Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tết Trung Thu trông trăng bái Bồ Tát

Ý nghĩa Tết Trung Thu: Tết Trung Thu cúng trăng là phong tục tốt đẹp của các nước Á Đông theo âm lịch. Đây không chỉ là ngày hội mà còn là ngày lễ mang ý nghĩa tâm linh.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết Trung Thu trong dân gian vào ngày Rằm tháng 8 âm lịch – thời điểm mà mặt trăng tròn nhất, sáng nhất trong năm. Tuy nhiên vì sao lại có ngày lễ này, ý nghĩa Tết Trung Thu là gì? Đây là dịp lễ cúng Mặt Trăng, hội mừng Trăng cho trẻ thơ và là ngày cả gia đình đoàn viên. Đồng thời, giữa tháng 8 cũng là lúc lúa chín vàng, nhà nông gặt hái và tổ chức cúng bái lúa mới, xá thần Thổ Địa.   Rằm tháng 8 tương truyền là ngày sinh của Nguyệt Thần Thái Âm nương nương . Vào tối hôm đó, khi trăng tròn rực rỡ trên bầu trời, nhà nhà sẽ bày hương án ra trước sân, trên có lư hương, chân nến, mâm quả theo mùa, bánh trung thu để tôn thờ Nguyệt thần. Việc cúng bái này do phụ nữ và trẻ con trong nhà phụ trách bởi Mặt Trăng thuần âm, đàn ông không làm đến.    Lúc bái nguyệt, trông trăng toàn thể các thành viên trong gia đình đều tập trung, lấy ý tứ đoàn viên làm chủ. Chủ tế là trưởng nữ của gia đình, trước hướng về thần vị dâng hương, vái ba vái, sau đó những người nữ khác lần lượt làm theo. Sau khi kết thúc bái xá, người trong nhà ngồi quây quần ngắm trăng, uống rượu đoàn viên, ăn cốm, ăn bánh trung thu, phá cỗ trông trăng. Tết Trung Thu cũng chính là thời điểm gia đình được đoàn viên quây tụ.

Y nghia Tet Trung Thu theo truyen thong A Dong hinh anh 2
 
Còn với Phật giáo, ý nghĩa Tết Trung Thu là đây là thời điểm nguyệt quang phổ chiếu, ứng với Bồ Tát. Đông Phương Tịnh Lưu Ly Thế Giới Dược Sư Phật thì đêm trung thu ánh trăng vàng rực rỡ, biểu lộ sự tĩnh tại, giúp chúng sinh loại bỏ tham, sân, si, ba thứ độc khiến tàn phá tâm can. Nguyệt Quang Bồ Tát hiện thân màu trắng, ngồi trên nga tòa, tay cầm Nguyệt Luân. Bên trái là Nhật Quang Bồ Tát, bên phải là Dược Sư Như Lai phụ tá.    Nguyệt Quang Bồ Tát và Nhật Quang Bồ Tát tương đồng, đều cùng Dược Sư Phật có quan hệ mật thiết. Nguyệt Quang Bồ Tát cùng Quan Thế Âm Bồ Tát cũng có quan hệ mật thiết. Phàm là đến tâm tụng “Đại Bi Chú” thì nguyệt quang bồ long cũng sẽ cùng vô lượng thần nhân đến tăng thêm hiệu nghiệm.    Vì thế, đệ tử Phật pháp trong Tết Trung Thu có tế bái Nguyệt Quang Bồ Tát thì tự khắc cũng được Phật Bồ Tát phù hộ độ trì, tinh trừ buồn phiền, dẹp tan chướng ngại, phúc tuệ tăng trưởng, cả người an khang, sở cầu trôi chảy, mọi chuyện cát tường.

Tâm Lan
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tết Trung Thu trông trăng bái Bồ Tát

Tìm hiểu ý nghĩa tục phóng sinh cá ngày Tết ông Công ông Táo

Người Việt tin rằng, hàng năm đến ngày 23 tháng Chạp Âm lịch, Táo Quân lại cưỡi cá chép bay về trời để trình báo chuyện bếp núc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người Việt tin rằng, hàng năm đến ngày 23 tháng Chạp Âm lịch, Táo Quân lại cưỡi cá chép bay về trời để trình báo chuyện bếp núc, và mọi việc xảy ra trong gia đình gia chủ với Ngọc Hoàng. Đến Giao thừa, Táo quân trở lại hạ giới để tiếp tục công việc của mình.

Từ ngày xửa ngày xưa, khi con người vẫn còn sống theo lối du mục, rồi định cư trồng lúa, làm nương, tức là lúc con người biết nấu nướng, làm chín thức ăn, con người đã tin rằng luôn có một ba vị thần bếp canh giữ, và ban may mắn cho gia đình. Vị thần bếp đó chính là ba vị Táo Quân, vật biểu tượng là chính là chiếc kiềng ba chân tượng trưng cho 2 ông, 1 bà Táo Quân. Phong tục cúng ông Táo chính là một trong những phong tục lâu đời của người dân Việt Nam.

cá phóng sinh ông táo

Táo quân chầu trời báo cáo cả năm

Vì Táo Quân quanh nằm ở trong bếp nên biết hết mọi chuyện xảy ra, dù chuyện tốt hay chuyện dở. Với mong muốn Thần Bếp sẽ “phù hộ” cho gia đình mình được nhiều may mắn, nên hàng năm Tết đến, người ta thường làm lễ tiễn đưa Táo Quân chầu trời một cách long trọng.

Về trời, các Táo sẽ báo cáo với Ngọc Hoàng những điều đã xảy ra năm vừa qua với gia chủ và gia đình. Chuyện hay chuyện dở, chuyện tốt và chuyện xấu đều sẽ được báo cáo lên trời. Chính vì thế mà người Việt sẽ tổ chức một lễ cúng Táo quân lên chầu trời.

Cá chép đưa ông Táo về trời

Cá chép là phương tiện duy nhất có thể đưa Táo Quân về trời. Bởi thế, vào ngày này, sau khi làm lễ xong, các gia đình đều cúng con cá chép rồi đem ra sông hay ra ao thả, ngụ ý “cá hóa long”, nghĩa là cá sẽ hóa rồng, vượt vũ môn, làm phương tiện cho Táo quân cưỡi về trời.

Ngoài ra phóng sinh ngày Tết ông Công ông Táo cũng mang ý nghĩa phóng sinh, là một phong tục cực kỳ ý nghĩa dịp Tết đến xuân về.

Cá chép được thả ra sông hay ra ao với ngụ ý “cá hóa long” đưa Táo Quân chầu trời.

Phóng sinh cá chép cũng là thế hiện ước muốn năm mới nhiều hy vọng và niềm vui, sự từ bi, an lành trong năm mới.

Thả cá phóng sinh

Ngoài ra, trong tâm thức người Việt, "cá vượt Vũ môn" hay "cá chép hóa rồng" còn mang ý nghĩa của sự thăng hoa, biểu tượng của tinh thần vượt khó, sự kiên trì, bền chí chinh phục tri thức để đi tới thành công, biểu trưng cho nhân cách thanh cao tiềm ẩn hoặc hướng đến một kết quả tốt đẹp.

Phóng sinh cá chép ngày Tết ông Công ông Táo không chỉ là một nét đẹp văn hóa, đồng thời còn thể hiện sự từ bi quý báu của người Việt Nam. Nhưng hiện nay, một bộ phận người dân không có ý thức khi phóng sinh cá chép đã để lại túi nilon ngay trên bờ hay tại ao hồ, gây ra mất mỹ quan và ô nhiễm môi trường. Chính vì vậy, mỗi người trong chúng ta hãy thật sự có ý thức khi thực hiện những phong tục cổ truyền để những phong tục này thực sự đẹp, ý nghĩa và mãi lưu truyền.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu ý nghĩa tục phóng sinh cá ngày Tết ông Công ông Táo

Tháng sinh đại cát của 12 con giáp

Tháng sinh đại cát của 12 con giáp là tháng mà nếu sinh đúng vào đó, con giáp ấy sẽ gặp nhiều may mắn, tốt lành, hanh thông.
Tháng sinh đại cát của 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vận mệnh của một người ít nhiều ứng định trong bát tự, có thể thông qua ngày sinh tháng để luận đoán cát hung hoạ phúc. Tháng sinh đại cát của 12 con giáp là tháng mà nếu sinh đúng vào đó, con giáp ấy sẽ gặp nhiều may mắn, tốt lành, hanh thông.

Thang sinh dai cat cua 12 con giap, sinh dung thang so gi khong phat lon
 
Bát tự bao gồm 4 yếu tố: giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh, năm sinh. Những yếu tố này kết hợp với nhau cấu thành lá số tử vi - Khái niệm quan trọng nhất trong Tử vi đẩu số, thành cách cục của mệnh, có tỉ lệ ứng vào cuộc đời của một người cực kì cao. Tuy nhiên, xem bát tự rất khó, đòi hỏi quá trình nghiên cứu, học hỏi và trình độ uyên thâm.   Đơn giản hơn, có thể xem tháng sinh đại cát của 12 con giáp (tháng sinh theo âm lịch). Mỗi con giáp đều có những tháng sinh tốt trong năm, giúp cuộc đời gặp thêm thuận lợi, hạn chế khó khăn. Với người đang có ý định sinh con thì đây quả là gợi ý thiết thực, giúp các bạn chọn được thời điểm sinh bé đẹp nhất.  

1. Tháng sinh đại cát của người tuổi Tý: 1, 5, 7, 8, 9

  Người tuổi Tý sinh vào những tháng trên đều có cuộc sống bình an trôi chảy, gặp dữ hoá lành, gặp nguy hoá an. Người này tuy không phải không có khó khăn nhưng dù hiểm cảnh cũng tạo được đột phá, từng bước tiến lên. Đặc biệt, ý chí của bản mệnh rất mạnh, không dễ bị quật ngã.   Tuổi Tý sinh tháng đại cát dễ gặp bạn đời tốt và chung sống hạnh phúc. Người này may mắn được người lớn yêu thương, có bạn bè giúp đỡ, sự nghiệp từng bước thăng tiếc lên mây, cả đời phú quý. Do có nhiều quý nhân nên vận trình nhân duyên chính là bước đệm để đạt được thành công, nên quen biết giao thiệp càng rộng càng tốt.  

2. Tháng sinh đại cát của người tuổi Sửu: 3, 7, 8, 9, 10

  Người tuổi Sửu sinh vào những tháng này thì cả đời không cần lo cái ăn cái mặc, tài sản dồi dào, có lộc phát đạt. Sức khoẻ tốt, sống lâu và ít bệnh tật, rất có phúc khí. Người này không những an khang thịnh vượng cho bản thân mà gia đình cũng hưởng lây may mắn, luôn luôn có việc tốt ghé thăm.   Bản mệnh thích tìm tòi, nghiên cứu và học tập hơn nữa năng lực học tập cũng rất xuất sắc, khiến người khác phải trầm trồ kính nể. Sự nghiệp không có nhiều trắc trở, được quý nhân tương trợ nên ít phải lo nghĩ, thuận lợi đạt được mục đích mà mình hướng đến. Nếu có thể theo đuổi nghiên cứu khoa học thì chắc chắn trở thành bậc trí giá nổi danh trong lĩnh vực của mình.  

3. Tháng sinh đại cát của người tuổi Dần: 1, 2, 3, 4, 8

  Tuổi Dần chọn được những tháng sinh tốt lành như trên thì cuộc đời đại phú đại quý, bất luận là làm công chức nhà nước, theo đường quan trường hay là làm ăn buôn bán, kinh doanh kinh tế đều gây dựng được chỗ đứng riêng, khiến mọi người phải thừa nhận năng lực của mình.    Bản mệnh trời sinh thông minh, năng lực lĩnh ngộ tố, có chủ kiến riêng, nhiều sáng tạo, phong cách khác biệt. Người này phần lớn là có thể tạo nên thành tựu, có vị trí xã hội chứ không chấp nhận làm người tầm thường. Trong công việc bạn thường đảm nhận chức vụ quan trọng, là người lãnh đạo và dẫn dắt.  

4. Tháng sinh đại cát của người tuổi Mão: 2, 3, 4, 5, 8

  Với người sinh năm Mão thì những tháng ở trên là tháng đại cát đại lợi, không tai không nạn, vừa lòng đẹp ý, hạnh phúc an khang cho tới già. Người này tính cách ôn hoà nhã nhặn, khí chất thanh tao, nói chuyện hay làm việc đều từ tốn nhỏ nhẹ, không khoa trương, không lỗ mãng.   Điểm nữa là nhân duyên của bản mệnh rất tốt. Tài vận cũng vượng, bản thân tự chủ về kinh tế và có suy nghĩ làm giàu, có gan có chí, dám đột phá nên sự nghiệp thuận buồm xuôi gió, được coi là đắc lợi.  

5. Tháng đại cát của người tuổi Thìn: 2, 3, 4, 7, 9


thang sinh tot cua 12 con giap
 
Tháng tốt đối với người tuổi Thìn là những tháng kể trên, giúp cho bạn một đời vang danh tứ hải, có quyền có thế, lời nói có trọng lượng tựa núi non. Người này tư chất thông minh, làm việc có nghị lực, thích kết giao bạn bè, có thể lấy lòng được quần chúng nhân dân.    Nhờ gan dạ lại tài trí hơn người, có mưu lược nên cuối cùng kiến công lập nghiệp, đạt thành mục đích. Tài phú cả đời, sung túc no đủ và khiến bản thân rạng danh, coi như không sống uổng sống phí.
Đừng quên Chọn tháng sinh vượng tài vận cho 12 con giáp, có phúc khí rồi có thêm tài khí thì lại càng tốt đẹp.
 

6. Tháng đại cát của người tuổi Tị: 1, 3, 5, 7, 9

 

Theo tháng sinh đại cát của 12 con giáp, người tuổi Tị sinh vào các tháng này cả đời đại phú đại quý, quan hệ vợ chồng hài hòa, gia đình sự hòa thuận, con cái hiếu thuận có đức có tài. Bản mệnh thông minh hơn người, hơn nữa rất có chủ kiến và có nhiều sáng tạo riêng. Cư xử với mọi người chân thành, xử sự khéo đưa đẩy, năng lực ứng biến rất linh hoạt.   Nhờ đó mà người này có thể đạt được thành tích mình mong muốn, xây dựng sự nghiệp từ hai bàn tay trắng, trở thành nhân vật lớn khiến người khác phải nể trọng. Tuổi Tị có số quan chức hoặc làm lãnh đạo, chủ công ty, sinh tháng đại cát càng ngày càng tốt.  

7. Tháng sinh đại cát của người tuổi Ngọ: 2, 3, 7, 9, 10
 

Người tuổi Ngọ sinh tháng này cả đời sung sướng tiêu dao, thích du sơn ngoạn thuỷ, ra ngoài du lịch đây đó. Thái độ làm người chân thành, thẳng thắn, nhiệt tình hào phóng. Phần lớn đều là người tao nhã, tài trí, có mưu lược lại quyết đoán, có chủ kiến riêng.   Người này dễ gặp quý nhân giúp đỡ, bản thân làm việc siêng năng nên thành công không hề xa vời. Nhưng họ lại không ham mê danh vọng tiền tài mà thích sống tự do, di chuyển nhiều, không thích cuộc sống cố định nhàm chán.  

8. Tháng sinh đại cát của người tuổi Mùi: 1, 3, 5, 7, 9

  Người tuổi Mùi sinh những tháng kể trên thì một đời tài lộc dồi dào, không lo áo cơm, có hi vọng nổi danh được người khác kính ngưỡng. Người này giao thiệp rộng, thành thật và giữ chữ tín, làm việc đến nơi đến chốn, có ý chí nghị lực lại có tài lãnh đạo, biết dẫn dắt người khác.    Bản thân mưu lược, trời sinh phúc khí rất tốt, vận khí có thừa, thu về danh lợi, thành tựu lớn lao. Nếu có thể tận dụng tốt thời cơ trời ban thì chắc chắn không chỉ bằng lòng với những thành công nho nhỏ, chí người này rất cao và xa.  

9. Tháng sinh đại cát của người tuổi Thân: 3, 4, 7, 8

  Người tuổi Thân sinh vào tháng tốt cả đời vinh hoa phú quý, khỏe mạnh trường thọ, hôn nhân hạnh phúc mỹ mãn, gia đình hòa thuận. Bản mệnh có tham vọng về sự nghiệp, tự mình gánh vác dù gặp nguy hiểm cũng không lùi bước, nhờ quý nhân mà hoàn thành đại sự, lúc nào cũng được trợ giúp.  

10. Tháng sinh đại cát của người tuổi Dậu: 2, 3, 4, 8, 9

  Người cầm tinh Dậu sinh tháng tốt cả đời không lo cơm áo, tâm tình vui sướng tự tại, thoải mái an nhiên. Bản mệnh trời sinh có tính lạc quan, thích vui vẻ, không thích bị quản thúc, tinh nghịch hiếu động. Nhưng với sự nghiệp bạn vẫn thận trọng khiêm tốn, có tư duy và có chủ kiến.   Người này có khả năng xây dựng sự nghiệp từ hai bàn tay trắng, tự mình gánh vác hết mọi chuyện. Phúc lộc đầy đủ, vận may liên tục, được người xung quanh yên mến, duyên phận không tệ, nhiều bạn bè tốt.

N
goài tháng sinh, giờ sinh cũng là yếu tố quan trọng đối với vận mệnh một con người. Cùng tham khảo bài viết Giờ sinh hưởng trọn phúc khí của 12 con giáp
 

11. Tháng sinh đại cát của người tuổi Tuất: 1, 3, 8, 9, 10

 

chon thang sinh dai cat cho 12 con giap
 
Căn cứ vào tháng sinh tốt của 12 con giáp có thể thấy người tuổi Tuất mà sinh vào những tháng kể trên thì cả đời hạnh phúc an khang, vô lo vô ngĩa, không tai không hung. Bản mệnh tính thành thật, thông minh lại đa tài đa nghệ, nhận được sự khẳng định của nhiều người.   Trên phương diện sự nghiệp chủ yếu là bình an hanh thông, không gặp sóng gió, cứ từ từ tiến lên, đảm bảo tài lộc đủ để chi dùng.  

12. Tháng sinh đại cát của người tuổi Hợi: 1, 2, 4, 9, 11

  Người tuổi Hợi sinh đúng tháng cả đời vận may liên tục, rất có phúc khí, hạnh phúc an khang, tài vận hanh thông. Bản mệnh bác học đa tài, trung hậu thẳng thắn, hiền lành hữu hảo, thường được trưởng bối trợ giúp, còn có quý nhân tương trợ, là người phú quý. Cả đời cũng sẽ không mệt nhọc, không nghĩ ngợi, thực sự là thoải mái.
Top 3 nàng giáp vì người mình yêu nguyện hết lòng hy sinh, đồng cam cộng khổ 3 nàng giáp khẩu xà tâm Phật, lòng dạ thiện lương 4 nàng giáp dễ xiêu lòng vì lời đường mật, đổ gục vì lời ngọt ngào Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tháng sinh đại cát của 12 con giáp

Lấy thiện làm đầu

Một bài viết hay về làm việc thiện cải vận số. Mời các bạn cùng đọc.
Lấy thiện làm đầu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người nghiên cứu tướng thuật, đều biết câu "cổ bần bổ tướng", ý nghĩa của câu này là cho dù bạn đang nghèo khó nhưng vẫn phải tiết kiệm những đồng tiền lẻ này để giúp đỡ người bần cùng, bố thí cho người xuất gia. Rất nhiều người đều cho rằng: "Tôi nghèo như thế này, làm sao bố thí cho người xuất gia hoặc người bần cùng? Đợi đến khi phát tài, tôi sẽ làm những việc thiện, cứu giúp người bần cùng, bố thí cho người xuất gia".

Quan niệm này là sai lầm. Cho dù chúng ta nghèo khó, chúng ta cũng phải thể hiện tấm lòng nhân ái. Cổ nhân truyền đạt kinh nghiệm để dạy bảo chúng ta, cho dù chúng ta nghèo khó, vẫn phải khắc phục khó khăn, bố thí cho người khác. Người này cho dù sinh ra có tướng nghèo khó, có thể dùng Hậu thiên để bổ trợ. Thay tướng đổi vận, sau này sẽ có một ngày thành đạt.

Hoặc là chỉ cần trong tâm có lòng nhân ái, cứu giúp người bần cùng khắp nơi, giúp người bệnh lâu ngày khỏi bệnh, giúp người chết sống lại, giúp người khó khăn lâu ngày phát đạt, cái đức mà trời ban cho. Chỉ cần nghĩ đến người khắp mọi nơi, thì trời cũng có thể nghĩ đến bạn, nhân quả báo ứng, nơi nơi đều có.

Cái được mất của cá nhân, cái lợi doanh tài phú đều ở kiếp sau, cứu giúp người làm đầu. Đây chính là nguyên tắc làm người của chúng ta.

(Tử vi đẩu số giải đoán bệnh tật - Phan Tử Ngư)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lấy thiện làm đầu

Tiên đề Âm Dương

1. Hai tiên đề của Âm Dương : Tiên đề 1: “Vũ trụ là sự hiện hữu đồng thời của 2 mặt đối lập ”
Tiên đề Âm Dương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tiên đề 2:“Vũ trụ tồn tại là do sự vận động tương tác & biến hoá không ngừng của  2 mặt đối lập”

Qui ước 2 mặt đối lập:

- Những vật chất, hiện tượng mang thuộc tính: Cứng, mạnh, sáng, rực rỡ, hưng phấn, ly tâm, lồi, nhanh nhẹn,… qui ước là Vật Chất Dương, Hiện Tượng Dương.

- Những vật chất, hiện tượng mang thuộc tính: mềm, yếu, tối, mù mờ, ức chế, hướng tâm, hướng nội, lõm, chậm chạp,… qui ước là Vật Chất Âm, Hiện Tượng Âm.

2.    Hệ quả của tiên đề 1 :

Tiên đề 1: “Vũ Trụ là sự hiện hữu của 2 mặt đối lập ”

Ví dụ: Các cặp: đen-trắng, tối-sáng, ngày-đêm, mạnh-yếu, trái-phải, hưng phấn - ức chế, bản chất - hiện tượng, bên ngoài – bên trong, trên-dưới, tĩnh-động…. Là các cặp Âm – Dương.

Hệ quả 1-1:      Dương khởi thành là có âm.

                        Âm khởi sinh tất có dương.
Ví dụ: Bé trai sinh ra đời ngoài bộ phận sinh dục biểu hiện giới tính nam, kỳ dư những bộ phận thân thể khác đều có những điểm tương đồng như bé gái, và ngược lại bé gái sinh ra ngoài bộ phận sinh dục biểu hiện giới tính nữ, kỳ dư các bộ phận thân thể khác đều mang những điểm tương đồng như bé trai.

Hệ quả 2-1: Trong dương có âm, trong âm có dương.
Ví dụ: Thép là vật thể rắn (dương), nhưng trong nó cũng tồn tại những yếu tố âm như: thép có khả năng dát mỏng, co, dúm ; Nước là vật thể lỏng (âm) nhưng trong nó cũng tồn tại yếu tố dương như nước rắn lại ỏ nhiệt độ thấp. Màu trắng (dương) cũng mang yếu tố âm, đó là tính đục của màu.
Hệ quả 3-1: Trong 1 dương (hay âm) luôn tồn tại trong nó ít nhất 1 cặp yếu tố âm & dương khác.
Ví dụ: Bão tố thì dữ dội (dương) nhưng bên trong cơn bão có 2 khu vực: Tâm bão tĩnh lặng (âm), xung quanh tâm bão là gió sóng gầm thét (dương)

1.    Hệ quả của tiên đề 2 :

Tiên đề 2: “Vũ trụ tồn tại là do sự vận động , tương tác & biến hoá không ngừng của 2 mặt đối lập”

Ví dụ: Nam nữ không hợp giao thì không thể có dòng kế thừa ; sinh trưởng và tái sinh vạn vật mới có thể duy trì sự tồn tại của chính mình,

Hệ quả 1-2: Độc âm vận động thì không thể sinh.

        Độc dương vận động thì không thể thành.
Ví dụ: Người nữ không đến với nam thì không thể sinh, người nam không hợp giao người nữ thì không thể truyền giống.

Hệ quả 2-2: 

                Âm trưởng dương tiêu. Dương trưởng âm tiêu

Ví dụ: Ban ngày là dương, ban đêm là âm. Hoàng hôn buông dần xuống tương ứng với âm trưởng dương tiêu. Buổi sớm

mai mặt trời lên tương ứng với dương trưởng âm tiêu.

Hệ quả 2-3:

                Dương vận động đến cực dương thì âm sinh.

    Âm vận động đến cực âm thì dương sinh.
Ví dụ: Vận động của cơ bắp đến mức độ tối đa sẽ sinh mõi

mệt, cơ bắp chùng xuống ; Cây oằn quá sẽ gãy ; Ngủ nhiều quá sẽ sinh chứng khó ngủ ; no đủ quá sẽ sinh ý muốn làm kẻ nghèo ; thân thiện quá không giữ ý sẽ sinh ra ghét nhau.

Hệ quả 2-4: Sự vận động, tương tác & biến hoá không ngừng của âm dương luôn hướng đến sự cân bằng tương đối (Bình hành)
Ví dụ: Các tính cách đặc trưng nam & nữ là đối lập nhau, khi 2 nhóm tính cách ấy vận động hài hoà thì gia đình đạt được hạnh phúc (Cân bằng) nhưng các tính cách đặc trưng của 2 người nam nữ vẫn không mất đi (Cân bằng tương đối) ; Hệ sinh thái của trái đất bị mất cân bằng sẽ dẫn đến hệ quả 1 số loài sinh vật sẽ bị xoá sổ, nhưng không phải là tất cả. Một qui trình vận động & biến hoá mới sẽ nảy sinh từ sự cân bằng tương đối bị phá vỡ trước đó.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tiên đề Âm Dương

Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng

Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng. Trong cuộc sống này trước khi làm việc gì, bất kể nhỏ hay to, lớn hay bé thì hãy cân nhắc thật kỹ
Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng. Trong cuộc sống này trước khi làm việc gì, bất kể nhỏ hay to, lớn hay bé thì hãy cân nhắc thật kỹ, những hậu quả mà nó mang lại cho chính ta và những người xung quanh ta.

Là một con người thì phải biết nghĩ, biết vận dụng trí óc và quyết định công việc đúng đắn. Chứ đừng làm xong rồi mới suy nghĩ, hối hận, lúc đó thì đã quá muộn.

Có những việc không cân nhắc kỹ mà đã làm rỗi thĩ khi đó hối hận cũng không còn có ích gì nữa. Có thể bạn hối hận cả đời người vẫn chưa thể bù đắp được. Và hãy rút kinh nghiệm và triết lý cho những việc làm sai trái trước đây của mình.

Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng sẽ là những câu danh ngôn hay cho bạn, cho tôi và cho tất cả chúng ta suy ngẫm.

Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng

1. Người khăng khăng muốn thấy rõ mọi thứ trước khi quyết định sẽ chẳng bao giờ quyết định. Chấp nhận cuộc sống, và bạn phải chấp nhận sự hối hận.

2. Hối hận, quả trứng chết người mà lạc thú sản sinh.

3. Vinh quang xây trên nền ích kỷ là hối hận và xấu hổ.

4. Sự hối hận sau một cuộc chiến không cần thiết rất lớn.

5. Nhiệt tình là một tật bệnh thường mắc phải của tuổi trẻ. Bên trong nhỏ một ít thuốc hối hận, bên ngoài bôi một ít thuốc cao kinh nghiệm thì sẽ trị khỏi ngay.

6. Nghe nhiều thêm khôn ngoan, nói nhiều thêm hối hận, im lặng là nghệ thuật lớn lao của cuộc đàm thoại.

Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng
Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng

7. Ai cũng có sai lầm, nhưng người ít khinh suất nhất là người mau hối lỗi nhất.

8. Đừng làm gì mình sẽ thấy hối tiếc.

9. Sự hối hận ngủ ngon trong thịnh vượng nhưng gọi dậy ý thức cay đắng trong khó khăn.

10. Một người chỉ có lý do để hối tiếc khi anh ta gieo hạt và không ai gặt.

Bạn có thể tham khảo những câu nói hay về cuộc sống để rút ra những kinh nghiệm, triết lý sống cho mình nhé.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Quý Tỵ thường gặp những chứng bệnh gì và cách chữa trị thế nào?

Năm Quý Tỵ, theo thuyết Ngũ hành có quan hệ mật thiết với hai hành: thủy và hỏa. Tạng thận và phủ bàng quang liên quan mật thiết với hành thủy, còn tạng tâm, phủ tiểu tràng lại liên quan đến hành hỏa.
Quý Tỵ thường gặp những chứng bệnh gì và cách chữa trị thế nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Giữa thủy và hỏa lại có mối quan hệ tương sinh và tương khắc lẫn nhau, đưa lại sự cân bằng thủy - hỏa, cân bằng âm - dương trong cơ thể khiến con người khỏe mạnh, dẻo dai. Nếu cân bằng này bị phá vỡ sẽ gây bệnh tật. Vậy năm Quý Tỵ thường gặp những chứng bệnh gì và cách chữa trị thế nào?

Giáo sư Phạm Xuân Sinh cho biết, theo y học cổ truyền, tạng thận gồm cả thận âm và thận dương. Nếu các chức năng của thận âm, thận dương đều tốt, cơ thể sẽ khỏe mạnh, gân cốt, lưng xương vững chắc, việc bài tiết nước tiểu bình thường và hoạt động sinh dục của con người cũng bình thường. Nếu thận âm không đủ mạnh, còn gọi là âm hư, ắt sẽ gây ra các chứng hỏa vượng, biểu hiện hoa mắt, chóng mặt, đau đầu, buồn nôn, có những cơn bốc hỏa, tính tình hay cáu gắt; nữ giới kinh nguyệt không đều, lượng kinh ít, đau bụng kinh…; nếu là nam giới thường mắc chứng di tinh tảo tiết (xuất tinh sớm). Hoặc thận dương kém, còn gọi là thận dương hư, ắt sẽ gây ra các chứng da dẻ, chân, tay thường xuyên giá lạnh, lưng gối đau lạnh…, bụng hay sôi réo, đau bụng quặn, đi ngoài lỏng vào sáng sớm (ngũ canh tả). Ngoài ra, hai tạng tâm và thận nếu hòa hợp sẽ tạo ra hài hòa về tâm lý, sinh lý cho cơ thể. Còn khi chúng bị mất thăng bằng sẽ khiến cơ thể luôn có cảm giác lo âu, bồn chồn, đêm thì trằn trọc, khó ngủ… (y học cổ truyền gọi là tâm thận bất giao).

Phương thuốc trị bệnh theo từng thể gồm:

Thận âm suy kém: gây ù tai, hoa mắt, chóng mặt, đau lưng, mỏi gối, ra nhiều mồ hôi, di tinh, háo khát hoặc có những cơn bốc hỏa: Trạch tả, bạch phục linh, hoài sơn, mẫu đơn bì mỗi vị 6g; sơn thù du 8g; thục địa, đại táo mỗi vị 12g; cam thảo 4g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần sau bữa ăn khoảng 2 giờ. Uống liền 3 - 4 tuần. Có thể bào chế bằng cách đem các vị thuốc sao hoặc sấy khô, tán mịn, thêm mật ong làm hoàn, mỗi ngày dùng 2 - 3 lần, mỗi lần 10 - 12g, uống với nước sôi để nguội.

Thận dương suy, lưng gối đau lạnh, liệt dương, tiết tinh sớm, tiểu tiện trong dài, phân sống nát: Phụ tử, quế nhục mỗi vị 3g; trạch tả, bạch phục linh, hoài sơn, mẫu đơn bì mỗi vị 6g; sơn thù du, đỗ trọng, mỗi vị 8g; thục địa, đại táo mỗi vị 12g; cam thảo 4g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần, uống sau bữa ăn khoảng 2 giờ. Uống liền 3 - 4 tuần. Hoặc làm viên hoàn, theo cách trên, cách dùng cũng tương tự. Tuy nhiên, phương này không dùng cho phụ nữ có thai và trẻ em dưới 15 tuổi hoặc người thể nhiệt: lở loét niêm mạc miệng, xuất huyết dưới da, chảy máu cam…

Tim hồi hộp, loạn nhịp, mạch nhỏ, ra nhiều mồ hôi: Đảng sâm 300g, mạch môn đông 200g, ngũ vị tử 100g. Mạch môn đông bỏ lõi. Cả 3 vị thuốc cho vào nồi, đổ nước ngập thuốc khoảng 3cm; đun sôi 1 khoảng 1 giờ, làm 3 lần. Gộp dịch của 3 lần nấu, lọc bỏ bã, cô lại còn 600ml, thêm đường đủ ngọt. Ngày uống 2 - 3 lần, mỗi lần 10 - 12ml. Có thể uống nhiều ngày. Khi uống, cần tránh các thức ăn mang tính cay nóng hoặc kích thích như ớt, hạt tiêu, rượu, cà phê…

Đau thắt ngực do động mạch vành tim: Đan sâm 30g, xuyên khung, hồng hoa, xích thược, giáng hương mỗi vị 15g. Tất cả tán mịn, thêm mật ong làm hoàn, mỗi lần uống 10 - 12g, ngày 2 lần trước bữa ăn. Có thể uống liền 3 - 4 tuần.

Mạng sườn đau tức, đau đầu hoa mắt, họng khô, miệng khát, phụ nữ kinh nguyệt không đều, người bồn chồn, kém ăn, khó ngủ… (do cả hai tạng tâm và thận gây ra): Sài hồ, đương quy, bạch truật, bạch thược, bạch phục linh, hắc táo nhân, gừng nướng mỗi vị 9g; cam thảo, bạc hà  mỗi vị  4g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần trước bữa ăn. Uống liền 3 - 4 tuần đến khi hết các triệu chứng. Khi uống, cần kiêng các thức ăn mang tính kích thích, cay nóng: ớt, hạt tiêu, bia, rượu… đồng thời tránh các căng thẳng tâm lý.

Theo Sức khỏe Đời sống
Trich tu: vnexpress.net

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quý Tỵ thường gặp những chứng bệnh gì và cách chữa trị thế nào?

Mơ thấy xác chết sống lại –

Mơ thấy người khác chết đi sống lại dự báo bạn sắp có sự thay đổi trong công việc và trong tình yêu. Mơ thấy bản thân chết rồi sống lại, báo hiệu bạn sắp được nhận quà hay sắp có được những thứ mà bạn mơ thấy trong mơ, bạn sẽ sống vui vẻ. Người đã kế
Mơ thấy xác chết sống lại –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy xác chết sống lại –

Bói vui: Nhìn dáng trán đoán sơ lược tính cách con người

Chọn hình dáng trán giống với trường hợp của bạn nhất!
Bói vui: Nhìn dáng trán đoán sơ lược tính cách con người

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

boi-vui-nhin-dang-tran-doan-so-luoc-tinh-cach-con-nguoi
A
B
C
D
E

Alexandra V (theo vonvon)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bói vui: Nhìn dáng trán đoán sơ lược tính cách con người

Đặt tên đặt cả tương lai cho con với 6 lưu ý "vàng"

6 lưu ý khi đặt tên cho con dưới đây sẽ giúp các bậc cha mẹ không chỉ chọn được tên hay mà còn hợp phong thủy cho con yêu.
Đặt tên đặt cả tương lai cho con với 6 lưu ý "vàng"

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tên chính là thứ sẽ theo đứa trẻ suốt cả cuộc đời, hàm chứa mong chờ, kì vọng cùng tình yêu thương của người nhà dành cho bé.


Dat ten dat ca tuong lai cho con voi 6 luu y vang hinh anh
 
Học thuyết âm dương nhấn mạnh, mọi vật đều tuân theo nguyên lý âm dương ngũ hành. Âm dương cân bằng thì cát, âm dương chênh lệch thì hung, việc đặt tên cho bé cũng không ngoại lệ. 
 
1. Trẻ sinh mùa đông tên không nên có hàn tự
 
Lưu ý khi đặt tên cho con là phải hợp với mùa sinh của trẻ. Căn cứ bát tự mệnh lý, trẻ sinh vào thời thời điểm từ lập đông tới kinh trập, là khi tiết trời hàn khí nặng, mệnh Hỏa nhược Thủy vượng, hàn khí quá nặng. 
 
Bởi vậy, kiêng đặt những tên như Thủy, Băng, Vũ, Kim, Đông, Hàn, Phong; sẽ làm gia tăng hàn khí, sinh hung. Tương lai sự nghiệp nguy nan mà hôn nhân cũng không thuận lợi.
 
2. Trẻ sinh mùa hè tên không nên có Hỏa
 
Căn cứ vào bát tự mệnh lý, trẻ sinh vào thời điểm từ lập hạ tới lập thu, thời tiết nóng bức, mệnh Thủy nhược Hỏa vượng, quá mức khô hạn. 
 
Bởi vậy, lưu ý khi đặt tên cho trẻ tránh đặt phạm chữ Hỏa, Quang, Hạ, Nhật, Minh, Dương. Bằng không, tương lai đứa bé sẽ gặp họa huyết quang, thị phi vạ miệng, vợ chồng bất hòa. 
 
3. Thân vượng không nên đặt tên quá cương
 
Ở bát tự của trẻ, ngày chủ thiên vượng tức thân vượng thì là người có cá tính cường ngạnh, cảm xúc bốc đồng, khó uốn nắn. Tên hợp phong thủy với trẻ là tên không quá cương tính, quá khí phách như Hào, Bá, Hiệp, Hoàng, Ngoan, Mạnh. 
 
Nếu tên đặt phạm lỗi này thì đứa trẻ sẽ trở nên kiêu ngạo, ngang tàng, không có phép tắc, nam thì khắc vợ nữ thì khắc chồng, sớm ngày gặp nạn.
 
4. Thân nhược không nên đặt tên quá nhu
 
Bát tự của trẻ ngày chủ thiên nhược tức là là người cá tính nhút nhát, yếu đuối, hay lo lắng. Đặt tên quá nhu mì, điệu thấp như Lệ, Nhu, Như, Từ, Ny sẽ dễ bị người đời bắt nạt, tiền tài không tụ, nam sợ vợ nữ sợ chồng, dễ bị lừa gạt, vứt bỏ.
 
5. Bé gái không nên đặt tên nam tính
 
Đặt tên cho bé gái nên lựa những tên nhu mì, xinh đẹp, hiền thục, không nên có những âm điệu quá nam tính. Như vậy trẻ sẽ tự lực tự cường, không cam lòng yếu thế, ương ngạnh như con trai, không chịu thua kém người khác. Điều này gây bất lợi cho trẻ trong hôn nhân, nhẹ thì bất hòa, nặng thì ly tán.
 
6. Trẻ nam không nên đặt tên nữ tính
 
Trẻ nam bình thường không nên đặt tên có âm trầm, nhẹ nhàng, dịu dàng quá, sẽ gây bất lợi cho tương lai của trẻ. Thứ nhất, không có ý chí phát triển sự nghiệp. Thứ hai, trong cuộc sống gặp phải tiểu nhân, thị phi bủa vây. Thứ ba, hôn nhân không thuận, vợ trăng hoa bên ngoài.  
► Tham khảo thêm: Đặt tên cho con theo phong thủy để có vận mệnh tốt đẹp

Trần Hồng (Theo d1xz)

 
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên đặt cả tương lai cho con với 6 lưu ý "vàng"

Top 3 con giáp có kiểu yêu cho roi cho vọt

Người tuổi Hợi là một trong những con giáp yêu cho roi cho vọt, nên chẳng mấy khi nói những lời yêu thương ngọt ngào nào.
Top 3 con giáp có kiểu yêu cho roi cho vọt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Dẫu trong lòng mơ ước về tình yêu lãng mạn, cổ tích, nhưng người tuổi Hợi lại hiếm khi thể hiện ra bên ngoài. Ngược lại, con giáp này “yêu cho roi cho vọt”, nên chẳng mấy khi nói những lời yêu thương ngọt ngào nào. 

 
Những cặp đôi con giáp kết hôn nhất định sẽ hạnh phúc suốt đời
  No1. Tuổi Khỉ   Nhìn cái tính năng động, hoạt bát, thích bông đùa của người tuổi Khỉ, ít lại lại có thể nghĩ rằng đây là con giáp thích kiểu “yêu cho roi cho vọt”.    Ấy vậy mà, khi đã tìm được nửa kia đích thực, họ tìm đủ các cách khiến đối phương vui vẻ, hài lòng. Dùng hết những lời đường mật có cánh dành tặng nửa kia.   Nhưng chỉ cần phát hiện thấy đối phương có chút biểu hiện gì bất thường, ngay lập tức người tuổi Thân lại trở mặt dễ như trở bàn tay. Họ để tâm, xét nét từng tí một, thậm chí có thể to tiếng nếu nửa kia không chịu chia sẻ.    Nhưng rồi đâu lại vào đó, yêu vẫn hoàn yêu, họ sẵn sàng bỏ qua những lỗi lầm nhỏ nhặt, để cả hai có thể dung hòa, tiến tới cuộc sống hạnh phúc.  
Top 3 con giap co kieu yeu cho roi cho vot hinh anh
 
No2. Tuổi Dê   Người tuổi Dê mang trong mình ý thức về tinh thần trách nhiệm rất cao, chính vì thế, trong mắt mọi người họ thường là “người đàn ông tốt” hay “người phụ nữ đảm đang”. Họ không chỉ mang tới cảm giác an toàn mà còn hết mực chu đáo và thấu hiểu nửa kia.    Thêm nữa, con giáp này ưa lãng mạn, tình cảm thủy chung nhưng cũng rất nhạy cảm. Vậy nên, sự quan tâm, chăm sóc của họ dành cho đối phương hiếm khi được thể hiện bằng lời nói. Chỉ còn cách quan sát kĩ càng, bạn mới phát hiện ra.    Càng yêu, người tuổi Mùi càng muốn giữ gìn và trân trọng hạnh phúc tới lúc đầu bạc răng long. Với họ, yêu là cả hai thấu hiểu và có thể đọc được suy nghĩ của nhau, chứ không phải kiểu lời nói đầu môi, nói rồi quên ngay.   
Top 3 con giap co kieu yeu cho roi cho vot hinh anh 2
 
No3. Tuổi Lợn   Suy nghĩ lạc quan, tính cách điềm đạm, hay mộng mơ là điều không khó nhận ra ở người tuổi Hợi. Trong tình yêu, con giáp này như một đứa trẻ không bao giờ lớn, lúc nào cũng mơ ước về một tình yêu cổ tích, ngập tràn sự lãng mạn và một cái kết có hậu.    Dẫu trong lòng nghĩ vậy, nhưng họ lại hiếm khi thể hiện ra bên ngoài. Ngược lại, con giáp này “yêu cho roi cho vọt”, nên chẳng mấy khi nói những lời yêu thương ngọt ngào nào.    Với người tuổi Lợn, sự giận hờn, ghen tuông là thứ gia vị cần thiết để tình yêu có thể kéo dài và thăng hoa. Sau mỗi trận cãi vã, hai bên càng thêm hiểu nhau và tìm ra cách xử lý mọi chuyện.  
=> Xem thêm: Tử vi trọn đời chuẩn xác theo Lịch âm

Hoàng Lam     3 con giáp phải học cách lùi một bước để tiến nhiều bước trong sự nghiệp
Ai cũng hy vọng bản thân có sự nghiệp thành công, ngoài kỹ năng và sự may mắn thì thái độ là nhân tố không thể thiếu. Ba con giáp sau muốn thăng tiến cần phải

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 con giáp có kiểu yêu cho roi cho vọt

Đoán tính cách của bạn thông qua số lượng hoa tay - Nhân tướng - Xem Tử Vi

Đoán tính cách của bạn thông qua số lượng hoa tay, Nhân tướng, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Đoán tính cách của bạn thông qua số lượng hoa tay, tu vi Đoán tính cách của bạn thông qua số lượng hoa tay, tu vi Nhân tướng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đoán tính cách của bạn thông qua số lượng hoa tay

Số lượng hoa tay trên 2 bàn tay có thể tiết lộ rất nhiều thứ về con người bạn. Hãy xòe bàn tay ra, đếm số hoa tay và so với bài viết dưới đây để hiểu rõ hơn về chính con người mình nhé.

1. Không có hoa tay nào cả 

Bạn là một người khá ít nói, trầm tính nhưng đấy là chỉ trong giao tiếp đời thường thôi. Mỗi khi online, bạn nói khá nhiều, nhiều đến nỗi chẳng ai ngờ đó là bạn. Ngoại hình khá ổn, có vài tài lẻ, cộng thêm sự lạnh lùng vốn có khiến bạn luôn trở thành “tâm điểm” của khá nhiều người. Bạn được khá nhiều người khác giới theo đuổi, nhưng lại thường không chủ động trong tình yêu cho lắm nên phần lớn là người ấy chủ động thôi.

2. Một hoa tay

Thực tế bạn không phải là người viết đẹp hay vẽ đẹp, nhưng bù lại bạn nấu ăn cực ổn. Bất cứ món ăn nào mới, bạn chỉ cần học một lúc là có thể làm ngon như đã biết làm từ lâu rồi. Thêm vào đó bạn là một người khá ân cần chu đáo. Phần lớn những người quen bạn đều nhận thấy ở bạn một sự tốt bụng đến chân thành, chính bởi thế mà bạn luôn được mọi người tin tưởng để chia sẻ mọi điều. Tuy nhiên, bạn lại là người hơi cả tin, nên đôi khi bị “lừa” mà không biết. Bạn là một khuôn mẫu hoàn hảo cho con người của gia đình.

3. Hai hoa tay

Bạn vẽ cũng tàm tạm, tóm lại là nếu nhìn một hình để vẽ lại thì chính xác khoảng 70%. Trên thực tế bạn là một người khá cầu toàn trong mọi chuyện. Bất cứ thứ gì hay bất cứ điều gì nếu không làm thì thôi nhưng một khi đã đụng tay vào thì bạn muốn hoàn thành thật xuất sắc. Bạn là người khá vui tính bởi thế luôn là tâm điểm của những cuộc vui. Tuy nhiên, bạn không phải là người kiên định mà buồn vui thất thường. Và thực tế cho thấy mỗi khi buồn thì bạn thường có khuynh hướng suy nghĩ hơi tiêu cực. Bạn khá được lòng người khác giới.

4. Ba hoa tay

Có vẻ bạn là một người luôn được thầy cô chú ý về khoản chữ viết vì thực tế là khá khó đọc. Bạn là một người khá năng động, nhiệt tình hoạt bát nhưng đôi khi cũng hơi lanh chanh. Bạn được khá nhiều người yêu quý đặc biệt là những người lớn tuổi bởi cách cư xử thông minh và đúng mực của mình. Tuy nhiên, điểm yếu là nói năng không suy nghĩ, bởi thế bạn thường đưa ra những nhận xét hay lời nói làm mất lòng bạn bè. Tất nhiên là cũng có người không để bụng vì biết tính bạn nhưng cũng có nhiều người không thích chút nào.

5. Bốn hoa tay

Bạn là một người vẽ không có đẹp gì cả. Trong mắt mọi người bạn là một người sống độc lập và suy nghĩ khá ổn. Bạn có vẻ là chỗ dựa vững chắc cho khá nhiều người. Bạn cũng là người sống hòa đồng và hết mình vì người khác, một ưu điểm khá hoàn hảo. Tuy nhiên, bạn lại là người không biết cách kiềm chế cảm xúc, bạn dễ nổi giận và đôi khi vô cớ “giận cá chém thớt”. Chính bạn đôi khi cũng không hiểu tại sao mình lại như thế. Điều này làm bạn mất điểm kha khá trong mắt người khác đấy.

6. Năm hoa tay

Bạn là một người có thể nói là khá thẳng thắn và có chính kiến. Bạn luôn quan tâm tới bạn bè và người thân và có thể nói bạn là chỗ dựa tinh thần cho khá nhiều người. Tuy nhiên, điểm yếu là bạn chưa biết cách cư xử thực sự đúng mực, đôi khi hơi thái quá trong công việc và điều này khiến nhiều người không thích bạn.

6. Sáu hoa tay

Bạn là một người có khả năng vẽ. Trong cuộc sống của mình bạn là một người cực kỳ thân thiện, bạn cũng là một người khá lạc quan trong cuộc sống. Nếu như những người khác chỉ biết ngồi than thở thì bạn thực hiện bằng hành động. Đơn giản vì theo bạn, hành động thực tế sẽ chứng minh cho khả năng của bạn. Bạn nói chuyện khá có duyên vì thế có thể vẻ ngoài của bạn không nổi bật nhưng lại được khá nhiều người theo đuổi. Bạn có ước mơ nhưng bạn chưa thực sự tin vào khả năng của mình.

7. Bảy hoa tay

Trong những bức tranh của mình bạn thể hiện sự thông minh và khéo léo trong cách vẽ. Bạn là người khá thông minh và am hiểu nhiều vấn đề, nhưng lại dễ bị “lôi kéo” nên bạn thường chơi nhiều hơn là học. Bạn cũng hay nói nhiều và điều này mang lại thành công nhất định nhưng đôi khi nó cũng mang đến những vấn đề dở khóc dở cười.

8. Tám hoa tay

Trong mắt mọi người bạn là một người khá hoàn hảo, từ vẻ ngoài cho đến con người bên trong. Bạn luôn tỏ ra là một người am hiểu và cực kì cứng rắn. Tuy nhiên con người bên trong bạn lại không được như thế, bạn am hiểu nhưng tâm lí không vững vàng nên dễ bị dao động. Bạn cũng là người sống khá tình cảm và ngọt ngào. Tuy nhiên cũng vì quá  am hiểu nên chỉ có người thực sự hiểu bạn mới có thể đi cùng bạn suốt đời được.

9. Chín hoa tay

Một con người sáng tạo mang đầy những phong cách mới lạ chính là bạn. Trong bất cứ điều gì bạn đều tìm ra được sự thú vị và mới mẻ. Dù việc đó có nhàm chán đến đâu, chỉ cần bạn thổi bùng ngọn lửa khí thế là ai cũng muốn làm. Bạn khá mạnh mẽ và đứng đắn. Bạn có tố chất của một người lãnh đạo và chỉ huy người khác. Tuy nhiên đôi khi bạn hơi lạm dụng quyền hành và tự cao vì thế gây không ít hiểu nhầm cho bạn bè và người thân.

10. Mười hoa tay

Chữ bạn không đẹp nhưng khá rõ ràng và dễ nhìn. Vì sở hữu 10 hoa tay nên có thể nói vẽ chính là năng khiếu thiên bẩm của bạn. Bề ngoài trông bạn có vẻ hơi bất cần đời, nghịch ngợm nhưng bên trong bạn lại cực kỳ sâu sắc. Bạn biết khi nào nên vui hết mình nhưng cũng biết đâu là điểm dừng đúng lúc. Có những lúc bạn cười thoải mái, trêu bạn bè nhưng cũng có lúc bạn đưa ra những lời khuyên đúng đắn và chân thành. Bạn học hành khá ổn và thêm một điều nữa là bạn rất thích cây cối.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán tính cách của bạn thông qua số lượng hoa tay - Nhân tướng - Xem Tử Vi

Tụng kinh niệm Phật thành tâm, nhớ kĩ 12 điều căn cốt

Niệm Phật mà không hiểu Phật thì không có ý nghĩa gì hết. 12 điểm lưu ý tụng kinh niệm Phật dưới đây phải ghi nhớ thật kĩ trước khi bước vào Phật đường.
Tụng kinh niệm Phật thành tâm, nhớ kĩ 12 điều căn cốt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày nay người tụng kinh niệm Phật không nhất định phái xuất gia tu hành, chỉ cần có lòng, bất cứ ai cũng có thể hướng Phật. Nhưng niệm Phật mà không hiểu Phật thì không có ý nghĩa gì hết. 12 điểm lưu ý tụng kinh niệm Phật dưới đây phải ghi nhớ thật kĩ trước khi bước vào Phật đường.

Tung kinh niem Phat thanh tam, nho ki 12 dieu can cot
 

1. Chuyên tâm

  Phật giáo có khối lượng kinh sách khổng lồ, chứa đựng kho tàng kiến thức vô cùng uyên thâm, chưa ai có thể tự xưng là thấu hiểu hết. Người mới bắt đầu hay người đã theo con đường Phật pháp từ lâu khi đứng trước kiến thức Phật giáo đều như người mới, thiếu hiểu biết.   Vậy làm thế nào để tụng kinh niệm Phật hiệu quả? Hãy chuyên tâm tụng niệm một quyển, không nên tham lam mà tìm hiểu nhiều quyển một lúc. Chuyên tâm thì mới hiểu thấu, giáo lý nhà Phật không cốt ở nhiều mà cốt ở sâu, không quan trọng bạn đã đọc qua bao nhiêu quyển kinh mà chủ yếu bạn có thể hiểu bao nhiêu quyển kinh.   Phật tử chân chính, có lòng hướng Phật tức là ngộ ra chân lý từ kinh sách, đọc một quyển mà kiến sức sâu dày, hiểu được toàn bộ chân lý mà kinh muốn truyển tải thì còn có ích hơn đọc muôn vàn quyển nhưng chẳng đọng lại điều gì.  

2. Số lần đọc kinh

  Lưu ý khi tụng kinh niệm Phật là số lần đọc kinh trong ngày không thể quá ít ỏi, bởi thời gian ngắn không thấm nhuần được tư tưởng của Phật giáo, cần phải học tập chuyên tâm mới cho kết quả tốt. Định khóa của mỗi lần đọc kinh là một giờ, mỗi ngày 3 định khóa sáng trưa chiều tối. Nếu có điều kiện đọc nhiều hơn thì càng tốt.   Nhiều người coi việc tụng niệm là để cho vui, thích đọc lúc nào thì đọc, như vậy không đủ thành tâm. Phật giáo khuyến khích con người tu dưỡng theo khuôn khổ, việc đọc kinh hàng ngày vào những giờ cố định chính là một trong những phương pháp tu hành, góp phần tạo thói quen tốt.
Xem thêm bài viết 6 đạo lý cơ bản của việc tụng kinh niệm Phật
 

3. Đọc kinh thành thục

  Nếu tụng niệm một quyển kinh đã lâu mà vẫn không thành thục, chứng tỏ chưa đủ chuyên tâm, tụng cho có chứ không suy nghĩ, lời kinh như nước chảy mây trôi, vô nghĩa. Đọc kinh không chỉ đọc bằng miệng mà còn phải đọc bằng trí, vừa đọc vừa ngẫm, thấm nhuần từng lời.   Đó chính là phương pháp tư duy để lĩnh hội được những tinh túy trong kinh văn. Nói cách khác, đọc kinh cũng như đọc sách, phải tập trung, chuyên chú, vừa đọc vừa hiểu.  

4. Đọc chính xác từng chữ

  Nhiều người cho rằng việc đọc chính xác từng chữ trong kinh văn là rất khó và không cần thiết, chỉ cần hiểu ý đúng là được. Thực ra, ý nghĩa của việc tụng kinh niệm Phật không phải ở chỗ đọc đúng từng chi tiết nhưng việc đọc đúng thể hiện sự chuyên tâm và kính Phật, tôn trọng tri thức.   Việc lưu tâm tới từng chữ từng dòng thể hiện thái độ đúng mực của người theo Phật, không sai lệch, không thêm bớt. Đọc đúng cũng là một cách rèn luyện tính nhẫn nại, cẩn trọng và ti mỉ cho người tu hành.   

5. Tốc độ ổn định

  Đọc nhiều sẽ thành quen, thành thuộc nên đọc nhanh hơn so với khi chưa thuộc nhưng người đọc kinh hãy giữ tốc độ trầm ổn, đều đặn, không quá nhanh cũng không quá chậm, không vội vàng mà không quá ngắc ngứ. Điều này thể hiện sự tĩnh tâm, tu dưỡng tốt đẹp.   Đọc kinh chuyên tâm, tạo thành nhịp điệu, hướng con người tới thế giới Phật học. Đây cũng là cách giúp bạn tập trung, không xao nhãng, chuyên chú vào những kiến thức có trong cuốn kinh.  

6. Nhịp điệu thông thuận


tung kinh huong phat
 
Khó khăn nhất trong quá trình tụng kinh niệm Phật là giữ nhịp đọc đều, vững vàng, hết lần này tới lần khác, từ đầu đến cuối không bị gián đoạn, không ngừng nghỉ, không mất tập trung. Khi vào khóa tụng, hãy chuẩn bị thật chu đáo, kĩ càng sao cho không có việc gì để phải dừng lại giữa chừng.   Quy định này đặc biệt có lợi cho sự tập trung, dòng chảy kinh văn không ngắt quãng, nhập tâm thì cả người đều thoải mái, tĩnh tọa, chỉ nghĩ tới những điều tốt điều lành của Phật pháp mà không phải bận tâm tới điều gì khác.   Nguyên tắc khi đọc kinh là không đọc to mà đọc vừa, rõ ràng mạch lạc, trôi chảy thông suốt, giữ khí ở đan điền rồi từ từ thoát ra. Như vậy sẽ giữ được sức để hoàn thành khó tụng mà không bị mệt, không kiệt sức.  

7. Đặt đồ ngọt trong miệng

  Trong quá trình tụng niệm, hãy đặt một viên kẹo hoặc viên đường ở dưới đầu lưỡi. Việc này có tác dụng chống khô miệng, chống bốc hỏa, bổ sung năng lượng. Người tụng kinh lâu rất dễ mất giọng, giọng đọc trầm bổng thất thường, càng đọc lâu tình trạng càng nghiêm trọng, phải thường xuyên uống nước, làm cách này sẽ hạn chế đau cổ và khát nước.
Xem thêm bài viết Tụng kinh - nghi thức dưỡng tâm tâm linh
 

8. Sinh lòng cung kính

  Làm bất cứ chuyện gì thì quan trọng nhất vẫn là thái độ, thái độ sẽ quyết định việc tụng niệm của bạn có ý nghĩa hay không. Tụng kinh nhất định phải hướng về chân tâm với tâm niệm: "Nguyện lấy công đức này, Trang Nghiêm Phật Tịnh Thổ". Đọc có sai sót nhưng chân tâm thì sai đâu cũng có thể bỏ qua, đọc đúng chuẩn chỉ mà không có lòng thì vô dụng.   Hướng Phật có tâm cung kinh, thanh tịnh là tôn trọng chính mình, tôn trọng tam bảo, tôn trọng Đức Phật và kiến thức hàng ngàn năm Phật học. Đọc để thấm nhuần tư tưởng, giác ngộ đạo lý, mở lòng mình ra mà đón nhận một cách tha thiết, rộng rãi, đó mới đích thực là đọc kinh đúng cách.  

9. Sinh lòng pháp hỉ

  Khi tụng niệm, trong lòng có tràn ngập pháp hỉ hay không? Lúc có lúc không, người có người không, lúc tâm trạng tốt thì pháp hỉ dâng cao, lúc tâm trạng không tốt thì tụng thế nào cũng không thấy pháp hỉ. Điều này là do tinh thần chưa thực sự sẵn sàng, vẫn còn bị chi phối bởi những việc bên lề.   Chỉ khi nào pháp hỉ dâng lên bất kể tâm trạng, đã đọc kinh hướng Phật thì chỉ quan tâm tới kinh, tới Phật pháp, trong lòng hoan hỉ, mong chờ và thanh thản thì đó mới đích thực là đạt tới cảnh giới chuẩn xác của người đọc kinh. Lúc này, tâm thanh lòng tịnh, làm gì cũng tốt lành.  

10. Không nghĩ bậy bạ

  Đứng trước tam bảo, miệng đọc kinh kệ tuyệt đối không thể nghĩ bậy bạ, không thể nghĩ tới xấu xa độc ác hại người. Càng đọc kinh càng tỉnh, càng giác ngộ được mọi điều, không còn tính toán, không nổi tham sân si, không bon chen với người, không để những việc đời thường quấy nhiễu.   Nếu vừa đọc kinh mà lòng lại nghĩ tới bao biến cố, bao nhiễu nhương thì đúng là đọc kinh mất công rồi. Đọc kinh ngăn trở cái ác, nảy sinh thiện hạnh, chỉ nghĩ tới những điều tốt đẹp, những tri thức mới mẻ thì lúc đó đọc kinh niệm Phật đã trở thành lợi ích vô biên rồi.  

11. Tự nhiên thông thuộc


y nghi cua viec tung kinh niem phat
 
Có nhiều người theo sư phụ đọc kinh không cần nhìn theo sách vở, người không biết chữ, người già cả nhìn không rõ cũng có thể đọc theo. Điều này chẳng có gì xấu, trái lại chính những đối tượng này lại là người chuyên tâm nhất, chịu khó nhất. Vì không thể tự đọc nên cố gắng lắng nghe và đọc theo, lời kinh tự nhiên thông thuộc, thấm nhuần vào mình.   Kể cả người có thể tự đọc cũng nên rèn luyện theo phương pháp này, có thể tập trung và tĩnh tâm hơn, không cần nhìn chăm chăm vào sách vở. Quá trình ấy tự nhiên, không gượng ép, đầu óc khai mở, mọi thứ giác ngộ ở mức cao nhất. Nếu học theo cách này thì nên tới chùa, hòa cùng nhiều người khác để tụng niệm hiệu quả, không khí cũng tốt hơn rất nhiều.
Xem thêm bài viết Hướng dẫn tụng kinh cho Phật tử tại gia

12. Khai tâm cởi bỏ ngu muội

  Khi nói tới tu hành, muốn tu giới, định, tuệ thì không thể thiếu việc tụng kinh niệm Phật. Quá trình ấy bao gồm đủ cả giới, định, tuệ, khai ngộ và cởi bỏ rất nhiều những khúc mắc trong lòng, giống như cả tâm tình được rộng rãi, phóng khoáng hơn.   Vì sao? Vì tụng kinh hiểu kinh sẽ không phạm giới, vì lẽ đó tự nhiên nắm được giới. Chuyên tâm tụng kinh chính là có định, trải qua tụng niệm lâu dài thì dĩ nhiên có tuệ, hiểu nhân tình thế thái, hiểu lý lẽ và nguyên tắc đúng sai, bồi dưỡng cho mình sự phong phú và giàu có trong tâm hồn. 
Ma quỷ trong Phật giáo - u mê còn đáng sợ hơn quỷ dữ Nhân duyên vợ chồng - vượt sinh tử tìm nhau, xin đừng phụ chân tình Những bài kinh Phật hay cho Phật tử tu tại gia

Tâm Lan

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tụng kinh niệm Phật thành tâm, nhớ kĩ 12 điều căn cốt

Chùa Linh Thông - Hà Nội

Chùa Linh Thông tọa lạc tại số 40 phố Lê Đại Hành, quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội. Chùa có tên gọi khác là chùa Vân Hồ hay chùa Tào Sách
Chùa Linh Thông - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Linh Thông tọa lạc tại số 40 phố Lê Đại Hành, quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội. Chùa được Ni sư Thích Đàm Hợp trụ trì.

Chùa có tên gọi khác là chùa Vân Hồ hay chùa Tào Sách. Tương truyền, chùa được xây từ thời Trần, trên nền cũ Độc thư viện của hoàng tử Uy Đô Linh Lang, người đã có công đánh giặc cứu nước.

Chùa được Sư ni Tịch Định cho trùng tu đổi tên chùa Linh Thông vào năm 1814. Năm 1850, Sư ni Chiếu Tố cho xây lại chánh điện, tiền đường, tạc tượng và đúc chuông. Năm 1940, do xây dựng đô thị, Ni trưởng Thích Đàm Phận đã cho dời chánh điện xây phía sau nhà Tổ.

Chùa là ngôi Tổ đình Ni của Hà Nội, là trường đào tạo Ni từ năm 1949 đến năm 1957. Chùa là điểm An cư kiết hạ hàng năm cho chư Ni ở Hà Nội. Chùa Linh Thông thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1988.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Linh Thông - Hà Nội

Quẻ Quan Âm: Mã Tiền Phúc Thủy

Quẻ Quan Âm thứ 64 Mã Tiền thúc thủy là quẻ hạ thuộc cung Mão, mọi việc mong cầu không được như ý mà còn phải đề phòng tai họa có thể tới, cần đề phòng
Quẻ Quan Âm: Mã Tiền Phúc Thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 64 được xây dựng trên điển cố: Mã tiền phúc thủy – hay Đổ nước trước ngựa.

Đây là quẻ hạ, thuộc cung Mão. Quẻ này là tượng cá mắc lưới, dù hết sức cố gắng cũng không cách nào thoát thân. Dù ở yên trong nhà cũng vẫn có chuyện xảy đến. Chi bằng tỉnh táo mà phát hiện ra vấn đề, nhanh nhẹn tránh được tai họa khi nó chưa ập tới.

Thử quái ngư tao la võng chi tượng. Phàm sự diệc nghi đề phòng dã.

Điển cố quẻ Quan Âm: Mã tiền phúc thủy

Đời nhà Hán, có một người tên là Chu Mãi Thần (không rõ năm sinh -111 tr. CN), gia đình rất nghèo, phải kiếm củi bán để sinh sống, nhưng anh lại rất thích đọc sách. Thường ngày, sau khi chặt củi xong, trên đường gánh củi về nhà, anh vừa đi đường vừa đọc sách.

Thời gian dần trôi, Chu Mãi Thần và Thôi thị kết thành vợ chồng. Sau khi kết hôn, Thôi thị cũng cùng với Chu Mãi Thần lên núi đốn củi, thấy anh vẫn mải mê đọc sách như ngày trước, nên thường ngăn cản. Nhưng Chu Mãi Thần chỉ coi lời của Thôi thị như gió thoảng qua tai. Người vợ cảm thấy chung sống với Chu Mãi Thần thật đáng xấu hổ, nên xin Chu Mãi Thần cho mình ly hôn. Chu Mãi Thần cười mà nói: “Đến năm mươi tuổi nhất định ta sẽ trở nên giàu có, nay đã hơn bốn mươi tuổi rồi. Những ngày khổ cực sắp qua, nàng cùng ta khố cực đã lâu, hãy chờ thêm chút nữa, đợi ta được phú quý rồi thì nàng sẽ được sống những tháng ngày vui vẻ!” Thôi thị nghe vậy, rất tức giận, cười giễu cợt rằng: “Người như anh thì sớm muộn gì cũng chết ở nơi cống rãnh, làm sao mà có được phú quý vinh hoa gì?”

Một hôm, trời rất lạnh, lại xuất hiện một trận tuyết lớn, Thôi thị vẫn bắt Chu Mãi Thần lên núi đốn củi. Tuy bụng đói, nhưng Chu Mãi Thần cũng không nói gì. Chu Mãi Thần bước chân ra cửa trước, thì Thôi thị cũng đi ra cửa sau. Thì ra Thôi thị đã nhờ bà mối tìm cho mình một người chồng mới là gã thợ mộc họ Trương giàu có, nên thừa lúc Chu Mãi Thần lên núi đốn củi, đã đi ra ngoài cùng bà mối và gã thợ mộc họ Trương bàn bạc làm thế nào để bỏ được Chu Mãi Thần, tái giá với họ Trương.

Chu Mãi Thần hái củi trở về, vừa bước vào nhà, Thôi thị đã thúc giục viết đơn ly hôn. Chu Mãi Thần chỉ biết cầu xin vợ hãy cho mình chút thời gian, đợi khi thi cử đỗ đạt, sẽ có được cuộc sống tốt hơn. Nhưng Thôi thị vẫn khăng khăng rằng, cho dù sau này Chu Mãi Thần có làm quan lớn giàu sang, mình dù có đi ăn xin cũng không thèm đi tìm Chu Mã Thần. Chu Mãi Thần thấy cô ta vô tình đến vậy, chỉ còn cách nuốt lệ viết giấy ly hôn.

Những tháng ngày sau đó, cuộc sống của Chu Mãi Thần càng thêm khổ sờ. Đến khoảng tháng ba, Chu Mãi Thần đang gánh củi qua nghĩa địa, vừa đi vừa hát, tình cờ gặp Thôi thị cùng với chồng đi tảo mộ. Thôi thị thấy Chu Mãi Thần vừa đói vừa rét trông rất thảm hại, liền gọi Chu Mãi Thần đến nhà, nấu cơm cho ăn.

Lại mấy năm nữa trôi qua, Chu Mãi Thần đi theo quan Thượng kế lại, hộ tống xe hành lý đến Trường An. Chu Mãi Thần gặp người đồng hương là Nghiêm Trợ. Nghiêm Trợ vốn rất tán thưởng tài năng của Chu Mãi Thần, bèn tiến cử Chu Mãi Thần với hoàng đế. Sau đó, Chu Mãi Thần được nhậm chức Thái thú ở Cối Kê.

Trên đường đi nhậm chức, ngang qua đất Ngô, Chu Mãi Thần bất ngờ gặp lại người vợ khi trước là Thôi thị đang cùng chồng sửa đường, liền dừng xe, lại lệnh cho xe ngựa phía sau chở họ về phủ, sắp xếp chỗ nghỉ ngơi cho hai vợ chồng họ. Thôi thị ở trong phủ Thái thú, trong lòng ngày càng thấy không cam tâm, vì gã thợ mộc làm sao có thể sánh được với Thái thú? Cô ta không thích người chồng hiện tại nữa, mà muốn quay lại với Chu Mãi Thần.

Một hôm, Chu Mãi Thần lên ngựa đang định đi tuần, thì thấy Thôi thị đầu bù tóc rối, hai chân để trần, lao đến trước mặt Chu Mãi Thần, khẩn khoản cầu xin Chu Mãi Thần cho mình được trở về nhà họ Chu. Chu Mãi Thần ngồi trên ngựa, không chút động lòng, chỉ sai người bưng đến một chậu nước sạch, đổ xuống phía trước con ngựa (mã tiền thúc thủy). Rồi nói với Thôi thị rằng, nếu cô ta có thể gom được nước trở về trong chậu, mình sẽ đồng ý cho cô trở về.

Thôi thị nghe vậy, vô cùng hổ thẹn, không biết nói gì, bèn quay người bỏ đi.

Đại học sân khấu Việt Nam đã dàn dựng vở chèo Chu Mãi Thần, bạn có thể xem tại đây.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Mã Tiền Phúc Thủy

Tướng ngón tay cái nói gì về bạn? –

Bạn là có tấm lòng rộng mở hay ngang bướng, bảo thủ? Xòe bàn tay và ngắm ngón tay ngay nào! 1. Về độ dẻo của ngón Đầu tiên, bạn hãy nắm chặt bốn ngón tay còn lại, ngón cái căng ra tới mức tối đa có thể. - Những người có ngón cái càng sát với 4 ngón c
Tướng ngón tay cái nói gì về bạn? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng ngón tay cái nói gì về bạn? –

Cách lựa chọn ghế sofa phù hợp với cá tính của bạn

Sofa không chỉ là vật trang trí cần thiết cho không gian phòng khách, trong cuộc sống hiện đại, nó còn là người bạn thân thiết, thể hiện cá tính của chủ nhà.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có nhiều tiêu chí để lựa chọn một chiếc sofa phù hợp. Ngoài việc chọn theo hình dáng, diện tích, phong cách...của phòng khách, còn có cách lựa chọn sofa theo tính cách của chủ nhà. Theo đó, hãy chọn một chiếc sofa có kiểu dáng, màu sắc, chất liệu phù hợp với bản thân để bạn luôn cảm thấy cuộc sống thật thoải mái, tiện nghi.    Dưới đây là những tiêu chí cụ thể để bạn dễ dàng lựa chọn được một chiếc sofa phù hợp với tính cách của mình:   chọn sofa

 

(Theo Vnxpress)

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách lựa chọn ghế sofa phù hợp với cá tính của bạn

Có nên cưới trong tháng cô hồn, tháng 7 âm có cưới được không?

1 năm 365 ngày, có nên cưới trong tháng cô hồn không? Cưới vào tháng này có gì cần phải chú ý? Hãy cùng theo dõi câu trả lời của chuyên gia phong thủy nhé.
Có nên cưới trong tháng cô hồn, tháng 7 âm có cưới được không?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Cưới xin là chuyện trọng đại cả đời người. Từ xa xưa, các cụ đã có lệ chọn ngày lành tháng tốt cho đôi trẻ nên duyên, cầu mong cho hai vợ chồng hôn nhân hạnh phúc, sung túc. Một năm có 12 tháng, cưới tháng nào thì tốt? Có nhiều người nói rằng, tháng nào cũng có thể tổ chức đám cưới, nhưng tuyệt đối không nên cưới trong tháng cô hồn, tức tháng 7 âm lịch.


co nen cuoi trong thang co hon
 
  Ngày nay mọi người có suy nghĩ thoáng hơn, không còn giữ nhiều điều kiêng kị trong dân gian như xa xưa nữa. Tuy nhiên cũng vẫn có rất nhiều luồng tư tưởng trái ngược nhau, Lịch ngày tốt nhận được nhiều chia sẻ cũng như những tâm sự của các cặp đôi sắp bước chân vào ngưỡng cửa hôn nhân, băn khoăn rất nhiều về vấn đề có nên cưới trong tháng cô hồn hay không. Hôm nay, chúng tôi xin mạn phép chia sẻ một vài góc nhìn của độc giả cũng như giải đáp của chuyên gia phong thủy về vấn đề tháng 7 âm có cưới được không, hy vọng có thể giúp được các bạn giải tỏa tâm lý, có đám cưới hạnh phúc cũng như hôn nhân như ý.  

1. Có nên cưới trong tháng cô hồn hay không?

  Huyền và Minh sắp cưới trong tháng tới, cũng chính là tháng 7 âm lịch, tháng cô hồn. Chúng tôi nhận được inbox với nhiều nỗi băn khoăn và hoang mang vì ngày cưới sắp tới rơi đúng vào tháng cô hồn.   Huyền bộc bạch: “Ban đầu khi định cưới, chúng em cũng không nghĩ gì nhiều, đơn giản các cụ đi xem ngày nào tốt thì cưới ngày đó thôi. Tới khi nhà trai đi xem và thông báo cho nhà em thì lại là ngày 17 tháng 7 âm lịch. Bố mẹ em có đôi chút ngỡ ngàng, vì theo lệ thường tháng cô hồn nào ai làm đám cưới, trừ khi có chuyện đặng chẳng đừng, mà hai đứa chúng em thì đâu có phải “bác sĩ bảo cưới”.   Bên nhà trai chắc cũng hiểu nên có phân bua rằng đi xem ngày, thầy nói ngày đó hợp với mệnh của cả em và chồng sắp cưới, dù trong tháng xấu thì vẫn có ngày đẹp. Bố mẹ em cũng không tiện nói gì, vì dù sao chuyện cưới xin cũng là do nhà trai quyết định. Cô dì chú bác mọi người cũng góp ý, song bố mẹ em chỉ nói, nhà trai đã định ngày vậy thì cứ thế mà cưới, không được bàn ra tán vào nhiều.

Mời bạn xem thêm: 10 điều đặc biệt kiêng kị trong đám cưới miền Bắc.


cuoi thang co hon co nen khong
 
  Tới khi đi mời cưới thì mọi người ai cũng ngạc nhiên, sau đó xì xào liệu có phải hai đứa em làm gì không mà phải “cưới chạy” như thế, có thanh minh cũng chẳng xuể. Bạn bè em đứa thì bảo giờ thời buổi hiện đại, ai còn mê tín dị đoan mà tin mấy chuyện tháng cô hồn. Có đứa thì gở mồm, bảo chúng mày đúng là “điếc không sợ súng”, đến lúc có chuyện thì trắng mắt ra, bao tấm gương tày liếp cưới không kiêng kị, sau đấy làm ăn lụn bại, vợ chồng ly tán… đến lúc ấy hối cũng chẳng kịp.   Chỉ còn mấy tuần nữa là đến đám cưới rồi, lòng em ngổn ngang trăm mối. Ừ thì hôm đó là cô dâu xinh đẹp, nhưng em chỉ lo không biết sau đó có gặp phải điều gì xui rủi hay không. Lịch ngày tốt hãy cho em một câu trả lời nhé, cứ lo lắng như thế này chắc chưa đến ngày cưới em đã phát ốm vì suy nghĩ nhiều rồi mất.”  

2. Giải đáp của chuyên gia phong thủy

  Lịch ngày tốt đã kết nối với chuyên gia phong thủy, xin được chuyển lại tới Huyền câu trả lời về vấn đề có nên cưới trong tháng cô hồn hay không như sau.   Việc kết hôn, tổ chức đám cưới quan trọng nhất là sự tương hợp trong mệnh lý, bát tự của hai người, còn thời điểm kết hôn chỉ là yếu tố phụ, không phải là điều kiện tiên quyết. Chính vì thế nếu ngày cưới có rơi vào tháng 7 âm lịch, tháng cô hồn nhưng ngày đó lại hợp với mệnh của em và chồng chưa cưới thì cũng không có vấn đề gì.

Bạn đã biết cách Chọn ngày cưới hợp bát tự cho trăm năm hạnh phúc chưa?


thang co hon co nen cuoi khong
 
  Các cụ nói “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành” là cũng có lý của nó. Tổ chức đám cưới trong tháng này, em và gia đình cũng nên chú ý thêm một vài điểm sau.   Tháng cô hồn âm thịnh, dương suy, là thời điểm âm khí cực vượng, vong hồn ma quỷ nhiều, mọi người thường đốt vàng hương để báo hiếu tổ tiên, cũng làm lễ cúng chúng sinh cho vong hồn vất vưởng được siêu thoát. Chính vì thế điều đầu tiên khi cưới vào tháng 7 âm chính là chọn ngày hợp với bát tự của hai người, tuyệt đối tránh xung phạm.   Thứ hai, cô dâu chú rể trong thời điểm này đi đường không được tùy tiện nhặt đồ vật rơi vãi ngoài đường đem về nhà, dễ bị vong hồn đi theo quấy nhiễu, ảnh hưởng đến việc kết hôn.

Mời bạn xem thêm: 30 điều cấm kị trong tháng cô hồn tránh hồn xiêu phách lạc.
  Thứ ba, cô dâu cưới trong tháng cô hồn nếu có thể thì nên trang điểm theo tone hồng và mặc trang phục màu hồng, màu đỏ thay cho màu trắng để tăng thêm dương khí, phúc lộc dồi dào. Khi đón dâu, cố gắng không được khóc, nếu không dễ chiêu gọi vong hồn tới quấy rầy cha mẹ mình.   Thứ tư, tiệc cưới nên tổ chức vào lúc trưa, khi dương khí vượng nhất trong ngày. Khi diễn ra lễ cưới, tốt nhất nên nhờ người đàn ông tuổi Dần vào phòng cưới trước để dùng dương khí trấn phòng, dương khí vượng sẽ át bớt âm khí trong tháng cô hồn.   Ngoài ra, khi chọn ngày cưới, nên tránh các ngày 1, 15 và 30 âm lịch. Đây là thời điểm mọi người thường hay cúng bái, tế lễ chúng sinh, vong hồn cũng đặc biệt nhiều, sẽ không có lợi cho chuyện cưới hỏi. Nếu thấy vẫn lo lắng, có thể dùng một số vật phẩm phong thủy khai vận phù hợp với bản mệnh hay bùa bình an để trừ tai ách.   Trên đây là lời giải đáp của chuyên gia phong thủy về câu hỏi “Có nên cưới trong tháng cô hồn” của Huyền. Lịch ngày tốt hy vọng có thể giúp em có được đám cưới như ý, cũng mong các cặp đôi đang yêu và có ý định tiến tới hôn nhân sẽ có những lựa chọn thật ưng ý và có cuộc sống sau hôn nhân hạnh phúc bền lâu.   An An
Nhắc bạn 10 điều cấm kỵ trong tháng 7 âm lịch để tâm linh an ổn Infographic: Nên làm gì trong tháng cô hồn để không bị vong linh quấy quả? Trong tháng cô hồn kết hôn hoặc khai trương, nên hay không?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có nên cưới trong tháng cô hồn, tháng 7 âm có cưới được không?

Cách tính tháng âm lịch ứng với 12 địa chi

Địa chi là kiến thức tử vi cơ bản, thông qua 12 địa chi có thể đưa ra cách tính tháng âm lịch, tất cả đều tuân theo quy luật, có lý lẽ riêng.
Cách tính tháng âm lịch ứng với 12 địa chi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Địa chi là kiến thức tử vi cơ bản, được sử dụng khá nhiều trong các lĩnh vực đời sống. Thông qua 12 địa chi ứng đối với 12 tháng trong năm để tính thời gian, tất cả đều tuân theo quy luật, có lý lẽ riêng.


Cach tinh thang am lich ung voi 12 dia chi hinh anh
 
12 địa chi bao gồm Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Cùng với thiên can, địa chi là khái niệm tử vi hết sức cơ bản, quen thuộc và có tính ứng dụng cao. Người xưa lấy địa chi xứng đôi cùng thiên can tạo thành năm, tháng và giờ pháp kỷ. Quen thuộc nhất là dùng để xem bát tự, bát tự hợp hôn, tính tuổi vợ chồng, tính tuổi sinh, xem ngày tốt tháng lành.
  Phương pháp dùng can chi vào cách tính tháng âm lịch được ứng dụng để xem bát tự đời người. Bát tự tháng là dựa theo 24 tiết phân chia. Thực chất chính là 12 địa chi ứng với 12 tháng nông lịch. Phương pháp phân chia bát tự tháng khá đơn giản, dựa theo tháng dương lịch, một tháng có hai tiết, trước là lễ, sau là khí. Bát tự tháng sinh dựa vào trước lễ để phân kì.    Con số tương đương với tháng dương lịch giảm đi một chứ không phải là sắp xếp theo thứ tự giống như 12 địa chi. Tháng âm lịch bắt đầu từ Dần chứ không phải từ Tý. Lập Xuân là năm, dấu hiệu phân chia tháng giêng. 12 địa chi và bát tự tháng có quan hệ như sau: tháng giêng – Dần, tháng 2 – Mão, tháng 3 – Thìn, tháng 4 – Tỵ, tháng 5 – Ngọ, tháng 6 – Mùi, tháng 7 – Thân, tháng 8 – Dậu, tháng 9 – Tuất, tháng 10 – Hợi, tháng 11 – Tý, tháng 12 – Sửu.
Cach tinh thang am lich ung voi 12 dia chi hinh anh
 
Dần, Mão, Thìn theo lịch âm là tháng một, hai, ba mùa xuân, vạn vật nảy mầm sinh sôi nên là Tam hợp Mộc cục.
  Tỵ, Ngọ, Mùi theo âm lịch là tháng bốn, năm, sáu mùa hạ vạn vật nở hoa tươi tốt, thời tiết nóng bức, tức Tam hợp Hỏa cục.   Thân, Dậu, Tuất theo âm lịch là tháng bảy, tám, chín mùa thu vạn vật thành thục, xơ xác tiêu điều, tức Tam hợp Kim cục.   Hợi, Tý, Sửu theo cách tính tháng âm lịch là tháng mười, mười một, tháng chạp mùa đông, vạn vật cất chứa, quy về ngầm, băng tuyết bao trùm mặt đất, tức Tam hợp Thủy cục.
Luận giải lá số tử vi có thiên can địa chi tương xung Số mệnh đặc trưng của Lục Thập Hoa Giáp trong tử vi đẩu số (phần 4) Những kiến thức cơ bản về địa chi trong tử vi (phần 1)
Trần Hồng

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách tính tháng âm lịch ứng với 12 địa chi

Phong thủy tốt cho phòng làm việc của kế toán

Người làm công việc liên quan đến giấy tờ, sổ sách nên sắp xếp phòng sao cho hợp phong thủy để thu hút tài lộc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Chọn chỗ ngồi làm việc

Trước hết, vị trí làm việc phải đủ ánh sáng tự nhiên (như gần cửa sổ), bàn làm việc cần rộng rãi, bên trên đặt một chiếc đèn bàn. Bàn rộng, lượng công việc cũng nhiều, bàn ngăn nắp, sạch sẽ cho thấy năng lực bản thân tốt, hiệu quả làm việc cao.

Cọn ghế ngồi có độ cao phù hợp, có chỗ tựa lưng êm ái để đảm bảo có thể làm việc thoải mái trong thời gian dài. Tốt nhất nên chọn loại ghế có tay vịn, vì điều này cho thấy, loại ghế này khiến người ngồi trên đó đi tới đâu cũng có quý nhân phù trợ.


Bên cạnh đó, có thể đặt bình phong ngăn cách ở giữa để phân ranh giới rõ ràng giữa khu vực nghỉ ngơi và khu vực làm việc. Cũng có thể dùng ánh sáng đèn khác nhau cho khu vực khác nhau: khu vực nghỉ ngơi dùng ánh đèn màu vàng, mang lại cảm giác ấm cúng, còn khu vực làm việc dùng ánh sáng màu trắng để làm việc tập trung và có hiệu quả.

2. Cải tạo phòng làm việc để thu hút tài lộc

Những bước đơn giản dưới đây có thể khiến người làm công việc liên quan tới giấy tờ, sổ sách thay đổi được vận thế của mình:

- Trước hết, lăn sơn lại một lượt phòng làm việc của mình, chọn màu sắc tươi sáng, để nơi làm việc có sinh khí. Điều này giúp bạn có hứng thú với công việc.

- Tiếp đến, đặt 2 chậu cây tùng hoặc bách cảnh đặt ở 2 bên trái, phải phía sau bàn làm việc, cũng chính là vị trí Thanh Long, Bạch Hổ. Làm vậy. Điều này sẽ không chỉ khiến bạn làm việc có hiệu quả mà còn lấn át những kẻ xấu xung quanh bạn và đề phòng mất tiền ngoài ý muốn.

- Cuối cùng, bày 1 chậu “tụ bảo” (là cái bát để ngọc, hoặc những vật hình thỏi vàng, kim tiền) màu vàng kim lên trên tủ thấp kê bên phải bàn làm việc, trong chậu đặt một thỏi kim nguyên bảo. Như vậy, không những đại diện cho việc có thể kiếm được nhiều, mà còn có ý nghĩa giữ được tiền, không làm thất thoát tiền của.

(Theo Archi.vn)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy tốt cho phòng làm việc của kế toán

3 chòm sao phô trương thích trưởng giả học làm sang

3 chòm sao phô trương dưới đây, dù chẳng phải mới phất lên nhưng khí chất thì lại giống y hệt, nhất nhất trưng diện khoe của.
3 chòm sao phô trương thích trưởng giả học làm sang

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

"Nhà giàu mới nổi" vốn chẳng tốt đẹp gì, có tiền là phơi bày thanh thế một cách quá đà.

 
3 chom sao pho truong thich truong gia hoc lam sang hinh anh
 

Kim Ngưu

  Chòm sao yêu tiền như Kim Ngưu luôn có cảm giác tự hào về khối tài sản mà mình có được. Họ sống tiết kiệm, cóp nhặt và làm việc rất chăm chỉ để thỏa mãn ham muốn của bản thân. Nên khi đã thành công, đã kiếm được một khoản dù lớn hay bé thì Kim Ngưu cũng muốn cả thế giới biết đến thành tựu của mình.   Họ tiêu tiền, mua sắm, trưng diện, nhưng vốn không quen với chốn xa hoa nên cách thức của họ khá quê mùa, kệch cỡm và khiến người khác bàn tán. Chỉ có điều, chòm sao này vốn không quan tâm tới ánh nhìn của người khác, cứ tự do làm bản thân vui là được.
 

Sư Tử

  Chòm sao phô trương nhất vòng tròn hoàng đạo này luôn tìm đủ mọi chiêu trò để mình nổi bật nhất, đình đám nhất. mỗi ngày, Sư Tử đều lượn qua lượn lại, khoe khoang sự giàu có, thành đạt và hạnh phúc của bản thân, người khác có đồ gì đẹp họ cũng phải có bằng được để nhận được sự ngưỡng vọng của người khác. Có thể cuộc sống của họ tốt như vậy thật, cũng có thể không.   Tất nhiên, không ai rỗi hơi mà tung hô Sư Tử cả ngày. Cũng như khoe quá đà, bày lộ liễu như thế chỉ khiến người khác nghĩ rằng cung hoàng đạo Sư Tử đang “trưởng giả học làm sang”. Nhiều khi, cố gồng mình lên để sang chảnh cũng khiến chòm sao này mệt mỏi.  

Cự Giải

 
3 chom sao pho truong thich truong gia hoc lam sang hinh anh
 
Cự Giải rất hiền lành, nhưng lại là chòm sao ham hư vinh, thích hưởng thụ. Có chút tiền là Cự Giải trang bị phục sức lòe loẹt, trang sức đắt tiền, mặc kệ người khác nói mình là khoe của hay kệch cỡm. Họ chỉ muốn khiến mình lỗng lẫy hơn, ra dáng hơn.
  Có thể những thứ đó không phù hợp với Cự Giải nên họ không được đánh giá cao, thậm chí chi nhiều tiền nhưng lại chẳng hiệu quả, không được khen mà chỉ nhận chê.

Xem thêm: Cự Giải chỉ hạnh phúc khi ở bên chòm sao nào? 
Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 chòm sao phô trương thích trưởng giả học làm sang

Phương pháp cải thiện số mệnh cho người có bát tự khuyết Hỏa

Bát tự khuyết Hỏa là trường hợp trong ngày sinh tháng đẻ thiếu ngũ hành Hỏa, âm dương không cân bằng, bát tự không đăng đối, cần có biện pháp cải thiện.
Phương pháp cải thiện số mệnh cho người có bát tự khuyết Hỏa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bát tự khuyết Hỏa là trường hợp trong ngày sinh tháng đẻ thiếu ngũ hành Hỏa, âm dương không cân bằng, bát tự không đăng đối, cần có biện pháp cải thiện để số mệnh tốt hơn, vận trình hanh thông hơn.   Người có bát tự khuyết Hỏa đa phần sinh vào mùa đông, khoảng thời gian từ 18/11 đến 18/2 dương lịch. Người sinh vào tháng Hợi, Tý, Sửu và tháng Dần đầu xuân đều có bát tự lạnh giá, không đủ Hỏa trong mệnh. Do đó, dụng thần là Hoả, cũng gọi là “mệnh khuyết Hỏa”. Những người này bẩm sinh đã thiếu ngũ hành Hỏa, nảy sinh tình huống ngũ hành không đầy đủ, ảnh hưởng tới vận trình cuộc đời, nhất thiết phải có can thiệp.

Phuong phap cai thien so menh cho nguoi co bat tu khuyet Hoa hinh anh 2
 

1. Một số đặc điểm của người bát tự khuyết Hỏa

  Phương vị có lợi nhất đối với người này là phương Nam, phương vị bất lợi nhất là phương bắc và phương Tây Bắc. Sự nghiệp phát triển thuận lợi ở hướng Nam, Đông Nam, bất lợi ở hướng Bắc, Tây Bắc. Con số cát tường là 3, 4.   Bát tự thiếu ngũ hành Hỏa nên làm những nghề thuộc hành Hỏa, ví dụ như nghề có tính chất nhiệt độ, gia công sửa chữa, chất cháy nổ, thủ công, làm đồ trang sức, ánh sáng, quang học, chất đốt, dầu mỏ, rượu, thực phẩm, gia công máy móc, nhà xưởng, chế tạo, cắt tóc, hóa học,….    Những nghề như công nghệ thông tin, máy móc, kĩ thuật, công nhân kĩ thuật, chế tạo sản phẩm, nhiếp ảnh, cơ khí,… đều sẽ mang tới cho bạn cơ hội phát triển rộng mở, bù đắp thiếu hụt trong mệnh cách. Có thể thông qua màu sắc để điều chỉnh, bổ sung hành Hỏa, sức mạnh không hề thua kém phương vị, ngành nghề mà lại đơn giản, dễ áp dụng, bất cứ lúc nào cũng thực hiện được. Ý nghĩa màu sắc theo ngũ hành phân chia thành 5 nhóm màu kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Nên mặc trang phục, thêm trang sức phụ kiện màu ngũ hành Hỏa như đỏ, hồng, tím, cam hàng ngày. 

Xem thêm bài viết Cây hợp mệnh Hỏa giúp gia chủ giàu có, thịnh vượng 

Người khuyết Hỏa trong ngày tháng năm sinh nên bù đắp Hỏa tính, tạo thành thói quen thường xuyên. Không đầu cơ cổ phiếu vì cổ phiếu thuộc ngũ hành Kim, Thủy. Không nên tắm lúc sáng sớm. Nên hất tóc ra phía sau, để lộ trán. Túi áo nên cài bút màu đỏ hoặc khăn tay màu đỏ. Mặc áo khoác màu đỏ và bố trí thảm trải sàn nhà màu đỏ,…. 

Phuong phap cai thien so menh cho nguoi co bat tu khuyet Hoa hinh anh 2
 
Ngũ hành tương sinh tương khắc, hỗ trợ lẫn nhau, thiếu bất cứ một nguyên tố nào cũng đều không tốt. Thiếu Hỏa thì con người thiếu động lực, không có tinh thần phấn đấu nhiệt tình, cả ngày đa sầu đa cảm. Nếu bát tự khuyết Hỏa mà không bổ sung, bù đắp thì đối với sự nghiệp sẽ vô cùng bất lợi.

2. Biện pháp cải thiện bát tự khuyết Hỏa

 

2.1 Khai vận bù Hỏa

  Mang theo người thủy tinh tự nhiên là cách để bù Hỏa cấp tốc. Trong phong thủy, thủy tinh là vật phẩm ngưng tụ linh khí đất trời nhiều năm nên có tác dụng lớn với việc điều chỉnh ngũ hành. Nhắc nhở mọi người khi chọn thủy tinh phải hợp mệnh và làm lễ khai quang để phát huy tối đa tác dụng. Xem thêm bài viết Cách chọn đá phong thủy hợp tuổi phát tài phát lộc   Thủy tinh màu đỏ, thủy tinh màu hồng và thủy tinh màu vàng đều thuộc ngũ hành Hỏa, Trong đó, thủy tinh hồng có lợi cho tình yêu, hôn nhân và gia đình. Thủy tinh đỏ mang tới may mắn, thành công trong sự nghiệp. Thủy tinh tím là lời chúc may mắn, bình yên và tốt lành.   Quần áo ưu tiên đồ màu đỏ, màu tím, màu cà phê, màu vàng. Kể cả chăn ga gối đệm, phụ kiện, đồ dùng hàng ngày cũng nên dùng những màu này. Không nhất thiết phải là cũng một sắc đỏ thẫm, dùng màu đỏ tươi, hồng đào, đỏ nhạt cũng được; các màu khác cũng tương tự như vậy.  

2.2 Phong thủy nhà ở bù Hỏa

  Nơi ở chính là địa điểm mang tới sự cân bằng tốt nhất, bổ sung nguồn Hỏa khí cho bản mệnh. Kiến nghị người mà bát tự khuyết Hỏa phải ở nơi có ánh sáng mặt trời sung túc, mỗi sáng mở cửa sổ để mặt trời soi rọi vào khắp nơi, tăng cường dương khí, tuyệt đối không nên sống ở không gian quá khép kín.    Phòng ngủ và phòng vệ sinh tốt nhất là không nên liền kề nhau. Nhà vệ sinh thường âm u ẩm ướt thì buổi tối nên để sáng một ngọn đèn nhỏ, có thể tăng thêm dương khí, xua bớt âm khí. Thiết bị điện thuộc ngũ hành Hỏa nên trong nhà phải thường xuyên sử dụng.
Phuong phap cai thien so menh cho nguoi co bat tu khuyet Hoa hinh anh 2
 
Thảm trải nền chọn màu đỏ nhất là ở phòng khách và phòng làm việc, mùa đông duy trì ấm áp, dùng chăn màu đỏ. Nhà vệ sinh lúc nào cũng phải duy trì sạch sẽ, khoan khoái, nhẹ nhàng, giữ khô, không để nước chảy tràn lan. Nếu ở nhà chung cư thì hãy chọn tầng 2, 7, 12, 17 là hợp phong thủy nhất. Xem thêm bài viết: Mẹo áp dụng màu sắc trong phong thủy để có cuộc sống như mơ   Tối kị nhà bếp cạnh nhà vệ sinh, Thủy vượng Hỏa nhược hoặc phòng bếp và phòng vệ sinh thông nhau thì càng xấu. Trong nhà vệ sinh nên bày chậu hoa, cây cảnh để tăng cường Mộc khí, có lợi cho Hỏa bởi Mộc sinh Hỏa. Người bát tự khuyết Hỏa không thích hợp tắm lâu, ở lâu trong nhà vệ sinh.   Nhà không nên có bồn tắm mà tắm vòi hoa sen. Nếu muốn dùng bồn tắm thì nên sử dụng loại màu hồng hoặc màu cam, dùng muối tắm để thấm hút mồ hôi và tăng cường vận khí cho chính mình.   Góc Tây Bắc của nơi ở hãy đặt một chiếc máy sấy tóc, nhà trải thảm đỏ và trong nhà không thích hợp bố trí nhiều gương. Treo tranh phong thủy, tranh trang trí hãy chú trọng tới tranh mặt trời, tranh hoa quả nhiệt đới, tranh hoa mẫu đơn, tranh tuấn mã đồ, tranh lão hổ xuống núi, tranh báo,….
Hình tượng trưng cho Hoả là hình tam giác, chóp nhọn, tất cả hình chim, cò cũng là Hỏa. Hoa văn hình hổ báo, chim mỏ nhọn cũng thuộc Hỏa. Từ cửa sổ nhìn ra ngoài thấy vật kiến trúc nhọn cũng là Hỏa.
 
Nhà nuôi chó, mèo cũng là một cách để tăng cường vận may, cải thiện vận trình cho người có bát tự khuyết Hỏa. Chó, mèo là loài động vận có Hỏa tính mạnh, sẽ giúp bạn bổ sung nguồn năng lượng, lấp đầy những thiếu sót, kém may trong vận trình. Tốt nhất là chọn nuôi những con có lông màu cà phê. xem thêm bài viết Màu lông chó ảnh hưởng tốt xấu thế nào đến tài vận của gia chủ
Sao Cửu Tử cung Ly thuộc Hỏa, là ngôi sao may mắn hàng năm của mệnh khuyết khuyết Hỏa. Nếu ngôi sao này đi vào nơi Thổ sẽ mất đi thế của Hoả. Mệnh khuyết Hỏa nên dùng đất để trồng 4 chậu cây cảnh, dùng Mộc đến sinh vượng Sao Cửu Tử Hỏa tinh. Trên cây nên trang trí vài con bướm, được làm từ dải lụa màu đỏ, cũng có thể dùng dải lụa đỏ quấn lên cây.
 

2.3 Phương vị bù Hỏa

  Ngũ hành Hỏa là phương Nam nên thiếu Hỏa thì hãy chọn nơi ở, nơi làm việc ở phương này, sẽ rất có lợi cho việc triển khai kế hoạch, dự án của sự nghiệp và cuộc sống. Khi chọn nhà nên cố gắng chọn căn tọa Bắc hướng Nam, lưng quay về Bắc, mặt ngoảnh về Nam.    Hướng giường cũng tương tự như vậy, đẹp nhất là đầu giường hướng Nam hoặc Đông Nam. Nhà có cửa sổ hướng Nam hút Hỏa khí, mặt trời chiếu vào phòng khách thì rất cát lợi. Đi du lịch hãy hướng về phương Nam hoặc Đông Nam để chuyến đi có nhiều may mắn, cát tường.
Phuong phap cai thien so menh cho nguoi co bat tu khuyet Hoa hinh anh 2
 

2.4 Dưỡng sinh bù Hỏa

  Nên ăn nhiều táo đỏ, uống trà táo đỏ, bổ sung thịt dê, cà chua, bí đỏ, socola. Nữ giới làm đẹp cũng nên ưu tiên dùng mặt nạ cà chua. Ngoài ra mùa đồng ăn thêm đồ cay để tăng tính Hỏa trong người. Người mệnh khuyết Hỏa vào mỗi tối nên uống chút rượu vang đỏ hoặc loại rượu có công dụng dưỡng mệnh.   Những thực phẩm bù Hỏa rất tốt là cá, bào ngư, đông trùng hạ thảo, thịt gà, đậu phụ, sữa đậu nành, nước trái cây, hải sản tươi, sữa bò, tổ yến, bia, đồ uống lạnh, dưa hấu, dưa leo, bí đao, hạt vừng, trân châu, đậu đen, hải sâm, thịt lợn, mộc nhĩ đen, rong biển, khổ qua, mật ong, mướp, bầu, cá mực, tôm, hàu,…  

2.5 Nhân khí bù Hỏa

  Vì bản thân khuyết Hỏa, thiếu Hỏa nên cần có những người bên cạnh vượng Hỏa để bổ sung. Người này hãy kết hôn với bạn đời mệnh Hỏa, bát tự vượng Hỏa. Ngoài ra giao lưu, tăng cường kết bạn với những người có ngũ hành Hỏa thịnh vượng cũng rất tốt.   Nếu làm ăn kinh doanh thì nhất định nên chọn lựa cộng sự, đối tác, nhân viên có ngũ hành Hỏa vượng để trợ giúp cho mình thật tốt, làm ăn hanh thông thuận lợi. Có như vậy thì tài vận mới vượng.

Phương pháp cải thiện số mệnh của lá số tử vi khuyết Thủy Chỉ rõ bản chất của lá số tử vi khuyết Mộc Chỉ rõ bản chất của lá số tử vi mệnh khuyết Kim
  Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phương pháp cải thiện số mệnh cho người có bát tự khuyết Hỏa

Hóa giải sát khí trong phong thủy nhà ở bằng sơn hải trấn

Sơn hải trấn là vật phẩm phong thủy có tác dụng hóa sát, trấn trạch, bảo hộ bình an rất công hiệu. Nhưng do chưa được phổ biến rộng rãi nên sơn hải trấn còn
Hóa giải sát khí trong phong thủy nhà ở bằng sơn hải trấn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sơn hải trấn là vật phẩm phong thủy có tác dụng hóa sát, trấn trạch, bảo hộ bình an rất công hiệu. Nhưng do chưa được phổ biến rộng rãi nên sơn hải trấn còn khá mới mẻ với người dùng.

 
Hoa giai sat khi trong phong thuy nha o bang son hai tran hinh anh
 
Sơn hải trấn thực chất là một bức tranh phong thủy, ở giữa là bát quái Thái Cực, Nam bắc có Mặt Trăng, Mặt Trời, trung gian là tam sơn ngũ nhạc, bốn phía là ngũ hồ tứ hải. Sơn hải trấn với ý nghĩa dời non lấp biển, sắp xếp cục diện, có thể bài trừ sát khí, điên đảo âm dương. Cho nên đây thực sự là vật phẩm phong thủy cát tường.   Các trường hợp nên dùng sơn hải trấn như sau:   1. Thiên trảm sát: giữa hai nhà có khe hở hẹp như cây đao giáng xuống khiến người trong nhà gặp họa huyết quang, sự nghiệp không thuận, tiền tài hao tổn.   2. Phản cung sát: minh đường gặp dòng nước hoặc đường cái uốn cong như cây cung hướng vào nhà, con cháu bất hiếu.   3. Nhà đối diện hẻm ngõ: tiểu nhân rình rập, họa huyết quang kéo tới.   4. Bích đao sát: chủ họa huyết quang ngoài ý muốn, dương trạch bị nguy hại.   5. Minh đường bị nhà cao, núi cao chắn trước mặt, nhà trước cao sau thấp, không có lợi cho vận trạch.
Hoa giai sat khi trong phong thuy nha o bang son hai tran hinh anh 2
 
6. Minh đường có cây lớn, âm khí nặng nề.   7. Cột điện, đèn cao áp trước cửa nhà: sát khí đối cửa, tiểu nhân thăm dò.   Tất cả những trường hợp trên treo sơn hải trấn ở cửa sổ hoặc cửa chính, đối diện với hướng sát là có thể hóa hung thành cát, giải trừ sát khí. Ngoài ra, sơn hải trấn còn có tác dụng vượng tài, vượng bình an nên có thể treo trong nhà như các vật phẩm phong thủy chiêu tài khác. Nhưng vì có bát quái nên cần xem xét kĩ càng trước khi sử dụng, và tuyệt đối tránh trường hợp chiếu thẳng vào cửa nhà khác, sẽ tạo ra sát khí, ảnh hưởng tới nhà đối diện.
► Xem và học cách bài trí phong thủy nhà ở cầu tài lộc, tránh tai ương

Những phương pháp hoá sát kinh điển, phúc trạch hanh thông 3 cấm kị phong thủy nhà xưởng cần phải tránh ngay Lưu ý quan trọng khi sử dụng bảo kiếm phong thủy trấn trạch an gia
Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải sát khí trong phong thủy nhà ở bằng sơn hải trấn

Trồng cây xương rồng theo phong thủy –

Hiện nay, những chậu xương rồng bé với đầy đủ hình dáng và chủng loại được rất nhiều người ưa thích mua về để trưng bày trong nhà hoặc trên bàn làm việc. Tuy nhiên, theo các chuyên gia phong thủy, đặt xương rồng trong nhà hoặc phòng làm việc là điều

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tối kỵ.

Trong phong thủy, hình dáng của cây xương rồng thuộc vào loại đặc biệt, thân phát triển hướng lên trên, giống như xương của con rồng với ý nghĩa mang đến sức mạnh, có tác dụng hóa giải hình sát mạnh bên ngoài. Vì thế nó là một trong những cây có tác dụng hóa hung cao nhưng lại cực kỳ cấm kỵ khi bài trí trong nhà.

Bày xương rồng trong nhà gia chủ dễ bị bệnh tật, mất mát tài sản, tình cảm trục trặc, cô đơn.
Nguyên nhân bởi cây xương rồng là cây nhiều gai nhọn, những mũi nhọn của nó chĩa vào người thì sẽ tạo ra khí xấu, ảnh hưởng tới sức khỏe của gia chủ. Chưa kể việc tập trung quá nhiều gai nhọn trên thân cây khiến nó luôn bị bao bọc bởi sát khí. Đôi khi, xương rồng nở hoa (nếu trồng xương rồng mà nở hoa, được coi là điềm lành vì hoa của nó mang năng lượng tốt) nhưng không đủ sức để át đi năng lượng xấu của những chiếc gai nhọn.

Tuyệt đối không để xương rồng trong phòng tân hôn. Các loại thực vật có gai chủ yếu là hoa hồng, xương rồng… thường được trang trí trong phòng tân hôn. Tuy nhiên, theo phong thủy, những chiếc gai nhọn mang hàm ý đối đầu, ăn miếng trả miếng. Điều này khiến cho vợ chồng dễ gây tổn thương cho nhau (ở mức độ nhẹ), không bao dung, nhẫn nhịn và rất nhiều điều bất lợi khác liên quan đến cảm xúc.

Nếu bạn là một người yêu xương rồng thì chỉ nên đặt xương rồng ở ngoài cửa, như vai trò của người canh gác, bảo vệ bạn khỏi những năng lượng xấu, ngăn không cho chúng xâm nhập vào nhà.

Vì cây xương rồng là một cây có nhiều gai nhọn xung quanh khiến nó luôn được bao bọc bởi sát khí nên các nhà phong thủy đưa ra lời khuyên không nên đặt xương rồng trong phòng làm việc hoặc trong nhà mà chỉ nên trồng xương rồng vào những khu vực xấu hoặc để chống lại những sát khí chiếu vào nhà như để trấn lại góc nhọn hoặc các loại mũi tên sắt từ hàng rào của người hàng xóm…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trồng cây xương rồng theo phong thủy –

Vì sao phải tránh xa những kiến trúc có bức màn bằng thủy tinh? –

Bất kỳ một bố cục, ngoại hình, vật liệu nào của toà nhà đều có tính ứng dụng riêng của nó. Phương Bắc, nếu dùng thiết kế tạo hình là các mảng thủy tinh lớn và cố định tất nhiên là không phù hợp với yêu cầu, bởi phía Bắc lạnh, nhưng kiến trúc tường th

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ủy tinh dùng ở phương Nam có thể chấp nhận được nên có thể mở ra được.

Trên thực tế, những loại kiến trúc mảng thủy tinh này trong phong thủy lại có tác dụng chắn hung khí. Bởi vì mỗi một thành phố đều có những quy hoạch tổng thể không giống nhau, mà vật kiến trúc luôn chịu ảnh hướng quy hoạch của khu vực và tính khu vực như xung đường đường chạy thẳng mặt, có hình thành đường chữ T thì sẽ có kiếm nghi đường xung. Chính vì vậy, công ty xây dựng khi quy hoạch toàn khu, được thiết định là không gian xanh, như vậy thì có thể tránh được hình xung đường đó, cũng có thể khiến cho sinh khí lưu thông, sẽ không có những hung khí quay trở lại.

1260498356-282170

Nhưng các thành phố hiện nay tấc đất tấc vàng, mọi người đều không nỡ dùng để làm diện tích xanh hoá. Chính vì vậy mà xây ngay những căn nhà, sẽ phạm vào xung đường, sẽ đem lại cho chung cư những ảnh hưởng không tốt.

Nhưng theo phương pháp hóa giải của địa lý phong thủy, thì có thể dùng hình thể kiến trúc để cải thiện. Ví dụ, bốn mặt có đặt các vòi phun nước để hoá giải hoặc dùng các màn tạo hình bằng thủy tinh hoá giải để bảo vệ bình an, hơn nữa đặt được hiệu quả tụ khí.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao phải tránh xa những kiến trúc có bức màn bằng thủy tinh? –

Cách chọn vị trí tốt, xấu các phòng trong căn nhà

Kỳ trước, chúng tôi đã nói về những chỗ tốt và xấu trong một căn nhà để xác định các vị trí. Nói đúng hơn, mỗi vị trí trong căn nhà thích hợp cho một mục đích sử dụng chứ không có vị trí nào thích hợp cho mọi việc cũng như không có vị trí nào hoàn toàn xấu.
Cách chọn vị trí tốt, xấu các phòng trong căn nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Vì vậy, biết được ý nghĩa của từng vị trí, ta sẽ có thể bố trí các phòng phù hợp. Ví như gỗ sung là loại thớ to, mềm, giá trị thấp, không thể làm được giường, tủ, thậm chí làm củi cũng không đắt vì khó cháy, nhiều khói. Thế nhưng các cụ ngày trước dùng gỗ sung làm cánh cổng, phòng ngừa trộm cướp lại rất đắc dụng vì gỗ nhẹ nhưng quánh, dẻo, có dùng dìu, búa bổ vào cũng không thể phá vỡ được. Ngược lại vàng tâm là loại gỗ quý thường được sử dụng làm đồ nội thất rất tốt nhưng nếu đem làm cánh cổng thì chỉ một nhát dìu đã có thể phá vỡ toang vì vàng tâm thớ mịn, mềm…

Như đã nói, nếu chia mặt bằng căn nhà làm 9 ô thì 8 ô vòng ngoài kể như 8 phòng (8 vị trí) sẽ ứng với 8 hướng, 8 quẻ trong bát quái. Lấy một ô đặt vào hướng cửa nhà thì 7 ô còn lại sẽ có các tên sau: Lục sát, Ngũ quỷ, Tuyệt mệnh, Diên niên, Họa hại, Sinh khí, Thiên y (cách xác định các vị trí này theo hướng cửa nhà đã giới thiệu ở số trước). Các tên gọi này có ý nghĩa như sau:

- Diên niên là chỗ tốt trong căn nhà, có lợi cho sức khỏe, biểu trưng của sự trường thọ. Vì vậy, đây là nơi lý tưởng để ở, làm việc, nghỉ ngơi. Với ý nghĩa đó, phòng ngủ chính đặt ở ô này sẽ rất có lợi cho sức khỏe.

- Sinh khí cũng là vị trí tiểm ẩn của sức mạnh, sự phát triển cũng bắt nguồn từ đây. Vì vậy, cần tận dụng vị trí này để tăng cường, phát huy nguồn sinh khí đạt được hiệu quả tối đa. Nên bố trí phòng làm việc, học hành ở vào vị trí này.

- Thiên y có tính hóa giải ác khí, xua đi những điều xấu, đem lại sự bình an, sức mạnh. Vì vậy vị trí này dành cho những người cần hồi phục về thể lực, tâm thần và cả của cải thì tốt.

- Ngũ quỷ là tượng trưng cho linh hồn con người lìa khỏi thể xác đi vào cõi âm. Vì vậy không nên bố trí phòng ngủ ở vị trí này mà tốt nhất là để bàn thờ tổ tiên, thờ cúng.

- Họa hại là vị trí gây tai họa, có hại cho con người. Vì vậy người ta không làm nhà bếp, nhà tắm, hay phòng của trẻ em ở đây vì có thể dễ xảy ra tai họa. Vị trí này tốt nhất là dùng làm nhà kho, chứa đồ nhưng cho dù vậy, khi tiến hành công việc gì ở đây cũng nên cẩn thận.

- Lục sát là thất sát vì theo tử vi nó là ngôi sao tách ra từ chòm sao bảy ngôi. Vị trí này có sự biến động, không liên tục, hoàn chỉnh. Vì vậy không nên bố trí phòng làm việc, phòng học ở đây vì sự nghiệp, sự học hành dễ bị chi phối, ngắt quãng, không có lợi.

- Tuyệt mệnh là điểm tận cùng của số mệnh. Vì vậy chỉ nên dành làm nơi cho người bệnh nặng hoặc cũng có thể làm nhà kho chứa đồ. Chính vì ý nghĩa đó mà số ít người Trung Hoa cổ có khi xây nhà để thiếu một góc là dụng ý đặt góc thiếu vào cửa này.

Tuy nhiên, ý nghĩa của các vị trí nói trên là theo quan niệm của thuyết phong thủy và nó cũng chỉ có ý nghĩa tượng trưng. Người xưa tin vào số mệnh, nhưng cũng chính người xưa lại cho rằng con người nhiều khi chiến thắng được số mệnh (“Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều” hay “Có trời mà cũng tại ta…” - Nguyễn Du)

Tuy vậy, chúng ta cũng nên lưu ý một điểm, việc xác định các vị trí nói trên trong một căn nhà không phải theo phương địa lý cố định mà tùy thuộc vào hướng cửa chính, các vị trí này hoàn toàn phụ thuộc vào hướng cửa. Mà cửa vào chính là hướng vận động của luồng khí. Chúng ta đều biết, lối đi, luồng gió vận chuyển trong căn nhà, tác động rất lớn đến hiệu quả làm việc, sức khỏe và sự yên tĩnh của giấc ngủ.

Thực tế dễ nhận thấy nếu bố trí phòng học, làm việc gần nơi nhiều người qua lại sẽ bị phân tán suy nghĩ, vì vậy hiệu quả làm việc, học tập không cao. Cũng như vậy, giường ngủ kê ở nơi có luồng gió thốc vào (dân gian gọi là “gió lùa”) rõ ràng là không có lợi cho sức khỏe, nhất là mùa đông dễ gây cảm lạnh, “trúng gió”… Vì vậy, việc xác định các vị trí trong căn nhà với ý nghĩa như trên biết đâu chẳng là kinh nghiệm đúc kết từ thực tiễn đời sống của người xưa?

Thụy Văn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách chọn vị trí tốt, xấu các phòng trong căn nhà

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd