Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

10 nghiệp lành của đạo Phật giúp bạn sống hạnh phúc hơn (P2)

Bên cạnh ý nghĩa tôn giáo, 10 nghiệp lành của đạo Phật còn mang ý nghĩa đạo đức rất sâu sắc. Làm được 10 điều này thì tự nhiên cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn.
10 nghiệp lành của đạo Phật giúp bạn sống hạnh phúc hơn (P2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

10 nghiệp lành của đạo Phật bên cạnh ý nghĩa tôn giáo còn mang ý nghĩa đạo đức rất sâu sắc và thực tế. Làm được 10 điều này thì tự nhiên cuộc sống sẽ nhẹ nhàng, tự tại hơn.

Song hanh phuc hon voi 10 nghiep lanh cua dao Phat (phan 2) hinh anh
 

5. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói vu oan, vu cáo


Lời nói dối đã độc hại, nguy hiểm mà lời nói vu oan, vu cáo kẻ khác còn thâm hiểm, độc ác hơn nhiều. Lời nói dối, ban đầu, có thể do tham sân điều động nhưng chỉ ở mức độ vừa phải. Lên đến cấp độ vu oan, vu cáo thì tham sân ấy đã mạnh mẽ hơn nhiều. Lý trí mù quáng, đẩy người khác vào tội đáng ra không phải gánh là tạo nghiệt, con người tự đầy đọa nhau.Nghiệp lành của đạo Phật khuyên con người từ bỏ những lời có hại ấy mà sống khona hòa với nhau.
 

6. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói cộc cằn, thô lỗ, chửi rủa, mắng nhiếc, ác ngữ

Tuy những lời nói thuộc loại này không ác độc bằng cách nói trên nhưng cũng không tốt đẹp gì, đều đem đến nguy hại. Lời ấy biểu hiện cái tâm còn hoang dã, bản năng, thô xấu, thiếu văn hoá, thiếu giáo dục, thiếu gia phong. Không chỉ làm người khác đau lòng, dẫn tới sự xô xát mà còn tự hủy hoại đạo đức bản thân.
 

7. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói nhảm nhí, vô ích, rỗng không, phù phiếm

Thời gian là bạc là vàng, nói lời vô ích, phù phiếm chỉ tốn thời gian, lãng phí công sức mà lại gây hậu quả khôn lường. Nói nhiều thành quen, lời bỡn cợt trở thành hiềm khích, lời nhảm nhí trở thành tai họa. Vừa làm lây nhiễm thói hư tật xấu, gây phiền phức người xung quanh lại tha hóa bản thân, không làm được gì cho đời.
 

8. Ý vĩnh viễn từ bỏ sự tham lam

Tham lam là không bằng lòng, không vừa ý, không thỏa mãn những sở hữu mà mình đang có; không bao giờ biết sống đời tri túc, mà luôn cảm thấy thiếu thốn, muốn có thêm vật này, vật kia; luôn luôn dòm ngó của cải, tài sản của kẻ khác; muốn vơ vét, chiếm đoạt, cướp giật của cải tài sản của người. Có lòng tham nên con người làm đủ mọi cách, không từ thủ đoạn để đạt được, mới nảy sinh ra tội ác. Không có lòng tham thì không có tội ác.  

9. Ý vĩnh viễn từ bỏ sự sân hận (thù oán, oán hận, ác ý)

Thù oán, ác ý là hình thái cảm xúc cực đoan khi con người gặp phải điều không vừa ý. Đường đời không bằng phẳng, có lòng sân hận thì gặp đâu cũng thấy khó chịu, nảy sinh tư thù, làm ra chuyện đại nghịch, tội ác tày trời để thỏa mãn lòng hận của mình. Điều chỉ vậy còn khiến con người luẩn quẩn trong những ssuy nghĩ tăm tối, nóng giận, không khi nào bình yên, thanh thản.
 

10. Ý vĩnh viễn từ bỏ tà kiến (chuyển tà kiến thành chánh kiến)

Tà kiến là thấy sai, thấy lệch, thấy nghiêng, thấy một bên, thấy một phía, không thấy được cái chân, cái thực, cái toàn diện. Tuy nhiên, mới thấy tà như vậy cũng chưa phải tà kiến. Người thấy tất cả cái tà ấy, còn chấp cái tà ấy là chánh, là sự thật; ra sức bảo vệ, phát triển quan điểm lệch lạc ấy nữa, mới chính thật là tà kiến. cái nhìn sai lệch ấy khiến con người sống sai lệch, làm sai lệch và truyền sự sai lệch ấy tới mọi người xung quanh. Nghiệp lành thứ 10 khuyên con người phải sửa mình cho cái tà thành chánh, cái sai thành đúng.

ST

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 nghiệp lành của đạo Phật giúp bạn sống hạnh phúc hơn (P2)

Tuổi Tý và tuổi Dần có hợp nhau không? –

Chuột và Hổ không phải là cặp đẹp nhất trên thế giới nhưng họ có một điểm chung, đó là cùng tạo ra sự thoải mái cho nhau. Cả hai cùng thích là trung tâm của vũ trụ, đều duyên dáng và rất cuốn hút. Trong các tình huống mang tính xã hội, hai “hành tinh
Tuổi Tý và tuổi Dần có hợp nhau không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Tý và tuổi Dần có hợp nhau không? –

Mơ thấy đôi mắt: Sẽ có tình yêu chân thật –

Chàng trai trẻ 28 tuổi kể lại giấc mơ của mình như sau: Trong mơ, tôi thấy mình đang vẽ tranh nơi đồng xanh bao la. Hôm đó, hình như là một ngày đầu hạ, hoa cỏ đua nhau khoe sắc dưới ánh nắng hè. Lúc đấy, một bé gái từ đâu chạy đến gần chỗ tôi, em nh
Mơ thấy đôi mắt: Sẽ có tình yêu chân thật –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy đôi mắt: Sẽ có tình yêu chân thật –

Những chòm sao yêu mà không màng đến vật chất –

Cùng với sự phát triển của kinh tế, hiện nay rất nhiều người phải đứng trước lựa chọn giữa tình yêu và vật chất. Rất nhiều người trở nên lợi dụng trong tình yêu. Trong 12 cung hoàng đạo cũng thế. Vậy những chòm sao nào yêu mà không màng đến vật chất.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cùng với sự phát triển của kinh tế, hiện nay rất nhiều người phải đứng trước lựa chọn giữa tình yêu và vật chất. Rất nhiều người trở nên lợi dụng trong tình yêu. Trong 12 cung hoàng đạo cũng thế. Vậy những chòm sao nào yêu mà không màng đến vật chất. Chúng ta cùng tìm hiểu ngay bài viết dưới đây nhé!

Nội dung

  • 1 Những chòm sao yêu mà không màng đến vật chất
    • 1.1 Sư Tử
    • 1.2 Thiên Bình
    • 1.3 Song Tử
    • 1.4 Nhân Mã
    • 1.5 Kim Ngưu

Những chòm sao yêu mà không màng đến vật chất

Sư Tử

sutu-8816-1401440703

Có nhiều người lợi dụng sự phóng khoáng của Sư Tử mà mê hoặc cậu ấy bằng vật chất. Nhưng rất tiếc, Sư Tử lại là người trọng tình trọng nghĩa, không phải lúc nào cũng chỉ biết đến tiền bạc, vật chất. Bởi đối với Sư Tử không có gì quan trọng hơn việc tìm được một người thật lòng yêu, bao dung với cậu ấy và cậu ấy cũng yêu lại. Vì vậy, cậu ấy sẽ không miễn cưỡng bản thân để yêu một người mà mình không hề có tình cảm. Hay nói cách khác, Sư Tử sẽ không vì vật chất mà dễ dàng từ bỏ tình yêu.

Thiên Bình

thienbinh-2514-1401440703

Thiên Bình là một chòm sao biết nhìn xa trông rộng. Khi phải đối diện với sự lựa chọn của cuộc sống, tiền bạc thực sự là một thứ rất hấp dẫn. Nhưng là một người biết tính toán cẩn thận , nếu thấy tình yêu và vật chất không thể vẹn toàn cả hai thì đa số cung Thiên Bình sẽ thận trọng lựa chọn tình yêu. Bởi cậu ấy hiểu rằng nếu lựa chọn vật chất mà phải sống với người không cùng sở thích sẽ rất đau khổ. Hơn nữa, Thiên Bình rất lạc quan, cậu ấy tin rằng chỉ cần hai người có thể sống trong tình yêu thực sự thì bất cứ khó khăn nào cũng có thể giải quyết được.

Song Tử

songtu-7198-1401440703

Nếu chỉ hiểu đơn giản về tính cách của Song Tử, nhất định chúng ta sẽ lầm tưởng rằng đứng trước lựa chọn giữa tình yêu và vật chất, cậu ấy sẽ chọn vật chất. Nhưng thực tế không phải như vậy vì Song Tử rất coi trọng tương lai. Đối với cậu ấy, chỉ cần trong lòng có tình yêu thì vật chất không quan trọng.

Nhân Mã

nhanma-5747-1401440703

Nói đến chòm sao nhìn thấy tiền là “mắt sáng lên” thì Nhân Mã chắc chắn ở vị trí hàng đầu. Nhưng khi tình yêu và vật chất khó vẹn toàn thì cậu ấy sẽ chọn tình yêu mà từ bỏ vật chất. Đối với một Nhân Mã chung thủy, cậu ấy sẽ không chọn một người mà mình không thích để ràng buộc mình cả một đời. Nhân Mã hiểu được mặc dù vật chất quan trọng nhưng tình yêu càng phải trân trọng hơn. Cậu ấy tin chỉ cần có tình yêu thì vật chất ít một chút cũng không sao. Vì vậy, Nhân Mã muốn từ bỏ vật chất để là một người yêu chung thủy hơn.

Kim Ngưu

Kimnguu-1760-1401440703

Kim Ngưu là một chòm sao rất coi trọng thực tế. Đối với cậu ấy, tiền có thể là tiêu chuẩn để cân đo cuộc sống. Nhưng có thể lấy được một người vợ tâm đầu ý hợp mới là mục tiêu cuộc sống cao nhất của cậu ấy. Bởi Kim Ngưu rất rõ tình yêu chân chính dù có bao nhiêu tiền cũng không thể mua được nhưng tiền thì có thể kiếm được dựa vào sự cố gắng của mình. Vì vậy khi tình yêu và vật chất không thể vẹn toàn thì Kim Ngưu nhất định sẽ giữ chặt tình yêu của mình rồi sau đó mới nỗ lực đi kiếm vật chất.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những chòm sao yêu mà không màng đến vật chất –

Giải mã giấc mơ: Mơ thấy người quen

Người quen xuất hiện trong giấc mơ của bạn, điều đó là điềm báo bạn sẽ tìm lại những gì đã mất cả về vật chất và tinh thần.
Giải mã giấc mơ: Mơ thấy người quen

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Trong mơ nếu bạn gặp người quen nào đó và cùng với họ nói chuyện rất vui vẻ, đây là tín hiệu cho thấy sự thuận lợi trong công việc của bạn.

Ngoài ra, giấc mơ này còn có nghĩa gia đình bạn đang phát sinh một vài mâu thuẫn nhỏ. Bạn nên là người chủ động gắn kết mọi người với nhau.

2. Nếu mơ thấy bản thân đang tranh cãi với một người có cảm giác quen thân nhưng không rõ mặt, bạn cần đề phòng những vấn đề sức khỏe và chuẩn bị tâm lý sẵn sàng đón nhận một vài sự mất mát nào đó.

9fa2d1d9-35d3-409f-b12b-b43c83-4822-9684

3. Trong mơ bạn gặp một người quen, cảm giác lúc đó của bạn là xấu hổ hoặc cho rằng đó là thời điểm không thích hợp để gặp người đó. Điều này cho thấy bạn đang lo lắng về vấn đề nào đó, rất có thể là sợ hãi ai đó biết được hoặc tiết lộ bí mật của mình.

4. Nếu bạn mơ thấy rất nhiều người quen cùng xuất hiện trong giấc mơ, cho thấy bạn đang rất hạnh phúc và hài lòng với mối tình hiện tại. Cảm giác này khiến bạn cảm thấy phấn khích vô cùng và muốn chia sẻ cho tất cả mọi người xung quanh.

5. Trong mơ bạn thấy người quen mặt nhưng không xác định chắc chắn đó là người nào, rất có thể bạn có khách phương xa tới thăm hoặc nhận được thư của bạn bè đã xa cách rất nhiều năm.

Mr.Bull

hinhnenbien2-1398729604-139872-7796-2328

Giải mã giấc mơ: Mơ thấy biển

Biển, đại dương tượng trưng cho sự phong phú về tình cảm và thịnh vượng trong giấc mơ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ: Mơ thấy người quen

'Bắt sóng' những tín hiệu phát tài trên bàn tay

Một ngày nào đó những tín hiệu này đột nhiên xuất hiện ở trên bàn tay bạn, đó là điềm lành báo hiệu bạn sắp phát tài hoặc có chuyện vui.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một ngày nào đó những tín hiệu này đột nhiên xuất hiện ở trên bàn tay bạn, đó là điềm lành báo hiệu bạn sắp phát tài hoặc có chuyện vui.


► Đoán vận mệnh, tài lộc của bạn qua việc tự xem chỉ tay


Bat song nhung tin hieu phat tai tren ban tay hinh anh
Ảnh minh họa

1. Lòng bàn tay hồng hào

 
Bình thường, lòng bàn tay bạn có sắc trắng hoặc vàng, nhưng đột nhiên xuất hiện sắc hồng hào, cộng thêm những đường màu đỏ hiện rõ là biểu hiện cho thấy tài vận của bạn đang tăng, hứa hẹn những bước đột phá trong công việc, sự nghiệp và tiền bạc.
 
Ngoài ra, nếu lòng bàn tay xuất hiện đường Tài vận cũng sẽ mang lại nhiều may mắn về tiền của cho chủ nhân.

2. Đốt thứ hai của ngón cái có nhiều đường vân

Vị trí đốt thứ hai của ngón cái còn tượng trương cho tài phúc. Nếu trên đó xuất hiện nhiều đường vân ngang, chứng tỏ vận thế của bạn khởi sắc, mọi việc đều thuận buồm xuôi gió, tiền của dồi dào.
 
3. Gò Mộc tinh nổi cao và có sắc hồng hào

Gò Mộc tinh nằm ngay gốc ngón tay trỏ. Nếu gò này nổi cao rõ ràng và có sắc hồng hào chứng tỏ tài vận tốt, gặp nhiều may mắn về tiền bạc. Người có gò Mộc tinh đầy đặn không những tiền của dồi dào mà quyền lực cũng vững bền.
 
4. Gò Thái Dương xuất hiện vân chữ Thập hoặc vân hình lưới
 
Gò Thái Dương nằm ở gốc ngón tay đen nhẫn. Nếu trên vị trí này bất ngờ xuất hiện vân chữ Thập hoặc vân hình lưới là biểu tượng của sự may mắn, đại phú đại quý và liên tiếp có nhiều tin vui của bản thân hoặc trong gia đình.
 
4. Gò Thủy Tinh có đường vân xiên thẳng

Gò Thủy Tinh nằm dưới ngón út. Nếu trên gò Thủy Tinh có những đường vân xiên thẳng, biểu hiện cho cuộc sống đang ngập tràn hạnh phúc và sẽ nhận được tiền bạc hoặc của cải bất ngờ.
 
Ngoài ra, nếu vị trí này xuất hiện những đường chỉ thẳng đứng, sâu đậm rõ nét mà không bị đường nào cắt ngang hay chặn đứng, chứng tỏ tài vận đang rất vượng, gặp nhiều may mắn liên tiếp.

5. Đầu đường hôn nhân có chữ Thập hoặc dấu sao
 
Đầu đường hôn nhân có chữ Thập hoặc dấu sao, là dấu hiệu cho thấy bạn sắp tìm được ý trung nhân và nhiều khả năng sẽ tiến tới hôn nhân hạnh phúc. Nếu cuối đường hôn nhân xuất hiện những tín hiệu này, chứng tỏ chuyện tình duyên của bạn đang phát triển thuận lợi, có nhiều hi vọng về một kết thúc tốt đẹp.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 'Bắt sóng' những tín hiệu phát tài trên bàn tay

Tử vi Bính Dần phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

BÍNH DẦN: LƯ TRUNG HỎA Trong tử vi Bính dần là con hổ tướng mạo uy nghi, cá tính trung thành chính trực. Lư trung Hỏa có tượng thiên địa là lò, âm dương là than, ánh sáng chiếu sáng vũ trụ, hun đúc trong Càn Khôn. Hỏa này là Hỏa viêm thượng, ưa được

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

BÍNH DẦN: LƯ TRUNG HỎA

Trong tử vi  Bính dần là con hổ tướng mạo uy nghi, cá tính trung thành chính trực.

Lư trung Hỏa có tượng thiên địa là lò, âm dương là than, ánh sáng chiếu sáng vũ trụ, hun đúc trong Càn Khôn.

Hỏa này là Hỏa viêm thượng, ưa được Mộc sinh, nhất là Mậu Tuất, Kỷ Hợi Bình địa Mộc. Trụ khác có Kim càng thêm tốt.

Hỏa này lấy Kim làm Dụng thần, nạp âm ưa Kim. Nếu Mộc nhiều thì Hỏa viêm, nếu không có Thủy chế ngự, chủ yểu mệnh.

TuoiDan

Bính Dần gặp Tân Hợi, Quý nhân trùng trùng, chủ phú quý dài lâu.

Bính Dần là Hỏa mãnh liệt, không có Thủy chế phục tất chủ gặp họa thiêu cháy, Thủy cũng không thể cứu được.

Bính Dần Hỏa chứa linh khí tinh túy, sinh vào bốn mùa đều có đức. Nhập quý cách chủ về người đứng đầu thiên hạ.

Trong tử vi cho rằng Bính Dần gặp Mậu Dần là tượng hồ mực chảy ra suôi vàng, chủ cát lợi, đỗ đạt trạng nguyên. Ngày nay nên làm nhà văn, hơn nữa còn có tiền tài, duy có điểm thiếu hụt là vợ chồng không được sống cùng nhau đến đầu bạc răng long.

Nạp âm ưa gặp Đinh Mùi Thiên hà Thủy, nếu tọa nhật trụ hoặc thời trụ, chủ vinh hoa phú quý dài lâu. Mệnh nữ là vô cùng tốt, chồng hiền lành, con hiếu thuận.

Chi khác không nên có Thân, Tỵ, là phạm hình, mệnh nữ tối kỵ. E rằng mệnh chủ lưu lạc phong trần, hoặc sảy thai, hoặc làm vợ lẽ.

Chi khác có Tỵ, cơ thể bị thương tật, hoặc trúng phong. Chi khác có Dần, vợ chồng n duyên mỏng. Chi khác có Thân, con cái duyên mỏng, không tốt.

Chi khác có Ngọ, phạm Dương nhẫn, mệnh chủ ly hương.

Nhật trụ là Quý Tỵ, hôn nhân không hoàn mỹ, thông gia không nhìn mặt nhau.

Can khác có Nhâm, nếu là Nhâm Dần nên làm quan võ, nhưng không được dài lâu. Là Nhâm Thân cũng luận như vậy.

Can khác có Đinh thì không được có thêm Kỷ. Can khác có Giáp thì không được có Nhâm, phạm vào tất chán nản thất vọng.

Can khác có Mậu ưa gặp Mậu Dần. Nếu có Giáp Tuất chủ ngưòi này giỏi văn chương, có thể thành nhà văn.

Nhật chi tọa cung Thìn, mệnh nam lấy được vợ giàu có, mệnh nữ lấy được chồng phú quý.

Gặp năm Dần, Thân là phạm Phục ngâm Phản ngâm, chủ trong nhà không yên ổn, không hại đến bản thân cũng hại đến người nhà.

Bạn đời nên tìm người sinh năm Canh, Tân. Không nên tìm người sinh năm Nhâm, Quý.

Bính Dần Không vong tại Tuất, Hợi, chi khác không nên có Tuất, Hợi.

Trong tử vi Người sinh năm Dần gặp Hợi là Kiếp sát, nếu tọa nhật chi chủ khắc bạn đời. Nếu tọa thời chi, con cháu nghèo khổ, còn chủ con cái yểu mệnh, cuối đời phá bại.

Nhật chi có Tuất, chủ khắc bạn đời.

Thời chi có Tuất, khắc con cái, nên nương nhờ nơi cửa Phật.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi Bính Dần phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

Bàn về Cách - Thể Dụng của Tứ trụ

Môn Tử Bình có 1 câu quan trọng mà ai cũng thuộc lòng khi bắt đầu luận giải tứ trụ: "Dụng thần chuyên tầm nguyệt lệnh, dĩ tứ trụ phối chi, tất hữu thành bại."
Bàn về Cách - Thể Dụng của Tứ trụ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo



Có nghĩa là tìm dụng thần trong chi tháng là điều kiện thứ nhất, sau đó xem xét quan hệ của ngũ hành giữa các can chi còn lại, cách cục của tứ trụ từ đó mới biết là thành hay bại.

Thành tức là thành công, đạt được cách, còn gọi là nhập cách.

Bại là thất bại; cách cục của tứ trụ bị phá.

Giữa "Thành" và "Bại" còn xét được "Kị" và "Cứu Ứng".

Kị tức là cách cục không nên gặp, mức độ bị phá cách nhẹ hơn "bại".

Cứu ứng là khi gặp phá cách lại được giải thoát.

Lưu ý rằng các tài liệu chỉ dạy xét Cách Cục theo tứ trụ, mà rất hiếm khi nói rõ định đại vận ảnh hưởng như thế nào đến Cách Cục, vấn đề này có cần xét song song với sự thành bại của Cách Cục hay không. Các mệnh lý gia thời trước chỉ xét Cách Cục, sau đó mới luận đại vận nào sẽ tốt, đại vận nào sẽ xấu.

Quan niệm này là không cải được số mệnh. Mệnh có Cách gì thì nhất định sẽ diễn tiến theo chiều hướng đó. Cải được số hay không là một vấn đề khác, sẽ bàn ở một bài khác. Chúng ta chỉ nên học hỏi tại sao phải hiểu rõ Cách Cục của tứ trụ xét như thế nào.

Thí dụ như Quan cách.

Thành > Quan gặp Tài và Ấn, không bị hình, xung, phá, hại, không vong.

Bại > Quan gặp Thương quan, Quan bị khắc chế, bị xung mất, hợp mà trở thành kị thần, gặp không vong

Kị > Quan gặp Tài mà lại thêm Thương quan

Cứu ứng > Quan gặp Thương quan nhưng có Ấn giải. Khi Quan Sát hỗn tạp, Sát hay Quan được hợp. Quan bị hình, xung, nhưng được tam hội, tam hợp hiệp giải.

Chẳng hạn như Giáp mộc sanh tháng Dậu, tức Tân kim là Quan cách. Có can Đinh là Thương quan phá cách, vì Đinh khắc Tân. Cứu giải là nếu có Nhâm thấu ra, vì Nhâm hợp Đinh, nên Đinh không còn khắc chế Tân nữa.

Có 1 vấn đề quan trọng chúng ta nên nhớ rõ khi luận Cách:

1- Bản khí của chi tháng là Cách
2- hay can tàng nào thấu ra là Cách?

Vấn đề này các bạn sẽ gặp phải khi đọc vài tài liệu khác nhau. Theo KC thì Tử Bình trong thời gian xưa nhất dùng điểm 1 để luận Cách. Sau này dần dà mới thấy các tân phái cho rằng can tàng nào thấu ra thì lấy đó làm Cách.

Các bạn cũng thấy lý do rằng, khi nói "nguyệt lệnh" thì dĩ nhiên nói rõ là bản khí của chi tháng, như Dần có Giáp, Bính, Mậu, thì Giáp chính là Cách cục. Vì "lệnh" thì chỉ có 1. Các can tàng khác chỉ là phụ.

Nếu cho rằng vì Giáp không thấu mà Bính hay Mậu thấu ra, lại lấy Bính/Mậu làm Cách thì phải là quan niệm mới hơn, suy luận rộng thêm hơn ở thời gian sau này. Quan niệm rộng rãi này còn cho thấy giải quyết được rõ ràng khi thân vượng hay thân suy phải tòng. Nhất là về Quan/Sát cách, một trong những trọng điểm xét đoán của Tử Bình.

Trước khi luận sâu hơn về sự phối hợp phức tạp của tứ trụ, vì dĩ nhiên có rất nhiều tứ trụ khó nhìn ra ngay Cách cục, chúng ta nên tìm hiểu khi nào gọi là Thành, Bại, Kị và Cứu ứng. Ở trên đã nói về Quan, dưới đây là những cách cục của những thập thần khác.

Cách cục thành:

- Thân cường vượng có SÁT chế ngự, gọi là Sát Cách.
- Ấn không nhiều, gặp Sát hay Quan thấu can, dụng được Thực Thương để tiết khí. Hoặc Ấn quá mạnh gặp được Tài tinh vượng khí; Ấn cách thành công.
- Thực thần là Cách, có Tài tinh. Thực thần gặp Sát, không có Tài tinh. Thực thần gặp Sát nhưng có Ấn; Thực cách thành công.
- Thương quan gặp Tài, tất có tiết khí để thành hữu dụng. Thương quan vượng, có Ấn cũng vượng. Thương quan mạnh, thân nhược, có Sát và Ấn. Thương quan gặp Sát nhưng không có Tài. Gọi là Thương quan cách thành.
- Tài tinh là để sinh Quan, có Tài cách gặp Quan là hữu dụng. Tài cách gặp Thực sinh, lại có Tỉ Kiếp thì thân cường vượng, gặp Ấn vượng.
- Nhật chủ gặp lệnh tháng là Kiếp gọi là Dương nhận cách (đế vượng). Nếu thấu Quan Sát hay Tài Ấn đều hữu dụng.
- Lệnh tháng là Lộc (lâm quan), thấu Quan lại có Tài, Ấn, hoặc thấu Tài có Thực Thương đi kèm. Thấu Sát được chế phục, như vậy Kiến lộc cách thành.

Thế nào là Bại:

- Sát cách gặp Tài tinh mạnh lại không có Ấn chế ngự.
- Ấn cách quá yếu lại gặp Tài. Hoặc thân cường vượng, Ấn cách quá mạnh, lại có Sát. Như vậy Ấn cách bị hỏng.
- Thực cách gặp Kiêu thần, hoặc Thực sinh Tài gặp Sát thấu.
- Thương quan cách gặp Quan. Thương quan sinh Tài gặp Sát thấu. Thương quan cách gặp Ấn trọng thì thân vượng mà Thương nhược, cũng đều làm cho Thương quan cách bị phá.
- Tài cách yếu mà gặp nhiều Tỉ Kiếp. Tài cách gặp Sát thấu.
- Dương nhận cách không có Quan hay Sát.
- Kiến lộc cách không có Tài Quan, lại thấu Sát và Ấn là bại.

Cách cục kị khi gặp:

- Quan cách đương thành lại bị hợp
- Sát cách có Ấn lại thấu Tài tinh
- Sát cách có Thực chế lại gặp Ấn
- Ấn cách gặp Thực thần, kị gặp Tài vượng thấu can
- Thực cách có Sát hay Ấn không nên gặp Tài
- Thương quan cách sinh Tài, nhưng Tài bị hợp
- Tài cách sinh Quan, kị gặp Thương hay bị hợp

Thí dụ về Cứu ứng trong vài trường hợp:

- Tài cách gặp Tỉ Kiếp mạnh, có Thực tiết khí thân. Như Giáp sinh tháng tứ quí Thìn Tuất Sửu Mùi, có Ất thấu gọi là bị Tỉ Kiếp tranh Tài (Mậu Kỉ). Nếu thấu Bính, tức Tỉ Kiếp chuyển sang sinh Thực, Thực sinh Tài, như thế Tài cách đang bại trở thành có cứu ứng. Hoặc tứ trụ không có Bính, nhưng thấu Tân âm kim có thể khắc chế Ất Mộc cứu Tài.

- Bính sinh tháng Dậu, Tân kim là chính tài. Có Nhâm là Sát thấu. Tân kim sẽ sinh Nhâm thủy khắc Bính. Như thế gọi là Tài cách bị phá. Cứu ứng được là có Mậu chế ngự Nhâm, lại sinh cho Tân kim. Nếu không có Mậu lại thấu Đinh thì Đinh hợp Nhâm là hợp Sát. Như vậy Chính Tài cách vẫn gọi là thành cách.

- Ất âm mộc sinh tháng Hợi, nguyệt lệnh là Ấn, gọi là Ấn cách. Tứ trụ có Mậu hay Kỉ là Tài mà quá vượng hay thấu can, tất nhiên Tài tinh này phá Ấn, còn gọi là tứ trụ „có bệnh“. Thuốc trị cho bệnh là khi có Giáp thấu ra, Giáp là Kiếp khắc được Mậu để hộ Ấn. Nếu thấu Quí thì hợp được Mậu cứu Ấn.

Qua đó, chúng ta thấy rằng thoạt tiên là Cách cục bị phá hỏng vì sự khắc chế quá mạnh, nhưng có ngũ hành khác thấu ra và vượng khí, một là chế, hai là hợp, thì cách cục ban đầu được cứu ứng. Giống như bịnh mà có thuốc vậy.

Những trường hợp tương tự đều luận như trên. Nắm vững được sự cứu ứng như thế nào là hiểu được tất cả cách thành hay bại, kị.

Tứ trụ nam mệnh:

tài thương nhật chủ quan
Kỉ Bính Ất Canh
Mão Hợi Thìn
ất quí nhâm giáp mậu ất quí

Đại vận: Ất Hợi, Giáp Tuất, Quí Dậu, Nhâm Thân, Tân Mùi, Canh Ngọ, Kỉ Tị

Như đã nói trong những bài trên, vấn đề thường gặp phải ở bản khí của lệnh tháng không thấu, thiên can thấu ra lại không có can tàng, vì các chi Tí Ngọ Mão Dậu chỉ có nhất khí (ngọai trừ Ngọ tính thêm Kỉ, nhưng vì Kỉ gửi ở Đinh nên dùng theo). Như tứ trụ trên, Quí là Kiêu thần của Ất không lộ, các thiên can lộ không nằm trong lệnh tháng và trong các chi khác, vậy suy Cách Cục thế nào?

(Nhắc lại là Can ngày thì không tính là "thấu", như trong Mão có Ất, trong Thìn dư khí Ất. Nhưng đấy chỉ là khí của chính can ngày.)

Bản khí là Kiêu không thấu thì vẫn xét lực của Thủy trong trụ ra sao, đấy là điểm chính. Thứ nhì, vẫn gọi là Ấn cách (không ai gọi là "Kiêu cách", chỉ nhận định Quí là âm thủy với Ất âm mộc là quan hệ Âm sinh Âm, lực mạnh).

Tí gặp Hợi, lại thêm Thìn chứa Quí thủy, nên Ấn cách lực rất mạnh.

Nhưng khi nói đến cái "dụng", tức tứ trụ dụng can chi nào làm "bàn đạp" cho các sinh hoạt cuộc đời, mà ta gọi là "dụng thần" thì lại là chuyện khác. Lúc này mới nhìn thiên can thấu ra thập thần nào, xung chế ra sao, có hữu dụng được hay không, thì đấy là dụng thần của tứ trụ.

Như tứ trụ trên thì thấu Kỉ, Bính, Canh. Trên trụ tháng là ưu tiên, Bính Thương Quan là tính cách đầu tiên có khả năng hữu dụng.

Thương quan ngộ Quan (Canh) là điều bất thuận lợi. Nhưng may mắn rằng Quan bị Ất hợp, nên có thể nói là "khử" được Quan mà giữ được hình thái trọn vẹn của Thương quan.

Thương quan là điều hữu dụng vượt trội vì có Thiên tài kế bên. "Thương Quan sinh Tài" vì thế được gọi là dụng thần của người này. Các tài liệu sau này đều gọi đây là 1 "Cách", mà bỏ qua Quí trong lệnh tháng. Vả lại, nếu gọi Bính là Cách, hay thậm chí gọi Canh là Cách, thì cả hai thiên can này vô căn, vô gốc, làm sao có thể hữu dụng được?

Cần nên phân biệt giữa "Cách" và "Dụng" như thế.

Như vậy, Ấn Cách dụng Thương quan ở tứ trụ trên thành công. Thân vượng vì tóm lại là cách cục thành công.

Trên cơ sở thân vượng, hình thái của tứ trụ thành, tính cách mạnh mẽ của đương số được hình thành. Tất cả những cách cục thành công đều quí và có phúc, không chỉ riêng Ấn Cách. Riêng "Ấn" thời xưa nói như là cái "triện đóng dấu", đại biểu cho những địa vị cao trong xã hội.

Đại vận là con đường thể hiện được tính cách và năng lực của đương số, nếu nó thuận theo điều hữu dụng, không bị khắc chế quá sức thì mục đích theo đuổi nói toàn bộ là trôi chảy. Nếu ngược lại thì quí cách trở nên tầm thường, cho dù có thành đại phú ông, cũng chỉ là 1 trong những người giàu có thế thôi, không đạt được quyền lực của Ấn. Chính vì thế mà khi nói đến "Cách" đều nói đến bản khí của lệnh tháng thì giải thích rõ ràng hơn tất cả mọi việc trong tứ trụ.

Đại vận của tứ trụ trên thuận theo chiều Kim - Hỏa. Kim sanh Thủy Ấn từ những đại vận đầu. Đến vận Tân Mùi, Canh Ngọ, Kỉ Tị là hỏa vận, quyền lực lên đến bậc nhất thiên hạ thời Thế chiến thứ nhì. Cuối vận Kỉ Tị, lưu niên Quí Tị, 2 Tị xung 1 Hợi, Quí khắc Kỉ, bị nghẽn mạch máu mà chết.

Ở vấn đề tử vong lại không dùng Cách để luận, mà chỉ thuần ngũ hành suy vượng, xung khắc ra sao, nhưng đấy là một đề tài khác.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bàn về Cách - Thể Dụng của Tứ trụ

Tướng người gian xảo –

Lấy được một người vợ tốt đó là phúc của cuộc đời, nhưng nếu lấy một người xấu làm vợ thì sau này sẽ hối tiếc không kịp. Vậy như thế nào là một phụ nữ có tránh cũng không được? Thực ra xem trên mặt có thể đoán định ra được.## Đuôi mắt có
Tướng người gian xảo –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người gian xảo –

Phải thận trọng khi mơ thấy mình tắm

Mơ thấy mình tắm hoặc tắm trong nước ấm là cát mộng, gia đình bạn sẽ có cuộc sống hạnh phúc. Tuy nhiên, mơ thấy mình tắm nước lạnh hoặc nóng quá lại báo bạn sẽ
Phải thận trọng khi mơ thấy mình tắm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

có chuyện buồn trong thời gian tới.


► Tham khảo thêm: Giải mã giấc mơ thấy cá, mơ thấy máu

Phai than trong khi mo thay minh tam hinh anh
Ảnh minh họa

Mơ thấy bản thân mình đang tắm, tín hiệu đáng mừng cho thấy cơ thể bạn đang trong trạng thái vô cùng khỏe mạnh.

Bạn mơ thấy mình đang thư giãn trong một cái bồn tắm thật đẹp, điềm này ám chỉ bạn đang có nhu cầu làm mới mình để thoát khỏi những rắc rối hàng ngày. Ngoài ra, giấc mơ này còn biểu thị cho tâm trạng hân hoan hoặc buồn rầu về tình yêu lứa đôi; nó cũng là nhu cầu tìm kiếm nguồn vui và sự thư giãn trong tâm hồn.
  Mơ thấy bạn hoặc ai đó đang chìm trong bồn tắm ám chỉ rằng bạn chưa sẵn sàng đối đầu với nỗi sợ hãi và những cảm xúc đang giằng xé tâm can mình. Bạn cần điều chỉnh những hành vi của bản thân, không nên đắm chìm trong suy tư và sợ hãi.   Mơ thấy bạn đang nằm trong cái bồn tắm có phun nước ám chỉ rằng bạn đang cần thanh lọc tâm hồn. Những vòi nước phun đều như đang massage giúp bạn giải tỏa tất cả những bức bối khó chịu trong cơ thể.     Nếu mơ thấy ai đó tắm gội, có ý nghĩa là bạn đang giúp đỡ người khác giải quyết mọi rắc rối mà họ đang gặp phải. Kết quả khiến mọi người thêm yêu quý và nể phục bạn hơn.   Trong giấc mơ thấy mình đang tắm tại nhà, vận may trong các mối quan hệ xã giao sẽ đến với bạn. Bạn sẽ nhận được sự công nhận và khen thưởng của tất cả mọi người xung quanh.
 
Nếu mơ thấy mình đang tắm sông hoặc tắm biển, là điềm báo vô cùng tốt lành dành cho bạn. Danh tiếng của bạn sẽ vang danh bốn phương, sự may mắn về tiền tài của bạn đạt mức đỉnh điểm.   Mơ thấy bản thân đang tắm nước nóng, điều này báo hiệu hạnh phúc sẽ đến với bạn. Còn nếu tắm bằng nước lạnh, tài năng của bạn được đông đảo mọi người thừa nhận.   Trong mơ thấy mình chuẩn bị đi tắm, nhưng cuối cùng không được tắm gội, cho thấy bạn đang gặp khó khăn trong thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, nếu cố gắng và kiên trì, bạn sẽ nhanh chóng vượt qua nó.

Nằm mơ thấy mình đang tắm với một người nào đó cho thấy rằng có một cái gì đó mà bạn cần phải thú nhận với người này, bạn cần phải trung thực hơn và giảm bớt khoảng cách với họ. Nếu bạn nằm mơ thấy mình tắm với một nhóm người, điều này cho thấy bạn có cảm giác bị xâm phạm quyền riêng tư của mình.

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phải thận trọng khi mơ thấy mình tắm

Con người có cải số được không ?

Con người từ khi bước chân vào đời ai cũng hăm hở, lạc quan và đầy lòng tự tin. Ở vào cái tuổi mà người ta gọi là “Tam Thập Nhị Lập” ít có ai nghĩ đến hai chữ “số mệnh”. Nhưng dần dần khi đã va chạm với cuộc sống, trải qua một vài lần thất bại đổ vỡ … thì lúc đó mới bắt đầu thấm mệt mới bắt đầu hiểu ý của Nguyễn Du, “có tài mà cậy chi tài” hoặc có phần khắt khe và hoàn toàn ràng buộc vào cái ý niệm “thiên mệnh” là “bởi số, chạy đâu cho khỏi số ?.”
Con người có cải số được không ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tin hay không tin, tin ít hay nhiều, mức độ tin tưởng sẽ tỷ lệ theo tuổi đời, và có thể tin sớm hay tin muộn vào hai chữ "số mệnh" thì cũng còn tùy thuộc đường đời của mỗi người, là con đường đầy hoa lá hay sỏi đá chông gai ? Và người Á Đông của chúng ta cho rằng, vào khoảng lứa tuổi 40, có thể gọi là khoảng đời mà con người đã “tận nhân lực” cho nên có thể bắt đầu “tri thiên mệnh.”  
 
Như vậy biết số để làm gì ? Và biết số rồi có cải được hay không ?  

Vấn đề đầu tiên, biết số để làm gì, biết số có lợi ích gì không, là những điều có thể có câu trả lời tương đối dễ dàng. Có người nói rằng:  
 
- Tôi không bao giờ xem Tử Vi, biết rồi thêm buồn thêm lo mà thôi.  
 
Khi nói như vậy, họ đã hàm ý tin rằng mỗi người đều có số mệnh, và ít nhiều họ đã thấy hay cảm thấy được cuộc đời của họ không có gì lạc quan lắm, cho nên chấp nhận một cuộc sống “đến đâu hay đến đó” biết trước chỉ thêm lo nghĩ mà không làm được gì để thay đổi.  
 
Nhóm người này rất ít và mang cái tâm trạng của loài đà điểu, sợ thì chui đầu xuống đất cát, còn hầu hết đều muốn biết số của mình như thế nào. Và những người này lại có hai quan niệm, một thụ động và một chủ động. Những người thụ động là khi biết số của mình rồi thì thôi, phó mặc cho số như “thuyền đời mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu” ngược lại, những người có quan niệm chủ động thì họ tin vào số, dựa vào số, nương theo số để tránh hết những trở ngại mà họ đã biết trước. Đây chưa phải là một hình thức cải số mà chúng ta sẽ đề cập đến. Có thể nói đây là một hình thức tích cực của sự cải số, biết số và làm đúng với số cũng là một cách giúp chúng ta tránh được phần nào trở ngại, có thể là những trở ngại nhỏ nhặt, nhưng cũng có thể là những nguyên nhân đưa đến những sự thất bại to lớn. Ví dụ, người Mệnh Vô Chính Diệu, nếu biết số của người VCD là không nên đứng mũi chịu sào, có nghĩa là nếu trong quân đội thì không nên giữ chức vị trưởng, dù lớn hay nhỏ, hoặc bên hành chánh thì không nên giữ những chức vụ như trưởng phòng, giám đốc v.v… hoặc trong lãnh vực làm ăn kinh doanh thì không nên là người ra mặt điều hành. Một ví dụ khác, người làm ăn mua bán nếu biết hạn của mình năm nay không tốt thì họ chỉ giữ cơ sở của họ như cũ chứ không bỏ công bỏ của để khuếch trương phát triển rồi chuốc lấy sự thất bại lỗ lã. Còn ngược lại, nếu biết là hạn tốt, họ sẽ mạnh dạn mạo hiểm hơn mà vẫn gặt hái được những thành qủa như ý. Và trên khía cạnh tiêu cực, nếu mình biết trước số mình nghèo, tình duyên mình lận đận, con cái mình sẽ hư hỏng, về già mình sẽ cô đơn lẻ bóng v.v…thì ít ra mình đã biết, đã ít nhiều có sự chuẩn bị về tâm lý. Khi sự việc xảy đến, những ảnh hưởng về tinh thần sẽ có phần nhẹ nhàng, có thể chịu đựng được và có thể vượt qua dễ dàng hơn là trường hợp bất ngờ.  
 
Đi xa hơn, bậc làm cha mẹ nếu biết được số mệnh là một điều rất hữu ích trong vấn đề giúp đỡ con cái của mình. Mặc dù chúng ta vẫn nói, không ai hiểu con cái bằng cha mẹ, nhưng thật ra sự hiểu biết của cha mẹ về con cái rất hạn hẹp. Ngoài tính tình và những sở thích hiện tại, có nghĩa là đang trong lứa tuối đó của mỗi đứa con, thì cha mẹ không thể nào nhìn thấy được những biến chuyển và những thay đổi trong tương lai của mỗi đứa con của mình. Nhưng khoa Tử Vi có thể nhìn thấy được những điều đó và giúp cho cha mẹ hiểu rõ năng khiếu, sở trường, sở đoản của mỗi đứa con để hướng dẫn con cái chọn ngành mà học, chọn nghề mà làm. Nói chung, nếu cha mẹ có thể nhìn thấy trước cuộc đời của con mình, sung sướng hay cực khổ, may mắn hay gian truân, tình cảm được hạnh phúc hay lận đận, thì ít ra cha mẹ cũng có sự bù đắp trước về mặt tâm lý giúp cho con cái khỏi bị ngỡ ngàng và thất vọng khi phải đối diện với nghịch cảnh của đời mình.  
 
Trên một phương diện khác, biết số là một yếu tố hữu ích cho thuật dùng người. Ba chữ “thuật dùng người” không hẳn mình phải là một cấp lãnh đạo, chỉ huy v.v… nhưng trong vấn đề hợp tác làm ăn với nhau, biết rõ người hợp tác với mình cũng là một điều quan trọng. Hoặc trong vấn đề giao thiệp của cuộc sống hằng ngày, biết số giúp mình biết người và khỏi lầm người thì cũng tránh được sự ân hận về sau.  
 
Những điều vừa nêu trên đề cập vấn đề chúng ta biết số và thuận theo số, như vậy biết số rồi, chúng ta có cải số được hay không ?  
 
Đối nghịch lại với quan niệm “thiên mệnh” là quan niệm “nhân định thắng thiên”. Nhân sinh quan này phản ảnh phần nào khả năng tự tôn của con người, sự phấn đấu là tự tin của những tâm hồn lạc quan. Trong những bộ môn Khoa Học Huyền Bí thì môn Phong Thủy, Tướng Mệnh, và Tử Vi Đẩu Số đều đề cập đến phần nhân định, có nghĩa là con người có phần nào chủ động trong số mệnh của họ, chỉ khác nhau ở chỗ mức độ mà con người có thể cùng tạo hoá dự phần vào sự thay đổi số phận của mình.  
 
Nói như vậy là chúng ta đã sớm có câu trả lời, con người có thể cải số được nhưng rất hạn hẹp và chỉ ở một mức độ nào đó thôi chứ không thể nào thay đổi, lật ngược lại cả 180 độ. Trong những môn vừa nêu trên thì khoa Phong Thủy có thể sửa đổi một cách dễ dàng nhất vì đối tượng của Phong Thủy là nhà ở, cơ sở thương mại hay mộ phần. Về khoa Tướng Mệnh, sự sửa đổi không thể nhờ vào khoa thẩm mỹ mà chỉ đặt trên yếu tố cái tâm của con người, “tướng tùy tâm sinh” Và khoa Tử Vi mà chúng ta đề cập ở đây chỉ dẫn cho chúng ta những trường hợp và phương cách cải số nhưng xét ra cũng rất hạn chế và kết qủa của cuộc cải số này vẫn còn ràng buộc chặt chẽ vào những yếu tố quan trọng mà con người khó lòng kiểm chứng được, đó là phúc đức của mỗi người. Khi nói phúc đức của mỗi người chúng ta đã hiểu rằng phúc đức tạo được do chính bản thân mình tạo ra và phúc đức mà mình thừa hưởng được từ cha mẹ, ông bà hay nói chung là của dòng họ.  
 
Như vậy, chúng ta đã nói biết số và thuận theo số cũng là một hình thức cải số nhưng tiêu cực. Còn những cách cải số tích cực hơn nhưng cũng rất hạn hẹp, ví dụ, một vài trường hợp thấy trong các sách Tử Vi như nếu một đứa con nào đó có số khắc với cha mẹ thì đứa con ấy sẽ bị đau ốm, bệnh tật hoặc là có thể từ khi sinh ra đứa con này, cha mẹ của nó thường hay gặp những chuyện không may như mất việc, làm ăn thua lỗ v.v…Trong trường hợp này, cách hóa giải là cho đứa con ở với ông bà nội/ngoại, hay chú bác cô dì…  
 
Cách hóa giải của khoa Tử Vi thoạt nghe thì có vẻ dễ dàng nhưng thực tế thì đây là một vấn đề rất tế nhị. Có cha mẹ nào sinh con ra mà không muốn chính tay mình nuôi con. ở đây chưa nói đến sự ảnh hưởng sâu xa về tâm lý sau này của đứa bé. Tuy vậy, nếu làm được thì đổi lại sự bình yên cho cả hai bên, cha mẹ và con cái.  
 
Một ví dụ khác như đối với những người con gái mà khoa Tử Vi gọi là “cao số” hoặc có số hình khắc với chồng con, nặng nề hơn là số sát phu thì những lời khuyên thông thường là không nên cử hành đám cưới hỏi linh đình, mà càng nên đơn giản, càng lặng lẽ âm thầm càng tốt. Tùy theo mức độ khắc sát nặng nhẹ, hoặc lễ cưới không đốt đèn long phụng, không rướt dâu, hoặc có thể ở mức độ là cô dâu lặng lẽ xách vali về nhà chồng, hay một hình thức khác mà chúng ta thường nghe nói là cưới chạy tang. Cưới chạy tang là trường hợp đôi bên chưa có ý định làm đám cưới, nhưng nếu trong gia đình hai bên có tang, thì đây cũng là một cơ hội hóa giải sự khắc sát nặng nề, những giọt nước mắt ngày sau khóc chồng thì nay đã đổ xuống cho tang sự.  
 
Như vậy, đối với khoa Tử Vi, chúng ta có thể cải số, nhưng chỉ ở một mức độ nào đó và cũng giới hạn trong một vài lãnh vực. Việc cải số đối với khoa Tử Vi vẫn đặt căn bản trên quan niệm phúc đúc là chính yếu, đức năng thắng số. Cái yếu tố phúc đức này có được hay không là tùy ở cái tâm, cái tánh và hành động của mỗi cá nhân. Ví dụ như một giai đoạn về đức năng thắng số là một cậu bé được ông thầy coi số và nói với cha mẹ cậu ta sẽ không sống qúa tuổi 17. Một ngày tình cờ đi qua con suối, cậu bé thấy tổ kiến có hàng ngàn con kiến đang bị cuốn trôi theo dòng nước. Cậu bé can đảm lội xuống suối để cứu tổ kiến. Và cha mẹ đã ngạc nhiên khi thấy cậu vẫn sống qua tuổi 17. Còn thời Tam Quốc phân tranh, Khổng Minh Gia Cát Lượng, trên thông thiên văn, dưới rành địa lý, làm phép cầm sao bổn mạng của mình để sống thêm vài năm nữa mà thất bại. Người xưa đã nói: “Nhất tướng công thành vạn cốt khô” Gia Cát Lượng vì phò tá nhà Hán mà đã ra tay đốt chết 10 vạn quân đằng giáp của Mạnh Hoạch trong cốt Hồ Lô, rồi đốt luôn 80 vạn quân Tào trên sông Xích Bích thì như vậy phúc đức còn đâu mà toan cải số ?  

Tóm lại, những phương pháp cải số của khoa Tử Vi vừa giới hạn, vừa khó thực hiện. Một cách được xem là căn bản và áp dụng tổng quát là quan niệm “đức năng thắng số.”  

Nhưng hai chữ phúc đức vừa khó đo lường, vừa có vẻ mơ hồ khiến cho con người đâm ra nghi ngờ và đưa đến những ý nghĩ có vẻ đùa giỡn nhưng cũng phần nào hàm ý sự hoài nghi như có câu “người ngay thường mắc nạn, kẻ ác lại sống lâu”. Và nếu đem cái triết lý qủa báo của nhà Phật thì lại đi vào một nghi vấn khác: đâu phải lúc nào cũng thấy “qủa báo nhãn tiền” ? Nếu không “nhãn tiền” thì đến bao giờ ? Đi xa qúa sẽ làm lung lay niềm tin của con người. 

Nguồn: Thế giới bùa ngãi


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con người có cải số được không ?

Kiểu dáng và độ cao thấp của bể cá vàng –

Kiểu dáng của bể cá vàng phụ thuộc vào vị trí đặt bể. Theo phong thủy học, về nguyên tắc thì bể cá hình tròn là lí tưởng nhất, nhưng do ảnh hưởng của các nhân tố như kết cấu nhà ở nên bể cá hình tròn rất hiếm gặp. Bể cá có những kiểu dáng khác nhau t

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

hì nên nằm ở những vụ trí khác nhau:

49740471

–     Bể hình vuông hoặc hình chữ nhật: đặt ở xung quanh nhà, sát tường.

–   Bể hình tam giác: đặt ở góc nhà.

–   Bể hình vuông: đặt ở giữa nhà hoặc chỗ cạnh cửa ra vào.

–   Bể hình lục giác: không nên dùng loại bể này vì có “sát khí” lớn.

–   Bể hình bán nguyệt: đặt ở xung quanh nhà, sát tường.

Về độ cao thấp của bể cá cũng cần phải chú ý. Nếu tính theo kích thước của phong thủy thì bể cá cao nhất cũng chỉ có thể ngang với vị trí của tim, thấp nhất là ngang bụng. Nếu mực nước trong bể cao hơn vị trí tim của chủ nhà thì chủ nhà dễ bị bệnh tim, tư duy kém minh mẫn, tài vận không tốt. Còn nếu mực nước trong bể thấp hơn phần bụng của chủ nhà thì chủ nhà dễ bị các bệnh ở chân như tê phù hoặc nấm kẽ chân; ngoài ra thì nhà đó sẽ kém linh khí phong thủy, vận mệnh kém may mắn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiểu dáng và độ cao thấp của bể cá vàng –

Các sao Tử vi thể hiện tài lược kinh doanh

Các sách Tử Vi đã xuất bản thường cho rằng muốn kinh doanh, buôn bán, thì mệnh thân, tài, quan… phải tránh được các sao thanh cao, đứng đắn, đạo mạo (như Tử Vi, Thiên Phủ, Cự Nhật, Quan Phúc, Khôi Việt, Cáo Phụ, Thai Tọa, bộ Tứ Đức…)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các sách Tử Vi đã xuất bản thường cho rằng muốn kinh doanh, buôn bán, thì mệnh thân, tài, quan… phải tránh được các sao thanh cao, đứng đắn, đạo mạo (như Tử Vi, Thiên Phủ, Cự Nhật, Quan Phúc, Khôi Việt, Cáo Phụ, Thai Tọa, bộ Tứ Đức…) và cần có các sao chủ về tài lộc, tiền bạc, tháo vát, thủ đoạn, xoay xở giỏi (như Vũ Khúc, Song Lọc, Đại Tiểu Hao mão dậu, Cự Cơ mão dậu, Không Kiếp, Tả Hữu, Nhật Nguyệt v.v.). 

Tiêu chuẩn tổng quát này xét ra không phải là sai lầm, nhưng khi áp dụng vào nhiều trường hợp thì tôi thấy không ứng nghiệm chút nào, vì đâu có phải ngành kinh doanh không hợp với người đứng đắn, đành rằng trên thương trường nếu ta thành thực quá thì đương nhiên là bất lợi, khó giàu lớn.

Để khỏi lý luận dài dòng có thể làm cho quý bạn thấy nhàm tẻ, tôi xin nêu ra đươi đây nhiều cách ứng nghiệm cho ngành kinh doanh mà tôi đã gặp trong các lá số. Đây tôi chỉ đề cập đến những người thực sự đi vào ngành này chứ không kể đến những người chỉ vì sinh kế nhất thời mà phải miễn cưỡng buôn bán. Và qua các trường hợp sau đây quý bạn sẽ thấy tiêu chuẩn tổng quát nêu trên bị đảo lộn hết.

Tử Phủ hội Kình Dương (theo phú “Tử Phủ Kình Dương tất cự thương”):

Ta thấy hai sao đứng đắn Tử Phủ khi gặp Kình Dương lại trở thành buôn bán lớn (cự thương), nhưng lẽ tất nhiên buôn bán hợp pháp, đứng đắn, có cơ sở quy mô, có nhiều nhân viên, có vốn vững vàng, nhất là khi có thêm Khôi Việt, Tả Hữu, Xương Khúc, Long Phượng, Quang Quý thì càng dễ làm giám đốc, quản lý xí nghiệp lớn. Tuy nhiên, trong trường hợp này cần tránh được Hình, Kỵ để khỏi gặp cạnh tranh gây go có thể đưa đến thù oán kiện cáo; nếu chỉ có Hóa Kị thì không sao nhưng cần phải chuyên ngành kim khí (nếu tọa thủ tại mệnh thì hay có bệnh ở hạ bộ). Ngoài ra cũng cần tránh được Hỏa Linh để tránh được vấn đề về trộm cắp, gian tham của người dưới quyền, nhất là khi các sao này chiếu cung Quan hoặc cung Nô. Cũng có người cho rằng nếu chi có Tử Vi (không có Thiên Phủ) hội Kình và Quyền Lộc thì “tuy mỹ cát nhi vô đạo”, tức là tuy tốt nhưng bất chính, nhưng tôi nghiệm thấy không đúng mấy.

Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc hội Thiên Mã (tức là cách “Lộc Mã giao trì”, có câu phú “Giao trì Lộc Mã tiền tài đầy kho”)

Có vị Tử Vi cho rằng Lộc Mã ở đây là Lộc Tồn chứ không phải Hóa Lộc, nhưng tôi nghiệm thấy cả hai sao cùng ứng nghiệm. Gặp trường hợp này cần phải rời nơi sinh trưởng đi buôn bán nơi xa mới phát đạt, hoặc ít ra phải kinh doanh bằng cách di chuyển luôn luôn. Tôi cũng cần lưu ý quý bạn là nếu Thiên Mã ở cung Dần thì không nên đi xa quá vì đây là cách “mã hưu lan” (ngựa còn ở trong chuồng vì giờ Dần ngựa chưa đi ra goài). Còn gặp trường hợp Thiên Mã ở cung Hợi tức là “mã cùng đồ” (ngựa hết lối đi) thì lại không nên đi đâu cả. Có người cho rằng nếu Âm Nam, Dương Nữ thì ngựa vẫn đi được và còn cho rằng phải xét xem mạng của mình có hợp với ngũ hành của Thiên Mã (hỏa) hay không. Tôi không phê bình điểm này vì chưa nghiệm được.

Mã ngộ Tràng sinh thanh vân đắc lộ

Câu này thì hầu hết quý bạn đều biết. Tôi chỉ xin nói thêm là cần phải tránh Tuần Triệt, nhất là Triệt, thì việc buôn bán mời xuông xẻ, và tránh được Đà La để khỏi bị thương tích, tai nạn, nhất là khi hai sao này ở Mệnh. Vả lại, chính sao Đà La cũng ngăn trở việc kinh doanh không ít. Hơn nữa, cách này cũng chưa đủ mạnh nên còn cần có thêm một cách tốt trợ lực nữa thì mới phát đạt, nhất là Song Lộc. Ngoài ra còn phải tránh được hai sao Cô, Quả để tránh cảnh “đơn thương độc mã” trên đường kinh doanh vì không có lẽ kinh doanh một mình, không có khách hàng, không có ai cộng tác.

Vũ Khúc hội Thiên Phủ (cách Vũ Khúc, Thiên Phủ đôi kim tích ngọc)

Cách này mà gặp thêm Song Lộc thì buôn bán, kinh doanh thịnh vượng, phát đạt lắm, và nếu không có Song Lộc thì cần có Song Hao mão dậu để tiền bạc được luân chuyển, sinh lời vì nếu chỉ có Vũ Phủ (đều tượng trưng cho các kho) thì tiền bạc chỉ để trong ngân hàng hoặc trong két bạc mà thôi. Ngoài ra, lại cần phải người mạng Thổ hay Kim thì mới hợp cách này vì Vũ Khúc là Kim và Thiên Phủ là Thổ, tuy nhiên phải chịu thiệt thòi về phương diện tinh thần, nghĩa là hay bị cô đơn, khó lập gia đình, nhất là khi có thêm Cô Quả, Kiếp Sát, Thiên Hình (dù trong trường hợp Vũ Khúc Thiên Phủ cư Phúc Đức thay vì cư Mệnh)

Cự Nhật dần thân

Nhiều thầy Tử Vi nói rằng Cự Nhật cư mạng chỉ làm chức lớn trong chính quyền vì có câu phú “Cự Nhật dần thân qua phong tam đại”. Kể ra cũng đúng lắm, nhưng tôi đã gặp một trường hợp “trật đường ray”, nghĩa là không có chức phận trong chính phủ mà làm giám độc một hãng tư. Tôi xin tóm tắt là số trong trường hợp trên: Mạng đương số thuộc Thổ, mệnh cư Dần có Cự Nhật hội Quyền Lộc, Xương Khúc, Thân cư Tài vô chính diệu, do đó mạng Thổ không ưa cung Dần thuộc Mộc mà dựa nhiều vào Thân (cư Tuất thuộc Thổ) và khi Thân vô chính diệu thì phải kiếm chính tinh bên ngoài, nhưng Cơ Lương xung chiếu lại thuộc Mộc không dùng được nên phải hướng sang Cự Nhật và lại hợp được vì Cự Môn dưỡng cung Mộc để Mộc sinh Thái Dương (hỏa) rồi Thái Dương sinh mạng Thổ (theo lý “tham sinh võng khắc”), vì vậy, cung Thân hưởng trọn.

Cự Nhật, nhất là có thêm Hóa Lộc thuộc Thổ và Khôi Việt thuộc Hỏa sinh Thổ, để chuyển đổi câu phú trên thành “Cự Nhật cư Tài, phi quyền tắc phú”, mặc dầu thực sự Cự Nhật không cư Tài, nhưng theo lý ngũ hành thì hoàn toàn ảnh hưởng cho cung Tài. Do đó đương số không làm việc trong chính phủ cũng phải, nhất là Thân đâu có cư Quan.

Vũ Khúc hội Thất Sát ở Mão

Có cách này cũng có khiếu về buôn bán nhưng hơi gian hùng và ưa cạnh tranh vì có Liêm Tham đồng cung tại Tài Bạch. Tuy vậy, không thể buôn bán lớn được mà cần phải làm những “affaire” lặt vặt thì chắc ăn hơn.

Tử Vi hội Hóa Lộc và Nhật Nguyệt

Cách này rất giàu sang, buôn bán dễ dàng, hay gặp may, một vốn mười lời. Đó là cách “phú quý bất khả ngôn”, nhưng cần phải là người mạng Thổ hay Kim hoặc Hỏa mới ứng nghiệm. Nếu là người mạng Thủy hoặc Mộc thì chỉ trung bình thôi.

Thái Dương miếu địa hội Quan Phúc và Hóa Lộc

Cách này gọi là cách “Phúc lộc hà sa” nên đương nhiên làm ăn, buôn bán thịnh vượng không thể tưởng tượng được, nhiều khi ngồi chơi cũng vẫn phát tài. Và đặc biệt cách này lại rất cần gặp Cô Quả vì Thái Dương trong trường hợp này dư sức “tự lực tự cường” cho nên không cộng tác với người khác mới hưởng trọn vẹn được mọi mối lời, chứ nếu không có Cô Quả thì tiền lời sẽ bị chia năm sẻ bảy, đâu còn hay nữa. Cách này trái ngược với cách “Mã ngộ Tràng Sinh thanh vân đắc lộ” nêu trên về khía cạnh Cô Quả. Ngoài ra lại phải cần người mạng Hỏa hoặc Thổ mới đúng cách.

Cơ Cự mão dậu

Cách này gọi là “phú hữu lâu dài” phải cần có Song Lộc hội chiếu hoặc có Song Hao “chúng thủy triều đông” mới thành công mỹ mãn trên thương trường. Tôi cũng cần nhắc lại với quý bạn là Hóa Lộc hoặc Lộc Tồn không được đồng cung với Cơ Cự vì lý do ngũ hành, Song Hao thì trái lại phải đồng cung với Cự Cơ. Chắc các bạn còn nhớ câu “Song Hao mão dậu ái ngộ Cự Cơ tối hiềm Hóa Lộc” chứ !

Mệnh vô chính diệu đắc tam không nhi phú quý khả kỳ

Mệnh vô chính diệu thuộc cách này nếu chỉ đơn thuần như vậy (có nghĩa là chỉ có ba Không) thì vẫn chẳng nên trò trống gì, phải cần có Song Lộc hội chiếu và nhất là phải là con một trong gia đình, không được có anh hay em trái (có thể có chị em gái). Và dù có được như vậy cũng không có lâu bền mặc dầu có lúc ít ai bằng mình, nhưng thế mới đúng nghĩa chữ “khả kỳ”. Ngoài ra còn cần phải cộng tác với một hoặc nhiều người khác và mình nhận vai trò cố vấn, phụ tá hoặc phó thì mới thành công và lâu bền. Về điểm này cụ Hoàng Hạc đã nêu ra và tôi thấy rất đúng vì trong họ hàng tôi đã có mấy người có cách này.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các sao Tử vi thể hiện tài lược kinh doanh

Tác hại của Ngũ Quỷ vận tài - vượng tài lộc chưa chắc đã tốt

Ngũ Quỷ vận tài là phương pháp thúc đẩy tài lộc nhanh nhất nhưng cũng tiềm ẩn nhiều điều không hay. Cùng xem tác hại của Ngũ Quỷ vận tài để cân nhắc.
Tác hại của Ngũ Quỷ vận tài - vượng tài lộc chưa chắc đã tốt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phong thủy có không ít phương pháp đổi vận, thúc đẩy tài vận nhưng bất kì phương pháp nào cũng có mặt tốt và mặt xấu, mặt phải và mặt trái. Ngũ Quỷ vận tài là phương pháp thúc đẩy tài lộc nhanh nhất nhưng cũng tiềm ẩn nhiều điều không hay. Cùng xem tác hại của Ngũ Quỷ vận tài để cân nhắc trước khi sử dụng.

Tac hai cua Ngu Quy van tai - vuong tai loc chua chac da tot
 
Ngũ Quỷ vận tài là phương pháp phong thủy vượng tài lộc, có nhiều cách thể hiện, đơn giản nhất là khai khẩu Ngũ Quỷ tức là mở cửa ở phương vị Ngũ Quỷ để thu hút tài lộc. Ngoài ra có những cách thức khác, trong đó có cách mang tính chất tâm linh huyền bí.   Việc sử dụng phương pháp này là tốt hay xấu rất khó phân định, những tác hại của Ngũ Quỷ vận tài vẫn được nhắc đến một cách thường xuyên để những người có ý định dùng phải thật thận trọng.   

1. Tai hại khi dùng Ngũ Quỷ vận tài

  Phương pháp Ngũ Quỷ vận tài theo hướng tâm linh cho rằng, pháp sư làm nhiều việc thiện tích đức khi muốn cầu tài cầu lộc thì sẽ đem công đức báo lại cho Ngũ Quỷ để họ sớm ngày siêu sinh, giải thoát khỏi cực khổ, bù lại Ngủ Quỷ mang tài lộc tới, đôi bên cùng có lợi.   Nhưng với pháp sư làm điều ác, điều bất kính mà vẫn sử dụng phương pháp này để thúc tài thì Ngũ Quỷ không thể viên mãn siêu sinh. Coi như đây là hành động lừa dối để đoạt tài khiến Ngũ Quỷ nổi giận và sinh thù oán. Cũng có người sau khi đạt được tài vận thì bất kính với thiên địa quỷ thần, tồn tại ác niệm thì chắc chắn cũng sẽ gặp trùng trùng tai họa.
Xem thêm bài viết Ngũ Quỷ vận tài - phương pháp thúc đẩy tài lộc nhanh nhất
 

2. Ngũ Quỷ vận tài như thế nào?

  Phương pháp thúc đẩy tài vận này chủ về khai vận Thiên Tài, tiền của phi nghĩa, vừa hiệu quả lại vừa tốc độ. Bởi vì tính chất kỳ dị của nó chủ yếu được quyết định bởi nhân tố, linh lực của bản thân bùa chú nên có khá nhiều rủi ro. Khởi nguồn chính quy, chế tạo bùa khai quang theo đúng quy phạm thì chiêu khai tài mới hiệu quả rõ rệt. Bên cạnh bùa Ngũ Quỷ còn có phù Ngũ Quỷ cũng có tác dụng thúc tài rất tốt.    Yếu tố bản thân là quan trọng nhất và yếu tố hoàn cảnh cũng có nhiều tác động tới cách cục vượng tài này. Yếu tố bản thân đầu tiên là quan hệ suy vượng, vận suy thì cách cục khó thành, vận vượng thì cách cục sẽ thành. Nói cách khác chính là hơn nhau ở vận may, muốn đắc cách cần nhất là may mắn.    Song kể cả không gặp may thì người sử dụng Ngũ Quỷ vận tài không nhất định thu được tiền tài nhưng cũng không tới nỗi thua thiệt, thiếu hụt. Người gặp vận may là dùng cục pháp này thì đã tốt lại càng tốt hơn, thắng liên tiếp, thu tiền liên tục, nhanh gọn dứt khoát. 
Xem thêm bài viết Bát tự Tài vượng có phải là số mệnh phát tài?
 
Cách cục này có lợi cho Thiên Tài và giúp ích Chính Tài, khiến cho vận Thiên Tài của người dụng lên nhanh rõ rệt. Nếu người chỉ có vận Chính Tài mà dùng thì hiệu quả sẽ không tốt bằng.    Yếu tố hoàn cảnh có ảnh hưởng không hề nhỏ tới sự thành hay bại của cách cục Ngũ Quỷ vận tài. Cái gọi là một mạng hai vận ba phong thuỷ, nếu ở vị thế suy vị, lậu tài thì muốn khai vận chiêu tài tới mấy hiệu quả cũng không như ý. Thân cư cát vị, tài vị lại thêm bùa chú đúng cách bổ trợ mới phát huy được hết năng lực. 
phong thuy vuong tai loc
 
Trong mệnh có vận Thiên Tài, sử dụng cục Ngũ Quỷ vận tài có thể nói như hổ thêm cánh, như rồng vào biển, tiền tài thắng thế như chẻ tre, dời núi lấp biển mà đến, phát như mãnh hổ. Trong mệnh không có vận Thiên Tài thì dùng cũng đỡ đần được phần nào, coi như tích tiểu thành đại, tùy người mà ứng dụng khác nhau.   Bình thường, người dùng Ngũ Qủy vận tài pháp sẽ có thể nhận được những món quà nho nhỏ nhưng liên tục, gặp tình huống tài chính vui mừng bất ngờ, đảm bảo dư dả. Người bày bố trận pháp lớn thì tài chính lại càng đắc cách lớn.  

3. Có nên dùng Ngũ Quỷ vận tài hay không?

  Ở trên đã đề cập tới cả mặt lợi và tác hại của Ngũ Quỷ vận tài, tuy gọi mời tiền tài, thúc đẩy tài chính nhưng cũng có thể gây hại cho bản thân. Bởi bản chất của phương pháp này là cưỡng chế quỷ đạo chúng sinh, khiến sinh oán khí, tạm thời có thể mang đến lợi nhưng hậu hoạ vô cùng. Thế nên phương pháp này vẫn là bí pháp, đến nay không nhiều người còn dùng vì mặt trái của nó.   Tài vận đến từ bố thí trong quá khứ, kiếp này bố thí, cũng sẽ thay đổi tài vận cho tương lai, cho kiếp sau. Không ngại kiên trì phóng sinh thử xem, ba năm sau tài vận tất đổi, không cần dùng tới Ngũ Quỷ vẫn hanh thông.
Đặt tên tốt để cải thiên đổi vận, thúc đẩy tài lộc Lựa cây vượng tài vượng lộc cho 12 con giáp Trận pháp tụ tài giúp đẩy mạnh phong thủy vượng tài
Tâm Lan

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tác hại của Ngũ Quỷ vận tài - vượng tài lộc chưa chắc đã tốt

Cách gây tai họa và các sao họa (phần 2)

Tìm hiểu về các cách gây tai họa, và những sao gây họa trong khoa tử vi. luận giải lá số tử vi quá các cách

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cách gây tai họa và các sao họa (phần 2)

Cách gây tai họa và các sao họa (phần 2)

Cách gây tai họa và các sao họa (phần 2)

3. Họa cho nghề nghiệp:

a. Cách chức, thôi việc:

Tuần, Triệt ở cung Quan: trắc trở cho quan trường bằng nhiều hình thái: chậm công danh, công danh vất vả, thấp kém, không bền vững, thăng giáng thất thường. Sao Triệt báo hiệu sự gãy đổ ít nhất một lần trong sự nghiệp. Sao Tuần tác họa nhẹ hơn nhưng lâu dài hơn. Gặp cả Tuần, Triệt đồng cung thì tai họa nghề nghiệp vừa nặng, vừa nhiều. Tuy nhiên:

– Tuần, Triệt gặp Âm, Dương ở Sửu, Mùi thi không phá mà làm vượng quan.

– Tuần, Triệt gặp Sát, Phá, Liêm, Tham hãm tối hay bại tinh mờ ám cũng làm vượng quan.

– Tuần, Triệt gặp Tử, Phủ, Cự, Nhật, Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương sáng sủa thì bất lợi cho chức vụ rất nhiều như chậm quan, chóng tàn, gặp hung họa, thăng giáng thất thường. Nếu tám sao trên mà hãm địa thì khá hơn, tức là gặp khó khăn, thất thường trong việc thăng tiến nhưng tựu chung có chức vị khá lớn, nhất là về sau.

– Tuần, Triệt gặp Sát, Phá, Liêm, Tham đắc địa cũng còn đỡ khổ, không đáng lo ngại về sự thăng giáng hay gãy đổ sự nghiệp. Nếu hãm địa thì lại đẹp: công danh bộc phát mạnh mẽ.

Cung Quan vô chính diệu cần có Tuần, Triệt trấn thủ tại đó mới hay. Bằng không thì dễ sa sút. Nếu chính tinh xung chiếu mà sáng sử thì còn khá, ngược lại nếu mờ tối thì bất lợi.

Thiên Tướng gặp Tuần, Triệt thì dù được đắc địa, quan chức không những bị truất giáng mà còn dễ chết thảm khốc. Tướng Quân gặp Tuần, Triệt cũng lâm vào họa hại như thế.

Không, Kiếp: chỉ sự thăng trầm, lên voi xuống chó. Hãm địa thì càng nguy, chắc chắn phải ít ra một lần mất chức nhục nhã, bị đổi đi xa vì kỷ luật, chưa kể những hung họa dẫy đầy, dễ chết vì binh lửa, chiến nạn. Như vậy, sự gián đoạn chức vụ có thể bắt nguồn từ hai nguyên nhân bị chết hoặc bị cách chức. Còn những họa nhỏ khác như vất vả, đè nén, đố kỵ thì khỏi kể. Tai họa công vụ của Không Kiếp cũng còn do tật xấu của chính mình. Người có Không Kiếp có lá số xấu thường xử xự bằng thủ đoạn, bá đạo, ám muội, phi pháp, kiểu như tham lận, cướp của, hối lộ, tham nhũng, buôn lậu, biển thủ đưa đến việc mất chức.

Thiên Hình, Thiên Tướng, Tuần, Triệt: Hình hãm địa ở Quan có nghĩa gián đoạn công vụ vì bị ngục tụng, những tai bay vạ gió làm cho viên chức phải bị liên lụy trong quan trường, chẳng hạn như bị khiển trách, bị điều tra, bị ngưng chức, bị truy tố, bị sa thải. Nếu đi với sát tinh, dễ bị hình tù vì Thiên Hình chỉ hình phạt, bằng kỷ luật hay bằng tòa án. Cho dù Hình gặp Tuần hay Triệt, ngục tụng cũng khó tránh. Cũng đồng nghĩa đó nếu Hình đi với Thiên Tướng ở cung Quan. Nếu có thêm Thiên Khôi, sẽ có thể bị mất đầu. Những họa nói trên sẽ tránh được nếu đương sự bị đau phải mổ hay bị chết nhưng dù sao, Tướng Hình Khôi ở Quan bao giờ cũng đập nặng vào chức vụ: Thiên Hình ở Quan là hình thương đến công vụ. ý nghĩa này vẫn tồn tại nếu Hình đi chung với Liêm Trinh; với Quan Phù, Thái Tuế, Quan Phủ; với Hóa Kỵ; với Cự Môn hãm địa ...

Hóa Quyền, Thiên Hình hay Tuần, Triệt: Hóa Quyền tượng trưng cho quan tước, gặp Hình hay Tuần, Triệt thì có gián đoạn công vụ, thông thường là bị bãi nhiệm, bị đổi chỗ hoặc phải thôi việc. Nếu có chức phận cũng không giữ được lâu bền, phải từ bỏ vì một nguyên nhân nào đó. Những sao đồng nghĩa với Hóa Quyền mà gặp một trong ba sao này cũng rơi vào tai họa tương tự. Đó là các bộ sao: Quốc ấn, Thiên Hình hay Tuần, Triệt; Phong Cáo, Thiên Hình hay Tuần, Triệt; Thái Dương hãm, Thiên Hình hay Tuần, Triệt. Thông thường, ý nghĩa mất việc chỉ rõ ràng nếu bộ sao này đóng đồng cung ở Quan, nếu chỉ hội chiếu thì việc mất chức không rõ ràng lắm, có thể là tự ý thôi việc. Một số quý tinh khác như Thai Phu, Đường Phù gặp Tuần, Triệt hay Hình không đến nỗi nặng lắm, có thể có nghĩa như hụt thăng trật, hụt huy chương ...

Tuế, Đà, Kỵ: hội ở cung Quan chỉ mọi sự xui xẻo liên tiếp do sự tố cáo, chỉ trích, vu khống, xuyên tạc, đố kỵ, cạnh tranh làm cản trở bước tiến quan lộc, từ đó có thể đưa đến sự thôi việc, sự thay đổi công việc. Vì có Đà La, bộ sao này cho thấy có sự tranh cãi, gây lộn, ăn thua, khiếu nại, có khi ẩu đả giữa đồng nghiệp, xô xát với cấp chỉ huy để rồi cuối cùng gián đoạn công vụ.

b. Đè nén, đố kỵ

Phục Binh: điển hình cho sự hãm hại bằng thủ đoạn ngầm, sự đố kỵ, ghen ghét giữa đồng nghiệp hay giữa mình với cấp chỉ huy. Phục Binh còn có nghĩa âm mưu, kết bè, kết phái để đào thải, loại trừ đối thủ, có khi tổ chức phục kích, ám sát, thanh toán hoặc gài đương sự vào chỗ chết, chỗ kẹt, chỗ bị án, bị tù, bị quy trách. Thông thường, Phục Binh hay sử dụng mánh lới, thủ đoạn bất chính và bí mật để phá hoại đồng nghiệp, có khi liên kết với tòng phạm, bè cánh, tổ chức. Nếu có Tả Phù, Hữu Bật đi kèm thì nạn nhân phải chạm trán với cả một hệ thống chằng chịt bao gồm nhiều tay sai ở nhiều ngõ ngách, muốn khiếu nại cũng không được như ý, nhiều khi chẳng đi đến đâu.

Hóa Kỵ: chỉ đó kỵ, ganh ghét, cạnh tranh bằng thủ đoạn gièm pha, thêm bớt, thọc gậy. Hóa Kỵ là người bị nghi ngờ, bị theo dõi, bị để ý. Đi chung với Phục Binh, sự đố kỵ có tính cách ám hại, tầm thù, chẳng những bằng lời nói mà còn bằng hành động. Đi với Thiên Hình, Hóa Kỵ dễ sinh quan tụng, thưa gửi, khiếu nại, điều trần, cảnh cáo, khiển trách, ẩu đả lẫn nhau. Chỉ trừ khi đi với Thanh Long mới đẹp.

Thiên Không: chỉ phần tử lưu manh trong công/tư sở, chuyên môn phá hết kẻ này đến người khác, thọc gậy bánh xe, cản trở bước tiến của đồng nghiệp với ác tâm, có tà ý, âm mưu phá hoại. Bị Thiên Không, viên chức khó lòng ngóc đầu lên nổi, bị khép trong kỷ luật, khống chế, mình làm mà thiên hạ hưởng, bị cấp trên hay cấp ngang cướp công.

Đà La, Kình Dương: chỉ sự ngăn trở quan trọng vì ganh đua, cạnh tranh gay gắt. Tại vị trí hãm địa, đương số là nạn nhân của chia rẽ, phân hóa trong nghề nghiệp, làm việc nặng nhọc, gánh trách nhiệm mà bị tội vạ, hiểu lầm, khiển phạt. Những bạc bẽo của nghề thường do hai sao này quảng diễn.

Cự Môn hãm địa: đồng nghĩa với Hóa Kỵ nhưng nặng nề hơn. Con người Cự Môn cũng như Hóa Kỵ lúc nào cũng bất mãn, mưu tìm sự canh cải theo ý mình, không bảo thủ mà đấu tranh thay đổi thành phần bảo thủ. Nếu đắc địa thì việc đấu tranh có cơ hội thành công, trái lại, Cự Kỵ sẽ là nạn nhân của thái độ cấp tiến của mình, gánh lấy hậu quả của sự kìm chế, đè nén, cô lập. Đi chung với các sao ám khác như Thiên Không, Kình Dương, Đà La, Phục Binh, là những người hay kết bè kết đảng để đấu tranh. Nếu có sát tinh đi kèm thường có đổ máu, hình ngục, thanh toán, trả thù qua lại.

Tuế, Đà, Kỵ: tượng trưng cho những xui xẻo liên tiếp trong quan trường, trong nghề nghiệp, trong đó có sự đè nén, thị phi, gièm pha, đố kỵ.

Đại Hao, Tiểu Hao: đi chung với quyền, quý, dũng tinh, Nhị Hao thường chỉ sự sa sút hậu thuẫn, sự sút kém tín nhiệm, sự mất mát thế lực. Viên chức có Song Hao ở Quan, ngoài ý nghĩa hư danh, hư quyền, bị tổn thương uy tín, thất sủng, từ đó làm việc gì cũng không lâu bền, ở với ai cũng khó hòa hợp, có thể ngồi xơi chơi nước hay được giao những công việc chạy vặt, liên lạc, kém quan trọng. Về mặt tâm lý, Đại Tiểu Hao ở Quan còn chỉ những người đứng núi này trông núi nọ, bất mãn không khí đang sống, lúc nào cũng chực hờ, tìm chỗ tốt, chỗ bở, hay thay đổi chức vụ mà chũng chẳng hiển vinh gì bao nhiêu. Tính tình của Nhị Hao thường bất nhất, không bền chí, không kiên tâm tiến thủ trên cái gì đã có mà chỉ lo đổi chỗ để tìm lợi lộc, tìm thăng tiến. Nếu được đắc địa thì Nhị Hao có lợi hơn về mặt tài lộc, kinh nghiệm.

Thiên Khốc, Thiên Hư hay Tang Môn, Bạch Hổ: Trừ phi đắc địa ở Tý Ngọ, Khốc Hư ở Quan biểu tượng cho những ưu tư, lo buồn, hoang mang, sợ sệt khi hành nhiệm. Ngoài ra, còn có đặc tính bị khinh ghét, chê bai vì bất lực, bất hòa. Người có Khốc Hư ở Quan không thoải mái trong công việc, phải quan tâm lo lắng nhiều mối, vì nhiều lý do, có khi phải gánh chịu nhục nhã, xấu hổ bởi tai tiếng, bởi thị phi. Nếu đắc địa, các sao này chỉ uy tín và hoạt động chính trị cũng như năng tài hùng biện, giáo khoa, tâm lý chiến.

c. Bất dụng, sai dụng, thiểu dụng:

Lực Sỹ, Kình Dương: tượng trưng cho sự bỏ quên, việc ngồi chơi xơi nước, việc nghỉ giả hạn. Lực Sỹ chỉ tài năng, sự tháo vát, linh hoạt, lanh lợi đồng thời cũng ám chỉ thành tích, công lao, chiến tích. Kình Dương chỉ sự ngăn cản, trở lực, trục trặc trong công danh. Cả hai hội ý chỉ sự thi thố không hết mức tài năng, sự đãi ngộ bất xứng với thành tích, sự thiểu dụng, từ đó nảy sinh sự bất mãn, bất đắc chí. Kình Lực không nhất thiết ngụ ý người có tài mà lắm khi ngụ ý người tự cho rằng mình có tài, vì bị bạc đãi nên bất mãn. Kình Lực đôi khi chỉ tham vọng, sự cậy tài, sự ỷ lại quá đáng làm cho quần chúng ghét bỏ, xa lánh.

Thiên Mã, Tràng Sinh ở Hợi: Thiên Mã thông thường chỉ tài năng. Gặp thêm Tràng Sinh là có cơ may tiến đạt. Nhưng hiềm vì ở cung Hợi cho nên năng tài này bị chìm trong bóng tối. Đây là hạn người kém may, không có cơ hội thi thố được, hoặc chỉ có danh mà không có quyền, chỉ có hư vị hơn là thế lực, hoặc bị đặt vào chỗ tượng trưng để lợi dụng uy tín chứ không phải để hành sử quyền binh. Công lao của Mã Sinh ở Hợi thường chỉ ở trong bóng mờ, hay bị người khác lấn át. Nếu gặp Phục Binh, ngụ ý người có tài mà bị ruồng bỏ, bị gièm xiểm, bị đào thải ...

Thiên Mã, Tuần, Triệt: không chỉ tai nạn xe cộ mà chỉ sự bất dụng, sự thiếu may mắn trong nghề nghiệp, làm cái gì cũng thất bại, tai ương, xui xẻo khiến cho thượng cấp mất dần tín nhiệm, không dám giao phó đại sự. Cho nên, công danh của Mã, Tuần, Triệt tương đối nhỏ.

Lộc Tồn, Tuần, Triệt: Lộc Tồn cũng chỉ tài năng như Thiên Mã, đặc biệt là tài tổ chức, quyền biến, khai sơn phá thạch, có nhiều sáng kiến giải quyết mọi việc. Gặp Tuần Triệt, tài năng, cơ may bị tiêu tán. Đó là trường hợp những người bị thiểu dụng, bị uổng dụng, bị sai dụng.

Thiên Tài: đi chung với Nhật, Nguyệt sáng sủa sẽ làm mất đi sự tốt đẹp, làm giảm ánh sáng của Nhật, Nguyệt. Đó là trường hợp tài năng thiếu cơ hội.

Tại cung Quan vắng bóng những sao trợ quyền, những sao may mắn thì tài năng thường cô độc, thiếu người công lực, nâng đỡ, thiếu may mắn của thời cuộc. Đó là những sao Ân Quang, Thiên Quý, Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Quan, Thiên Phúc, Thanh Long-Lưu Hà, Thanh Long-Hóa Kỵ, Thiên Mã-Tràng Sinh (trừ ở Hợi), Bạch Hổ-Phi Liêm, Tràng Sinh-Đế Vượng, Thiên Hỷ-Hỷ Thần, Tứ Linh, Tam Hóa ...


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách gây tai họa và các sao họa (phần 2)

Các lễ hội diễn ra trong ngày 24 tháng 6 âm lịch - Hội Chùa Ông

Hội Chùa Ông được tổ chức vào ngày 26 tháng 6 âm lịch hàng năm tại 676 - 678 đường Nguyễn Trãi, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội diễn ra trong ngày 24 tháng 6 âm lịch - Hội Chùa Ông

Các lễ hội diễn ra trong ngày 24 tháng 6 âm lịch - Hội Chùa Ông

Hội Chùa Ông

Thời gian: tổ chức vào ngày 24 tháng 6 âm lịch.

Địa điểm:  676 - 678 đường Nguyễn Trãi, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn quan Công và nhiều vị Thần của trung Hoa khác.

Nội dung: Hội lễ có dâng hương, tắm tượng Phật, múa lân, hát bội.

Đọc thêm: Kiến trúc ngôi chùa mang màu sắc Trung Hoa cổ kính, có lịch sử trên 200 năm. Chùa Ông thờ Quan Vân Trường, vốn là hội quán của người Triều Châu, đã được trùng tu vào các năm 1866, 1901, 1966, 1984. Kiến trúc và trang trí ở chùa thể hiện rõ nét phong cách Trung Hoa qua thiết kế, qua các tượng, phù điêu bằng gốm trên mái ngói hay các bông hoa chạm ngược, tượng kỳ lân, diềm gỗ... trên bộ vì kèo sơn màu đỏ thắm...

Chính điện có gian thờ Quan Thánh, tượng cao 300 cm, mặc áo gấm xanh, ngồi trên ngai, đặt trong khám thờ chạm viền nhiều lớp tùng - hạc, mai - điểu, mẫu đơn - trĩ, Bát tiên giao chiến thủy quái... Đứng hầu hai bên trước bệ thờ là tượng Quan Bình và Châu Xương cao gần 200 cm, đặt trong tủ kính.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội diễn ra trong ngày 24 tháng 6 âm lịch - Hội Chùa Ông

Top 3 con giáp kiếm bộn tiền dịp cuối năm

Dựa nào sự khéo léo, tính kiên trì hay sáng tạo, những người tuổi Hợi, Mão, Thân sẽ kiếm bộn tiền trong dịp cuối năm này.
Top 3 con giáp kiếm bộn tiền dịp cuối năm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No1: Tuổi Hợi

Không chỉ khéo tay, con giáp này còn rất hoạt bát, biết tận dụng mọi cơ hội để mang lại lợi ích cho bản thân. Vào thời điểm cuối năm với nhiều dịp lễ lớn như Giáng sinh, Tết, cơ may kiếm tiền sẽ liên tiếp xuất hiện và người tuổi Hợi sẽ không bỏ lỡ.

hoi-2-1175-1418353829.jpg

Có thể họ sẽ thu về rất nhiều lợi nhuận từ công việc kinh doanh đồ hand-made phát lộc của mình dịp cuối năm. Tài ăn nói khéo léo sẽ giúp họ bán sản phẩm dễ dàng hơn. Mặt khác, sự tính toán tỉ mỉ tới từng “cái kim, sợi chỉ” sẽ hỗ trợ đắc lực họ trong việc buôn bán không thua lỗ.

No2: Tuổi Mão

Là con giáp không thường xuyên gặp may mắn trong cuộc sống, nhưng người tuổi Mão rất nỗ lực để vượt lên hoàn cảnh khó khăn, mang lại cuộc sống sung túc. Điều này có thể suy ra họ sẽ nắm bắt bất kỳ công việc gì nhàn hạ nhất, nhưng kiếm được thật nhiều tiền trong dịp cuối năm, chào đón năm 2015. 

mao-2513-1418353830.jpg

Sự kiên trì sẽ giúp họ bám trụ được với công việc làm thêm đòi hỏi mất nhiều thời gian, thậm chí làm đêm như giao hàng hay bán quần áo, hoa quả. Người tuổi Mão nghĩ rằng, nếu họ cố gắng 200% sức lực trong dịp này, thì đầu năm mới sẽ có hầu bao rủng rỉnh hơn, hứa hẹn trong năm tới sẽ không phải lo lắng nhiều về tài chính.

No3: Tuổi Thân

Nếu tuổi Mão dựa vào lòng kiên trì, sự nỗ lực, tuổi Hợi kiếm tiền bằng sự khéo léo, thì người tuổi Thân lại có nhiều cơ hội sở hữu thu nhập “khủng” nhờ vào sự sáng tạo, làm những gì mà chưa ai từng làm trước đó.

than-9308-1418353830.jpg

Họ sẽ nghĩ ra được hình thức kinh doanh hoặc dịch vụ nào đó đặc trưng cho dịp cuối năm để kiếm tiền. Số vốn bỏ ra sẽ rất ít, trong khi con giáp này lại thu về siêu lợi nhuận. Nói cách khác, đây là thời điểm tốt nhất để người tuổi Thân “bán chất xám” của mình.

Mr.Bull (theo SN)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 con giáp kiếm bộn tiền dịp cuối năm

Giải mã ý nghĩa của việc đặt tên chữ T (P2)

Cái tên mà mỗi người đang mang sẽ đại diện cho một tính cách, một số phận nhất định. Vậy ý nghĩa của việc đặt tên chữ T là gì ?
Giải mã ý nghĩa của việc đặt tên chữ T (P2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi cái tên mang một tính cách, một số phận khác nhau.


Tây:
Đa tài, nhanh trí, số thanh nhàn, phú quý, trung niên có thể gặp tai ương, cuối đời thành công hưng vượng.

Tế: Trí dũng song toàn, trung niên thành công, hưng vượng, gia cảnh tốt, cẩn thận gặp họa trong tình cảm.

Thả: Trí dũng song toàn, cả đời thanh bạch, nếu có 2 con thì cát tường.

Tha: Là người hòa nhã, đa tài, nếu xuất ngoại sẽ được nhiều tài lộc, số kỵ xe cộ, tránh sông nước.

Thạc: Tính tình hiền hậu, có số thanh nhàn, phú quý, đường quan lộ rộng mở, danh lợi song hành. Nếu sinh 2 con thì cát tường.

Thạch: Số khắc bạn đời, khắc con cái. Trung niên bôn ba vất vả, cuối đời cát tường.

Thái: Số cô độc, khắc cha mẹ. Trung niên thành công, phát tài, phát lộc.

Thẩm: Là người tài giỏi, nhanh trí. Trung niên bôn ba vất vả, cuối đời thịnh vượng.

Ten chu T (P2) hinh anh
Tên chữ T


Thám:
Trung niên vất vả, cuối đời cát tường.

Thầm: Số bôn ba, lao khổ, có tài nhưng không gặp thời. Trung niên vất vả, cuối đời cát tường.

Thân: Cả đời thanh nhàn, vinh hoa phú quý. Trung niên thành công, phát tài phát lộc.

Than: Đa tài, nhanh trí, trung niên thành công, phát tài, phát lộc, cuối đời vất vả.

Thần: Lanh lợi, đa tài, nhanh trí, công chính liêm minh. Trung niên có thể gặp tai ương, cuối đời phát tài, phát lộc.

Thặng: Bệnh tật, đoản thọ, cuộc đời không may mắn, khó hạnh phúc.

Thắng: Là bậc anh hùng, kết hôn sớm sẽ đoản thọ, nếu kết hôn muộn thì cát tường, trung niên cẩn thận kẻo gặp tai ương.

Thang: Trí dũng song toàn, đường quan lộ rộng mở, trung niên thành công, có số xuất ngoại.

Thăng: Trí dũng song toàn, số thanh nhàn, phú quý. Thuở nhỏ vất vả, trung niên thành công, phát tài, phát lộc.

Thạnh: Là người đa tài, cả đời nhàn hạ, con cháu hưng vượng, trung niên cát tường, đường quan lộ rộng mở, có số xuất ngoại.

Thanh: Có số danh lợi song toàn, phúc lợi lâu dài, thanh nhàn, phú quý, trung niên thành công, số có 2 vợ.

Thành: Thanh tú, đa tài, xuất ngoại hoặc xa quê sẽ đại cát, số kỵ nước. Trung niên thành công.

Thảo: Mau miệng, tính cương trực, đi xa sẽ cát tường,  trung niên vất vả, cuối đời hưởng phúc.

Thao: Tính cách điềm đạm, có số phúc lộc, thanh nhàn. Trung niên vất vả, cuối đời cát tường, là phụ nữ thì yếu ớt, đoản mệnh, bất hạnh.

Thập: Ôn hòa, hiền hậu, có duyên bôn ba, gia đình trên dưới hòa thuận, thành công rộng mở.

Thất: Số lận đận, sát vợ con, cả đời khó có hạnh phúc hoặc lắm bệnh tật.


Theo Tên hay thời vận tốt


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã ý nghĩa của việc đặt tên chữ T (P2)

Sự nghiệp của người tuổi Dậu qua 12 tháng

Diễn biến sự nghiệp người tuổi Dậu qua từng tháng là không giống nhau.
Sự nghiệp của người tuổi Dậu qua 12 tháng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Tháng 1 (tháng Dần), sự nghiệp của bạn có phần không được tốt lắm. Công việc có nhiều biến động nên cần bình tĩnh để tìm cách ứng phó với tình hình.

Tháng 2 (tháng Mão), cần hết sức thận trọng trong công việc vì tháng này có sao xấu chiếu mệnh. Hãy chủ động bình tĩnh trong mọi tình huống và giải quyết từng vấn đề.

Tháng 3 (tháng Thìn), sự nghiệp của bạn phát triển rất tốt. Mọi khó khăn đã được giải quyết và cơ hội đã đến với bạn. Hãy chủ động tích cực và tìm cách hợp tác, liên kết với nhiều người để đưa sự nghiệp tiến lên.

Su nghiep cua nguoi tuoi Dau qua 12 thang hinh anh
Tuổi Dậu

Tháng 4 (tháng Tị), sự nghiệp của bạn có bước phát triển ổn định. Hãy cố gắng nắm bắt thời cơ. Tuy nhiên, bạn không được chủ quan đắc ý.

Tháng 5 (tháng Ngọ), sự nghiệp của bạn có phần không được tốt lắm. Cần thận trọng, tránh vướng vào chuyện thị phi cãi cọ, ảnh hưởng xấu đến công việc.

Tháng 6 (tháng Mùi), sự nghiệp của bạn có bước tiến triển. Có thể bạn sẽ đứng trước khá nhiều sự lựa chọn trong công việc và điều cần làm là không nên do dự.

Tháng 7 (tháng Thân), công việc của bạn có nhiều thuận lợi. Có nhiều khả năng sẽ được thăng chức. Cần chú ý trong mối quan hệ với cấp trên và người lớn tuổi.

Tháng 8 (tháng Dậu), sự nghiệp của bạn có phần không được tốt lắm. Cần nỗ lực nhiều hơn nữa và chú ý quản lý tài chính.

Tháng 9 (tháng Tuất), sự nghiệp của bạn có chiều hướng đi lên. Hãy nắm bắt lấy cơ hội nhưng cũng cần biết cân nhắc trong việc lựa chọn làm ăn.

Tháng 10 (tháng Hợi), sự nghiệp của bạn không được tốt bằng tháng trước. Nên kiên trì, không được vội vàng.

Tháng 11 (tháng Tý), sự nghiệp của bạn có phần không được tốt. Đường tài vận của bạn tháng này cũng không tốt. Cần tránh đầu tư làm ăn mạo hiểm.

Tháng 12 (tháng Sửu), sự nghiệp của bạn có nhiều khởi sắc. Những khó khăn sẽ được tháo gỡ. Hãy có gắng phấn đấu hơn nữa, bạn sẽ có được kết quả tốt đẹp.

Theo 12 con giáp về sự nghiệp cuộc đời


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự nghiệp của người tuổi Dậu qua 12 tháng

Phương pháp tích thiện

I. Một nhà tích thiện hẳn có nhiều vui Mười gương mẫu của người xưa Kinh Dịch nói: một nhà tích thiện hẳn có nhiều vui. Xưa bà Nhan thị đem con gái gả cho Thúc Lương Hột là bà xét kĩ thấy gia đình đó tổ tông đã từng tích đức lâu đời mà đoán biết trước là con cháu họ về sau sẽ hưng thịnh phát đạt.
Phương pháp tích thiện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đức Khổng Tử tôn xưng vua Thuấn là bậc đại hiền có nói: Tổ tiên được hưởng việc tế tự nơi tông miếu, con cháu đời đời hưởng phúc, bảo tồn cơ nghiệp của tổ tông truyền lại, đều là những lời nghị bàn thiết thực xứng đáng.

1.  Dưng Vinh làm quan đến chức thiếu sư, nguyên người huyện Kiến Ninh tỉnh Phúc Kiến, gia đình đời đời sinh sống bằng nghề chèo đò đưa khách qua sông. Nhân gặp phải kì mưa lũ quá lâu, nước từ trên núi đổ xuống vùng hạ lưu. Các thuyền khác đều nhân cơ hội mà theo vớt các tài vật trôi nổi trên sông, chỉ riêng thuyền của cụ nội ông thiếu sư chuyên cứu vớt người mà thôi, tuyệt đối không tham vớt một chút tài vật nào cả. Người làng ai cũng cười chê cho là ngớ ngẩn, đần độn.

Kịp cho tới khi sinh ra phụ thân của thiếu sư thì gia đình đã dần dần khá, có thần nhân hóa làm một vị đạo sĩ mà mách bảo rằng tổ phụ nhà ngươi có âm đức, con cháu sẽ được vinh hiển phú quý, nên táng vào chỗ đất đó, bèn theo lời chôn cất vào chỗ huyệt đã được chỉ dẫn, tức nay là phần mộ Bách thố vậy.

Sau sinh thiếu sư, vào năm 20 tuổi đã đỗ tiến sĩ, làm quan tới chức tam công (tức thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo, hay thái sư, thái phó, thái bảo), tằng tổ, nội tổ và phụ thân cũng được truy phong chức tước như vậy. Con cháu đều vinh hiển, thịnh vượng, cho tới nay trong gia đình cháu chắt còn có nhiều người hiền.

2.  Dương Tự Trừng, người huyện Ngân, tỉnh Triết Giang, buổi đầu làm huyện lại, lòng vốn nhân hậu, ngay thẳng, giữ phép công bình. Vào thời ấy, quan huyện lại quá nghiêm khắc, ngẫu nhiên gia hình tù nhân đến máu chảy đầy đất mà cơn giận chưa nguôi. Họ Dương Quỳ xin khoan dung. Huyện quan bảo: tù nhân này đã phạm tội lại không tôn trọng pháp luật, không biết đạo lý nữa, khiến ta làm sao không giận được. Tự Trừng khấu đầu thưa: Người trên lỗi đạo, không còn làm gương mẫu cho kẻ dưới noi theo nên dân tâm thất tán từ lâu rồi, quan trên nếu hiểu rõ tình trạng phạm pháp của dân thì nên thương xót họ, chẳng nên thấy mình xét xử án được phân minh mà vui thích, vui còn chẳng nên huống hồ lại giận dữ sao! Quan huyện nghe nói tỉnh ngộ mà nguôi cơn thịnh nộ.

Nhà rất nghèo, lại không nhận một chút tặng vật nào cả. Gặp những lúc tù nhân thiếu ăn, thường tìm cách giúp đỡ. Một hôm có bọn tù nhân mới từ xa tới, dọc đường không có ăn nên đói lả, mà nhà lại thiếu gạo, đem cho tù ăn tất nhà không có miếng, để lại nhà ăn thì khó nhẫn tâm, bèn thương lượng với vợ. Bà vợ hỏi là tù nhân từ đâu lại thì Tự Trừng bảo là từ Hàng Châu tới, dọc đường không có ăn, đói khát khổ sở, sắc mặt xanh xao như tàu lá, nhân đó lấy bớt gạo của nhà nấu cháo cho tù ăn đỡ.

Về sau sinh được hai trai, con trưởng đặt tên là Thủ Trần, con thứ là Thủ Chi, đều làm đến Lại bộ thị lang, một người ở Bắc Kinh, một người ở Nam Kinh; cháu nội được hai người, trưởng làm Hình bộ thị lang, và thứ làm liêm hiến (án sát ty) ở tỉnh Tứ Xuyên, tất cả con và cháu đều là những danh thần. Hiện nay, (tức vào thời của Liễu Phàm tiên sinh) Sở Đình hay Đức Chính cũng đều là dòng dõi của gia đình đó.

3. Xưa vào niên hiệu Chính thống nhà Minh, Đặng Mậu Thất khởi loạn ở Phúc Kiến, sĩ dân theo giặc rất đông. Triều đình cử quan đô hiến Trương Giai người ở huyện Ngân, xuất quân nam chinh, tiễu trừ giặc. Sau Trương Đô hiến phái viên đô sự họ Tạ, thủ hạ của Bố chánh ty tỉnh Phúc Kiến truy sát tầm nã giặc ở phía đông tỉnh.

Tạ Đô sự tìm được quyển sổ danh sách của đảng giặc; phàm người không theo phụ họa giặc đều bí mật được phát cho một lá cờ nhỏ bằng vải trắng, ước hẹn tới ngày quân binh tấn công thì treo cờ ở trước nhà, lại nghiêm lệnh cho quân lính không được giết hại bừa bãi, vì thế cứu sống được cả vạn người. Sau con của Tạ Đô Sự là Tạ Thiên thi đỗ trạng nguyên, làm quan đến tể tướng, cháu nội là Phi cũng đỗ thám hoa.

4.   Bà họ Lâm, người huyện Phủ Điền, trên có mẹ già chăm làm việc thiện, thường nắm cơm thí thực, ai đến cũng liền cho ngay mà không hề có vẻ phiền hà, ghét bỏ. Một vị tiên hóa trang làm đạo nhân, mỗi sáng đến xin đều đòi cho được sáu bảy nắm. Mỗi ngày đều cho như vậy, suốt ba năm liền, ngày nào cũng như ngày ấy, nên thấu rõ tấm lòng thành thực chỉ bố thí mà không cầu mong gì cả. Nhân vậy, đạo sĩ bèn bảo rằng: Ta ăn của nhà ngươi đã ba năm, chẳng biết lấy gì đền đáp. Sau nhà có chỗ đất quý, nên táng vào chỗ đó, con cháu về sau quan chức, tước vị thật vô số kể như vừng đựng trong đấu vậy. Người con bèn theo chỗ chỉ điểm mà để mộ. Mới đợt đầu đã thấy phát ngay có chín người đăng khoa trúng cử, đời đời quan tước cực thịnh. Ở Phúc Kiến có câu nói: chẳng người họ Lâm nào là chẳng khoa bảng đề danh cả.

5.  Phụ thân của thứ sử Phùng Trác Am hồi còn là tú tài, một buổi sáng trời mùa đông cực kì rét buốt, dạy sớm đi lên huyện học, dọc đường gặp một người ngã nằm trên lộ bị tuyết phủ đầy, lại sờ thân thể người đó, thấy nửa mình đã bị đông cứng, bèn cởi áo lông của mình ra mặc cho và đưa về cứu giúp cho tỉnh lại; đêm mộng thấy thần nhân bảo: ngươi do tâm chí thành cứu được một mạng người, ta sẽ khiến Hàn Kỳ (một vị tể tướng đời nhà Tống) đầu thai vào làm con ngươi, kịp đến khi sinh ra Trác Am bèn đặt tên Kỳ.

6.  Ưng thượng thư người phủ Đài Châu, tỉnh Triết Giang, lúc còn tráng niên học tập ở trên núi, ban đêm nghe quỷ hú gọi nhau tập hợp, tiếng hú thường làm nhiều người rùng rợn, nhưng ông không hề sợ hãi. Một đêm nghe quỷ bảo nhau mụ vợ nhà kia chồng đi xa đã lâu không về, bố mẹ ở nhà ép gả cho người khác, đêm mai sẽ thắt cổ ở nơi đây; vậy là ta đã có người thế thân rồi.

Ông ngầm bán ruộng được bốn lạng bạc bèn giả lời lẽ người chồng viết một bức thư kèm theo tiền gửi về nhà. Bố mẹ ở nhà nhận được thư thấy bút tích không giống cũng hơi hoài nghi nhưng lại nghĩ rằng thư có thể giả được nhưng tiền đâu có giả, vả lại được biết tin con nên thôi không ép gả nữa. Người con sau đó trở về nhà, vợ chồng cùng nhau sum họp vui vầy như thuở ban đầu.

Ông lại nghe thấy quỷ nói với nhau: Ta đang sắp được thế thân mà gã tú tài kia làm hỏng chuyện của ta. Một quỷ khác ở cạnh nói: Sao ngươi không hại hắn? Quỷ kia nói: Thượng đế thấy người này tâm địa rất tốt, làm nhiều điều phúc, âm đức dày đáng bậc thượng thư, ta làm sao hại nổi. Nhân đó họ Ưng tự nỗ lực chăm làm lành, ngày càng gia công tu thiện, đức ngày càng thêm dày; gặp người thân thích có chuyện cần cấp tức thì tận tình tìm mọi cách giúp đỡ họ qua lúc khó khăn, gặp trường hợp phải đối xử với người không biết lẽ phải trái, không hiểu được đạo lý thì ngược lại ông chỉ tự trách mình sao không biết cư xử với họ, mà vui vẻ an nhiên không chấp, coi như mình lầm lỗi vậy. Con cháu khoa bảng đỗ đạt cho tới nay thật là nhiều vô kể.

7.  Người huyện Thường Thục, tỉnh Giang Tô, họ Từ tên Thức tự Phượng Trúc, phụ thân là điền chủ giàu có, gặp năm mất mùa, trước đề xướng việc quyên tô, tức bỏ không thu địa tô nữa, sau lại đem thóc gạo dự trữ ra phát chuẩn cho người nghèo khó. Ban đêm nghe thấy quỷ hô ở ngoài cửa: ngàn lần không sai, vạn lần không sai, tú tài nhà họ Từ sẽ thành cử nhân lang, cứ thế tiếp tục hô liền nhiều đêm không ngừng. Quả nhiên năm đó Phượng Trúc thi hương đỗ cử nhân.

Phụ thân của Phượng Trúc thấy vậy càng gia công tích đức, cần mẫn chăm lo hành thiện chẳng chút lơ là mệt mỏi; phàm những việc có ích lợi đều hết sức tận tâm làm như tu sửa cầu, tu bổ đường sá, thí thực trai tăng, tiếp tế người nghèo… Sau lại nghe thấy quỷ hô ở trước cửa: ngàn lần không sai, vạn lần không sai, cử nhân họ Từ quan chức thăng tới đô sát. Phượng Trúc sau cùng làm quan tới Lưỡng Triết tuần vũ.

8.   Ông Đồ Khánh Hy, người phủ Gia Hưng tỉnh Triết Giang, buổi ban đầu giữ chức chủ sự bộ hình, thường vào trong ngục tra xét cẩn thận hỏi lại tình trạng của tù nhân biết được nhiều người vô cớ bị tội. Ông không tự lấy làm công lao của mình mà viết sớ mật trình lên đường quan, tức thượng thư bộ hình. Về sau, các án tích đều được đưa về triều xét lại. Đường quan theo lời trong mật sớ tra vấn lại tình trạng của tù nhân giải oan được cho hàng chục người, khiến cho không ai là không phục. Thời đó ở kinh thành tất cả mọi người đều khen ngợi thượng thư xử án thật công minh.

Ông lại bẩm cáo đường quan: ở ngay kinh thành mà còn nhiều dân bị án oan, thì hàng trăm triệu dân ở khắp bốn phương trong nước sao khỏi không có người bị oan ức, khá nên trong năm năm lại sai phái một vị giảm hình quan đi điều tra sự thực xét lại án, hoặc gia giảm tội hình, hoặc giải oan phóng thích họ. Thượng thư bộ hình tấu trình hoàng đế thì lời đề nghị đó liền được phê chuẩn, và ông có tên trong danh sách những người được sai phái làm giảm hình quan. Ông nằm mộng thấy thần nhân bảo: người số không con, nay đề nghị việc giảm hình thật rất hợp lòng trời nên thượng đế ban cho ngươi được ba trai đều mặc cẩm bào đai vàng. Ngay đêm đó, bà vợ thụ thai, sau sinh ra Ưng Huyên, Ưng Khôn, Ưng Tuấn đều quan chức hiển hách cả.

9.   Ở phủ Gia Hưng có người tên Bao Bằng, hiệu Tín Chi, thân phụ ông làm thái thú huyện Trì Dương sinh được bảy người con. Bằng là út, gởi rể ở nhà họ Viên, huyện Bình Hồ cùng với phụ thân ta là chỗ thâm giao, học rộng tài cao, nhiều lần thi hương không đậu cử nhân nên chán chuyện khoa bảng mà chuyên tâm học Phật và Lão.

Một hôm đi du ngoạn Mão Hồ ở phía đông tỉnh, ngẫu nhiên tới một ngôi chùa ở làng nọ, thấy tượng đức Quán Thế Âm bị lộ thiên, dầm mưa loang lổ, bèn mở túi đẫy lấy mười lạng bạc đưa cúng dường để hòa thượng trụ trì sửa lại chùa cho khỏi dột nát làm tượng bị ướt át, thì hòa thượng cáo bạch là việc tu sửa mất nhiều công mà tiền bạc không đủ, e khó hoàn thành công tác. Bao Bằng cho mở rương mây lấy thêm bốn tấm vải, sản phẩm của Tung Giang, và bảy bộ áo kép bằng vải gai còn mới tinh đưa cúng dường để bán lấy tiền phụ thêm vào việc tu bổ chùa. Người làm có ý tiếc, ngăn cản lại thì Bao Bằng bảo miễn là tượng đức Bồ Tát không bị ướt át là được, ta dù có ở trần cũng chẳng thương tổn gì. Hòa thượng trụ trì nghe nói cảm kích rơi lệ bảo rằng: tiền tài, vải vóc, quần áo xả bỏ không phải là điều khó, chỉ riêng có tấm lòng chân thành như vậy đâu phải dễ có. Sau, công việc tu bổ hoàn thành, ông dẫn cha già cùng đi, đêm ngụ lại ở chùa, mộng thấy các vị hộ pháp lại cảm tạ, bảo: Con cháu nhà ngươi sẽ được hưởng lộc ở đời. Về sau con ông là Biện và cháu là Sanh Phương đều đăng khoa, đỗ đạt, quan chức hiển hách.

10.   Phụ thân của Chi Lập, người huyện Gia Thiện, làm lại ở phòng hình sự thấy tù nhân vô cớ bị hàm oan hãm vào trọng tội, ông lấy làm thương hại muốn cứu mạng. Tù nhân cảm kích bảo vợ rằng: Chi công có lòng tốt muốn giải oan cứu sống ta, thực lấy làm hổ thẹn là ta không có gì báo đền ơn đức ấy được. Ngày mai, ngươi hãy về nhà ngỏ ý đem thân hầu hạ, hoặc giả ông ấy chịu thu dụng ngươi, tất ta ắt có đường sống vậy.

Người vợ khóc mà nghe lời chồng; kịp khi họ Chi tới, tự mình ra mời rượi và bày tỏ hết ý nguyện của chồng. Họ Chi tuy không nghe nhưng vẫn tận tình giúp đỡ để bạch hóa án oan. Người tù được tha, cả hai vợ chồng cùng đến nhà khấu đầu cảm tạ mà bảo rằng: Chi công ân đức dày như vậy, ở đời thực hiếm có, hiện nay chúng tôi có đứa con gái đã lớn muốn tiến dẫn làm thiếp để hầu hạ công việc nhà cửa, đây cũng là chuyện thường tình hợp lý. Huyện lại họ Chi sắm sanh lễ vật và thâu nạp làm thiếp, sinh ra Chi Lập mới hai mươi tuổi đã đỗ khôi nguyên làm quan tới chức Khổng mục ở Hàn Lâm Viện. Lập sinh ra Cao, Cao sinh ra Lộc đều học rộng và có chức phận cả. Lộc sinh ra Đại Luân cũng khoa bảng đề danh.

Mười chuyện trên đây, tuy cách cư xử, hành động của các nhân vật có khác nhau, nhưng đều quy về việc làm lành lại gặp quả báo tốt lành.

II–Thế nào là thiện ?

1.  Bàn luận rõ ràng về thiện.

Nếu xét một cách tinh tường mà nói, thì thiện có chân có giả, có ngay thẳng có khuất khúc, có âm có dương, có phải hay chẳng phải, có lệch hay chính đáng, có đầy có vơi, có tiểu có đại, có dễ có khó, đều cần bàn luận rõ ràng. Làm việc thiện mà không hiểu rõ đạo lý, cứ tự cho việc mình làm là hành thiện, ắt không khỏi tạo nghiệp, uổng phí mất tâm tư một cách vô ích.

Thế nào là chân thiện và giả thiện? Xưa có một số nho sinh yết kiến Trung Phong hòa thượng (một vị cao tăng triều đại nhà Nguyên) mà hỏi: Nhà Phật bàn thiện ác báo ứng như bóng theo hình, tức làm lành gặp lành, làm ác gặp ác; nay có người nọ thiện mà con cháu lại không được thịnh vượng, mà kẻ kia ác thì gia đình lại phát đạt, như vậy là Phật nói về việc báo ứng thực vô căn cứ sao?

Hòa thượng nói: Người phàm tâm tình chưa được tẩy sạch, chưa được thanh tịnh, tuệ nhãn chưa khai, thường nhận thiện làm ác, cho ác là thiện; người như vậy không phải là hiếm có, đã tự mình lẫn lộn phải trái, cho ác là thiện, cho thiện là ác, điên đảo đảo điên mà không hay lại còn trách oán trời cho báo ứng là sai, là không công bằng ư. Bọn nho sinh lại hỏi: Mọi người thấy thiện thì cho là thiện, thấy ác thì cho là ác, sao lại bảo là lẫn lộn, trái ngược, điên đảo vậy? Hòa thượng bảo họ thử ví dụ xem sự tình như thế nào là thiện và thế nào là ác. Một người trong bọn họ nói: Mắng chửi đánh đập người là ác, tôn kính, lễ phép với người là thiện. Hòa thượng nói không nhất định là như vậy. Một người khác cho là tham lam, lấy bậy của người là ác, gìn giữ sự thanh bạch liêm khiết là thiện. Hòa thượng cũng bảo không nhất định như vậy. Mọi người đều lần lượt đưa ra thí dụ về thiện và ác, nhưng Trung Phong hòa thượng đều bảo không nhất định như vậy. Nhân thế bọn họ đều thỉnh hòa thượng giảng giải cho.

2. Định nghĩa chữ thiện

Hòa thượng Trung Phong chỉ dạy rằng: Làm việc có ích cho người là thiện, còn chỉ có lợi cho riêng mình là ác. Có ích cho người thì dù đánh hay mắng chửi họ cũng gọi là thiện, chỉ có ích cho riêng mình dù tôn kính, lễ phép đối với người cũng kể là ác. Bởi vậy, người làm việc thiện mà có lợi ích cho người là công, chỉ lợi cho mình là tư, công là chân, còn tư là giả.

Lại nữa, làm việc thiện mà phát xuất từ tấm lòng thành là chân thiện, còn hời hợt, chiếu lệ mà làm là giả thiện. Hơn nữa, hành thiện mà không nghĩ tới một sự báo đáp nào cả là chân thiện, trái lại còn hy vọng có sự đền đáp là giả thiện, đó là những điều tự mình cần khảo sát kĩ lưỡng.

Thế nào là ngay thẳng,  khuất khúc? Nay ta thấy một người cẩn thận dễ bảo mà vội phân loại ra cho là thiện nhân có thể dung nạp. Các vị thánh nhân dùng người thì lại khác, thà dùng một cuồng sỹ cao ngạo, quật cường có tài cán biết mạnh dạn tiến thủ còn hơn. Người cẩn thận dễ bảo, tuy ở đời ai cũng ưu thích cho là tốt, nhưng thánh nhân cho là không có chí khí hướng thượng, chỉ biết vâng dạ không hiểu rõ đạo lý nên có phần không lợi cho nền phong tục đạo đức. Bởi thế cho nên quan niệm của người phàm về thiện ác, tốt xấu thực rõ ràng khác biệt, tương phản với thánh nhân vậy.

Suy rộng ra thì mọi sự lựa chọn thiện ác, gìn giữ hay buông xả của người đời đều không giống với thánh nhân, còn chỗ thiên địa, quỷ thần coi là phúc, thiện họa, dâm tà, phải trái đều đồng tiêu chuẩn với thánh nhân mà khác biệt hẳn với người phàm tục.

Phàm muốn tích lũy thiện tất phải phát xuất từ chỗ tiềm ẩn của chân tâm đã được thanh lọc hết ý ác, quyết không để nhĩ mục sai khiến hành thiện vì tự tư tự lợi. Một lòng một dạ cứu giúp đời là ngay thẳng, còn nếu có chút lòng mị thế, lấy lòng người để được danh vọng, tiền tài thì là hành động khuất khúc, chỉ một lòng một dạ tôn kính người là ngay thẳng, còn có chút lòng bỡn cợt, coi khinh người là khuất khúc; đều nên bàn luận tường tận.

Thế nào là âm thiện, dương thiện? Phàm làm việc thiện mà mọi người đều hay biết được thì gọi là dương thiện, hành thiện mà không một ai biết là âm đức, thực ra đã có thiên địa quỷ thần biết rõ, nên có âm đức thì tự nhiên sẽ được cảm ứng quả báo; dương thiện được hưởng danh tiếng ở đời, đã có danh tiếng tức là đã được phúc báo rồi. Xưa nay những người có danh, có tiếng thường bị tạo hóa ganh ghét đố kỵ; vì thế những người có danh tiếng lừng lẫy mà thực sự không có nhiều công đức xứng đáng với danh tiếng đó, thường gặp phải nhiều tai họa bất kì xảy ra. Người không có tội lỗi gì mà bỗng phải chịu mang tiếng xấu một cách oan uổng thì con cháu họ sẽ được đáp đền, mau chóng phát đạt. Chỗ sai biệt của dương thiện và âm thiện cần phải cẩn thận suy xét cho kỹ.

Thế nào là phải và chẳng phải? Nước Lỗ xưa có luật người Lỗ nào chuộc được người bị bắt làm kẻ hầu hạ ở các nước chư hầu về đều được phủ quan thưởng tiền. Tử Cống (học trò đức Khổng tên là Tứ) chuộc người về mà không nhận tiền thưởng. Đức Khổng nghe biết lấy làm buồn phiền mà bảo rằng: Tứ làm việc thất sách rồi. Ôi, thánh nhân xử sự nhất cử nhất động có thể cải sửa phong tục, thay đổi tập quán, làm gương mẫu cho bách tính noi theo, chẳng phải cứ nhiệm ý làm những việc thích hợp với riêng mình. Nay nước Lỗ, người giàu ít, người nghèo thì nhiều, nếu nhận thưởng cho là tham tiền, là không liêm khiết, còn không lãnh thưởng thì người nghèo sao có tiền tiếp tục chuộc người? Từ nay về sau chắc không ai chuộc người ở các nước chư hầu về nữa.

Tử Lộ (tên Do, học trò đức Khổng) cứu người khỏi chết đuối, được tạ ân một con trâu. Tử Lộ nhận lãnh, đức Khổng hay chuyện hoan hỷ bảo rằng: Từ nay về sau nước Lỗ sẽ có nhiều người lo cấp cứu kẻ chết đuối. Cứ lấy con mắt phàm tục mà xét thì Tử Cống không lãnh tiền thưởng là hay, còn Tử Lộ nhận tặng trâu là kém. Nhưng kiến giải của thánh nhân khác với người phàm nên trái lại đức Khổng lại chọn Do mà truất Tứ. Vậy nên biết người hành thiện không nên chỉ nghĩ tới lợi ích nhãn tiền mà cần xét xem hành động đó có ảnh hưởng tệ hại gì về sau này hay không, không nên bàn đến lợi ích nhất thời ở đời này mà phải nghĩ tới tương lai xa, mà cũng chẳng nên chỉ nghĩ riêng cho cá nhân mình mà phải nghĩ cho cả thiên hạ đại chúng nữa.

Việc làm hiện nay tuy bề ngoài là thiện nhưng trong tương lai lại để hại cho người, thì thiện mà thực chẳng phải thiện, còn việc làm hiện thời tuy chẳng phải thiện nhưng về sau này lại có lợi ích cứu giúp người thì tuy ngày nay chẳng phải thiện mà chính thực là thiện vậy. Chẳng qua ở đây chỉ lấy một vài sự việc mà bàn thế nào là thiện và không phải thiện mà thôi. Tuy nhiên, ở đời có nhiều sự tình tương tự, chẳng hạn như tưởng là hợp lễ nghĩa, là có trung tín, từ tâm mà thực ra lại trái lễ nghĩa, không phải trung tín hay từ tâm; đều phải quyết đoán chọn lựa kỹ càng.

Thế nào là thiên lệch và chính đáng? Xưa, ông Lã Văn Ý, lúc mới từ chức tể tướng, cáo lỗi hồi hương, dân chúng bốn phương nghênh đón như Thái sơn, Bắc đẩu. Nhưng có một người say rượi mạ lỵ ông. Lã công điềm nhiên bất động bảo gia nhân: Kẻ say chẳng chấp làm gì, đóng cửa lại mặc kệ hắn. Qua một năm sau, người đó phạm tội tử hình bị giam vào ngục. Lã công hay biết sự tình mới hối hận rằng: giá mà ngày ấy ta bắt hắn đưa quan nha xử phạt thì hắn có thể chỉ bị trừng giới với một tội phạm nhẹ mà tránh khỏi phạm trọng tội về sau. Ta lúc đó chỉ muốn giữ lòng nhân hậu tha thứ cho hắn, không ngờ lại hóa ra nuôi dưỡng tính ngông cuồng của hắn để phạm phải tội tử hình như ngày nay vậy. Đó là một sự việc do lòng thiện mà hóa ra làm ác.

Lại nữa, có khi làm việc thiện với tâm ác, như một nhà đại phú nọ gặp năm mất mùa, dân nghèo giữa ban ngày cướp bóc thóc gạo ở ngay nơi thị tứ, báo cáo lên huyện thì huyện không xử lý, dân nghèo được thể càng lộng hành. Gia đình nọ bèn tự xử sự cho bắt những kẻ cướp bóc giam giữ trị tội nên ổn định được tình hình, nếu không hành động như vậy cướp sẽ làm loạn.

Sở dĩ ai cũng đều biết làm thiện là chính đáng và làm ác là thiên lệch nhưng tâm tuy thiện là chính, mà việc làm hóa ra ác là thiên lệch nên gọi đó là thiên ở trong chính; còn tâm tuy ác mà việc làm hóa ra thiện, đó là chính ở trong thiên vậy. Sự lý này không thể không hiểu cho thật rõ ràng.

Thế nào là đầy và vơi ( bán và mãn)? Kinh Dịch nói việc thiện mà chẳng tích lũy lại cho nhiều không đủ để được danh thơm tiếng tốt, việc ác mà không đọng lại nhiều chẳng đủ để bị họa sát thân. Kinh Thư có nói nhà Thương tội ác quá nhiều như nước vỡ bờ vì thế mà Trụ vương bị diệt. Việc tích thiện cũng như lưu trữ vật dụng, nếu chăm chỉ cất giữ ắt sẽ đầy kho, còn biếng nhác không chịu tích lại thì vơi chứ không đầy. Chuyện làm thiện được đầy hay vơi, bán hay mãn là như vậy.

Xưa có một nữ thí chủ vào chùa lễ Phật, muốn cúng dường nhưng lại không có tiền, trong túi chỉ còn hai đồng bèn đem cả ra để cúng. Vị trụ trì đích thân làm lễ bái sám hồi hướng cho. Sau nữ nhân đó được tuyển vào cung, tiền tài, phú quý có thừa, đến chùa lễ Phật đem cả ngàn lượng bạc cúng dường. Hòa thượng trụ trì sai đồ đệ thay mình làm lễ hồi hướng mà thôi. Nữ thí chủ nọ thấy vậy liền hỏi: Trước đây tôi chỉ cúng dường có hai đồng mà phương trượng đích thân làm lễ bái sám hồi hướng cho, nay cúng dường cả ngàn lượng bạc mà sư lại không tự mình làm lễ là vì sao vậy? Vị hòa thượng đáp: Trước kia tiền bố thí quả là ít ỏi, nhưng phát xuất từ tấm lòng thật chân thành, nếu bần tăng không đích thân bái sám hồi hướng thì không đủ báo đáp được ân đức ấy. Nay tiền cúng dường tuy thật quá hậu, nhưng tâm bố thí không được chân thành như trước, nên bảo đồ đệ thay bần tăng làm lễ cũng đủ. Với lòng chí thành bố thí cúng dường chỉ hai đồng mà việc thiện được viên mãn, còn bố thí cả ngàn lượng bạc mà lòng không được chí thiết thì công đức đó chỉ được bán phần mà thôi. Trên đây là một thuyết nói về làm thiện được bán và mãn hay vơi và đầy vậy.

Chung Ly Quyền chỉ dạy cho Lã Đồng Tân cách luyện đan điểm sắt thành vàng có thể đem dùng để cứu giúp người đời. Lã Đồng Tân hỏi rằng vàng đó sau có thể biến chất hay không? Chung Ly Quyền bảo năm trăm năm sau vàng ấy sẽ trở lại nguyên bản chất cũ là sắt, thì họ Lã nói: Như vậy là sẽ gia hại cho người đời 500 năm về sau, ta chẳng muốn học phép ấy làm gì. Chung Ly Quyền bảo: Muốn tu tiên cần phải tích công lũy đức 3000 điều, nhưng chỉ một lời của nhà ngươi nói đó cũng đủ mãn 3000 công đức rồi. Đây lại thêm một thuyết nữa về đầy vơi hay bán mãn vậy.

Hơn nữa, làm việc thiện mà tâm không hề chấp trước là mình làm thiện, cứ tùy theo công việc nào mình làm mà được thành tựu thì hành động đó gọi là mãn. Nếu tâm còn chấp việc mình làm là thiện thì dẫu cả đời chăm chỉ hành động cũng chỉ là bán thiện mà thôi. Giả như mang tiền tài cứu giúp người, nội tâm không nghĩ tới mình là người bố thí, ngoài mặt không cần biết người nhận tiền là ai, ở khoảng trung gian cũng không nghĩ tới số tài vật bố thí là bao nhiêu, đó gọi là tam luân thể không, bố thí với tấm lòng thanh tịnh như vậy thì một đấu thóc cũng có thể trồng thành vô lượng vô biên phúc đức, dù một xu cũng có thể tiêu diệt được tội nghiệp của ngàn kiếp trước. Nếu như còn tồn tâm nghĩ tới mình là người làm thiện, số tài vật đem bố thí và người nhận vật là ai, thì dù có vạn lượng bạc đem cho, phúc cũng không được viên mãn. Đây cũng là một thuyết nữa về bán hay mãn thiện, thiện đầy hay vơi.

Thế nào là đại và tiểu?Xưa Vệ Trọng Đạt, một quan chức ở Hàn Lâm Viện bị nhiếp hồn đưa xuống âm phủ. Diêm vương sai các phán quan trình những cuốn sổ ghi việc thiện và ác ra để xét. Nếu đem so sánh thì sổ ghi những việc ác thực quá nhiều, còn sổ ghi việc thiện chỉ có một cuốn nhỏ mỏng như que đũa mà thôi. Diêm vương sai bắc lên cân, cân thử thì bên 1 cuốn sổ ghi việc thiện lại nặng nhiều hơn tất cả những cuốn sổ ghi việc ác hợp lại . Trọng Đạt nhân thế mới hỏi: Năm nay, bản chức chưa đến 40 tuổi đời mà sao tội lỗi lại có thể nhiều đến như thế? Thì Diêm vương bảo: Mỗi một niệm ác kể là một tội không cần đợi tới lúc có thực sự phạm phải hay không. Trọng Đạt lại hỏi thêm là trong cuốn sổ nhỏ đó ghi việc thiện gì vậy. Diêm vương bảo: Triều đình đã từng dự tính khởi đại công tác tu sửa cầu đá ở Tam Sơn, nhà ngươi dâng sớ can gián. Sớ văn đó có ghi chép vào sổ vậy. Trọng Đạt thưa: Bản chức tuy có dâng sớ, nhưng triều đình không y theo lời tấu trình, thì sự việc đâu có ích gì? Thì Diêm vương lại bảo cho hay là: Triều đình không y theo lời tấu, nhưng một niệm thiện đó của nhà ngươi là vì lợi ích của toàn dân, muốn cho họ khỏi bị lao công vất vả, khỏi bị sưu cao thuế nặng, nếu mà lời tấu được triều đình y theo thì công đức của nhà ngươi thực vô cùng lớn lao. Cho nên nếu có chí nguyện làm việc lợi ích cho quốc gia thiên hạ, cho đại chúng thì tuy việc làm đó có nhỏ mà công đức lại lớn, còn nếu chỉ nghĩ làm lợi riêng cho thân mình thì tuy có làm nhiều mà công đức lại nhỏ vậy.

Thế nào là khó và dễ?Các vị tiên nho xưa có nói muốn khắc phục mình, muốn thắng được tâm mình thì nên bắt đầu từ chỗ khó khắc phục mà khởi công trước. Đức Khổng Tử bàn về nhân ái cũng nói bắt đầu từ chỗ khó mà thi hành trước, tức là từ chỗ phải thắng được lòng mình vậy, bởi lẽ khó mà làm được thì dễ ắt cũng làm xong.

Như ông họ Thư ở Giang Tây bỏ hết cả tiền lương gom góp trong hai năm dạy học đem nộp quan để trừ vào tiền thiếu nợ giúp cho hai vợ chồng nhà nọ được sum họp khỏi bị bắt đi làm gia nhân nhà người; đó đều có thể gọi là chỗ khó xả bỏ mà xả bỏ được. Lại như ông già họ Cận ở Trấn Giang tuổi đã cao, không con nối dõi, lân gia có người đem đứa con gái còn trẻ đến cho nạp làm thiếp, nhưng ông không nhẫn tâm thu nạp mà đem hoàn trả lại. Đó là chỗ khó có thể nhẫn mà nhẫn được. Vậy nên phúc báo trời cho hưởng sẽ được hậu.

Phàm những người có tiền tài, có quyền thế mà họ muốn làm phúc thì thực là dễ, dễ mà chẳng làm là tự hủy hoại mình, người nghèo hèn khốn cùng muốn làm phúc thì thật là khó, khó nhưng mà làm được, đó mới thực là đáng quý vậy.

3.- Tùy duyên hết sức tu thập thiện

Tùy lúc gặp duyên lành cứu giúp người, hay tùy hỷ công đức mà hành thiện, nếu phân biệt ra từng loại thì thật rất nhiều, nhưng đại khái có 10 loại như sau: thứ nhất, trợ giúp người cùng làm thiện; thứ hai, giữ lòng kính mến người; thứ ba, thành toàn việc thiện của người; thứ tư, khuyến khích người làm thiện; thứ năm, cứu người gặp nguy khốn; thứ sáu, kiến thiết, tu bổ có lợi ích lớn; thứ bảy, xả tài làm phúc; thứ tám, giữ gìn bảo hộ chánh pháp; thứ chín, kính trọng tôn trưởng; thứ mười, thương tiếc mạng sống loài vật.

Thế nào là trợ giúp người cùng làm thiện?Xưa vua Thuấn, lúc chưa tức vị, thấy những người đánh cá ở đầm Lôi Trạch, đều tranh chiếm chỗ nước sâu nhiều cá, còn người già yếu phải tìm chỗ nước nông cạn chảy xiết ít cá mà đánh, nên có lòng trắc ẩn bất nhẫn, bèn cũng tới đánh cá; thấy người nào cũng tranh giành chỗ, thì ông im lặng không đả động gì đến tánh xấu ấy, còn thấy người mà có lòng nhường chỗ thì ông hết lời khen ngợi mà theo gương đó cũng nhường chỗ cho người khác. Một năm sau, những người đánh cá ở những chỗ nước sâu, ai cũng có lòng nhường chỗ cho nhau mà không tranh giành nữa.

Ôi, vua Thuấn thực là sáng suốt, há chẳng phải mất lời mà khuyên bảo giáo hóa được người sao! Tuy không dùng lời mà dùng chính bản thân mình làm gương mẫu cho người khác tự sửa đổi lấy mình. Đây là chỗ khổ tâm và khéo dụng công của vua Thuấn vậy.

Bọn chúng ta ở đời mạt pháp này chẳng nên thấy mình có chỗ sở trường mà khinh khi chèn ép người;

chẳng nên lấy chỗ hay giỏi của mình mà đem so sánh xét người; chẳng nên thấy mình có quyền năng thế lực mà làm khốn khó người; nếu mình có tài có trí cũng chẳng nên khoe khoang biểu lộ ra ngoài mà nên ẩn giấu ở bên trong coi như tài mình còn non, trí còn kém như không thực có gì hết, và thấy người có lỗi lầm thì bao dung ẩn nhẹm cho, tức ẩn ác dương thiện vậy.

Một là để cho người tự hối mà sửa lỗi, hai là để họ tự biết lỗi mà e dè úy kỵ không dám phóng túng làm càn. Nếu thấy người có chỗ hay tốt có thể chấp nhận học hỏi được thì dù là việc thiện nhỏ cũng nên ghi nhớ ngay, không những để tự mình học lấy chỗ hay của người, mà còn tán dương thuật lại cho mọi người cùng hay biết.

Phàm những việc làm thường ngày, một lời nói, một hành động hoàn toàn đều không nên vì lợi cho mình mà làm, nên đặt ra nguyên tắc nghĩ và làm lợi cho thiên hạ, đại chúng. Đây là chỗ độ lượng của người chính nhân quân tử coi thiên hạ là công mà mình là tư.

Thế nào là giữ lòng kính mến người?Người quân tử và tiểu nhân, nếu chỉ xét hình dáng bề ngoài thường có sự lẫn lộn khó phân biệt, duy có một điểm thiện ác khác nhau xa là ở chỗ tồn tâm biết giữ được lòng mình, và do đó mà phán xét thì trắng đen rõ ràng trái hẳn nhau; cho nên nói người quân tử sở dĩ khác người là ở chỗ tồn tâm vậy.

Chỗ tồn tâm của người quân tử chỉ là lòng tôn kính, yêu mến người. Đại khái con người ta ở đời có người thân sơ hay sang hèn, có người thông minh trí tuệ hay đần độn ngu si, có người hiền lương đạo đức hay phàm phu tục tử, hàng vạn vạn người chẳng ai giống ai, nhưng đều là đồng bào của ta, đều cùng một thể chất như ta, sao lại chẳng yêu kính ư? Thánh nhân, hiền nhân thường luôn kính trọng, thương yêu đại chúng làm lợi cho họ, nếu ta cũng kính yêu mọi người là trùng hợp với lòng của các vị thánh hiền, như vậy cũng như ta có lòng kính ái các vị ấy. Nếu như ta thông hiểu được chí nguyện của đại chúng tức là hiểu rõ được tâm ý của thánh hiền. Bởi vì chí nguyện của người đời là mong được lợi lạc an bình, mà tâm ý của thánh hiền vốn dĩ vẫn vì đại chúng mà làm cho họ được như ý muốn, đắc kỳ sở nguyện; lòng chúng ta nếu trùng hợp với lòng kính ái của thánh hiền mà làm cho đại chúng được an lạc tức là chúng ta đã vì thánh nhân và hiền nhân mà làm lợi lạc cho mọi người vậy.

Thế nào là thành toàn việc thiện của người?Một hòn đá trong có ngọc nếu bị ném bỏ ắt sẽ vỡ tan như hòn ngói, nhưng nếu đem mài dũa, chạm trổ ắt sẽ thành khuê chương, hốt ngọc của vua quan. Cho nên phàm thấy người làm việc thiện, hoặc thấy ý chí và tư chất của họ có thể tiến thủ thành công thì đều nên khuyến dụ, trợ giúp họ; hoặc khen ngợi khích lệ, hoặc gìn giữ bao bọc họ; hoặc biện bạch hộ cho họ hay chia xẻ cùng họ nỗi oan ức bị người ghen tị mà vu họa phỉ báng họ, cốt sao giúp cho họ được thành công mà thôi.

Đại khái, con người thường không ưu thích những người không giống như mình, chẳng hạn như ác không ưu thiện, tiểu nhân không thích quân tử. Người trong một xóm làng, thiện thì ít mà xấu ác thì nhiều, vì thế người thiện ở đời bị kém thế khó có thể tự lập được vững vàng. Hơn nữa người hào kiệt, thông minh tài cán, tính tình cương trực không trọng bề ngoài, không ưu tiểu tiết nên hay bị người ta hiểu lầm mà chỉ trích phê bình; vì thế cho nên việc thiện thường dễ bị hư hỏng mà người thiện thường bị nhạo báng, cười chê, chỉ duy có người trưởng giả nhân hậu mới hiểu rõ được sự tình mà phù trợ giúp cho họ được thành công. Thành toàn cho người thì công đức thực là lớn lao vô cùng.

Thế nào là khuyến khích người làm thiện? Con người ta đã sinh ra làm người, ai mà không có lương tâm. Đường đời mênh mông mù mịt rất dễ bị sa đọa chìm đắm vì lợi danh. Đối với những người còn mải mê tham danh, tham lợi, tạo thành nghiệp ác, ta nên tìm cách để cảnh tỉnh họ cho thoát khỏi sự mê hoặc, cũng giống như họ đang trải qua một giấc mộng lớn trong đêm dài mà làm cho họ được thức tỉnh, hay giống như họ bị hãm vào vòng phiền não tích tụ từ lâu đời mà ta giúp họ trong trắng đoạn trừ, bại trừ hết thì ân huệ đó thật vô biên vô lượng.

Hàm Dũ, đời nhà Đường có nói: Uốn ba tấc lưỡi dùng lời nói mà khuyên người làm việc thiện chỉ là phương pháp nhất thời bởi có thể nghe tai này lọt qua tai khác rồi quên đi, còn muốn có hiệu quả dài lâu đến tận trăm năm về sau thì dùng văn thư sách vở để lại mà khuyên người đời làm lành tránh ác. Tuy nhiên, dùng lời nói hay sách vở khuyên người cũng giống như gặp bệnh nào thì phát thuốc trị bệnh ấy cho bệnh nhân kể cũng có hiệu lực nhưng còn lưu lại dấu vết, còn như dùng chính bản thân mình hành động làm mẫu mực, làm gương cho người trông thấy để họ tự nhiên tỉnh ngộ biết được lỗi lầm mà sửa đổi thì hiệu quả cũng chẳng kém mà không để lại hình tích gì; cả hai phương tiện này đều chẳng thể bỏ qua. Muốn giúp người, khuyên người cần phải thông minh sáng suốt, biết tùy thời, tùy người không để mất lời tức phí lời nói của mình mà người không nghe, cũng không để mất người, tức là gặp người có thể khuyên cải được mà mình không hành động để lỡ mất dịp làm lành, như thế là kém hiểu biết, không có trí tuệ vậy.

Thế nào là cứu người lúc nguy cấp? Người ta ai cũng có lúc gặp phải sự tai ương hoạn nạn xảy ra. Ngẫu nhiên mà ta gặp trường hợp người bị nạn thì coi sự đau khổ của người cũng như là mình đau mà mau mau cứu giúp; hoặc dùng lời nói làm nhẹ nỗi oan uổng uất ức cho họ, hoặc tìm mọi cách giúp họ khỏi sự thống khổ triền miên. Thôi Tử có nói: Làm ân không cần để ý tới là nhỏ hay lớn, chỉ cần lúc người gặp nguy khốn mà tới giải cứu, giúp đỡ ngay là được. Đó thực là lời nói của người có lòng nhân hậu, đạo đức vậy.

Thế nào là kiến thiết, tu bổ lợi ích lớn?Nhỏ như một thôn xóm, lớn như trong một huyện, phàm những công đức kiến thiết có lợi ích c
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phương pháp tích thiện

Phong thủy vùng đất Thanh Hóa

Câu thành ngữ: “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”. Vùng Ái Châu, tức Thanh Hóa được xem là nơi phát tích của hầu hết các dòng họ vua, chúa Việt xưa. Vì sao vậy?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Câu thành ngữ: “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”. Vùng Ái Châu, tức Thanh Hóa được xem là nơi phát tích của hầu hết các dòng họ vua, chúa Việt xưa. Vì sao vậy?Khi tính từ khi nước Nam ta có Nhà nước đầu tiên cho đến khi kết thúc triều đại phong kiến cuối cùng là nhà Nguyễn, thì điểm lại hầu hết các dòng họ vua, chúa đa phần đều phát tích từ đất Thanh Hóa (Ái Châu) mà ra.

Đây được xem là vùng đất có nhiều dòng vua, chúa nhất nước. Hình thế đắc địa như một vương quốc riêng như vậy, cũng từ đó mà hình thành nên tính cách, phong tục của người dân nơi đây được An Nam chí lược của Lê Tắc trong phần Phong tục khen là: “Người sinh ra ở Giao Châu và Ái Châu thì rộng rãi, có mưu trí”. Còn trong Đại Nam nhất thống chí thì bình rằng: “Sĩ tử thích văn học, giữ khí tiết, nông dân chăm cày cấy, thợ thì có người đẽo đá là sở trường hơn cả, ít người buôn bán”. Chính từ địa lợi, nhân hòa ấy, góp phần cho vùng đất Ái châu trở thành nơi thiên thời cho việc xưng vương, dựng nước.

phong thuy thanh hoa

Cũng vì là đất đế vương, cho nên không phải ngẫu nhiên mà nhà Trần đã từng phải cho người đục núi, lấp sông ở nơi đây để trấn yểm các huyệt mạch đế vương. Điều này được chứng thực bởi Việt sử địa dư của Phan Đình Phùng, nguyên văn như sau: “Trần Thái Tông niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 17 (1248), sai người giỏi về phong thủy đi trấn áp vượng khí trong khắp núi sông, như núi Chiêu Bạc, sông Bà, sông Lễ ở Thanh Hóa, đều đào và đục đi. Lấp các khe kênh, mở đường ngang lối dọc không kể xiết”. Núi Chiêu Bạc chính là núi Chiếu Sơn thuộc huyện Nga Sơn. Sông Bà thuộc địa giới huyện Đông Sơn, còn sông Lễ chính là sông Mã. Nhưng việc làm ấy cũng chỉ như muối bỏ biển, bởi ngay sau nhà Trần thì nhà Hồ đã phát ra từ xứ Thanh rồi. Thế nên lời của sử thần Ngô Sĩ Liên quả chẳng sai chút nào: “Từ khi có trời đất này, thì đã có núi sông này, mà khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời, đều có số cả. Khí trời từ Bắc chuyển xuống Nam, hết Nam rồi lại quay về Bắc. Thánh nhân trăm năm mới sinh, đủ số lại trở lại từ đầu. Thời vận có lúc chậm lúc chóng, có khi thưa khi mau mà không đều, đại lược là thế, có can gì đến núi sông? Nếu bảo núi sông có thể lấy pháp thuật mà trấn áp, thì khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời có pháp thuật gì trấn áp được không? Ví như Tần Thủy Hoàng biết là phương Đông Nam có vượng khí thiên tử, đã mấy lần xuống phương ấy để trấn áp, mà rút cuộc Hán Cao vẫn nổi dậy, có trấn áp được đâu”.

Liên tiếp các triều đại vua, chúa phát tích từ đất Ái Châu mà ra, nên trong dân gian đời xưa có câu ngạn ngữ truyền đời: “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”, ý nói Thanh Hóa là nơi phát tích của các triều đại đế vương. Còn xứ Nghệ An là nơi có các tôi thần giỏi giang giúp vua trị nước. Theo thống kê của tác giả, kể từ khi nước ta có vua thời Văn Lang cho đến khi kết thúc chế độ phong kiến cuối cùng là nhà Nguyễn vào năm 1945 với vua Bảo Đại, thì Thanh Hóa chính là nơi khởi nguồn của nhiều dòng vua, chúa nhất nước. Vậy nên, nói Thanh Hóa là vùng đất địa linh, nhân kiệt từ ngàn xưa đến nay quả chẳng ngoa chút nào.

Đất của vua

Năm Mậu Thìn (248), Lệ Hải bà vương Triệu Thị Trinh đánh quân Ngô tại núi Nưa, Triệu Sơn, Thanh Hóa làm quân giặc khiếp đảm tôn phục với câu cửa miệng “Hoành qua đương hổ dị. Đối diện bà Vương nan” (Múa giáo chống hổ dễ. Đối mặt vua bà khó). Dù chưa lập triều nghi, nhưng ngay quân Ngô đã tôn xưng người con gái của chiến tuyến bên kia làm vua rồi.

Tháng 12 năm Tân Mão (931), Dương Đình Nghệ quê làng Giàng, nay thuộc xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa đã đánh đuổi quan đô hộ Lý Khắc Chính, Lý Tiến của nhà Đường, chiếm thành Đại La, tự xưng làm Tiết Độ sứ, nhưng thực ra đã là một “vua không ngai” khi tiếp nối được nền độc lập, tự chủ do dòng họ Khúc dựng nên từ năm Ất Sửu (905).

Tháng 7 năm Canh Thìn (980), Thái hậu Dương Vân Nga khoác áo mời Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi để thống nhất lòng dân chống quân xâm lược Tống, từ đó mở ra nhà Tiền Lê (980 - 1009). Lê Hoàn, tức vua Lê Đại Hành vốn quê xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa. Nhà Tiền Lê trải ba đời gồm Lê Đại Hành (980 - 1005), Lê Trung Tông (1005), Lê Ngọa Triều (1005 - 1009).

520 năm sau, cũng năm Canh Thìn (1400), ngoại thích Hồ Quý Ly thoán đoạt ngôi vị nhà Trần lập nhà Hồ với tên nước là Đại Ngu, kinh đô ở thành Tây Giai, tức Tây Đô của Thanh Hóa. Tổ tiên ông vốn ở Chiết Giang, Trung Quốc, sau di cư sang sống ở Diễn Châu, Nghệ An rồi chuyển ra hương Đại Lại, Thanh Hóa lập nghiệp. Nhà Hồ truyền qua hai đời vua trong 7 năm (1400 - 1407).

Thời gian 1428 – 1789 là thời kỳ tồn tại của nhà Hậu Lê gồm giai đoạn Lê sơ (1428 - 1527) và Lê Trung hưng (1533 - 1789). Người sáng nghiệp nhà Hậu Lê là Lê Thái Tổ (Lê Lợi) sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh (1416 - 1428). Ông quê ở xã Xuân Lam, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Giai đoạn Lê sơ trải qua 10 vị vua từ Lê Thái Tổ đến Lê Cung Hoàng, được xem là thời thịnh trị của chế độ phong kiến Đại Việt với đỉnh cao là đời vua Lê Thánh Tông trị vì (1460 - 1497). Giai đoạn Lê Trung hưng đánh dấu sự phục hồi của nhà Lê sau khi bị Mạc Đăng Dung cướp ngôi với vị vua đầu tiên Lê Trang Tông (1533 - 1548), và kết thúc với vua thứ 16 Lê Chiêu Thống (1786 - 1789).

Triều đại cuối cùng của Việt Nam là nhà Nguyễn (1802 - 1945) do Nguyễn Ánh Gia Long hưng khởi, tổ tiên của ông là chúa Nguyễn Hoàng vốn bản quán ở Gia Miêu ngoại trang thuộc huyện Tống Sơn (xã Hà Long, huyện Hà Trung nay), đất Thanh Hóa. Nhà Nguyễn truyền được 13 đời vua, bắt đầu từ vua Gia Long (1802 - 1820) cho đến vua Bảo Đại (1926 - 1945).

“Nhà” của chúa

Trong lịch sử nước Nam ta, ghi nhận chính thức có hai dòng chúa là chúa Trịnh và chúa Nguyễn. Cả hai dòng chúa đều phát tích từ xứ Thanh.

Chúa Trịnh thời vua Lê – chúa Trịnh thế kỷ XVI  - XVIII do Trịnh Kiểm lập nên. Ông vốn xuất thân nghèo nàn từ làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Tuy tiếng là phò giúp nhà Lê, nhưng quyền lực thực tế của các chúa Trịnh lại át cả vua Lê, có cung vua thì có phủ chúa. Vua Lê có Lục Bộ thì chúa Trịnh có Lục phiên. Vua Lê dạo Trung hưng chỉ có hư vị mà thôi. Thế nên dân gian mới có câu: “Phi đế phi bá, quyền nghiêng thiên hạ” để chỉ thế lực của chúa Trịnh. Dòng dõi chúa Trịnh bắt đầu từ chúa Trịnh Kiểm (1545 - 1570) cho đến thời chúa Trịnh Bồng (1786 - 1787) bị Bắc Bình vương Nguyễn Huệ dẹp thì dứt hẳn.

Chín đời chúa Nguyễn được lập nên sau thời chúa Trịnh. Vào năm Mậu Ngọ (1558), Nguyễn Hoàng nghe theo lời Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên “Hoành Sơn nhất đại, khả dĩ dung thân” đã vào trấn trị đất Thuận Hóa. Chúa Tiên Nguyễn Hoàng chính là con trai thứ của An Thành hầu Nguyễn Kim người Gia Miêu ngoại trang được nói tới ở trên. Dòng dõi chúa Nguyễn trải qua 9 đời từ Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) cho tới Nguyễn Phúc Thuần (1765 - 1777), có công lập nên và khai phá đất Đàng Trong, mở rộng dần về phía Nam đất nước cho tới tận Mũi Đất, Cà Mau.

Không chỉ là nơi phát vua, phát chúa, Ái Châu – Thanh Hóa còn nhiều lần đóng vai trò trung tâm của đất nước khi từng giữ vị trí là đất Thần Kinh. Cụ thể là Tây Đô thời Hồ với thành An Tôn, hay Tây Giai (1400 - 1407).

Khi vua Lê Trang Tông phục quốc bên Ai Lao năm Quý Tỵ (1533), đến năm Quý Mão (1543) cũng chọn xứ Thanh để đóng làm nơi phát binh Bắc tiến đánh Thăng Long diệt Mạc. Năm Bính Ngọ (1546) thì lập điện để ở tại sách Vạn Lại, nay thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa tạo nên Nam triều để phân biệt với Bắc triều của nhà Mạc ở Thăng Long.

Ngày nay, Thanh Hóa là một trong 63 tỉnh, thành phố của đất nước, được xếp theo vị trí địa lý là tỉnh mở đầu vùng Bắc Trung Bộ.

Nguồn: kienthuc.net.vn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy vùng đất Thanh Hóa

Màu quần áo hợp 12 con giáp để tài vận tháng 5 dồi dào

Màu sắc được kết hợp chính xác sẽ đem đến tài vận cho mệnh chủ. Những màu sắc trong trang phục dưới đây nếu được các con giáp diện trong tháng 5 sẽ đem đến tài
Màu quần áo hợp 12 con giáp để tài vận tháng 5 dồi dào

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Màu sắc được kết hợp chính xác sẽ đem đến tài vận cho mệnh chủ. Những màu sắc trong trang phục dưới đây nếu được các con giáp diện trong tháng 5 sẽ đem đến tài vận không ngờ cho họ


Mau quan ao hop 12 con giap de tai van thang 5 doi dao hinh anh
 
Tuổi Tỵ và tuổi Ngọ

Mau quan ao hop 12 con giap de tai van thang 5 doi dao hinh anh 2
 
Người tuổi Tỵ và tuổi Ngọ thuộc hành Hỏa trong Ngũ hành, Hỏa trụ sắc đỏ, vậy nên mệnh chủ nên mặc trang phục tông đỏ như đỏ thẫm, đỏ bordeaux, hồng đào, màu hồng để xua đuổi tà ác, đem tài vận cho mệnh chủ.
6 lỗi phong thủy ngầm phá hoại hôn nhân
Bất luận là ai, đều muốn có một cuộc hôn nhân mỹ mãn, toại nguyện nhưng không phải lúc nào cũng được như vậy. 6 lỗi phong thủy phá hoại hôn nhân dưới đây có

Tuổi Dậu và tuổi Thân

Mau quan ao hop 12 con giap de tai van thang 5 doi dao hinh anh 3
 
Con giáp Dậu và Thân đại diện cho Kim trong Ngũ hành, vậy nên trong năm 2016, họ nên tích cực mặc quần áo có màu trắng. Trắng là màu sắc tượng trưng cho sức sống, nhất định sẽ đem đến cho họ sự may mắn, thuận lợi

Tuổi Sửu, Mùi, Thìn và Tuất

Mau quan ao hop 12 con giap de tai van thang 5 doi dao hinh anh 4
 
Những mệnh chủ trụ năm Sửu, Mùi, Thìn và Tuất thuộc Thổ, màu sắc đại diện cho Thổ là vàng, màu café, màu nâu. Trong năm 2016, họ mặc trang phục có màu sắc trên có tác dụng vượng tài
Tuổi Tý và Hợi

Mau quan ao hop 12 con giap de tai van thang 5 doi dao hinh anh 5
 
Tý và Hợi là hai con giáp đại diện cho hành Thủy trong Ngũ hành, vậy nên trong năm 2016 mệnh chủ tích cực mặc gam màu xanh lam, đen sẽ tượng trưng cho sự vĩnh hằng đồng thời trợ giúp vận thế của họ, bình an cát tường, tài vận dồi dào.
Tuổi Dần và Mão

Mau quan ao hop 12 con giap de tai van thang 5 doi dao hinh anh 6
 
Hai con giáp Dần và Mão thuộc hành Mộc, Mộc khắc Thổ, nên trong năm nay họ không nên mặc các màu sắc quá rực rỡ, lấy gam màu nhạt làm chủ đạo, trong đó thích hợp nhất là màu xanh lá, có thể khiến họ năng đông, vận thế mở rộng.
=> Xem thêm: Những yếu tố ngũ hành tương sinh ảnh hưởng đến cuộc sống của bạn

Chi Nguyễn

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Màu quần áo hợp 12 con giáp để tài vận tháng 5 dồi dào

Vật phẩm phong thủy mang lại tiền tài –

Gia chủ nào muốn tài vận đến nhanh thì đừng quên trưng bày những vật phẩm phong thủy được cho là mang may mắn, tiền bạc nhiều nhất mà chúng tôi đưa ra dưới đây nhé. 1. Thần Tài Tsai Shen Yeh Thần Tài Tsai Shen Yeh luôn là vua của tài vận và là một tr

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Gia chủ nào muốn tài vận đến nhanh thì đừng quên trưng bày những vật phẩm phong thủy được cho là mang may mắn, tiền bạc nhiều nhất mà chúng tôi đưa ra dưới đây nhé.

1. Thần Tài Tsai Shen Yeh

1407236573-060814ndptthantai1

Thần Tài Tsai Shen Yeh luôn là vua của tài vận và là một trong những vị thần của cải phổ biến nhất. Ông thường được mô tả trong tư thế ngồi trên lưng hổ, thể hiện quyền uy với con vật này. Tay của ông cầm nhiều đồng vàng, mình mặc áo rồng. Dù được mô tả với hình hài nào thì Thần Tài cũng được coi là vị thần bảo vệ tài chính của bạn.

Nơi đặt Thần Tài tốt nhất là trước cửa ra vào, hướng thẳng ra cửa trước.

Lưu ý: Không đặt Thần Tài ở phòng ngủ vì như thế sẽ không nhận được may mắn.

2. Thiềm Thừ (Cóc ba chân ngậm tiền)

1407236573-060814ndptcoc1

Thiềm Thừ – Cóc ba chân gần như là biểu tượng kiếm tiền may mắn nhất. Linh vật này có ba chân, chân cóc đạp lên nhiều đồng tiền cổ, miệng ngậm 3 đồng tiền.

Thiềm Thừ hút vàng vào nhà của bạn khi nó được đặt ở vị trí thấp, theo đường chéo đối diện cửa trước. Nên đặt hướng về phía cửa trước giống như đang chào đón năng lượng của sự giàu có. Theo Phong Thủy, nếu đặt 9 Thiềm Thừ sẽ hút tiền vào nhà.

Lưu ý: Không đặt cóc đối diện trực tiếp với cửa chính, cửa sổ vì nếu đặt như vậy cóc sẽ nhả tiền ra ngoài hết.

3. Tỳ Hưu

Tỳ hưu còn được gọi là Thiên Lộc, Tịch Tà, Bách giải là thần thú nổi tiếng nhất được quan niệm mang lại sự giàu có và bảo vệ tài sản. Tỳ Hưu giúp mang lại may mắn với những tài sản nổi như xổ số, chứng khoán, đầu tư kinh doanh.

Người xưa tin rằng, sau khi mua xổ số, đặt vé số bên dưới Tỳ Hưu sẽ thu hút may mắn về tiền bạc.

4. Tiền xu Phong Thủy

1407236573-060814ndpttien

Tiền xu Phong Thủy, tiền xu cổ của Trung Quốc là công cụ mạnh để kích hoạt sự giàu có. Hình tròn và hình vuông của đồng tiền tượng trưng cho trời và đất. Buộc 3 đồng tiền vào một chuỗi dây màu đỏ và treo chúng lên cửa ra vào ngụ ý tiền hoàn toàn ở bên trong nhà bạn.

5. Những thỏi vàng Phong Thủy

1407253255-080614nd9vatvang2

Vàng tượng trưng cho sự giàu có, của cải và thành công. Thỏi vàng thu hút tài lộc liên tục vào nhà. Có thể trưng bày thỏi vàng bằng cách cho nhiều thỏi vào bình tài lộc rồi để trong nhà hoặc văn phòng.

6. Long Quy

1407253025-080614nd9vatlongquy

Long Quy là biểu tượng huyền thoại kết hợp quyền lực tuyệt đỉnh của cả rồng lẫn rùa. Người ta tin rằng nó có thể hút tài vận giàu có, tăng thu nhập, thúc đẩy thăng tiến, sức khỏe, tuổi thọ, bền vững và thịnh vượng lâu dài trong kinh doanh. Linh vật này mang lại may mắn sung túc ổn định (thay vì những yếu tố bất ngờ xảy ra, Long Quy sẽ giúp từng bước tiết kiệm, tăng tiền bạc một cách chắc chắn).

7. Tượng Cá

1407253443-080614nd9vatca

Theo Phong Thủy, Cá đại diện cho sự giàu sang, phú quý. Nhiều doanh nghiệp Trung Quốc thích đặt bể cá cảnh sống như cá vàng, cá chép, cá bảy màu gần lối vào văn phòng hoặc cửa hàng, nhà ở để thu hút sự giàu có và may mắn.

Tuy nhiên, đặt tượng cá thì đơn giản hơn và không phải chăm sóc như bể cá sống. Vì thế nhiều người trưng bày tượng cá trong nhà.

8. Ba vị thần Phúc – Lộc Thọ

1407256894-080614nd9vat3ong

Ba vị thần Phúc – Lộc Thọ là những vị thần phổ biến nhất và được trưng bày trong nhiều gia đình trên toàn thế giới.

Tượng Phúc, Lộc, Thọ thường được trưng bày theo phong thủy để cầu mong sức khỏe, sự giàu có và hạnh phúc.

Tượng ba ông cực kỳ phổ biến vì tượng trưng cho tất cả mọi thứ khiến cho con người hạnh phúc, mãn nguyện. Bày ít nhất 1 trong 3 ông sẽ thu hút may mắn đến với cuộc sống.

Nhà phong thủy nổi tiếng thế giới, Lilian Too, người đã viết hơn 80 cuốn sách về đề tài này, trưng bày ít nhất 3 bộ ba ông Phúc Lộc Thọ trong nhà riêng của bà.

9. Thuyền buồm đầu rồng

1407256894-080614nd9vatthuyenbuommavang

Người ta quan niệm rằng thuyền rồng mang lại sự giàu có từ gió và nước, được xem là biểu tượng của thành công trong kinh doanh. Để tăng thu nhập, nhiều doanh nghiệp Trung Quốc bày thuyền đầu rồng trước cửa hàng, văn phòng.

Nên đặt thuyền buồm hướng vào bên trong văn phòng, cửa hàng, nhà ở. Hoặc có thể treo một bức tranh có hình chiếc thuyền buồm đang căng gió tiến về phía bạn để tăng thêm vận may và tài lộc.

Lưu ý: Không nên để thuyền buồm hướng ra ngoài cửa, vì như thế nó mang ý nghĩa chạy mất, đồng nghĩa với vận may và tài lộc cũng theo đó ra đi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vật phẩm phong thủy mang lại tiền tài –

Nguồn gốc và ý nghĩa của Thiềm Thừ –

Thiềm thừ là con vật huyền thoại cóc vàng có 3 chân, nó là biểu tượng của Thần tài, của sự may mắn về kinh doanh và tiền bạc. Bài viết sau đây nói về Nguồn gốc và ý nghĩa của Thiềm Thừ. Truyền thuyết Cóc vàng phong thủy vốn là yêu tinh, được tiên ông

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiềm thừ là con vật huyền thoại cóc vàng có 3 chân, nó là biểu tượng của Thần tài, của sự may mắn về kinh doanh và tiền bạc. Bài viết sau đây nói về Nguồn gốc và ý nghĩa của Thiềm Thừ.

Nội dung

  • 1 Truyền thuyết
  • 2 Ý nghĩa về phong thuỷ
  • 3 Vị trí đặt Thiềm thừ
    • 3.1 Đặt ở tài vị
    • 3.2 Thiềm Thừ tránh Hỏa, cần Thủy
    • 3.3 Đặt theo loại Thiềm Thừ
    • 3.4 Đặt ở vị trí sạch sẽ, sáng sủa, có thực vật xanh
  • 4 Cách khai quang điểm nhãn cho Thiềm Thừ

Truyền thuyết

Cóc vàng phong thủy vốn là yêu tinh, được tiên ông Lưu Hải thu phục, theo tiên ông Lưu Hải để tu hành nên không làm hại nhân gian như trước, mà ngược lại dùng phép thuật của mình đi khắp nhân gian để nhả tiền giúp đỡ mọi người, để thể hiện sự phục thiện, sự cải tà quy chánh với tiên ông Lưu Hải.

Cóc vàng phong thủy thường ngậm đồng tiền cổ trong miệng, tượng trưng cho việc cóc mang tài lộc vào nhà. Người Hoa từ xưa tới nay đều tin rằng, nếu họ nhà cóc ở dưới giếng, dưới ao, hồ sau nhà bạn, thì gia đình bạn có thể tránh khỏi những nguy hiểm rình rập. Như vậy cóc biểu tượng linh thiêng trong phong thủy về tài lộc và yên lành.

Do đó, mọi người hay dùng đón Cóc tài lộc để chiêu tài, chuyển hung hóa cát trong phong thủy nhà cửa, hoặc để tặng cho bà con bạn bè thân hữu khi có dịp hỷ sự.

Nếu có dịp đi mua sắm ở khu vực chợ lớn sài gòn, bạn sẽ thấy rất nhiều gia đình người HOA, chưng hình tượng của thiềm thừ tại hai bên cửa ra vào, bàn thờ thổ thần, thần tài, hay nhiều nơi khác trong nhà để chiêu tài khí tạo may mắn trong việc kinh doanh cho gia chủ về tài lộc, công danh và sức khỏe.

Ý nghĩa về phong thuỷ

Trong phong thủy Cóc ba chân là biểu tượng rất may mắn vì nó có thể đem lại tài lộc cho gia chủ. Hình ảnh cóc ba chân ngậm tiền xu trong miệng tượng trưng cho việc cóc rước tài lộc vào nhà và được gọi là thiềm thừ.

Thiềm Thừ thông nhân tính, vì thế khi khai quang tốt nhất chỉ nên có một mình gia chủ. Thiềm Thừ sau khi được khai quang, nhìn thấy ai đầu tiên sẽ mãi mãi “phù hộ” cho người đó. Vì thế, có người dùng rất tốt nhưng đem tặng cho người khác thì lại không linh là vì lí do này.

Vị trí đặt Thiềm thừ

Đặt ở tài vị

Thiềm Thừ có quan hệ chặt chẽ tới tiền tài, không thể tách rời nên đặt ở tài vị là tốt nhất, mang tới hiệu quả chiêu tài, thúc tài lớn nhất. Căn cứ vào ngũ hành bản mệnh, bát tự của gia chủ để xác định tài vị theo phương hướng của chính rồi bày Thiềm Thừ ở đó.

Thiềm Thừ tránh Hỏa, cần Thủy

Thiềm Thừ tuy rằng đại diện cho tài vận, nhưng cũng là một loại sinh vật sống dưới nước, cần có Thủy nuôi dưỡng, nên đặt ở vị trí có Thủy vượng để thúc tài hiệu quả. Nhưng tránh đặt Thiềm Thừ đối diện bể cá hay hồ nước, vì tài hóa Thủy mà chảy đi mất. Cũng vì cần nước nên Thiềm Thừ kị Hỏa, Thủy Hỏa tương khắc sẽ phá tài vận.

Đặt theo loại Thiềm Thừ

Có hai loại là Kim Thiềm Thừ và Thiềm Thừ. Mỗi loại bày theo một phương khác nhau mới đem lại kết quả tốt. Kim Thiềm Thừ là con cóc ba chân ngậm đồng tiền trong miệng thì nên quay vào trong nhà, mang tiền về nhà. Thiềm Thừ không ngậm tiền thì nên đặt hướng ra ngoài, ngụ ý mang của vào nhà.

Đặt ở vị trí sạch sẽ, sáng sủa, có thực vật xanh

Lưu ý khi bày Thiềm Thừ là muốn phát huy tối đa công dụng phong thủy thì phải đảm bảo nơi đó sạch sẽ, thoáng đãng và có cây xanh. Thủy Mộc tương sinh, trợ lực rất lớn, cây càng xanh tốt thì tài vận của gia đình càng thịnh vượng.

Cung phựng Thiềm Thừ chỉ cần chén nước sạch, ít hoa quả là đủ. Mỗi ngày Rằm phải đổi nước, thay quả một lần.

Cách khai quang điểm nhãn cho Thiềm Thừ

1, Chon một ngày đẹp, tắm rửa sạch cho Thiềm Thừ.

2, Lấy nửa thùng nước giếng, lấy tiếp nửa thùng nước mưa.

3, Đổ vào đồ chứa đã chuẩn bị từ trước, đồ chứa đó phải sạch sẽ.

4, Đặt Thiềm Thừ vào nước ngâm 3 ngày 3 đêm.

5, Sau khi lấy ra dùng khăn bông sạch lau khô Thiềm Thừ.

6, Lấy một chút nước CHÈ vẩy vào mắt Thiềm Thừ – đây còn gọi là khai quang điểm nhãn.

7, Thiềm Thừ thông nhân tính, vì thế khi khai quang tốt nhất chỉ có mình ở đó, Thiềm Thừ sau khi khai quang người đầu tiên nó nhìn thấy là bạn sẽ mãi mãi “phù hộ“ bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguồn gốc và ý nghĩa của Thiềm Thừ –

Cách chọn bàn thờ hợp phong thủy

Chọn vị trí đặt ban thờ hợp phong thủy rất quan trọng trong mỗi gia đình, bàn thờ đặt đúng vị trí mang lại nhiều tài lộc cho gia chủ.
Cách chọn bàn thờ hợp phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong tục thờ cúng gia tiên tồn tại trong dân gian Việt Nam bao đời nay. Đây là nơi con cháu tỏ lòng hiếu thảo của mình với người đã khuất và mang lại niềm tin, chỗ dựa giúp con cháu đủ sức vươn lên trong xã hội.

Với mỗi vùng miền sẽ có những cách thờ cúng khác nhau. Do không gian thờ cúng có ý nghĩa tâm linh với gia đình nên yếu tố gần gũi và giáo dục truyền thống cần được đặt lên hàng đầu. Điều này sẽ giúp kết nối các thế hệ và giữ nề nếp, gia phong của gia đình.

Trong ngôi nhà truyền thống của người Việt, bàn thờ tổ tiên thường đặt tại gian chính, gian chính lại là chỗ tiếp khách nên nhiều người cho rằng hai không gian này là một. Vì thế, một số nhà xây mới hiện nay vẫn có thói quen để bàn thờ ngay tại phòng khách. Tuy nhiên, nếu có không gian vẫn nên làm gian thờ riêng biệt bởi các lý do sau:

– Thứ nhất, tránh được việc đi từ ngoài cửa vào đã nhìn thấy bàn thờ, hình ảnh tổ tiên. Hơn nữa, bàn thờ thuộc tĩnh, không hợp với sự phô trương.

– Thứ hai, bàn thờ ngay cửa chính sẽ đón nhận nhiều sát khí từ ngoài vào, hoặc dễ có gió thổi làm động bát hương.

– Thứ ba, bàn thờ chính gian giữa, người khấn đứng quay lưng ra cửa, sẽ có cảm giác bất an, khó tập trung tư tưởng khi khấn, làm mất tính trang nghiêm.

Tốt nhất nên cân nhắc vị trí đặt ban thờ ngay khi bắt đầu thiết kế xây nhà sao cho phù hợp. Ví dụ, muốn đặt dưới tầng một thì bàn thờ nên nằm sát giếng trời hoặc trong khoảng thông tầng, nằm ở phía sau nhà và không lộ diện ra phòng khách. Khi đặt trên tầng, bàn thờ nên kín đáo với người ngoài và gần gũi với người trong gia đình.

Với nhà chung cư, bàn thờ vẫn phải đảm bảo sự thông thoáng, nhưng kín đáo và thống nhất về hình thức sao cho tương ứng với không gian căn hộ.

Nguyên tắc chiếu sáng ở phòng thờ

– Phòng thờ của gia đình phải tạo được không khí trang nghiêm, ấm cúng, gần gũi tránh tạo cảm giác lạnh lẽo.

– Phòng thờ thường được bố trí có diện tích nhỏ, do vậy bạn nên chọn những đèn treo nhỏ cho tương xứng với phòng, tránh treo các loại đèn chùm lớn gây mất cân đối. Cần lưu ý là bố trí ánh sáng đèn không được chiếu thẳng vào người ngồi khi hành lễ cúng bái.

– Nếu tường sơn của phòng thờ có màu sáng thì không nên lắp nhiều bóng đèn sẽ ảnh hưởng đến tính chất trang nghiêm của nơi thờ cúng. Chỉ nên bố trí khoảng 2 đến 3 loại ánh sáng.

– Tường có treo tranh nên bố trí hai đèn âm tường cân xứng hai bên bức tranh.

Bày trí trên bàn thờ

Tùy theo kích thước ngôi nhà, điều kiện sinh hoạt… mà việc bày trí bàn thờ gia tiên khác nhau. Thông thường có 1 đến 3 bát hương, bát hương ở giữa thờ chung thần linh thổ địa, bát hương hai bên là thờ gia tiên và bà cô ông mãnh.

Phía trước bát hương: Ở giữa bày cái đài nhỏ, với ba chén đựng nước sạch. Hai bên là hai đĩa bày hoa quả tươi và trầu cau, hoặc tiền vàng mã.

Phía sau bát hương: Là bộ bình để hoa tươi, hương và nến. Tùy theo chất liệu mà sự bày trí cũng khác. Với đồ sứ: Bộ tam sự bao gồm bát hương, hai cây đèn (hoặc hai con hạc đội đèn), bộ ngũ sự có thêm hai bình (dựng cắm hoa tươi và để hương); bộ thất sự có thêm hai bình (đựng nước và gạo). Với đồ đồng: Tam sự có đỉnh đồng thay thế bát hương, và hai con hạc, ngũ sự có thêm hai ống hương và thất sự có thêm đôi đèn. Như vậy, bày trí của đồ đồng có tính trang trí thẩm mỹ là chính còn bày trí của đồ sứ thiên về tính thờ cúng và tâm linh hơn.

Khi bố trí bàn thờ Phật cần cao hơn và tách biệt bàn thờ gia tiên.

Bố trí hoành phi, câu đối phòng thờ

Trong không gian thờ cúng tổ tiên của mỗi gia đình người Việt đều dành một phần trang trọng nhất để treo những bức hoành phi, câu đối. Đây là nét văn hóa đặc sắc trong đời sống tâm linh của người dân.

Hoành phi thường được sơn son chữ vàng, có bức hoành phi hình cuốn thư. Chữ viết trên hoành phi đều tỏ lòng tôn kính của con cháu đối với tổ tiên, ghi tụng công đức của tổ tiên, ghi lại những lời răn dạy con cháu, hoặc thể hiện ước nguyện cầu mong sự bình an, thái bình.

Hai bên bàn thờ còn có đôi câu đối. Ngoài dùng trang trí, đôi câu đối còn ghi lại những lời răn dạy con cháu những giá trị đạo đức truyền thống, ca ngợi truyền thống của dòng họ hoặc cầu mong thái bình, thịnh vượng.

Những điều kiêng kỵ với bàn thờ

– Ngoài những kiêng kỵ như trên, bàn thờ không đặt cạnh tường bếp đun, không dựa lưng vào nhà vệ sinh, hay không nằm dưới hay trên vệ sinh, hạn chế đặt ở ban công…

– Kiêng kỵ về cách cục, trong phong thủy bàn thờ được coi như kháo sơn, cần đặt ở nơi có sơn tinh đang vượng. Như năm nay chúng ta đang ở trong vận 8, bàn thờ nên đặt nơi có Cửu Tử hay Nhất Bạch đáo sơn.

– Kiêng kỵ về thời gian lập bàn thờ: Việc lập bàn thờ thường được tiến hành đồng thời với nhập trạch, nên việc lựa chọn thời gian có ý nghĩa vô cùng quan trọng, ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống sau này. Phải xem ngày tốt xấu phù hợp với nhập trạch, cúng tế hay hợp tuổi gia chủ, người ta còn chú ý đến thời điểm có sao Bát Bạch để hóa giải sát khí.

– Kiêng kỵ về người lập bàn thờ: Người xưa cho rằng phụ nữ mang thai có nhiều tạp khí, không nên động chạm vào bàn thờ hay bát hương. Hơn nữa, người bốc bát hương nên là gia chủ, chứ không nhất thiết phải nhờ người khác, cốt sao là sự thành tâm và tay chân sạch sẽ khi thực hiện.

– Kiêng kỵ về bố trí trên bàn thờ: Bàn thờ là nơi thờ cúng gia tiên chứ không phải nơi phô trương hay trưng bày, những thứ không liên quan đến thờ cúng không bày lên bàn thờ, nhất là giấy công đức ở đình chùa. Nếu thờ gia tiên cùng Phật hay thờ mẫu, cần tách riêng bàn thờ Phật hay thờ mẫu, bàn thờ gia tiên để thấp hơn và tách biệt.

– Kiêng kỵ về đồ lễ trên bàn thờ: Quan trọng nhất là hương hoa, tức hương thắp, hoa quả tươi, hoa tươi và nước sạch. Tránh các loại đồ giả như hoa quả nhựa. Đồ thờ cúng xong rồi nên bỏ xuống để thụ lộc, tránh bày để từ tháng này qua tháng khác. Không nên để lễ mặn, hay tiền mặt lên bàn thờ.

Nguyễn Mạnh Linh
Trưởng phòng Phong thủy Kiến trúc
Viện Quy hoạch & Kiến trúc Đô thị – ĐHXD

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách chọn bàn thờ hợp phong thủy

Mẫu người Mệnh vô chính diệu

Khoa Tử Vi Đẩu Số đặt căn bản trên 118 vì sao gồm chính tinh và phụ tinh. Những sao này được phân bố trên 12 cung của một lá số theo các quy tắc đã định dựa vào ngày, tháng, năm và giờ sinh của mỗi người. Chính tinh có những đặc tính và ảnh hưởng mạnh mẽ hơn phụ tinh cho nên những cung quan trọng như Mệnh, Tài, Quan, Phúc rất cần có chính tinh tọa thủ, nhất là Mệnh. Tuy nhiên, cũng có những lá số mà Mệnh không có chính tinh nào tọa thủ, hay chúng ta thường gọi là Mệnh Vô Chính Diệu (VCD).
Mẫu người Mệnh vô chính diệu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một cung Mệnh không có chính tinh tọa thủ như căn nhà không có chủ, một bầu trời không có trăng sao cho nên Mệnh VCD phải mượn chính tinh ở cung đối diện làm chính tinh của mình. Vì vay mượn cho nên Mệnh VCD chỉ chịu ảnh hưởng chừng sáu hay bảy phần những tốt xấu của các chính tinh ở cung xung chiếu mà thôi.

Cung xung chiếu Mệnh là cung Thiên Di. Trong những bài trước, chúng ta đã nói cung Thiên Di là bối cảnh sinh hoặc ngoài xã hội của mỗi người. Do đó, khi phải mượn chính tinh ở cung Thiên Di cho Mệnh của mình thì đặc tính đầu tiên của người VCD là tính uyển chuyển, dễ thích nghi với hoàn cảnh.

Phải chăng vì Mệnh không có chính tinh cho nên những người VCD thường là con của vợ hai, hay nàng hầu. Nếu là con của vợ cả thì tuổi trẻ thuở thiếu thời hay bị đau ốm, bệnh tật, khó nuôi. Khi lớn lên thì cuộc đời cũng long đong, vất vả, sớm phải xa nhà, thường sống phiêu bạt nơi đất khách quê người, và tuổi đời không được thọ.

Một đặc điểm quan trọng khác mà người VCD phải lưu ý là vì Mệnh của mình không có chính tinh ví như đoàn quân không có tướng cho nên người VCD khi ra đời dù là làm công hay tự mình làm chủ thì cũng không nên là người đúng đầu trong một đơn vị như chỉ huy trưởng của một quân đội, giám đốc của một cơ sở hành chánh hay một cơ sở thương mại. Người VCD chỉ nên là nhân vật thứ hai như một cái bóng, đúng sau lưng một người khác để phò tá, phụ giúp thì thích hợp và thuận lợi cho công việc hơn. Nếu giữ những chức vụ hàng đầu thì thường hay gặp khó khăn trở ngại, nặng nề hơn thì dễ đưa đến sự thất bại hay tai họa xảy đến cho chính bản thân mình hoặc cho đơn vị, cơ sở mà mình chỉ huy, điều hành.

Người VCD tánh tình thâm trầm, khôn ngoan sắc sảo và rất thông minh. Do vậy, những công việc như soạn thảo kế hoạch, tham mưu, cố vấn, quân sư v.v… rất thích hợp với họ, điển hình như Trương Lương, Phạm Lãi, Gia Cát Lượng thời xưa và như Henry Kissinger ngày nay.

Ở đây chúng ta thấy một điều oái ăm cho người VCD. Họ có khả năng dự thảo kế hoạch nhưng chỉ thuận lợi khi họ làm cho người khác, còn đối với bản thân họ thì lại trái ngược. Họ thường khó đạt được những gì mà họ dự tính cho chính mình. Ảnh hưởng này mạnh nhất là trong khoản tiền vận của cuộc đời. Càng lớn tuổi thì ảnh hưởng này càng giảm đi.

Người VCD thường lao đao vất vả trong buổi thiếu thời. Chỉ bắt đầu khá từ trung vận và càng về già thì cuộc sống càng ổn định hơn. Nói chung thì cuộc đời của họ thường chỉ được tốt đẹp vào nửa đời sau mà thôi. Bởi đặc tính đó cho nên trong mỗi hạn, dù tiểu hay đại hạn, thì họ cũng chỉ được tốt đẹp vào nửa hạn sau. Ví dụ: Đại hạn 10 năm tốt đẹp thì 5 năm sau được thuận lợi hơn và nhiều may mắn hơn.

Là mẫu người có tài, có trí họ có thể đạt được những công danh sự nghiệp. Nhưng trong ba chữ Phước-Lộc-Thọ thì chữ “Thọ” là nhẹ nhất. Và có phải như ông bà chúng ta thường nói: “Đa tài thì bạc mệnh” Cho nên người VCD ít ai có được tuổi thọ cao. Muốn hóa giải vấn đề này, người VCD phải làm con nuôi của người khác và phải đổi luôn cả họ của mình, hoặc phải sớm xa nhà, mưu sinh nơi đất khách quê người.

Với sự bất lợi là Mệnh không có chính tinh thủ, nhưng người VCD vẫn được hai cách tốt:


1. Mệnh VCD có Tuần, Triệt, Thiên Không, hay Địa Không tọa thủ hoặc hợp chiếu, tùy theo cung Mệnh được bao nhiêu sao KHÔNG chiếu, khoa Tử Vi gọi là cách Mệnh VCD đắc nhị không, tam không, hay tứ không. Tuy đây là một cách tốt, khi phát thì phát rất nhanh vì sách có nói “hung tinh đắc địa phát dã như lôi.” Có nghĩa là hung tinh đắc địa thì phát nhanh như sấm chớp. Nhưng dù sao trong cái tốt vẫn ẩn tàng những sự bất trắc vì đó là bản chất của hung tinh cho nên đây chỉ là cách bạo phát bạo tàn kiểu như Từ Hải hay Hạng Võ mà thôi.

Trường hợp Mệnh VCD gặp các sao KHÔNG vừa nêu trên chúng ta phải lưu ý một điều. Nếu Mệnh VCD đắc nhị không thì cũng bình thường, không có gì đáng nói. Nếu đắc tứ không thì ảnh hưởng của Tuần Triệt là con dao hai lưỡi tốt xấu lẫn lộn cho nên không được tròn vẹn. Cách tốt nhất là đắc tam không. Nhưng đối với cách này, cụ Việt Viêm Tử phân biệt rõ ràng giữa các trường hợp “đắc”, “kiến” và “ngộ” đễ khỏi nhầm lẫn trường hợp nào tốt, trường hợp nào xấu.


Trường hợp đắc tam không: Mệnh VCD có một sao không thủ Mệnh, hai sao KHÔNG khác ở thế tam hợp chiếu là tốt nhất. Có câu: “Mệnh VCD đắc tam Không nhi phú quý khả kỳ” Cách này rất ứng hợp cho những người Mệnh Hỏa và Thổ vì các sao Không đều thuộc hành Hỏa cho nên đây cũng là một trong những cách hoạch phát.

Trường hợp kiến tam không: Mệnh VCD có 1 sao KHÔNG thủ, một sao KHÔNG thủ ở cung Quan Lộc hoặc Tài Bạch, 1 sao KHÔNG ở cung xung chiếu (Thiên Di) Trong tam hợp Mệnh có hung tinh hay sát tinh tọa thủ. Người có cách này như mộng ảo hoàng lương. Công danh sự nghiệp dù tạo dựng lên được thì chung cuộc cũng chỉ là một giấc mơ.

Trường hợp ngộ tam không: Mệnh VCD có hung tinh hay sát tinh hãm địa tọa thủ. Hai cung tam hợp và cung xung chiếu có có sao KHÔNG tọa thủ hợp chiếu vào Mệnh. Cách này là “Mệnh VCD ngộ tam không phi yểu tắc bần” có nghĩa là gặp cách này không chết sớm thì cũng nghèo hèn cả đời vì tam KHÔNG đi cùng với hung sát tinh hãm địa ở Mệnh trở thành phá tán.


2. Mệnh VCD được hai sao Thái Dương, Thái Âm ở miếu, vượng địa chợp chiếu. Trường hợp này Mệnh như một vòm trời không một áng mây lại được hai vầng Nhật Nguyệt cùng một lúc chiếu vào khiến cho vòm trời ấy trở nên rực rở. Khoa Tử Vi gọi là “Mênh VCD Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa” Có người cho rằng phải có thêm Thiên Hư ở Mệnh nữa thì mới đúng nghĩa với hai chữ “Hư Không” Điều đó xét ra không cần thiết lắm. Người đắc cách này thông minh xuất chúng, đa tài, đa mưu như Gia Cát Lượng trong thời Tam Quốc phân tranh.


Khổng Minh Gia Cát Lượng sinh vào giờ Tuất ngày 10 tháng 4, năm Tân Dậu. Mệnh VCD an tại Mùi có Thái Dương ở Mão (Mặt trời lúc bình minh) và Thái Âm ở Hợi (mặt trăng vằng vặc lúc nửa đêm, cả hai cùng hợp chiếu về Mệnh. Đây là cách “Nhật Nguyệt Tịnh Minh tá cửu trùng ư kim diện” Người đắc cách này luôn luôn kề cận bên cửu trùng, quyền uy chỉ thua một đấng quân vương mà thôi.

 Vì Mệnh VCD, cho nên tuổi thiếu thời Gia Cát Lượng ẩn cư trong lều cỏ. Qua trung vận mới xuất thế theo phò tá Lưu Bị lập nghiệp đế. Ông là vị quân sư tài ba lỗi lạc, trên thông thiên văn, dưới thông địa lý. Chỉ ngồi trong trướng mà điều binh trăm trận trăm thắng. Ông đã hiểu rõ cái số của mình nên giữ đúng vị trí của một người có Mệnh VCD, chiu dưới chỉ 1 người mà trên muôn vạn người.
Nhưng đến khi Lưu Bị qua đời, ấu chúa lên ngôi. Lúc ấy ông phải giữ vai trò của người đứng đầu, quyết định tất cả mọi chuyện như một vị Vua thật sự. Cho nên đó là một điều không thích hợp với người Mệnh VCD. Phải chăng vì vậy mà 6 lần đưa quân ra khỏi Kỳ Sơn thì cũng 6 lần phải rút quân về không kết qủa. Kể cả lúc biết mình sắp chết, muốn cãi số trời, ông đã làm phép cầm sao bổn mạng của mình lại nhưng cũng không thành.

Đó là đặc tính đáng chú ý của người có Mệnh VCD: Mưu sự cho người thì dễ, mà cho chính bản thân mình thì khó.

Người ta cũng cho rằng, Gia Cát Lượng chết sớm là vì sát nghiệp của ông qúa nặng. Ông đã dùng hỏa công đốt chết 10 vạn quân đằng giáp của Mạnh Hoạch trong cốc Hồ Lô. Rồi lại dùng hỏa công đốt chết 18 vạn quân của Tào Tháo trên sông Xích Bích. Nhưng nếu chúng ta xét điều này dưới cái nhìn của khoa Tử Vi thi dù sát nghiệp của ông ta nặng hay nhẹ thì tuổi thọ của ông ta cũng sẽ được bao nhiêu với cái số Mệnh VCD ?


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mẫu người Mệnh vô chính diệu

Điều tu dưỡng lớn nhất của đời người phần 2

Lắng nghe những lời Phật dạy về điều tu dưỡng lớn nhất của đời mỗi con người.
Điều tu dưỡng lớn nhất của đời người phần 2

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Có câu: “Khiêm thụ ích, mãn chiêu tổn”, có nghĩa là: khiêm nhường sẽ nhận được lợi ích, được cho thêm, tự mãn thì bị mất đi, chuốc lấy tổn hại. Người tự cao tự đại, tự ngã ở trên cao, dù đi tới bất cứ đâu cũng không nhận được sự chào đón. Thế mới nói, thất bại lớn nhất của con người sinh ra trên nhân thế là tự mãn, kiêu ngạo.


11. Thất bại lớn nhất của đời người là tự mãn


Có câu: “Khiêm thụ ích, mãn chiêu tổn”, có nghĩa là: khiêm nhường sẽ nhận được lợi ích, được cho thêm, tự mãn thì bị mất đi, chuốc lấy tổn hại.

Người tự cao tự đại, tự ngã ở trên cao, dù đi tới bất cứ đâu cũng không nhận được sự chào đón. Thế mới nói, thất bại lớn nhất của con người sinh ra trên nhân thế là tự mãn, kiêu ngạo.

12. Sự kém hiểu biết lớn nhất của đời người là oán trách

Bản thân kém hiểu biết, không thấy được đạo lý, không thấu tình đạt lý, khi gặp điều không như ý bèn quay ra oán trời trách đất, oán than con người thế gian không giúp đỡ, oán trách cả xã hội, bạn bè, thân quyến.

Đó chính là sự kém hiểu biết nhất trong cuộc đời mỗi con người. Sao không tự soi trách mình trước mà còn oán than bạn bè, họ hàng thân thuộc, trút giận lên mọi thứ xung quanh.

Dieu tu duong lon nhat cua doi nguoi phan 2 hinh anh
 
13. Lỗi lầm lớn nhất của đời người là xâm phạm

Xâm phạm hay chiếm đoạt tiền tài, phúc lộc, sinh mệnh của người khác chính là lỗi lầm lớn nhất của đời người. Vì lợi ích bản thân mà xâm phạm, chà đạp lên người khác chẳng khác gì lấy oán báo ơn, bị dục vọng làm mờ mắt.

14. Phiền nhiễu lớn nhất của đời người là thị phi

Có câu “Thị phi triểu triểu hữu, bất thính tự nhiên vô”, có nghĩa: chuyện thị phi luôn sẵn có, không để tai lắng nghe, ắt nó sẽ như không.

Vì thị phi mà bao người khổ não, gieo rắc bao nỗi oán hận, lầm than. Làm người cần học cách lắng nghe có chọn lọc, nghe những điều hay lẽ phải, không chuyển tiếp thị phi, không tranh đấu tới lui thì cuộc sống mới bớt muộn phiền, oán than.

Mệnh chính là giá trị NHÂN SINH con người
Phật dạy: Mệnh do mình tạo ra, tướng do tâm sinh ra, thế gian vạn vật đều tương hòa với nhau. Tâm bất động thì vạn vật bất động; tâm bất biến
15. Hy vọng lớn nhất đời người là bình an


Ai chẳng mong muốn có tiền tài, danh vọng, mỹ sắc, địa vị. Nhưng có được danh vọng, tiền tài rồi lại mất đi sự bình yên trong tâm hồn, há chẳng phải cuộc sống chưa thể chạm tới hy vọng, mấy đi ý nghĩa tốt đẹp của nó chăng.

Cho nên bình an là hy vọng lớn nhất của đời người, nó cũng chính là phước lành, luôn đi theo và bảo vệ chúng ta khỏi những tai ương, hung họa.

16. Can đảm lớn nhất của đời người là tự mình nhận sai

Làm người cần có dũng khí. Dũng khí không phải là đấu đá, tranh giành nhau, cũng không phải là tính toán so bì, tranh chấp cao thấp. Dũng khí lớn nhất chính là tự mình nhận ra sai lầm. Người can đảm nhất chính là người dám làm dám chịu, dám nhận và sửa sai.

Dieu tu duong lon nhat cua doi nguoi phan 2 hinh anh 2
 
17. Nguồn năng lượng lớn nhất của đời người là niềm tin


Nói tới nguồn năng lượng không nhất định chỉ là khoáng sản trong lòng núi, châu báu dưới đáy biển, cũng không nhất định là năng lượng của ánh sáng mặt trời, không khí thiên nhiên. Nguồn năng lượng lớn nhất của đời người chính là niềm tin. Vì bên trong niềm tin ẩn chứa kho báu và của cải vật chất, ở đó có công đức và tiền tài phúc lành.

18. Thiện tâm lớn nhất của đời người là lợi ích chúng sinh

Mọi việc làm, dù lớn hay nhỏ nhưng có tâm hướng thiện, đều là việc làm tốt, ban phát lợi ích cho chính bản thân mình cũng như chúng sinh.

Thiện tâm, lòng hảo tâm không chỉ dừng lại với người thân quen, bạn bè, họ hàng xung quanh mà nó là tình người, cả nhân loại.

19. Ưu tư lớn nhất của đời người là sinh – tử


Sinh – tử, hai đại sự trong cuộc đời mỗi con người, nó cũng là mối ưu tư, lo lắng lớn nhất. Sinh thời mưu đồ tranh danh đoạt lợi, lừa gạt nhau để thủ lợi. Nhưng khi lâm vào cảnh vô thường, nỗi sợ về tài phúc, ái tình, sự nghiệp đều sẽ chớp mắt thành không. Vì thế ưu lo lớn nhất của cuộc đời chính là luôn luôn lo lắng, sầu não không biết sinh thời, tử thời.

=> Xem thêm: Những câu nói hay về triết lý nhân sinh cuộc đời đáng suy ngẫm

An Nhiên

7 điều đừng hiểu sai về sai về đạo Phật
Trong đời sống tâm linh của người Việt, Phật giáo được coi là một phần đặc biệt quan trọng. Phần lớn dân số nước ta theo hoặc tin đạo Phật

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điều tu dưỡng lớn nhất của đời người phần 2

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd