Bí mật của người mắt lõm là “yêu” sớm –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Trúc Loan (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Trúc Loan (##)
Tu không cần đi chùa nhiều, đọc kinh nhiều, ăn chay giỏi, làm công quả chuyên cần, xây chùa cất miếu…nếu làm được những điều này thì tốt. Nhưng vấn đề chính yếu của tu là thấu hiểu và “quyết tâm” ứng dụng những điều Phật dạy vô đời sống hằng ngày của mình.
Lâu không gặp tôi ở mấy đám tiệc tùng, nhảy nhót, ca hát bạn bè hỏi thăm tôi đi đâu mà vắng bóng lâu vậy? Tôi trả lời: “Đi chùa, bây giờ tôi tu rồi!”.
Nghe tôi trả lời như vậy bạn bè thất vọng kêu trời “Đời sống ba vạn sáu ngàn ngày có là mấy, sao đang làm ăn thành công như vậy mà lại bỏ ngang, lo tu?”. Mấy người trong bàn tiệc bắt đầu xoay qua đề tài “Tu và Đạo Phật”. Người thì bàn bây giờ còn trẻ để hưởng cho hết cuộc đời trước, khi nào già rồi hãy tu. Người thì lý luận sống là tranh đấu, tu là bi quan yếm thế. Có người tiếc rẻ cho mấy người tu, được sống ở Mỹ có nhiều thịt cá không ăn cho khoái khẩu mà ăn chay, kiếp sau sinh ra ở Ấn Độ hay Phi châu không có thịt cá để ăn, sẽ hối tiếc! Hồi trước nếu nghe người nào nói trái ý, xúc phạm đến tôn giáo của tôi là tôi nhào vô cãi lẫy, hùng biện, tranh luận, phải trái hơn thua, có khi nổi nóng tôi nói nặng làm mất bạn bè vì những chuyện không đâu. Nay nhờ đi chùa và nghiền ngẫm kinh sách tôi không phản ứng ngay, mà trầm tĩnh quan sát người ta thảo thuận. Tôi thấy người nào cũng giành phần đúng về mình, người nào không đồng ý với mình thì cho người đó dốt, không hiểu vấn đề… Thấy mấy ông bạn bàn về triết lý cao siêu của tôi nghĩ đến chuyện những người mù xem voi.
Không riêng gì những người không đi chùa nên không hiểu đạo, mà ngay cả người đi chùa thường xuyên cũng hiểu đạo sai lầm. Phần đông người đi chùa là ngững người đàn bà lớn tuổi, nhiều bà cầm nhang lạy tứ phương rất mềm dẻo, thiện nghệ. Nhưng họ đi chùa không mong gì hơn là để “được phước kiếp này và kiếp sau”. Kiếp này được Trời Phật phù hộ cho có được đời sống an lành, con cái ăn học nên người, gia đình yên vui hạnh phúc. Kiếp sau được sinh ra ở cõi Trời, hay có làm người thì được sinh ra trong gia đình khá giả hơn…
Rất nhiều người đi chùa, cúng dường nhiều chỉ để cầu xin Trời Phật phù hộ cho mình, cho gia đình mình (ngã) có đời sống tốt đẹp hơn (tham). Đi chùa với tâm ý trao đổi tiền bạc với phước đức như vậy thì chẳng khác nào bỏ tiền ra “hối lộ” Trời Phật, bỏ tiền ra “mua” phước đức. Đi chùa như vậy, có đi suốt đời cũng không giúp ích gì cho mình và cho người bao nhiêu. Có người nói ” Bữa nay tôi ăn chay, nếu không tôi cào nhà nó rồi”. Ca dao mình cũng có nhiều câu châm biếm mấy người đi chùa mà tâm không tu là “Miệng tụng Nam mô mà bụng chứa một bồ dao găm”.
Các bà chị của tôi rất thích đi hành hương, nhất cử mà lưỡng tiện, vừa du ngoạn cảnh lạ đường xa, vừa được thăm viếng, lễ bái nhiều chùa được nhiều phước đức. Có lúc các chị không thích đi hành hương nữa, tôi hỏi tại sao thì các chị cho biết, không thích đi từ hồi nghe thầy Thanh Từ giảng. Thầy nói các bà đi chùa cúng có mấy trái chuối, mấy trái cam mà cầu xin Phật cho nhiều thứ , xin cho mình, cho con mình rồi cho cháu mình nữa. Phật dạy tu thì không tu mà chỉ muốn cầu xin, nếu ai xin cũng được Phật cho như ý thì trên đời này đâu có ai khổ, ai nghèo? Các chị nghe thầy Thanh Từ nói Phật không phải là thần linh, có bùa phép ban cho Phật tử điều này điều nọ, các chị chán quá ở nhà luôn.
Không riêng gì người bình dân ít học mà đôi khi ngay cả người trí thức phụ trách việc giảng dạy Phật pháp cũng có người không hiểu đạo. Một cư sĩ kia có bằng cấp cao nên rất được quý trọng, trọng dụng trong hàng lãnh đạo Phật giáo. Ông được mời giảng dạy đạo pháp và hướng dẫn Phật tử trong các lớp tu học. Một bữa kia một Phật tử có ý kiến, theo tôi bài giảng của ông không đúng ở điểm này , điểm nọ. Ông cư sĩ có vẻ khó chịu và từ đó giữ trong lòng “ác cảm” lâu dài với Phật tử này.
Sự thật là vậy, là ít người chịu khó suy ngẫm để thấu hiểu được rằng Phật bỏ cung vàng điện ngọc, bỏ cả vợ con chỉ vì thấy “Đời Là Bể Khổ”. Phật vào rừng sâu, sống khổ hạnh chỉ để tìm cách Cứu Khổ. Và hầu hết kinh sách Phật được lưu truyền lại ngày nay là để dẫn dắt chúng ta con đường Thoát Khổ.
Không đặt niềm tin ở Thượng Đế và Phật không tự cho mình là con của Ngọc Hoàng, là Đấng Tạo Hóa toàn năng tạo ra vạn vật, có khả năng ban phước hay giáng họa cho ai. Luật Nhân Quả không phải do Ngài đặt ra, và Niết Bàn cũng không phải là nơi do Ngài tạo nên, do Ngài kiểm soát cho phép ai ra, ai vào.
Phật là người đã tìm ra chân lý, tìm ra Con Đường đi đến sự giải thoát, an vui, tự tại (chấm dứt khổ đau). Con đường đó Phật giảng giải, chỉ vẽ dựa theo kinh nghiệm “Ngộ” mà Ngài đã chứng nghiệm được sau sáu năm khổ hạnh tu tập và 49 ngày nhập định dưới cây bồ đề. Sau thời gian tu tập này Phật là bậc giác ngộ hoàn toàn, đạt đến Niết Bàn và Phật đã bình đẳng tuyên bố “Ta là Phật đã thàønh, các người là Phật sẽ thành nếu các người tu theo con đường (đạo) ta chỉ dạy “.
Tham là muốn chiếm đoạt vật gì làm của riêng của mình, có một muốn hai, có hai muốn bốn. Lòng tham thúc đẩy con người hành động, tạo nghiệp ác, gây khổ cho mình và cho người khác.
Ngã là mình, những gì thuộc về mình, cái Tôi vị kỷ, kiêu mạn…
Thôi thì có trăm ngàn nguyên nhân làm mình khổ. Muốn chấm dứt khổ đau, được an lạc, tự tại, kinh Phật dạy muôn ngàn pháp môn. Đểà cho bớt rườm rà khó hiểu, tôi đơn giản hóa vấn đề, muốn tu theo Phật cho thân tâm được an lạc, một là chuyển hóa Tham Sân Si, hai là gạt bỏ Chấp và Ngã.
Con đường tu của tôi ngắn và gọn như vậy. Khi có một điều bất đắc ý xảy ra làm tôi buồn phiền đau khổ, bình tĩnh suy xét tôi thấy đúng như lời Phật dạy, căn nguyên khổ đó là do tham, sân, si, chấp và ngã đã huân tập, tiềm ẩn trong tôi từ kiếp nào mà ra. Cái chủng tử hung dữ, nóng nảy do cha mẹ di truyền lại đã sống khỏe mạnh trong tôi bấy lâu nay. Nay biết tu tập, với thời gian tôi sẽ cố gắng “bứng gốc” các chủng tử xấu đi, rồi tôi sẽ tưới tẩm những “chủng tử tốt” (từ bi, hỷ xả, bao dung) bằng những trận mưa Pháp, những chủng tử tốt này sẽ nảy mầm vươn lên.
Làm việc gì muốn có kết quả nhanh chóng mình cũng phải có phương pháp, phân tích và có kế hoạch đàng hoàng. Sau khi phân tích thấy được nguyên nhân nguồn cội khổ đau là tham sân si, chấp và ngã, bây giờ làm sao diệt tham sân si, chấp và ngã?
Muốn diệt Tam Độc tham sân si, thì phải giữ Thân Khẩu ý thanh tịnh, trong sạch. Trên lý thuyết thì không khó, nhưng trên thực tế tiêu diệt ba con rắn độc này là cả một cuộc chiến gay go với nội tâm, mà chính Phật cũng phải nhìn nhận “thắng một vạn quân dễ hơn chiến thắng chính mình”.
Bản tính của người phàm phu là ăn miếng trả miếng, nhất định không thua ai. Người “biết tu” gặp nghịch cảnh phải nhịn nhục, nếu cứ chơi “xả láng” tới đâu hay tới đó, là tự biết mình đã “thua” trên mặt trận “tu tập”. Nếu nhịn nhục là thân không làm điều ác, miệng không nói lời ác thì tôi cố gắng làm được, nhưng giữ tâm ý thanh tịnh, không giận hờn, buồn phiền, bất mãn, điều này tôi thấy khó quá. Làm sao vui vẻ chấp nhận sự thiệt thòi về phần mình, làm sao chuyển hóa lấy khó khăn làm thú vị, lấy nghịch cảnh làm thắng duyên để đo lường sự tu tập của mình?
Kinh sách dạy, muốn tu chúng ta phải Học Kinh, và ứng dụng bát chính đạo. Có chính kiến (nhìn thấy đúng), có tư duy ( suy xét đúng), có tinh tấn (cố gắng trui luyện), nước chảy đá sẽ mòn, rồi có ngày tâm ta sẽ không còn vướng mắc, chướng ngại, phiền não.
Trong kinh , Phật dạy…vạn vật Vô Thường. Với thời gian vận vật đổi thay, không thường hằng bất biến, cho nên trong đời sống, chúng ta “nay lên voi, mai xuống chó”, nay được yêu chiều, mai bị ruồng rẫy nên coi là sự thường. Đã thấu đáo lý Vô Thường thì dù cuộc đời có lúc lên hương như “diều gặp gió” chúng ta cũng không nên hả hê vui mừng đắc thắng, vì gió không bền lâu, lúc gió ngừng diều sẽ đâm đầu xuống đất, càng cao danh vọng, càng dày gian nan. Khi thành công cũng như lúc thất bại chúng ta phải cố giữ tâm thăng bằng như người làm xiệc đi trên sợi dây nhỏ.
Vạn vật đều Vô Ngã. Khi chấp nhận vạn vật vô ngã, không có tự tính (sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắùc) thì ý thức ích kỷ, vị kỷ, chấp ngã kiêu mạn, ý niệm về “Cái Tôi” vô cùng quan trọng sẽ tan biến.
Phật cũng dạy lý Duyên Sinh. Vạn vật do duyên họp mà thành. Đủ duyên thì vạn vật tồn tại, mất duyên thì vạn vật tiêu tan. Do nhân duyên tác hợp nên vạn vật chỉ là hư ảo (huyễn). Khi thấu được lý nhân duyên thì tâm mình sẽ rộng mở, dễ cảm thông, tha thứ, chấp nhận thế giới muôn sai, nghìn khác. Từ “cảm thông” trong ta sẽ phát khởi lòng từ bi bao la, dễ hỷ xả, tha thứ những lỗi lầm của người khác.
Cho nên trong vấn đề tu tập, Thiền Định là một phương cách đưa con người đến giải thoát. Những giây phút yên lặng, suy nghĩ sâu sắc sẽ cho ta Thấy Được Cái Bản Chất Chân Thật Của Mọi Việc.
Nhận thức được bản thể chân thật đó, con người mới có thể phát khởi đại trí, đại bi, trải rộng tình thương vô bờ tới muôn người và muôn loài. Trong đời sống hằng ngày chúng ta bận rộn làm ăn sinh sống, không có nhiều thì giờ để ngồi thiền như những người xuấàt gia, nên Sư cô Thanh Lương khuyên chúng ta cố gắng Dừng Lại, cố giữ phản ứng chậm lại. Chỉ cần chậm lại một chút để có thì giờ suy nghĩ kỹ chúng ta sẽ tránh được nhiều lỗi lầm đáng tiếc, gây phiền phức cho mình và những người chung quanh, nhờ đó cuộc sống của mình được tươi đẹp , thoải mái dễ chịu hơn.
Đối với đàn bà chuyện thường xảy ra là bà này nói xấu bà kia. Phản ứng tự nhiên khi bị người khác đặt điều nói xấu là mình nổi giận. Người “biết tu” sẽ không trả thù nói xấu lại và người tu giỏi sẽ không giữ trong lòng ác cảm, phiền muộn ai .
Mục đích tối thượng của người tu theo Phật là đạt đến Niết Bàn.
Niết Bàn không phải là một nơi tốt đẹp như Thiên đàng của các tôn giáo khác, khi nào chết con người mới có thể tới Thiên đàng được. Niết Bàn trong đạo Phật không chiếm không gian, không là nơi chốn nào trong vũ trụ, mà là một đạo quả, một trạng thái bình yên tối thượng.
Ở ngay trong kiếp sống này nếu chúng ta không bị tham sân si, chấp và ngã điều khiển, tâm ta sẽ có được thanh tịnh, an lạc, đạt đến Niết Bàn.
Những danh từ Duyên Sinh, Vô Thường, Vô Ngã hình như Phật tử nào cũng hiểu vì nó là nền tảng giải thoát của Đạo Phật. Nhưng hiểu là một chuyện mà có ứng dụng những điều hiểu biết này vô đời sống của mình để có được đời sống an lành yên vui hay không là chuyện khác.
Một bạn đạo của tôi luôn chạy theo Sư cô Thanh Lương, cô giảng ở đâu là có mặt chị ở đó. Chị đọc kinh nhiều đến nỗi thuộc làu cả “Chú Đại Bi”. Chị đang vận động với bạn bè mua cho Sư cô Thanh Lương một căn nhà làm chùa. Chị mê nghe Sư cô giảng lắm. Tôi hỏi thăm, chị A còn trong hội của chị không? Hỏi câu này là bắt trúng tần số. Tôi chỉ hỏi một câu ngắn như vậy mà chị trả lời tôi tới nửa đêm, tuông ra bao nỗi hằn học, oán hận, căm thù. Tôi an ủi, thôi chị đi chùa nhiều, nên “hỷ xả”. Chị ấy trả lời: “Cái hạng người đó không đáng cho tôi hỷ xả!”.
Một bà khác đi chùa, công quả chuyên cần từ ngày qua Mỹ đến nay là mấy chục năm, nên được giử chức Phó Hội trưởng trong Ban Chấp hành của một chùa trong vùng. Bà mẹ chồng của chị đang hấp hối ở VN, tha thiết mong mỏi tất cả con cháu , dâu rể điện thoạị về một lần chót trước khi nhắm mắt ra đi. Măïc cho em chồng khóc lóc năn nỉ, chị này nhật định không gọi về, nhất định trả thù bà mẹ chồng cho đến giờ phút chót cuộc đời bà.
Tu không cần đi chùa nhiều, đọc kinh nhiều, ăn chay giỏi, làm công quả chuyên cần, xây chùa cất miếu…nếu làm được những điều này thì tốt. Nhưng vấn đề chính yếu của tu là thấu hiểu và “quyết tâm” ứng dụng những điều Phật dạy vô đời sống hằng ngày của mình.
Nên Từ Bi Hỷ Xả. Chỉ một chữ “xả” thôi , nếu thực hiện được là chúng ta cũng đến gần Niết Bàn rồi. Đi chùa, tham gia Phật sự là điều tốt, nhưng đó là bước đầu, nếu chúng ta bước xuống thuyền rồi đứng đó, không tự chèo thuyền đi , không ứng dụng những điều học hỏi ở kinh sách, ở chùa vô đời sống hằng ngày thì mãi mãi không bao giờ có thể đến được bến bờ giải thoát an lạc bên kia.
Thầy Thanh Từ giảng, căn phòng dù tăm tối đến đâu, bật đèn lên căn phòng cũng sáng. Chúng ta đứng ở cửa nhìn ra ngoài sẽ thấy đen tối, xoay đầu vô thì thấy sáng. Giữa tối và sáng chẳng cách nhau bao xa. Chỉ cần biết xoay đầu. Nhìn ra ngoài là bến mê, xoay đầu lại là bờ giác. Mê và giác chỉ có một cái xoay đầu. Tu dễ như vậy. Tu là hồi đầu, là xoay đầu lại. Từ bao lâu chúng ta mê nên đi trong đau khổ tử sanh, khi tỉnh chúng ta trở về sẽ hết khổ đau. Nếu chúng ta thả trôi theo giòng tăm tối thì tối mãi, biết xoay ngược lại tìm về ánh sáng thì sẽ được sáng. Một đứa con đi hoang, càng đi xa nhà càng khổ, khi biết lỗi lầm quay về với mẹ cha thì được sống trong gia đình hạnh phúc.
Hiểu như vậy thì tu không khó khăn gì cả, không cần ép xác khổ hạnh, tu luyện lâu dài hay học cao hiểu rộng, cũng không cần xuất gia. Phật tức tâm, tâm tức Phật, tu tại gia cũng được. Chỉ cần cố chuyển hóa tham sân si , chấp và ngã.
Vạn vật đồng nhất ở bản thể, khi chúng ta dẹp được cái Tôi vị kỷ, ranh giới giữa ta và người sẽ tan biến. Từ đó lòng Từ Bi Hỷ Xả sẽ bừng nở dâng tràn, đưa ta đến bến bờ giải thoát an lạc tự tại.
Tu là sửa đổi cho được tốt hơn, là dừng lại, là chuyển hóa cái tri thức sai lầm về thực tại. Vì tri thức sai lầm, chúng ta phát sinh tham, sân, si rồi hành động tạo nghiệp. Có chính kiến chúng ta sẽ thay đổi thái độ với vạn vật, nhờ đó thế giới trở nên an lành, vui tươi , hạnh phúc hơn.
Khi tâm ta không còn bị tham sân si điều khiển, khi tâm ta không còn vướng mắc với những cảm thọ chấp, ngã, chúng ta sẽ đạt đến Niết Bàn. Đó là một trạng thái yên bình tối thượng, thanh tịnh, tự tại, giải thoát ở kiếp này, nhờ đó Nghiệp Lực chấm dứt, không còn sức lôi dẫn chúng ta luân hồi trong lục đạo ở kiếp sau.
Đây là mục tiêu tối thượng của việc Tu Hành theo Phật.
Ngọc bích là loại cây có lá tròn và rất mọng nước, thuộc giống xương rồng cỡ nhỏ. Theo phong thủy thì những loại cây có phiến lá tròn mọng nước (Thủy) như ngọc bích sẽ giúp thu hút những nguồn năng lượng liên quan đến tiền tài cho văn phòng hoặc nhà ở. Nên đặt ngọc bích ở vị trí gần cửa ra vào hoặc cửa sổ của văn phòng hoặc nhà ở.
Cây ngọc bích có lá tròn, dày dặn và mọng nước được cho là rất tốt về phong thủy
2. Cây kim ngân
Cây kim ngân còn có tên gọi khác là cây tiền, đây là một trong những loại cây phong thủy giúp hút tiền tài và rất được ưa chuộng hiện nay. Kim ngân đại diện cho sự giàu có, sung túc và đem lại may mắn. Loài cây này sinh trưởng khá tốt, có thể sống trong phòng, hãy đặt nó trong nhà giúp đem lại tài lộc cho bạn và gia đình.
Cây kim ngân đem lại may mắn và tài lộc
3. Cây hoa đào
Đào là một loại cây có sức sống rất mãnh liệt với vẻ đẹp vừa thanh tú vừa khỏe khoắn, do đó nó có ý nghĩa rất cao đẹp trong nền văn hóa Á đông đồng thời là đại diện của sức sống mùa xuân. Hoa đào 5 cánh tượng trưng cho ngũ hành, cũng là hạnh phúc, sự nghiệp, tuổi thọ, sức khỏe và tiền bạc. Vào ngày Tết của nhiều dân tộc, mọi người thường đặt cành đào ở phía Bắc hoặc Đông Bắc - góc tốt lành nhất của ngôi nhà để được may mắn. Hoa đào tương truyền còn có tác dụng trừ tà do đó, trong vườn, cây đào thường được trồng phía sân vườn trước nhà với ý nghĩa "nghinh xuân".
4. Cây hoa mẫu đơn
Mẫu đơn là một loài hoa đẹp và được xem là quốc hoa của Trung Quốc. Hoa mẫu đơn đại diện cho sự giàu sang, thanh quý, đặc biệt là loại mẫu đơn đỏ được cho là có ý nghĩa rất tốt lành. Người Trung Quốc thường trồng mẫu đơn trong vườn vừa làm đẹp, vừa mang lại may mắn.
5. Cây hoa ly
Hoa ly với vẻ đẹp rực rỡ, hương thơm đậm đà tượng trưng cho sự cao sang và rất hay được dùng trong các đám cưới của người Trung Quốc. Chúng cũng có ý nghĩa là lời cầu chúc hôn nhân đến bách niên giai lão. Các gia đình có thể bày hoa ly trong phòng khách với ý nghĩa vợ chồng hòa hợp, hạnh phúc lâu dài. Đặc biệt, mùi hương của loài hoa này còn có tác dụng xua đuổi các loại côn trùng cũng như những điều xấu.
Ngoài ra, còn nhiều loài cây khác thuộc họ xương rồng, dương xỉ...có tác dụng bảo vệ ngôi nhà tránh được những luồng tà khí. Nếu trồng những loại cây này trong nhà, nên đặt chúng gần hoặc đối diện với các khu vực mang năng lượng tiêu cực trong nhà. Ví dụ, nếu góc tủ chiếu thẳng vào giường ngủ thì hãy đặt một chậu cây nhỏ phía trên nóc hoặc trên bàn cạnh tủ.
(Theo Khám Phá/Eva)
Trước xem nhật chủ ý, có nhật chủ không hợp, không sinh( Không làm công), sẽ không nhìn, mà xem nhật chi ý.
1, nhật chi tố công có phương hướng, nhật chi tố đích công cùng bát tự đích xu thế đối kháng, chính là phản cục. Ýtứ này nên minh xác, cũng không phải nhật chi cùng bát tự đích xu thế đối kháng, mà là nhật chi biểu đạt đích ý tứ-- nhật chi theo đuổi gì đó cùng bát tự xu thế đối kháng. Như: Kỷ mão, kỷ tị, tân hợi, giáp ngọ, cái này bát tự nhật chi tố công, ngọ hợi hợp khứ thương quan, nhật chi đích ý tứ cũng là bị ngọ hợp chế, cho nên cái này bát tự vốn là chính cục, không phải phản cục.
2, nhật chủ tố đích công cùng nhật chi tố đích công trái ngược( Nên lấy nhật chủ là việc chính) cũng phản cục. Ngày đó chủ cùng nhật chi đồng thời cũng tố công thời, thì muốn thấy bọn nó biểu đạt đích ý tứ có hay không nhất trí, nhất trí đó là chính cục, không đồng nhất trí chính là phản cục. Lấy nhật chủ chi công vi xem công, không lấy nhật chi vi. Như nhật chủ hợp thời trụ quan tố công, muốn xem quan ngồi xuống đích chi đi làm gì rồi( Nhật chủ hợp đến ở đâu, sẽ chứng kiến ở đâu. Thời quan vi thống lĩnh, lãnh địa chi đích), ngồi chi có hay không tố công, như tố công, cái này công cũng là nhật chủ chính mình tố đích công. Như quan đích ngồi chi cùng nhật chi tố đích công trái ngược thời, nhân tiện phản cục rồi.
( Chú: Nguyên nhân thời thượng là việc chính vị, tỏ vẻ một người đích ý nghĩ, ngồi quan tinh, làm quan đã khống chế ta đích ý nghĩ ý. Nguyên nhân ta đã bị quan viện khống chế, cố quan tức đại biểu rồi nhật chủ đích mục đích, đối với mỗ một trụ mà nói, can vi thống sư, chi vi binh tốt, đem sư chiến tranh, phải dụng binh tốt, vì vậy thời, phải dụng thời chi, thời chi không thể phá hư.)
3, bát tự trung niên nguyệt cùng nhật thời có xung hợp phản cục, hợp cùng xung vốn là hai loại trái ngược đích tố công phương thức, nhưng giả như, nhật thời vốn là xung cục, năm tháng trái lại hợp cục; hoặc nhật thời vi hợp cục, năm tháng trái lại xung cục, cả bát tự thân mình nhân tiện rối loạn, vốn là phản cục bát tự.
Càn: Tân bính kỷ giáp
Hợi thân sửu tuất
đinh quý quý mậu
tị sửu dậu ngọ
( Mệnh thuật dật nghe thấy) lệ, nhật chủ hợp giáp quan, ngay hôm đó chủ bị giáp tuất một trụ đã khống chế, cần giáp ngồi xuống tuất, nhưng nhật chi sửu mượn kim thủy xu thế hình tuất, phá hủy tuất, vi phản cục. Thời thượng vi môn hộ, tuất vi kiếp tài vi thủ, sửu trung quý thủy vi ám tài, mà sửu vi âm u, vi tiểu thâu, người này thường xuyên ngồi lao( Chú: Sửu cùng thân, dậu đích tổ hợp vi phạm tội, lao ngục đích tổ hợp). Sửu thêm vì tiền khố, một hình, nhân tiện không rồi, phát không được đại tài( Chú: Chính mình chế tài vi được tài, nhưng nơi này nhưng là chính mình bị tài chế rồi, cho nên không được tài).
Nhàn chú: Giáp kỷ hợp, hợp thời thượng đích quan, vi bị trông nom bị khống chế ý; giáp vi đầu, thú vi kỷ tỉ kiếp, vi thể, nhất định phải dụng! Nhưng nguyên cục kim thủy thành xu thế, chế rồi thú, phản rồi
Như: Tân giáp kỷ x không vi phản cục
Hợi thú sửu x hợp nguyệt, niên thượng đích quan vi quản lý cùng khống chế người khác.
Thêm như:
Càn giáp mậu quý kỷ
Thìn thìn mão mùi
mậu quý hợp, vi quản lý khống chế người khác, quý trông nom mậu, ta trông nom hắn; mão mặc thìn, biểu đạt ý tứ giống nhau. Mão vi thực thần vi tài nguyên thần, sinh tài chỗ, vi ngân hàng. Người này ngân hàng hành trường.
Tượng: Kỷ giáp tân bính
Nhật thú nhật thân hợp thời thượng đích quan, thời thượng đích kiếp tài nhất định phải dụng!
Biển cả cười: Tân nhật bính giờ Thân, đinh nhật nhâm dần thời, kỷ nhật giáp giờ Tuất chỉ có này [ba người/cái] nhất định phải dụng thời chi
Biển cả cười: Tuất vi thể, đại biểu thủ, cần cái này thể, sửu xu thế đại phản hình phá hủy thể. Nếu như hợp quan ngồi xuống không phải thể, có thể không cần
Á tử: Là bởi vì vi thương quan hại quan đích nguyên thần. Động tài tướng hình vốn là vi pháp đích thủ đoạn. Sửu trung ám tài vốn là thông qua tướng hình tài được tới, bính tân khí minh đầu ám, giáp kỷ hợp quan đến chế hắn.
Càn: Ất canh tân bính
Tị thìn mão thân
Bính tân hợp, dụng ngồi xuống thân kiếp tài, thân không thể chế quan bị cục trung tị hỏa quan chế rồi, phản cục rồi, nên phạm lao ngục tai ương. Đệ tử thời, nguyên nhân trộm vài quyển sách mà ngồi lao một năm, kỳ thật này không tính là chuyện gì, nhưng vượt qua nghiêm đánh, thật sự là mệnh bất hảo. Hắn không quan, vốn là một giáo sư. Nguyên nhân nguyên cục kim thủy có xu thế, cố chỉ có ngắn ngủi đích ngồi lao. Nhâm thìn thời đích chỗ cấp, bính tử vận thăng quan. Phụ thân cũng sớm tử
Hợp thời thượng quan, đầu óc bị người khác đã khống chế. Chỉ có kỷ nhật chủ giáp giờ Tuất, tân nhật chủ bính giờ Thân, phải dụng thời chi, thời chi không thể phá hư. Bởi vì này [hai người/cái] thời chi vốn là kiếp vốn là thể, thể vốn là không thể phá hư đích, nếu như thời chi chỉ dùng để có thể phá hư.
Như thế nhật chủ hợp năm, nguyệt thượng đích quan, thì ý tứ không giống với rồi.
Nhàn chú: Thân cần, nhưng tài sinh rồi tị hỏa, thêm tị thân hợp, phá hủy thân; bính dần năm ngồi lao một năm; phụ sớm tử!
Càn: Ất canh tân nhâm
Tị thìn mão thìn
tị tiết cùng thìn, thương quan chế quan, bính tử vận lên chức chính chỗ cấp, nhưng phụ cũng sớm tử!
Càn: Giáp mậu quý kỷ
Thìn thìn mão mùi
Này tạo nhật chi đích ý tứ vốn là thực thần mão cùng mùi củng vượng, hại chế thìn quan, nguyên nhân chỉ dùng để tài chi nguyên thần chế đích quan, cố vốn là cùng tiền có liên quan đích quan; nhưng nhật chủ nhưng lại hợp nguyệt lệnh đích quan tinh, có phải hay không phản cục rồi đây? Không phải phản cục, bởi vì hợp năm tháng vốn là quan tỏ vẻ chính mình quản lý người khác ý tứ, mậu quý hợp vốn là quyền quản lý( Chú: Mậu ngồi xuống thìn làm quan, biểu chính mình muốn xen vào lý, khống chế thìn quan, có thể không tới lúc quan, muốn xem này quan có hay không tố công chế khác đồ vật hoặc bị khác đồ vật viện chế rồi) thực tế người này vốn là một ngân hàng mỗ chi hành đích hành trường. Quan không lớn, nhưng quyền rất lớn, vốn là xí nghiệp chi quan.
Càn: Mậu nhâm Đinh Đinh
Thìn tuất sửu mùi
Đây là Chu nguyên Chương đích mệnh tạo, nhật chủ hợp nguyệt lệnh quan, vốn là quản lý khống chế đích ý tứ( Chú: Nhật chủ khống chế được tuất khứ xung thìn hình sửu). Tuất chế khứ thìn, vốn là chế khứ quan khố.( Chú: Sửu mùi xung, sửu tuất hình vốn là chế tài khố, tài quan đều bị ta chế rồi, chế rồi sẽ tới lúc, cố vốn là hoàng đế mệnh.) vốn là chính cục, không phải phản cục.
Nhàn chú: Đinh nhâm hợp, vi quản lý khống chế người khác, đinh khống chế nhâm, hỏa cùng táo thổ xu thế đại, khứ ẩm ướt thổ khố, chính cục.
Khôn: Bính mậu Đinh Đinh
Tử tuất sửu mùi
( Mệnh thuật dật nghe thấy) lệ, này tạo hỏa thổ có điểm táo khí, ý tại khứ kim thủy, đây là nhật chủ đích ý tứ; sửu mùi xung cũng là xung khứ sửu trung kim thủy, tuất thổ khắc tử thủy, nhưng tử sửu hợp, nhật chi đích hợp gì đó phản cục rồi( Cục phải đi tử thủy, nhật chi hợp lại theo đuổi tử thủy, cố phản cục rồi).( Chú: Tử sửu hợp lại, biểu nhật chi theo đuổi chính là tử thủy, không nghĩ làm cho chế ý, mà nguyên cục cùng nhật can là muốn chế tử thủy cùng tân kim, cho nên này tạo sợ nhất tử sửu hợp, cố phản rồi, nguyên nhân phản tại phu thê cung, cố hôn nhân bất hảo.) tử thủy đại biểu trượng phu( Chú: Tử vi phu tinh, cùng phu cung tướng hợp, làm phu xem), hợp đến phu cung, bị mùi xung bị tuất hình, chủ trượng phu sớm tử, vốn là tai nạn xe tử đích, mà sửu thổ thêm vi con gái tinh, nguyên cục phạm tam hình, con gái cũng bất hảo, [ba người/cái] con mình đều là tàn tật, nhị nữ đích hôn nhân cũng bất hảo.
Nhàn chú: Hỏa thổ thành xu thế khứ kim thủy, nhưng nhật chi sửu thổ hợp tử thủy, mục đích phản rồi; tử thủy làm quan sát, vi phu, phu sớm tử, hài tàn, nghèo, không có tiền!
Càn: Nhâm canh tân kỷ
Tử tuất sửu mùi
Cùng thượng lệ dường như, này lệ thì vi chính cục, nguyên nhân kim thủy thành xu thế, là muốn chế hỏa( Chú: Tuất, mùi trung đích hỏa) đích ý tứ. Hỏa làm quan sát, nhưng chế không được, quan sát chế bất hảo làm tài xem, vốn là phát tài đích mệnh.
Sửu hình tuất vi giả bộ hoàng, sửu chế mùi tất nhiên sản. Thực tế này tạo trước làm cho giả bộ hoàng sau khi làm cho địa sản. Bây giờ tẩu dần vận chế không được, ất mão vận phi thường tốt. Sửu vận canh thìn năm bốn rồi phụ thân sau lúc nhân tiện phi thường tốt, chết trước phụ đi sau tài. Ất mão vận hợp bán nguyệt trụ rồi. Nguyệt trụ không có tác dụng rồi cho nên ất mão vận khẳng định phát tài.
Nhàn chú: Này tạo kim thủy thành xu thế, ý tại khứ táo thổ hỏa; tử sửu hợp thuận theo đại thế vi chính cục, canh thìn năm xung khứ nguyệt chi thú, khứ quan, nơi này quan sát vi phụ, phụ tử! Quan sát chế vô cùng làm tài xem, phụ sau khi, lập tức có người cấp ngoài công trình, không làm đều không được! Ngàn vạn lần phú ông. Dần vận bất hảo, ất mão vận cùng nguyệt trụ thiên địa hợp, kim thủy toàn tâm toàn ý chế mùi thổ rồi, khẳng định phát tài! Bính thú năm tài chính chu chuyển không linh, hỏi thải khoản chuyện.
Càn: Quý bính mậu bính
Mùi thìn tuất thìn
Này tạo hỏa thổ thành xu thế khứ thủy, vốn tuất thổ muốn đi lưỡng thìn trung thủy, mà thìn vi tài khố, nhưng thìn thổ vượng bỉnh nguyệt lệnh mà vượng, đem tuất chế rồi, thành phản cục, người này cả đời nghèo mệnh, mậu quý hợp tài, có cơm ăn( Người này không có công việc), hợp tài ở chỗ này ý nghĩa không lớn, muốn dồn tài, nhưng bị tài phản chế.
Năm chủ phương xa, cố phương xa có người cho hắn điểm tiền. Cả đời nghèo mệnh.
Nhàn chú: Nơi này mậu thú đồng thể, bởi vì bính= mậu, nơi này thấy bính, như vậy mậu thú= bính thú rồi; thú nhất định phải dụng, nhưng thìn lực lượng cường, phản lại kẹp chế thú rồi! Phản cục, cũng may kẹp chế bất tử, không có tánh mạng chi ưu! Tỷ tỷ chu tế hắn, không tới chết đói!
Càn: Nhâm mậu tân mậu
Dần thân tị tuất
Đại vận: Kỷ dậu canh tuất tân hợi nhâm tử
Mới vu:1971 1981 1991 2001
Càn: Đinh mậu tân đinh
Mùi thân mùi tị
Đại vận: Đinh mùi bính ngọ ất tị giáp thìn
Mới vu:1976 1986 1996 2006
Lưỡng lệ cũng vi phản cục, tiền một tạo vi điện công, nhâm thân năm bị điện đánh chết, sau khi một tạo canh thìn năm chết vào tai nạn xe. Địa chi tị thân hợp phải đi kim, nhưng mậu thân một trụ, mậu sinh thân làm một thể, chỉ dùng để kim, vi nguyên cục phản cục.( Chú: Tân cùng thân nguyên nhân mậu mà ngay cả ở tại cùng nhau, thành ngay cả thể kim, cố không thể phá hư, phá hư thì thương thọ.)
Nguyên cục khứ kim thủy, nhật chủ đích ý tứ vốn là chịu mậu thổ sinh, thổ sinh kim, như mậu thân ngay cả làm một thể, nhân tiện vi phản cục.
Nhàn chú: Nguyên cục hồng chữ vi ngay cả thể, không thể bị phá hư, nhưng lưỡng tạo đều là hỏa táo thổ hoặc mộc hỏa thành xu thế, khứ chế kim! Phá hủy, phản rồi!
Lý tông nhân: Tân mão, bính thân, tân mùi, quý tị, nguyên nhân tân kim nhật chủ không bị sinh, nhật chủ hợp quan chế thân, nguyên cục cùng vốn là chế thân, không phải phản cục. Hồng chữ không ngay cả thể, có thể chế! Chính cục!
Càn: Tân bính tân quý
Mão thân mùi tị
Bính tân hợp, ngồi xuống thân vốn là kiếp, thêm đại biểu quân đội( Thân có quân đội chi tượng), tại nguyệt lệnh, biểu rất lớn, quân đội đích đại tập hợp.( Chú: Cũng chính là nhật chủ yếu quản lý khống chế tập đoàn quân đội ý.) tị thân hợp, vi chế rồi kiếp tài ý.( Chú: Chủ vị đích quan làm công, vốn là quản lý quân đội đích đại quan. Quý tị
Càn: Giáp quý tân kỷ
Ngọ dậu mão hợi
Cũng là ngay cả thể, kỷ mão vận đích đã vận bính tuất năm mặc dậu, tai nạn xe đã chết. Đinh sửu vận tốt nhất. Giáp ngọ mang tượng, ngọ= kỷ.
Tân dậu nguyệt tân nhật cũng là ngay cả thể.
Nhàn chú: Hồng chữ cũng ngay cả thể, bính thú năm lưu niên phản cục, thú mặc lộc,5.1 trước sau tai nạn xe mà chết! Nguyên cục kim thủy thành xu thế khứ mộc hỏa, giáp ngọ làm quan mang tài mạo, tài chính cục phó cục trưởng, đinh sửu vận tốt lắm!
Càn: Canh canh canh mậu
Tử thìn thìn dần
kim thủy ngay cả thể rồi, tử thủy cần. Mùi vận hại ngã tử sẽ không tốt lắm.
Nhàn chú: Hồng chữ ngay cả thể, thương quan cần; tử thủy không thể bị phá hư, mùi vận mặc tử, trúng độc cùng bệnh nặng vài lần!
Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 5 trong 8 sao thuộc chòm sao Thiên Phủ theo thứ tự: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Thiên Tướng, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.
Vị Trí Ở Các Cung
![]() |
| Thìn - Tý | Thìn - Sửu | Thìn - Dần | Thìn - Mão |
| Thìn - Thìn | Thìn - Tỵ | Thìn - Ngọ | Thìn - Mùi |
| Thìn - Thân | Thìn - Dậu | Thìn - Tuất | Thìn - Hợi |
Maruko (theo Sohu)
c coi bói cho đôi môi của bạn bè, người thân xung quanh bạn. Coi bói qua đôi môi là một trong nhiều hình thức coi bói qua dáng vẻ bề ngoài.
Nếu bạn có một đôi môi đều đặn, hai mép môi luôn khép với nhau một cách hài hoà: là người khá quyết liệt trong tình yêu. Mỗi một cuộc tình thật sự là một cơ hội để bạn thử sức, không ngần ngại cũng không thụ động, bạn luôn biết cách tiếp cận người đàn ông mà mình thích một cách tự nhiên và thoải mái. Bạn có rất nhiều đam mê trong tình yêu, nhưng khổ thay cho anh chàng nào bị bạn chinh phục một cách dễ dàng quá, bạn sẽ chán người ta ngay thôi. Trong công việc, bạn là một người xông xáo, những việc làm đòi hỏi sự hoạt động hay giao tiếp sẽ rất hợp với bạn.

Còn nếu bạn có một đôi môi “kiêu kỳ” với nụ cười nhếch mép: bạn là 1 bông hoa thơm, nhưng thật sự có gai nhọn đấy. Bạn có thể đưa các chàng trai vào bẫy tình của mình bằng một thái độ duyên dáng và vui vẻ, thế nhưng đừng hòng có chuyện cầm được tay bạn khi bạn chưa cho phép. Với cái kiểu “hư hư, thực thực” ấy, khối chàng trai phải sút ký vì bạn.
Nếu môi dưới của bạn xệ xuống, khoé miệng lúc nào cũng bĩu ra như đang hờn, đang giận ai đó thì sao? 1 nàng tiểu thư khá đỏng đảnh. Một chàng trai nào muốn bạn để mắt tới thì phải tài hoa ghê lắm. Trong cuộc sống bình thường, bạn sống hơi khép kín. Không kết giao với nhiều người, đôi lúc bạn bị xem như một “con ốc cô đơn”. Bạn thích được người khác chiều chuộng mình và mọi sự lạnh lùng của kẻ khác dành cho bạn bao giờ cũng là một xúc phạm rất lớn đối với bạn.
Bạn là 1 cô gái dễ bị tổn thương, nhưng tiếc thay, cuộc đời lại có vẻ như không ưu ái bạn lắm. Những sóng gió mà bạn đã trải qua trong đời khiến cho bạn trở nên bị quan không dễ gần, nhất là đối với các chàng trai. Những vấp váp mà bạn đã trải qua trong đời khiến cho bạn trở nên khó tính, đôi khi còn có vẻ như rất khắc nghiệt nữa. Bạn ít kết giao nhưng khi đã kết giao với ai rồi thì lại rất có tình, có nghĩa.

Nếu bạn có đôi môi dày? Còn nghi ngờ gì nữa, bạn là hiện thân của sự đam mê rực lửa. Những người đàn ông có cá tính mạnh mẽ sẽ làm cho bạn say đắm. Bạn chủ trương “không làm việc gì thì thôi, nhưng nếu đã làm thì phải làm cho đến nơi đến chốn”. Những người đàn ông đã được bạn yêu thương, dù chỉ trong một thời gian ngắn cũng sẽ khó có thể quên bạn được. Bạn là một cô gái khá đặc biệt, người thương bạn thì nhiều mà người ghét bạn cũng không ít.

Nếu bạn có môi trên mỏng hơn môi dưới: bạn là 1 cô gái mỏng manh và có rất nhiều mơ mộng. Bạn là một kẻ khờ khạo trong tình ái, bạn rất hay suy nghĩ vẩn vơ. Khi yêu, bạn sẽ yêu với cả con tim ngây thơ của mình.
Còn nếu bạn có một làn môi thanh tú như một đoá hoa hàm tiếu? Bạn là 1 người phụ nữ của gia đình. Bản tính nhẫn nại và dịu dàng, bạn thường khiến cho những người xung quanh cảm thấy thoải mái và được tôn trọng. Chung thuỷ trong tình yêu, chân thành trong tình bạn, đi đến đâu bạn cũng được người khác yêu mến. Trong công việc, bạn là một người cần mẫn, chăm chỉ và biết giữ chữ tín. Bạn không tranh giành với ai nhưng coi chừng bạn bị cấp trên yêu mến tin tưởng, sẽ khiến cho một số đồng nghiệp nhỏ nhen sinh lòng ghen tị.
Bạn có một chiếc miệng nhỏ xíu như trong bức tranh của các tố nữ Hồng Kông ngày xưa? Bạn là 1 cô gái thật giàu nữ tính. Người đàn ông nào khi ở bên cạnh bạn cũng nảy sinh ý định muốn che chở cho bạn. Bạn rất dễ xúc động trước một tình cảm chân thành của một chàng trai nào đấy dành cho bạn, nhưng bạn e dè không dám bước vào. Bạn là một cô gái rất dễ sợ hãi, những cử chỉ yêu đương vồ vập sẽ làm bạn ngại ngùng và lẩn tránh.
![]() |
Con không hiếu thuận với cha mẹ vì 7 lỗi phong thủy![]() |
| => ## cung cấp công cụ xem thước lỗ ban online chuẩn xác |

| Tháng |
Ngày tốt |
Tháng |
Ngày tốt |
| Tháng Giêng |
Các ngày Dần |
Tháng Bảy |
Các ngày Tý |
| Tháng Hai |
Các ngày Mão |
Tháng Tám |
Các ngày Ngọ |
| Tháng Ba |
Các ngày Tuất |
Tháng Chín |
Các ngày Sửu |
| Tháng Tư |
Các ngày Thìn |
Tháng Mười |
Các ngày Mùi |
| Tháng Năm |
Các ngày Hợi |
Tháng Mười một |
Các ngày Dần |
| Tháng Sáu |
Các ngày Tị |
Tháng Chạp |
Các ngày Thân |
Thường thì khi chưa thành tựu về một điều gì chúng ta cảm thấy không vui. Nhưng khi đã toại nguyện, đã có những gì mong ước thì cũng chỉ vui được một thoáng rồi qua nhanh. Thực chất thì chưa được hay đã được đều có nỗi khổ riêng, vì cái tâm mong muốn của con người dường như không có điểm dừng.
Cuộc sống luôn biến động, mọi thứ thoắt ẩn thoắt hiện, có đó rồi không đó. Không ít người đã tự chiêm nghiệm và tìm cho mình con đường sống hạnh phúc, vui sướng đích thực. Họ chợt nhận ra rằng, “không còn sầu lo” là người sung sướng nhất trên đời.
“Một thời, Tôn giả Na-già-bà-la ở trong thành Lộc Dã. Khi ấy có một Phạm chí già lụ khụ, xưa có quen biết chút ít với Tôn giả Na-già-bà-la, đến chỗ Na-già-bà-la thăm hỏi rồi ngồi một bên.
Bấy giờ Phạm chí bảo Na-già-bà-la:
- Trong các sự vui, nay ông thật là sung sướng nhất.
Na-già-bà-la nói:
- Ông xem những nghĩa gì mà nói trong các sự vui, tôi sung sướng nhất?
Bà-la-môn đáp:
- Trong bảy ngày vừa qua, tôi có bảy đứa con trai chết, những đứa này đều dũng mãnh, tài cao, trí tuệ ít người bì kịp, rồi trong sáu ngày gần đây, mười hai người làm cũng bị vô thường, họ rất siêng năng không có lười biếng. Kế đó năm ngày, bốn anh em của tôi chết, họ biết nhiều kỹ thuật, việc gì cũng làm được. Rồi cách bốn ngày, cha mẹ tôi mạng chung, tuổi vừa trăm tuổi bỏ tôi mà qua đời. Cách đây ba ngày, hai vợ tôi lại chết, họ dung mạo đoan chánh, thế gian ít có. Trong nhà tôi lại có tám hầm trân bảo, hôm qua đi tìm mà không biết chỗ. Ngày nay, như tôi gặp chuyện khổ não này không thể tính kể; mà Tôn giả thì hôm nay xa lìa hẳn hoạn nạn đó, không còn sầu lo, chỉ lấy đạo pháp làm vui thú. Tôi quán nghĩa này rồi mới nói: “Trong các sự vui, ông là sung sướng nhất”.
Khi ấy Tôn giả Na-già-bà-la bảo Phạm chí kia rằng:
- Tại sao ông không tìm cách khiến cho bao nhiêu người ấy đừng chết?
Phạm chí đáp:
- Tôi cũng làm nhiều cách để mong không chết và không mất của tiền, tôi cũng tùy thời bố thí tạo công đức, cầu khẩn chư thiên, cúng dường các trưởng lão Phạm chí, ủng hộ chư thần, tụng các chú thuật, cũng hay xem tinh tú, rồi cũng trộn cỏ thuốc, cũng đem thức ăn uống ngon ngọt cho họ lúc nguy ngập. So như thế mà chẳng thể xứng hợp, chẳng thể cứu được mạng họ.
Khi ấy Tôn giả Na-già-bà-la liền nói kệ: Có thuốc, các chú thuật/ Đồ y phục, uống ăn/ Tuy thí mà vô ích/ Còn ôm thân khổ hạnh. Cho dù tế miếu thần/ Hương hoa và tắm rửa/ So sánh nguồn gốc này/ Không thể trị liệu được. Giả sử cho các vật/ Tinh tấn trì Phạm hạnh/ So sánh nguồn gốc này/ Không thể trị liệu được.
![]() |
Nụ hôn là minh chứng cho tình yêu và những mối quan hệ tốt đẹp. Nó cũng là “vũ khí” quan trọng để giải quyết mọi mâu thuẫn.
1. Mơ thấy hành động trao nụ hôn, có nghĩa là mọi mâu thuẫn của bạn sẽ được giải quyết nhanh chóng, bạn sẽ không phải lo lắng nữa nhé.
2. Trong giấc mơ thấy mình hôn một người lạ nào đó, là điềm báo bạn sẽ giành được sự quan tâm và ủng hộ của rất nhiều người bằng chính phẩm chất đạo đức và năng lực thực thụ của mình. Những người đối đầu với bạn cũng phải thừa nhận điều đó.
3. Nếu mơ thấy hôn chính kẻ địch của mình, mối quan hệ bất hòa hai bên sẽ nhanh chóng được hóa giải.

4. Mơ thấy bạn và người yêu trao nhau nụ hôn, báo hiệu sự bất hòa và giận hờn sẽ qua đi nhanh chóng. Tình cảm hai bên càng thêm sâu đậm và có thể tiến tới hôn nhân hạnh phúc.
5. Mơ thấy mình hôn một người nước ngoài lạ mặt, có nghĩa là bạn sẽ chinh phục được người yêu.
6. Nếu thấy mình hôn một người nào đó có vẻ như đã quen thân nhưng lại không nhìn rõ mặt người ấy, rất có thể bạn sẽ rơi vào lưới tình. Người chiếm được trái tim bạn không ai khác chính là người hiện tại bạn chưa để ý đến.
7. Trong giấc mơ thấy hôn người mình đang thầm yêu trộm nhớ, đây là tín hiệu không may mắn lắm. Bởi cơ hội để cả hai trở thành người yêu của nhau là rất ít.
Bình phong có ba tác dụng chính, đó là: thay đổi vị trí của cửa, phân chia không gian, bảo đảm sự riêng tư. Căn cứ vào sự khác nhau về vật liệu, bình phong có thể phân thành bình phong bằng kính, bình phong bằng tượng điêu khắc, bình phong bằng bức thư hoạ,...

Trong phong thuỷ học còn cho rằng, bình phong có thể hoá giải những thế sát dưới đây:
1. Xuyên tâm kiếm
Nếu cửa chính đối diện với hành lang hoặc lối đi, trông giống như lưỡi kiếm nhọn xuyên tâm, cách đặt này gọi là Xuyên tâm kiếm. Cách hoá giải chính là đặt tấm bình phong bên trong để thu hiệu quả thay đổi cửa. Nếu nhà ở tằng trệt mà cửa chính đối diện với đường quốc lộ thì có thể trồng các loại cây hoa mọc thành bụi để hoá giải ngoại sát xông thẳng vào nhà.
2. Cầu thang thoát tài
Nếu cửa chính đối diện với cầu thang sẽ hình thành hai kết cục khác nhau. Một là, cầu thang đối diện hướng xuống thì tài khí trong nhà rất có thể bị phát tán, do vậy phải đặt tấm bình phong ở sau cửa để chặn không cho tài khí thoát ra ngoài. Hai là, cầu thang đối diện hướng lên thì không cần lo tài khí phát tán ra ngoài. Nếu để chậu cây cảnh có phiến lá to như cây phát tài, kim phát tài (cây tiền bạc) bên trong cửa thì có thể dẫn nhập tài khí vào nhà.
(Theo Phong thủy trong gia đình)
1. Nốt ruồi ở Ngón cái
Cuối đốt có nốt ruồi: Biểu thị có sức cuốn hút người khác giới, trở thành nhân vật tiêu điểm. Nói chung là họ thường gặp phải sự lao đao trong chuyện tình cảm, bản thân luôn chìm đắm trong đó, lãng phí nhiều thời gian và tiền bạc, dần sa vào cảnh xuống dốc.
Giữa đốt ngón tay có nốt ruồi: Biểu thị khả năng phán đoán kém, đầu óc ảo tưởng, rối loạn, ngạo mạn, tự phụ.
Đầu đốt ngón tay có nốt ruồi: Biểu thị tính cách cố chấp, không thế kết bạn được với người khác. Khả năng ứng biến kém, khi gặp khó khăn trở ngại thường sẽ bị rơi vào cảnh hỗn độn, đặc biệt là về mặt tiền bạc.

2. Nốt ruồi ở Ngón trỏ
Cuối đốt ngón tay có nốt ruồi: Biểu thị không đồng tình với mọi người, không biết tha thứ và yêu thương người khác, nói chưng là họ tạo thành thế đối lập với mọi người xung quanh, tạo thành khoảng cách. Khả năng giao tiếp kém, đối với người khác họ luôn có lòng đố kỵ, không đế ý gì tới xung quanh.
Giữa đốt ngón tay có nốt ruồi: Biểu thị có ý chí xây dựng sự nghiệp cao, ý chí ngoan cường, không sợ khó khăn nguy hiểm, dũng cảm đối mặt với nhiều khó khăn. Nhưng đôi khi họ lại quá liều lĩnh khiến người khác phải kinh ngạc.
Đầu đốt ngón tay có nốt ruồi: Biểu thị tinh thần hoảng hốt, khả năng tập trung kém, thường là do bế tắc mà bị phân tâm, thậm chí họ còn có thể gặp tai họa ngoài ý muốn. Trên phương diện xử lý công việc họ cũng có mặt quá tiêu cực, hành động phân tán, không chịu được áp lực, không thích hợp làm những nghề mang tính cạnh tranh và hay bị kích động.
3. Nốt ruồi ở Ngón giữa
Cuối đốt có nốt ruồi: Biểu thị tính cách mông lung, thường không thể tập trung tinh thần vào công việc, làm việc không có tinh thần trách nhiệm, không muốn đảm nhận trọng trách. Vê mặt chi tiêu, đối với bạn bè thì họ hào phóng, xa hoa, mà đối với bản thân và người thân thì lại rất tằn tiện.
Giữa đốt ngón tay có nốt ruồi: Biểu thị tư tưởng nhỏ nhen, có thế xử lý công việc cẩn thận. Nhưng do là người tình cảm hóa, hỷ nộ vô thường, có cái nhìn phiến diện đối với người khác, làm việc luôn tận tâm tận lực cho nên dễ bị mọi người xung quanh chỉ trích, rất hiếm khi được người khác giúp đỡ, là số khổ hạnh, luôn lo lắng muộn phiền.
Đầu đốt ngón tay có nốt ruồi: Biểu thị tính khí hung bạo, tính tình dễ bị kích động, thích gây hấn với mọi người vì thế mà tranh chấp xảy ra liên miên. Nếu cong sang ngón vô danh cho thấy người này mang lại phiền muộn cho người trong nhà.
4. Nốt ruồi ở Ngón vỗ danh
Cuối đốt có nốt ruồi: Biểu thị sự quá coi trọng cái tôi, ngược với thiên tính, không thích bị ràng buộc, xử lý công việc độc đoán, chuyên quyền, thích lập dị, không hòa nhập với quần chúng, về mặt tiền bạc, tiền tới rất nhanh, đi cũng rất nhanh. Bởi vì quan niệm tiền bạc rất đơn giản nên họ thường vung tay quá trán, không biết quý trọng vật chất.
Giữa đốt ngón tay có nốt ruồi: Biểu thị tài vận không tốt lắm, không thích hợp với những việc mang tính đầu cơ quá lớn. Đặc biệt người này không được đánh bạc, nếu không sẽ bị khuynh gia bại sản, nhưng do vì tính cách quá ngoan cố, quá coi trọng thể diện thường dẫn tới cảnh sai lầm, không nghe lời người khác khuyên can.
Đầu đốt ngón tay có nốt ruồi: Biểu thị cá tính dễ bị kích động, vội vàng hấp tấp, làm việc thiếu nhiệt tình, không có hứng thú với công việc. Họ hay làm việc nửa chừng bỏ dở, khó làm thành đại sự. Khi đôi diện với chuyện tình cảm họ thường bị thất hại liên tiếp, thậm chí còn dùng tình cảm vào công việc.
5. Nốt ruồi ở Ngón út
Cuối đốt có nốt ruồi: Cho thấy là người có nhiều toan tính, thích động não. Về phương diện vật chất, tiền bạc họ quá tôn sùng, cố gắng giành giật, thái độ với bạn bè hoặc con cái quá thờ ơ, lãnh đạm.
Giữa đốt ngón tay có nốt ruồi: Biểu thị cho thấy đây là người thích bịa chuyện, vì vậy mà họ thường bị người khác ghét bỏ. về mặt tiền bạc họ không biết tính toán, khả năng phán đoán kém, khi đầu tư thường thất bại lớn, không thích hợp làm việc trong lĩnh vực thương mại.
Đầu đốt ngón tay có nốt ruồi: Biểu thị là kẻ ăn nói lỗ mãng, làm tổn thương tới người xung quanh, quan hệ xã giao không tốt. Người này tính cách quá bảo thủ, tư tưởng nhu nhược, về phương diện nắm bắt kỹ thuật khá yếu kém, tư duy tiến triển rất chậm.
Trên cơ thể phụ nữ có những nốt ruồi mà mỗi vị trí nó sẽ thể hiện hoặc thậm chí là cảnh báo một thông điệp nào đó về tài vận, sự may mắn hay rủi ro. Trong bài viết này, chúng ta cùng tìm hiểu về nốt ruồi phú quý của phụ nữ. Cùng Phong thủy số xem bạn có những nốt ruồi như thế nào nhé.

Người phụ nữ có nốt ruồi ở gần miệng cho thấy họ có phúc lộc từ chồng và nhà chồng rất lớn. Cuộc sống hôn nhân sẽ luôn hạnh phúc và không phải lo lắng nhiều. Nhưng sự phú quý của nó còn phụ thuộc vào vị trí gần hay xa miệng. Nếu càng gần miệng thì càng hưởng nhiều phúc lộc từ nhà chồng và ngược lại. Ngoài ra, Nốt ruồi phú quý của phụ nữ này còn báo hiệu rằng họ không cần phải suy nghĩ đến chuyện ăn mặc. Vì số của họ sẽ được hưởng lộc cả đời, giàu sang, phú quý.
Đây là Nốt ruồi phú quý ở phụ nữ mà nhiều người biết và dễ nhận thấy. Nó báo hiệu chủ nhân của nó là người thông minh, duyên dáng đặc biệt là trong kinh doanh rất khéo léo, làm ăn phát đạt. Ngoài ra họ còn có thêm sự may mắn khi có nốt ruồi mọc ở tai nữa.
Nữ giới sở hữu nốt ruồi ở mũi cho thấy họ là người thông minh, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống. Do đó nó cũng có thể được xem là Nốt ruồi phú quý của phụ nữ. Trong chuyện tình cảm, họ là người được nhiều người yêu thương, theo đuổi. Tuy nhiên, họ lại thường không lý trí, dễ lựa chọn sai lầm. Khi họ quyết định kết hôn nghĩa là họ đã chính chắn và có thể làm cho cuộc sống hôn nhân được viên mãn.
Đây là Nốt ruồi phú quý ở phụ nữ mà hiếm ai có được, và cũng rất khó để phát hiện ra vì nó nằm trong tóc nhiều người không để ý. Nhưng bạn có biết rằng, nếu nữ giới có nốt ruồi trong tóc nghĩa là cả đời không phải lo toàn đến việc cơm ăn áo mặc, giàu sang phú quý cả đời.
Trán là vị trí cao, thể hiện cho quyền lực, địa vị trong xã hội. Nếu phụ nữ có nốt ruồi ở trán sẽ càng tăng thêm vận khí cho chủ nhân. Nó thể hiện cho sự may mắn, tài lộc sẽ đến. Đồng thời, chủ nhân cũng sẽ có địa vị cao trong xã hội, dễ dàng vượt qua các khó khăn trong cuộc sống.
Nếu có nốt ruồi ở má phải thì người phụ nữ đó sẽ có một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc. Bởi họ là những người phụ nữ biết chịu đựng, hết lòng vì chồng con, hi sinh cho chồng con, không mấy khi tin vào sự may rủi nên họ hài lòng với những gì mà họ có.
Nốt ruồi phú quý của phụ nữ còn là khi nó nằm bên má trái. Lúc ban đầu, bạn có thể gặp nhiều khó khăn, vất vả đúng như câu nói Vạn sự khởi đầu nan. Nhưng sau đó, bằng nghị lực, khả năng của mình bạn có thể vượt qua và gây dựng mọi thành công trên đôi tay của mình.
Đây là Nốt ruồi phú quý ở phụ nữ và cả nam giới. Nó thể hiện cho người đó giàu có về điền trạch nghĩa là ruộng đất, nhà cửa, bất động sản. Từ đó mà cuộc sống trở nên giàu có, không phải lo lắng cái ăn cái mặc.
Ngoài ra, họ còn được hưởng phúc đức từ tổ tiên để lại, làm tiền để vững chắc cho kinh tế sau này.
Trên đây là 7 Nốt ruồi phú quý của phụ nữ mà bạn có thể dễ dàng tìm thấy. Cùng đối chiếu xem bạn có nốt ruồi nào trong các vị trí trên không nào. Nếu có thì chúc mừng bạn, vì bạn có thể có một tài vận tốt, phú quý và giàu sang rồi đấy!
Những bài viết liên quan:
+ 7 nốt nốt ruồi giàu sang phú quý trên cơ thể phụ nữ
+ “Điểm danh” các Nốt ruồi phú quý ở đàn ông
+ Nốt ruồi ở bụng nói lên điều gì?
+ Đoán tài vận thông qua nốt ruồi ở nách
+ Xem bói nốt ruồi đoán tương lai, vận mệnh
Những cách xấu
1/ Tham Lang- Địa kiếp
Đa số các nhà tử vi không khen phụ nữ nào có 2 sao này hay 1 trong 2 sao tọa thủ tại mệnh thân (nhất là mệnh).
Câu phú “Trai bất nhân Phá quân thìn tuất, gái bạc tình Tham Sát dần thân” chỉ chê phụ nữ có Tham, Sát dần thân là bạc tình, nhưng tôi nghiệm thấy còn tệ hơn nữa vì người đó ngoài tính bạc tình còn có tâm địa ích kỉ, tham vọng vô bờ bến về mọi phương diện nhất là về tình và tiền (gặp ai mà ưa là say mê liền hoặc đang yêu mà thấy người đó hết tiền là bỏ luôn).
Về câu phú trên tôi thấy ứng nhiều với sao Tham Lang chứ ít đúng với sao Thất Sát nếu không có sao tăng cường. Thực tế khi mạng cư dần thân có Sát thì cung xung chiếu bao giờ cũng là Tử Phủ là 2 sao trung hậu, gây ảnh hưởng ko ít cho Thất sát, nhất là khi mạng ko có ngũ hành hợp sao này, hơn nữa chính sao Thất sát là sao chủ về khắc khổ, khắc khe, u buồn, ít tình cảm, thì khó thể quyết đoán là đương số bạc tình. Phải chăng là có những tính này nên không yêu đương đằm thắm được, chứ làm gì có lòng dâm tà.
Nhưng khi có Tham Lang thủ mạng, nhất là ở tí ngọ, dần thân, thìn tuất thì khó thể níu kéo cung xung chiếu để chế hóa mạnh mẽ sao này.
Có nhà tử vi đã không lầm khi cho rằng Tham Lang còn tệ hơn Đào, Hồng, Riêu, Mộc vì Tham Lang vừa dâm vừa gian tà ích kỉ trong khi Đào, Hồng, Riêu, Mộc chỉ có đam mê về nhục dục chứ chưa hẳn thiếu tâm hồn cao thượng, vị tha. Nếu chẳng may có Tham Lang thủ mạng lại gặp đủ bộ sao lả lướt trên đây thì thực là quá sức dâm dật hoặc vô luân; những người phụ nữ đó không thể chấp nhận làm người bạn đời được. Riêng Tham Vũ và Liêm Tham thì ít bị ảnh hưởng của Tham Lang vì thuộc về cách khác
Còn sao Địa Kiếp tuy ko chủ về tình ái nhục dục nhưng có đặc tính mạnh mẽ về gian tà, thủ đoạn, tàn nhẫn, bần tiện, ác độc. Chỉ 1 sao này cũng đủ làm cho tâm hồn người phụ nữ xấu xa và cũng đủ làm hỏng gần hết các cách hay khác. Nếu xui có thêm Tham Lang thì người đó hết làm bạn được với ai. Nếu có Đào Hồng Binh Tướng hội chiếu thường hay bị hãm hiếp; hoặc làm gái điếm khi có thêm Riêu, Mộc, Cái, Hỏa, Linh và 1 vài cách bổ túc khác.
Tôi cho rằng thà có Địa Không lâm mệnh thân còn hơn có Địa Kiếp, vì Địa Không thường chủ về vất vả, thất bại, hôn nhân trắc trở chứ ít khi chủ về gian trá, ích kỉ mạnh mẽ như địa kiếp. Mặc dù có câu phú “Không kiếp lâm Tài Phúc chỉ hương sinh lai bần tiện” tôi cho rằng chỉ ứng với Kiếp. Riêng về Không Kiếp đắc địa Tị Hợi thì ko liên quan gì đến cách đoán trên vì cách này cũng là 1 cách tốt cho nam lẫn nữ, nhất là Âm Nam, Dương Nữ (tôi đã bàn kĩ về điểm này trong bài đầu tiên của tôi trên KHHB)
2/ Đào, Hồng, Riêu, Mộc, Cái
Sau sao Tham Lang tôi chê người phụ nữ nào có các sao này, dù họ có cả Tử Phủ, Khôi Việt, Quan Phúc chiếu mệnh chăng nữa. Thực tế các sao đó có năng lực rất mạnh về tình ái, nhục dục cho nên bộ sao đứng đắn khó làm mất hiệu lực của chúng, nhất là khi có cả Không Kiếp, Hỏa Linh, Phục, Tả Hữu thì thuộc về hạng gái làm tiền.
Chỉ có 2 sao Đào Riêu vẫn là loại gái lăng loàn, trắc nết, dễ cắm sừng vào đầu chồng, chẳng thế mà có câu “Đào Riêu số gái ai hay, chồng ra khỏi cửa dắt trai vào”.
Hơn nữa, nguyên sao Đào Hoa hoặc Hồng Loan thủ mệnh cũng bát lợi cho người chồng vì 2 sao này chủ về 2 đời chồng hoặc ít khi sống gần chồng. Tôi ko cho 2 sao này nói về tình ái liên tục mà thực ra là “trăm mối tối nằm không”, như vậy có hay gì cho hạnh phúc vợ chồng. Đấy là chưa kể về vấn đề yểu tướng khi có Không Kiếp giao hội, vì có câu “Đào, Hồng hội Kiếp Không lâm thủ, sá bàn chi những lũ yểu vong”
3/ Vũ khúc, Cô quả, Lộc tồn
Những sao này khi thủ mạng nữ chẳng bao giờ có nghĩa xấu xa, nhưng tôi vẫn ko cho là tốt vì các sao đó chủ về cô đơn, góa bụa, hoặc lạnh lùng, khắc khe, là những yếu tố ko lợi cho hạnh phúc lứa đôi. Nhưng bù lại, người đó có tay làm ra tiền và càng nhiều tiền càng dễ bị sống xa cách chồng. Cách này hay dở tùy thuộc cảm nghĩ hoặc í thích của người chọn vợ, vì có ông chỉ nghĩ đến tiền nên khi vợ làm ra nhiều tiền thì đương nhiên được coi là hay, nhưng có ông chỉ ưa sống gần vợ mà cứ phải nay đây mai đó hoặc phải chia ly xa cách vì hoàn cảnh sự nghiệp thì đương nhiên cách này thành xấu
4/ Phá quân, Đại Tiểu hao
1 phụ nữ không dâm tà độc địa ích kỉ, không lạnh lùng khắc khe cũng chưa đủ làm người vợ tốt: người đó còn cần có tính cẩn thận, tằn tiện, ngăn nắp nữa mới có thể thành người nội trợ giỏi, đảm đang. Như vậy phải tránh Phá quân hội Đại Tiểu hao (trừ khi Đại Tiểu hao cư Mão, Dậu) dù cho Phá quân đắc cách ở tí, ngọ vì các sao này chủ về bừa bãi, ngông cuồng, hoang phí, phóng khoáng ăn chơi, cờ bạc, nghiện ngập. Dù mình là tỉ phú cũng chẳng nên lựa người phụ nữ kiểu này, vì chẳng mấy chốc mà sự nghiệp tan tành vì bị phá của rất mạnh mẽ.
Trên đây là những điều tôi cho rằng tối kị với phụ nữ, vì thực ra còn nhiều cách xấu khác không tai hại lắm và cũng khó thể tránh được. Nhân vô thập toàn mà
Những cách tốt
1/ Tử Phủ Dần Thân
Cách này ít nhà tử vi dám chê và riêng tôi, tôi coi cách này hay nhất đối với phụ nữ. Mỗi khi coi lá số 1 người phụ nữ có cách này là tôi có thiện cảm và kính trọng liền, vì gần như chắc chắn người đó đoan trang, tiết hạnh và thông minh.
Nhất là khi có thêm Hóa Khoa đồng cung hoặc Khôi Việt giao hội thì thực hết chỗ chê. Riêng Hóa Khoa có điềm hay đặc biệt là vừa thông minh lại vừa nhân hậu từ trong lòng đến bề ngoài (như thế là nhân hậu thật sự chứ không phải đạo đức giả). Phải chăng vì thế mà theo cách bố cục các sao, Đào Hoa không bao giờ đồng cung Tử Phủ dần thân, vì đào hoa chủ về đa tình, lãng mạn lẳng lơ. Còn Hồng Loan tuy cũng có khi đồng cung (khi tuổi Sửu Mùi) nhưng không đáng ngại vì Hồng Loan thường chủ về 2 đời chồng hoặc trắc trở hôn nhân chứ ít khi có nghĩa đa tình như Đào Hoa, nhất là khi có Tử Phủ chế hóa nhiều
Có người thắc mắc sao không coi Tử vi cư ngọ là tốt nhất đối với người phụ nữ. Thật ra cách đó chỉ tốt về công danh uy quyền chứ không hẳn tiêu biểu cho nết hạnh phụ nữ. Chẳng thế mà cung Ngọ cũng là 1 trong 4 vị trí của đào hoa, và khi sao này cư Ngọ thì đương nhiên người phụ nữ đó coi tình ái như “pha” nghĩa là họ có thể trở thành bạc tình, dù có Tử Vi đóng ở đó nữa. và có khi chính vì có Tử Vi mà thành ngang tang trong vấn đề tình ái vì Tử vi cư ngọ được coi là “vua” trong các sao thì coi ai ra gì. Tuy nhiên khi có Tử vi mà không có đào hoa thì vẫn cho là tốt về tính tình nhưng nhất định có tính kiêu kì quá đáng, là 1 điều làm phái nam bực mình và thiệt thòi
2/ Tử Sát Tị Hợi
Cách “Tử Sát đồng lâm tị hợi nhất triều phú quí song toàn” là cách tốt thứ 2 đối với phụ nữ, theo ý kiến của riêng tôi. Tuy nhiên, cách này cũng có khía cạnh đáng chê là người phụ nữ đó thường nghiêm nghị quá, thành ra mất vẻ nữ tính, nhất là gặp ông nào nhiều tình cảm thì thực là giảm nhiều khắng khít. Nhưng bù lại người phụ nữ đó rất vượng phu ích tử hoặc có tay làm ra tiền như thế cũng là hay lắm rồi.
Còn những cách liên hệ với tử vi như Tử Tham,Tử Tướng, Tử Phá … tôi không dám cho là tốt được, vì như Tử tham thì cũng tệ như những cách xấu nêu trên, nhất là có thêm đào hoa (mão hoặc dậu), Tử Tướng lại phạm vào câu “Đế tọa La Võng, hoàn vi phi nghĩa chi nhân”, còn Tử Phá tuy khá hơn nhưng hay có tính ngang bướng, bất cần đời mặc dù cũng đứng đắn
3/ Đồng Lương Dần Thân
Cách “Đồng Lương tối hỉ dần thân hội” cũng đáng gọi là hay vì người phụ nữ nào có cách này tính tình nhẹ nhàng, dịu dàng và nhất là có sắc đẹp mĩ miều (nhưng ở đây tôi không bàn về nhan sắc mà chỉ nói về tính tình). Tuy nhiên, cách này vẫn thua kém 2 cách trên về sự đứng đắn, đoan trang và quí phái, vì khi đã dính tới Thiên Đồng là chủ về thay đổi, canh cải, không giữ vững lập trường tức là không thể chung tình tuyệt đối được, nhất là khi Hồng Loan đồng cung.
4/ Vũ Tướng Dần Thân
Cách này hay ở chỗ là người đảm đang, đứng đắn, biết xoay xở quán xuyến, nhưng vì liên hệ tới Vũ Khúc nên tính thích cô đơn, lạnh lùng và quả quyết như đàn ông (do đó cần tránh Cô quả, lộc tồn), còn Thiên Tướng chủ về chỉ huy nên dễ bắt nạt chồng. Nếu ai chịu được những điều trên thì rất nên lựa người bạn đời có Vũ Tướng để khỏi bị gánh nặng gia đình trút hết vào mình, nhất là trong giai đonạ mưu sinh khó khăn hiện nay
5/ Vũ Sát mão dậu
Cách này chỉ hay ở phương diện đứng đắn, đoan trang vì 2 sao này cũng ghét tình ái bậy bạ, nhưng về tình vợ chồng thì vẫn xem trọng mặc dù không lả lướt lắm. vậy ai thích có vợ chỉ lo toan nội trợ hoặc tần tảo bán buôn thì hãy chọn cách này, nhưng cần phải tránh được Lộc tồn đồng cung và cô quả tại “thân” (vì không bao giờ cô quả tại Mão dậu) cư hợi hoặc mùi, để khỏi gặp người khắc chồng trở thành góa bụa
6/ Nhật Nguyệt đắc địa
Cách này có thêm Tả Hữu hoặc Song Lộc là người phụ nữ đảm đam nhất về phương diện kinh doanh lớn, nhưng có điểm kẹt khi gặp đào hồng hay riêu, mộc, cái thường hay thích ăn chơi ngoài xã hội dù vẫn lo chuyện làm ăn, vì Nhật Nguyệt bao giờ cũng chủ về mơ mộng vẩn vơ, có tâm hồn, “là thi sĩ nghĩa là du với gió”
7/ Cơ Lương thìn tuất
Cách này thường hay cho phái nam nhiều hơn nữ, vì rất hợp về mưu trí, kế hoạch, cho nên phụ nữ có cách này thì khôn quá có thể lừa dối, qua mặt chồng dễ dàng. Lẽ tất nhiên nếu không có các sao xấu hội hợp thì chẳng đáng ngại, nhưng lỡ có 1 vài điểm “mờ ám” nào là phải nên dè dặt đối với người bạn đời của mình
8/ Phủ Tướng triều viên
Đây là cách trung bình, nghĩa là chỉ chăm chỉ làm ăn, không có gì xuất sắc mà cũng không có gi đáng chê trách. Thường những người phụ nữ có cách này hay làm công chức, sống cuộc đời nề nếp
Các trung tinh tốt
Cũng cần nhìn vào Các trung tinh như thai tọa, khôi việt, quan phúc, tràng sinh đế vượng quang quí, long phượng, khoa, lộc (tôi không đề cập Hóa Quyền vì sao này không chủ về tính tình tốt của phụ nữ, có sao đó chỉ người kiêu căng, hách dịch, hay bắt nạt chồng) để cho điểm cao thêm vì những sao phụ trên đóng góp khá nhiều vào tính đọa đức, đứng đắn, đảm đang.
Để phát huy hết hiệu suất của con ngựa phong thủy thì phải chú ý đến kiểu dáng, chất liệu và quan trọng là phương hướng bài trí của nó. Cùng ## xem kiến thức phong thủy và khám phá xem bài trí ngựa phong thủy như thế nào nhé!

Con ngựa có số mệnh khoẻ mạnh, bản tính của ngựa hào phóng, táo bạo, không ràng buộc, cho nên khi bài trí ngựa phong thủy sẽ làm cho chủ nhân trở nên vui vẻ, thêm năng lượng, có tác dụng cải thiện, đột phá cục diện bế tắc, thăng tiến trong công việc, tình cảm hôn nhân chuyển biến…
## thấy con ngựa trong phong thủy không chia ra là “hung thú” hay “cát thú”. Nhưng đa số mọi người vẫn coi ngựa là cát thú thăng tiến. Để phát huy hết hiệu suất của con ngựa phong thủy thì phải chú ý đến kiểu dáng, chất liệu và quan trọng là phương hướng bài trí của nó.
Ngựa thuộc Ngọ, cho nên vị trí bài trí tốt nhất là hướng chính Nam. Về chất liệu, ngựa làm từ kim loại, ngọc và đồng là tốt, không dùng ngựa có chất liệu bằng cao su hay nhựa vì chúng không có một chút linh lực nào. Muốn đạt được lý tưởng của mình thì đầu ngựa hướng với phương ấy, muốn chuyển nhà thì bài trí ngựa tại vị trí Dịch mã theo tháng đó.
Theo ## thì nếu muốn tốt về tình cảm hôn nhân thì phối hợp với vị Đào hoa theo năm hay tháng đó. Cụ thể, nếu là năm tháng Dần, Ngọ, Tuất: Vị trí Dịch mã tại hướng Thân, Đào hoa tại hướng Mão. Nếu là năm tháng Thân, Tý, Thìn: Vị trí Dịch mã tại hướng Dần; Đào hoa tại hướng Dậu. Nếu là năm tháng Hợi, Mão, Mùi: Vị trí Dịch mã tại hướng Tỵ; Đào hoa tại hướng Tý. Nếu là năm tháng Tỵ, Dậu, Sửu: Vị trí Dịch mã tại hướng Hợi; Đào hoa tại hướng Ngọ.
Lưu ý: Người tuổi Tý (chuột) không được bài trí con ngựa tại hướng Nam vì hướng chính Nam do ngựa quản lý xung khắc với chuột. Trong “Bát quái” ngựa thuộc quẻ Càn (Thiên môn) ứng với Ngũ hành thuộc Kim, nếu người tuổi Tí bài trí con ngựa tại hướng Nam (hướng Nam thuộc Hỏa) thì sẽ xuất hiện “Hỏa đốt Thiên môn”, tức trong nhà sẽ xuất hiện 3 tình huống xấu. Đó là: Người trong nhà dễ bị đau đầu, choáng đầu; con cái không hiếu thuận, hay tranh cãi với cha mẹ; người trong nhà hay bị ho, đau phổi. Cách hóa giải đơn giản nhất là chuyển con ngựa sang chỗ khác. Nên đặt tượng ngựa hay tranh ngựa hướng ra cửa vì theo phong thủy sẽ “Mã đáo thành công”.
Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Tuất (P1)![]() |
| Ảnh minh họa |
| ► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình |
Người tuổi Tý nhóm máu O luôn đầu tư nhiều thời gian và công sức để chăm lo cho người thân và gia đình.
![]() |
Nếu như đối phương cảm nhận được đồng thời đưa ra những tín hiệu phản hồi tốt đẹp thì tình cảm giữa họ sẽ tiến triển tốt đẹp. Nhưng nếu không thuận lợi như mong muốn, họ dễ rơi vào trạng thái thất vọng thậm chí dễ nổi cáu, nóng giận với người xung quanh và ngay cả đối tượng mà họ đang theo đuổi. Nếu "một nửa" của họ là người nóng nảy, vội vàng thì tình yêu của họ sẽ không tránh khỏi những xung đột, cãi vã. Bởi vậy, khi tìm được "một nửa" của mình, họ phải biết kiềm chế và kiên trì theo đuổi trong thời gian dài thì mới có hạnh phúc vẹn toàn như ý.
Cả nam giới và nữ giới tuổi này đều rất biết chia sẻ và gánh vác công việc nhà. Vì với họ, gia đình đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Để cuộc sống luôn được “cơm lành canh ngọt”, người tuổi Tý thuộc nhóm máu AB nên kết hôn với những người hiền lành, chu đáo và biết cảm thông.
Các bài viết sau cùng chủ đề, có thể bạn quan tâm:
(Theo 12 con giáp về tình yêu, hôn nhân)
| ► Tham khảo thêm những thông tin về: Phong thủy nhà ở và các Vật phẩm phong thủy chuẩn xác nhất |
![]() |
| Ảnh minh họa |
Việc chọn đá phong thủy theo tuổi hay dùng các vật phẩm phong thủy không theo đúng màu sắc ngũ hành sao cho hợp với cung mệnh người đeo, dẫn đến việc nó sẽ đem lại những điều không may mắn cho người sử dụng.
Và ngược lại, nếu đeo các trang sức hay vật phẩm phong thủy có màu sắc phù hợp với cung mệnh của người sử dụng, thì kết quả sẽ đem lại sức khỏe, hưng vượng, may mắn cho người đeo.
Nội dung
Từ xưa đến nay, thuyết Ngũ hành được xem là một trong những nền tảng chính yếu nhất để hình thành nên các quy tắc trong khoa học phong thủy. Muốn vận dụng những phương pháp phân tích trong phong thủy vào việc cải biến vận mệnh của con người, nhất thiết phải nắm được quy luật Ngũ hành. Hiểu đơn giản, theo thuyết Ngũ hành thì vạn vật trong trời đất nếu ứng với một trong năm hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ. Con người cũng vậy, mỗi người sinh ra vào một năm cụ thể đều sẽ ứng với một hành tương ứng (ở người gọi là mạng hoặc mệnh).
Học thuyết Ngũ hành vận động dựa trên hai quy luật chính là Tương sinh và Tương khắc. Đây cũng chính là cơ sở để các chuyên gia phong thủy tìm ra cách thức cải biến vận mệnh cho con người: bên cạnh việc cải tạo chỗ ở, nơi làm việc theo đúng các quy tắc về phong thủy ứng với mỗi người, thì việc sử dụng các vật phẩm phong thủy có sắc màu phù hợp với mệnh của gia chủ cũng rất quan trọng. Dựa theo quy luật Tương sinh Tương khắc, các màu sắc phù hợp được tính là nhóm màu Tương sinh và Tương hợp, đây là hai nhóm màu sắc sẽ mang lại nhiều may mắn cho người sử dụng.
| Mệnh Kim | Mệnh Mộc | Mệnh Thủy | Mệnh Hỏa | Mệnh Thổ |
| 1932, 1992 tuổi Nhâm Thân 1955, 2015 tuổi Ất Mùi 1984, 1924 tuổi Giáp Tý 1933, 1993 tuổi Quý Dậu 1962, 2022 tuổi Nhâm Dần 1985, 1925 tuổi Ất Sửu 1940, 2000 tuổi Canh Thìn 1963, 2023 tuổi Quý Mão 1941, 2001 tuổi Tân Tỵ 1970, 2030 tuổi Canh Tuất 1954, 2014 tuổi Giáp Ngọ 1971, 2031 tuổi Tân Hợi |
1942, 2002 tuổi Nhâm Ngọ 1959, 2019 tuổi Kỷ Hợi 1988, 1928 tuổi Mậu Thìn 1943, 2003 tuổi Quý Mùi 1972, 2032 tuổi Nhâm Tý 1989, 1929 tuổi Kỷ Tỵ 1950, 2010 tuổi Canh Dần 1973, 2033 tuổi Quý Sửu 1951, 2011 tuổi Tân Mão 1980, 2040 tuổi Canh Thân 1958, 2018 tuổi Mậu Tuất 1981, 2041 tuổi Tân Dậu |
1936, 1996 tuổi Bính Tý 1953, 2013 tuổi Quý Tỵ 1982, 1922 tuổi Nhâm Tuất 1937, 1997 tuổi Đinh Sửu 1966, 2026 tuổi Bính Ngọ 1983, 1923 tuổi Quý Hợi 1944, 2004 tuổi Giáp Thân 1967, 2027 tuổi Đinh Mùi 1945, 2005 tuổi Ất Dậu 1974, 2034 tuổi Giáp Dần 1952, 2012 tuổi Nhâm Thìn 1975, 2035 tuổi Ất Mão |
1934, 1994 tuổi Giáp Tuất 1957, 2017 tuổi Đinh Dậu 1986, 1926 tuổi Bính Dần 1935, 1995 tuổi Ất Hợi 1964, 2024 tuổi Giáp Thìn 1987, 1927 tuổi Đinh Mão 1948, 2008 tuổi Mậu Tý 1965, 2025 tuổi Ất Tỵ 1949, 2009 tuổi Kỷ Sửu 1978, 2038 tuổi Mậu Ngọ 1956, 2016 tuổi Bính Thân 1979, 2039 tuổi Kỷ Mùi |
1938, 1998 tuổi Mậu Dần 1961, 2021 tuổi Tân Sửu 1990, 1930 tuổi Canh Ngọ 1939, 1999 tuổi Kỷ Mão 1968, 2028 tuổi Mậu Thân 1991, 1931 tuổi Tân Mùi 1946, 2006 tuổi Bính Tuất 1969, 2029 tuổi Kỷ Dậu 1947, 2007 tuổi Đinh Hợi 1976, 2036 tuổi Bính Thìn 1960, 2020 tuổi Canh Tý 1977, 2037 tuổi Đinh Tỵ |
Trong các hình thức vận dụng phong thủy theo tuổi, việc sử dụng trang sức phong thủy phù hợp với tuổi/ mệnh của mình là cách dễ áp dụng nhất mà hiệu quả vẫn rất cao. Cụ thể, bạn sẽ tránh được những tai ương bất ngờ, gặp nhiều may mắn hơn, công việc thuận lợi hơn, tiền tài đến nhiều hơn, sức khỏe ổn định, tình duyên khởi sắc. Đi ra ngoài giao thiệp được mọi người quan tâm quý mến hơn, tâm trí cũng bình tĩnh, tự tin hơn trước…Công dụng của việc vận dụng phong thủy theo tuổi

Chọn đá phong thủy theo tuổi tốt nhất là được tương sinh: Kim là do Thổ sinh ra. Đất sinh ra vàng bạc nên dùng các màu thuộc thổ như vàng sậm, nâu đất, gỗ hóa thạch như mắt hổ.
Tốt thứ nhì là được hòa hợp: Hợp với mệnh Kim là Kim. Đó là trắng (bạc kim), vàng tươi (vàng trang sức) và bạc.
Thứ ba mới đến sự chế khắc: Kim sẽ chế khắc được mộc. Chủ thể là người mệnh Kim sẽ chế khắc được viên đá mình đeo có các gam màu xanh lá cây, xanh da trời.
Không nên dùng đá có màu thuộc hành Hỏa như đá đỏ, hồng, cam, tím. Vì Hỏa khắc Kim nên khi đeo đá có màu tượng trưng cho lửa sẽ gây bất lợi cho chủ nhân.

Để người mệnh Mộc được khỏe mạnh, may mắn, tài lộc, phát đạt, thì việc chọn mua một viên đá phong thủy theo tuổi hợp mệnh theo màu sắc ngũ hành là điều rất quan trọng.
Người mệnh mộc nên đeo đá quý như sau:
Để được tương sinh trong tu vi: Thủy dưỡng mộc. Màu đá tốt nhất dành cho người mệnh mộc là màu nước, bao gồm: đen, màu xám, màu xanh nước biển, xanh lam.
Để được tương hợp: Lưỡng mộc thành lâm. Có nhiều cây là có rừng. Hòa hợp với người mệnh Mộc chính là màu Mộc, gồm: tất cả màu xanh, như xanh lá cây, xanh da trời…
Để chế khắc được viên đá: Người mệnh Mộc chế được Thổ gồm các màu vàng sậm, nâu đất, gỗ hóa thạch. Như vậy đeo viên đá có màu Thổ, người mệnh Mộc được an toàn và không phải lo lắng.
Tuyệt đối không nên dùng các loại đá màu của Kim như trắng và bạc. Vì dao chặt được cây gỗ cho nên khi đeo trang sức với viên đá màu tượng trưng cho Kim sẽ không tốt cho người đeo. Nên tránh đá màu trắng cho người mệnh Mộc.

Chọn đá phong thủy theo tuổi tốt nhất cho người mệnh Thủy là bạc và màu đá trắng. Vì các màu sắc trên theo quy định của ngũ hành là thuộc Kim, mà Kim sinh Thủy nên khi đeo bạc và đá màu trắng, người mệnh Thủy sẽ được tương sinh.
Tốt thứ nhì cho người mệnh Thủy là sự hòa hợp giữa người mệnh Thủy với màu sắc của viên đá. Họ nên dùng các màu đen, màu xám, màu xanh nước biển như saphiare, aquamarin, tactit…
Thứ ba, người mệnh Thủy khắc được Hỏa (Nước dập tắt được Lửa), tức là họ dùng được các màu mà họ chế ngự được như đỏ, hồng, cam, tím.
Tuyệt đối không nên dùng các loại đá phong thủy theo tuổi có màu đá vàng sậm, nâu đất, vì đó là màu thuộc hành Thổ. Chặn được nước lớn ở sông, ở biển tràn vào, người ta phải đắp đê điều bằng đất, đá, cát. Thổ sẽ chế ngự Thủy. Chính vì vậy, người mệnh Thủy không nên đeo đá có các màu thuộc Thổ, sẽ bất lợi cho họ.

Đá phong thủy theo tuổi loại nào cũng tỏa ra năng lượng tốt cho người dùng. Nhưng tốt cho người mệnh Hỏa nhất phải là đá có màu thuộc hành Mộc, tức là xanh lá cây, xanh da trời. Vì gỗ khi cháy sẽ thành ngọn lửa, nghĩa là Mộc sẽ sinh Hỏa. Chính vì vậy, đá có màu xanh lá cây, xanh da trời là màu đá lý tương số 1 mà người mệnh Hỏa nên dùng.
Cũng như các mệnh khác, người mệnh Hỏa sẽ tốt nếu dùng đá quý có màu tương hợp, tức là cùng hành Hỏa với các màu đặc trưng của Hỏa là đỏ, hồng, cam, tím.
Còn nếu thích dùng đá màu trắng cũng được, vì mệnh Hỏa chế khắc được màu của viên đá, tức là Hỏa khắc được Kim. Nung kim loại chảy ra thành nước – điều đó chỉ có lửa mới làm được.
Không nên dùng đá phong thủy theo tuổi có màu đen, màu xám, màu xanh nước biển. Vì đó là màu của nước (Thủy). Nếu dùng sẽ gặp xui, vì Thủy – Hỏa giao đấu, phần thua sẽ thuộc về Hỏa, bởi nước sẽ dập tắt lửa.

Khi mọi vật bị đốt cháy, sẽ thành tro, bụi, đất, cát. Vậy Hỏa sẽ sinh ra Thổ. Cho nên, người mệnh Thổ hãy dùng những viên da phong thuy theo tuoi có màu của Hỏa, sẽ được tương sinh. Đó là các màu: đỏ, hồng, cam, tím.
Có câu “lưỡng Thổ thành sơn”. Nếu họ dùng đá có màu vàng sậm, nâu đất, sẽ rất tốt cho họ, vì người và đá cùng mệnh có sự tương hợp với nhau.
Đất đá chế ngự được nước. Người mệnh Thổ chế ngự được viên đá có màu của hành Thủy là đen, xám, xanh nước biển.

Trong dân gian xưa đến nay vẫn lưu truyền khá nhiều những kiêng kỵ liên quan đến việc làm mái nhà, như kiêng “góc ao đao đình”, kiêng nhà mình bị đòn dông nhà khác chĩa sang, chọn ngày tốt gác đòn dông, đếm số đòn tay khi lợp mái việc xem ngày tốt xấu là điều cực kỳ quan trọng từ xưa đến nay. Và xem ngày tốt để gác đòn dông cũng không ngoại lệ… Nội dung các kiêng kỵ ấy ảnh hưởng ra sao theo quan điểm khoa học Phong thủy và trong kỹ thuật xây dựng hiện đại? Liệu ngôi nhà hôm nay có còn quá phụ thuộc vào những kiêng kỵ ấy hay không? Hãy cùng tìm hiểu về những kiêng kỵ khi gác đòn dông đồng thời nên chọn ngày nào để gác đòn dông?
Nội dung
Tục ngữ dân gian ta có câu “Nhất góc ao – nhì đao đình” nói lên cách bố cục nhà cần tránh các góc ao cũng như góc cạnh của mái đình, đền miếu hướng vào chính diện nhà mình. Xét về giao thông, khi nhà mở cửa hướng ra góc mái (tức là góc của công trình đó) thì đồng nghĩa với bố cục các nhà bị xiên lệch với nhau, dễ gây ra va chạm khi di chuyển, gió lùa theo các cạnh tường, cạnh mái thổi đến nhà mình. Về cấu tạo, điểm góc mái luôn là điểm xung yếu khi lợp nên mái nhà xưa thường hay có các chi tiết bằng gỗ hoặc đắp vữa (hồ) dày để “khóa cứng” góc mái, kết hợp tính trang trí tạo thành những đầu đao mang nhiều ý nghĩa tâm linh. Mở cửa ra nhìn thấy góc mái (hình lưỡi đao) chĩa vào nhà mình thì luôn có cảm giác bất an là vậy.
Đao đình, mảng tường đầu hồi “chĩa” sang nhà lân cận là kiểu kiêng kỵ phổ biến về mái nhà
Đao đình, mảng tường đầu hồi “chĩa” sang nhà lân cận là kiểu kiêng kỵ phổ biến về mái nhà
Nghi lễ thượng lương là một nghi thức đánh dấu thời điểm gác cây đòn dông lên đỉnh cao nhất của mái nhà (hay còn gọi là cây xà gồ nóc, xà gồ đỉnh mái) để kết thúc xây dựng phần khung xương cơ bản, cũng là nghi lễ cầu cho ngôi nhà ấy được trọn vẹn, lâu bền về mặt xây dựng (còn việc cầu cho người cư ngụ trong nhà cát tường thì lại phải chờ đến lễ nhập trạch – dọn về nhà mới – của gia chủ). Lễ thượng lương ngày nay tồn tại ở một số vùng mà việc xây cất vẫn mang tính thủ công, xây nhà có mái dốc lợp ngói, có cây đòn dông trên đỉnh, thì việc gác đòn dông mới còn ý nghĩa quan trọng để “kết” phần mái nhà lại.
Nhiều gia chủ thời nay xem việc đổ tấm bê tông trên cùng (hay tấm mái nóc cầu thang) là… thượng lương, xét về tiến độ xây dựng thì cũng đúng, nhưng xét về ý nghĩa xây cất truyền thống thì không chuẩn xác lắm. Mặt khác, cách cấu tạo lợp mái hiện đại (dùng hệ đòn tay – rui mè bằng sắt hộp hoặc vì kèo thép) đều không còn sử dụng cây xà gồ trên đỉnh nữa, mà là hai cây xà gồ thép đặt hai bên đỉnh để thuận tiện hơn về cấu tạo và liên kết ngói đỉnh mái. Cũng vì ngày xưa do cây đòn dông nằm giữa nên số đòn tay (xà gồ gác trên mái) trong bộ mái nhà luôn là số lẻ, dẫn đến ngày nay nhiều người vẫn còn đếm số lượng đòn tay theo kiểu “sinh lão bệnh tử” (vốn lưu truyền trong đếm bậc thang) mang nhiều màu sắc mê tín.
Cấu trúc mái hiên truyền thống vươn rộng giúp tạo khoảng đệm cân bằng về không gian
Nên khai thác khoảng xiên dưới mái vào các công năng thờ cúng, sinh hoạt chung hoặc thư giãn nhẹ nhàng
Cũng xin nói thêm về hai chữ “đòn dông”, đó là một cách đọc bị biến thể của chữ “đòn đông”, do ngôi nhà truyền thống vốn đa phần quay mặt dài về hướng nam (lấy vợ hiền hòa làm nhà hướng nam) nên phần đỉnh mái nhà kéo từ đông sang tây, mà cư dân nông nghiệp thì xem phương Đông là khởi điểm mùa xuân, nơi mặt trời mọc buổi sớm, thuộc Mộc, nên cây xà gồ đỉnh mái trong nghi lễ thượng lương thường được bọc vải đỏ hai đầu (tượng trưng cho mặt trời mọc và lặn) đồng thời treo tấm bùa bát quái ở giữa như một sự trân trọng kiêng nể với bộ phận kết cấu đặc biệt này của ngôi nhà.

Các cụ thuở trước còn lưu truyền câu ngạn ngữ: Giá thú Bất Tương, thượng lương Sát Cống, tức là có hai ngày lưu ý, ngày Bất Tương tốt cho việc hôn nhân, ngày Sát Cống tốt cho việc thượng lương. Bất Tương và Sát Cống là tên gọi những ngày có sao tốt trong Nhị thập bát tú. Còn theo kinh nghiệm dân gian mà nhiều nơi (nhất là ở vùng Nam bộ) chọn ngày con nước lớn để làm lễ động thổ và gác đòn dông thì có thể hiểu xuất phát từ văn hóa của cư dân vùng nông nghiệp lúa nước (trong đó có nước ta) trước đây phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Do đó Lịch pháp Đông phương (lịch Âm) từ xưa đã gắn bó chặt chẽ với các tiết khí, thủy văn… chi phối các hoạt động hằng ngày của con người. Kinh nghiệm chọn ngày nước lớn để tiến hành các công việc là rất có cơ sở khí hậu vì những việc như gieo trồng, ra khơi, đánh bắt thủy sản… sẽ khá thuận lợi khi con nước lớn. Đặc biệt Nam bộ vốn là vùng sông nước mênh mông, làm gì cũng phải nhìn con nước để tính sao cho thuận lợi. Nhưng việc động thổ làm nhà hay gác đòn dông thì lại không thuộc dạng công việc… cần nước lớn như vậy (còn vấn đề “phúc lộc vào nhà dồi dào như nước” chỉ là cảm nhận chủ quan theo kiểu suy diễn hình tượng nước với lộc, không có cơ sở khoa học). Giả sử ngày nay làm nhà khởi công đào móng ở khu vực đất thấp triều cường mà chọn ngày nước lớn thì có khi phải… bơm hút nước suốt ngày vì hố móng bị ngập, không thể đào được!
Trong dân gian lưu truyền khá nhiều những quan niệm kiêng kỵ liên quan đến việc làm mái nhà, như kiêng “góc ao, đao đình”, kiêng nhà bị đòn đông chĩa sang, đếm số đòn tay khi lợp mái nhà, xem ngày tốt xấu theo tuổi để chọn giờ tốt gác Đòn Dông. “Nhất góc ao, nhì đao đình” nói lên cách bố cục nhà cần tránh các góc ao cũng như góc cạnh của mái đình, đền, miếu hướng vào chính diện nhà.
Trong xem phong thủy nhà ở thì việc gác Đòn Dông rất hệ trọng vì nó là cái rường nhà, chỗ cao nhất của ngôi nhà. Muốn nhà ở được yên ổn và thịnh vượng nên chọn trong 36 ngày tốt sau đây:”Giáp Tý, Ất Sửu, Đinh Mẹo, Mậu Thìn, Kỷ Tị, Canh Ngọ, tân Mùi, Nhâm Thân, Giáp Tuất, Bính Tý, Mậu Dần, Canh Thìn, Nhâm Ngọ, Giáp Thân, Bính Tuất, Mậu Tý, Canh Dần, Giáp Ngọ, Bình Thân, Đinh Dậu, Mậu Tuất, Kỷ Hợi, Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Dần, Quý Mẹo, Ất Tị, Đinh Mùi, Kỳ Dậu, Tân Hợi, Quý Sửu, Ất Mẹo, Đinh Tị, Kỷ Mùi, Tân Dậu, Quý Hợi.
Thiên Đức, Nguyệt Đức, Thiên Đức Hợp, Nguyệt Đức Hợp, Thiên Phúc, Thiên Phú, Thiên Hỷ, Thiên Ân, Nguyệt Ân.
Nên chọn các Trực: Mãn, Bình, Thành, Khai .
Chánh Tứ Phế, Thiên Tặc, Địa Tặc, Thiên Hỏa, Địa Hỏa.
– Tháng giêng : kị cất nhà vào ngày : 5,6,17, 18, 29, 30
– Tháng 2,3 : cất nhà kị ngày : 4,5,16,17,28,29
– Tháng 4 : Cất nhà kị ngày : 2,3,14,15,26,28
– Tháng 5,6 : Cất nhà kị ngày : 1,2,13,14,25,26
– Tháng 7 : Cất nhà kị ngày : 11,12,23,24
– Tháng 8,9 : cất nhà kị ngày : 10,11,22,23
– Tháng 10 : Cất nhà kị ngày : 8,9,20,21
– Tháng 11, 12 : Cất nhà kị ngày : 7,8,19,20
Chú ý: Trong ngày dựng cột, nếu kịp lúc gác đòn đông thì gác luôn khỏi chọn ngày gác đòn đông, vẫn tốt như thường.
Mâm lễ vật bao gồm: Mâm ngũ quả, con gà, trà, bánh. Đặc biệt trên mâm lễ vật còn có cây thước nách và ống chỉ mực là hai công cụ thiết yếu đã dùng để làm nên ngôi nhà.
Lễ vào nhà mới là lễ rước ông bà và các vị gia thần vào nhà mới. Ngoài các lễ vật thì gia chủ phải xách hai lu nước đầy, một lu gạo, một lu muối. Người thợ chánh khấn vái tạ lễ Tiên sư, Tổ sư, Bà Cửu Thiên đã phò trợ cho công việc làm nhà diễn ra suôn sẻ.
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
– Con kính lạy Hoàng thiên Hậu thổ chư vị Tôn thần.
– Con kính lạy quan Đương niên.
– Con kính lạy các tôn thần bản xứ.
Tín chủ (chúng) con là: ……………………………
Ngụ tại: ……………………………
Hôm nay là ngày ….. tháng ……… năm …………
Tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương, dâng lên trước án, có lời thưa rằng: Vì tín chủ con khởi tạo ……….. cất nóc căn nhà ở địa chỉ: ……… ngôi dương cơ trụ trạch để làm nơi cư ngụ cho gia đình, con cháu. Nay chọn được ngày lành tháng tốt, kính cáo chư vị linh thần, cúi mong soi xét và cho phép được cất nóc. Tín chủ con thành tâm kính mời: Ngài Kim Niên Đường cai Thái Tuế chí đức tôn thần, ngài Bản cảnh Thành hoàng Chư vị Đại vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Định phúc Táo quân, các ngài Địa chúa Long Mạch tôn thần và tất cả các vị Thần linh cai quản trong khu vực này. Cúi xin các Ngài, nghe thấu lời mời, giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho chúng con được vạn sự tốt lành, công việc hanh thông, chủ – Thợ được bình an, ngày tháng hưởng phần lợi lạc, âm phù dương trợ, sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm. Tín chủ lại xin phổ cáo với các vị Tiền chủ, Hậu chủ và các vị Hương linh, cô hồn y thảo phụ mộc, phảng phất quanh khu vực này, xin mời các vị tới đây thụ hưởng lễ vật, phù trì tín chủ, cũng như chủ thợ đôi bên khiến cho an lành, công việc chóng thành, muôn sự như ý. Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Như vậy, các kiêng kỵ về mái nhà kể trên xuất phát từ tâm lý coi trọng cái gì thì đâm ra… sợ cái ấy, nên nhiều người rất lo ngại cây đòn dông của nhà khác hướng sang nhà mình, rồi tiếp đến là lo về cách đếm số đòn tay, lo xem ngày đổ tấm mái bê tông cuối cùng… Xét về hình thế trong Phong thủy, nóc nhà có hình tam giác thuộc hành Hỏa, mà theo ngũ hành thì Hỏa khắc Kim (tiền tài) nên nhiều người lo ngại nếu bị chĩa Hỏa sang nhà mình thì tiền tài sẽ hao tổn. Về cấu tạo thì nóc nhà xưa có các khe hở thông gió làm nơi thoát các khí nóng tích tụ trong nhà ra ngoài, nếu nhà mở cửa ra gặp ngay cái “tam giác ấy” thì sẽ bất lợi. Từ đó, không riêng gì cây đòn dông mà các đòn tay lợp mái cũng bị kiêng nếu nhìn thấy chĩa sang nhà của nhau, rồi thấy cái mái tam giác chung chung cũng… kiêng kỵ luôn. Xét về văn hóa ứng xử, điều này đem lại sự cẩn trọng khi làm nhà lợp mái, tạo hình trang trí, giữ gìn cho người cũng là cầu an cho mình. Còn về thực tế xây dựng thì hiện nay nhiều biệt thự lợp mái ngói đã dùng thép tấm làm thành nẹp bịt kín đầu các xà gồ như là một giải pháp “an toàn về tâm lý” để không gây e ngại gì đến các nhà đối diện hoặc chung quanh.
Nghi lễ thượng lương cũng là một trong những biểu hiện văn hóa truyền thống. Thông qua các nghi lễ văn hóa như vậy, người dân bày tỏ thái độ trân trọng của mình với môi trường, từ thiên nhiên cho tới xã hội, những việc trọng đại trong đời người như cưới hỏi, làm nhà… đều được cúng tế nghiêm chỉnh để cầu mong sự thuận lợi, an lành và mọi việc suôn sẻ. Một số quan niệm cho rằng đó là biểu hiện của “phú quý sinh lễ nghĩa” nhưng thực ra cũng cần xem xét nhiều khía cạnh. Cha ông ta thuở trước dù không hề giàu có vẫn luôn giữ nếp chuẩn mực trong mọi sinh hoạt, việc cúng lễ rất linh hoạt tùy theo hoàn cảnh mỗi vùng, mỗi nhà, mỗi người và không hề phô trương rình rang.
Vì thế, với tinh thần “gạn đục khơi trong” những tinh hoa văn hóa truyền thống của dân tộc, chúng ta cần trân trọng các nghi thức dân gian, miễn là phù hợp với nếp cư xử văn minh và cuộc sống hiện đại.
Về giải pháp, khi gặp các không gian nằm dưới mái dốc thì cần tránh bố trí vào dưới góc xéo, ví dụ như chỗ ngủ hay học tập. Còn phòng thờ thì lại khá hợp với gian áp mái, vì cùng là hành Hỏa tương đương, miễn sao chỗ đặt bàn thờ và đứng thắp nhang khói không bị đụng dầm đà xéo là ổn. Nếu vì diện tích chật hẹp phải tận dụng thì nên làm dịu bớt bằng cách đóng trần phẳng hoặc vòm cong, kê vật dụng và dời chỗ sinh hoạt ra bên ngoài khoảng vát chéo, dùng cây xanh che chắn để giảm đi lại vào gầm mái, tránh vướng víu khi sinh hoạt (tương tự như việc đặt một tiểu cảnh dưới gầm thang để tránh bất tiện và tù hãm khí xuất hiện trong không gian nội thất).

Với nhà có mái bằng, vườn trên mái hiện nay giúp bổ sung khoảng thiên nhiên cho cư dân đô thị đất chật người đông. Nhưng chọn lựa – thiết kế – thi công – chăm sóc vườn trên mái ra sao thì lại tùy thuộc vào nhiều yếu tố mà nếu thiếu xác định từ đầu sẽ dễ gây tốn kém, thậm chí khiến vườn trên mái trở thành “cục nợ” về sau. Nguyên tắc nhỏ “tam hợp” dưới đây sẽ phần nào giúp gia chủ quyết định hợp lý hơn khi tổ chức vườn trên mái.
Hợp trời: Mỗi phương hướng, khu vực sẽ có tính chất khác nhau, như nắng gắt hay bị nhiều bóng râm, gần khu thoáng đãng hay nơi bụi bặm. Cần xác định rõ tính chất vườn trên cao không thể như vườn dưới đất, nên chọn những loại cây chịu nắng gió và ít rụng lá. Tránh trồng cây quá rậm hoặc pha tạp nhiều thứ cây gây rối mắt và khó chăm sóc tốt. Các chậu cây nên chọn lọc kỹ về chất liệu (sứ, đất nung, hay đá) cũng như đồng bộ về kiểu dáng, quy cách. Các nghệ nhân có kinh nghiệm khuyên nên chọn những loại đơn giản như cau, dừa cảnh, hoa mười giờ, lan chi, tùng bách tán… cho vườn mái, nếu được đặt trong chậu phù hợp, khéo bố trí thì vẫn đạt hiệu quả thẩm mỹ cao.

Hợp đất: Về cấu tạo, vườn mái nên theo kiểu “vườn treo” tức là các phần để chậu, đất trong cây hoặc hồ nước không đặt trực tiếp lên sàn sân thượng, mà được làm cách khoảng nhằm chống thấm và tiện xử lý kỹ thuật. Nhìn từ ngoài vào thì những loại vườn này trông như sàn bình thường nhưng bên trong là các tấm đan bê tông kê trên gối gạch (sàn hai lớp, trải tấm chống thấm, có ống thoát nước đi chìm). Nhờ tính chất của các lớp cách nhiệt, chống thấm… mà hiệu quả sử dụng và bảo vệ của mái nhà tăng cao hơn là để mái bằng trơ trọi. Các vật liệu sử dụng trên vườn mái có thể là gạch gốm, đá chẻ, sỏi… và cần sự tư vấn cụ thể của nhà chuyên môn.Hợp người: Ngay cả khi chọn được cây cối và thiết kế đẹp mắt thì không phải ngôi nhà nào cũng duy trì được khoảng vườn trên mái. Do mỗi người mỗi ý, công việc, thời gian chăm sóc vườn ít sẽ khiến cây cối xơ xác, đọng nước, thấm dột… Vì thế, nên tính tới hoàn cảnh từng gia đình, thời gian dành cho vườn, cơ cấu sinh hoạt có hay sử dụng vườn hay chỉ là trồng cho… vui. Cũng cần bố trí khoảng tập thể dục hoặc lối đi lại, chỗ ngồi nghỉ, một bộ bàn ghế cắm dù… sẽ giúp gia chủ thưởng thức trọn vẹn hơn không gian xanh nơi tổ ấm của mình.
| ► Xem Lịch vạn niên, lịch vạn sự chuẩn nhất tại Lichngaytot.com |
![]() |
![]() |
Bài viết gom nhặt các bài viết của tác giả Hà Uyên trên các diễn đàn lý số
Sách Tử vi Đẩu số phi tinh - Trần Đoàn thường viết "tại đẩu chủ về... tại số chủ về..."
Ví dụ như sao Vũ khúc, sách viết: "Vũ khúc thuộc Kim, tại Đẩu chủ về Thọ, tại Số chủ về Tài"
Như vậy, Gloria nên tìm hiểu hàm nghĩa của:
- Tên sách có chữ Phi tinh được hiểu như thế nào? Thứ tự phối Phi tinh và Chính tinh là có khác nhau?
- Tại Đẩu có nghĩa là gì? Tại Số có nghĩa là gì?
Phải chăng câu "tại Đẩu chủ về Thọ, tại Số chủ về Tài" có thể được hiểu là "tại Thiên chủ về Thọ, tại Địa chủ về Tài"
Khi xét tới Thiên bàn và Địa bàn của một lá số, thì có thể vẫn xảy ra trường hợp, Vũ khúc tại Địa bàn cư cung Dần, ngộ Liêm Trinh tại Thiên bàn cư cung Dần ==> Vũ Khúc và Liêm Trinh đều gặp nhau tại cung Dần
===================
Xác định Địa bàn đối với lá số có giờ sinh là Tý - Ngọ thì như thế nào? (Thân Mệnh đồng cung)
Theo tìm hiểu của Tôi, hiện có hai trường phái dùng cách thức khác nhau:
- Trường phái thứ nhất lấy cung Phu thê để lập Cục
- Trường phái thứ hai thì lấy cung Phúc đức để lập Cục
Thực tế kiểm nghiệm của cá nhân Tôi, theo cách thức như sau:
- Dương nam Âm nữ thì lấy cung Phúc đức để lập Cục,
- Âm nam Dương nữ thì lấy cung Phu thê để lập Cục
Gloria sinh giờ Tý, số có Thân Mệnh đồng cung, nên kiểm thêm độ tin cậy của thông tin như thế nào, khi lập Địa bàn cho lá số của bản thân. (trường hợp năm tháng ngày giờ sinh của Gloria có thể gọi là đặc biệt)
....
Sách Phi tinh viết:
Tử vi thuộc thổ, là tôn quân ở trên trời, chủ về nắm giữ những điều quan trọng của tạo hóa. Cai quản ngũ hành, nuôi dưỡng vạn vật. Mệnh con người lấy Tử vi để định số, an các vòng sao.
Tử vi thủ Mệnh là trung đài, trước một vị là thượng đài, sau một vị là hạ đài, cần phải xem cả tam đài có miếu vượng hay không?
Sách viết như vậy, ta nên hiểu "Tam đài" như thế nào?
==============
Thứ tự Phi tinh phối Chính diệu: (theo sách Tử vi Đẩu số phi tinh - Trần Đoàn)
NAM ĐẨU
- Thiên phủ là sao thứ nhất
- Thiên lương là sao thứ hai
- Thiên cơ là sao thứ ba
- Thiên đồng là sao thứ tư
- Thiên tướng là sao thứ năm
- Thất sát là sao thứ sáu
BẮC ĐẨU
- Tham lang là sao thứ nhất
- Cự môn là sao thứ hai
- Lộc tồn là sao thứ ba
- Vũ khúc là sao thứ tư
- Liêm trinh là sao thứ năm
- Vũ khúc là sao thứ sáu
- Phá quân là sao thứ bảy
Không thấy nói gì đến thứ tự của sao Tử vi khi phối với Phi tinh, vì sao lại như vậy? con số 13 chính diệu phối Phi tinh được hiểu như thế nào?
....
Gloria, on 16/10/2012 - 14:05, said:
Thưa cụ, có phải cháu hiểu, đó là xem vị trí xuất thân, biến động của gia đình anh em đương sự, có đúng không ạ?
Nên xét tới đối cung và xung cung, hàm nghĩa của Sao có khác nhau,
Ví như Mệnh cư Hợi, thì "đối cung" là Tham lang đối cung với Thiên tướng + Liêm trinh, còn "xung cung" là Cự môn xung cung với Thái dương (Cục định sinh Nhật nghịch bố tử, đối cung Thiên phủ thuận lưu hành. Vi hữu Dần Thân đồng nhất vị, kỳ dư Sửu Mão hỗ an tinh)
....
Gloria, on 16/10/2012 - 19:09, said:
Cháu cần có thêm chút thời gian để suy nghĩ về cội nguồn của Đẩu và Số
Điều này là cần thiết, Tôi nghĩ nên như vậy!
Tiêu chí topic nói "phi tinh" và "tứ hóa" (Mạn đàm về TV ĐS phi tinh và Phi Yến Quỳnh Lâm), mối quan hệ giữa Cửu cung phi tinh và Tử vi, ta nên khảo cứu sau.
Cổ nhân nói "Vô vận bất năng tự tạo", con người ta sinh ra có vận, vận có thuận nghịch, khởi điểm tính thuận nghịch được xét bắt đầu từ cung Mệnh, nên từ cung Mệnh để xét tới đối cung hay để xét tới xung cung. Giả như Mệnh lập tại Hợi, là cung Tứ sinh, cung Phụ mẫu đối cung Huynh đệ, ví dụ ở đây có thể xét tới tình trạng dưỡng dục (tuổi Tân thì Hợi lập Mộc cục, dưỡng cư Tuất, Mộc dục cư Tý = dưỡng dục - dục của Mộc sẽ khác với Thổ dục, Kim dục, Thủy dục, Hỏa dục)
Tỵ Hợi được cho là Thiên môn và Địa môn, khi Cự môn nhập Thiên môn (cung Hợi) được cho là chỗ cung vượng (theo Thiệu Khang Tiết), tuổi Tân nên Thanh long động tại cung Hợi, được cho là Mệnh hợp cách thăng quan phát tài. Năm Quý thì Cự môn ngộ Đà la, là năm mà Cự môn hóa thành "ám" được gọi là "cửa đóng" (kiểm thêm ngày Quý?), lại thêm năm Quý xét tới xung cung Nô và Huynh chứa Phục bình + Tướng quân, được gọi là "phá đối hạ cục"... khi ta trọng năm Quý cưỡng không hóa "ám" cho Cự, vì Cự hóa Quyền năm Quý, tới năm Giáp lại gặp ngay phải cách "Mão đầu đới tiễn", thì sẽ xảy ra tình trạng được cho là phá cục, ... đại khái như vậy, ta nên tập trung vào mệnh bàn 12 cung trước, đối với Cửu cung phi tinh phối Tử vi nên khảo cứu sau (vì đó là mối quan hệ giữa Tử vi liên quan tới Kỳ môn và Phong thủy)
Giloria là cách Thân Mệnh đồng cung, còn Ngô Bảo Châu thì Thân cư Phúc đức, tuổi Nhâm có Lộc tồn ngộ Cự môn, thường biến cách nhân sư, nhưng Gloria được cách Trường sinh ngộ Thanh long còn Ngô Bảo Châu thì không được như vậy. (Theo "Tử vi Đẩu số - Thiệu Khang Tiết" thì Trường sinh ngộ Thanh long gọi là cách đặc biệt)
....
Gloria, on 20/10/2012 - 19:05, said:
Câu hỏi cho mọi người: Lý thuyết trục trong Tử Vi Đẩu Số Phi Tinh và trục trong Đông A có trùng nhau hay không?
Có liên hệ gì giữa các trục này và ba trục thiên địa nhân sát trong tử vi nam phái?
Gloria có tự đặt ra câu hỏi: "Tại sao Quân tử luôn luôn được ở trong, Tiểu nhân luôn phải ở ngoài không? Phải có thời của Tiểu nhân đoạt ngôi, mà Quân tử bị thất thế phải đi ra ngoài!"
Nguyên tắc "Thiên chính Địa thường" định lệ = ghi năm bắt đầu từ Tý, ghi tháng bắt đầu từ Dần
Để trả lời câu hỏi mà Gloria, thì có thể thiết lập lá số Tử vi theo nguyên tắc ngược lại, có nghĩa là ghi năm bắt đầu từ Ngọ, ghi tháng bắt đầu từ Thân.
Định lệ Kê - Mã - Trư - Long - Ngưu - Hổ, nay đổi lại thành Thố - Thử - Xà - Cẩu - Dương - Hầu (Mão - Tý - Tị - Tuất - Mùi - Thân)
Định cục theo chiều ngược kim đồng hồ, tất cả vẫn giữ nguyên, ví dụ tuổi Tân mệnh cư Hợi, thì Ngọ Mùi là Thổ cục, Tị Thìn là Tam cục, Dần Mão là Nhị cục, Tý Sửu là Kim cục, Tuất Hợi là Hỏa cục... sau đó an sao Tử vi, Mệnh cư Hợi thuộc Hỏa cục, ngày 23 thì Tử vi cư Thìn, có Thiên đồng nhập cung Mệnh,...
Giả như ta nói, Bắc bán cầu là Cự môn, Nam bán cầu là Thiên đồng có được không? Trục Tị Hợi có phải là trục phân âm dương không? Nếu không phải thì gọi trục Tị Hợi là trục gì?...
Tiêu chí của topic là Mạn đàm... nên tôi đề xuất thêm một hướng, để truy tìm câu trả lời
Gloria có thể làm thử xem sao, rồi chúng ta đưa ra câu trả lời mà Gloria đã hỏi
....
Gloria, on 22/10/2012 - 04:17, said:
Cháu đang sợ rằng cách cháu tính Cục là sai, vì nếu mệnh an tại Dần và Mão thì sẽ không ra kết quả khớp với cụ. Có thể là có gõ nhầm.
Đúng là Tôi gõ sai, (khởi từ Mùi 5, Ngọ 5, Tị 3, Thìn 3, Mão 2, Dần 2, Sửu 4 Tý 4, Hợi 6, Tuất 6, Dậu 3 Thân 3).
Người ở Bắc bán cầu và người ở Nam bán cầu, cùng năm tháng ngày giờ, cùng giới tính, chắc là phải khác nhau từ lập số cho đến luận giải số, nhận định này Tôi cũng sai,.... thôi, cho qua và không bàn tới nội dung này nữa.
Nhưng, Tôi vẫn nghĩ nhiều tới nguyên tắc: Trời có âm dương - Đất có cương nhu - Người có nhân nghĩa. Ví dụ như nói về Mệnh thuộc Kim
- Trời = Giáp Tý Ất Sửu >< Giáp Ngọ Ất Mùi = Một âm một dương, một thủy một thổ, thủy thổ tương khắc
- Đất = Nhâm Dần Quý Mão >< Nhâm Thân Quý Dậu = Một cương một nhu, dần mão thuộc mộc, thân dậu thuộc kim, Kim Mộc tương khắc
- Người = Canh Thìn Tân Tị >< Canh Tuất Tân Hợi = thìn tị trong bát quái ứng với Tốn, tuất hợi ứng với Càn, hình thể và mầu sắc của cả 2 có sự khác nhau.
Lại thêm dụ ý:
Thiên địa khai minh
Thủy Thân Mộc Hợi
Sơn Trạch thông khí
Mộc Dần Kim Dậu
....
Gloria, on 22/10/2012 - 14:38, said:
Kính thưa cụ.
Cho cháu hỏi, cụ có quan tâm tới lý thuyết Phiêu Phiêu, còn gọi là Kỵ Truy Kỵ, Lộc Truy Kỵ, chuyển Kỵ không ạ?
Cháu đang cùng một số cộng sự work một chút về Phiêu Phiêu, nhưng vẫn thực sự chưa nắm được tinh túy của nó. Cụ có đánh giá gì về lý thuyết này không ạ?
Tôi muốn biết trước thông tin về Lộc
- Thiên lộc năm Nhâm 2012 nhập Mệnh
- Địa lộc năm Nhâm Thìn 2012 là can Đinh Thái âm hóa Lộc, ứng cung Thê cư Dậu, Địa lộc can Đinh tại Ách
- Nhân lộc năm Nhâm Thìn 2012 là can Bính Thiên đồng hóa Lộc, ứng cung Quan cư Mão, Nhân lộc can Bính tại Di
Trong tam Lộc của thiên - địa - nhân cho tới thời điểm này đã ứng chưa? Nếu chưa ứng, thì là Thiên lộc Nhâm chưa ứng? hay Địa lộc Đinh chưa ứng? hay Nhân lộc Bính chưa ứng?
Tôi hỏi như vậy là muốn kiểm lại công thức này, trước khi chúng ta bước sang lĩnh vực thuyết Phiêu Phiêu,
Nếu Gloria thấy phiền về thông tin này thì thôi
....
Nam Đẩu hội tụ với Đế thiên tại phương Khôn, được gọi là "Đới Thiên phúc Địa", người sinh ra vào đêm, cần xác định rõ phương vị của mặt Trăng mọc, nay mặt Trăng ở nơi hữu triền, được gọi là "hướng minh". Gọi là "hướng minh", có nghĩa là ở nơi sáng vẫn hướng tới nơi chỗ sáng hơn, cũng như ở nơi tối mà hướng tới nơi sáng vậy, chẳng thể ở nơi sáng mà nhìn vào nơi u tối,...
Mệnh được định cách "Đới Thiên Phúc Địa", cho nên khi điều kiện cho phép, nên quan tâm tới Địa mệnh!
Lại nói:
Người Sinh sau Hạ chí tới trước Đông chí, mặt Trời được tính bắt đầu ở 1 độ chòm sao Tỉnh, còn đối với người sinh sau Đông chi cho tới trước Hạ chí, mặt Trời được tính ở 6 độ chòm sao Cơ,...
Vậy, hỏi rằng, Tại sao "Xuất Dần nhập Thân" thì được gọi là Quân tử thời đang thịnh trị? Xuất Thái nhập Bĩ sao?
Nay,
Gặp người ở thời "Thủ vỹ hoành thiên" (trục Thìn Tuất), Mệnh cư Hợi được định cách "Đới thiên Phúc địa",... và như vậy cung Thân (mệnh) được xác định theo phương vị của Địa hộ,... Mệnh cư Hợi, nơi giao giới âm dương, có thể nên bắt đầu từ "Xuất Khôn nhập Càn" vậy!
==========
Bài tập: nên tìm tư liệu đọc trước, tìm hiểu về chữ "Bích" khi nói tới "Nguyệt bích", đó là mối quan hệ giữa 12 tháng với sao Bích, được gọi là Nguyệt Bích, cung Hợi nằm ở trên Thiên môn, định lệ hàm chứa hai tú: Thất và Bích
....
Mr.Anh, on 23/10/2012 - 09:51, said:
Thưa cụ, tính Địa Và Nhân có phải tính theo ngũ hổ độn: Bính - Tân (tuổi Tân), Đinh Nhâm (Nhâm), Bính lộc tại Di, Đinh Lộc tại Ách?
Mong cụ chỉ dạy.
Cảm ơn cụ
- Cách đọc sách Thứ nhất nhận thấy: Trong sách "Tử vi Đẩu số", tập 1-2-3, 03 tập đầu này do Bắc phái trấn thủ, tập 4-5-6-7 do Nam phái trấn thủ, tại 03 tập đầu quyển 2 có nói tới phép "tam tam", có nghĩa là căn cứ vào ngày sinh, phối hợp với Cục số, kết hợp với Hóa Lộc "gốc" của Thiên mệnh, để tính Địa lộc.
- Cách đọc sách thứ hai nhận thấy: Trong sách Quả Lão tinh tông - Quyển thượng, có trình bày về nguyên tắc tính Thiên nguyên lộc, Địa nguyên lộc, Nhân nguyên lộc
Cả hai cách thức này, khi trải qua thực nghiệm với một số người sống gần 12 ~ 15 năm, lao động ở môi trường nghề nghiệp khác nhau,... đúc kết thống kê lại, để làm rõ mối quan hệ của Thiên mệnh Hóa Lộc "gốc" với cung Thân (mệnh), xác định Địa lộc một cách chính xác.
Khi Tôi hỏi Gloria, là để kiểm lại cả hai cách thức mà sách đã viết, là đúc kết cá nhân, không có giá trị phổ biến.
Mr.Anh nên theo những gì sách Tử vi đã được phổ cập sử dụng trong nhiều năm qua, khi nào sách biên dịch in ra phổ biến về Địa lộc và Nhân lộc, thì chiêm nghiêm sau, nên như vậy.
....
@ Gloria:
Nguyên tắc tính thiên can cho Tiểu hạn Gloria đã biết cách tính chưa?
- Đại Hạn khởi đầu là Kỷ Hợi
- Tiểu hạn khởi đầu là Quý Sửu
- Thái tuế là Tân Dậu
....
Năm 1981 - Tân Dậu (xác định Địa thường chính nguyệt - cách thứ nhất)
- Tháng Tám - Dậu = hào Thượng quẻ Ly + hào Sơ quẻ Đoài
- Tháng Chín - Tuất = hào Nhị quẻ Đoài + hào Tam quẻ Đoài
- Tháng Mười - Hợi = hào Tứ quẻ Đoài + hào Ngũ quẻ Đoài
===============
- Ngày mồng 1 tháng 10 âm lịch năm Tân Dậu (28/10/1981) => hào Thượng quẻ Khôn
...,...,...,
- Ngày 23 tháng 10 âm lịch (19/11 DL) => hào Tứ quẻ Phệ hạp - hào Tứ nạp can Kỷ
- Năm Tân, can Kỷ nhập cung Mệnh - Địa mệnh đắc chính.
....
Một người có Mệnh cư Ngọ, thiên can nhập cung Mệnh là can Canh, đương số tuổi Sửu nên thiên can Tiểu hạn là can Ất. Khi thiên can của Đại hạn và Tiểu hạn Ất Canh tương hợp, sách viết: "Đại vô bất chu, Tiểu vô bất cụ, Ngũ tinh tòng Nhật lãnh tụ chi thần cách"
Khi thiên can của Đại hạn và thiên can của Tiểu hạn tương hợp, Cổ nhân cho rằng cũng là một trong những căn cứ để xếp vào loại Mệnh tốt (đại quý)
Đây là một ví dụ, năm 1995 đương số đã được gọi bằng "Ông" mà không phải gọi là "thằng" (cấp Tá), đó là "ông Tướng" (Thiếu tướng), 17/11/1949 DL, 8h00
....
saobienden:
Em thấy anh Gloria quan tâm nhiều đến Thất chính Tứ dư, em xin tài liệu này từ chú Công là Phó khoa Hồi sức cấp cứu - BvTW - 108 (học trò Cụ), anh đọc xem có giúp được gì không anh nhé
- Giáp Kỷ tác Hỏa
- Tứ sinh = Bính Dần - Ất Tị - Bính Thân - Ất Hợi => Bính + Ất
- Tứ vượng = Mậu Tý - Đinh Mão - Mậu Ngọ - Đinh Dậu => Mậu + Đinh
- Tứ mộ = Kỷ Sửu - Giáp Thìn - Kỷ Mùi - Giáp Tuất => Giáp + Kỷ
- Ất Canh tác Kim
- Tứ sinh = Nhâm Dần - Tân Tị - Nhâm Thân - Tân Hợi => Nhâm + Tân
- Tứ vượng = Giáp Tý - Giáp Ngọ - Quý Mão - Quý Dậu => Giáp + Quý
- Tứ mộ = Ất Sửu - Canh Thìn - Ất Mùi - Canh Tuất => Ất + Canh
- Bính Tân tác Thổ
- Tứ sinh = Mậu Dần - Đinh Tị - Mậu Thân - Đinh Hợi => Mậu + Đinh
- Tứ vượng = Canh Tý - Kỷ Mão - Canh Ngọ - Kỷ Dậu => Canh + Kỷ
- Tứ mộ = Tân Sửu - Bính Thìn - Tân Mùi - Bính Tuất = Tân + Bính
- Đinh Nhâm tác Thủy
- Tứ sinh = Giáp Dần - Quý Tị - Giáp Thân - Quý Hợi => Giáp + Quý
- Tứ vượng = Bính Tý - Ất Mão - Bính Ngọ - Ất Dậu => Bính + Ất
- Tứ mộ = Đinh Sửu - Nhâm Thìn - Đinh Mùi - Nhâm Tuất =. Đinh + Nhâm
- Mậu Quý tác Mộc
- Tứ sinh = Canh Dần - Kỷ Tị - Canh Thân - Kỷ Hợi => Canh + Kỷ
- Tứ vượng = Nhâm Tý - Tân Mão - Nhâm Ngọ - Tân Dậu => Nhâm + Tân
- Tứ mộ = Quý Sửu - Mậu Thìn - Quý Sửu - Mậu Tuất => Quý + Mậu
....
Khi phán đoán mệnh người,
Trước hết xem phát truyền.
Khí vượng khi phát dụng,
Sẽ lợi việc cầu Quan
Khí tướng khi phát dụng,
Sẽ lợi việc cầu tài
Khí hưu khi phát dụng,
Thường bệnh tật liên miên.
Khí tù khi phát dụng
Bệnh tật chẳng bỏ qua.
Vương tướng khi phát dụng,
Sự việc thường ứng nghiệm
Một truyền hưu tử tới
Việc mờ mịt chẳng thông
Cục ý nghĩa tiến lùi
Khí đặc thù vượng tuyệt
Suy mộ coi như thoái
Thai sinh tiến chẳng lo
Thoái khí việc càng hung
Tiến khí an càng an
Nguồn: Cụ giảng về Ngân Thăng thuật
(Nguồn: sưu tầm)
lethanhnhi, on 07/09/2012 - 06:37, said:
SAO ĐỂ BIẾT ĐẦU BẠN MỌC SỪNG:
- Mệnh Cự môn thìn tuất, nam mệnh, chỉ cần vợ kiếm tiền, bất kể là tiền gì, mọc sừng cũng........không sao
- vũ khúc thất sát lộc tồn tả hữu cư phu thê
- Phu thê cung hóa kị nhập tử tức cung
- Phu thê hóa kị nhập quan cung
- phu thê tử phá sửu mùi, cả vợ chồng đều thích đi ăn vụng
- điền kị nhập bệnh
Ví dụ câu:
+ Phu thê hóa kị nhập quan cung
- Lá số lưu theo can Năm, thấy cung Phu thê gặp can Đinh, mà can Đinh có Cự Môn ngộ hóa Kị,
- Sau đó nhìn tới cung Quan thấy có sao Cự Môn cư Quan
- Phái Nhất Diệp Tri Thu cho rằng: can cung Phu thê hóa Kị nhập cung Quan, và đưa ra nhận định cho rằng: tình cảm vợ chồng sao nhãng, cả vợ và chồng đều thích đi ăn vụng
Trường phái này công bố nguyên tắc xem về Cung rất đáng quan tâm
...
@ Lethanhnhi: Khi tìm hiểu về trường phái Nhất Diệp Tri Thu, thì LethanhNhi lưu ý:
- Nam đẩu được cho là: chủ về hướng nội, chủ nhu - Ngoại nhu Nội cương.
- Bắc đẩu được cho là: chủ về hướng ngoại, chủ cương - Ngoại cương Nội nhu
Hàm nghĩa tinh yếu này, quyết định chi phối nguyên tắc lập tượng ==> lấy cơ sở của nguyên tắc này làm phương pháp luận xem xét sự vượng nhược của Cung, và xác định những Cung nào bị Sát tinh xung phá để đưa ra lời đoán định.
Có thể xem đây là Nguyên tắc thứ nhất của trường phái Nhất Diệp Tri Thu vậy!
...
lethanhnhi, on 08/09/2012 - 10:29, said:
em nhận ra người quen rồi, em đang dùng quẻ ![]()
@ LeThanhNhi:
Về quẻ này, thì Trung Châu phái và Tri Thu phái có điểm giống nhau và có điểm khác nhau khi lập thuyết cho Môn phái
- Giống nhau là hai Môn phái đều phối Tử vi với can Kỷ và Thiên phủ với can Mậu
- Khác nhau đó là, Trung Châu phái thì phối can Nhâm với Thiên Đồng, Tri Thu phái thì phối can Nhâm với Thiên tướng
Khi nào LeThanhNhi hứng thú đi sâu nghiên cứu thêm, để làm chủ bản thân và tự giải hạn cho mình, thì nên lưu ý!
...
Trích Lời tựa sách Tử Vi Đẩu số - Thuật Đăng Hạ, tập 2 <đã xuất bản ở Việt Nam - nxb Hồng Đức>
".... Vì vậy, khi bậc tiên sư truyền lại cho tác giả có nhắc nhở; " Nhà ngươi về sau thay người đoán mệnh, một là tiền công không được lấy cao (tác giả đoán mệnh cho người đã 5 năm nay mà chỉ lấy có 500 đồng, từ ngày 1 tháng 4 năm Dân Quốc 74 mới thu lên 600 đồng, mà những người đoán mệnh khác đều thu tới 1000 đến 2000 đồng). Hai là dặn dò người xem hàng năm nên đến xem lại lưu niên, để kiểm chứng sự việc dự đoán lần trước có chính xác hay không". Nỗi khổ tâm của tiên sư khiến tác giả vô cùng cảm phục!
Thuật Đăng hạ trình bày nhiều luận điểm mà các thư tịch khác không dễ gì tìm thấy, chẳng hạn như:
1. Người có sao Thái Dương và Thái Âm ở cung Thiên Di thì nên phát triển ở các phương hướng Đông, Bắc, Nam, bất lợi ở hướng Tây..
2. Người có sao Văn Xương ở cung Ngọ thì kỵ đi về hướng Nam.
3. Ngoài ra còn có màu sắc y phục (nhưng điều này quá phức tạp, lại không chuẩn xác)
4. Đi sâu vào phân tích tính cách, chẳng hạn như:
- Người có sao Thiên Hỷ tọa mệnh rất đáng yêu, được mọi người yêu thương.
- Say mê một số sở thích như câu cá, đánh cờ, uống rượu, âm nhạc, thích mua sắm quần áo...
Thuật đăng hạ nhấn mạnh âm đức. Nếu chúng ta đoán mệnh không chuẩn là vì các nguyên nhân sau:
1. Bát tự giờ sinh không đúng.
2. Ông bà cha mẹ, bản thân người đó có làm những việc tổn tới âm đức hay không? Cho nên khuyên chúng ta nên làm nên làm nhiều việc thiện, để phúc ấm lại cho con cháu.
3. Cũng nhấn mạnh các vấn đề như quỷ, luân hồi, báo ứng,...., cho nên nếu bạn không tin có quỷ thần thì không nên tìm hiểu thuật số.
4. Việc tiên cơ khó đoán.
Thuật Tử vi Đẩu số trong cổ thư không những khó đọc mà ý nghĩa khó hiểu, phải dựa vào sự kiểm chứng của chúng ta để đạt được sự tham ngộ.
Tham ngộ là tự mình nghiên cứu tham khảo từ nhiều nơi rồi ngộ được những điều uyên áo, huyền diệu trong đó.
Cuộc đời tác giả cảm thấy hổ thẹn vì không có cống hiến gì cho quốc gia xã tắc, nay giữa đêm khuya, khơi bấc đèn, mài mực chấp bút, tỏ bày tất cả để mọi người cùng nghiên cứu tham khảo, hy vọng giúp mọi người " phao chuyên dẫn ngọc", cùng mọi người tranh luận, đạt được những tri kiến, phần là mong mỏi các bậc cao nhân thạc đức điểm chỉ những hạn chế của bản thân.
CUỐI XUÂN, NĂM ẤT SỬU
PHAN TỬ NGƯ KÍNH BÚT!
Chủ đề An Khoa muốn bàn đến "ưu - nhược" của chính diệu, đây là vấn đề phải chăng, luôn được điều chỉnh theo "thời" đối với xã hội học
Tôi vẫn chưa bước ra khỏi tầm ảnh hưởng tư tưởng của Đạo giáo trong học thuyết của Tử vi, cho nên dụ ý mà Tôi muốn nói tới, đó là mối quan hệ giữa Thiên bàn và Địa bàn, khi chúng ta xem xét được cả Thiên (bàn) và Địa (bàn), thì có thể Ta không dùng khái niệm "ưu - nhược" để miêu tả, ví dụ như Ta nói:
- Khi Thiên bàn sinh trợ cho Địa bàn, thì được gọi là "Đạo khí", có nghĩa là đương số thường hành động mang Phúc của mình đem cho người khác, ám chỉ sự giúp đỡ là bổn phận.
- Khi Địa bàn sinh trợ cho Thiên bàn, thì gọi là "trợ khí", có nghĩa là đương số tự hưởng lấy Phúc phận của mình
- Khi Thiên bàn khắc Địa bàn thì gọi là "thuận", trên khắc dưới, thì đương số bẩm khí có thiên uy, có thể tự biết phải làm như thế nào để lãnh đạo người khác
- Khi mà Địa bàn khắc Thiên bàn thì gọi là "nghịch", dưới khắc trên, thì phần nhiều cuộc đời đương số thường trì trệ, khó để trở nên hiển quý, khi ở vào nơi Tử Tuyệt thì càng tồi tệ, ở vào nơi Sinh Vương mà có đủ tài lực để phát, thì cũng không thể nhanh
An Khoa tham khảo thêm một hướng nhìn cho vui
...
Khi đêm đến, bằng mắt thường, nhìn lên bầu trời, có tới ngàn vạn ngôi Sao, cái mà hướng Ta tập trung nhìn tới, đó là những ngôi Sao sáng nhất, nổi bật sáng tỏ đối với những sao ở xung quanh. Đây cũng có thể là một cách suy nghiệm.
...
AnKhoa, on 22/10/2012 - 17:05, said:
Thưa cụ, đây có thể là nỗ lực của ngành tâm lý học tích cực mà nhiều học giả phương Tây đang gắng sức tìm hiểu. Nhưng trải qua một thời gian nghiên cứu, rồi đi vào nghiên cứu Tử Vi, AnKhoa lại thấy rằng:
Để nhìn được bằng mắt thường, để có thể hướng cái Ta tập trung nhìn tới thật khó lắm. Đôi mắt của mỗi người có thể không khác nhau nhiều về tính chất sinh học, nhưng nó lại được "che phủ" bởi một lăng kính, mà lăng kính đó lại được định hình bởi một số sao tại Mệnh, Thân hay Vận trong hiện tại?
Chúng ta hướng vào nội dung chủ đề topic, đó là Ưu - Nhược của cái "chính", An Khoa có thể nói sơ qua về Thất sát được không?
Nếu có thể phân loại, chúng ta tìm hiểu thêm
- Những loại Mệnh nào, có ngũ hành của Mệnh không "dụng" được Thất sát, mặc dù là Thất sát thủ mệnh?
- Những loại tuổi nào theo can chi Năm phối ngũ hành Cục vô hiệu hóa Thất sát không phát huy được tác dụng, mặc dù Thất sát thủ Mệnh?
- Mối quan hệ của cái "chính" khi nhập cung? Ví dụ như Cự môn nhập cung Nô thì... Cự môn nhập cung Di thì... Cự môn nhập cung Tử tức thì... hay Thất sát cư Phu thê thì... Thất sát cư Tật ách thì...
...
Durobi có tìm hiểu tại sao ngày Thượng huyền và ngày Hạ huyền (ngày 8 và 23) sao Tử vi không an tại Sửu Mùi?
Bất kể là tuổi gì? bất kể là sinh vào tháng nào? cũng như Mệnh cục là Thủy cục, Mộc cục, Kim cục, Thổ cục, Hỏa cục, thì người sinh ngày 8 và ngày 23 không bao giờ sao Tử vi an tại Sửu Mùi. Chắc phải có nguyên nhân và lý do của nó!
Và tại sao Thất chính Tứ dư lại căn cứ vào Ngày sinh để xác định cung Thân? khác với Tử vi "Đẩu bính kiện Dần chính nguyệt khởi,... nghịch hồi an Mệnh thuận an Thân"
...
QuachNgocBoi, on 23/10/2012 - 18:50, said:
Thưa cụ Hà Uyên,
Cháu tính lại thấy với ngày 23 (Hạ Huyền) thì đúng như vậy.
Nhưng với Hỏa Cục thì ngày mồng 8 (Thượng Huyền) thì Tử Vi đến tại cung Mùi.
Với môn Thất Chính Tứ Dư thì Thân an theo Nguyệt (có ẩn Nhật), một tuần trăng 30 ngày thì trung bình sẽ mất 2,5 ngày trên 1 cung (18 canh giờ / 1cung) để đi hết được 1 vòng 12 cung.
Hà Uyên, on 20/10/2012 - 19:56, said:
... lại nói đối với 5 cục thì không bao giờ ngày 23 có Tử vi đóng tại Mùi,
Cảm ơn anh QuachNgocBoi
Viết bài trả lời anh Vuivui ngày 20/10, thì Tôi chỉ nói tới ngày 23, nhưng ba ngày sau, tức ngày 23/10, Tôi lại viết thêm ngày mồng 8 tương thích với năm Mậu Quý, nói thêm vào như vậy là vì "chính nguyệt" đối với năm Mậu Quý (Đẩu bính kiện Dần chính nguyệt khởi...) có thể phải xem xét kỹ hơn khi gặp "nhuận", Tôi đưa thêm ngày mồng 8 vẫn còn mang thêm một số hàm ý khác
Nhưng thôi, Ta bàn lại sau, trở lại với tính Ưu - Nhược của cái "chính" trong topic này.
...
AnKhoa, on 23/10/2012 - 17:19, said:
Thưa cụ, Thất Sát vốn là một Tướng tinh,
Tôi muốn hiểu thêm, trên nguyên tắc nào và nguyên nhân nào, sao Thất sát được cho là "Thất sát vốn là một Tướng tinh"!
Đối với Phi tinh thì ngài Trần Đoàn xếp theo thứ tự đứng thứ 6 của Nam đẩu (1 Phủ, 2 Lương, 3 Cơ, 4 Đồng, 5 Tướng, 6 Sát). Đối với Đẩu số, khi phối thiên can, sao Thất sát phối với can Canh theo thứ tự của thiên can là số 7,... ví như những nguyên tắc này, có thể đủ để kết luận sao Thất sát là Tướng tinh!!! hay vẫn có nguyên nhân nào khác, mà chúng ta chưa đề cập đến
...
banghuynh, on 24/10/2012 - 10:48, said:
@Cụ Hà Uyên: cháu xin được nêu suy nghĩ về các mệnh có thể "dụng" được Thất Sát là: Kim, Thủy
Kính Cụ!
Có thể sau này, banghuynh sẽ tự mình định hình cho mình một "cơ chế" khi nói về tính "ưu - nhược" của cái "chính". Tôi nói vậy là vì, trong mỗi người như chúng ta, cùng đọc một quyển sách về Tử vi, nhưng chọn "ngữ" để chuyển hóa thành "thần ngôn" là có khác nhau
Ví dụ với tiêu chí của Topic, khi Tôi đọc sách, thì tự định hình "cơ chế" khi nói về tính "ưu - nhược" của Thất sát như sau:
- Tính "hữu trợ" và "vô trợ" của sao Thất sát (thông qua cung Huynh để xác định)
- Tính "nhanh" hay "chậm", "sớm" hay "muộn" của sao Thất sát (xác định "tính" này thông qua cung Phu thê)
- Tính "mạnh" hay "yếu" của sao Thất sát (thông qua cung Tật ách)
- Tính thích nghi với hoàn cảnh "đột biến" hay không có khả năng thích nghi (cung Di)
- Tính trật tự và bất trật tự, tính có kế hoạch theo thứ tự hay không theo thứ tự của sao Thất sát (thông qua cung Nô)
- Tính xu hướng phát triển theo trường phái cánh tả hay trường phái cánh hữu của sao Thất sát (Hư - Thực của cung Quan)
- Tính sở trưởng và sở đoản của sao Thất sát (cung Phúc đức)
- Là "tính" hay là "tình", là "tình" hay là "lý" của sao Thất sát (cung Phụ mẫu)
Đại khái như vậy, khi nói về cái Ưu hay cái Nhược của cái "chính", banghuynh đọc thêm cho vui
...
AlexPhong:
Trong dòng lịch sử phát triển của tử vi, nền tảng đã bị thất truyền không biết do cố ý hay vô tình. Tất nhiên, cái gì cũng có hai mặt, sự thất truyền cũng vậy, mặt tốt là người nghiên cứu người sử dụng không ngừng tìm tòi kiểm nghiệm với mục đích tìm lại nền tảng cũng như hiện đại hóa cho tử vi bắt kịp với nhịp sống hiện đại. Từ đó tử vi phát triển không ngừng, hoa nở rồi sàng sẩy rồi gieo trồng rồi hoa lại nở.
Thì, trong số các tác giả Việt Nam có một tội đồ đã được vinh danh, đó là tác giả Lê Quý Đôn với tác phẩm Thần Khê Định Số. Nôm na là cách dùng tướng pháp bổ khuyết cho tử vi. Tác phẩm này gián tiếp thừa nhận sự bất lực của ông trong nghiên cứu tử vi. Ông đã đầu hàng, giương cờ trắng trước khi tìm hiểu cặn kẽ quân thù. Và ông tìm một cứu cánh đó là tướng pháp. Theo phương pháp này thì tử vi thui chột từ đây, thôi chấm dứt, thôi thế là hết, thôi không còn gì nghiên cứu, tử vi không chính xác khi không kết hợp với tướng pháp vì chính xác thì Thần Khê Định Số đã không ra đời.
Nói về tướng pháp, đã là cao thủ xem tướng thì khỏi cần lá số tử vi. Mang tướng pháp kết hợp vào tử vi để cải tiến tử vi khác gì lắp động cơ đốt trong cho xe bò, còn con bò dùng để làm gì. Mà tử vi cũng chẳng phải xe bò, thậm chí còn là hàng không mẫu hạm hay tàu ngầm nguyên tử trang bị tên lửa hành trình. Lê Quý Đôn đã từng nỗ lực giết chết tử vi, nhưng may mắn sao cuốn sách không phổ biến. Có người than: eo ôi tiếc thế, sách yêu thế mà lại không phổ biến. Nhưng theo tôi đó là điểm may cho giới học thuật nước nhà. Và nếu ai có cuốn sách trong tay, làm ơn đốt đi giùm, xin cảm ơn sau.
Đôi khi và nhiều khi chúng ta đao to búa lớn, Đạo nọ Đức kia. Nhưng những điểm đơn giản như sự phân bố lệch của sao Tử Vi lên địa bàn, điểm Thìn và điểm Tý, vì sao Thổ cục khởi thân thì chúng ta không nhìn ra. Cái gì điều chỉnh lại sự lệch lạc này? Chúng ta học học học và học những đống kiến thức hào nhoáng vô dụng vào người mà bỏ mất các suy luận cơ bản. Tích trữ bom nguyên tử trong khi khẩu súng lục cũng không biết dùng. Tử vi nó phải thế này cơ, sao đơn giản thế được, nó phải xoắn quẩy cơ, sao thẳng đơ thế được. Uke, do what you want.
Về đâu, về đâu hỡi các Thần Khê? Về đâu đạo đức cho Không Kiếp, bomb cho Ưu Nhược?
Tôi làm việc trong một thời gian tương đối dài, chức năng chủ yếu là vô hiệu hóa đối tượng, ngăn chặn sự phá hoại mang tính hủy diệt,... không hề biết mặt đối tượng, thân thế, thân nhân,... dữ liệu ban đầu chỉ có khoảng khoảng sinh năm... sau đó biết đến tháng,... sau đó biết được ngày sinh nhật thông qua ĐT (đặc tình) là "bạn gái",... những dữ liệu này đã mang lại nhiều hiệu quả ngoài mong muốn,... đỡ mất tiêu phí lực lượng, thời gian,... cho nên, anh AlexPhong đưa ra nhận định, nhằm hướng tới sự nghiên cứu chuyên nghiệp và chuyên sâu về Tử vi. Một nhận định mang tính chiến lược.
Hai chữ tri thu cũng ví như lưỡng nghi Cha Mẹ, cùng một mục đích sinh Con, mà kết quả khác nhau, hoặc là con trai, hoặc là con gái. NhuThăngThái dần quy tụ lại trong ngoài (chủ khách) = Nội cục - Ngoại cục - Nội cách - Ngoại cách, thì nhìn nhận ngày càng rõ hơn.
Khi cục đã không chính, thì nghĩa cũng biến hóa theo (紫 微 正 義 = Tử vi chính nghĩa), ngài Trần Đoàn nói với Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn như vậy.
Chính cục được hiểu như thế nào? Đó là căn cứ vào ngày sinh để biết ngôi vị của Đế tinh, theo đó kỳ số cục là một nguyên tắc chính yếu
...
Khi ta khảo cứu, sách nói rằng: "60 giờ tương ứng nhất cục" (5 ngày), theo đó
- Từ ngày mồng 1 hàng tháng tới ngày mồng 10 là 1 tuần ứng với Nhị cục, kỳ số Nhị cục từ ngày mồng 5 tới ngày mồng 10
- Từ ngày mồng 1 tới ngày 15 đủ số, ứng với Tam cục, kỳ số Tam cục từ ngày 11 tới ngày 15
- Từ ngày mồng 1 tới ngày 20 đủ số, ứng với Tứ cục, kỳ số Tứ cục từ ngày 16 đến ngày 20
- Từ ngày mồng 1 tới ngày 25 đủ số, ứng với Ngũ cục, kỳ số Ngũ cục từ ngày 21 tới ngày 25
- Từ ngày mồng 1 tới ngày cuối tháng ( 29 - 30) đủ số, ứng với Lục cục, kỳ số Lục cục từ ngày 26 tới ngày 29 tháng thiếu, hoặc ngày 30 tháng đủ. (riêng tháng Hai là 28 ngày)
...
@An Khoa:
- Chính cục được căn cứ vào Can năm + cung mệnh + ngày sinh
Ví dụ:
- Người tuổi can Mậu Quý, sinh ngày 21/6 âm lịch giờ Tuất, Mệnh lập tại Dậu, ứng tam Cục, nhưng sinh ngày 21 thì kỳ số Cục là Ngũ cục, nên chưa được gọi là chính Cục, theo đó thì Tử vi cư Thân
- Khi ta gặp người tuổi can Đinh Nhâm, vẫn sinh ngày 21/6 âm lịch giờ Tuất, Mệnh cư Dậu, ứng ngũ Cục, trường hợp này được gọi là chính Cục, vì căn cứ vào ngày sinh, sinh ngày 21 thỏa được điều kiện kỳ số ngũ Cục, theo đó thì Tử vi cư Tuất.
Không chính cục luôn hướng tới chính cục, mệnh cư Dậu không chính cục có Thái âm, luôn hướng tới mệnh chính cục có Cự Cơ tọa thủ.
...
NhuThangThai, on 25/02/2012 - 20:16, said:
Thưa cụ Hà Uyên, Nội cục và Ngoại cục ở đây chắc là ngũ hành nạp âm của tháng mà cung mệnh và cung Thiên Di rơi vào để thể hiện chủ khách, còn Kỳ Cục Số là khái niệm khác?
Nội cục là chính cục của Mệnh
Ngoại cục căn cứ vào giờ sinh xác định Thân, người Thân cư Phu Thê + Thân cư Phúc thì không có Ngoại cục, chỉ có những người Thân cư Tài Di Quan thì mới tồn tại Ngoại cục. Đây là nguyên lý tham lưỡng (3 và 2) của Dịch.
...
NhuThangThai, on 25/02/2012 - 23:18, said:
Kính thưa cụ Hà Uyên
Vậy thì có nghĩa rằng có điều kiện tương thích thì sẽ được gọi là kỳ số cục. Nhưng có cái cháu chưa hiểu, đó là điều kiện kỳ số cục này dựa vào so sánh độ lớn của cục hay dựa vào tương quan của hai cái ngũ hành cục? Bởi vì tương quan của ngũ hành cục và kỳ số cục đưa đến khá nhièu điều thú vị, và địa vị cháu là tác giả thì sẽ phát triển lý thuyết dựa trên điều này, nhưng có vẻ như cái này khác với ý của cụ.
Tiếp theo, cháu muốn hiểu, dựa vào Kỳ Số Cục để an thêm 1 sao Tử Vi nữa, vậy thì từ đó ta có thể nói về vị trí của sao Tử Vi mới này?
Còn cái ngoại cục, chắc cũng gần giống như với trường phái sử dụng tứ hóa của cung Thân, nhưng ở đây là áp dụng với ngũ hành nạp âm để đưa tới các vòng trường sinh. Có một điều cần để ý, theo quan điểm của cháu, phải sử dụng cung Thiên Di để nghiên cứu tương tác, chứ không thể sử dụng cung Thân chỉ trong trường hợp cung thân đóng ở phía bên kia của cung mệnh bởi ranh giới Điền-Tử, vì khó có thể nói ngoại cục mà sử dụng cung Thân mà bỏ qua cái quan trọng nhất là cung Thiên Di.
Kính cụ.
NhuThangThai cần một số thời gian để trả lời câu hỏi: tại sao năm Ất Canh thì trị số Cục tuân thủ theo thứ tự và trật tự 6 - 5 - 4 - 3 - 2
Ngài Trần Đoàn đã khải mở mối quan hệ của Ngày từ Nhất cục
...
Thái úy Lý Thường Kiệt tâu Vua: “Thần xin đề cử 2 quan A và B, sau khi hạ thần xem xét về Mệnh số, quan A giữ chức Cục trưởng cục đối ngoại, quan B giữ chức Cục trưởng cục hậu cần”
Vua nói: “Để trẫm cho người chuyển Mệnh số của hai người này đến mật viện, cho các quan Tuyên úy trong mật viện cho ý kiến, sau đó Trẫm sẽ phê chuẩn”
Sáu cha Tuyên úy trong mật viện, thì 4 cha Tuyên úy phê đồng ý, 2 cha Tuyên úy phê không đồng ý.
Nhận xét của sáu cha Tuyên úy được chuyển đến Vua, đọc xong Vua đồng ý phê chuẩn theo đề nghị của Thái úy Lý Thường Kiệt.
Một trong hai cha Tuyên úy phê không đồng ý hỏi Vua: “Quan B giữ chức Cục trưởng cục hậu cần, xét cục số không có khả năng đối ngoại đã đành, vì Thân cư Thê, nhưng thế Chủ Khách bị phạm Cô Hư, xin Bệ hạ xem xét”.
Vua nói: “Chiến trường cũng như thị trường, Trẫm cần chính cục chuyên nhất, đạt mục đích có đầu thì có cuối, quân lương được chu đáo, hai người này vận số không có hóa Quyền, nhưng quan trọng hơn cả là đắc chính cục”
Cha Tuyên úy đã hiểu được ý Vua.
...
AnKhoa, on 26/02/2012 - 11:27, said:
Gửi cụ HaUyen,
"Thế Chủ Khách phạm Cô Hư" nghĩa là sao ạ?
Trả lời An Khoa một vài bài viết cũng không đủ, Tôi nhớ trước đây, chỉ riêng nhóm 4 sao căn cứ vào địa chi Cô Quả Khốc Hư này, đã phải học 90 tiết, sau đó thực tập 60 tiết, phối nghĩa với cục, sau đó phối nghĩa với cách, tiếp theo là tổ hợp Nội cục + Ngoại cách hay Ngoại cục với Nội cách, sau đó viết tiểu luật về 4 sao này theo hàm nghĩa THƯ HÙNG, khi mình ở cương vị chủ hoặc khi mình ở cương vị Khách,.v.v... để được gọi là đào tạo chuyên nghiệp, rồi tới tào tạo chuyên sâu, cũng tốn nhiều tiền của vậy.
Thanh thản thấy vui, thì viết bài tham gia mà An Khoa!
...
NhuThangThai, on 27/02/2012 - 08:45, said:
Cuối cùng, bàn về ngày sinh/kỳ cục số, có người cho rằng Thái Âm đắc cách nếu người đó sinh vào Trung Huyền, tức là tầm giữa của tháng, vào đầu và cuối sáng thì độ số sẽ giảm đi nhiều. Tôi không biết điều này có đúng không, nhưng có cùng lập luận về việc dựa vào kỳ cục số để nghiên cứu.
Nói về kỳ số cục, thì dựa vào sách viết: số đủ thì thuận, số chưa đủ thì nghịch, câu này được hiểu như thế nào?
Đó là nói về mối quan hệ của Ngày trong Tháng - Ngày quyết định vị trí sao Tử vi. Ví như nói ngày 15 giờ Mão, xét tới ngày 14 thì số đủ, giờ Mão là nói số chưa đủ của ngày 15, hiểu đơn giản như thông lệ Tháng thuận Giờ nghịch.
Theo sách viết: "Số đủ thì thuận, số chưa đủ thì nghịch", thuyết này đã thừa nhận nguyên lý tự nhiên, đó là Giờ chuyển tiết khí trong ngày theo Lịch pháp.
Kỳ số cục, ngoài vấn đề cho ta biết trị số tương ứng với cục, để biết Mệnh số có đắc chính cục hay không, thì còn cho ta biết 5 can tương ứng với 5 ngày kỳ số cục, điều này làm căn cứ để xét Tứ hóa trong 10 can, xác định mức độ ứng cho mỗi vận nhân.
...
NhuThangThai, on 27/02/2012 - 19:53, said:
Kính thưa cụ Hà Uyên
Thấy bác lên trên này, cháu mừng quá. Nhân tiện, cháu có một số câu hỏi mong bác giải đáp.
1-có người nào sử dụng phương pháp luận mệnh dựa trên bát tự trụ năm hay không? Bác VDTT nói rằng có cuốn Trung Hoa Dự Trắc Học, tại sao bây giờ nó không còn phát triển nữa? Bởi vì môn này tồn tại từ thời Lạc Lộc Tử, tại sao đến thời Từ Tử Bình lại bị thất truyền? PHải chăng là vì lúc đó truyền nhân môn phái đó gặp trục trặc gì đó?
2-Cháu suy nghĩ mãi vẫn không giải đáp được câu tuổi Ất-Canh thì cục số giảm từ 6-5-4-3-2. Mong bác có thêm gợi ý. Cháu nghĩ suốt 2 tiếng đồng hồ, giờ đã chịu hẳn.
3-Trong các nghiên cứu của bác về nguồn gốc tinh đẩu thì bao nhiêu thực sự đến từ Thiên Văn, và bao nhiêu đến từ các quẻ dịch?
4-Có lần bác từng nói rằng Cự Môn thực ra là hành thổ ẩn tàng Kim. Theo NDTTP thì nó là hành thủy, Vượng tại Hợi (khác với tử vi Việt). Tương tự, họ cho rằng Thiên Lương thuộc Thổ, cũng khác với tử vi Việt.
Vậy theo bác, cái gì đúng, cái gì sai
Trong 4 vấn đề mà Nhuthangthai nêu ra, đều là những vấn đề có nội dung rộng, trả lời súc tích cô đọng, hay trả lời cho xong, cũng không thể ngày một ngày hai để rõ được hàm nghĩa.
Lịch sử đã cho ta biết, người đứng đầu một "Ấp" với 300 hộ dân (theo Dịch), tối thiểu cũng phải biết đọc từ 2700 => 3000 chữ, thì mới biết mà hiểu được "chiếu chỉ" từ quan huyện, quan tỉnh, hay cao hơn nữa là Vua, lại thêm theo thời gian chữ viết cũng được thay đổi (7 lần), kèm theo đó là Lịch pháp được vua phê chuẩn theo từng "thời". Nhưng, cái nôi văn minh vẫn là Đại lục, theo đó ta có thể nhận thấy, sự phát triển xã hội của Đài Loan so với Trung tâm văn minh Đại lục, tùy theo mỗi người mà đưa ra nhận xét của mình. Cá nhân tôi cho rằng, khả năng phát triển của phái Nhất Diệp Tri Thu, khó mà đi trước học thuyết của ngài Trần Đoàn viết sớ tâu Vua. Đây không phải là việc mà chúng ta phải đi xác minh độ tin cậy này làm gì, điều quan trọng mà Ta có thể nhận thấy, mối quan hệ giữa Thiên can và Địa chi đối với 30 ngày trong 1 tháng, để tìm hiểu về Mệnh lý thông qua Mệnh số, nền móng xây dựng học thuyết này, là từ ngài Trần Đoàn.
Sách viết, cũng như những trang mạng có nội dung về Huyền Học, vẫn chỉ đưa ra cách mà không nói cục đi kèm theo, những tinh túy được đúc kết từ thực tiễn, thông qua những câu Phú, cũng không chỉ rõ cục này thì phối với cách nào,... mà thường nói hai chữ chung chung là cách cục vậy. Hay khái niệm Tứ chính thì được hiểu như thế nào? Biện lý đến khi nào thì phải dùng đến số để khẳng định độ chính xác, sau đó lại dùng Lý suy Mệnh, rồi lại phải dùng đến khả năng của Số để dẫn giải..., nên vấn đề cục và số hình như chúng ta đang trong tình trạng còn nhiều hạn chế.
Nói ví như, Cục đường bộ và Cục đường biển thì những Cách nào đáp ứng đạt tới mục đích cuối cùng có hiệu quả và kết quả, hay Cục văn hóa dân gian và Cục trinh sát, hoặc như Cục y tế dự phòng và Cục tình báo,.v.v... vậy nên, khi nói cách cục thông qua thực tiễn cụ thể đối với từng con người trong mối quan hệ xã hội, đó là một phần giá trị Nhân học của Tử vi, mà không thể coi Tử vi như đi mua một cái gương soi, phương pháp sử dụng là soi mệt nghỉ xem Ta là ai,... mà quên mất rằng Ta đang tồn tại trong mối quan hệ tổng hòa đó. Hoặc như khi ta coi Lộc tồn tượng là "cầu", còn Hóa Lộc tượng là "kích", kích cầu cũng không thể xa rời quy luật 1/3, mở rộng kích cầu là điểm tựa chiến lược cho sự phát triển vận mệnh của mỗi người, cũng như của một TP hay một đất nước. Tiềm năng lớn nhất của mở rộng kích cầu là ở thành thị mà không phải ở nơi chưa được đô thị hóa, đây cũng chỉ là một quan niệm về lộc khi chúng ta đang tồn tại theo cơ chế thị trường vậy
...
NgoaLong, on 28/02/2012 - 10:18, said:
Có vẽ như bác HaUyen mắc sai lầm cơ bản từ đầu khi nhận định như trên chăng, để rồi phát kiến thêm cái gọi là Cục nữa để cho phù hợp???
Cảm ơn Ngoalong về kết kuận của bạn
Tôi đang cùng Nhuthangthai nói về Thủy cục và Thổ cục gặp cách Tử Phủ Vũ Tướng, sự chia sẻ này của Tôi đã sai.
Mong Nhuthangthai thông cảm vì Tôi đã sai cơ bản, cục đường bộ và cục đường biển tuy cùng thuộc một Bộ (cung Thân -trường sinh), nhưng đã quan niệm rằng chức năng và nhiệm vụ của đường biển và đường bộ là giống nhau.
...
Durobi chia sẻ bài dịch:
Phan Tử Ngư - Làm Sao Biết Lấy Được Chồng Tốt?
Hạnh phúc cả một đời của người phụ nữ quan hệ ở ở ông chồng, vì ông chồng hiền lành tốt tính thì gia đình tất mỹ mãn hạnh phúc.
Những sao dười đây biểu thị nữ mệnh sẽ lấy chồng tốt. (Phan Tử Ngư: Qua khảo chứng của tôi, điểm quan trọng nhất là vào năm mà tiểu hạn có Hồng Loan mà quen người yêu và sau đó cưới thì khá hạnh phúc, Hồng Loan củng chiếu cũng vậy. Nhưng Hồng Loan tại Sửu, Dần, Mão, Thìn,Tuất, Hợi thì cát, lạc hãm thì hung.)
Nữ mệnh :
1. Thái Dương đóng nơi miếu vượng, như Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ.
2. Cung Phúc đức có Thái Dương tọa thủ + Xương, Khúc.
3. Cung Phu thê có Tử Vi tọa thủ + Xương, Khúc.
4. Cung Phu thê Tử Vi hoặc Tử Vi Thiên Phủ.
5. Cung Phu thê Thiên Đồng + Xương, Khúc.
6. Cung Phu thê Thiên Phủ tọa thủ.
7. Cung Phu thê Thái Âm miếu vượng.
8. Cung Phu thê Thiên Tướng.
9. Cung Phu thê Thiên Lương hoặc Thiên Cơ + Thiên Lương.
10. Cung Phu thê Văn Xương hoặc Văn Khúc (Chỉ cần 1, nếu Xương Khúc đồng cung thì có Đào Hoa).
11. Hồng Loan tại Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tuất, Hợi hoặc tọa thủ tại Mệnh.
12. Thiên Cơ miếu vượng tọa Mệnh.
13. Thiên Phủ thủ Mệnh, Thân.
14. Thái Âm miếu vượng thủ Mệnh.
15. Thiên Tướng miếu vượng thủ Mệnh.
16. Thiên Lương miếu vượng thủ Mệnh.
17. Tả Phụ hoặc Hữu Bật đóng ở Mệnh.
18. Phá Quân thủ Mệnh tại Tý, Ngọ.
19. Khôi, Việt đóng ở mệnh hoặc Thân.
20. Lộc Tồn đóng ở Mệnh + tam phương có sao tốt chiếu.
21. Hóa Khoa, Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền đóng ở Mệnh.
22. Thiên Đồng + Thiên Lương đóng ở cung Phu thê.
Phan Tử Ngư - Làm Sao Phối Hợp Suy Đoán Đại Tiểu Hạn
Cổ thư nói: "Tham lang Văn Xương đồng cung, chính sự điên đảo", lại nói: " Tham Lang Văn Xương tại Sửu Mùi, tai nạn sông nước". Thế thì chúng ta sẽ gặp trường hợp trên mấy lần ở tiểu hạn, thế thì sẽ xảy ra năm nào? Chủ yếu phải phối hợp đại hạn thì mới ứng! Tóm lại, đại hạn và tiểu hạn kết hợp lại để suy đoán là điểm độc đáo của Tử Vi.
- Đại hạn có Địa Kiếp hoặc Địa Không, tiểu hạn lại gặp Địa Không hoặc Địa Kiếp, năm ấy phải chú ý những việc sau:
(1) Không được đầu tư lớn, sẽ lỗ vốn.
(2) Không được di chuyển bằng đường hàng không.
(3) Không đến những nơi lầu cao hoặc núi cao.
- Đại hạn có một trong tứ sát, tiểu hạn cũng có một trong tứ sát, năm ấy sẽ bất lợi nhiều chuyện.
- Đại hạn có một trong tứ sát, tiểu hạn có Tham Lang + Văn Xương, phải chú ý những chuyện sau:
(1) Sẽ có tai nạn xe cộ hoặc gãy xương.
(2) Người đang đi làm (kể cả nhà nước và tư nhân), phải đề phòng những sai sót về hành chính, dễ bị phạm lỗi, giáng chức, thậm chí mất việc.
(3) Không nên đi bơi đi chơi ở biển, thuyền viên thì không nên khởi hành ra biển.
- Trước cung đại hạn 3 cung, tức cung Phu thê lâm thời (hoạt bàn), có Tả Phụ, Hữu Bật, Phá Quân, Cự Môn, Linh Tinh, Không Kiếp v.v..., vợ chồng sẽ xảy ra chuyện sinh ly tử biệt.
- Đại hạn vào cung Phu thê, tiểu hạn có Hồng Loan, Thiên Riêu, có chuyện Đào hoa sẽ xảy ra.
- Tiểu hạn vào cung có Tả Phụ Hữu Bật giáp, rất cát lợi, có thể mua bất động sản, hoặc phát tài.
- Tiểu hạn đi đến cung có Lộc Tồn, tam phương tứ chính có Thiên Khốc Thiên Hư, sẽ nổi danh.
- Tiểu hạn gặp Thái Duơng hóa Lộc, sẽ nổi tiếng.
- Đại hạn hoặc tiểu hạn có Liêm Trinh Thất Sát + sát tinh, lại gặp năm Bính Liêm trinh hóa Kỵ, có tai nạn giao thông.
- Tham Lang đồng cung Hỏa hoặc Linh, gặp năm Mậu Tham Lang hóa Lộc, bột phát ào ạt, hoặc phát tài lớn.
- Cung Tài bạch có Thiên Riêu, vào năm Quí, nếu đánh bạc tất thua, hoặc vì mất tiền vì gái.
- Năm sinh là năm Canh, đại hạn hoặc tiểu hạn lại gặp năm Canh tứ hóa sẽ gặp trục trặc mọi chuyện.
- Lưu Xuơng nhập cung Mệnh, Thân, hoặc đại tiểu hạn, thi cử sẽ đậu, quan chức thì có tin thăng chức. Phụ nữ thì sẽ có con.
- Lưu Mã đồng cung với Lộc Tồn tại tiểu hạn hoặc Mệnh thì sẽ xuất ngoại, di chuyển, du lịch, quan chức thì lên chức, người làm ăn thì trúng quả.
- Thiên Cơ cung Thiên Di của năm sinh hoặc cung Thiên Di hoạt bàn, gặp năm Mậu Thiên Cơ hóa Kỵ, sẽ bị chuyện đi lạc, nếu có hung tinh đồng cung thì bị tai nạn giao thông.
- Lưu niên gặp Văn Xuơng hóa Kỵ, đi thi là rớt.
- Tài bạch cung có Thiên Cơ, đại tiểu hạn và lưu nguyệt lưu nhật gặp Thiên Luơng hóa Lộc, đánh bạc tất thắng lớn.
- Lưu niên Đại hao nhập cung Điền, sẽ bị ăn trộm đến viếng, gặp thêm sát tinh thì mất sạch sành sanh.
- Đại tiểu hạn có Hồng Loan gặp Đại Hao, hoặc tại cung Tài bạch, sẽ bị chuyện mất tiền.
- Đại tiểu hạn Liêm Trinh gặp Tả Phụ hoặc Hữu Bật, coi chừng điềm đi tù.
- Tham Lang đóng cung Quan lộc tại hãm địa + sát tinh, đại tiểu hạn gặp phải thì do tham ô nên bị bắt.
- Cung Phúc đức hoặc cung Tài bạch của năm sinh hoặc hoạt bàn có Hồng Loan hoặc Thiên Hỷ, sẽ bị mất tiền do đầu cơ hay đánh bạc.
- Năm sinh hoặc lưu niên Văn Xương hoặc Văn Khúc hóa Kỵ nhớ đừng làm (giúp) gì cho ai.
- Tham Lang tại Mệnh, Thân hoặc Tật ách, gặp Bệnh Phù đồng cung, lại gặp thêm Tham Lang hóa Kỵ, do chơi bời mà bị mắc bệnh hoa liễu.
- Tham Lang đóng cung Tài bạch hãm địa, gặp năm Quí Tham Lang hóa Kỵ, công việc làm ăn gặp sóng gió, hoặc cơ duyên không may mắn.
- Hoa Cái đồng cung với Cô Thần hoặc Quả Tú, đại tiểu hạn lại gặp, điềm bất lợi hoặc tử vong cho người phối ngẫu.
(Trích Tử Vi Tinh Áo - Phan Tử Ngư, trang 167 - 169)
Xin chào anh chị em trên diễn đàn. Thuật Tử vi được cấu tạo làm 12 cung, mỗi một cung là 30 độ (360/12 = 30), được thể hiện trên hình tròn, mà ngày nay được thiết lập lá số là hình chữ nhật hay hình vuông. Thuật Tử bình được căn cứ theo 4 chi của năm - tháng - ngày - giờ, mỗi một chi trong thuật Tử bình tương đương với 369 / 4 = 90 độ Khi chúng ta giả thiết rằng, 4 chi của Tử bình có mối quan hệ với 12 cung trong Tử vi, thì điều này dẫn tới khả năng, 4 cung trong 12 cung của Tử vi tiến tới giới hạn 30 độ => 45 độ. (90/2 âm dương) Chúng ta lại đặt một giả thiết nữa: một lá số có Mệnh lập tại cung Tuất gặp Tử Tướng, nhưng số Tử bình lại không có chi Tuất, nên cung Mệnh không còn giá trị góc 30 độ nữa, mà có thể giảm tới chỉ còn 15 độ chẳng hạn. Còn khi lá số có cung Mệnh lập tại Tuất gặp Tử Tướng, mà số Tử bình trong 4 chi có chi Tuất, thì cung Mệnh có giá trị góc 30 độ => 45 độ. Hà Uyên qua trải nghiệm thấy thú vị, nhưng còn rất nhiều lúng túng. Mong muốn cùng Anh/chi/em trên diễn đàn bình giải. Hà Uyên.
...
Chủ đề này, Hà Uyên căn cứ vào vị trí Địa lý của đất nước VN, nằm tại khu vực được gọi là Nhiệt đới gió mùa. Quá trình lao đông sản xuất của người Việt cổ là lúa nước, còn bên Đại lục là lúa mỳ.
Căn cứ theo chữ Nhiệt, mỗi cá thể đều có giới hạn trừ 2 và cộng 5. Có nghĩa là nhiệt độ cơ thể mỗi người trung bình là 37 độ, khi trừ đi 2 chỉ còn 35 độ thì trụy tim mạch, hoặc khi cộng với 5 thì 37 + 5 = 42 độ, thì dẫn tới hôn mê. Trừ 2 cộng 5 đều có kết quả như nhau.
Điều này, cho chúng ta hiểu ý nghĩa về giới hạn. Như vậy, chúng ta cũng có thể đưa ra một câu hỏi: 12 cung trong Tử vi của mỗi một người, nhất thiết bắt buộc phải chia đều hay không? Mỗi cung 30 độ?
Khi áp dụng vào thực tiễn thấy nảy sinh nhiều điều kỳ lạ. Có thể là một ngõ cụt, cũng có thể là một hướng tư duy, khi truy tìm mối quan hệ của các môn học thuật đối với một cá nhân cụ thể.
...
thieukim, on Sep 9 2009, 01:35 PM, said:
cái ngày nghe ngộ ngộ hì hì, khoa TB đâu có phải chỉ căn cứ theo 4 chi? còn thiên can thì sao? can tàng như thế nào? người đặt vấn đề có thấu hết vòng trường sinh tử tuyệt mà 10 can phải đi qua chưa?
Chào thieukim
Hay qúa, Hà Uyên cũng chưa thấu hết vòng trường sinh tử tuyệt mà 10 can phải đi qua.
Cũng chỉ từ cái mà được gọi là định danh thôi, ví dụ như Tử bình có 4 chi là Tuất-Thân- Hợi-Tý, cũng vẫn con người đó, Tử vi mệnh lập tại Dần ngộ Tử Phủ, Hà Uyên đã để mắt tới gần 50 năm mà danh phận cũng chưa đi tới đâu.
Lại một trường hợp cùng năm tháng ngày, chỉ khác giờ sinh, đó là sinh vào giờ Hợi mà Tử bình có chi Hợi, thấy cuộc đời khác hẳn. Kể cũng lạ
Thắc mắc này có thể không đi đường dài được, Hà Uyên nghe theo bạn, thieukim bàn về vòng trường sinh tử tuyệt mà 10 can phải đi qua vậy.
Xin chào anh chị em.
Môn Tử vi, thông qua Tháng sinh và Giờ sinh, xác định được cung lập Mệnh. Tiếp đến là xác định Ngũ hành cho Cục, thông qua Can của Năm sinh. Với những trị số cơ bản như sau:
- Hoả Lục cục
- Thổ ngũ cục.
- Kim tứ cục
- Mộc tam cục.
- Thủy nhị cục.
Trị số: 2, 3, 4, 5, 6 được phối hợp với Ngũ hành: Thủy - Mộc - Kim - Thổ - Hỏa, không biết Người xưa căn cứ vào đâu, để xác lập như vậy?
Anh chị em cùng bình giải xem, Tại sao lại được cấu tạo như vậy?
...
Gửi Minh An.
Phàm hai quẻ Càn Khôn sinh ra sáu con, Bố Mẹ thân thoái mà 6 con thì tiến (2 lùi 6 tiến), cũng như là Âm Dương sinh ra Ngũ hành vậy. Chúng phối hợp với nhau mà thành 64 quẻ. Cũng giống như Can Chi phối hợp với nhau, mà thành Giáp Tý vậy. Nhân quẻ mà suy ra Cơ - Ngẫu, Biến - Hóa, thì cũng như Can Chi phối hợp, mà cũng suy ra Xung - Hợp - Chế - Hóa vậy.
Thì có khác nào khi nói về Ngũ hành, Thuỷ chỉ sinh ở Canh Tân, mà không Hóa ở Bính - Tân. Hỏa chỉ sinh ở Giáp Ất, mà không Hóa ở Mậu - Quý. Thuyết Biến quái, thì cho đây, là cái gốc của Dịch. Tất cả 64 quẻ đều lấy từ đây mà ra. Như vậy, là vẫn lấy Hóa khí làm Bản khí, thì cũng trái với ý nghĩa tương sinh của Ngũ hành vậy.
- Bỏ một dùng ba: 360 thì dùng 270
- Bỏ hai dùng sáu: Bố Mẹ lùi mà sáu con tiến => 2 lùi 6 tiến.
- Bỏ ba dùng chín: Bỏ Tuyệt, Thai, Dưỡng => dùng từ Sinh tới Mộ.
...
"Thân giảm" có câu:
Dương cực tắc kháng,
Âm cực tắc ngưng,
Kháng tắc hữu hối,
Ngưng tắc hữu hung.
Dương cực thì kháng,
Âm cực thì ngưng,
Kháng thì hối hận,
Ngưng thì hung hiểm.
Địa thế Khôn, Thổ dĩ hậu súc tải vật. Vô Thổ bất Thủy.
Địa trung hữu Thủy, Sư: Thổ dĩ dung súc Thủy.
Âm lấy Dương làm gốc, Dương lấy Âm làm gốc.
Thủy sinh ở 1 lấy Hoả thành ở 6.
...
Vâng, anh Thiên Sứ.
Hà Uyên đã đọc được hơn ba lần về tác phẩm: "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch". Cảm ơn Anh.
Dưới đây, là một trong những cách tường giải về độ số Cục trong môn Tử vi:
Từ Nguyên lý:
- Bỏ một dùng ba: 360 thì chỉ dùng 270 => 1 giáng 3 thăng.
- Bỏ hai dùng sáu: Bố Mẹ lùi mà sáu con tiến => 2 lùi 6 tiến.
- Bỏ ba dùng chín: Bỏ Tuyệt, Thai, Dưỡng => dùng từ Sinh tới Mộ.
Hành kim: Có 2 quẻ là Càn và Đoài. Càn 1, Đoài 2. Tuy nhiên, số 9 chính là 1 số chứa trong nó cả Càn lẫn Đoài nên số của hành kim là: 9+1+2 = 12/4 = 4 => Kim tứ cục. Từ Sinh, Vượng, Mộ có 3 khoảng, từ Sinh đến Vượng, từ Vượng đến Mộ và từ Mộ đến Sinh. Số của mỗi hành sẽ được chia cho 3 khoảng đó. Như vậy, tại mỗi khoảng, giá trị của hành kim là 12: 3 = 4 ( Kim tứ cục)
Tương tự hành Thổ có Cấn và Khôn, trị số là 8+7 = 15 / 3 = 5 => là Thổ ngũ cục
Hành Thủy quẻ Khảm có trị số là 6 / 3 = 2 => Thủy nhị cục.
Hành Mộc là quẻ Chấn và Tốn. Trị số là 4+5 = 9 / 3 => Mộc tam cục.
Duy chỉ có hành hỏa là Ly, 3: 3 = 1. Chẳng lẽ lại là Hỏa nhất cục.
Bạn Minh An đã gửi thư, đặt v/đ về việc tường giải của mình.
Cũng mong anh Thiên Sứ cùng anh chị em trên diễn đàn cho ý kiến bình giải.
...
Chào Minh An.
Khi tìm hiểu về Ngũ hành, mối quan hệ "sinh- khắc" cũng phải đủ một điều kiện, dựa vào quy luật Tứ thời của Tự nhiên. Ví như khi nói Hỏa khắc Kim, khi chúng ta xét Hoả phải ở trong trạng thái "thành" thì mới có thể khắc được Kim. Thông qua "số" mà bàn thì, Hỏa thành ở 7, thì 7 + 4 + 9 = 20 = 6 + 5 + 4 + 3 + 2 = 20. Tương tự như vậy, khi Kim khắc Mộc, thì số "thành" của Kim là 9 ta có: 9 + 3 + 8 = 20, cũng bằng 20 => điều này, cho chúng ta nhận thức được những gì?
Người xưa lấy Mộc tinh để làm thước đo cho mỗi một cung, cũng gọi là Tuế tinh, 12 năm. Khi căn cứ vào lấy "Vượng" để dụng sự, thì lấy Mộc làm thước đo như sau:
- Mộc có trị số Vượng là 3 của Chấn => Mộc Tam cục
- Kim có trị số Vượng là 7 của Đoài => 7 - 3 = 4 => Kim Tứ cục
- Hỏa có trị số Vượng là 9 của Ly => 9 - 3 = 6 => Hỏa Lục cục
- Thủy có trị số Vượng là 1 của Khảm => 3 - 1 = 2 => Thủy Nhị cục.
- Thổ có trị số Vượng là 8 của Cấn => 8 - 3 = 5 => Thổ Ngũ cục
Anh chị em cùng Minh An bình giải.
...
Tam hợp của Địa chi được căn cứ vào đâu để quy Ngũ hành cho Tam hợp?
Có thể, Người xưa cũng thông qua nguyên lý: "Bỏ một dùng ba, bỏ hai dùng sáu, bỏ ba dùng chín" chăng?
- Hợi - Mão - Mùi => Sinh - Vượng - Mộ => Căn cứ vào Vượng để Quy thần về thuộc Mộc.
- Thân - Tý - Thìn => Sinh - Vượng - Mộ => Căn cứ vào Vượng để Quy thần về thuộc Thủy.
- Tị - Dậu - Sửu => Sinh - Vượng - Mộ => Căn cứ vào Vượng để Quy thần về thuộc Kim.
- Dần - Ngọ - Tuất => Sinh - Vượng - Mộ => Căn cứ vào Vượng để Quy thần về thuộc Hỏa.
Vậy còn Thổ thì sao? Tại sao Thiên can Mậu thì lại được khởi Trường sinh từ cung Dần? Tại sao Địa chi tam hợp cục của Thổ lại được khởi Trường sinh từ cung Thân?
(Nguồn: Sưu tầm)
rất chú trọng đến không gian của phòng thờ.
Phòng thờ phải đảm bảo được màu sắc, ánh sáng và chất liệu phù hợp, bởi không gian thờ luôn luôn cần có ánh sáng hợp lý, không chói quá và cũng không thể không có ánh sáng, màu sắc cũng phải đảm bảo nhẹ nhàng, chất liệu cũng phải ấm áp và không lạnh lẽo.

Những màu sắc, ánh sáng và chất liệu nên dùng trong phòng thờ
– Nên dùng bóng điện hình quả nhót màu đỏ hồng nhè nhẹ, bởi bóng điện sợi đốt màu đỏ hay hồng sẽ không có từ trường nên không ảnh hưởng tới sóng âm. Hoặc có thể dùng đèn dầu.
– Nên dùng rèm vải có màu đỏ để che cửa sổ. Bởi phòng thờ tượng trưng cho hành Hỏa và rèm màu đỏ cũng là hành Hỏa sẽ làm vượng không gian thờ bởi hành Hỏa.
– Bát hương nên dùng bằng gỗ hương, gỗ trầm là tốt nhất.
– Bàn thờ nên dùng bằng bàn gỗ hay tủ thờ bằng gỗ để tạo không gian ấm cúng.
– Nền nhà phòng thờ nên được làm bằng ván gỗ, nếu mà đã được làm bằng gạch men thì có thể trải thảm lên trên hoặc lát gỗ bên trên.
Kiêng kị về sử dụng màu sắc, ánh sáng và chất liệu trong phòng thờ
– Không dùng bóng đèn tuýp và đèn led vì bóng đèn tuýp và đèn led có nhiều xạ khí và từ trường sẽ làm cho sóng âm không tụ lại được.
– Không để ánh nắng chiếu vào bàn thờ và phòng thờ.
– Không dùng gương hay kính trong phòng thờ, bỏi gương và kính sẽ phát sinh ra nhiều xạ khí không tốt cho sóng âm.
– Không treo rèm màu đen trong phòng thờ.
– Không lát nền phòng thờ bằng gạch đá
– Không dùng bàn thờ bằng đá.
– Không để kính dưới bàn thờ.
– Không được đặt bể cá trong phòng thờ, vì bể cá mang hành Thủy sẽ khắc hành Hỏa của phòng thờ.
Những lời chúc thi tốt hay nhất dành cho bạn gái. Hãy gửi đến người mà ta yêu thương nhất lời chúc thi tốt, đó không chỉ là lời động viên mà còn thể hiện sự quan tâm sâu sắc của bạn dành cho cô ấy nữa đó. Hãy tham khảo những gợi ý sau đây bạn nhé.
Cuộc sống cũng giống như những kỳ thi vậy. Hãy cố gắng vượt qua các kỳ thi thật tốt để vững bước trong cuộc sống sắp tới. Tương lai nằm trong tay em đấy nhóc ạ.
——–
Kỳ thi sắp tới đó em ơi
Gắng sức học ngoan rồi ngủ sớm
Chúc em thi đạt kết quả tốt
Ngày mai vững bước trên đường đời
———-
Anh biết trời đang rất lạnh giá, nhưng em hãy cố gắng vì tương lai tươi sáng mà ôn thi thật tốt em yêu nhé. Chúc em đạt được kết quả cao nhất trong kì thi của mình.
Dù thế nào, học hành vẫn là nhiệm vụ quan trọng nhất của em lúc này, nên hãy cố gắng ôn thi thật tốt em nhé, đừng làm phụ lòng cha mẹ và những người đã yêu thương em – trong đó có anh
Thi cử là những thử thách đầu tiên trên con đường đời sắp tới em đi. Chỉ còn một kỳ thi cuối cùng này nữa thôi là em sẽ xa ghế nhà trường. Hãy cố gắng lên để không phải hối tiếc về sau em nhé. Anh sẽ luôn ở bên cỗ vũ, động viên em. Chúc em thi tốt!
Chúc em có một sức khỏe tốt đấu tranh với mọi khó khăn, bệnh tật để ôn thi thật tốt. Xong kỳ thi này em có thể thở phào nhẹ nhõm rồi. Chúc em đạt được điều mình mơ ước.
Hãy coi như mỗi cuộc thi là một cuộc chơi, nhưng dù là cuộc chơi anh vẫn hi vọng em sẽ chơi hết mình em nhé.
Không có anh bên cạnh, em phải ôn thi thật nghiêm túc đấy, không được lười biếng, không được ngủ nướng đâu nhé. Hãy nghĩ đến anh để có động lực thi tốt em nhé!
Anh có thể giúp em làm mọi chuyện, nhưng việc học và việc thi em phải tự mình làm thôi. Không ai có thể giúp em vẽ lên một tương lai tươi sáng, thế nên em hãy học tập và thi thật tốt vì tương lai bản thân mình.
Anh tin vào em, tin vào sự thông minh của em. Nhưng anh vẫn muốn gửi lời chúc em thi thật tốt, đạt kết quả thật cao trong kỳ thi sắp tới em nhé.
Gửi ngàn vì sao lấp lánh trên trời đến em lời chúc “chúc em thi tốt nhé”. Anh tin người anh yêu nhất sẽ thi tốt và có một tương lai tươi sáng sau kỳ thi này. Cuộc sống giống như những kỳ thi vậy, thế nên em hãy thi thật tốt để sau này không bỡ ngỡ khi bước vào cuộc sống.
Hãy tin rằng không có sự thất bại, con người luôn luôn có đủ khả năng để chinh phục những đỉnh cao! Hãy bình tĩnh, cẩn thận, và làm bài một cách thông minh như em vẫn vậy.
Con đường danh vọng lắm gian truân
Đòi hỏi người ta tính chuyên cần
Muốn sắt thành kim phải bỏ sức
Mong mình thành đạt phải rèn thân
Chúc em yêu mã đáo thành công
Kỳ thi sắp tới đó em ơi
Gắng sức học ngoan rồi ngủ sớm
Chúc em thi đạt kết quả tốt
Ngày mai vững bước trên đường đời.
Hãy coi như mỗi cuộc thi là một cuộc chơi, nhưng dù là cuộc chơi anh vẫn hi vọng em sẽ chơi hết mình em nhé. (Lời chúc người yêu thi tốt trong mọi cuộc thi!)
“Chúc em có một sức khỏe tốt đấu tranh với mọi khó khăn, bệnh tật để ôn thi thật tốt. Xong kỳ thi này em có thể thở phào nhẹ nhõm rồi. Chúc em đạt được điều mình mơ ước.”. Lời chúc người yêu thi tốt thật tình cảm!
Chúc tình yêu của anh tự tin, chiến thắng, thi đỗ tốt nghiệp và vào thẳng luôn Đại học nhé! Anh sẽ chờ em ở cánh cổng Đại học, cố lên, cố lên nào! (Tin nhắn ảnh hay và ý nghĩa chúc em yêu thi Đại học tốt!)
Hãy gửi những lời chúc thi tốt đẹp này tới người yêu của bạn ngay để giúp cô ấy quyết tâm hơn và đạt những thành tích cao trong các kỳ thi sắp tới! Chắc chắn cô ấy sẽ rất cảm động và có thêm động lực để đi đến thành công!
| ► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình |
![]() |
Con người từ khi sinh ra cho tới khi lớn lên thì đều có mỗi số mạng khác nhau. Cho tới từng độ tuổi nhất định, thời vận nhất định và những nốt ruồi sẽ xuất hiện mang theo những bí ẩn về cuộc sống của họ mà ít người có thể biết được. Có những nôt ruồi trên khuôn mặt, có nốt ruồi ở vai, có nốt ruồi lại ở tay và ai cũng muốn biết ý nghĩa của chúng ra sao.
Mỗi một vị trí nốt ruồi xuất hiện trên cơ thể con người thì đều mang ý nghĩa khác nhau. Cần có những người thiên về tâm linh và có con mắt tinh tường mới nhìn ra những số mệnh con người qua vị trí nốt ruồi. Trong bài viết sau sẽ cho ta biết vị trí nốt ruồi trên bàn tay tạo nên may mắn cho chủ nhân 1. Nếu có nốt ruồi đen xuất hiện trên gò mộc tinh (dưới ngón trỏ) trong lòng bàn tay của nam giới thì người này có thể làm nên sự nghiệp với sự giúp đỡ đắc lực của bên nhà vợ. Nếu ở trên tay phụ nữ thì đây là người vợ đảm đang, có khả năng quán xuyến công việc gia đình, giúp đỡ đắc lực cho chồng trên con đường sự nghiệp. 2. Trên gò thổ tinh (dưới ngón giữa) có nốt ruồi đen: Chủ nhân của nốt ruồi này kết hôn được với nhà quyền quý, cao sang, tuy nhiên họ lại bị lệ thuộc vào nhà đó. Xuất hiện nốt ruồi son ở gò thổ tinh thì chủ nhân gặp nhiều may mắn trong đường công danh, dễ trở thành người nổi tiếng, vang danh thiên hạ. 3. Trên gò thái dương (dưới ngón đeo nhẫn) có nốt ruồi đen: Người này sẽ gặp nhiều bất ngờ trong chuyện tình cảm, có thể có… tình yêu sét đánh dẫn đến duyên vợ chồng. Xuất hiện trên gò thái dương thì người này sẽ gặt hái được nhiều thành công nếu đi theo con đường nghệ thuật. 4. Trên gò thủy tinh (dưới ngón út): Chuyện tình duyên của người này không được suôn sẻ. Một số quan niệm khác cho rằng đó là dấu hiệu của sự tham lam, trộm cắp và bị vợ hại. Nốt ruồi son xuất hiện trên gò này thì chủ nhân có được mối lương duyên bất ngờ tốt đẹp. Qua bài viết này chắc chắn bạn đọc có thể hiểu được chút ít và biết được các vị trí nột ruồi trên bàn tay mà tạo nên may mắn cho bản thân. Không chỉ vậy mà vẫn còn rất nhiều những bài viết hay về vị trí các nốt ruồi, hãy cùng theo dõi nhé.