh thị dịch truyện ra, thì toàn bộ trước tác khác của ông đều thất lạc.

Kinh Phòng là riêng một học phái, đặc điểm về học thuật của ông là nhấn mạnh thuyết "thiên nhân cảm ứng", do làm rõ được về tai dị trong thiên nhiên, rồi từ đó Ông chiêm nghiệm khí số cho xã hội, nên được nhà vua ban thưởng. Kinh Phòng là mở đầu của phái tượng - số Dịch học. Tập Kinh thị dịch truyện là gốc của tượng - số, là ông tổ của chiêm nghiệm Dịch học.

THẾ - ỨNG

Thế - Ứng là điều lệ Dịch học của Kinh Phòng thời Tây Hán. "Thế" là chỉ quẻ nào đó, trong hệ thống bát cung quái, thuộc thế quái thứ mấy của Cung nào đó, như vậy có nghĩa là hào thứ mấy tức là hào "Thế".

"Ứng" là chỉ sau khi xác định hào của Thế quái, hào này nếu là Sơ thì ứng với hào Tứ, nếu là Tam thì ứng với hào Thượng. Ngược lại cũng như vậy.

Thế - Ứng trong Dịch thuyết của họ Kinh là rất quan trọng, là một trong những phương pháp cơ bản để đoán quẻ khi chiêm sự. Thượng Bỉnh Hòa bàn tới hàm nghĩa của Thế - Ứng và phương pháp suy tìm Thế - Ứng, Thế hào, Ông chỉ rõ: "Thế - Ứng là chủ trong quẻ, là chỗ dựa để suy đoán lành dữ, đại để như Trinh - Hối (tức là nội quái và ngoại quái). Thế là ta, Ứng là nó. Song Thế - Ứng xét ra gặp hào nào, vẫn vốn lấy gốc từ bản cung của quẻ Ngộ quái".

Do đó, tìm hiểu căn nguyên của Thế - Ứng của bất cứ một quẻ nào đó, đều phải khảo cứu Bản cung quái thuộc trong Bát cung quái. Lấy cung Càn làm ví dụ, hào Sơ biến là Nhất thế quái Thiên Phong Cấu, vì quẻ Cấu là từ hào Sơ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Cấu: Thế tức tại hào Sơ, Ứng tại hào Tứ. Hào Nhị của Càn lại biến, thì hào Nhị Thế quái Thiên Sơn Độn, vì Độn từ hào Nhị của quẻ Càn biến mà ra, nên Thế của quẻ Độn là hào Nhị, còn Ứng tại hào Ngũ. Hào Tam quẻ Càn lại biến thì thành Tam thế quái Thiên Địa Bĩ, vì quẻ Bĩ do hào Tam của quẻ Càn biến mà thành. Cho nên Thế của Bĩ là ở hào Tam, còn Ứng thì tại hào Thượng. Hào Tứ của Càn lại biến thì thành Tứ thế quái Phong Địa Quan, vì quẻ Quan là do hào Tứ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Thế của quẻ Quan là ở hào Tứ, còn Ứng thì ở tại hào Sơ. Hào Ngũ quẻ Càn lại biến thì thành Ngũ thế quái Thiên Địa Bác, vì quẻ Bác là do hào Ngũ quẻ Càn biến mà ra, cho nên Thế của quẻ Bác là ở hào Ngũ, Ứng tại hào Nhị. Hào Thương quẻ Càn chẳng thể biến đổi, nếu biến thì xuất cung. Sau khi do hào Ngũ của Ngũ thế quái Bác thoái lùi, thì hào Tứ lại biến thành Dương, thành ra Du hồn quái Hỏa Địa Tấn, Thế của Tấn lùi ở hào Tứ (giống với Tứ thế quái Quan), còn Ứng tại hào sơ. Lại do Tứ của Du hồn quái Tấn thoái lùi, hoàn toàn biến đổi ba hào ở dưới, thì thành Quy hồn quái Hỏa Thiên Đại hữu, Thế của quẻ Đại hữu lại lùi ở hào Tam (giống với Tam thế quái Bĩ), còn ứng tại hào Sơ. Còn như bản cung quái Càn là Thiên, thì Thế tại hào Thượng, Ứng tại hào Tam. Bảy cung còn lại cũng giống như vậy.

Khi tìm hiểu quy luật ở trong của Thế - Ứng, thì thấy Thế vị của Nhất thế quái cho đến Ngũ thế quái, lần lượt ở tại hào Sơ cho đến hào Ngũ, bản cung quái tại hào Thượng, thì Du hồn quái giống Tứ thế quái tại hào Tứ, Quy hồn quái giống Tam thế quái tại hào Tam. Xác định Thế hào rồi thì vị trí của Ứng hào sẽ rất dễ thấy. Cho nên Thượng Bỉnh Hòa nói: "Thế đã định thì cách hai hào là Ứng hào", nói cách hai hào là Ứng hào là cách nói giản tiện về sáu ngôi - vị chẵn lẻ âm dương tương ứng của các quẻ trong Dịch.

Kinh thị dịch truyện - về quẻ Quy hồn Đại hữu của cung Càn,Kinh Phòng nói: "Tam công lâm Thế, Ứng Thượng cửu vi Tông miếu". Từ Ngang nói: "Quy hồn đảm đương chức Tam công, Thế vị thì tại hào thứ ba, thế hào Thìn thổ tương ứng với Tông miếu hào Tị hỏa, (đó tức là hào Thượng, Thượng cư quái cực là tông miếu), Hỏa có khả năng sinh Thổ".

Phép Thế - Ứng mà các nhà bói toán đời sau vận dụng, là do Dịch học của Kinh Phòng mà ra. Các nhà dịch học Hán Ngụy, lưỡng Tấn như Tuân Sảng, Can Bảo,... thì lại thường lấy điều lệ "thế - ứng" để giải thích nghĩa của Dịch.

PHI – PHỤC

Điều lệ Dịch học do Kinh Phòng đời Hán đề xướng. "Phi" là chỉ Quái tượng của hào thế đã hiện rõ của một quẻ nào đó, của một cung nào đó. "Phục" là để chỉ Quái tượng đang ẩn phục chưa hiện rõ do hào thế, hoặc hào tương ứng với nó biến thành.

Phàm là tượng "phi - phục", thì phải có âm dương đối nhau, dương phi thì âm phục, âm phi thì dương phục. Chu Chấn - Hán thượng dịch truyện viết: "Phàm quẻ hiện rõ gọi là phi, quẻ chưa hiện rõ gọi là phục. Phi là mới đến. Phục là đã qua".

Kinh thị Dịch truyện trình bày thể lệ được thâu tóm như sau:

1. Bản cung quái trong Bát cung quái lấy âm dương đối nhau để hỗ thành "phi - phục". Như quẻ Càn và quẻ Khôn đối nhau, Càn là "phi" thì Khôn là "phục", Khôn là "phi" thì Càn là "phục". Tượng làm chủ là hào thế (hào Thượng Cửu Thượng Lục). Các cặp quẻ dịch đối Chấn - Tốn, Khảm - Ly, Cấn - Đoài cũng vậy.

2. Quẻ do Bát cung hóa sinh ra từ nhất thế đến ngũ thế, ba quẻ trước là "phi - phục" đối với nội quái, hai quẻ sau là "phi - phục" đối với ngoại quái. Như quẻ Cấu nhất thế quái của cung Càn, hào thế Sơ Lục đã hiển hiện mà cư ở nội Tốn, hào Sơ Cửu quẻ Càn được hóa sinh ra liền ẩn phục mà cư ở nội Càn, bởi vậy quẻ Cấu phi ở nội Tốn mà phục ở nội Càn, hào Sơ là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Độn nhị thế quái, phi ở nội Cấn phục ở nội Càn, hào Nhị là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Bĩ tam thế quái, phi ở nội Khôn phục ở nội Càn, hào Tam làm chủ tượng. Quẻ Quán tứ thế quái, phi ở ngoại Tốn phục ở ngoại Càn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Bác ngũ thế quái, phi ở ngoại Cấn phục ở ngoại Càn, hào Ngũ là chủ tượng. Bản cung còn lại theo đó mà suy.

3. Quẻ Du hồn là "phi - phục" với ngoại quái của ngũ thế quái bản cung. Quẻ quy hồn là "phi - phục" với nội quái của quẻ Du hồn bản cung. Như quẻ Tấn là quẻ Du hồn của cung Càn, hào thế Cửu Tứ đã hiển hiện mà cư ở ngoại Ly, hào Lục Tứ của quẻ ngũ thế quái Bác do quẻ Du hồn phục biến, liền ẩn mà cư ngoại Cấn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Quy hồn cung Càn là Đại hữu, hào Cửu Tam là hào thế, đã hiển hiện ra mà cư ở nội Càn, ba hào âm dưới quẻ Du hồn Tấn, phản quy phục biến, liền ẩn mà thành nội Khôn; bởi vậy quẻ Đại hữu phi ở nội Càn phục ở nội Khôn, hào Tam là chủ tượng. Bảy cung còn lại theo đây mà suy.

4. Khi chiêm quẻ, gặp hai hào động của bản quái, ba hào động của bản quái trở lên, thì lấy hào động trên cùng làm chủ tượng, xét từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, cũng đều căn cứ vào Quái từ Quái tượng và Hào từ Hào tượng để định cát hung.

Xét, về thể lệ "phi - phục", thực chất Kinh Phòng vận dụng nguyên lý đầy vơi, tiêu tức trong mâu thuẫn đối lập âm dương của Dịch, sau đó suy rộng phát triển mà thành. Từ Ngang trong Kinh thị Dịch truyện tiên nói: "Âm dương tiêu trưởng mà có phi-phục. Hiển là phi, ẩn là phục. Đã phi thì từ hiển mà ẩn; đã phục thì từ ẩn mà hiển. Trong phi có phục, trong phục có phi, tiêu tức tuần hoàn không cùng".

Hán thư - Kinh Phòng truyện viết: "Tiêu quái gọi là Thái âm. Tức quái gọi là Thái dương". Nhan Sư Cổ chú: "Tiêu quái gồm Cấu, Độn, Bĩ,Quán, Bác, Khôn. Tức quái gồm Phục, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn". Chu Hy chép ở đầu sách Chu dịch bản nghĩa có nói: "Thái dương sinh hai quẻ Càn Đoài. Thái âm sinh hai quẻ Cấn Khôn".

Kinh Phòng đã kết hợp, vận dụng cả Ngũ hành, Can Chi, Ngũ tinh, Tứ khí, Lục thân, Cửu tộc, Phúc đức, Hình sát, v.v...để giúp vào việc chiêm nghiệm. Các nhà bốc phệ đời sau đều lấy phép "phi-phục" của Kinh Phòng để xin âm dương chiêm đoán tai dị. Những nhà Dịch học thời Hán Ngụy như Tuân Sảng, Ngu Phiên lại thường dùng lý luận "dương hạ phục âm, âm hạ phục dương" trong thể lệ phi-phục để giải thích nghĩa của Dịch. Về câu "Lý sương kiên băng chí" trong Văn ngôn truyện quẻ Khôn, Tuân Sảng nói: "Sương là mệnh lệnh của Trời, dưới Khôn có Càn ẩn phục. 'Lý sương kiên băng', đó là nói đạo thuận tòng. Càn khí thêm vào, tính biến thành cứng. Như bề tôi thuận theo mệnh vua mà hoàn thành đạo làm tôi". Hoặc câu "Quân tử dĩ trí mệnh toại chí" trong Đại tượng truyện quẻ Khôn, Ngu Phiên nói: "Quân tử là chỉ hào Tam, dương đang ẩn phục".

Kinh Phòng kiên trì thuyết "quái khí" để bình nghị âm dương tai biến, cho nên di thuyết của ông truyền ở đời rất sâu rộng. Đầu quyển Thượng là: Càn cung bát quái, thứ đến Chấn cung bát quái, Khảm cung bát quái, Cấn cung bát quái. Đầu quyển Trung là: Khôn cung bát quái, thứ đến Tốn cung bát quái, Ly cung bát quái, Đoài cung bát quái. Đầu quyển Hạ bàn về Thánh nhân làm Dịch, phép đếm cỏ thi bày quẻ, rồi bàn về phép Nạp Giáp, sau đó bàn về 24 khí hậu phối hợp với 64 quẻ, và Tứ Dịch: Thiên dịch - Địa dịch - Nhân dịch - Quỷ dịch. Thiên quan, Địa quan và Ngũ hành sinh tử. Phép bói dùng đồng tiền đời sau thực ra xuất phát từ đây. Cách dùng Hỏa châu lâm cựu truyền cũng khởi đầu từ sách của Kinh Phòng.

DU HỒN

Du hồn là quẻ thuần bản cung của mỗi cung, khi biến đến hào thứ năm, thì hào trên không biến, mà lại đi xuống, biến ở hào thứ tư đã biến, quẻ được hình thành như vậy, thì gọi là quẻ Du hồn. Kinh thị Dịch truyện, đó là Du hồn". Lục Tích chú thích: "Khi âm đã bóc hết dương, nhưng dương đạo không thể bị diệt hết, vì vậy phản dương phục đạo. Nhưng không quay về ngôi bản vị, thì gọi là Du hồn theo "lệ" của Bát quái". Nói về quẻ Tấn: "Khí tinh túy thuần"

Xét, gọi tên Du hồn, vốn gốc từ Hệ từ - Thượng truyện "Tinh khí vi vật, du hồn vi biến". Kinh Phòng đã tiếp thu, lấy làm tên gọi cho quẻ hình thành bởi lần biến thứ sáu của Bản cung quái. Can Bảo chú giải về quẻ Tụng nói: "Quẻ Tụng là du hồn của quẻ Ly. Ly là binh qua, thiên khí hình sát, là quẻ mà vương công phải dùng tới quân đội".

QUY HỒN

Quy hồn là quẻ bản cung của mỗi cung, đã biến đổi tới lần thứ 6 thành quẻ Du hồn, thì đồng thời biến đổi 3 hào đã biến ở dưới quẻ, như vậy thì thành quẻ, gọi là quẻ Quy hồn. Kinh thị Dịch truyện trong mục quẻ Đại hữu nói: "Quẻ trở về bản cung gọi là Đại hữu, tượng trong thấy Càn là bản vị". Gọi là "Bản cung", hay "Bản vị" là chỉ cung Càn biến tới quẻ Quy hồn, thì ba hào dưới lại biến nữa mà trở về Càn. Như vậy, hào Sơ, hào Nhị, hào Tam đều biến hai lần. Hào Tứ biến lần hai thì được quẻ Du hồn.

Lục Tích chú thích rằng: "Tám quẻ vốn khởi từ cung Càn, tới Đại hữu là Quy hồn. Gọi là Quy hồn là nói về tượng của quẻ đó biến, mà quay trở về bản vị Hạ quái của bản cung". Tuân Sảng nói: "Tùy là quy hồn của Chấn, Chấn trở về (quy) từ Tốn (chỉ hạ thể quẻ tam thế Chấn thành Tốn, tới quẻ quy hồn mới hồi phục bản thể thành Chấn), cho nên rất thông thuận. Vì Tốn là khiêm tốn, hòa thuận, nên có nghĩa là Thông.

Kinh thị Dịch truyện nói: "Dịch của Khổng Tử chép: Có tứ dịch. Nhất thế Nhị thế là Địa dịch. Tam thế Tứ thế là Nhân dịch. Ngũ thế Bát thuần là Thiên dịch. Du hồn Quy hồn là Quỷ dịch". Lại nói: "Du hồn, Quy hồn là Quỷ dịch. Quỷ là lại quay về. Quẻ Du hồn từ hào thứ năm, thì quay về mà biến ở hào thứ tư; quẻ Quy hồn từ hào thứ tư, lại quay về mà biến ở ba hào ở dưới quẻ. Thể lệ này đều bao hàm cả tôn chỉ của sự 'quay về' (phục quy)".

Thế quái khởi Nguyệt lệ

Điều lệ Dịch học của Kinh Phòng. Phép này đem Bát cung quái chia ghép với 12 tháng. Không giống với thể chế đem quẻ ghép với tháng, trong Quái khí đồ của Mạnh Hỷ.

Khởi Nguyệt lệ:

- Nhất thế quái: âm làm chủ tháng Năm, vì một âm tại Ngọ. Dương làm chủ tháng Một, vì một dương tại Tý.

- Nhị thế quái: âm làm chủ tháng Sáu, vì hai âm tại Mùi, Dương làm chủ tháng Chạp, vì hai dương tại Sửu.

- Tam thế quái: âm làm chủ tháng Bảy vì ba âm tại Thân, dương làm chủ tháng Giêng, vì ba dương tại Dần.

- Tứ thế quái: âm làm chủ tháng Tám vì bốn âm tại Dậu, dương làm chủ tháng Hai vì bốn dương tại Mão.

- Ngũ thế quái: âm làm chủ tháng Chín vì năm âm tại Tuất, dương làm chủ tháng Ba vì năm dương tại Thìn.

- Bát thuần Thượng, âm làm chủ tháng Mười vì sáu âm tại Hợi, dương làm chủ tháng Tư vì sáu dương tại Tị.

- Du hồn do Tứ thế làm chủ, giống với Tứ thế quái.

- Quy hồn do Tam thế làm chủ, giống với Tam thế quái.

Âm dương nói ở đây, là chỉ hào Thế của thế Quái cùng Du hồn quái, Quy hồn quái, thuộc quẻ nào đó, thuộc cung nào đó, là hào âm hay hào dương. Căn cứ vào thuyết này mà lập "Thế quái khởi nguyệt lệ biểu".

Tất cả 12 tiêu tức quái, đều hợp với 12 tháng phối thuộc, còn 52 quẻ khác, vì hào Thế của chúng hợp với tiêu tức hào của 12 tiêu tức quái, nên cũng phân biệt liệt vào 12 tháng. Cho nên, khởi Nguyệt lệ của Kinh Phòng chính là do 12 tiêu tức quái mở rộng ra mà thành. Sự vận dụng lệ này, vốn là để bói toán chiêm nghiệm.

- Nguyệt kiến Tý - quẻ đời một (nhất thế quái): Phục, Bí, Tiết, Tiểu súc

- Nguyệt kiến Sửu - quẻ đời hai (nhị thế quái): Lâm, Đại súc, Giải, Đỉnh

- Nguyệt kiến Dần - quẻ đời ba (tam thế quái) Thái, Ký tế, Hằng, Hàm.

- Quẻ Quy hồn: Đại hữu, Tiệm, Cổ, Đồng nhân

- Nguyệt kiến Mão - quẻ đời bốn (tứ thế quái) Đại tráng, Khuê, Cách, Vô vọng.

- Du hồn quái: Tấn, Đại quá, Tụng, Tiểu quá

- Nguyệt kiến Thìn - quẻ đời năm (ngũ thế quái) Quải, Lý, Tỉnh, Hoán.

- Nguyệt kiến Tị - quẻ Bát thuần (Bát thuần quái) Càn, Cấn, Tốn, Ly

- Nguyệt kiến Ngọ - nhất thế quái: Cấu, Dự, Lữ, Khốn

- Nguyệt kiến Mùi - nhị thế quái: Độn, Truân, Gia nhân, Tụy

- Nguyệt kiến Thân - tam thế quái: Bĩ, Tổn, Ích, Vị tế

- Quẻ Quy hồn: Tùy, Sư, Tỵ, Quy muội

- Nguyệt kiến Dậu - tứ thế quái: Quán, Thăng, Mông, Kiển

- Du hồn quái: Minh di, Trung phu, Nhu, Di

- Nguyệt kiến Tuất - ngũ thế quái: Bác, Phong, Phệ hạp, Khiêm

- Nguyệt kiến Hợi - Bát thuần quái: Khôn, Chấn, Khảm, Đoài.

Sở Tử Huy viết lời bạt cho sách Khải mông tiểu truyện, đã làm rõ nghĩa của Chu Tử còn thiếu, lập luận của Ông có căn cứ, lý lẽ có hệ thống chặt chẽ. Đã làm rõ nghĩa “Càn Khôn nạp Giáp”, quẻ Càn từ Giáp đến Nhâm, quẻ Khôn từ Ất đến Quý, số của nó đều là 9. Tuy nhiên Ông ngờ thuyết cho rằng, số 9 của quẻ Càn có khả năng kiêm cả số 6 của quẻ Khôn. Nhưng Khôn âm không thể bao hàm Càn dương. Tử Huy cho rằng, trong số 6, có số 1, 3, 5 (là các số dương), như vậy thì số 9 dương cũng có thể chứa trong số 6 âm. Thực ra học thuyết về số không ngoài chẵn - lẻ, chỉ có một nghĩa đó mà rất nhiều thuyết bàn tới, càng suy luận càng nẩy sinh những luận lý mới, thuyết nào cũng đúng cả.

Xét, một quẻ sinh 3 con, 3 con sinh 9 cháu. Phép Bát phong của họ Kinh, mỗi quẻ có 3 hào là “sinh”, có 3 hào ngoài là “hành”. Một quẻ sinh 3 cho nên 8 quẻ “biệt sinh” ra 24 “tử tức” (con cháu), 8 quẻ còn “hoà sinh” 24 “tử tức” nữa. Ngoại quái đều có 1 người hành ở một hào. 3 người “hành” vào trong (nội quái) làm khách, cho nên nói: “có ba người khách từ từ đến”. Nhân lấy phép một hào biến của Tả Thị, mỗi quẻ có 6 biến hào làm thành một quẻ, lại hợp 6 lần biến thành 36 quẻ

Nguồn:

- Kinh thị Dịch truyện - Từ Ngang

- Từ điển Chu dịch - Trương Thiện Văn.

THUYẾT VỀ DỊCH SỐ

Số là sự thăng hoa của Tượng, Dịch số bắt nguồn từ Dịch tượng, hào số trong Dịch là tổ của vạn số. Nói là tổ của vạn số, là từ sau khi Phục Hy họa vẽ bát quái, hào âm "- -" (2 số) và hào dương "-" (1 số), số tổng của hai số (3 số) đã trở thành tổ của vạn số.

Dịch số bao gồm Thiên số và Địa số - số của Đại diễn, số của kỳ - ngẫu (số lẻ - chẵn), và nội dung của tứ đại sinh thành số (bốn số lớn sinh thành). Trong đó Dịch số Hà Lạc có nội hàm quan trọng trong khoa học sinh mệnh.

Sự kết hợp giữa Dịch tượng và Dịch số có ý nghĩa quan trọng về phương diện đi sâu làm sáng tỏ Dịch lý. Số là điểm cơ bản của Khoa học tự nhiên, khi ứng dung về mặt chiêm phệ của tượng - số còn được gọi là "thuật số học", là hạt nhân của văn hóa chiêm phệ, sự tương bổ tương thành giữa tương - số và thuật số đều là hạt nhân của Dịch học.

Đặc điểm tượng - số của Dịch là thông qua tượng - số, phân tích làm sáng tỏ Dịch lý. Trong quá trình từ Tượng đến Số, từ Số đến Lý, về khách quan đã thúc đảy tư duy hình tượng đến tư duy trừu tượng, còn được gọi là Huyền học của tư duy Cổ đại. Dịch số không những có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của Dịch tượng, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Dịch lý. Quy luật phát triển giữa hai bộ môn đó với nhau là: Dịch số bắt nguồn từ Tượng lại phát triển Tượng lên; Dịch số ra đời từ Lý lại thúc đẩy cho Lý phát triển. Ba bộ môn Số - Tượng - Lý tương phản tương thành, cùng chung kích thích sự phát triển của Dịch học và Khoa học tự nhiên.

THIÊN SỐ VÀ ĐỊA SÔ CỦA DỊCH

Nội hàm số Thiên Địa của Dịch là lấy số thiên địa để chứng minh nguyên lý hợp nhất của Thiên Địa, mục đích dùng để chứng minh quy luật tự nhiên của Vũ trụ, như viết: "Thiên nhất, địa nhị, thiên tam địa tứ; thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát; thiên cửu địa thập".

Khái niệm 'cực' trong Dịch là nói đến cái bản nguyên của Thiên Địa, như Dịch truyện - Hệ từ nói: "Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên" (Có trời đất, sau mới sinh ra vạn vật), nên Dịch bàn về số là chủ ý lấy Số để chứng minh sự biến hóa vận động của Thiên Địa. Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số dĩ thành biến hóa nhi hành quỷ thần dã".

Lấy Thiên số và Địa số làm tiêu chí trong quá trình tiêu trưởng của Dịch, đặc biệt là lấy sự nghịch - thuận của âm dương của số, để làm tiêu chí mất còn của âm dương thiên địa, như Dịch - Thuyết quái viết: "Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị số dịch số nghịch dã".

Gọi là nghịch - thuận của Số, là chỉ vãng - lai của Số; "vãng" là số tả huyền (xoay sang trái), thuận thiên nhi hành nên viết thuận; "lai" là số xoay chuyển song hữu (phải) nghịch thiên nhi hành nên viết nghịch. Cho nên, thuận số tượng trưng cho dương sinh âm trưởng, nghịch số tiêu chí âm trưởng dương tiêu. Như trong Tiên thiên bát quái phương vị đồ của Phục Hy, các quẻ Càn Đoài Ly Chấn của nửa vòng bên trái, thì lấy tả huyền vi thuận, tượng trưng cho dương trưởng âm tiêu. Ngược lại, với nửa vòng tròn bên phải, các quẻ Tốn Khảm Cấn Khôn dịch chuyển về bên phải, thể hiện dấu hiệu âm trưởng dương tiêu. Đúng như Chu Hi đã viết: "thiên tả hành, hữu địa tuyền" (Trời đi về phía trái, đất xoay về phía phải).

Thứ tự thuận của Bát quái là từ phải sang trái, tức do: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn; cho nên dương sinh xoay vòng sáng trái (tả) theo thiên thời, âm trưởng đi theo sang vòng bên phải (hữu), tương phản đúng hướng tốt. Bởi vậy Dịch viết: "dịch chi số do nghịch như thành hĩ" (số của Dịch do ngược lại mà thành). Vậy tức là 'Dịch' lấy sự nghịch thuận của số, để chứng minh giải thích mối quan hệ mật thiết giữa bát quái định vị với thiên địa vận hành, phản ánh bối cảnh thiên văn của bát quái.

Dịch lấy Thiên số Địa số để tượng trưng cho Tứ tượng lão dương, lão âm, thiếu dương, thiếu âm là Thái cực tứ tượng. Căn cứ theo nguyên lý thái cực thái cực âm dương tiêu trưởng, số tứ tượng tiêu chí cho bốn giai đoạn của thiên địa âm dương tiêu trưởng. Tức lấy 6 làm số lão âm, tượng trưng cho cực của địa âm; lấy '7 số' làm số thiếu dương đại biểu số khởi đầu của thiên dương; lấy '9 số' làm số lão dương tiêu chí cho cực của thiên dương, lấy 8 làm số thiếu âm tượng trưng cho số khởi đầu của địa âm. Dịch truyện lại tiến thêm một bước ứng hợp giữa tứ tượng số và hào số với nhau, để dùng trong chiêm phệ bói toán.

Thiên số và Địa số trong quá trình phát triển, quan trọng nhất là Trần Đoàn thời Bắc Tống, ông lập thuyết chủ yếu lấy Thiên số và Địa số của Dịch, làm cơ sở để thông biến với Hà đồ và Lạc thư. Trong "Long đồ tam biến" nổi tiếng, Trịnh Huyền đã xây dựng học thuyết sáng tỏ về sự diễn biến của Hà đồ - Lạc thư, tức là ông đã dung hòa và kết hợp được giữa Thiên số và Địa số của Dịch, thêm nữa là Kỳ số và Ngẫu số với Ngũ hành sinh thành số, có nghĩa là đệ nhị biến, đem số của 'ngôi vị' hợp với thiên số và địa số trong đệ nhất bất biến, thành số dĩ hợp thiên địa, đã thể hiện ý nghĩa sâu xa sự tượng hợp thiên địa, hàm ẩn số thiên địa của Dịch, đúng như trong Tống văn giám - Long đồ tự - Đồ tam biến đã nói: "Hậu ký hợp dã; thiên nhất cư thượng vị đạo chi tông, địa lục cư hạ vị địa chi bản; thiên tam địa nhị địa tứ vi chi dụng. Tam nhược tại dương tắc tỵ (tránh) cô âm, tại âm tắc tỵ quả (thiếu, ít) dương". (Sau đã được tổng hợp lại: trời là số 1 làm tôn chỉ của đạo. Đất làm số 6 đặt làm gốc của quả đất. Thiên 3, địa 2, địa 4 đều vận dụng vào. Số 3 nếu ở tại dương thì số âm tránh được sự sô độc, còn ở tại âm thì số dương tránh được cô quả".

Lưu Mục trên cơ sở của Trần Đoàn, lại tiến hành tái tạo thêm, phát triển số thiên địa thành ngũ hành sinh thành số. Có nghĩa là phân biệt Long đồ thiên số địa số với ngũ hành sinh thành số tương kết hợp, sáng tạo nên 'Hà Lạc ngũ hành sinh thành số' nổi tiếng. Như viết: "Đó là số ngũ hành sinh thành. Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ. Đó là số sinh vậy. Như vậy thì số dương không có số để hợp, số âm sẽ không gặp may. Cho nên, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ. Dẫn đến là số âm dương đều có sự hòa hợp và may mắn, như vậy vật sẽ đắc thành, nên được gọi là thành số".

Số thiên địa của Dịch là mẫu của vạn số, có mối quan hệ mật thiết với ngũ hành sinh thành số, âm dương kỳ ngẫu số, đại diễn phệ số. Thiên số và Địa số là cơ sở của ngũ hành sinh thành số, là sản vật kết hợp giữa thiên địa số và ngũ hành của Dịch, Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập". Hán thư - Ngũ hành chí viết: "Thiên dĩ nhất sinh thủy, địa dĩ nhị sinh hỏa, thiên dĩ tam sinh mộc, địa dĩ tứ sinh kim, thiên dĩ ngũ sinh thổ". Dịch số câu ẩn đồ viết: "Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ".

Hơn nữa sự tương hợp của số thiên địa trong "Long đồ tam biến" của Trần Đoàn, cũng bắt nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc như các hữu hợp, biến hóa nhi hành quỷ thần dã". Lại viết "Trên trời là số 1, dưới đất là số 5, vị trí số 5 tương đắc sẽ có sự hòa hợp nhau, sẽ có sự biến hóa mà làm thành quỷ thần vậy".

Dịch lấy thiên số làm kỳ số là dương số; lấy địa số làm ngẫu số là âm số, từ đó mà đặt cơ sở cho kỳ ngẫu âm dương số. Như trong thiên địa số của Dịch truyện - Hệ từ viết: "Phàm thiên số đều là kỳ số, địa số đều là ngẫu số. Lấy thiên làm đương, lấy địa làm âm", qua đây ta thấy mối quan hệ sâu xa giữa kỳ ngẫu âm dương số của Dịch với thiên địa số.

Số 50 của Đại diễn là số diễn giả, dùng để chiêm phệ Dịch, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết với số thiên địa của Dịch. Bởi vì số Đại diễn là cơ sở để lấy thiên số và địa số hợp ngũ phương mà diễn giả vạn số. Hơn nữa số Đại diễn cũng thoát thai từ số thiên địa của Dịch. Đúng như Dịch truyện - Hệ từ viết: "Đại diễn chi số ngũ thập... thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử số dĩ thành biến hóa nhi hành quẻ thần dã".

Lấy kỳ số và ngẫu số tượng trưng thiên địa, được khởi nguồn từ tứ tượng pháp thiên địa mà có, từ phản ánh bắt nguồn ở tượng của số, nói rõ tính vật chất của Dịch số. Như Dịch - Thuyết quái viết: "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số", tham tức là số 3 là kỳ số (số lẻ); lưỡng tức là số 2 là ngẫu số, 'tham thiên lưỡng địa' tức là để gọi thiên kỳ địa ngẫu, thiên dương địa âm, cũng có nghĩa là để giám sát cả trời đất. Ý tứ của toàn câu là lấy số âm dương kỳ ngẫu để nắm chắc độ số của thiên địa, thông qua Ngũ âm làm số đo trời, cụ thể là lấy âm dương của số, làm thước đo âm dương của trời đất. Cho nên nói đây là nội hàm chủ yếu của kỳ ngẫu số trong Dịch.

Kỳ số và ngẫu số làm tiêu chí cho số âm dương, được bắt nguồn gốc ở hào âm hay dương, trong đó Hào dương là kỳ số, là 'dương số chi phụ' (cha của số dương); Hào âm là ngẫu số, là 'âm số chi mẫu' (mẹ của số âm). Từ đây đặt nên mối quan hệ vững chắc giữa kỳ ngẫu số và âm dương.

Kỳ số và ngẫu số cũng biểu thì cho sự 'hư - thực', vẫn bắt nguồn từ hào âm dương, trong đó ngẫu số là 'hư', kỳ số là 'thực'. Nội hàm hư thực của kỳ ngẫu số cũng được phản ánh ở Bát quái, như quẻ Ly là trung hư, quẻ Khảm là trung mãn. Cho nên trong Thái cực đồ, điểm trắng kỳ số tượng trưng cho thực, điểm đen ngẫu số tượng trưng cho hư.

Đối với triết lý, được phản ánh trong mối quan hệ giữa Dịch truyện và Lão Tử. Thứ nhất, là từ góc độ của Ngẫu số tiến hành phân tích rõ sự sinh thành của Vũ trụ, như "Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Cụ thể là sự sinh thành của Bát quái và vạn vật, thông qua kỳ số và ngẫu số của Dịch, đã phản ảnh triết lý 'nhất phân vi nhị' (một chia làm đôi), nhờ sự gợi mở của triết lý này mà người đời sau đã sáng lập nên 'Tiên thiên bát quái thứ tự đồ', và 'Thiên thiên lục thập tứ quái thứ tự đồ'. Hai đồ hình này đã bao hàm rõ nét nguyên lý 'nhất phân vi nhị', đã ảnh hưởng lớn đến thế hệ sau.

Ngoài ra, trên cơ sở 3 hào làm nhất quái của Dịch kinh, thì Dịch truyện còn đề xuất tư tưởng 'tam tài quan' của thiên địa nhân nhất thể. Trên cơ sở này, mà người đời sau đã xây dựng lập thuyết 'hàm tam vi nhất' (bao hàm 3 làm 1), như trong Tam thống lịch đời Ngụy, Mạnh Khang chú giải: "Thái cực nguyên khí, hàm tam vi nhất", có nghĩa là lấy hai con cá mầu đen trắng đại biểu cho thiên địa, đường phân giới tuyến hình chữ 's' đại biểu cho Nhân, từ đồ hình đã chỉ rõ hợp nhất tam tài thiên địa nhân.

Lão Tử đã phát triển nổi bật Kỳ số của Dịch, chủ yếu là lấy Kỳ số giải thích sự sinh thành của Vũ trụ: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Dịch truyện nhấn mạnh Ngẫu số 'nhị', đó là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lão Tử phát huy 'tam' Kỳ số, tích cực đề xuất rằng 'tam' sinh vạn vật. Dịch truyện sáng lập bộ môn sáng trói về "nhất phân vi nhị", còn Lão Tử đề xướng "nhất phân vi tam". Thuyết minh Dịch truyện và Lão Tử lấy 'tham' và 'lưỡng' để giải thích vũ trụ thông qua hình đồ triết lý diễn sinh như sau:

......................[Hào âm --> ngẫu số 2 --> nhất phân vi nhị

Tham thiên [Hào số 3 --> hàm tam vi nhất --> Trung hòa quan

Lưỡng địa [Hào dương -->Kỳ số 1 --> nhất phân vi tam

.....................(nhị hợp vi nhất)

Dịch lấy hào dương làm Kỳ số, hào âm làm Ngẫu số, Dịch ghép lấy hào ba của Kỳ số 'tổ' thành kinh quái, lấy Ngẫu số lưỡng kinh quái 'hợp' thành trọng quái. Kỳ Ngẫu số của Dịch đã xác lập định luật lấy đơn số làm 'lẻ', lấy song số làm 'chẵn', đặt cơ sở cho luật kỳ - ngẫu cổ đại. Đặc biệt là căn theo luật Kỳ số là hào dương, Ngẫu số là hào âm, đã quy định Kỳ là số dương Ngẫu là số âm, từ đây xác định nội hàm âm dương của luật Kỳ - Ngẫu, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế cho đến tận này nay. Như trong Bạch hổ thông - Giá tụ Ban Cố viết: "Dương số Kỳ, âm số Ngẫu", đã nói rõ kỳ ngẫu của Dịch có quan hệ mật thiết đối với sự hình thành của luật kỳ ngẫu âm dương.

Luật kỳ ngẫu âm dương đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với nhiều bộ môn: lịch pháp, thuật số, chiêm phệ, vận khí học,... của thời cổ đại. Như thời tính Can chi kỷ (12 năm), lấy kỳ số làm dương Can, ngẫu số làm âm Can, học thuyết Vận khí trong Hoàng đế nội kinh cũng như vậy. Lại như các thuật số Thái ất, Kỳ môn, Lục Nhâm cũng đầu lấy âm dương kỳ ngẫu làm tiền đề: hào âm tượng trưng cho 'nhất phân vi nhị', hào dương có ý chỉ 'hợp nhị vi nhất'.

Dịch truyện dựa trên cơ sở Dịch kinh, đã xác minh rõ quan niệm về sự thống nhất đối lập ẩn tàng trong luật kỳ ngẫu của các hào âm và hào dương, hoàn toàn phù hợp với số sinh tượng, tượng sinh lý, có nghĩa là quy luật tư duy trìu tượng sản sinh ở tư duy hình tượng, tiến thêm một bước chứng thực quan điểm 'tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số'. Từ đây mà tư tưởng biện chứng được xác lập.

Gọi là luật chính phản, có nghĩa là chỉ hướng chính và hướng phụ của sự vật. Bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều tồn tại hai mặt chính phản (phải trái), tức có chính hướng tất có phản hướng, bao gồm hư thực u ẩn, khai hợp (khép mở), minh ám (sáng tối), trú dạ (ngày đêm), tử sinh,... Hào dương và hào âm của Dịch kinh, có hắc ngư và bạch ngư trong Thái cực đồ, rồi tới hắc điểm và bạch điểm của Hà đồ Lạc thư, tất cả đều tàng ẩn chứa đựng nguyên lý thư thực chính phản, mà còn đều lấy Kỳ làm chính hướng làm thực, lấy Ngẫu làm phản hướng làm hư; đối với Hà Lạc cũng vậy: Kỳ số là chính là thực, Ngẫu số là phản là hư.

Luật chính phản là luật đặc hữu của Dịch, là sự phát triển đặc thù của quy luật mâu thuận của Dịch, mà chủ yếu chỉ tính chất hư thực, u hiện (kín lộ), khai hợp (đóng mở), để làm sáng tỏ quy luật chính phản của sự vật. Cụ thể như hào âm của bát quái là hư số, còn Hào là thực số vậy. Cũng như số ẩn (độn số) của Kỳ môn độn Giáp, các hào trong Kỳ môn gồm: Độn - Giả - Mộ - Tỵ (tránh) - Huyệt - Phục thì đều thuộc ẩn thuộc hư, còn Kỳ - Môn - Tiến - Du - Phi - Sư thì đều là các hào hiển lộ rõ, là thực. Sau đó Kỳ môn dựa vào đó suy diễn hư thực, chiêm đoán cát hung, đạt đến mục đích tránh được họa, được hưởng phúc.

SỐ ĐẠI DIỄN

Số Đại diễn là thành phần chủ yếu của Dịch số. Đại diễn tức là diễn ngữ, diễn dịch, là chỉ về phương pháp dùng thẻ bằng cỏ Thi để diễn dịch xem đoán vận số. Số Đại diễn là tổng hòa của thiên số và địa số trong Dịch: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập".

Số Đại diễn sở dĩ lấy 'ngũ thập' là do thời cổ đại, lấy 'ngũ thập' làm cực số tự nhiên quan trọng, nguyên nhân là do số 'ngũ thập' có đầy đủ nội hàm với vũ trụ thiên văn. Như trong Hoàng đế nội kinh nói: "nhân khí hành Kinh mạch ngũ thập doanh", nhấn mạnh 'ngũ thập doanh' là số thọ của phép dưỡng sinh. Linh Khu - Ngũ thập doanh viết: "ngũ thập doanh bị, đắc tân thiên chi thọ hỉ" (được số thọ của cả trời đất). Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt dẫn lời Kinh Phòng nói: "Ngũ thập giả, vị thập nhật, thập nhị thìn, nhị thập bát tú dã". Mã Dung cũng nói: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thập tứ khí, phàm ngũ thập" (khái quát lại là năm mười)

Số Đại diễn 'ngũ thập hữu ngũ', còn có thuyết là số căn cứ để vua Đại Vũ trị thủy thời cổ đại, như trong Chu bễ toán kinh nói "Vũ trị hồng thủy, bắt đầu mở rộng vận dụng và bỏ lược đi phần huyền hoặc nên gọi là số đại diễn".

Số Đại diễn là điển phạm lấy Số mà nghiên cứu Tượng, tuy là số chiêm toán, nhưng lại có mối tương quan mật thiết với vũ trụ sinh thành, lý luận này bắt nguồn từ ở Thái Nhất (Bắc Thìn) ở trong bất động, là bối cảnh thiên văn vũ trụ xoay chuyển của 49 ngôi sao bắc đẩu tinh tọa, Mã Dung viết: "Hợp thái cực, lưỡng nghi, tứ thời, ngũ hành, thập nhị nguyệt, nhị thập tứ khí vi ngũ thập, nhi giảm khứ bắc thìn chi nhất vi dụng tứ thập cửu. Dịch hữu thái cực vị bắc thìn dã. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thấp tứ khí. Bắc thìn cư vị bất động. Kỳ dư tứ thập cửu, chuyển vận nhi dụng dã". Giảm bớt đi số 1 của bắc thìn, xem như giảm một ngày để dùng số 49. (Dịch có thái cực gọi là bắc thìn. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh 4 mùa, bốn mùa sinh 5 hành, 5 hành sinh ra 12 tháng, 12 tháng sinh ra 24 khí. Sao ở Bắc cực ở vị trí bất động, ngoài ra còn lại 49, được chuyển vận mà sử dụng)

Số Đại diễn ngoài hàm chứa tính thiên văn ra, thì cũng hàm chứa cả số âm dương, cụ thể là số "dư" từ số Đại diễn sau khi kinh qua tam biến của chiêm phệ, lấy đó trừ đi 4 thì được 9 là lão dương số, được 6 là lão âm số, được 7 là thiếu dương số, được 8 là thiếu âm số, bốn số này cũng tức là âm dương tứ tượng. Ngoài ra, số lão dương và số lão âm được lấy làm tiêu chí của hào dương và hào âm trong Dịch.

Số Hà Lạc là sự hợp nhất của số thiên địa, số đại diễn và số sinh thành. Tổng số của Hà đồ là "ngũ thập hữu ngũ" (năm mươi dư năm), đây là số tổng hòa trong Dịch, mà Lạc thư tổng số là "tứ thập hữu ngũ" (bốn mươi dư năm). Hai số đại diện cho chính - phản, trái phải của số Đại diễn.

Thổ khí là nguyên cớ của vạn vật. Được gọi là số 'sinh' gồm các số 1, 2, 3, 4, 5 là số tượng trưng cho thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; trong đó số của Thổ là nguyên cớ cho bốn số đứng ở ngôi vị trước mà ỷ vào (nhi ỷ số: số dựa vào) mà được thành số 6, 7, 8, 9, 10. Tổng hòa của Hà đồ sinh thành số cũng là 'ngũ thập hữu ngũ'.

Phệ số tức là số bói quẻ bằng cỏ Thi 'kỳ dụng tứ thập hữu cửu' (dùng số bốn mươi dư chín). Thi số là chỉ phệ số của 'tứ thập hữu cửu' rút ra trong 'ngũ thập' của số Đại diễn một "can rễ" không dùng, thông qua sự biến hóa của bói toán (phệ biến), thì thấy được sự dung nhất giữa ba bộ môn số - tượng - lý.

Sách số là chỉ Càn Khôn sách số có nguồn gốc từ lấy số 4 đại diện cho tứ doanh nhân với 9 là số 'dụng cửu' của hào dương mà thành 36, tiếp theo lại nhân với 6 của hào dương mà thành 216 sách số của Càn. Số 4 của tứ doanh nhân với số 6 là số 'dụng lục' của hào âm thành thành 24, lại nhân tiếp với 6 của hào âm thì được 144 là sách số của Khôn, tổng hòa của sách số là 'tam bách hữu lục thập', đây là chỉ số của một vòng quay mặt trời thời xưa. Cho nên, Càn Khôn sách số là tiêu chí chỉ sự vận hành của thiên địa, cũng tức là Càn Khôn sách số của 28 vì sao quanh bầu trời vòng quay hết 64 quái 384 hào.

Số chỉ vạn vật là số 11520, là một khí số quan trong thời cổ đại, được tổ hợp từ sách số của Càn là 36 nhân với 192 hào dương được 6912, sách số của Khôn là 24 nhân với số hào âm được 4608, cộng lại thành số 11520. Phệ số và số phi ức có sự tương quan mật thiết giữa số chỉ vạn vật với khí số thiên văn (số phi ức: số không ức đoán hoặc số không phán đoán được).

Thiệu Ung đã phát triển phệ số, lấy bát quái tự số (số thứ tự) và lục hào số làm cơ sở của phệ số, để tiến hành bói toán diễn dịch, và trên cơ sở của Càn Khôn sách số và số chỉ vạn vật, xây dựng thuyết "vạn vật giai số". Chỉ ra số chung thủy của thiên địa là số 1.216.192.320, số trước sau của trời đất.

Trần Đoàn kết hợp giữa số Đại diễn và số hà lạc, mà sáng chế ra "Hà lạc lý số". Tức là sự đối ứng giữa việc lấy năm tháng ngày giờ sinh ra con người, với số can chi Hà đồ Lạc thư và bát quái, từ đây mà chiêm nghiệm mệnh số của con người. Với đặc điểm có đủ diễn biến thừa tiếp của tiên thiên quái và hậu thiên quái, lấy Giờ sinh của con người định ra vị trí hào động của tiên thiên quái, sau lại biến thành hậu thiên quái, để xét mệnh vận lâu dài.

Số bát quái do số đại diễn của Dịch bao quát, được Đại Tử Bình phát triển thành phương pháp xem Bát tự, tức tứ trụ mệnh học, cụ thể là phối ứng giữa can chi của năm-tháng-ngày-giờ sinh, kết hợp với quy luật âm dương ngũ hành sinh khắc, để tiến hành chiêm nghiệm vận mệnh nhân sinh.

Huệ Đống nói: "Hư ngũ nhi hữu diễn, hư nhất nhi khả dụng, nhất dữ ngũ giai đạo chi bản dã" (Số 5 hư mà có thể diễn dịch, số 1 hư mà có thể khả dụng, số 1 và số 5 đều là gốc của đạo vậy".

THUYẾT VỀ PHỆ PHÁP

Phệ pháp là phương pháp xem bói theo Dịch. Hệ từ thượng truyện nói: "Dịch là đạo của thánh nhân, gồm bốn phương diện, mà thứ nhất là chiêm bói". Bài 'Đại diễn chi số' cũng là bài riêng trình bầy chi tiết về yếu chỉ của phép bói. Thiên Phệ nghi trước là do Chu Hi soạn ở đầu quyển Chu dịch bản nghĩa đã trình bầy rõ về phép bói.

Trước hết, chuẩn bị 50 thẻ cỏ thi đựng vào trong ống. Phía nam ống đặt một khay gỗ, chia làm hai ô to, ô to bên trái lại được chia làm 3 ô nhỏ. Khi bói, hai tay cầm 50 sợi cỏ thi, tay phải nhặt ra một thẻ đặt vào trong ống (đây là điều mà Hệ từ truyện gọi là: Số đại diễn 50, sử dụng có 49, còn gọi là 'hư nhất bất dụng'). Rồi lấy cả hai tay tùy ý chia đôi 49 thẻ đặt vào hai ô to bên trái và bên phải của khay gỗ. Đây gọi là 'doanh thứ nhất' (doanh có nghĩa là kinh doanh), cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: chia ra làm hai để tượng trưng cho lưỡng nghi. Tiếp đó, dùng tay trái cầm lấy số thẻ trong ô to bên trái, tay phải nhặt lấy 1 thẻ trong ô to bên phải, rồi cài vào khe ngón tay út trái. Đây tức là 'cài 1 để tượng trưng cho tam tài: trời đất người'. Tiếp theo, dùng tay phải đếm 4 thẻ một số thẻ ở tay trái. Đây tức là nửa trước 'của doanh thứ ba', cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'đếm bằng số 4 để tượng trưng tứ thời'. Tiếp đó, lấy số thẻ sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, kẹp vào khe ngón tay vô danh của tay trái. Đây tức là nửa trước của 'doanh thứ tư', cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: 'quy số lẻ về chỗ kẹp để tượng trưng cho nhuận'. Tiếp theo, dùng tay phải trả lại số thẻ đã đếm vào ô lớn bên trái, rồi cầm lấy số thẻ trong ô lớn bên phải, và dùng tay trái đếm 4 thẻ một. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ ba'. Tiếp theo, lại lấy số thẻ, sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, như trước kẹp vào khe ngón tay giữa của tay trái. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ tư', đây cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'kẹp lần hai để tượng trưng cho hai lần nhuận'.

Bây giờ, những thẻ thừa ra trong hai lần đếm đã kẹp được, ô lớn bên trái thừa 1 thẻ, thì ô lớn bên phải thừa 3 thẻ; Bên trái thừa 2 thẻ thì bên phải thừa 2 thẻ; Bên trái thừa 3 thẻ thì bên phải thừa 1 thẻ; Bên trái thừa 4 thẻ thì bên phải cũng thừa 4 thẻ. Lấy số thẻ thừa của hai lần đếm, nhập vào số thẻ của một lần cài, thì được không phải là 5 thẻ thì 9 thẻ. Bốn doanh thế là xong. Dùng tay phải, lấy số thẻ đã đếm, đưa trở lại vào ô to bên phải, gộp với số thẻ đã qua 1 lần cài 2 lần kẹp, đặt vào ô nhỏ thứ nhất bến trái khay gỗ. Đó là hoàn thành một lần biến. Tổng số thẻ thừa có được sau lần biến thứ nhất 'không 5 thì 9'.

Sau lần biến thứ nhất, dùng hai tay lấy số thẻ đã đếm xong 1 lần biến, ở hai ô to bên trái và bên phải khay gỗ, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh ở lần biến thứ nhất, lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ hai bên trái. Đó là hoàn thành 2 lần biến. Tổng số thẻ thừa sau lần biến thứ hai là 'không 4 thì 8'.

Sau lần biến thứ hai, đêm số thẻ đã đếm của lần biến thứ hai, ở trong 2 ô to bên trái và bên phải, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh như lần biến thứ nhất, thứ hai, mà lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ ba bên trái. Đó là hoàn thành ba lần biến. Tổng số thẻ thừa có được lần biến thứ ba là 'không 4 thì 8' (giống lần biến thứ hai).

Xong ba lần biến, thì mới xem số thẻ đã đếm của lần biến thứ ba, và số thẻ cài kẹp thu được của 3 lần biến, mà vạch thành từng hào. Số thẻ cài kẹp thu được sau ba lần biến là 5, 4, 9, 8. Các số 4, 5 là lẻ (trong hai số này, đều chỉ chứa một số 4, nên gọi là lẻ). Các số 9, 8 là chẵn (trong hai số ngày, đều chứa hai số 4, nên gọi là số chẵn). Tổng hợp lại số 1 cài 2 kẹp và số chẵn hay lẻ như sau: gọi là 3 số lẻ, tức là 5, 4, 4 thì gọi là 'tam thiểu', gộp lại là 13, thì số thẻ đã đếm là 36 (49 - 13), đem chia cho 4 được 9, gọi là Lão dương, phép bói gọi là "trùng".

Nếu số cài kép thu được sau 3 lần biến là 2 số lẻ 1 số chẵn (tức 5, 4, 8 hoặc 9, 4, 4), thì gọi là 'lưỡng thiểu nhất đa', gộp là là 17 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 32 (tức 49 - 17), đem chia 4 được 8, là Thiếu âm, còn gọi là "sách".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 2 số chẵn 1 số lẻ (tức 9, 8, 4 hoặc 5, 8, 8), thì gọi là 'lưỡng đa nhất thiểu', gộp lại là 21 thẻ, vậy là số thẻ đã đếm là 28 (tức 49 - 21), đem chia cho 4 được 7, là Thiếu dương, còn gọi là "đơn".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 3 số chẵn, tức là 9, 8, 8, thì gọi là 'tam đa', gộp lại là 25 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 24 (tức 49 - 25), đem số thẻ đã đếm chia 4 được 6, là Lão âm, còn gọi là "giao".

Bốn doanh thành một biến, ba lần biến thì được một hào, 18 lần biến thì được 6 hào mà thành quẻ. Hào thu được trong 3 lần biến đầu gọi là Sơ hào. Hào thu được của lần biến thứ 4 đến thứ 6 là Nhị hào. Hào thu được của lần biến thứ 7 đến thứ 9 là Tam hào. Hào thu được của lần biến thứ 10 đến thứ 12 là Tứ hào. Hào thù được của lần biến thứ 13 đến thứ 15 là Ngũ hào. Hào thù được của lần biến thứ 16 đến thứ 18 là Thượng hào.

Quẻ bói được gọi là "bản quái", quẻ biến thành gọi là "chi quái". Phép bói thời cổ dựa vào tình hình biến và bất biến của Bản quái (quẻ chiêm được), mà chiêm đoán cát hung lợi hại. Sách Chu dịch khải mông của Chu Hi quy nạp thành 7 điều như sau:

1. Một hào biến thì xem ở lời hào biến của Bản quái.

2. Hai hào biến thì xem ở lời của hai hào biến của Bản quái, nhưng vẫn lấy hào trên làm chính.

3. Ba hào biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái và Chi quái, đồng thời lấy Bản quái làm "Trinh" (trong), Chi quái làm "Hối" (ngoài).

4. Bốn hào biến thì xem hai hào bất biến ở Chi quái, vẫn lấy hào dưới làm chính.

5. Năm hào biến thì xem ở hào bất biến của Chi quái.

6. Sáu hào biến thì xem ở hai hào Dụng ở quẻ Càn và quẻ Khôn, những quẻ còn lại xem ở Thoán từ và Chi quái.

7. Sáu hào đều không biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái.

Trong quá trình bói Dịch, được một quẻ sáu hào, nếu có một, hai, hoặc mấy hào biến động, thì hào ấy gọi là "động hào", cũng gọi là "biến hào". Sách Chu dịch khải mông của Chu Hy có bàn về quy định của các lệ này. Đời sau, các nhà Dịch học có người coi đó là Pháp thức, nhưng cũng có người chỉ trích.

Thượng Bỉnh Hòa soạn sách Chu dịch cổ phệ khảo căn cứ vào thuyết sẵn có của Chu Hi, và chỉ ra rằng: "Quẻ có nhất hào động, nhị hào động, tam hào động, thậm chí tứ hào, ngũ hào, lục hào toàn động. Ta gặp quẻ này thì suy đoán thế nào? Nay xét thành lệ của người xưa, cùng những điều bàn luận quy định của Chu Tử lấy đó làm pháp thức. Song chẳng thể câu nệ. Vì Dịch quý ở chỗ chiêm nghiệm sự biến dịch. Sự thông biến của Tượng và Từ, cùng sự ứng hợp với sự thực, sự gợi ý của thần minh, đều là thiên biến vạn hóa, có những điều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên không thể cố chấp. Cần phải căn cứ vào Sự mà chọn lấy Từ, quan sát Tượng mà ấn chứng với Ta, bỏ chỗ sơ mà dùng chỗ thân".

Thượng Bỉnh Hòa còn tập hợp các lời bói trong Sử truyện làm chứng cứ, nói rõ những tình huống mà Chu Hi nêu ra, và chỉ ra rằng, khi bói Dịch đều phải kết hợp quái tượng của Bản quái và Chi quái để suy đoán cát hung, ông chỉ trích mạnh thuyết "Càn Khôn chiêm nhị dụng" của Chu Hi, cho rằng Nhị dụng chỉ chứng tỏ phép bói Dịch dùng Cửu - Lục, không dùng Thất - Bát, quyết không phải là lời chiêm đoán của quẻ Càn và Khôn, và chỉ rõ: "Đặt ra cái đó, mà lời chiêm đoán của sáu hào đều biến, thì 62 quẻ còn lại, đều nên có lời chiêm đoán của sáu hào biến, thế mà sao lại không có? Hơn nữa, trong Dịch, nhất, nhị, tam, tứ, ngũ hào biến đều chưa xem tới, mà đột ngột xem tới lục hào biến, về nghĩa khó thông, về lệ cũng không thỏa đáng".

Lại nói: "Xét, phép cũ của cổ nhân, thường xem lời Thoán truyện mà đoán. Nhưng Thoán truyện thường không sát với ta, thì xem cái gì phù hợp mà suy đoán, thế thì quan sát Tượng quẻ là hơn".Có nghĩa là, vừa phải dựa vào Quái từ, vừa phải coi trọng việc phân tích hàm nghĩa của Quái tượng".

"Dịch vốn là dùng để bói, không nắm được phép bói, ý nghĩa của "cửu - lục", thì không biết vì sao lại như vậy, và càng khó lý giải về chương Đại diễn của Hệ từ. Ngay sách Xuân Thu nói "mỗ quái chi mỗ quái" là cũng chưa nắm được duyên do. Vì vậy, người học Dịch trước hết phải nắm vững phương pháp của phép bói. Nay ta sử dụng Phệ nghi do Chu Tử lưu truyền lại. Vậy thì Phệ nghi là do Chu Tử chế định ra, hoặc có thể do tiên nho truyền lại, Chu Tử không nói gì, bất tất phải bàn luận gì thêm".

ĐƠN SÁCH TRÙNG GIAO

Từ sau đời Hán, người bói dùng đồng tiền thay cho 50 cọng cỏ Thi. Bói được hào Thiếu dương, thì gọi là "Đơn", tức giống như đếm cỏ Thi mà gặp "lưỡng đa nhất thiểu", số của nó là 7, vẽ thành phù hiệu --(vạch dương); Bói được hào Thiếu âm, thì gọi là "Sách", tức khi đếm cỏ Thi gặp "lưỡng thiểu nhất đa", số của nó là 8, vẽ thành phù hiệu - - (vạch âm). Bói được hào Lão dương, thì gọi là "Trùng", tức là đếm cỏ Thi gặp "Tam thiểu", số của nó là 9, vẽ phù hiệu (hình vuông); Bói được hào Lão âm, thì gọi là "Giao", tức là khi đếm cỏ Thi gặp "Tam đa", số của nó là 6, vạch thành phù hiệu X (dấu nhân).

Trịnh Huyền chú Nghi lễ - Sĩ quan lễ có đoạn "phệ dữ tịch" kể đến phép lấy tiền thay cỏ Thi như sau: "Lấy 'tam thiểu' làm "trùng tiền", trùng tiền thì 9; 'tam đa' làm "giao tiền", giao tiền thì 6; "lưỡng đa nhất thiểu" làm "đơn tiền", đơn tiền thì 7; "lưỡng thiểu nhất đa" làm "sách tiền", sách tiền thì 8".

Bói Dịch, ba lần biến mà được số [9 - 8 - 8] thì gọi là Tam đa. Tức là biến lần đầu được 9, lần thứ hai và thứ ba đều được 8, thì được hào Lão âm. Ba lần biến của việc bói Dịch khi được số [5 - 4 - 4] thì gọi là Tam thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được số 5, lần biến thứ hai và thứ ba đều được số 4, thì được hào Lão dương. Sau ba lần biến được số [9 - 8 - 4] hay [5 - 8 - 8] thì gọi là Lưỡng đa nhất thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được 9 hoặc 5, lần biến thứ hai được 8, lần biến thứ ba được 4 hoặc 8, thì được hào Thiếu dương. Sau ba lần biến được số [5 - 4 - 8 (5-8-4)] hoặc [9 - 4 - 4] thì gọi là Lưỡng thiểu nhất đa, thì được hào Thiếu âm.

Số thẻ cài kẹp được "Tam cơ", ví như [5 - 4 - 4], cộng là 13 thẻ, là số đã qua gọi là số "phục". Số còn lại là 36 thẻ, là Lão dương, là số hiển hiện hay số "phi". Do vậy, số cho hào "phục" gồm số Tam cơ là 13 - 25 và số Tam ngẫu là 17 - 21.

Lý Lâm Phủ chú: "Dùng 49 thẻ, chia ra mà đếm. Về biến có 4 loại: một là hào Đơn, hai là hào Sách, ba là hào Giao, bốn là hào Trùng. Tất cả 18 lần biến mà thành quẻ".

Hệ từ - Thượng truyện viết: "Tam ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số; Thông kỳ biến, toại thành thiên địa chi văn; Cực kỳ số, toại đinh thiên hạ chi tượng". = Năm ba lần biến hóa, đan xen tổng hợp các số. Biến đã thông, thì thành vẻ đẹp của trời đất; Số đã cực, thì định được tượng của thiên hạ. Lý Đỉnh Tộ dẫn lời Ngu Phiên nói: "Số là số của sáu vạch. Sáu hào biến động, đạo tam cực sinh, vì vậy mà tạo thành tượng cát hung trong thiên hạ".

Khổng Dĩnh Đạt giải thích: "Cực kỳ số, chỉ sự tính toán cùng cực số âm dương, để định ra tượng muôn vật trong thiên hạ, như là tính toán cùng cực 216 thẻ để định ra tượng Lão dương của Càn. Tính toán cùng cực 144 thẻ để định ra tượng Lão âm của Khôn. Nêu ra Càn Khôn, thì những cái khác là có thể biết được vậy".

Thượng Bỉnh Hòa giải thích "Tam ngũ dĩ biến" trong Chu dịch thượng thị học nói: "Số hào đến 3, nội quái đến đó là cuối. Cho nên, nói hẳn phải biến đổi" (Hào số chí tam, nội ngoại chung hỉ cố viết tất biến". Đây là nói theo Tam tài, còn nói theo Ngũ hành, thì đến năm là đủ, cho nên quá năm là phải biến đổi.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu dịch chính nghĩa khi nói về hào Sơ Cửu quẻ Càn viết: "Số 7 là Thiếu dương, số 8 là Thiếu âm, số 9 là Lão dương, số 6 là Lão âm".

Nhà sư Nhất Hạnh đời Đường cho rằng, khi đếm cỏ thì bói quẻ, ba lần biến đều là lẻ, tức là "Tam cơ", còn gọi là Tam thiếu, được số 9 tức là tượng quẻ Càn; Đều là chẵn, tức là Tam ngẫu, cũng gọi là Tam đa, được số 6, là tượng của quẻ Khôn. Càn Khôn là Cha Mẹ, nên gọi Cửu Lục là Lão dương Lão âm. Ba lần biến, hai chẵn một lẻ, tức "lưỡng đa nhất tiểu", được số 7, là tượng của các quẻ Chấn Khảm Cấn. Còn trong ba lần biến được hai lẻ một chẵn, tức "lưỡng thiểu nhất đa", được số 8, là tượng các quẻ Tốn Ly Đoài. Sáu quẻ này là ba trai ba gái mà Càn Khôn sinh ra, nên gọi Thất Bát là Thiếu âm Thiếu dương.

Thuyết của Nhất Hạnh nói:

Ba lần biến đều là thiểu là tượng của quẻ Càn, Càn là Lão dương, mà số dư của phép đếm 4 được 9 nên gọi là Cửu.

Ba lần biến đều là đa là tượng của quẻ Khôn, Khôn là Lão âm, mà số dư của phép đếm 4 được 6, nên gọi là Lục.

Ba lần biến mà một lần thiểu là tượng các quẻ Chấn Khảm Cấn, ba quẻ này là Thiếu dương, mà số dư phép đếm 4 được 7, nên gọi là Thất.

Ba lần biến mà một lần đa là tượng của các quẻ Tốn Ly Đoài, ba quẻ này là Thiếu âm, mà số dư của phép đếm 4 được 8, nên gọi là Bát.

Cho nên, những số Thất Bát Cửu Lục là do số dư mà đặt tên là Âm Dương. Âm Dương sở dĩ là Lão Thiếu không phải vì điều đó, mà vì là tượng của Bát quái trong ba lần biến.

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu". Triết lý của Dịch cho rằng, quy luật của sự vật khi phát triển đến cùng cực thì sẽ biến hóa, khi đã biến hóa thì sẽ thông suốt, khi đã thông suốt thì sẽ lâu bền.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa viết: "Đạo của Dịch khi cùng thì tùy theo thời mà biến đổi, khi đã biến đổi thì có sự khai thông, khai thông thì được lâu bền, cho nên nói 'thông' tất 'bền' vậy".

Du Diễm - Chu dịch tập thuyết viết: "Đến thời biến, thì phải biến, nếu không biến sẽ cùng, đó là đạo có biến tất có thông của Dịch. Có biến sẽ có thông, tức là tùy theo thời. Dân hãy còn hăng hái, chưa thấy mệt mỏi chán ghét, Thánh nhân không được bắt họ từ bỏ cái chí hăng hái đó; dân chưa được yên ổn Thánh nhân không được bắt buộc họ phải hăng hái làm việc. Chỉ đến khi số đã cùng, thời đã biến, lúc đó Thánh nhân nhân đó mà biến thông thúc đẩy, có như vậy dân mới không mệt mỏi. Nếu không dân sẽ cảm thấy phiền nhiễu, chán ghét, làm sao không mệt mỏi được? Cứ như vậy mà thuận theo, không cần biết lý do tại sao, như vậy là "thần"; thuận hành dần dần biến cải, không cần câu thúc vào ngôn từ để hướng dẫn hành động, như vậy là "hóa". Theo đạo "thần hóa", đó là đạo dạy dân, dưỡng dân của Thánh nhân đấy, nếu không theo đạo đó, tất dân không chịu theo.

Đạo của Dịch không có cùng, chỉ có số mới cùng. Số dương cùng ở số 9, số âm cùng ở số 6. Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu dài, lâu dài thì lại cùng. Do vậy, "nếu được trời giúp thì tốt, không có cái gì không lợi vậy".

Theo nghĩa "Dịch biến" và "Dịch bất biến" làm chuẩn mực để sáng tỏ về lẽ động tĩnh của nhân sự: Số cơ ngẫu là 7 - 8 vậy; giao trùng là 6 - 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7 - 8 là "Dịch bất biến", hào vạch theo số 6 - 9 là "Dịch biến" vậy. Quẻ tuy là "dịch bất biến", mà trong lại có "dịch biến", thì có nghĩa là 'hanh'. Hào tuy là "dịch biến", mà trong lại có cái "dịch bất biến", thì gọi là 'trinh'. Phép xem Hồng Phạm dùng hai chữ "trinh - hối", "trinh" tức là tĩnh, "hối" tức là động. Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ dùng; Thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ xử; Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt; Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đâu cho thoát được.

Tiên Nho khi nói Quái biến thì chưa có sự chuyển dịch về cương nhu âm dương, đảo ngược vị trí trên dưới. Nay lấy Càn làm Khôn, lấy Thủy làm Hỏa, lấy trên làm dưới, làm rối ren chìm đắm, thường thì tượng Dịch từ đây mà nhầm lẫn vậy. Du Việt theo thể lệ Bàng thông "thành Ký tế định" của Ngu Phiên, và phép "thăng - giáng" của Tuân Sảng, bàn chung về cái lý "cùng tất biến, biến tất thông" của các quẻ Dịch.

Trong Dịch, có 192 hào âm và hào dương "đắc chính", cũng đồng thời tồn tại 192 hào âm và hào dương "thất chính"; Được chính tức là Ký tế định, thất chính sẽ hóa thất chính thành chính, rồi sau đó mới có thể định. Cho nên đối với những quẻ Bàng thông, bỉ thử giao dịch lẫn nhau, thì trong 192 hào, có 96 hào âm gặp hào dương; hoặc 96 hào dương gặp hào âm, do vậy có thể biến dịch được. Có 96 hào âm gặp hào âm, hoặc hào dương gặp hào dương, do vậy không biến dịch. Có thể biến dịch, thì gọi là "thông", không thể biến dịch, thì gọi là "cùng"; Cùng tất sẽ có biến và có phép của sự biến thông, biến tất sẽ có hóa, hóa tất sẽ chuyển từ bất chính thành chính.

Lại nói rằng, muốn biết Lý "cùng - thông", thì trước hết phải biết lý "thăng - giáng" của âm dương, đây là thuyết của Tuân Từ Minh, muốn biết cái lý "thăng - giáng", trước hết phải biết cái lý "cùng - thông", đây là thuyết của Ngu Trọng Phiên. Tham nhập hai thuyết làm một, đó là do Tiêu Lý Đường.

Tóm lại, hào quẻ có thể thông với các quẻ khác, thì gọi là "thông", khi hào quẻ không thông với các quẻ khác thì gọi là "cùng". Cùng, mà tự biến đổi âm dương của mình, tức là hóa bất chính thành chính, thì gọi là "biến hóa".

THUYẾT VỀ "KHÍ" CỦA TRƯƠNG TẢI

HÀM NGHĨA CHUNG VỀ KHÍ

Khí là nguồn gốc hoặc là bản thể của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Khí là thứ vật chất tinh vi, chuyển động không ngừng, Khí là cơ sở thống nhất của Thiên Địa vạn vật, là nguồn gốc sinh thành vạn vật. Lý luận này có liên quan đến thuyết sinh – thành vũ trụ cổ đại. Khí là nguyên nhân sự tồn tại của thiên địa vạn vật, cho nên Khí không là hình thái vật chất cụ thể nào, nó không có hình thể, không có âm thành và hình thái. Như vậy, những người đưa ra và theo thuyết Khí bản thể luận đã loại bỏ ý kiến cho rằng Lý, Thái cực, Đạo có trước Khí, và chúng ngự ở trên Khí để chi phối Khí; họ chỉ rõ: Khí là bản thể cao nhất. Mặt khác, họ thuyết minh mối liên kết giữa Khí với Thái hư, và nêu rõ: Khí là phạm trù thông thường mang nội dung trừu tượng.

Khí là nguyên tố hoặc chất liệu của tồn tại khách quan. Chất liệu này, nguyên tố này hoặc hữu thể, hữu hình, có thể thấy được, có thể nghe được; hoặc là vô hình, vô thể, không thấy được, không nghe được. Khí là hiện tượng vật chất vi nhỏ, là thứ hỗn độn chưa có hình chất, sau khi ngưng tụ mới trở thành có hình có tượng. Nghiên cứu Khí sẽ nhận thấy tính thống nhất của vạn vật trên thế giới, nghĩa là thấy được bản chất chung của những hiện tượng và của vạn vật. Những học gia theo quan điểm Khí bản thể luận, thì coi Khí là phạm trù cao nhất của kết cấu logic triết học lý luận mà họ tin theo. Các học gia theo quan điểm Lý học bản thể luận và Tâm thức bản thể luận cũng cho rằng: Khí có tính vật chất và tính năng động, Khí nhập vào Đạo, vào Lý, vào Thái cực, và vào Tâm, đó là nguyên tố, chất liệu hoặc khâu trung gian để cấu tạo nên thế giới muôn vật.

Khí là thực thể khách quan có động thái công năng. Khí không ngừng chuyển động biến hóa, lúc thì tụ vào, lúc thì tản ra, nghi ngút, khi bay bổng, khi trầm lắng, lúc co đặc, lúc dàn mỏng, … Chuyển động biến hóa chính là hình thức và điều kiện tồn tại của Khí. Nếu Khí không có công năng động thái này thì Khí không tồn tại và chẳng có giá trị gì. Khí hàm chứa cặp âm dương đối lập thống nhất, Khí là bản chất của vật, cho nên Khí chuyển động biến hóa không ngừng thì mọi vật luôn chuyển động và biến hóa. Vai trò của Khí trong một hệ thống được xem như thứ vật chất trung gian môi giới, chuyển động biến hóa của Khí mà tạo tác nên muôn vật, thuộc tính của Khí cũng ảnh hưởng đến muôn vật.

Khí là sinh mạng của con người. Con người sống thọ hay chết yểu, đức tính con người thiện hay ác, đời sống vật chất giầu hay nghèo, sang hay hèn, địa vị tôn quý hay ti tiện, đều liên quan đến Khí. Khí chuyển động ở cơ thể con người thực hiện đạo dẫn thần khí, đấy chính là công pháp nhằm điều chỉnh cơ năng sinh lý cơ thể con người, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường sinh lực và khả năng miễn dịch, trị bệnh kiện thân, kéo dài tuổi thọ. Vì thế Khí là đồng hồ sinh học mang nội dung những thông tin về sinh mệnh cơ thể người, bởi vì con người bẩm thụ khí mà sinh ra. Khí có Khí trong sạch và Khí vẩn đục, Khí u ám, Khí quang minh, Khí thành hiền, Khí thô bỉ, do bẩm thụ Khí khác nhau mà từng con người có tư chất, thọ yểu, quý tiện khác nhau.

Khí là vật chất môi giới hoặc môi thể đầy ắp trong vũ trụ. Trong khoảng không vũ trụ, các hành tinh như nhật nguyệt trăng sao, cùng chuyển động trong một trật tự hài hòa, mọi sự vật tương hỗ cùng tồn tại trong một hệ thống, giữa các sự vật đó có một dòng Khí quán thông với nhau, làm cho các vật thể có sức hút để giữ lấy nhau, và có lực đẩy để khỏi va chạm vào nhau. Sức hút ấy, lực đẩy ấy, gọi là “ái cự lực”. Nó làm cho mọi vật trong vũ trụ vừa cự nhau vừa dựa vào nhau mà tồn tại. Khí chính là môi giới hoặc môi thể làm cho ánh sáng, âm thanh được phát ra và truyền đi lan tỏa rộng khắp. (Khí hút nhau gọi là “ái lực”, khí đẩy nhau gọi là “cự lực”, cái gọi là “ái cự lực” tạo nên sự chuyển động trong mâu thuẫn tự thân của Khí)

Khí là phẩm cấp đạo đức. Khí là do tụ nghĩa mà sinh thành một lý tưởng đạo đức, Khí này đầy ắp giữa khoảng trời đất, nó quán thông với Khí của đất trời. Thứ Khí này, không phải thứ huyết khí cụ thể, mà là tri Khí, thần Khí, là một loại tinh thần, ý thức hoặc ý chí, đó cũng là sự tu dưỡng đạo đức.

Khí hàm nghĩa vừa là thực thể của tồn tại khách quan, vừa là tinh thần đạo đức của chủ thể. Khí là phàm trù bao trùng cả thế giới tự nhiên cùng toàn bộ đời sống xã hội, sự sống của con người, Khí cũng là phạm trù mà mọi dòng phái, mọi học phái triết học cùng sử dụng chung trong suốt chặng đường phát triển của lịch sử. Khí có hàm nghĩa rất sâu rộng, khó mà lý giải một cách phiến diện và đơn nhất.

THÁI HƯ TỨC LÀ “KHÍ”

Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng.

Trương Tải cho rằng, Khí tức là hư, hư tức là Khí; Khí tụ thành hình, Khí tan biến thì hình mất, Khí trở về nguồn, quay về Thái hư. Thái hư là tên gọi khác của Khí, hàm nghĩa của Khí và Thái hư tương đương nhau, chúng khác nhau ở chỗ, Thái hư là Khí vô hình, trạng thái hữu hình là muôn vật. Thái hư không có thuộc tính của hữu hình. Chính mông - Thái hòa, Trương Tải chỉ rõ: "Thái hư không thể không có Khí, Khí không thể không tụ thành muôn vật, muôn vật không thể không tản ra thành Thái hư, theo đó mà quay vòng không bao giờ dứt". Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình là quá trình chuyển hóa lẫn nhau, bởi vì chúng cùng chung nguồn gốc là Khí.

Từ quan điểm "Thái hư vô hình là bản thể của Khí", Trương Tải cho rằng Thái hư cũng là bản nguyên của vũ trụ. Trương tử ngữ lục - trung viết: "Hư là tổ tông của trời đất, trời đất sinh từ hư không" (Hư giả, thiên địa chi tổ, thiên địa tòng hư trung lai). Quan điểm "hư có thể sinh ra khí", coi hư là bản nguyên của vũ trụ, coi Khí do Thái hư sinh ra, quan điểm này trái ngược với lý luận "Thái hư tức là Khí" của Trương Tải. Ông chỉ rõ, quan điểm "Hư sinh Khí" thực chất là quan điểm "Hữu sinh ra từ Vô" của Lão Tử, đó là lối tư duy hư cấu, một thứ bản thể mang tính quan niệm, thoát ly thế giới vật chất, sau đó lại từ cõi "Hư" hoặc "Vô" sinh ra thế giới vật chất. Trương Tải kiên trì quan điểm: Khí là gốc, khẳng định vật chất là tính bản nguyên và là tính chất thứ nhất của Khí. Thật rõ ràng!

Đạo thể hiện quy luật mang tính cương lĩnh định hướng; Lý thể hiện quá trình mang tính nguyên tắc thực thi. Đạo và Lý thể hiện sự chuyển động biến hóa của Khí, chúng không phải bản thể ở trên Khí, mà thống nhất trong hệ thống triết học Khí bản thể luận. Ông nói: "Bởi Thái hư nên mới có tên gọi là Thiên, bởi Khí hóa nên mới có tên gọi là Đạo". Trương Tải cho rằng Đạo là "Do Khí hóa mà có tên là Đạo", tức là quá trình chuyển động biến hóa của Khí mang tính vật chất, xa rời Khí là xa rời chuyển động của Khí, như vậy sẽ không có cái gọi là Đạo. Khi nói về phạm trù Lý, ông viết: "Khí trời đất tuy hàng trăm ngả tụ và tản, được và mất, nhưng chúng vẫn thuận theo Lý, không rối loạn", đều tuân theo quy luật và trật tự, đó chính là Lý. Đạo và Lý không thể tách rời khỏi Khí mà tồn tại riêng.

"Thái hư là thể của Khí" đã giải quyết đúng mối quan hệ Thái hư với Khí, Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình được đặt thống nhất trong Khí.

Trên cơ sở "Thái hư tức là Khí", Trương Tải nêu quan điểm Khí vừa là 'hữu' vừa là 'vô'. "Khí năng nhất hữu vô" tức là Khí có thuộc tính thống nhất 'hữu - vô' ngay trong bản thân Khí. Chính mông - Thái hòa viết: "Nếu nói vô vàn tượng là sự vật thấy được trong Thái hư, thì đó là vật với hư không tồn tại mối liên hệ trợ giúp nhau. Hình độc lập với Hình, Tính độc lập với Tính. Hình và Tính, trời và người không tồn tại mối qua hệ qua lại với nhau; kiến giải như vậy là sa vào thuyết sai lầm, coi trời đất núi sông là hệ quả ảo hóa". Thái hư là vô hình, muôn tượng là hữu hình, tuy Trương Tải xây dựng mối liên hệ giữa chúng, thông qua thuyết Khí tụ tán, nhưng giữa chúng vốn có sự khác biệt. Ông chỉ rõ, nếu không nhận ra sự khác biệt đó, sẽ không thể hiểu được muôn vật sinh ra như thế nào, tách rời bản nguyên với muôn vật, coi chúng là tồn tại độc lập riêng rẽ, không liên quan với nhau, thì sa vào quan điểm sai lầm của Phật giáo, coi thế giới Càn Khôn là ảo hóa.

Trương Tải nói: "Biết hư không tức là Khí, hữu vô, ẩn hiện, thần hóa, tính mệnh quan hệ trong sự thống nhất vô nhị. Nhìn vào những chuyển động tụ tán, xuất nhập, có hình và không có hình, có thể biết được gốc sinh ra chúng, hiểu biết đó chính là đi sau vào Dịch".

"Bản" tức là lấy Khí làm gốc, hữu vô, ẩn hiện, tụ tản, có hình hoặc không có hình đều bắt nguồn ở Khí, chúng là hai loại hình thái biểu hiện khác nhau của Khí bản thể. Khi Khí tản, chúng là Thái hư vô hình, biểu hiện của chúng là: vô, ẩn, u tối, không có hình, hư. Khi Khí tụ, chúng là muôn vật hữu hình, biểu hiện của chúng là: hữu, hiển, minh, hình, và thực. Đạo và Dịch phản ánh chuyển động biến hóa của Khí.

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Khí tụ lại, hiện ranh giới rõ ràng thì đó là hữu hình. Khí tản ra, không thấy ranh giới rõ ràng thì đó là vô hình. Vậy, khi mà Khí tụ lại, sao lại không gọi chúng là Hữu? Khi mà Khí tản ra, sao lại không theo đó gọi chúng là Vô?". "Từ vô sinh ra hữu, biểu hiện thành vật. Từ hữu chuyển thành vô, đó là quá trình ẩn mà biến đi...đại ý là không vượt quá giới hạn hữu vô, vật tuy là thực mà gốc của thực ở cõi vô" (vật tuy thị thực, bản thị hư lai). Trương Tải cho rằng, Khí kiêm hai thuộc tính hữu và vô, đây là thuộc tính của tự nhiên. Hai thuộc tính của tự nhiên dựa vào nhau, trợ giúp nhau, không thể khuyết một trong hai thuộc tính đó. Chính mông - Càn xưng viết: "Những gì có thể tạo nên hình dạng đều là Hữu, mọi cái là Hữu đều là Tượng, mọi Hình Tượng đều là Khí".

Từ Khí hóa nên Tượng, từ Tượng hóa thành Hữu. Khi Khí tản chưa tụ lại thì đó là Vô. "Thái Hư là gốc của Khí, thì trong suốt vô hình". Từ Khí hóa hư, hư thì vô hình. Thuộc tính "vô" của Khí không phải tuyệt đối hư vô, đó chính là chỉ về Thái hư vô hình, mắt không nhìn thấy được, khi so sánh với muôn vật hữu tượng hữu hình thì Thái hư là vô hình, cho nên gọi đó là Vô, nhưng Thái hư vô hình không phải tuyệt đối hư vô, mà trong cái "hư" hàm chứa cái "thực", trong cái "vô" hàm chứa cái "hữu".

Trương tử ngữ lục - trung - Trương Tải nói: "Đạo của trời đất lấy cực hư làm thực, con người cần tìm lấy cái thực trong cái hư" (Thiên địa chi đạo vô phi dĩ chí hư vi thực, nhân tu hư trung cầu xuất thực). Muôn vật hữu hình tuy là thực hữu, nhưng sự vật cụ thể chung quy phải tiêu vong.

So sánh với sự vật cụ thể biến hóa mất đi, thì Thái hư vô hình là vĩnh hằng. Hữu và Vô luôn chuyển hóa lẫn nhau, sự vật hữu hình chuyển hóa thành Thái hư vô hình, Thái hư vô hình chuyển hóa thành sự vật hữu hình. Thế giới vật chất biến hóa theo quy luật Khí hóa tụ tán, hữu và vô liên hệ với nhau. Vô không phải tuyệt đối hư vô, mà chỉ là vô hình của Thái hư. Trương tử ngữ lục - Trung viết: "Kim loại sắt thép cũng đến lúc phải mục ruỗng, núi đồi cũng đến lúc phải đổ nát. Mọi vật hữu hình đều dễ hoại, chỉ có Thái hư là không lay chuyển, cho nên, Thái hư là thực nhất". Chính mông - Thái hòa - Trương Tải nhấn mạnh: "Biết Thái hư là Khí, không phải là Vô". Trong hư không mênh mông vô cùng vô tận, đâu đâu cũng là Khí mịt mù. Bản thân Thái hư chính là Khí, Khí của Thái hư là vô hình. Hiểu được đạo lý này, thì không có cái gọi là Vô; Dịch - Hệ từ: "Thánh nhân ngẩng lên và cúi xuống, rồi nói biết hàm nghĩa của 'u minh', mà không nói biết hàm nghĩa của 'hữu vô'. 'U' tức là 'vô', 'minh' tức là 'hữu'. Dùng khái niệm 'u' thay thế cho khái niệm 'vô', để tránh ngộ nhận 'vô' là khẳng định tuyệt đối hư vô vậy".

Khí là thứ vật chất mang tính liên tục, tính tự có khiêm thuộc tính hữu và vô. Đây thuộc về phạm trù tính hữu hạn và tính vô hạn, tính tạm thời với tính vĩnh hằng, tính gián đoạn với tính liên tục trong sự tồn tại của thế giới vật chất. Sự cầu thị trong thế giới Càn Khôn.

Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể".

Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa".

Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ).

"Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng).

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc!

Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau".

"Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ.

Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa.

Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch".

Trương Tải nói: “Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng.”

THUYẾT VỀ THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương". Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn.

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy". Ngụy thư - Luật lịch chí chép từ Chính Quang lịch - Cầu tứ chính thuật ghi thứ tự tiếp nhau của 60 quẻ như sau:

- Tháng Một: Vị tế, Kiển, Di, Trung phu, Phục [18 âm - 12 dương]

- Tháng Chạp: Truân, Khiêm, Khuê, Thăng, Lâm [19 âm - 11 dương]

- Tháng Giêng: Tiểu quá, Mông, Ích, Tiệm, Thái [17 âm - 13 dương]

- Tháng Hai: Nhu, Tùy, Tấn, Giải, Đại tráng [14 âm - 16 dương]

- Tháng Ba: Dự, Tụng, Cổ, Cách, Quải [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tư: Lữ, Sư, Tỵ, Tiểu súc, Càn [14 âm - 16 dương]

- Tháng Năm: Đại hữu, Gia nhân, Tỉnh, Hàm, Cấu [10 âm 20 dương]

- Tháng Sáu: Đỉnh, Phong, Hoán, Lý, Độn [11 âm - 19 dương]

- Tháng Bảy: Hằng, Tiết, Đồng nhân, Tổn, Bĩ [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tám: Tốn, Tụy, Đại súc, Bí, Quan [15 âm - 15 dương]

- Tháng Chín: Quy muội, Vô vọng, Minh di, Khốn, Bác [17 âm - 13 dương]

- Tháng Mười: Cấn, Ký tế, Phệ hạp, Đại quá, Khôn [18 âm - 12 dương]

18 + 19 + 17 + 14 + 13 + 14 = 95 hào âm

12 + 11 + 13 + 16 + 17 + 16 = 85 hào dương

10 + 11 + 13 + 15 + 17 + 18 = 84 hào âm

20 + 19 + 17 + 15 + 13 + 12 = 96 hào dương

Thứ tự này là theo cách nói của sách Dịch vĩ - Kê lãm đồ. Căn cứ theo thuyết: "Nhu tại nội nhi cương đắc trung" lấy quẻ Trung phu làm khởi đầu. Đây là nêu hào Ba hào Bốn có đức "âm hư" ở giữa 6 hào, và hai hào Nhị Ngũ có đức "dương thực" nằm giữa thượng quái và hạ quái, để nói rõ hàm nghĩa "trung hư" là thành, "trung thực" là tín, biết hồi chuyển mà quay trở lại. Dịch vĩ - Kê lãm đồ viết: "Khí dương của trời đất, vũ trụ bắt đầu sinh ra từ quẻ Trung phu". Lại viết: "Giáp Tý, khí của quẻ khởi từ Trung phu, 6 ngày 7/80 ngày". Tức là chỉ hào Năm quẻ Trung phu có số thứ tự là 365, tương đương với số ngày của một Năm.

Phép 'Cầu tứ chính thuật', là do Mạnh Hỷ người thời Tây Hán đề xuất, tự là Trường Khanh, là người khai sáng Mạnh thị học về Kinh Dịch kim văn, thành tài và có trước thư lập ngôn. Dịch Hán học - Huệ Đống đã nói về đặc điểm về Mạnh thị học như sau: "Quái khí đồ của họ Mạnh lấy các quẻ Khảm Chấn Ly Đoài làm bốn quẻ chính, 60 quẻ còn lại, mỗi quẻ chủ 6 ngày 7 phân (lục nhật thất phân) hợp với số vòng trời 12 Nội tích quái, gọi là tiêu-tức. Càn đầy là tức, Khôn rỗng là tiêu, kỳ thực Càn Khôn là 12 vạch". Lại nói: "Bốn quẻ chỉ bốn mùa, mỗi hào chủ 24 khí, 12 quẻ chủ 12 giờ, mỗi hào chủ 72 hậu, 60 quẻ chủ 6 ngày 7 phân, mỗi hào chủ 365 ngày 1/4 ngày. Tích quái là Quân. Tạp quái là Thần. Tứ chính là phương bá. Hai ngày 'chí', hai ngày 'phân', hàn, ôn, phong, vũ, đều lấy ứng quái làm tiết. Ngoài ra, trong 48 quẻ còn lại, quẻ Dương có 24 quẻ, gọi là Thiếu dương, quẻ Âm có 24 quẻ, gọi là quẻ Thiếu âm. Cho nên 60 quẻ này còn được gọi là Tạp quái, cũng giống như nói rằng: vua tôi chung sức liên hợp, giao tạp để thành hình quái khí, để mà chỉ rõ cái lý âm dương tiêu tức". Dịch vĩ - Càn tạc độ có câu: "Lục thập tứ quái tam bách bát thập tứ hào giới", Trịnh Huyền chú giảng là: "Tiêu tức ở tạp quái là tôn quý, mỗi tháng ví như một quẻ mà ngôi thuộc vào đấy, đều có nơi hệ thuộc".

Chu dịch Thượng thị học - Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người đời Hậu Hán chú Dịch, thường dùng Nguyệt quái mà không nói rõ ra, vì Nguyệt quái mọi người đều biết, không nhất thiết phải chỉ ra. Tầm quan trọng của nó có thể bết vậy". Tức là 12 Tích quái, vì 12 quẻ này dùng để biểu thị quy luật âm dương tiêu-tức của 12 tháng, cho nên gọi là Nguyệt quái.

TÍNH LIÊN TỤC THỜI GIAN THEO THUYẾT KINH PHÒNG

Thuyết quái viết: Thiên địa định vị

...........CÀN.........................KHÔN

........G.Tuất......Hỏa...........A.Dậu..........Thủy

........G.Thân.....Thủy..........A.Hợi...........Hỏa

........G.Ngọ.......Kim...........A.Sửu..........Kim

........G.Thìn......Hỏa...........A.Mão..........Thủy

........G.Dần......Thủy..........A.Tị..............Hỏa

........G.Tý.........Kim...........A.Mùi............Kim

- Giáp Tý - Ất Sửu = hào 1 - hào 4

- Giáp Tuất - Ất Hợi = hào 6 - hào 5

- Giáp Thân - Ất Dậu = hào 5 - hào 6

- Giáp Ngọ - Ất Mùi = hào 4 - hào 1

- Giáp Thìn - Ất Tị = hào 3 - hào 2

- Giáp Dần - ẤT Mão = hào 2 - hào 3

Thuyết quái viết: Sơn Trạch thông khí

............CẤN............................ĐOÀI

...........B.Dần......Hỏa.............Đ.Mùi..........Thủy

...........B.Tý........Thủy............Đ.Dậu..........Hỏa

...........B.Tuất.....Thổ..............Đ.Hợi...........Thổ

...........B.Thân.....Hỏa.............Đ.Sửu.........Thủy

...........B.Ngọ......Thủy............Đ.Mão.........Hỏa

...........B.Thìn......Thổ..............ĐTị.............Thổ

- Bính Dần - Đinh Mão = hào 6 - hào 2

- Bính Tý - Đinh Sửu = hào 5 - hào 3

- Bính Tuất - Đinh Hợi = hào 4 - hào 4

- Bính Thân -Đinh Dậu = hào 3 - hào 5

- Bính Ngọ - Đinh Mùi = hào 2 - hào 6

- Bính Thìn - Đinh Tị = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Lôi Phong tương bạc

...............CHẤN..............................TỐN

..............C.Tuất.......Kim................T.Mão........Mộc

..............C.Thân......Mộc.................T.Tị...........Kim

..............C.Ngọ.......Thổ.................T.Mùi.........Thổ

..............C.Thìn.......Kim.................T.Dậu........Mộc

..............C.Dần.......Mộc.................T.Hợi.........Kim

..............C.Tý..........Thổ.................T.Sửu........Thổ

- Canh Tuất - Tân Hợi = hào 6 - hào 2

- Canh Thân - Tân Dậu = hào 5 - hào 3

- Canh Ngọ - Tân Mùi = hào 4 - hào 4

- Canh Thìn - Tân Tị = hào 3 - hào 5

- Canh Dần - Tân Mão = hào 2 - hào 6

- Canh Tý - Tân Sửu = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Thủy Hỏa bất tương xạ

..............KHẢM..........................LY

.............M.Tý.......Hỏa...............K.Tị.........Mộc

.............M.Tuất....Mộc...............K.Mùi......Hỏa

.............M.Thân...Thổ................K.Dậu.....Thổ

.............M.Ngọ.....Hỏa...............K.Hợi.......Mộc

.............M.Thìn....Mộc...............K.Sửu......Hỏa

.............M.Dần.....Thổ...............K.Mão......Thổ

- Mậu Tý - Kỷ Sửu = hào 6 - hào 2

- Mậu Tuất - Kỷ Hợi = hào 5 - hào 3

- Mậu Thân - Kỷ Dậu = hào 4 - hào 4

- Mậu Ngọ - Kỷ Mùi = hào 3 - hào 5

- Mậu Thìn - Kỷ Tị = hào 2 - hào 6

- Mậu Dần - Kỷ Mão = hào 1 - hào 1

Bài Tây Minh của Trương Hoành Cừ tức Trương Tái là một áng văn quan trọng của Đạo học gia. Bài này, vốn là đoạn văn đầu của thiên Càn Xưng trong Chính Mông.

Trương Tái chép đoạn đầu thiên này vào vách tường phía Tây nơi thư phòng, ông đặt tên là Đính Ngoan, rồi chép đoạn cuối của thiên này vào vách tường phía Đông, ông đặt tên là Biếm Ngu. Trình Di thấy thế, đổi Đính Ngoan thành Tây Minh, và đổi Biếm ngu thành Đông Minh. Về sau, Chu Hi tách bài Tây Minh này ra thành một bài độc lập và chú giải nó. Bài Tây Minh của Trương Tái và Thái Cực Đồ Thuyết của Chu Liêm Khê là hai áng văn bất hủ của Tống Nho. Bài Tây Minh như sau:

Càn là cha, Khôn là mẹ; tấm thân nhỏ nhoi của ta tương hợp với trời đất mà đứng ở giữa. Cho nên cái Khí lấp đầy trời đất là thân thể của ta. Cái thống lĩnh trời đất là bản tính của ta. Người dân là đồng bào của ta. Vạn vật là bạn bè của ta. Nhà vua là con cả của cha mẹ ta (tức trời đất). Quan đại thần là người quản lý việc nhà của con cả. Hãy tôn trọng bậc trưởng thượng, vì họ là bậc trưởng thượng (của trời) đáng cho mình tôn trọng.; hãy thương xót kẻ mồ côi yếu đuối, vì chúng là trẻ thơ ấu (của trời) đáng cho mình thương. Thánh nhân hợp nhất với đức (của trời). Hiền nhân là bậc ưu tú (của trời). Trong thiên hạ những kẻ già yếu, tàn tật, không anh em, già không con, già không vợ, già không chồng, đều là anh em của ta, họ chật vật khốn khổ mà không biết than thở cùng ai. (Kẻ khá giả) Tùy thời mà bao bọc những kẻ đáng thương ấy, đó là thể hiện lòng tôn kính (cha trời mẹ đất). (Kẻ khốn đốn) vui với mệnh trời, không lo buồn tủi phận, đó là thể hiện lòng chí hiếu (với cha trời mẹ đất). Làm trái lệnh cha mẹ là phẩm hạnh của đứa con ngỗ nghịch. Kẻ làm hại điều nhân gọi là tặc. Kẻ gây ác là hạng bất tài. Ai giữ được nguyên hình sắc như thủa ban đầu mới là giống hệt cha trời mẹ đất. Ai hiểu được sự biến hóa của sự vật tức là nối được sự nghiệp của cha trời. Ai nghiên cứu đến tận cùng cái thần diệu của sự vật, là nối được chí lớn của cha trời. Cẩn thận khi ở một mình, dù ở chỗ̃ khuất vắng mà không làm điều hổ thẹn với lương tâm, đó là một hiếu tử không làm nhục cha trời. Luôn gìn giữ tâm và nuôi dưỡng tính, đó là hiếu tử không biếng lười của cha trời. Ghét riệu (vì riệu làm loạn tâm tính), đó là sự quan tâm ông Vũ đến cong lao dưỡng dục của cha trời mẹ đất. Nuôi dưỡng anh tài là ban ân đức cho đồng loại (thể hiện đạo hiếu) của Dĩnh Khảo Thúc (đối với cha trời mẹ đất). Tận tâm chí hiếu để cha mẹ vui lòng, đó là công của Thuấn. Không chạy chốn (số mệnh) mà chỉ đợi bị giết, đó là Thân Sinh cung kính (thiên mệnh). Giữ gìn toàn vẹn thân thể do cha mẹ sinh ra cho đến lúc chết, đó là Tăng Sâm. Một mực vâng lời cha, đó là Bá Kỳ. (Cha trời mẹ đất cho ta) phú quý hạnh phúc, là làm dày dạn cuộc sống của ta; cho ta nghèo hèn lo buồn, tức là cho ngọc quý để ta mài giũa vậy. Khi còn sống ta cứ thuận theo trời mà hành sự; khi ta chết, ta cảm thấy thanh thản an bình.

Nho gia cuối thời Chiến Quốc đều chịu ảnh hưởng của Đạo gia. Trong số Nho gia thời đó, Tuân Tử là một bậc đại sư, tuy chịu ảnh hưởng của Đạo gia, đạt được chủ nghĩa tự nhiên của Đạo gia. Như chữ thiên theo Khổng Tử là ông Trời, tức đấng chủ tể vũ trụ. Theo Mạnh Tử thì chữ thiên này là số mệnh hay vận mệnh. Còn theo Tuân Tử thì chữ thiên này là cõi tự nhiên.

Giải Tế - Tuân Tử viết: "Cho nên từ phương diện thực dụng mà nói, Đạo rốt cuộc là Lợi [...] Từ phương diện ngôn từ mà nói, Đạo rốt cuộc là luận biện. Từ phương diện trời mà nói, Đạo rốt cuộc là nguyên nhân. Các thứ ấy chỉ nói lên một góc của Đạo. Đạo có bản thể thường hằng nhưng (ứng dụng) thì luôn biến đổi. Biết một góc thì không đủ gọi là biết. Kẻ thiên kiến thì chỉ thấy một góc của Đạo chưa thể xem là biết được. Nhưng hắn tự cho mình biết hết, còn tô điểm vẽ vời cho cái biết của mình, thế là bên trong thì loạn bên ngoài thì gạt người, trên che lấp dưới, dưới bưng bít trên, đó là cái họa của che lấp

(Cố do dụng vị chi, đạo tận lợi hĩ. [...] Do từ vị chi, đạo tận luận hĩ. Do thiên vị chi, đạo tận nhân hĩ. Thử sổ cụ giả, giai đạo chi nhất ngung dã. Phù đạo giả, thể thường nhi tận biến, nhất ngung bất túc dĩ cử chi. Khúc tri chi nhân, quan ư đạo chi nhất ngung, nhi vị chi năng thức dã, cố dĩ vi túc sức chi, nội dĩ tự loạn, ngoại dĩ hoặc nhân, thượng dĩ tế hạ, hạ dĩ tế thượng, thử tế tắc chi họa dã).

Đối với những học thuyết của các nhà thời đó, Tuân Tử cũng có nhận thức rõ ràng và phê bình xác đáng!

Thiên luận - Tuân Tử nói: "Lão Tử có thấy chỗ co mà không thấy chỗ duỗi. Mặc Tử có thấy chỗ bằng nhau mà không thấy chỗ khác nhau" (Lão Tử hữu kiến ư khuất, vô kiến ư tín. Mặc Tử hữu kiến ư tề, vô kiến ư kỵ).

Giải Tế - Tuân Tử nói: "Mặc Tử bị dụng che lấp nên không biết văn" (Mặc Tử tế ư dụng nhi bất chi văn).

Ông lại nói: "Huệ Tử bị lời nói che lấp nên không biết cái thực. Trang Tử bị trời che lấp nên không biết người (Huệ Tử tế ư từ nhi bất tri thực. Trang Tử tế ư thiên nhi bất tri nhân).

Đại sư Tuân Tử nòng cốt vẫn là Nho gia, chịu ảnh hưởng lớn từ Khổng Tử. Thời ông có thể nói là loạn, nên dân chúng tìm niềm tin vào đồng cốt và cúng tế. Tư tưởng Nho gia và nghề nghiệp làm Quan Cai trị của ông ảnh hưởng chủ đạo ở sách ông viết. Do vậy Tuân Tử cũng “Thiên Kiến” trong phê bình Lão học và âm dương gia…(có thể thiên kiến cả về đẳng cấp xã hội). Còn Đạo và thấy của Tuân Tử là cái thấy của nhà cai trị và Thầy dậy người đi cai trị.

Quan niệm Đạo đức của Tuân Tử ngược với Mạnh Tử và cho con người bản tính vốn ác, quan điểm này có thể cũng xuất phát từ quan điểm Cai trị, hoặc hoàn cảnh thời ông sống hỗn loạn, cái ác nhiều. Do vậy, Tuân Tử phản kích kịch liệt Mạnh Tử và các Đạo gia, Âm dương gia.

Ông lại có quan niệm kỳ quặc về Thánh nhân, Thánh nhân là phải cố hết sức tự cầu cho có nhiều phúc và chiếm nhiều tài nguyên, chỉ biết súc tích tài vật và lợi dụng trời đất - phải chăng quan điểm này có ảnh hưởng hậu duệ sau này..??

Vì tư tưởng Nho gia cố hữu và là nhà Cai trị vậy, nên có thể nhận định Tuân Tử không thâm nhập được vào Lão Trang học và học phái Âm dương gia. Tuy Tuân Tử có nhắc đến Tự Nhiên nhưng là Tự Nhiên theo đại sư Tuân Tử.

(Tham khảo Lịch Sử Triết Học Trung Quốc – Tg Phùng Hữu Loan ; NXB Khoa Học xã Hội)

Quái từ: Khuê, tiểu sự cát.

Lời quẻ: Quẻ Khuê tượng trưng cho sự ngang trái chia lìa, biết thận trọng xử sự thì thu được tốt lành.

Tự quái truyện giải thích Khuê là quai = ngang trái. Thuyết văn giải tự - Hứa Thận giải thích là "Mục bất tương thích", tức là hai mắt không nhìn nhau, có nghĩa là chống trái, không hòa thuận với nhau.

Tiểu, chỉ về âm nhu, hàm nghĩa cẩn thận, thận trọng. Lời quẻ chỉ ra rằng: phàm sự vật ở vào thời chống trái nhau, thì phải dùng phương pháp mềm mỏng, nhu thuận, thận trọng tìm ra cách xử lý thích hợp, thì mới có thể chuyển mâu thuẫn thành hài hòa được. Nếu cứ cương cứng một cách thái quá, khiên cưỡng mong cầu hòa hợp, thì khó mà vượt qua khuê ly được. Vì vậy, Lời quẻ mới nói là Tiểu sự cát.

Cổ nhân nói:

Trịnh Khang Thành giảng: "Khuê tức là đối lập nhau, lửa thì muốn bay lên, (nước) ao hồ thì muốn thấm xuống, cũng như con người đồng cư tâm ý khác nhau, nên gọi đó là Khuê" (Khuê, quai dã. Hỏa dục thướng, Trạch dục hạ. Do nhân đồng cư nhi chí dị dã, cố vị chi Khuê).

Ngu Phiên chú giảng: "Hai quái Ly Đoài tượng trưng cho hai thiếu nữ vậy" (Nhị nữ Ly Đoài dã).

Quách Dương chú giảng: "Tám quẻ Văn Vương lập ra, Ly là con gái giữa, Đoài là con gái út. Cả hai đều là tượng âm nhu, cho nên đối lập nhau chứ không tương ứng. Ly ở trên, là tượng dính bám vào trời. Đoài ở dưới là hồ nước, tượng trưng cho khả năng dung hòa. Lấy nhu tiến lên phía trên, đến hào Ngũ đắc vị. Trên ứng với Thượng, nên gọi là đắc trung ứng cương. Lại thêm hào âm nhu chiếm vị trí ngôi tôn, là bề tôi mà chiếm vị của vua, cùng tương ứng với Nhị, là vuâ phải ứng theo bề tôi, cho nên chỉ thành tựu được việc nhỏ" (Văn Vương bát quái, Ly vi trung nữ, Đoài vi thiếu nữ, gia vị âm tượng, cố tương khuê nhi bất tương ứng. Đoài tại hạ, Ly tại thượng. Ly giả, lệ vu thiên chi tượng, Đoài giả, trạch tại hạ năng dung chi tượng. Dĩ nhu nhi thượng tiến, chí lục ngũ đắc vị, thượng ứng thượng cửu, cố xưng vi đắc trung ứng cương. Hựu nhân âm hào lục ngũ chiếm cửu ngũ chi vị, vi thần chiếm quân vị; dữ cửu nhị tương ứng, vi quân ứng vi thần, chỉ năng thành tựu tiểu sự).

Chu dịch tập giải dẫn lời Ngu Phiên nói: "Tiểu là chỉ hào Ngũ. Âm cũng gọi là tiểu. Hào này đắc trung ứng cương nên được tốt".

Chu dịch chiết trung dẫn lời Hà Khải nói: "Việc đã chống trái nhau rồi, thì không thể lấy cái tâm nóng giận mà giải quyết được. Chỉ có cực kỳ bình tĩnh, từ từ chuyển hóa. Đó là mẹo hay để hòa hợp vậy. Cho nên mới nói Tiểu sự cát. Tiểu sự là chỉ việc xử sự mềm mỏng. Không phải đại sự là không tốt, mà chỉ sự thận trọng thì được tốt vậy".

Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt nói: "Một khi vật tình đã chống trái nhau, thì không thể làm việc đại sự được. Làm việc đại sự là phải huy động nhiều người, việc đó chỉ có ở thời đại đồng mới làm được. Tiểu sự là những việc như ăn uống, quần áo, không phải đợi sức đông, tuy chống trái mà vẫn có thể làm được".

(Bài viết sưu tầm của cụ Hà Uyên)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm về Dịch thuyết

Cách hóa giải bếp đối diện nhà vệ sinh –

Cửa phòng vệ sinh nhìn thẳng vào cửa bếp sẽ tạo nên sự xung khắc giữa hai loại khí, thủy hỏa không hoà hợp. Theo phong thủy, phòng vệ sinh là nơi xú uế, ẩm thấp, mang âm khí độc. Trong khi đó, phòng bếp là nơi có đặt bếp nấu nướng, mang hỏa khí. Cửa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cửa phòng vệ sinh nhìn thẳng vào cửa bếp sẽ tạo nên sự xung khắc giữa hai loại khí, thủy hỏa không hoà hợp.

ve sinh_wgjq.bmp

Theo phong thủy, phòng vệ sinh là nơi xú uế, ẩm thấp, mang âm khí độc. Trong khi đó, phòng bếp là nơi có đặt bếp nấu nướng, mang hỏa khí.

Cửa phòng vệ sinh nhìn thẳng vào cửa bếp sẽ tạo nên sự xung khắc giữa hai loại khí, thủy hỏa không hoà hợp. Điều này sẽ khiến vận khí của cả nhà không tốt. Phương pháp hoá giải không khó, chỉ cần treo mành dây hoặc đặt tấm bình phong trước cửa phòng vệ sinh hoặc cửa nhà bếp để ngăn cản sự xung sát giữa hai luồng khí này là được.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải bếp đối diện nhà vệ sinh –

Mơ thấy em bé mới sinh –

Nằm mơ thấy em bé mới sinh Giấc mơ thấy em bé mới sinh tượng trưng cho sự cuộc sống đầy vui trẻ, tràn ngập tiếng cười đang chờ đón bạn. Hơn thế nữa giấc mơ còn mang đến tài lộc, cuộc sống no ấm, hạnh phúc mỹ mãn. Giải mã giấc mơ thấy em bé mới sinh:
Mơ thấy em bé mới sinh –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy em bé mới sinh –

Xem bói tình yêu của người tuổi Thân

Tình yêu của người tuổi Thân thường rất hài hước, vui nhộn. Khi mới giao tiếp, họ thường thích đi chơi thành từng nhóm nên những người khác khó mà biết được
Xem bói tình yêu của người tuổi Thân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

đối tượng họ thật sự để ý tới là ai. Nhưng khi chỉ có hai người, họ lại tỏ ra rất lãng mạn khiến cho đối phương chìm đắm trong tình cảm đó.

Khi yêu, người tuổi Thân có thể dễ dàng chia tay với người yêu chỉ vì những va chạm, khúc mắc nhỏ nhặt.

Chàng tuổi Thân yêu
Nam giới tuổi Thân thường tỏ thái độ thân thiện, hòa đồng, biết cảm thông với người khác và cũng biết nói những lời đường mật nên thường chiếm được cảm tình của nữ giới.

Các chàng không thích phải dành tình cảm cho duy nhất một người con gái nào đó. Họ cũng có thể có nhiều bạn gái cùng lúc nhưng cũng lại rất ghét sự phiền nhiễu do chuyện yêu nhiều người cùng một lúc mang lại.
  Nàng tuổi Thân yêu
Nữ giới tuổi Thân thường có thần thái hơn người, tính tình hài hước và có sức hấp dẫn, lôi cuốn rất tự nhiên. Hiếm có người nào lại không thấy rung động trước sức sống tràn trề và vẻ ngoài mạnh mẽ của những cô gái tuổi Thân. Cho dù rất xinh đẹp nhưng chính sự mạnh mẽ năng động của họ lại ngăn cản bước chân của những người đàn ông đến với họ. Đàn ông thích được cộng tác, làm việc và làm bạn với họ hơn là lấy họ làm vợ.

Nữ giới tuổi Thân sống nghiêm túc, ghét thói trăng hoa, ong bướm. Họ cũng mong muốn có một tình yêu thật đẹp và lãng mạn, thích được nắm tay người yêu đi dạo trên bờ biển dưới ánh trăng hoặc cùng khiêu vũ trong những giai điệu nhẹ nhàng, êm dịu. Họ thường thích kết hôn với những người đàn ông có thể hình cao lớn, vạm vỡ và tràn đầy sức sống.

(Theo 12 con giáp về tình yêu và hôn nhân)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tình yêu của người tuổi Thân

Quẻ Quan Âm: Phong Tống Đằng Vương Các

Quẻ Quan Âm thứ 81 Quẻ Quan Âm: Phong Tống Đằng Vương Các đoán rằng những việc trong lòng đang mong đợi sẽ được toại nguyện.
Quẻ Quan Âm: Phong Tống Đằng Vương Các

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 81 được xây dựng trên điển cố: Phong tống Đằng Vương các hay gió đưa đến gác Đằng Vương.

Quẻ thượng cát thuộc cung Mùi. Những việc trong lòng mong đợi sẽ thực hiện được. Hãy mạnh dạn hành động sẽ có kết quả tốt đẹp.

Thừ quái ngô đổng lạc diệp chi tượng. Phàm sự tiên hung hậu cát dã.

Điển cố quẻ Quan Âm: Phong Tống Đằng Vương Các

Năm 675 sau Công nguyên, Vương Bột đến Giao Chỉ thăm cha, khi đi thuyền qúa núi Mã Đang, gặp một ông lão râu tóc bạc trắng trong một ngôi miếu trên núi, ông lão hỏi: “Ngươi có phải là Vương Bột không?” Vương Bột kinh hãi hỏi lại: “Tại hạ chính là Vương Bột, còn các hạ là ai?” Ông lão nói: “Ngày mai là tiết Trùng Dương, tại gác Đằng Vương ờ Hồng Châu có tiệc lớn. Nếu ngươi đến dự buổi tiệc này nhất định sẽ có tác phẩm để đời!” Vương Bột cười nói: “Đường đi còn xa xôi, từ đây đến Hồng Đô e rằng phải đến sáu bảy trăm dặm, làm sao mà đến nơi được?” ông lão nói: “Ngươi chỉ cần lên thuyền, ta sẽ giúp ngươi, khi tỉnh dậy ngươi đã đến Hồng Châu rồi!” Vương Bột nghe vậy chỉ cho rằng ông lão nói bừa.

Sau khi Vương Bột lên thuyền, chiếc thuyền liền như một mũi tên lao vụt về phía trước. Vì ông lão ấy vốn là Trung Nguyên Thủy Quân. Được sự giúp đỡ của ông lão, sáng hôm sau khi Vương Bột thức dậy, thì thuyền đã đến Hồng Đô rồi. Phủ Đô đốc của Hồng Đô chăng đèn kết hoa, Đô đốc Diêm Bá Dữ đang mở tiệc mời các danh Nho ở Lưỡng Giang đến khánh thành gác Đằng Vương, lại kêu gọi các Nho sĩ soạn “Đằng Vương Các ký”.

Mọi người đều theo nhau chối từ, khi chuyển đến Vương Bột, chỉ thấy Vương Bột một tay cầm chén chúc rượu với khách, sau khi uống xong chén rượu, bút mực giấy nghiên đã chuẩn bị sẵn sàng. Vương Bột đề bút, chỉ trong nháy mắt, áng văn đã thảo xong, các Nho sĩ chuyền tay nhau xem, thảy đều kinh ngạc không thốt ra lời. Đặc biệt là câu “Lạc hà dữ cô vụ tè phi, thu thủy cộng trường thiên nhất sắc” (Ráng chiều với chim trời cùng bay, nước thu lẫn trời xa một sắc) khiến mọi người khen ngợi không ngớt. Diêm Công xem xong, vô cùng tán thưởng, lệnh cho mợi người chúc rượu. Diêm Công nói: “Văn chương của các hạ chắc chắn sẽ làm cho căn gác này nổi tiếng khắp thiên hạ. Chúng ta hôm nay gặp được thi nhân, thực là có được vận may ba kiếp. Từ đây cảnh trí của Hồng Châu được nối danh thiên hạ, đều là công của ngài!” Trong tiệc có Ngô Chi Chương không phục, bèn lớn tiếng nói: “Đây là di văn của bậc tiên Nho, ở đây có kẻ dối người trộm danh!” Diêm Công hỏi: “Làm sao ông biết được?” Ngô Chi Chương bèm đứng dậy đọc, thuộc lòng bài văn đó từ đầu đến cuối không sai một chữ, mọi người đều kính hẩi. Vương Bột mặt không biến sắc, nhìn khắp mọi người rồi nói: “Sau bài văn này còn có tám câu thơ nữa, các ngài có ai đọc thuộc lòng được chăng?” Mọi người đều không lên tiếng. Vương Bột bèn viết một mạch như bay ra giấy, tựa như đã có sẵn trong đầu. Viết xong, Vương Bột hỏi Ngô Chi Chương rằng: “Đây là bài văn cũ hay bài văn mới?” Ngô Chi Chương không đáp lại được. Vương Bột bèn nói: “Trí nhớ của Chi Chương huynh không thua kém Dương Tu, Tào Tử Kiến, tại hạ tự thấy xấu hổ không bằng!” Mọi người đã hiểu rõ chân tướng, lại càng thán phục Vương Bột có tấm lòng rộng lượng.

Vài ngày sau, Vương Bột từ biệt Diêm Đô đốc cùng các Nho sĩ, xuống lầu lên thuyền tiếp tục hành trình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Phong Tống Đằng Vương Các

Mơ thấy sách: Danh dự và mọi việc đều thuận lợi –

Trong mơ, sách chính là hình ảnh tượng trưng cho danh dự. Nam giởi đã kết hôn mà mơ thấy sách, tức con trai họ sẽ trở thành học giả có học thức uyên bác. Nữ giới đã kết hôn mà mơ thấy sách, tức con gái của họ tài đức vẹn toàn. Thiếu nữ mơ thấy sách,
Mơ thấy sách: Danh dự và mọi việc đều thuận lợi –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy sách: Danh dự và mọi việc đều thuận lợi –

Thời điểm 12 con giáp chạy không thoát kiếp số

Kiếp số là điều con người luôn e sợ nhưng không thể nào tránh khỏi. Theo các chuyên gia tử vi, kiếp nạn của 12 con giáp sẽ ập tới trong một thời điểm nhất định.
Thời điểm 12 con giáp chạy không thoát kiếp số

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kiếp số là điều con người luôn e sợ nhưng không thể nào tránh khỏi. Theo các chuyên gia tử vi, mỗi con giáp tại thời điểm nhất định sẽ gặp kiếp số của mình, hãy cùng ## tìm hiểu.


Thoi diem 12 con giap chay khong thoat kiep so hinh anh
 
Tuổi Tý
 
Trong 12 con giáp, người tuổi Tý thuộc Thủy, tương khắc với Ngọ và Mùi, vậy nên khi đến 30 và 31 tuổi là thời điểm tương khắc Thái tuế, làm việc không thuận lợi, đại tài không đến, tiểu tài tiêu tán. Khi đó, họ cần sự trợ giúp của quý nhân tuổi Sửu, Thìn, Thân.
Tuổi Sửu
 
Sửu thuộc Thổ, tương khắc Thìn, Ngọ. Khi đến tuổi 27 và 29 tương xung với Thái tuế, sự nghiệp gặp trở ngại lớn, dễ xung đột với người thân và người yêu, có thể chịu nỗi khổ chia ly. Để giảm thiểu kiếp số này, họ nên gặp người tuổi Dậu, Tý, Tỵ.
Tuổi Dần
 
Dần thuộc Mộc, tương khắc Tỵ và Thân, nên năm 36 tuổi và 39 tuổi họ cần đặc biệt chú ý, nhẹ thì tổn thất tài sản, nặng thì vợ chồng mâu thuẫn, gia đình gặp biến cố, tai nạn trùng trùng. Nhờ người tuổi Ngọ hoặc Tuất, họ có thể hóa giải một phần vận thế không tốt.   Tuổi Mão
Mão thuộc Mộc, tương khắc Thìn, Dậu. Mỗi khi đến năm Dần và Thìn đặc biệt là thời điểm 30 và 37 tuổi, họ vô cùng xui xẻo, sự nghiệp, hôn nhân và sức khỏe đều gặp vấn đề, vậy nên họ cần phải cẩn thận. Cách hóa giải vận kiếp này là mệnh chủ nên kết thân người tuổi Tuất, Hợi.
 
Năm loại quần khiến tài vận xa lánh bạn
Quần là vật dụng được sử dụng hàng ngày, song lại chứa rất nhiều yếu tố phong thủy. Nếu gia chủ không để tâm đến chiếc quần giản đơn đó, có thể tài vận đang

Tuổi Thìn

Thìn thuộc Thổ, tương khắc Tuất, Sửu, vậy nên đến năm 30 và 33 tuổi chính là năm Tuất và Sửu, vận thế của họ đặc biệt xấu, chỉ cần trải qua hai năm này thì sẽ có sự thay đổi tót. Họ nên cùng người tuổi Dậu, Tý, Thân tạo nên Tam hợp Lục hợp để giảm bớt hung tinh Thái tuế.
  Tuổi Tỵ
Tỵ thuộc Hỏa, tương khắc Dần, Thân, họ phải trải qua hai lần kiếp số đặc biệt nặng là 21 tuổi và 39 tuổi, gia sản và hôn nhân đều xảy ra hiện tương xấu, họ cần khắc chế bản thân và tích cực giao lưu với người tuổi Sửu và Dậu.

Thoi diem 12 con giap chay khong thoat kiep so hinh anh 2
 
Tuổi Ngọ
 
Ngọ thuộc Hỏa, tương khắc Tý Sửu, họ an nhàn tiền vận, trung vận nhiều khổ cực. Đến năm 42 và 43 tuổi, mệnh chủ sẽ gặp kiếp số của mình, sự nghiệp và quan hệ gia đình luôn lục đục, vì tuổi tác khi đó đã cao nên họ cần khiêm nhường, và gặp người tuổi Dần, Mùi và Tuất để giảm nhẹ kiếp số.   Tuổi Mùi
 
Mùi thuộc Thổ, tương khắc Tý Tuất, nên năm 32 và 40 tuổi sẽ gặp vận kiếp của mình, đặc biệt là năm 32 tuổi, họ sẽ gặp nhiều tổn thất, bệnh tật liên miên. Bằng cách gặp con giáp tuổi Mão, Ngọ và Hợi, mệnh chủ có thể thuận lợi giảm nhẹ nguy cơ từ vận kiếp đem lại.   Tuổi Thân
 
Thân thuộc Kim, tương khắc Hợi, Dần. Đến năm 39 và 42 tuổi họ sẽ gặp vận kiếp, nếu là người làm ăn dễ phá sản, đại nghiệp gặp nguy cơ, gia đình mâu thuẫn, tiểu nhân ám toán, chỉ cần qua khoảng thời gian này sẽ ổn định. Bát tự trụ năm Thân nên gặp người tuổi Thìn, Tý để giúp bản thân.
Thoi diem 12 con giap chay khong thoat kiep so hinh anh 3
 
Tuổi Dậu

Dậu thuộc Kim, tương khắc Mão Tuất, vậy trong năm 30 và 37 tuổi sẽ đem đến tai kiếp cho họ, công việc không thuận, nhân duyên kém, việc làm ăn có biến cố, dễ mắc bệnh. Khi tiếp xúc với người tuổi Sửu, Thìn, Tỵ giảm nhẹ khí xấu.   Tuổi Tuất

Tuất thuộc Thổ, tương khắc Dậu Mùi nên trong năm 33 và 35 tuổi dễ phạm sai lầm, tin nhầm tiểu nhân, tâm tình bất an, hôn nhân có biến, sự nghiệp trắc trở. Khi đến thời điểm đó, mệnh chủ nên gặp người tuổi Dần, Mão, Ngọ tất sẽ có lợi.   Tuổi Hợi

Hợi thuộc Thủy, tương khắc Tỵ Thân, đến năm 42 và 45 tuổi sẽ gặp vận kiếp của mình, khó khăn trùng trùng, phạm đào hoa, tỷ lệ bị lừa và bị thương rất lớn, tán sản. Vậy nên, họ cần làm bạn với người tuổi Mùi và Mão có lợi cho vận thế của bản thân.
Chi Nguyễn
 
3 con giáp phải học cách lùi một bước để tiến nhiều bước trong sự nghiệp 4 nàng giáp sẵn sàng cuộc sống một túp lều tranh, hai trái tim vàng Đối mặt với đại hung khi bắt gặp các dị tượng Nàng giáp đi tìm hạnh phúc khi qua hai lần đò Điểm mặt con giáp phải đau đầu vì phú quý khi tới Tứ tuần

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thời điểm 12 con giáp chạy không thoát kiếp số

Đặc tính của sao Thiên Không trong Tử Vi

Hạn gặp sao Thiên Không là hạn cùng đường, phá tán, thất bại. Tuổi già thì không thọ, bệnh tật thì chóng khỏi, nhưng nếu có sao TUẦN, TRIỆT thì bệnh khó khỏi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặc tính của sao Thiên Không trong Tử Vi

Đặc tính của sao Thiên Không trong Tử Vi

Tìm hiểu về đặc tính của sao Thiên Không

Tên sao Âm dương ngũ hành Chủ Khảo bị
Thiên Không Dương hỏa Không vong, nhiều tai nạn, cô độc Thích gặp hung tinh, có thể loại trừ tính hung để trở nên bình hòa

Sao Thiên Không thuộc dương hỏa, chủ không vong, nhiều tai nạn, là một sao trong suốt, có khả năng cảm linh đặc thù, thường xuất phát từ suy luận và liên tưởng ở trạng thái tĩnh để kích phát sức mạnh thực tiễn. Nhưng bản thân lại không thích tranh đua, xem thường danh lợi. Sao Thiên Không nhập cung mệnh, cung thân, chủ về cực thông minh, tiếp thu nhanh, giàu tính sáng tạo, giàu ảo tưởng, giỏi suy luận, phân tích, có chí lớn, nhưng nhiều lúc thành ra viễn vông, không có mục tiêu, sống tự do tự tại, rộng rãi thoáng đạt.

Sao Thiên Không thích gặp sao hung tinh, có thể loại trừ được tính hung để trở thành sao bình hòa. Sao Thiên Không nếu gặp tài tinh, cũng sẽ làm tài khí mất đi, khiến tiền của không giữ được, nên thường luận không tiền của.

Sao Thiên Không chủ về cô độc, không có duyên với lục thân, nhưng lại có duyên với tôn giáo.

Bản chất của sao Thiên Không là thuộc cát, nhưng nếu chỉ biết làm cho nội tâm mình tự do, trống rỗng, muốn gì làm nấy, mà không quan tâm tới sự hiện diện của người khác, cố tình ra vẻ "bất cần" để đối diện vấn đề, thì dễ khiến sao Thiên Không bị các sao khác đồng cung khắc chế, gặp cát tinh sẽ tốt, gặp hung tinh sẽ hung.

Sao Thiên Không thích nhất là đồng cung với sao Thái Dương, chủ tể không trung, chủ về tính cách bao dung, khoáng đạt, như bầu trời không một gợn mây, có khả năng sáng tạo tự do. Sao Thiên Không cũng ưa đồng cung với sao Thái Âm, và càng ưa cả sao Thái Dương và sao Thái Âm đồng cung. Sao Thiên Không nếu đồng cung với bất kì sao nào đều có thể giúp trở nên bao dung rộng rãi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc tính của sao Thiên Không trong Tử Vi

Bàn chân của tỉ phú có điều gì khác biệt? - Nhân tướng - Xem Tử Vi

Bàn chân của tỉ phú có điều gì khác biệt?, Nhân tướng, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Bàn chân của tỉ phú có điều gì khác biệt?, tu vi Bàn chân của tỉ phú có điều gì khác biệt?, tu vi Nhân tướng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bàn chân của tỉ phú có điều gì khác biệt?

Những người nhiều tiền của thường có tướng bàn chân khác biệt so với người bình thường. Dưới đây là những sự khác biệt đó.

1. Ngón chân thứ hai dài hơn ngón chân cái

Ban chan cua ti phu co dieu gi khac biet hinh anh
 

Trong nhân tướng học gọi đây là kiểu tướng chân Hy Lạp. Từ xa xưa, các vị vua chúa cổ đại hay những người nắm giữa vị trí cao trong xã hội đa phần đều có kiểu chân với ngón chân thứ hai nổi trội, dài hơn tất cả những ngón chân khác. Chủ nhân của tướng chân này là người quyết đoán, có khả năng lãnh đạo tốt, tinh thần trách nhiệm cao, kể cả trong công việc và cuộc sống.

Hơn thế, người này tính tình sôi nổi, lúc nào cũng căng tràn sức sống nên dỡ trở thành trung tâm của mọi sự chú ý. Nhờ những mối quan hệ hài hòa, họ dễ dàng đạt được thành công hơn so với người khác.

2. Ngón chân cái, ngón thứ hai và ba bằng nhau

Độ dài ba ngón chân cái, thứ hai và thứ ba bằng nhau được gọi là kiểu chân La Mã. Người có tướng chân này tính tình hài hòa, hướng ngoại, dễ được mọi người yêu mến. Ngoài ra, người này có tính cách độc lập, tự tin vào bản thân, ghét phải phụ thuộc vào người khác nên lúc nào cũng cố gắng để tìm kiếm con đường phát triển của riêng mình.

Bên cạnh đó, người này còn có số khởi nghiệp sớm, ban đầu gặp không ít khó khăn, trở ngại nhưng cuối cùng thành công rực rỡ, hưởng cuộc sống vinh hoa phú quý.

Ban chan cua ti phu co dieu gi khac biet hinh anh
 

3. Ngón chân cái dài nhất

Kiểu chân này còn được gọi là chân Ai Cập. 5 ngón của bàn chân hình thành một cái dốc với đỉnh dốc là ngón chân cái.

Chủ nhân kiểu chân này có cá tính mạnh mẽ, tự tin vào bản thân nhưng đôi khi thái quá trở thành kiêu căng, ngạo mạn. Tuy nhiên, khi đã quyết tâm làm việc gì họ sẽ nỗ lực tới cùng. Do đó, đây cũng là một trong tướng chân của người giàu có, không phải lo lắng nhiều về vật chất.

4. Đặc điểm móng chân

Những người có móng chân hình tròn, trơn bóng, sắc hồng hào thường có số giàu sang phú quý. Đặc biệt nếu là nữ giới thì có mệnh làm phu nhân, không những được hưởng tiền bạc từ chồng mà còn có kẻ hầu người hạ để sai khiến. Nếu cộng thêm đặc điểm móng chân cụp xuống dưới càng chứng tỏ người này giàu sang, có thể trở thành tỉ phú.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bàn chân của tỉ phú có điều gì khác biệt? - Nhân tướng - Xem Tử Vi

Điểm danh 3 con giáp hay phạm sai lầm trong tình yêu nhất

Những con giáp dưới đây được coi là dễ khiến người yêu ngán ngẩm vì những lỗi lầm mình gây ra nhất, cùng xem bạn có nằm trong số đó không nhé.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Top 1: Tuổi Thìn
Những người sinh nhằm tuổi Thìn thường khá mâu thuẫn. Khi yêu họ sẽ dành trọn tâm trí và tình cảm cho người ấy, tuy nhiên cách thể hiện của họ lại khiến đối phương vô cùng ức chế. Với tuổi Thìn, “yêu nhau lắm cắn nhau đau” là điều hoàn toàn đúng. Tuổi Thìn rất yêu nhưng sẽ dùng những hành động, cử chỉ khiến đối phương ghét nhất để đối đáp. Đó là cách để đối phương phải luôn nghĩ và họ, dù muốn tránh xa nhưng lại không thể làm gì nổi, cuối cùng là phải khuất phục cách yêu có phần quái dị này của họ. Sau khi được ở gần người yêu rồi, tuồi Thìn mới thể hiện sự yêu thương và bù đắp nhiều nhất cho đối phương. Có thể bạn sẽ thấy kì lạ, nhưng đó chắc chắn là cách thể hiện tình yêu vô bờ của tuổi Thìn dành cho một nửa của mình đấy. 
Top 2: Tuổi Tuất
Tuổi Tuất thường yêu khá sớm. Họ sớm trưởng thành trong suy nghĩ đặc biệt là trong tình yêu. Tuổi Tuất cũng dễ trúng phải “tiếng sét ái tình” và sẽ theo đuổi tình cảm ấy đến suốt cuộc đời. Họ là người chung thủy trong tình yêu nhưng lại rất hay ghen. Chính vì sự ghen tuông quá mức cần thiết mà họ dễ gây ra những sai lầm khó gì sửa chữa nổi. Người yêu của tuổi Tuất sẽ không thể chịu nổi sự vô lí, ngang tàng và “bá đạo” của tuổi Tuất, ham muốn sở hữu của tuổi Tuất sẽ là thủ phạm hàng đầu khiến tình yêu của họ “chết yểu”. Tuổi Tuất hãy khắc phục điều này sớm nhé, nếu không người yêu của bạn sớm muộn cũng sẽ rời xa bạn mà thôi. Top 3: Tuổi Dậu
Những bạn cầm tinh con gà thường là những người có khả năng ngoại giao rất tốt. Tuổi Dậu giao thiệp rộng rãi, có nhiều bạn bè và thường xuyên có những buổi gặp gỡ, giao lưu với nhiều tầng lớp người trong xã hội. Chính nhờ đặc điểm đó mà tuổi Dậu có nhiều cơ hội gặp được nhiều đối tượng tiềm năng để trở thành bạn đời trong tương lai. Tuy nhiên tuổi Dậu lại khá dễ yêu, thậm chí danh sách người yêu còn kéo dài bất tận mà chưa biết khi nào mới dừng lại. Chính vì việc tình yêu bị san sẻ với nhiều người như vậy nên tuổi Dậu khá hời hợt và lạnh nhạt trong các mối quan hệ, họ đối xử với người yêu một cách thờ ơ, lãnh đạm đồng thời bản tính đào hoa của họ có thể “nổi dậy” bất cứ lúc nào khiến người yêu thường xuyên phải chịu ấm ức, thiệt thòi. Lời khuyên chân thành dành cho những ai có người yêu sinh nhằm tuổi Dậu là hãy quản lí tuổi Dậu thật chặt nhé, còn nếu không thể chấp nhận bản tính lăng nhăng của họ thì hãy sớm rời xa để đỡ phải chịu nhiều đau khổ.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm danh 3 con giáp hay phạm sai lầm trong tình yêu nhất

Xem tướng mặt đoán cát hung vợ chồng

Bộ vị Niên thượng gồm 10 bộ vị bộ phận. Trong đó, khi xem tướng ở bộ vị bộ phận Phù tọa có thể biết được cát hung vợ chồng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bộ vị Niên thượng trên khuôn mặt, xét theo thứ tự lần lượt từ trong hướng sang phải bao gồm: Niên thượng, Phù tọa, Trưởng Trung nam, Thiếu nam, Kim quỹ, Cấm phòng, Tặc thiên, Du quân, Thư thượng, Ngọc đường. Trong đó, xem tướng ở bộ vị bộ phận Phù tọa có thể biết được cát hung vợ chồng.

bo-vi-nien-thuong

Phù tọa, nữ bên trái thì gọi là Phu tọa, nam bên phải thì gọi là Thế tọa. Chủ quản sự cát hung giữa vợ chồng.

Nếu bộ vị này sáng láng và đoan chính, tròn đầy, nam có vợ tốt, nữ có chồng tốt; nếu có nốt ruồi đen thì nam thì khắc vợ, nữ lại có tướng khắc chồng.

Trưởng nam, chủ vị trí của con trai trưởng, ảnh hưởng tới sự tốt xấu của con trai trưởng.

Nếu có nốt ruồi đen thì phương hại con trưởng.

Trung nam, chủ vị trí của con trai thứ, ảnh hưởng tới cát hung của con thứ.

Nếu xuất hiện chấm màu hồng thì người vợ có thể tranh cãi với người khác.

Thiếu nam, chủ vị trí của con trai út, định cát hung của con út.

Nếu con gái mà ở bộ phận này có nốt ruồi đen thì phương hại chồng.

Ngoại nam, chủ vị trí của cháu nội, cháu ngoại hay còn gọi là ngoại trạch.

Nếu có nốt ruồi đen thì không tốt cho cha mẹ. Nếu vị trí này tròn đầy, màu sắc tốt thì nam lấy được người vợ tốt, nữ được gả cho người chồng giỏi giang.

Nếu trong 3 tháng mùa xuân mà bộ phận này có màu xanh vàng là tướng có con cháu đầy nhà; có màu vàng thì nam dễ sinh con gái, có màu vàng ở nữ dễ sinh con trai. 

Nếu vị trí này có màu trắng thì người con dễ mang mệnh yểu vong; có màu hồng thì con sẽ gặp tai nạn. Những điều này đều phải căn cứ theo lý luận của tứ thời Ngũ hành để suy đoán.

Nếu có nốt ruồi đen thì phòng con cái gặp nạn, dưới mắt mà đoan chính bằng phẳng, sáng láng thì có thể sinh nhiều con.

Kim quỹ, chủ về vàng bạc.

Nếu vị trí này bằng đầy, sáng láng thì có rất nhiều tiền tài, nếu khô lõm xuống thì thiếu tiền tài, nếu có nốt ruồi đen thì tiền tài dễ bị người khác lấy cắp.

Tặc thiên, chủ về trộm cắp.

Nếu vị trí này bằng đầy thì không vì trộm cắp mà bị làm hại, sắc hung thì dễ bị trộm cắp. Cấm phòng, chủ thị phi khẩu thiệt của con người. Nếu vị trí này bằng đầy thì hay tham dự chuyện thị phi, nếu có khuyết hoặc có nốt ruồi đen thì sẽ bị người khác bàn tán sau lưng.

Du quân, chủ vị trí ở biên cương hoặc nơi xa xôi.

Nếu vị trí này có màu tốt mà lại ngay ngắn, sáng láng thì thích hợp làm quan ở khu vực biên cương, sắc ác thì ngược lại.

Thư thượng, chủ học thức.

Nếu vị trí này không sáng bóng hoặc có nốt ruồi đen, khiếm khuyết chủ kiến thức nông cạn, không có học vấn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng mặt đoán cát hung vợ chồng

Kích cỡ cửa sổ như thế nào là hợp lý? –

Khi xây nhà, việc thiết kế đúng phong thủy sẽ khiến gia chủ thêm vượng. Đặc biệt phải chú ý đến việc kích thước các loại cửa chính, cửa cổng, cửa nhà vệ sinh, bài viết này sẽ giúp các bạn có thêm các kiến thức hữu dụng khi xây dựng nhà ở. Cửa sổ cũn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi  xây nhà, việc thiết kế đúng phong thủy sẽ khiến gia chủ thêm vượng. Đặc biệt phải chú ý đến việc kích thước các loại cửa chính, cửa cổng, cửa nhà vệ sinh, bài viết này sẽ giúp các bạn có thêm các kiến thức hữu dụng khi xây dựng nhà ở.

Cửa sổ cũng giống như cửa ra vào, có thể tiếp nhận ánh sáng mặt trời và không khí vào trong nhà, song không phải cứ mở cửa sổ càng to rộng càng hứng được nhiều ánh sáng và không khí trong lành vì:

file.394296

  • Cửa sổ quá to dễ làm nội khí thoát ra ngoài. Khắc phục bằng cách lắp cửa chớp hoặc che bớt bằng rèm cửa.
  • Nếu diện tích phòng nhỏ nhưng cửa sổ lớn, sẽ phải chịu nóng bức vào mùa hè, ẩm ướt vào mùa đông.
  • Vì vậy, chỉ nên trổ cửa sổ ở 2 phía tường đối diện nhau, để tạo dòng đối lưu không khí trong nhà.
  • Kích thước cửa sổ tùy thuộc vào công dụng của việc phối trí căn phòng.
  • Hướng Nam và Đông Nam có thể mở cửa sổ lớn để tiếp nhận được nhiều ánh nắng mặt trời và gió mát vào mùa hè.
  • Các hướng Tây, Tây Bắc thì chỉ trổ cửa sổ nhỏ, để giảm thiểu ánh nắng quá chiều hôm và gió bấc rét mướt.
  • Phòng khách, phòng trẻ nhỏ và người già nên trổ cửa sổ nhỏ.
  • Phòng ngủ nên trổ cửa sổ thấp một chút, để không khí dễ lưu thông.
  • Phòng làm việc cần yên tĩnh, nên trổ cửa sổ vừa phải.

Nội dung

  • 1 Kiêng Kỵ:
    • 1.1 1. Cửa chính ở tầng trệt hay trên lầu:
    • 1.2 2. Cửa 1 cánh, cửa 2 cánh, cửa hậu hoặc cửa phụ:
    • 1.3 3. Cửa thông phòng: cửa này thường không có cánh, có thể phủ rèm thưa, treo màn
    • 1.4 4. Cửa phòng ngủ của gia chủ
    • 1.5 5. Cửa phòng ngủ con trong tuổi còn đi học
    • 1.6 6. Cửa phòng tắm và phòng vệ sinh
    • 1.7 7. Phòng con đã có việc làm và phòng khách vãng lai
    • 1.8 8. Cửa nhà xe và cửa nhà kho:
    • 1.9 9. Cửa sổ:
    • 1.10 10. Cửa cổng ngõ:

Kiêng Kỵ:

  • Nếu nhà có sân, tâm cửa ngoài (cổng) và cửa chính không nối thành một đường thẳng là hung, nên bố trí lệch nhau, theo nguyên tắc “Hỷ hồi truyền nhi kỵ trực xung”, cửa sau không được lớn hơn cửa trước, cửa bếp không được thẳng với miệng lò, cửa nhà vệ sinh không mở thẳng vào bếp và phong thủy cho từng loại cửa. Trong các loại cửa thì cửa chính (cũng là hướng nhà) là quan trọng nhất.- Tránh cửa ngáng cửa.
  • Để cho nhà cửa văn phòng có sự hòa điệu, một tình trạng khác cần tránh là một hành lang nhỏ có nhiều cửa ra vào, mỗi cửa là một cái “mồm” khác nhau với tiếng nói riêng của nó
  • Một cửa ra vào cuối hành lang dài sẽ làm dòng khí di chuyển nhanh, điều này làm sức khỏe người nhà nguy hiểm hay làm cho cảm thấy bứt rứt không yên tác động vào thần kinh, dễ làm họ nổi giận, nó cũng có thể gây tử vong và cản trở dịp may và cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp, làm ăn.
  • Nên tránh đặt ba cửa ra vào và cửa sổ hay nhiều hơn nữa trong một loạt nối tiếp nhau, lý do là sắp cửa thẳng hàng có thể ảnh hưởng đến hoạt động trong gia đình. Cửa ra vào là miệng mồm của cha mẹ, cửa sổ là tiếng nói của các con.
  • Nếu tỉ lệ cửa sổ nhiều hơn 3/1 thì gây tranh cãi vì quá nhiều ý kiến, con cái hay cãi lời cha mẹ. Nếu cửa sổ to rộng hơn cửa ra vào thì trẻ con có khuynh hướng coi thường chỉ bảo, kỷ luật của cha mẹ, Một cửa sổ rộng lớn với những ô nhỏ thì được.

Dưới đây là một số kích thước các loại cửa được dùng trong xây cất hoặc tu tạo nhà cửa, có tính tham khảo do một số nhà phong thủy cho từng loại cửa kinh nghiệm lâu năm cung cấp:

1. Cửa chính ở tầng trệt hay trên lầu:

  • Cao: 2,30 – 2,52 – 2,72 – 2,92 (mét)
  • Rộng: 1,46 – 1,62 – 1,90 – 2,32 – 2,46 – 2,92 – 3,12 – 3,32 – 3,72 – 4,12 – 4,56 – 4,80 (mét)

2. Cửa 1 cánh, cửa 2 cánh, cửa hậu hoặc cửa phụ:

  • Cao: 2,10 – 2,30 – 2,52 – 2,72 (mét)
  • Rộng: 0,81 – 1,07 – 1,25 – 1,46 – 1,90 – 2,12 (mét)

3. Cửa thông phòng: cửa này thường không có cánh, có thể phủ rèm thưa, treo màn

  • Cao: 1,90 – 2,10 – 2,12 (mét)
  • Rộng: 0,80 – 1,06 – 1,22 (mét)

4. Cửa phòng ngủ của gia chủ

  • Cao: 1,90 – 2,10 – 2,30 (mét)
  • Rộng: 0,82 – 1,04 – 1,24 (mét)

5. Cửa phòng ngủ con trong tuổi còn đi học

  • Cao: 1,90 – 2,10 – 2,30 (mét)
  • Rộng: 0,82 – 1,06 – 1,26 (mét)

6. Cửa phòng tắm và phòng vệ sinh

  • Cao: 1,90 – 2,10 – 2,30 (mét)
  • Rộng: 0,68 – 0,82 – 1,02 (mét)

7. Phòng con đã có việc làm và phòng khách vãng lai

  • Cao: 1,90 – 2,10 – 2,30 (mét)
  • Rộng: 0,85 – 1,05 – 1,2 (mét)

8. Cửa nhà xe và cửa nhà kho:

Kích thước nên tính tương ứng với kích thước của chính tầng trệt nhưng nhỏ hơn một nấc trên thước Lỗ Ban.

9. Cửa sổ:

Tùy nghi sử dụng, không theo kích thước địa lý, vì cửa sổ không phải là cửa xuất nhập, cửa đi ra vào. Thông thường tổng diện tích cửa sổ bằng 3 lần tổng diện tích cửa chính.

10. Cửa cổng ngõ:

Khi nào có đà ngang xây trên 2 đầu trụ cổng thì mới theo kích thước địa lý. Còn cổng không có đà ngang thì không cần theo kích thước địa lý.Những điều nên làm khi lựa cửa nhà


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kích cỡ cửa sổ như thế nào là hợp lý? –

Giải thích một số khái niệm, thuật ngữ trong Tử Vi

Một đoạn trích rất hay từ cuốn Tử Vi Khảo Luận của Hoàng Thường, Hàm Chương diễn giải các khái niệm Tử Vi. Mời bạn đọc tham khảo!
Giải thích một số khái niệm, thuật ngữ trong Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết chép lại từ cuốn Tử Vi Khảo Luận của hai tác giả Hoàng Thường và Hàm Chương

Khoa tử vi phương Ðông dựa trên tư tưởng cổ đại từ thời Tống Nho bên Trung hoa. Theo tư tưởng đó, trời đất lúc đầu là Thái Cực chỉ có một khí, sau khi chia làm hai khí âm và khí dương.

Ân dương biến hóa sinh ra vạn vật.

Vạn vật nằm trong mối liên hệ tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau vô cùng mật thiết, biến dịch không ngừng, chuyển hóa lẫn nhau theo những chu kỳ nhất định.

Vạn vật (Thiên Ðịa Nhân) do năm chất cơ bản tạo thành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Năm chất này được gọi là Ngũ Hành tác động qua lại với nhau có khi hỗ trợ, tạo dựng cho nhau thì gọi là tương sinh, có khi triệt tiêu nhau gọi là tương khắc. Con người là một thành phần trong vạn vật. Trong quá trình sinh thành và phát triển của mình, con người chịu sự tác động từng giờ từng phút của mọi yếu tốt khác nhau và chính mình cũng tác động trở lại yếu tố đó. Mối liên hệ mật thiết này nẩy sinh từ lúc thụ thai trong bụng mẹ vì thế phương Ðông người ta thường cộng thêm một buổi vào năm sinh và ta quen gọi là tuổi ta, tuổi mụ.

Ðạo sĩ Trần Ðoàn, tôn danh là Hi Di sống thời mạt Ðường, tiền Tống bên Trung Hoa, đã theo tư tưởng Triết học cổ đại (kinh Dịch) soạn ra khoa Tử vi. Tiên sinh dùng các sao để nhân cách hóa các hoàn cảnh cuộc sống để đoán vận mệnh con người. Truyền thuyết nói rằng ông thọ 118 tuổi, không vợ không con, chỉ tu tiên học đạo trên núi Hi Di và rất giỏi môn toán học.

Khi soạn cuốn Tử vi khảo luận này, vì cần có cảm thông triệt để giữa người đọc và người viết, chúng tôi dành phần đầu để giải nghĩa ngắn gọn các danh từ thường dùng vì danh có chính thì ngôn mới thuận.

Mở bất cứ cuốn Tử vi nào cũng thấy nói ngay đến những từ như Cục, Mệnh, Thân, Hành, rồi lại Can, Chi, tới Âm Dương sinh, khắc mà không kèm lời định nghĩa các danh từ khó hiểu.

Thí dụ câu sau đây: “Mệnh của đương số khắc với cục nên sinh ra bế tắc

Phải hiểu Mệnh là gì Cục là gì. Tại sao hai số này khắc lại gây ra sự bế tắc cho đương số? Chừng nào chưa có sự thấu đáo về định nghĩa các từ thì không có sự cảm thông giữa người viết và quý bạn.

1. Ðịnh nghĩa

Tử vi là khoa đẩu số Ðông phương dùng vào việc dự đoán số mệnh con người dựa trên nguyên lý âm dương, ngũ hành.

Thoát thai từ Kinh Dịch, tổ sư Trần Ðoàn biến các số lượng âm dương của các hào quẻ thành các sao tượng trưng tính chất thăng giáng tốt xấu, các cách cư xử đúng sai của đương số trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

Những người nghiên cứu Tử vi thường đa số đứng tuổi, có một học thức trên mức canh bản và cũng rất thận trọng trước khi bước vào con đường khó khăn nhưng cũng nhiều hứng thú này.

Lý đoán số mệnh có thể dựa trên những dữ kiện cố định hay tình cờ, có thể bằng trực giác hay luận giải. Khoa Tử vi, một khoa học thực dụng để lý đoán số mệnh, được gọi là chính xác nhất vì đã dựa vào các dữ kiện thời gian tức năm, tháng, ngày, giờ sinh.

Các dữ kiện này ngoài việc những yếu tố cần và đủ để thiết lập lá số, còn làm nổi bật tính cách đặc thù của mỗi cá nhân, trình bày được những bản năng tiềm ẩn của từng người và dự đoán được vòng thịnh suy của cuộc đời họ nữa.

2. Lá số

Là một tài liệu ghi chép các dữ liệu năm, tháng, ngày, giờ sinh cùng tên họ đương số. Trên lá số có an các sao dùng để lý đoán số mệnh.

Lá số có hai phần:

  1. Ðịa bàn tức 12 cung xung quanh.
  2. Thiên bàn tức cung lớn ở giữa.

Trên Thiên bàn và Ðịa bàn ngoài các sao còn ghi Can Chi và Ngũ hành.

Ông thầy đoán số Tử vi coi tổng quát lá số, lý giải lá số và chỉ rõ cho người xem số những hoàn cảnh, những vận hạn và nhân đó chỉ cho người này xử trí các biến cố. Gọi là xử trí chứ không chỉ được cách tránh các biến cố, chỉ đối xử sao cho các biến cố không tác hại quá đến đương số. Sau đó mỗi khi gặp những trường hợp khó xử, người xem lại tới hỏi thầy cách xử trí trong hoàn cảnh mới. Xem như vậy, lá số là một nhịp cầu liên lạc giữa thầy đoán số và người xem số, cũng như giữa Bác sĩ và bệnh nhân vậy.

3. Năm, tháng, ngày, giờ sinh

Ðược tính theo âm lịch. Nếu không biết tính ngày giờ Âm lịch thì dựa vào cuốn lịch Thế kỷ hay theo các đĩa vi tính an sao làm để sẵn để chuyển đổi tử dương lịch sang âm lịch.

Thí dụ năm 1957 dương lịch là năm Ðinh Dậu của âm lịch.

Năm 1968 là năm Mậu Thân, năm 1975 là năm Ất mão âm lịch, năm 2003 là năm Quí Mùi.

4. Các sao

Còn gọi là Tinh, là Diệu, là Ðẩu. Thi dụ: Cung vô chính diệu là cung không có chính tinh, Nam đẩu tinh, Bắc đẩu tinh là các sao phương Nam và phương Bắc. Các sao này không phải là sao trên trời mà là các danh xưng nói lên các ý nghĩa về phúc, họa, giầu, nghèo, sang, hèn, và các hoàn cảnh con người kinh qua trong suốt cuộc đời.

Trong Hệ từ truyện (Kinh Dịch), khi bàn về Thiên văn, có viết rằng: “Quan hồ thiên văn dĩ sát thời biến” (ngắn tượng trời đất để xét sự thay đổi thời tiết).

Theo Nghệ Văn Chí thì khoa Thiên văn thời cổ dùng để xếp đặt thứ tự của 28 ngôi sao (thực ra là 28 chòm sao) trên bầu trời, đặt mối liên hệ về vị trí của chúng trên đường Hoàng đạo tương ứng với sự thay đổi khí hậu, qua đó suy ra tính cát hung của các sao. Căn cứ vào đó các vua chúa ngày xưa điều khiển chính sự.

Các chòm sao trên được chia theo bốn hướng Ðông Tây Nam Bắc theo Hà đồ và Âm Dương:

  • Các chòm 1-6 ở phương Bắc, thuộc Thủy màu đen là chòm Nguyên vũ.
  • Các chòm 2-7 ở phương Nam, thuộc Hỏa màu đỏ là chòm Chu tước.
  • Các chòm 3-8 ở phương Ðông, thuộc Mộc màu xanh là chòm Thanh long.
  • Các chòm 4-9 ở phương Tây, thuộc Kim, màu trắng là chòm Bạch hổ.
  • Ở trung tâm là các chòm số 5-10 thuộc Thổ màu vàng.

Như thế, việc xem Thiên văn lúc đầu là coi sự di chuyển của các tinh đẩu để đoán vận nước tốt xấu giúp cho các vua chúa trị nước an dân chứ không dùng vào bốc phệ cũng như dự đoán tương lai các cá nhân.

Số sao Trần Ðoàn tiên sinh dùng trong khoa Tử vi lại có khoảng 128 vị (2 lần 64 quẻ Dịch) để an trong các lá số nhưng chỉ có 110 sao là thông dụng thôi. Các sao Trần Ðoàn dùng chỉ có tính cách tượng trưng không phải là các sao ta thấy trên bầu trời hàng đêm.

Cách phân loại các sao cũng khác nhau, nhưng đại thể thì chia ra chính tinh, trung tinh, phụ tinh, phúc tinh, hung tinh, sát tinh, tài tinh. Gọi cách nào cho tới nay thì tùy theo ý thích của từng người.

Ta chưa có bản danh từ thống nhất về khoa Tử vi.

Thí dụ một cách gọi: Tử vi là chính tinh, Tả, Hữu là trợ tinh, Không Kiếp là sát tinh, Thiên Ðồng là phúc tinh, Thiên Khôi là quí tinh.

5. Tuổi âm lịch và Can Chi

Tuổi âm lịch được thành lập bằng hai yếu tố: Can và Chi.

Can nghĩa là gốc, tức là những gì trời cho ta khi ta chào đời, những gì đã được định sẵn không thêm không bớt, hay thì ta được nhờ, dở thì ta phải chịu.

Chi nghĩa là cành, tức là vùng đất ta rơi vào khi sinh ra, vùng đất có hoa màu nuôi nấng ta, vùng đất sau này ta có thể canh tác để nuôi thân, nghĩa là bản thân ta có thể sửa sang lại để cho cuộc sống tốt đẹp hơn.

Muốn có tuổi âm lịch, ta ghép một can với một chi như: Giáp Tí, Giáp là can và Tí là chi; Ất là can và Sửu là chi.

6. Âm Dương

Âm dương là hai cực mâu thuẫn, đấu tranh, tương phản nhau, nhưng lại nương tựa vào nhau. Không có gì hoàn toàn Dương hay hoàn toàn Âm. Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Âm đẩy Âm, Dương đẩy Dương, Âm hấy dẫn Dương, Dương thu hút Âm.

Dương giáng, Âm thăng, những gì Dương thì dáng xuống, những gì Âm thì thăng lên. Qui luật Dương giáng Âm thăng có ý nghĩa to lớn trong triết lý cuộc sống. Âm thịnh thì Dương suy, Dương thịnh thì Âm suy. Khi Âm tiêu tán thì Dương xuất hiện, lúc Dương đạt cực thịnh thì Âm sinh ra.

Nói tóm lại, Âm Dương là khái niệm về hai cái đối nghịch trên thế gian và cuộc sống ngày như ngày và đêm, nóng và lạnh, cao và thấp, vui và buồn, mạnh và yếu, thịnh và suy, phúc và họa. Âm dương luôn luôn cọ sát, đun đẩy, chờ đợi nhau để sinh ra sự sống, như hình ảnh cái bễ lò rèn, ống bễ trên này ép xuống thì ống bễ bên kia đẩy lên, lên xuống liên tục tạo ra sức thổi làm than cháy đỏ. Phúc họa nằm sẵn trong nhau, mạnh yếu chỉ là tương đối, thịnh suy chỉ là giai đoạn… tất cả chỉ xoay quanh nhịp biến đổi tuần hoàn của Âm Dương mà thôi.

Trong 12 cung của một lá số thì các cung Tí, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất là cung dương, các cung Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi là cung âm.

Âm dương được gọi là thuận lý:

- Khi người dương nam hay dương nữ có Mệnh đóng tại cung dương, khi người âm nam hay âm nữ có Mệnh đóng tại cung âm.

Thí dụ: Người nam tuổi Giáp Thân (Giáp dương), Mệnh đóng tại cung Tí (dương)

Người nữ tuổi Ất Sửu, Ất (âm), Mệnh đóng tại cung Mão (âm)

Tuy nhiên nếu người nam, Mệnh đóng tại cung dương mà có tuổi âm thì vẫn nghịch lý, cũng vậy, nếu người nữ Mệnh đóng tại cung âm mà có tuổi dương cũng là nghịch lý.

7.Ngũ hành

Khái niệm Ngũ Hành có sau khái niệm Âm Dương.

Con người thời bán khai phải vật lộn với thiên nhiên để giành sự sống nên đã tìm nên cái nguyên lý căn bản cấu tạo nên sự vật để tìm cách thống trị thiên nhiên.

Họ tin rằng năm yếu tố chính tạo nên sự vật là: Kim (sắt), Mộc (gỗ), Thủy (nước), Hỏa (lửa), Thổ (đất) và đặt tên là Ngũ hành.

Mỗi cung của địa bàn có một hành.

  • Các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi: hành Thổ.
  • Các cung Thân, Dậu: hành Kim.
  • Các cung Dần, Mão: hành Thủy.
  • Các cung Tỵ, Ngọ: hành Hỏa.

Cung có hành riêng, Mệnh có hành riêng.

Tùy theo năm sinh ta tính được Mệnh thuộc hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, hay Thổ.

Ðể ngắn gọn ta gọi hành của Mệnh là Mệnh.

Cục cũng có hành của Cục. Khi nói hành của cục là ý nói cục thuộc hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa hay Thổ. Ðể ngắn gọn, ta gọi hành của Cục là Cục.

Ngũ hành có thể tương sinh như: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc…

Ngũ hành có thể tương khắc như: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc.

Nếu ta coi ngũ hành như năm cánh sao của một ngôi sao, ta có thứ tự sau đây không thay đổi:

Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy, ta thấy rõ những hành nào liền nhau thì tương sinh, còn những hành nào cách nhau thì tương khắc.

8. Mệnh

Hay là số phận tức là những gì trời cho ta khi ta chào đời. Có thuyết nói Mệnh là Quả của cái

Nhân ta đã gieo từ nhiều kiếp trước.

Mệnh là vùng là vùng đất ta rơi vào lúc lọt lòng mẹ. Vùng đất này săn sóc ta, nuôi nấng ta, tốthay xấu, tùy theo những gì trời đã ban cho ta tượng trưng bởi các sao, đặc biệt là chính tinh.

9. Thân

Là cách ứng xử của ta trong cuộc đời để hưởng phú quí hay chịu thống khổ của kiếp nhân sinh.Thân là Ta, là hành động của ta trước cái số phận trời đã an bài.

Có người nói Mệnh ảnh hưởng con người từ nhỏ đến 30 tuổi còn ngoài 30 thì xem ở thân.Nói vậy không đúng hẳn vì ở con người, cái Mệnh phải luôn luôn đi đôi với cái Thân.

Mệnh suy Thân vượng hay Mệnh vượng Thân suy đều không tốt, phải có Thân Mệnh đều tốt thì mới đẹp cả về tinh thần và vật chất được. Nếu trong hai mà có một xấu thì cả hai cùng xấu.

10. Cục

Cục khác với Mệnh. Cục là môi trường xã hội ta sống từ buổi lọt lòng.Cục có hành của cục như Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Cục Kim mang số 4 gọi là Kim Tứ Cục, cục Mộc mang số 3, cục Hỏa mang số 6, cục Thủy mang số 2, cục Hỏa mang số 5. Theo quan niệm xưa, người ta canh cứ vào Ngũ hành để đặt tên Cục. Mỗi Cục chỉ là một con sốcủa Ngũ hành như ta thấy ở trên. Chúng tôi đồng ý với quan niệm này nhưng xin đưa ra một khái niệm mới căn cứ vào vị trí của sao Tử vi trong 12 cung mà ấn định Cục (hoàn cảnh xã hội) của từng người

Thí dụ: Tử vi cư Ngọ là vua ngồi trên ngai vàng. “Ðế cư đế vị”. Tử vi thuộc Thổ, cung Ngọ thuộc Hỏa; hỏa sinh Thổ, hoàn cảnh thuận lợi cho con người, xã hội ổn định, trên dưới nghiêm minh.

Một người có cách Tử vi cư Ngọ, dù Mệnh đóng ở bất cứ cung nào thì Cục vẫn là cách “Ðế cư đế vị”, nên người này sinh hoạt, giao dịch với những người quyền quí đàng hoàng. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong những phần sau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải thích một số khái niệm, thuật ngữ trong Tử Vi

Cửu tinh phối hợp với Bát quái có liên quan đến sức khỏe con người không? –

Cửu tinh và Bát quái liên quan mật thiết đến sức khoẻ của con người. Khi vận dụng Cửu tinh để phán đoán sự việc nhất định phải phối hợp với Bát quái đế tránh ảnh hưởng đến sức khoẻ của bản thân. Quẻ tinh Tạng phủ Bộ vị Bệnh tật và tai hoạ Nhất Bạch K
Cửu tinh phối hợp với Bát quái có liên quan đến sức khỏe con người không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cửu tinh và Bát quái liên quan mật thiết đến sức khoẻ của con người. Khi vận dụng Cửu tinh để phán đoán sự việc nhất định phải phối hợp với Bát quái đế tránh ảnh hưởng đến sức khoẻ của bản thân.

Quẻ

tinh

Tạng

phủ

Bộ vị

Bệnh tật và tai hoạ

Nhất

Bạch

Khảm

Tai

  1. U uất tích tụ, chết đuối, rơi từ trên cao xuống, chết cóng.
  2. Người tham lam cướp của, người nguy hiểm, phong lưu, ham tửu sắc.
  3. Bệnh tim, mất máu nhiều cho đến chết, bệnh về tai, thận, không sinh đẻ được, bệnh tiết niệu, lãnh cảm

Máu

Thuỷ

phân

Thận

Bộ phận sinh dục

Tinh

Tâm trí

Nhị Hắc Khôn

Bụng

Dạ dày

  1. Người keo kiệt, quả phụ, người có trí thông minh kém
  2. Ung thư dạ dày, ung thư thực quản, khó sinh, hoàng đảm
  3. Địa vị thấp kém, tai nạn xe cộ
  4. Mất ngủ, ăn uống không ngon, đau dạ dày, hoàng đảm
Tỳ
Da thịt Thực quản
Tam BíchChấn Chân
  1. Làm viêc do dư không quyết, điếc, đạo tặc.
  2. Điện giật, bệnh về chân, gãy chân, bệnh về gan
  3. Bệnh thần kinh, sợ hãi tột độ
Mật
Tóc
Cơ bắp Thần kinh
Tứ Lục Tốn Cổ
  1. Bệnh xoang, rụng tóc, bệnh gan, bệnh thần kinh, cảm mạo
  2. Thành người tứ cố vô thân phải đi ăn xin
  3. Tiếng tăm không tốt, bị hãm hại
  4. Bị rắn cắn, ong đốt, đau ngực, viêm khớp
Gan
Phong khí
Ngực
Ngũ HoàngTrungCung Nội tạng
  1. Không thể điều khiển được thần kinh, điên, ung thư, xuất huyết não, táo bón, nóng trong.
  2. Phán đoán căn bệnh ung thư mắc phải theo quy luật vận hành của Ngũ Hoàng.
  3. Cả nhà gặp nạn, thiên tai địa biến nhân họa

 

 

Lục Bạch Càn Đầu Não bộ
  1. Bệnh chân phải, bệnh phổi, viêm phổi, viêm khí quản
  2. Lúc lạnh lúc nóng, đau cơ, bệnh về xương, đau đầu, xuất huyết não, ung thư phổi, ung thư xương
  3. Quan tư hình phạt, tai nạn giao thông, ngã từ trên cao xuống
Xương Huyết dịch
Phổi trái Màng phổi
Cổ
Thất XíchĐoài Miệng Thực quản
  1. Bị thương, bệnh về miệng, đau răng, viêm nang
  2. Ung thư thực quản, ung thư vòm hang, ung thư phổi, đau răng
  3. Bệnh phụ nữ (thống kinh, kinh nguyệt không đều), sinh khó, gãy xương
  4. Phạm án hành hình, li hôn, ngoại tình
Phổi phải Lồng ngực
Răng miệng Cổ họng
Bát Bạch Cấn Tay Khớp
  1. Rơi xuống vách đá, điện giật
  2. Viêm khớp, phong thấp, đau dây thần kinh, đau mũi, đau lưng
  3. Đau bắp thịt, bán thân bất toại, bệnh chân trái
  4. Người hay trốn tránh hiện thực
Dạ dày Chân phải
Lưng Lưng
Mũi
Cửu Tử Li Mắt Đầu
  1. Bị bỏng, tai hoạ do lửa gây nên
  2. Bệnh tim, bệnh mắt (mắt kết màng, đau mắt hột, bong võng mạc)
  3. Sốt cao, não xuất huyết, điếc
  4. Bắn bị thương, bị hành hình
Tim Thần kinh
Tam tiêu


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cửu tinh phối hợp với Bát quái có liên quan đến sức khỏe con người không? –

Khám phá tính cách của Ma Kết theo ngày sinh

Các bạn vẫn tin rằng những người sinh ra dưới cùng một chòm sao sẽ có tính cách tương tự nhau? Thử xem với những người cung Ma Kết nào.
Khám phá tính cách của Ma Kết theo ngày sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các bạn vẫn tin rằng những người sinh ra dưới cùng một chòm sao sẽ có tính cách tương tự nhau? Chưa chắc đâu, còn tùy vào khoảng thời gian họ sinh ra nữa nhé. Thử xem với những người cung Ma Kết nào.


Kham pha tinh cach cua Ma Ket theo ngay sinh hinh anh
 
Ma Kết I: những người sinh ra từ ngày 26/12 đến 2/1 

Những Ma Kết sinh vào khoảng thời gian này ít khi biểu hiện cảm xúc và có những suy nghĩ rất sâu sắc. Thường bị ràng buộc với việc kìm nén cảm xúc nên luôn có xu hướng muốn được giải thoát bởi những người xung quanh. Họ có sự quyết tâm và dũng cảm rất lớn nên luôn tìm hiểu đến cùng những vấn đề được giao cho.
 
Trong tình yêu, họ hợp với những người ở cung Kim Ngưu II (3/5 - 10/5), Kim Ngưu III (11/5 - 18/5), Song Tử II (3/6 - 10/6), Xử Nữ II (3/9 - 10/9), Bảo Bình II (31/1 - 7/2)
 
Ma Kết II: những người sinh ra từ ngày 3/1 đến 9/1

Những Ma Kết này cảm thấy hạnh phúc nhất khi có một đối tác để chia sẻ niềm vui và nỗi buồn trong cuộc sống hàng ngày. Họ có thể sống một mình nhưng đa số không làm như vậy. Tuy nhiên, họ lại thường giữ bí mật về công việc của mình, coi đó là "vùng bất khả xâm phạm" và không có trách nhiệm chia sẻ với người bạn đời của mình. Đây là những Ma Kết có sức bật nhất trong cung và họ quý trọng sức lao động hơn bất cứ ai.
 
Trong tình yêu, họ hợp với những người ở cung Cự Giải - Sư Tử (19/7 - 25/7), Sư Tử III (11/8 - 17/8), Xử Nữ I (26/8 - 2/9), Thần Nông I (25/10 - 1/11), Nhân Mã III (11/12 - 18/12), Ma Kết lai Bảo Bình (17/1 - 22/1).

Ma Kết III: những người sinh ra từ ngày 10/1 đến 16/1 

Một người bạn đời sôi nổi và thú vị là một liều thuốc tốt cho những Ma Kết sinh trong khoảng thời gian này, giúp họ quên đi những lo lắng về sự nghiệp cũng như cho phép họ thư giãn và hưởng thụ cuộc sống. Các Ma Kết này thường cần một người ở cùng để làm tâm trạng họ trở nên vui vẻ khi bước qua cánh cửa nhà.
 
Mặc dù đề cao tinh thần trách nhiệm nhưng những người cung Ma Kết III không hề ngu ngốc. Họ có khả năng tiếp nhận và tổng hợp ý tưởng, thông tin và phong cách từ các nguồn riêng rẽ và biến chúng trở nên thu hút. Luôn có thái độ thân thiện và thú vị, những Ma Kết này có một sự thu hút và quyền lực vô hình với những người ở xung quanh họ. Những người tiếp xúc với họ thường hay bị họ làm cho ngạc nhiên. Tuy nhiên, họ lại luôn muốn kiểm soát và điều khiển người khác.
 
Hợp với Bạch Dương - Kim Ngưu (19 - 24/5), Song Tử I (25/5 - 2/6), Cự Giải I (25/6 - 2/7), Sư Tử lai Xử Nữ (18/8 - 27/8), Xử Nữ III (11/9 - 18/9), Thiên Bình I (25/9 - 2/10), Thần Nông lai Nhân Mã (19 - 24/11), Nhân Mã lai Ma Kết (19/12 - 25/12) , Ma Kết III, Bảo Bình lai Song Ngư (16/2 - 22/2).
Trần Hồng (Theo Zodioscope)
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khám phá tính cách của Ma Kết theo ngày sinh

Giải đoán Đại hạn và Tiểu hạn trong Tử vi

Khi xem về tử vi có thể nói rằng việc giải đoán vận hạn, đại hạn, tiểu hạn là khó khăn, phức tạp nhất vì ta phải cân nhắc và phối hợp quá nhiều yếu tố

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trên bước đường nghiên cứu và học hỏi về tử vi, tôi có thể nói rằng việc giải đoán vận hạn khó khăn, phức tạp nhất vì ta phải cân nhắc và phối hợp quá nhiều yếu tố, mặc dù trong nhiều sách số có bàn tới khía cạnh này nhưng tôi rất tiếc là hơi tổng quát và không được rõ rang. Thực vậy, nếu cứ tra trong sách thì đại hạn và tiểu hạn gặp sao này bị nạn, gặp sao kia phát tài, hoặc đại hạn nhiều sao tốt hơn là sao xấu là tốt, hoặc đại hạn xấu mà tiểu hạn tốt cũng không hay…v.v…..như thế chúng ta làm sao có thể đi tới kết luận và như thế cũng quá giản dị, dễ dàng và thiếu linh động, uyển chuyển, trái hẳn với tinh thần tử vi

giải đoán đại hạn và tiểu hạn

Vì vậy tôi cố gắng thử triển khai cách giải đoán đại tiểu hạn (trong bài này tôi không đề cập tới nguyệt và nhật hạn vì đi quá sâu vào chi tiết rất khó khăn, dễ sai lầm và dễ bị thất vọng) nhưng sẽ bỏ qua những nguyên tắc thường được các sách nêu ra cho khỏi rườm

1. Xem Đại Hạn

Nếu so sánh với tiểu hạn thì đại hạn dễ giải đoán hơn nhiều vì đại hạn bao trùm chu kỳ 10 năm, do đó tổng quát hơn và nhất là các đại hạn không bao giờ giống nhau vì ở đại hạn ở 1 cung không trùng nhau như tiểu hạn (tiểu hạn cứ 12 năm lại trở về cung trước). Tuy nhiên khi so sánh với cách giải đoán tổng quát Mệnh – Thân thì đại hạn vẫn khó tìm hiểu vô cùng.
Nói chung, khi giải đoán đại hạn, quý bạn nên lưu tâm tới những điểm sau (theo thứ tự):

  • Tương quan giữa các sao hoặc các cách (nhất là chính tinh) của Mệnh, Thân với các sao hoặc các cách của đại hạn
  • Tương quan giữa ngũ hành của bản mạng (hoặc cục) và ngũ hành của cung nhập đại hạn
  • Ảnh hưởng sớm hoặc trễ của các sao Nam đẩu hoặc Bắc đẩu
  • Phối hợp cung Phúc với đại hạn
  • Phối hợp cung liên hệ đến hoàn cảnh xảy ra trong đại hạn (nếu cần)
  • Lẽ tất nhiên quý bạn phải xem xét tới ý nghĩa tốt xấu của các sao mà tôi không nêu ra vì các sách đã có bàn tới, ngoài những nguyên tắc nêu trên

Bây giờ xin đưa ra những ví dụ cụ thể để quý bạn hiểu rõ các nguyên tắc tổng quát liệt kê trên đây:

1.Sau khi đã nhận định về ý nghĩa tốt xấu của các sao nhập đại hạn, quý bạn cần xem sao hoặc nhóm sao của Mệnh (nếu chưa quá 30 tuổi) hoặc Thân (nếu trên 30 tuổi) có hợp với các sao nhập đại hạn không. Đây là điểm quan trọng nhất mà nhiều người biết tử vi thường hay bỏ qua. Thực thế, có khi cách hoặc sao nhập hạn rất hay mà vẫn chẳng tốt hoặc chẳng ứng nghiệm, chỉ vì không hợp với cách của Mệnh Thân. Ví dụ như: Mệnh hoặc Thân có cách Sát Phá Liêm Tham mà cung nhập hạn có cách Cơ Nguyệt Đồng Lương thì không sao dung hòa với nhau được và do đó cuộc sống phải gặp nhiều khó khăn, trở ngại, mâu thuẫn, đối kháng dù cho Cơ Lương đắc địa Thìn Tuất chăng nữa. Còn như Mệnh Thân có cách Tử Phủ Vũ Tướng mà hạn gặp Cơ Nguyệt Đồng Lương thì nhất định là hay rồi với điều kiện đừng có Không Kiếp lâm vào vì Tử Phủ rất kị 2 sao này, dù gặp gián tiếp. Ngoài ra, còn cần phải xem ngũ hành của chính tinh tọa thủ tại cung nhập hạn (nếu có). Ví dụ như Mệnh có Tham Lang thuộc Thủy, nếu đại hạn có Tử Phủ Dần Thân thì vẫn xấu như thương vì Tử Phủ thuộc Thổ khắc với chính tinh Tham Lang

2. Điểm quan trọng thứ nhì là phải xem xét ngũ hạnh của Mạng (nếu chưa quá 30t) hoặc của Cục (nếu quá 30t) có hợp với ngũ hành của chính tinh và của cung nhập hạn hay không. Hay nhất là được cung và sao sinh bản mạng hoặc Cục (tùy theo trường hợp). Hoặc nếu không, phải tương hòa, nghĩa là cùng 1 hành (có nhà tử vi lại cho rằng cùng 1 hành là thuận lợi nhất). Còn trường hợp sinh xuất, tức là mạng sinh sao hoặc cung nhập hạn, và khắc nhập, tức là sao hoặc cung khắc mạng, thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc xuất tuy cũng vất vả nhưng mình vẫn khắc phục được hoàn cảnh, và do đó chưa hẳn là xấu. Ví dụ Mạng của mình là Thủy đi đến đại hạn có Cự Kị, Không Kiếp cũng chẳng hề gì, nếu có xảy ra cũng chỉ sơ qua. Trong khi đó, nếu mình mạng Hỏa hoặc Kim thì đương nhiên dễ bị hiểm nghèo về họa nước. Hoặc là mạng mình Kim, đi đến cung nhập hạn có Vũ Khúc hội Song Lộc, Tử Phủ…thì làm gì không giàu có. Trong khi mạng Mộc thì có khi khổ vì tiền

3. Về ảnh hưởng sớm trễ của chính tinh, chắc quý bạn đều biết là Nam Đẩu tinh ứng về 5 năm sau của Đại hạn, còn Bắc đẩu tinh ứng về 5 năm trước. Tuy vậy vẫn có bạn chưa hiểu phải áp dụng giải đoán như thế nào. Tôi xin đơn cử 1 thí dụ : Mạng có Đào Hoa, Mộc Dục, Hoa Cái, đại hạn có Tham Lang, Riêu Hồng, Kình, Hình thì gần như chắc chắn trong 5 năm đầu đương số sống 1 giai đoạn rất lả lướt, bay bướm vì Tham Lang (Bắc đẩu) cũng như cái đầu tàu lôi kéo tất cả các sao phụ kia, nhưng với điều kiện đương số phải mạng Thủy, Mộc hoặc Kim mới ứng nghiệm nhiều, vì Tham Lang thuộc Thủy hợp với ngũ hành trên. Nếu chính tinh nhập hạn là Thiên Lương (Nam đẩu) thì các nhóm sao phụ đó lại phải hoạt động chậm lại theo với ảnh hưởng của chính tinh, tuy nhiên cuộc sống không bừa bãi bằng Tham Lang nhập hạn vì dù sao Thiên Lương vẫn là sao đứng đắn, đàng hoàng hơn (trừ trường hợp Thiên Lương cư Tị, hợi mới xấu)

4. Nhiều khi phối hợp Mệnh Thân với đại hạn cũng chưa đủ. Quý bạn còn cần xét đến cung Phúc và đừng bao giờ nên quan niệm cung Phúc chỉ biểu tượng đơn thuần về âm đức của ông cha để lại hoặc của chính mình tạo ra hoặc mối liên hệ tinh thần của cả dòng nội của mình vì thực ra cung Phúc Đức có thể được coi như cung Mệnh thứ nhì, đôi khi còn quan trọng và ảnh hưởng hơn. Có nhiều nhà tử vi chỉ xét riêng cung Phúc đức mà có thể tìm ra được khá nhiều nét về cuộc sống tinh thần cũng như vật chất của mọi người, nhất là trong trường hợp mệnh, than không có đủ yếu tố nhận định rõ rang hoặc bị coi như là “nhược” khiến cho ta không thể bám víu mà đoán. Ví dụ như 1 người có tả Hữu, Đào hồng chiếu Thê và cung mệnh có Riêu Mộc Cái hội chiếu thì đương nhiên có lòng tà dâm, dễ có nhiều vợ, nhưng nếu cung Phúc có Vũ Khúc Cô Quả, Lộc Tồn thì dù có gặp đại hạn có yếu tố đa tình, lả lướt chăng nữa cũng khó chung sống them với 1 người đàn bà nào khác 1 cách chính thứ, chỉ có thể giỡn chơi trong 1 thời gian ngắn là cùng

5. Điểm sau chót quý bạn nên lưu tâm là cung liên hệ đến hoàn cảnh xảy ra hoặc cần giải đoán trong đại hạn. Trong phần nguyên tắc tổng quát nêu trên, tôi có nói là nếu cần thì mới xét tới vì khi mình giải đoán chung vận hạn thì ít khi phải nhận định khía cạnh này, chỉ trừ khi nào cần biết 1 điểm riêng biệt nào mới phải ngó tới cung liên hệ. Ví dụ như đương số đã có vợ hoặc chồng mà cần biết về đường con cái trong đại hạn đương diễn tiến thì ngoài các điểm cần phối hợp nêu trên, ta phải quan tâm đến cung tử tức (tức là cung liên hệ đến hoàn cảnh) trước đại hạn. Nếu cung Tử tức quá hiếm hoi, như có Đẩu quân, Cô Quả, Kình Đà, Lộc Tồn, Vũ Khúc, Không Kiếp chẳng hạn thì dù cho đại hạn đó có đủ Đào hồng hỉ, Thai, Nhật Nguyệt đắc địa, Long Phượng cũng chưa chắc gì sẽ sinh con đẻ cái đầy đặn hoặc may mắn về công danh, tiền tài. Còn nếu gặp trường hợp cung Tử tức không bị các sao hiếm mà lại còn có Tả Hữu chiếu thì đại hạn trên sẽ sinh liên tiếp, có khi năm 1 không chừng

2. Xem Tiểu Hạn

Bàn về tiểu hạn (tức là vận hạn trong 1 năm) quý bạn sẽ thấy khó khăn, phức tạp hơn đại hạn nhiều vì phải phối hợp với nhiều yếu tố hơn. Tôi bất giác thương hại các thầy tử vi hành nghề cứ phải giải đoán cấp kỳ theo như yêu cầu của than chủ, vì dù cho các thầy có giỏi đến đâu cũng không thể kết hợp được đúng mức, sau có 1 vài phút đồng hồ, nhất là khi phải bấm trên tay (trường hợp thiếu thị giác) và như thế làm sao chính xác được. Ngay cả khi rảnh rang, cứ ngồi mà cân nhắc, kết hợp cũng chưa chắc đã giải đoán được chính xác vì yếu tố này bổ túc hoặc chế hóa yếu tố khác thì ta đi đến kết luận nào. Do đó, dù có được biết đủ các nguyên tắc để giải đoán tiểu hạn, việc đoán cao thấp tùy thuộc óc kết hợp, nhận định tinh vi của người giải đoán.
Nếu đặt vấn đề nguyên tắc thì tiểu hạn tạm căn cứ vào các điểm sau (mà 1 vài điểm theo quy tắc đã được các sách nêu ra):

  • Tương quan giữa đại hạn và tiểu hạn
  • Tương quan giữa ngũ hành bản mạng với các chính tinh (nếu có) và cung nhập hạn
  • Tương quan giữa lưu đại hạn, địa bàn và thiên bàn
  • Tương quan giữa ngũ hành của năm nhập hạn với cung và sao nhập hạn
  • Các phi tinh (tức là các sao lưu) ngoài ý nghĩa xấu tốt của các chính tinh và phụ tinh mà các sách thường nêu ra

Dưới đây tôi xin triển khai các điểm ghi trên để các bạn hiểu rõ ràng:

a. Khi xét đến tương quan giữa đại hạn và tiểu hạn là đương nhiên ta đã tìm hiểu kỹ đại hạn theo các nguyên tắc đã nêu ra. Tôi có thể nói mối tương quan này rất quan trọng, cũng như mối tương quan giữa đại và tiểu hạn nên ta không bao giờ giải đoán 2 tiểu hạn giống nhau mặc dù 12 năm lại trở lại 1 cung, tức là cùng các sao và ngũ hành. Riêng mục này tôi xin đưa ra nhiều ví dụ vì mục này rất quan trọng:

- Ví dụ đầu tiên là các sao bao giờ cũng phải có đủ bộ mới làm nên chuyện hoặc mới hoạt động. Chẳng hạn như đại hạn có Thái Tuế, Bạch hổ, Quan phù, Không Kiếp, Khốc Hư thường chỉ đoán tranh chấp, kiện cáo, khẩu thiệt. Khi tiểu hạn có Cô Quả, Kình Đà, hình, Linh Hỏa thì dễ bị tai họa….(không thể nhìn thấy chữ)… nếu không có không sao. Tiểu hạn đó vẫn chẳng tai hại gì, có thể chỉ bị đau yếu sơ qua, hoặc bị xa gia đình….


- Đó là bàn về chuyện xấu, còn về việc làm ăn thịnh vượng thì nếu đại hạn có Vũ khúc, Thiên Phủ hợp mệnh mà tiểu hạn có Song Lộc thì đương nhiên làm ăn phát tài, dễ dàng. Hoặc giả đại hạn có tử vi cư Ngọ (nhất là có Quan Lộc hoặc Tài Bạch đứng ở đó) hợp Mệnh mà tiểu hạn có Khôi Việt, Thai Tọa, Tả Hữu, Long Phương, Đào hồng Hỉ, Xương Khúc… thì dễ có chức phận lớn, dễ chỉ huy hoặc kinh doanh quy mô


- Nếu thấy các sao nhập Đại và tiểu hạn họp thành bộ rồi, cần phải xét xem các chính tinh (không bao giờ xét đến phụ tinh) của đại hạn có phù hợp hoặc đối kháng với các chính tinh của tiểu hạn hay không. Nếu đại hạn có Cơ Nguyệt Đồng Lương thì tiểu hạn cần có Cự Nhật hoặc Tử Phủ Vũ Tướng chứ không nên có Sát Phá Tham…Về điểm này, quý bạn nên xem phần tiểu luận trong sách Tử Vi đẩu số tân biên của VĐTTL cũng đầy đủ và dễ hiểu. Vì thế, tiểu hạn tốt cũng chưa chắc ăn mấy


- Nếu chú ý về cá nhân mình thì cần đại hạn tốt đi vào 1 trong những cung liên hệ trực tiếp đế mình thời tiểu hạn mới xứng ý (như cung Tài, Quan, Di, Điền, Phúc). Ví dụ mình muốn làm ăn, kinh doanh lớn mà đại hạn còn ở cung phụ mẫu hoặc cung Tử tức thì dù cho tiểu hạn có tốt vẫn chưa phát huy được đúng mức, nhất định là phải chờ Đại hạn chuyển sang cung tài bạch (nhưng nếu xui xẻo, gặp cung Tài xấu thì cũng như vô vọng) mới hanh thông được


- Sau hết tôi xin nêu ra 1 trường hợp rất khó đoán: đương số mạng Tham Lang cư Thì, tức là tổng quát là lả lướt và đào hoa, cung Thê có Đào hồng, Tả Hữu chiếu tức là có sự lựa chọn, mai mối nhiều và đại hạn lại đi tới cung Thê, như thế là đủ hết các yếu tố đi tới hôn nhân. Do đó các thầy tử vi đều đoán đương số lấy vợ ở các tiểu hạn có Đào hồng Hỉ, tả Hữu, Xương Khúc….nhưng ai ngờ đương số lại lập gia đình trong tiểu hạn có Cô Quả, Tang Hổ, Nhật Nguyệt hãm hội Hóa Kị và lại không ngó thấy đại ha5hn ở cung Thê (vì thông thường các nhà tử vi hay lựa tiểu hạn hội chiếu với cung Phối hoặc trùng phùng ngay vào cung Phối để đoán hôn nhân). Tuy trường hợp này hơi kỳ lạ nhưng nếu suy luận 1 chút là thấy hợp lý vì theo nguyên tắc “tồn hữu dư, bổ bất túc” trong Dịch học, ta thấy các yếu tố về hôn nhân quá nhiều (tức là dư) thì cần phải có sao tiết giảm như Cô Quả, tang hổ Kị thời con thuyền mới có bến đậu được, chứ không “trăm mối tối nằm không”, nhất là tiểu hạn lại vào cung Giải Ách, tức là tránh né, không nhìn thấy cung Phối là cung đại hạn đi tới để khỏi chịu ảnh hưởng quá mạnh của các sao Hỉ. Điều may là trường hợp này ít khi xảy ra hoặc ít khi gặp nên quý bạn cũng đừng quá hoang mang, cứ đoán như thường lệ.


b. Thường thường, đoán tử vi ai cũng thích các chính tinh sinh bản mệnh. Điều này chưa hẳn đã hay hoàn toàn vì nếu gặp chính tinh như Phá Quân hoặc Tham Lang nhập hạn và mạng mình có Cơ Nguyệt Đồng Lương thì nên lựa mạng khắc 2 sao này hơn là được 2 sao này sinh (lẽ dĩ nhiên 2 sao này khắc mạng là điều tối kị) vì bộ CNĐL không ưa 2 chính tinh này nên tốt hơn hết là mời 2 sao đó đi chỗ khác, tức là trường hợp mình có mạng khắc 2 sao này. Ngay cả trường hợp mệnh mình có bộ sao chế ngự được Tham Phá (như bộ TPVTL chẳng hạn) cũng không nên liên hệt đến 2 sao này vì dù sao chúng cũng chủ về tham vọng, ích kỷ, phá tán, bừa bãi, trừ khi đương số là loại người thích đi vào con đường đó thì không kể. Còn như chính tinh nhập hạn như Tử Phủ, Đồng Lương…..bao giờ cũng cần sinh bản mạng hoặc ít ra cùng 1 hành với mạng, dù cho đại hạn có bộ sao đối kháng với các sao tiểu hạn


Về tương quan giữa ngũ hành bản mạng với cung nhập hạn thì bao giờ cung sinh bản mạng cũng tốt đẹp, thuận lợi hoặc nếu được tương hòa thì vẫn hay, chỉ ngại nhất cung khắc bản mạng, còn như mạng sinh cung hoặc khắc cung cũng có khi dung được tuy không phải là hay. Ví dụ như hạn đến cung Tử tức có các sao tốt nếu sinh được cung tức là mình lo được cho con cái thành công hoặc đầy đủ,chứng tỏ mình có phương tiện, tuy mình phải vất vả 1 chút vì con cái nhưng nếu cung Tử tức xấu thì đương nhiên là mình khổ vì con (hoặc vì chúng đau yếu, chết non, hay cao bồi, du đãng mình vẫn thương yêu chúng). Còn gặp trường hợp khắc cung cũng vậy, có khi hay mà có khi dở, nếu gặp tiểu hạn đi tới cung Nô bộc thì lại hay vì mình khắc phục được người dưới quyền hoặc hoàn cảnh. Còn như tiểu hạn đi tới cung Phụ Mẫu thì mình hay bất hòa với cha mẹ (nếu cung phụ mẫu xấu quá có thể mình phải xa cách cha mẹ…Những điểm trên đây quý bạn có thể áp dụng cho cả đại hạn


c. Về vấn đề lưu đại hạn, Địa bàn (tức là tiểu hạn theo vị trí cố định của các cung, như năm nay Quý Sửu, xem địa bàn ở cung Sửu) và Thiên bàn (tức tiểu hạn theo hàng chi an ở ô giữa lá số), tôi thấy không quan trọng lắm vì thật ra chỉ xét kỹ cung Thiên bàn là đủ và đỡ rắc rối quá mức. Chỉ trừ khi nào ta thấy Thiên bàn quá xấu hoặc k rõ chút nào mới cần kết hợp them lưu đại hạn và Địa bàn để xem có yếu tố gì cứu giải hoặc soi sang them không. Về cách lưu đại hạn trong cuốn TVĐSTB có ghi rõ rồi


d. Về ngũ hành của hàng can năm nhập hạn ảnh hưởng tới tiểu hạn nhiều hay ít thì cụ Song An Đỗ Văn Lưu khi còn sinh tiền có cho tôi hay là rất quan trọng. Cụ có nêu 1 ví dụ cho dễ hiểu như sau : 1 người mạng Kim có Cự Kị thủ mệnh, đại hạn có Không Kiếp, tả Hữu, SPT (tức là hạn trúc La) đã chết đuối trong tiểu hạn năm Nhâm Thân vì chữ Nhâm là Thủy và cung nhập hạn cũng là Thủy, trong khi đó mạng Kim lại sinh Thủy, cho nến nước quá nhiều, Kim phải chìm lỉm. Suy ra những trường hợp khác cũng dễ : ví dụ tiểu hạn đến cung Điền có Tang hỏa và nhiều sao Hỏa nếu gặp năm Nhâm hoặc Quý thì vẫn không đáng ngại về hỏa hoạn vì đã được thủy dập tắt rồi. Như vậy, mục (d) này quý bạn cũng không nên bỏ qua khi đoán tiểu hạn, và đây cũng là 1 điểm cho thấy là 2 tiểu hạn cùng 1 cung đã có sự khác biệt


e. Phần chót là về các phi tinh (sao lưu). Tôi thấy các phi tinh không quan trọng lắm, chỉ là để xác định them 1 chút những yếu tố đã tìm rra. Ví dụ như biết hạn xấu rồi thì nếu có them lưu Kình Dương gặp KD cố định đồng cung ta có thể tin chắc là nguy nan. Nếu tiểu hạn tốt thì dù có 2 sao này cũng chẳng hề hấn gì. Cũng có nhà tử vi căn cứ vào vòng trường sinh (lưu) để tìm ra vận hạn cho những người liên hệ trực tiếp với mình (như cha, mẹ, vợ, con…) nhưng tôi thấy chưa có gì chính xác và hợp lý nên xin miễn bàn trong mục này

Qua những điều tôi trình bày trên đây, quý bạn hẳn thấy việc giải đoán vận hạn rất rắc rối, khó khăn, có thể làm ta chán nản vì không biết đúc kết các yếu tố tìm ra thế nào, do đó dễ bị sai lầm. Nhiều khi ta đành phải chờ sự việc xảy ra mới thấy rõ cái hay của tử vi, và vì thế tôi thấy học tử vi không gì hay bằng việc chiêm nghiệm thật nhiều lá số mà mình đã theo dõi. Chứ nếu chỉ cố học thuộc các câu phú hoặc nguyên tắc giải đoán thì chẳng bao giờ có thể giải đoán được vững vàng.

trích KHHB


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải đoán Đại hạn và Tiểu hạn trong Tử vi

Tộc người tiên tri "nắm giữ không gian" và những dự báo tương lai

Từ hàng ngàn năm trước, tộc người tiên trí Hopi thông thái đã đưa ra những lời tiên đoán chính xác về thế giới trong tương lai.
Tộc người tiên tri "nắm giữ không gian" và những dự báo tương lai

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

“Những người nắm giữ không gian” là cái tên dành cho tộc người tiên tri Hopi. Từ hàng ngàn năm trước, những con người thông thái này đã đưa ra những lời tiên đoán chính xác về thế giới trong tương lai.


► Mời bạn đọc: Tiểu sử nhà tiên tri Vanga và những lời tiên tri của Vanga đáng sợ nhất lịch sử

Toc nguoi nam giu khong gian va nhung du bao tuong lai hinh anh
 
Dân Hopi bao gồm nhiều tộc người di cư đến “vùng trung tâm” Tuuwanasavi tại miền bắc Arizona. Không xuất phát từ cùng một bộ lạc đồng nhất, nguồn gốc những lời tiên tri của bộ tộc này mang tính chắp vá nhưng vô cùng phong phú. Việc thiếu thông tin rõ ràng cũng làm nên những bí ẩn về bản chất tự nhiên của tộc người tiên tri Hopi.
 
Những người nông dân định cư sống biệt lập trong những ngôi nhà vách đá đơn sơ trên cao nguyên hoang mạc Nam Mỹ nhìn thấy được tương lai tại các kiva (nhà nguyện của cộng đồng nằm dưới lòng đất). Nhiều lần, họ không có ý định tiết lộ điều mình thấy cho thế giới bên ngoài. Nhưng qua một số lần tiếp xúc hiếm hoi, “thiên cơ” đã được tiết lộ.
 
Giống như người Maya, người Hopi nhìn nhận số năm tồn tại của một thế giới được vận hành theo chu kì thời gian. Nhưng không giống người Maya, người Hopi hiếm khi quan tâm đến ngày chuyển đổi của tân thế kỷ. Người ta cho rằng, người Maya là bậc thầy về thời gian, trong khi tộc Hopi là chuyên gia về không gian.
 
Tộc người tiên tri này tin rằng chúng ta từng trải qua ba thảm họa thế giới. Thế giới Thứ nhất bị tiêu hủy bởi lửa khi một sao chổi, tiểu hành tinh tấn công hoặc cũng có thể là phun trào núi lửa. Thế giới Thứ hai bị tiêu hủy bởi băng, một Kỷ Băng Hà khắc nghiệt. Theo ghi chép của nhiều nền văn hóa trên toàn thế giới, một trận lụt kinh hoàng đã nhấn chìm Thế giới Thứ ba. 
 
Nhiều người Hopi lớn tuổi, hay còn được gọi là kikmongwi cho biết chúng ta đang sống trong thời điểm kết thúc của Thế giới Thứ tư. Hơn 60 năm qua, những người Hopi khác nhau đã tiên đoán về sự thay đổi của Trái Đất, báo hiệu sự kết thúc của chu kì thế giới hiện tại và thiết lập nên Thế giới Thứ năm. Năm 1970, thủ lĩnh Dan Katchongva, làng Hotevilla, người qua đời ở cái tuổi 112 đã nói về sự tình ngày càng xấu đi vào thời đại của chúng ta.
 
Những lời tiên tri về tận thế được đưa ra không phải để hăm dọa, trêu chọc hay trục lợi mà để cảnh tỉnh con người và nhắc nhở họ về nguồn cội, dũng khí và niềm tin chân chính. 
 
Dưới đây là 9 lời dự báo đã và đang thành sự thực của tộc người tiên tri Hopi, chúng minh tính huyền bí của những con người này.
 
1. Người da trắng sẽ chiếm đất đai bằng gậy sấm đánh ra những ánh chớp (súng trường và súng lục).
 
2. Bánh xe quay với âm thanh sinh ra từ đó (bánh xe kêu vù vù/ hay tiếng xe than vãn mệt nhọc, hoặc đĩa hát quay tạo âm thanh, hoặc đĩa CD). 3. Những con thú lạ rất lớn sẽ xuất hiện, nhìn hơi giống trâu nhưng có sừng dài (gia súc).
 
4. “Rắn sắt” sẽ trườn dài trên đất (đường sắt).
 
5. “Một mạng nhện khổng lồ” sẽ lan tỏa khắp các vùng đất (điện báo, điện thoại, đường dây điện, và bây giờ là Internet – Hệ thống World Wide Web).
 
6. “Những dòng sông đá tạo hình ảnh dưới ánh mặt trời” (đường bê tông trong sa mạc với ảo ảnh của họ về nước).
 
7. Các đại dương sẽ chuyển thành màu đen, và tất cả sinh vật sống trong đó sẽ chết (vụ tràn dầu mùa hè năm 2010).
 
8. Những người trẻ tuổi với mái tóc dài sẽ đến vùng đất của người Hopi để học phương pháp của thổ dân (Cách mạng phản văn hóa vào những năm cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970).
 
9. Một “nơi từ trên trời” sẽ sụp xuống đất, do đó tạo thành một ngôi sao màu xanh rực rỡ (Sakwa Sohu). Ngôi sao xanh Kachina sẽ bỏ mặt nạ của mình ở nơi họp chợ của làng, trong một điệu nhảy Kachina thiêng liêng. Sau đó, tất cả các nghi lễ Hopi sẽ chấm dứt hoàn toàn.
 
Một điều cần hiểu là tiên tri Hopi không phải là văn bản gần đây, đề cập đến các vấn đề thời sự của thế giới, mà những phát biểu này đã ra đời cách đây hàng thế kỷ thậm chí là hàng thiên niên kỷ và được truyền miệng qua bao thế hệ, không hề thay đổi.
ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tộc người tiên tri "nắm giữ không gian" và những dự báo tương lai

Hình dáng khuôn mặt nói lên tính cách của bạn

Những người có khuôn mặt kim cương thường thích kiểm soát và làm mọi việc theo ý mình.
Hình dáng khuôn mặt nói lên tính cách của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Mặt kim cương

hinh-dang-khuon-mat-noi-len-tinh-cach-cua-ban

Khả năng giao tiếp tốt, làm việc hiệu quả. Tuy nhiên, nhiều khi họ thích kiểm soát và muốn làm mọi việc theo ý mình, nên mọi người khó chịu, dễ hiểu lầm.

2.  Mặt tam giác

hinh-dang-khuon-mat-noi-len-tinh-cach-cua-ban-1

Nỗ lực, kiên trì và thích kiểm soát, khả năng gặt hái được thành công trong cuộc sống là rất cao.

3. Mặt chữ nhật

hinh-dang-khuon-mat-noi-len-tinh-cach-cua-ban-2

Tư duy tốt, xử lý vấn đề nhanh gọn, tuy nhiên ít bộc lộ cảm xúc cá nhân.

4. Mặt vuông

hinh-dang-khuon-mat-noi-len-tinh-cach-cua-ban-3

Năng động, nhiệt tình, khả năng chịu áp lực tốt, được mọi người tin tưởng và giao cho những nhiệm vụ quan trọng.

5. Mặt trái xoan

hinh-dang-khuon-mat-noi-len-tinh-cach-cua-ban-4

Thông minh, không khéo và biết cách chiều lòng người khác.

6. Mặt tròn

hinh-dang-khuon-mat-noi-len-tinh-cach-cua-ban-5

Khuôn mặt tượng trưng cho sự phúc hậu, luôn quan tâm đến mọi người. Tuy nhiên, họ dễ thiệt thòi, hay bị lợi dụng.

7. Mặt trái tim

hinh-dang-khuon-mat-noi-len-tinh-cach-cua-ban-6

Mạnh mẽ, bướng bỉnh, không thích nghe theo lời khuyên của người khác. Đôi khi tự cao thái quá về bản thân.

Dương Anh (theo cachitosdeplata)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hình dáng khuôn mặt nói lên tính cách của bạn

Điểm danh những con giáp tài phúc song toàn

Thế mới nói, người tuổi Ngọ chính là con giáp tài phúc song toàn, tình duyên viên mãn, công thành danh toại, làm gì cũng dễ.
Điểm danh những con giáp tài phúc song toàn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Không chỉ nhờ phúc phận tốt, nhân duyên tốt đẹp mà những con giáp dưới đây còn dựa vào thực lực của mình để chinh phục mọi ước mơ trong cuộc sống, giúp công danh, sự nghiệp rạng ngời.
 


Cẩm nang chọn số điện thoại vượng vận cho 12 con giáp Ngả mũ kính phục những con giáp đắc ý cả tình trường và thương trường
1. Người tuổi Ngọ   Mang trong mình tính cách độc lập, hào sảng, phóng khoáng và vô cùng lạc quan, người tuổi Ngọ luôn biết cách biến thách thức thành cơ hội để thể hiện sức sống mạnh mẽ, kiên cường của mình, đây cũng chính là con giáp tài phúc song toàn nhất trong 12 con giáp.   Nhìn vẻ ngoài của họ có vẻ tùy tiện thế thôi, nhưng khi đã vào công việc, việc gì ra việc đó, cũng nghiêm khắc chẳng kém ai. Lúc cương có cương, lúc nhu cần nhu, cách cư xử khéo léo ấy đã mang tới ít nhiều thuận lợi và thành công cho tuổi Ngọ.   Vận quý nhân của người cầm tinh con Ngựa cũng khá vượng, gặp khó khăn có người giúp đỡ, việc tốt có người tự mang đến. Thế mới nói, đây chính là con giáp tài phúc song toàn, tình duyên viên mãn.  
Diem danh nhung con giap tai phuc song toan hinh anh
 
2. Người tuổi Dần   Không chỉ phóng khoáng trong cách đối nhân xử thế, con giáp tài phúc song toàn tuổi Dần còn khá hài hước, dễ hòa nhập tập thể và trở thành tâm điểm của mọi sự chú ý.    Cách làm việc quyết đoán, cộng thêm tư duy logic đầy sáng tạo, trí tuệ thông minh vượt trội giúp tuổi Dần dễ dàng công thành danh toại. Dù vận khí không được coi là quá may mắn, nhưng nhờ thực lực bản thân, lối suy nghĩ tích cực mà họ có thể chinh phục hết thử thách này tới mục tiêu khác.   Hơn thế, đây chính là một trong những cao thủ biết nắm bắt cơ hội, tiến lùi đều có kế sách nên công việc cứ thế trôi chảy. Họ làm việc hết mình và rất biết cách hưởng thụ cuộc sống, nên lúc nào trông họ cũng tràn đầy nhiệt huyết.  
Diem danh nhung con giap tai phuc song toan hinh anh 2
 
3. Người tuổi Thân   Ngay từ khi sinh ra, những chú Khỉ đã được thừa hưởng tư duy linh hoạt, tính cách sôi nổi, đi tới đâu là có thể “truyền lửa” tới đó.    Họ làm việc dứt khoát, suy nghĩ thấu đáo trước khi hành động, trên hết, con giáp này biết cách kết hợp khéo léo giữa tài năng cá nhân và sự đoàn kết của tập thể. Vì thế, chưa đầy 35 tuổi đã có thể trở thành ông/bà chủ, phát triển sự nghiệp rực rỡ muôn màu. Đến năm 40 tuổi thì phúc lộc song toàn, hưởng lộc con cháu.   4. Người tuổi Tuất   Chân thành, chung thủy, trước sau như một là ưu điểm nổi trội trong tính cách của người tuổi Tuất. Dù là về phương diện sự nghiệp hay tình yêu, tính cách ấy mang tới sự tin tưởng, cảm giác an toàn cho mọi người xung quanh.    Sở hữu khả năng tính toán tài chính nhạy bén, tài lộc của tuổi Tuất vượng phát theo thời gian. Với thực lực bản thân, sau 30 tuổi họ đã có thể biến ước mơ trở thành hiện thực, sự nghiệp phát triển rực rỡ muôn phần.    
► Lịch ngày tốt tổng hợp mọi thông tin về mười hai con giáp bạn nên xem

Ngân Hà

Những cô nàng khiến phái mạnh “hồn xiêu phách lạc” trong 12 con giáp
Sở hữu những nét quyến rũ từ trong ra ngoài, những nàng giáp dưới đây có sức hút mãnh liệt đối với phái mạnh ngay từ cái nhìn đầu tiên.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm danh những con giáp tài phúc song toàn

Ý nghĩa sao Tấu Thư - Thuộc chòm sao văn tinh

Sao Tấu Thư đi với Thái Tuế cũng rất hay, nói lên tài hùng biện của trạng sư, thẩm phán, luật gia, chính trị gia, giáo sư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Tấu Thư - Thuộc chòm sao văn tinh

Ý nghĩa sao Tấu Thư - Thuộc chòm sao văn tinh

Hành: Kim

Loại: Văn Tinh

Đặc Tính: Bằng sắc, ấn tín, đơn từ

Là một phụ tinh. Sao thứ 6 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ.

Ý nghĩa tính tình: khả năng thu hút người khác bằng lời nói ngọt, bằng tài hùng biện, bằng văn chương, tranh vẽ ... Ưa thích ăn nói, biện thuyết, thuyết pháp, ưa thích diễn kịch, có tư chất kịch sĩ, dù không hẳn là ca kịch sĩ.

Sao Tấu Thư không hàm ý học rộng mà chỉ có nghĩa như một năng khiếu, một tài khéo về nói, viết, kịch ... Nếu đi đôi với các sao văn học, nhất định đó là người vừa có học, vừa có tài ứng dụng cái học một cách sáng tạo.

Sao Tấu Thư đi với Bác Sĩ rất hợp vì Bác Sĩ chủ sự diễn đạt thâm thúy.

Sao Tấu Thư đi với Thái Tuế cũng rất hay, nói lên tài hùng biện của trạng sư, thẩm phán, luật gia, chính trị gia, giáo sư

Nói chung, Tấu Thư là một sao tốt cho cơ thể, cho những đức tính tinh thần và đạo đức, mang lại linh mẫn và tế nhị cho cảm giác, cảm xúc, ngôn ngữ, hành động.

Ý Nghĩa sao Tấu Thư Ở Cung Mệnh:

Sao Tấu Thư ở Mệnh là người có năng khiếu, có tài, tướng mạo sang trọng, quý phái, có cốt cách, có văn chất thanh cao, tâm hồn hướng thượng.

Cùng các sao Thiên Quan, Thiên Phúc, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Thiên Khôi, Thiên Việt, thì làm nên sự nghiệp lớn.

Gặp sao Văn Xương, Văn Khúc, lời nói khéo léo, dễ thu hút, thuyết phục được người khác, tế nhị. Gặp sao Lưu Hà, vừa ăn nói lưu loát, vừa thanh cao.

Gặp sao Phượng Các, người thính tai. Gặp sao Long Trì, thính mũi, khiếu giác sắc bén. Gặp sao Thái Âm, Thái Dương, mắt sáng.

Gặp sao Thái Tuế, nói lên tài hùng biện của trạng sư, thẩm phán, luật gia, chính trị gia, giáo sư...

CUNG QUAN :

– có Tấu, Tướng nhị Phù mà Mệnh có Tả, Hữu : tăng ni ;

– Tấu, Diêu, Cơ, Vũ, Đào, Hồng : khôi hài, ca xướng.

– Tấu, Việt, Quý, An, Cơ, Hồng : trai cận thần gái cung phi,

– Tấu, Vũ, Hình, Cơ : làm thợ mộc giỏi.

CUNG PHÚC :

– có sao Tấu thư miếu địa : có ngôi mả hình bút phát văn.

– Tấu, Riêu : có ngôi mả bên ruộng úng thủy.

CUNG TỬ:

– có Tấu, Quang : con, thần giáng sinh


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Tấu Thư - Thuộc chòm sao văn tinh

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd