Mơ thấy bị rắn cắn –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
A | B | C | D | E |
Mộc Trà (theo Buzz)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
=> Xem bói theo khoa học tử vi để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình |
Hướng bếp hợp người sinh năm 1970:
Năm sinh dương lịch: 1970
– Năm sinh âm lịch: Canh Tuất
– Quẻ mệnh: Chấn Mộc
– Ngũ hành: Thoa Xuyến Kim (Vàng trang sức)
– Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch
– Hướng tốt: Bắc (Thiên Y); Đông (Phục Vị); Đông Nam (Diên Niên); Nam (Sinh Khí);
– Hướng xấu: Tây Bắc (Ngũ Quỷ); Đông Bắc (Lục Sát); Tây Nam (Hoạ Hại); Tây (Tuyệt Mệnh);
Trong tác phẩm kinh điển “Tam Quốc diễn nghĩa”, trong các nhân vật chính thì Tôn Quyền được khắc họa không mấy thành công. Tôn Quyền không có được cá tính hoặc tài năng nổi trội như Lưu Bị và Tào Táo, cũng không có được khí khái anh hùng. Đại nghiệp của ông khiến cho người đọc cảm thấy phần nhiều do may mắn.
Thực ra, nhân vật lịch sử Tôn Quyền cũng không thừa hưởng được sự dũng cảm cương nghị của cha, không có được nhuệ khí như anh trai Tôn Sách, không có được sự gian hùng ngang dọc Nam Bắc mà lại tài hoa văn chương như Tào Tháo, không được như Lưu Bị khi lập đại nghiệp trong loạn thế anh hùng. Điểm nổi bật duy nhất khiến Tôn Quyền không lẫn với ai đó chính là tướng mạo đặc biệt với mắt xanh ngọc bích và hàm râu tím.
Công bằng mà phán xét, trong thời loạn, một quân vương trong 24 năm đã xây dựng được đại nghiệp hưng thịnh, tạo thế vững vàng như long hổ ở Giang Đông thì Tôn Quyền đúng là một đại anh hùng có tài hoa chính trị phi phàm.
Ông kế thừa cơ nghiệp từ cha anh không hề phải kinh qua sự tôi luyện nơi sa trường ác liệt nhưng ông đã biết dùng những võ tướng, đại thần có năng lực làm kẻ tận trung với mình khiến cho Giang Đông trở thành vùng bảo địa hội tụ của các hiền tài trong thiên hạ.
Ông cũng là người dũng cảm khi bản thân thực sự không có tài năng quân sự nhưng lại dám tin tưởng giao cho Chu Du, Lã Mông, Lục Tốn quyền thống soái quân đội cực lớn. Đó chính là cái tài của người làm chính trị.
Ông hiểu rõ nhất những nhân tài này nhất mực trung thành với mình. Chu Du và Lục Tốn tình như anh em ruột, Lã Mông và Lục Tốn lại do chính tay ông đề đạt nâng đỡ, họ đều là những người nợ ân tình thâm sâu với Tôn Quyền, nay lại được trọng dụng nên khó mà tạo phản. Chính nhờ sự trợ giúp hết lòng của những anh tài này mà Tôn Quyền mới có thể hùng cứ tại Giang Đông.
Xét từ góc độ lịch sử, hàng loạt các quyết định và hành động của Tôn Quyền đã chứng tỏ rằng ông ta chính là một hào kiệt trong thời loạn lạc. Ngay đến Tào Tháo, Lưu Bị người gian xảo kẻ dũng mãnh nhưng cũng không thể ngờ được rằng thất bại thê thảm nhất cuộc đời họ chính là để Tôn Quyền - một kẻ vãn bối vốn không được đánh giá cao đã xưng vương một cõi.
Tôn Quyền khéo léo, biết khuất phục cũng biết vươn mình, đầy khí khái của một đấng đại trượng phu. Trước khi xưng đế, ông đã làm chư hầu cho Ngụy. Tuy một số người coi ông là kẻ mặt dày vô xỉ, nhưng thực chất đây chính là mưu kế chính trị cao siêu của ông ta. Giữa buổi loạn lạc, Tôn Quyền vì muốn tránh nguy cơ rơi vào cạm bẫy trong trận chiến giữa hai bên trong việc tranh giành Kinh Châu nên đã chịu nhục trong vòng gần 10 năm để làm thần cho Ngụy.
Thực ra sự đầu hàng này chỉ là danh nghĩa, trên thực tế Tôn Quyền không hề chịu sự điều khiển của Tào Tháo về chính trị, kinh tế, quân sự và ngoại giao. Năm 24 Kiến An tức năm 219, Tôn Quyền sau khi giết chết Quan Vũ. Nguyên niên Hoàng Sơ tức năm 220, Tào Phi cướp ngôi nhà Hán, Tôn Quyền ngay lập tức cống tiến để biểu thị thần lễ. Năm thứ hai Hoàng Sơ, Tôn Quyền lại tiếp tục cử sứ giả đến xưng thần.
Tào Phi không bằng lòng với mối quan hệ nước chư hầu hữu danh vô thực nên đã yêu cầu Tôn Quyền đưa con trai đến làm con tin để biểu thị sự trung thành với nước Ngụy. Tôn Quyền không muốn để con trai mình làm con tin lại không muốn rơi vào ranh giới giữa cuộc chiến hai miền Nam Bắc nên đành phải tìm cách trì hoãn.
Năm thứ ba Hoàng Sơ, Tào Phi cuối cùng không chịu nổi Tôn Quyền đã cho ba đại quân xuống phía Nam phạt Ngô. Lúc này tướng Lục Tốn của Tôn Quyền vừa đại phá Lưu Bị giành chiến thắng ở trận chiến Di Lăng, giải quyết được sự uy hiếp từ phía Tây. Thừa thế xông lên, Tôn Quyền lập tức phản kháng lại Tào Phi, mối quan hệ chư hầu giữa Ngụy Ngô chính thức tan vỡ.
Tôn Quyền cuối cùng cũng đăng cơ hoàng vị, chính thức xây dựng nước Ngô. Trong thời gian chấp chính, ông cử người vượt biển. Ông cho thiết lập nông quan, thực hiện chính sách đồn điền, phát triển kinh tế, phát triển mở rộng lãnh thổ đến Giang Nam và một lần nữa ông lại thể hiện được tài năng trị quốc vượt bậc.
Đối với bất cứ một nhân vật lịch sử nào, đều cần phải nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan. Tuy cuối đời Tôn Quyền tự dưng trở nên ngờ vực đa nghi, giết người vô độ, đưa chính cục của Đông Ngô vào thế hỗn loạn, nhưng tổng thể mà nói Tôn Quyền vẫn được coi là một đời anh hào, một chiến lược gia chính trị kiệt xuất trong lịch sử của Trung Quốc.
Nguồn: keinthuc.net.vn
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
Chỉ có một thiểu số ít hơn là dùng âm lịch thường xuyên để nghiên cứu hay áp dụng vào các bộ môn khoa học huyền bí, như lấy số tử vi hay coi ngày lành tháng tốt cho chuyện làm đám cưới hỏi, khai trương công việc làm ăn v.v.
Hiện nay nghề làm lịch số của Trung Quốc không còn giữ được bí mật theo kiểu cha truyền con nối như xưa, vì nhờ vào phương tiện in ấn dồi dào từ sách vở ghi chép còn sót lại để nghiên cứu. Hơn nữa, Âm lịch cũng không còn thực dụng, vì hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đang chính thức dùng Dương lịch. Dù vậy, hậu quả của việc bảo vệ bí mật trong mấy ngàn năm trướcđây, cũng đã vô tình đánh mất đi cơ hội dành cho những thế hệ về sau này của Trung Quốc, nghiên cứu và tìm ra vận hành của Thái dương hệ, trước Âu châu ít nhất là vài trăm năm!
Nếu tình cờ mỗi năm một lần, chúng ta thấy xuất hiện một từ quen thuộc gọi theo tên âm lịch của năm đó, như năm nay 2002 là Nhâm-Ngọ, 2003 là Quý-Mùi, hay năm tới 2004 Giáp-Thân, thì dám chắc ai cũng đã ít nhất một lần thắc mắc, bằng cách nào và dựa vào đâu, các nhà lịch số Trung hoa phát minh ra những từ ngữ trên? Nói rõ hơn là mười (10) Thiên Can và mười hai (12) Ðịa Chi. Xin nhắc lại ở đây, 10 Can gồm: Giáp, Ất, Bính, Ðinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Bài viết này sẽ dựa trên một vài dữ kiện kiểm chứng được của khoa học, để truy tìm lại phương pháp làm lịch mà các Chiêm tinh gia Trung hoa thời xưa có thể đã xử dụng. Bằng với tinh thần tôn trọng sự thật và học hỏi, người viết xin minh xác là những gì được trìnhbày sau đây có thể chưa được chính xác đúng hoàn tòan như đã xảy ra. Nhưng hy vọng sẽ là những ý tưởng khởi đầu, hay nếu có thể được, coi như là một đề nghị nghiên cứu thêm cho những vị có nhiều năng khiếu tự nhiên giỏi về các bộ môn Tử vi Lý số, để cùng làm sáng tỏ những gì đã bị hiểu nhầm là khoa học huyền bí.
Nội dung chính của bài viết này sẽ trình bày và giải thích tại sao, chỉ bằng mắt thường quan sát với phương tiện ghi chép còn thô sơ, các chiêm tinh gia Trung hoa đã tính được ra Thiên can, Ðịa chi và LụcTuần Hoa Gíap, hay khái niệm về vận hành 60 năm trong âm lịch. Phần cuối của bài viết sẽ giải thích một vài điều thắc mắc về những bí ẩn của khoa Tử vi Ðẩu số.
Nguồn gốc Lịch số
Âm lịch (lunar calendar) hay việc soạn thảo lịch số dựa vào vận hành của mặt trăng không phải bắt đầu từ Trung hoa như nhiều người lầm tưởng. Theo dữ kiện cóđược từ các nhà khảo cổ với bằng chứng rõ rệt, thì nền văn minh Sumerian, phát triển bên cạnh con sông Tigris cách đây hơn 6000 năm (khoảng từ năm 5000-4000 BC, để sau này thành trung tâm của xứ ngàn lẻ một đêm, hay ngày nay còn gọi là Baghdad, thủ đô của Iraq) đã biết làm lịch dựa vào vận hành của mặt trăng. Ðế quốc La mã ngay trong thời trước Julius Cesar ( 40 BC ) cũng dùng loại Âm lịch này. Chọn mặt trăng để làm lịch có thể bởi hai lý do: Dễ nhìn vì ánh trăng ban đêm không nóng gay gắt và khó nhìn như mặt trời ban ngày. Thay đổi hình dạng thường xuyên từ khuyết tới tròn dễ thấy hơn là mặt trời hầu như ít khi thay đổi. Tuy nhiên, còn một lý do khá quan trọng khác ít người nghĩ đến, là do yếu tố thiên nhiên. Xứ Ai cập (Egypt) nằm ngay trên đường Phân cực Hoàng đạo (Tropic of Cancer, khoảng 23°27 từ xích đạo) nên đa số nhiều người đã thấy được hiện tượng mặt trời chiếu thẳng trên đỉnh đầu. Nghĩa là trong khoảng từ 20 tháng 3 đến 20 tháng 9, nếu cắm một cái cọc thật thẳng đứng, sẽ thấy bóng của cây cọc nhập trùng ngay dưới gốc của nó vào lúc 12 giờ trưa, ít nhất là trong vài ngày (Chỉ những nước nằm giữa đường xíchđạo và Bắc bán cầu trong khoảng Vĩ tuyến từ 0 - 23°27 mới thấy được hiện tượng trên. Ngược lại, trong vùng Nam Bán cầu thì khoảng từ 20 tháng 9 đến 20 tháng 3). Nhờ quan sát hiện tượng đó, dân Ai cập cách đây khoảng hơn 4000 năm đã tính ra gần đúng số ngày trong năm (365 thay vì 355 như Âm lịch), và cũng chính là lý do họ chọn làm lịch theo mặt trời, lưu truyền Dương lịch cho đến bây giờ!
Các thủ đô của Trung hoa như Trường An hay Bắc kinh, vì nằm trong vùng ôn đới cách xa trên đường Phân cực (Tropic of Cancer) nên không thấy được hiện tượng nói trên, cũng như khôngcó ấn tượng nhiều về mặt trời, và cũng là lý do dể hiểu tại sao họ đã dùng mặt trăng để làm lịch.
Theo đúng như trong sử Trung hoa ghi lại thì khoa Lịch số đã có từ thời Hoàng Ðế, cách đây hơn 4000 năm, do các chiêm tinh gia soạn ra (nghĩa nguyên thuỷ là nhà thiên văn hay chuyên gia coi sao trên trời, không phải bị biến nghĩa ra thành "thầy bói toán" như về sau này!) chiêm tinh gia biên soạn lịch số để định chuẩn thời gian cho việc hành chánh và cai trị của triều đình Vua quan, nhưng đồng thời cũng giúp rất nhiều cho nghề nông trongviệc tiên đóan thời iết hay thu hoạch mùa màng. Chắc chắn trong giai đoạn đầu khi mới có cho đến khoảng sau thời Hán Cao tổ, âm lịch cũng không tránh khỏi nhiều sai lầm, nhất là rất đơn sơ và chưa có Thiên can hay Ðịa chi như sau này. Bằng chứng là trong thời kỳ phát triển của Chu Dịch (1150 - 500 BC) cũng chưa nghe nói đến. Phải đến thời "Tam Quốc" của Khổng Minh (Gia cát Lượng) vào khoảng 200-300 AD thì mới có văn tự rõ rệt nói về các Thiên Can, đồng thời xuất hiện các khoa lý số như Kỳ Môn Ðộn Giáp, Thái ất Thần toán, hay Lục Nhâm Ðại Ðộn v.v. Hầu hết các sử gia Trung quốc đều công nhận là chỉ vào thời kỳ của Nhà Hán, sau mấy trăm năm chiến tranh liên miên từ thời Ðông chu Liệt quốc, nền văn minh Trung hoa mới thật sự khởi sắc và đi lên trong Thiên niên kỷ đầu tiên (0 -1000 AD).
Theo chínhsử ghi lại, những nghiên cứu và phát minh của Trung hoa thật sự đã bắt đầu từ thời Tần thủy Hoàng, khi vị Hoàng đế tài giỏi nhưng tàn bạo này, có thể động viên hay chiêu dụ được nhiều đạo sĩ (coi như là khoa học gia theo tiêu chuẩn thời đó), trong việc thám hiểm, đi tìm kiếm các kỳ hoa dược thảo để luyện thuốc trường sinh bất tử cho ông. Dưới nhận xét bình thường thì cho rằng đó là việclàm xa xỉ, hoang tưởng và mê muội. Nhưng trong lãnh vực nghiên cứu khoa học ngày nay, Tần Thủy Hoàng rất xứng đáng được coi như đã có công sáng lập một cơ cấu kiểu Hàn lâm Viện khoa học đầu tiên cho nhân lọai! Những chi phí trong việc chiêu đãi hay thưởng công cho các đạo sĩ thời đó, dưới cái nhìn thiếu hiểu biết cho là phung phí, nhưng so với tỷ lệ ngân sách dành riêng cho khảo cứu khoa học ngày nay thì chẳng có nghĩa lý gìcả, dù là của một nước đang phát triển! Chính nhờ làm việc và sống chung tập thể với nhau đó, đã vô tình tạo ra môi trường tốt đẹp cho những sáng kiến mới, thi đua học hỏi, trao đổi kiến thức giữa các đạo sĩ với nhà vua, và có thể đã là cơ sở đóng góp cho nhiều phá minh quan trọng về khoa học và kỹ thuật sau này của Trung quốc. Hoá chất Lưu huỳnh dùng để làm thuốc súng, than đá, thủy ngân, chì, nam châm có từ tính, cách luyện thép, bàn ính (abacus), v.v. có thể đã được bắt đầu nghiên cứu hay tìm ra trong thờ kỳ này. Thí dụ về những huyền thoại phù phép mà Khổng Minh xử dụng, là do những phản ứng đặc biệt từ các hoá chất độc hại như lưu huỳnh, thuỷ ngân hay các loài dược thảo trộn chung với nhau khi bị đốt cháy. Kết qủa là làm cho đối phương bị gây mê, mất trí hay mạng vong trong những vùng gọi là bát qúai trận đồ. Nhưng một trong những thành quả tốt đẹp hơn hết chính là bộ môn xem thiên văn khí tượng bắt đầu xuất hiện được nhiều người biết đến. Nhờ vậy mà khoa lịch số đã được hiệu chỉnh, thay đổi đúng hơn cho tới bây giờ!
Phương pháp soạn Âm lịch
Có thể chia ra làm hai giai đọan phát triển chính cho việc soạn thảo âm lịch.
Giai đoạn I: Kéo dài khoảng gần 2000 năm từ thời Hoàng đế cho đến thời Khổng tử. Trong giai đoạn này chỉ có ngày, tháng và năm. Chưa có chia ra giờ cũng như chưacó thiên can và địa chi. Công việc soạn lịch vào thời sơ khai này rất là dễ hiểu, không có gì phức tạp như nhiều người thường lầm tưởng. Những chiêm tinh gia thời đó chỉ dựa vào khoảng cách giữa hai tuần trăng tròn để tính số ngày cho một tháng. Khoảng cách của một năm thì được định bằng thời điểm vào lúc Trăng tròn nhất, khoảng ngày rằm tháng 8 (sau này thành ra tết Trungthu), và một phần dựa vào thời tiết thay đổi của 4 mùa.
Khó khăn duy nhất lúc ban đầu là cứ cách khoảng chừng hai năm thì tháng có trăng tròn nhất bị kéo dài thêm một tháng. Ðó là những tháng nhuận, và cách giả iquyết thực tế đơn giản lúcbấy giờ là thêm nguyên một tháng vào những năm nhuận. Còn làm sao họ biết được năm nào nhuận là do phỏngchừng và dựa vào kinh nghiệm riêng của những đời trước theo kiểu cha truyền con nối. Chính cách làm theo lối thuận tiện như trên, nên âm lịch thường bị thành kiến cho là thiếu chính xác! Có thể trong thời kỳ này, tháng nhuận chỉ được thêm vào trong tháng trước tháng có trăng tròn nhất là tết Trung thu(?) Chỉ sau này khi bắt đầu ăn mừng ngày tết Nguyên đán và để không bị sai ngày quá xa, nên những nhà soạn lịch phải chia ra cho đều, thêm tháng nhuận vào các tháng khác.
Ngoài ra có vài chi tiết cần được để ý là hệ thống Âm lịch dựa vào thiên can và địa chi chỉ có phân biệt tối đa là 60 năm, nên nếu muốn viết lịchsử, họ thường dùng năm cai trị của Vua hay triều đại làm chuẩn. Thí dụ như trong sách thường viết là năm thứ mấy đời Vua nào đó gặp thiên tai bão lụt v.v. Lâu dần trở thành thói quen dùng luôn cho đến khi bị ảnh hưởng của nền văn minh Tây phương thay đổi.
Về giờ giấc, lịch số ở thời kỳ đầu cũng chưa chia ra 12 giờ như sau này. Ðể định giờ, họ dùng cách nói phỏng phừng theo vị trí của mặt trời, mà mãi cho đến bây giờ, nông dân ít học ở các vùng quê vẫncòn dùng, như khi nói mặt trời vừa lên quá ngọncây (khoảng 8 đến 9 giờ sáng mùa hạ), hay mặt trời đứng bóng giữa trưa khoảng 12 giờ v.v.
Những gì vừa trình bày có thể kiểm chứng bằng bộ sách Chu dịch đã được soạn ra khoảng từ thời nhà Chu (1150 BC) cho đến thời Khổng tử (550 BC). Cụ thể là việc lập quẻ Dịch. Trong bộ Chu Dịch chính bản chỉ ghi cách lập quẻ duy nhất là dùng cỏ Thi, còn gọi là phép bói cỏ Thi, mà không dùng đến giờ nào như Khổng Minh dùng để bấm độn sau này. Các lời bàn của 64 quẻ trong bộ Chu Dịch nguyên thuỷ hoàn toàn không có nói rõ về giờ giấc.
Giai Ðoạn II: Từ thời Khổngtử cho tới nhà Ðường khoảng chừng 1000 năm. Thời kỳ này văn minh Trung Hoa bắt đầu khởi sắc đi lên. Các Ðạo sĩ hay Chiêm tinh gia làm việc có phương pháp và khoa học hơn. Nhờ vậy, họ đã tìm ra hay khám phá được chu kỳ vận chuyển của các hành tinh trong Thái Dương hệ, và từ đó âm lịch mới được thay đổi để thêm vào Thiên can, Ðịa chi, Lục tuần Hoa giáp (hay chu kỳ 60 năm). Trướckhi đi sâu vào chi tiết, và để quý đọc giả dễ theo dõi vấn đề hơn, người viết xin nhắc lại một vài dữ kiện căn bản như sau:
Trong những đêm tốt trời không mây, nếu dùng mắt thường chúng ta có thể đếm được cả vài trăm ngôi sao là chuyện thường. Tuy nhiên, tất cả đều thấy gần như cố định không thay đổi theo năm tháng, vì không phụ thuộc vào một hệ thống vệ tinh như Thái dương hệ, hoặ cgiả có chu kỳ di chuyển quá lớn đến cả ngàn vạn năm. Còn lại, trừ trường hợp đặc biệt như sao chổi (Comet) và sao băng (Asteroid), chúng ta chỉ thấy được những hành tinh thuộc Thái dương hệ dic huyển mà thôi. Trong tám (8) hành tinh chính, trừ mặt trời và mặt trăng, mắt thường của chúng ta chỉ thấy được có năm(5) hành tinh. Ðó là Thủy tinh(Mercury), Kim tinh(Venus), Hỏa tinh(Mars), Mộc tinh(Jupiter), và chót là Thổ tinh(Saturn). Ba(3) hành tinh không thấy được bằng mắt thường là Diêm vương tinh (Uranus), Hải vương tinh (Neptune) và Thiên vương tinh(Pluto). Không biết có phải là trùng hợp ngẫu nhiên của tạo hóa, hay sắp đặt khéo léo của con người, trong 8 quái (Bát quái hay 8 hành?) của Dịch lý, các "Khoa học gia" thời đó chỉ thấy được có 5 quái: Ðịa, Sơn, Thủy, Lôi, và Hỏa, nên phát minh ra Ngũ hành (Ngườ viết đã trình bày trong bài "Những khám phá mới về Dịch lý và Ngũ hành" cách đây hơn hai năm.) .
Ðể tìm hiểu về 5 hành tinh thấy được chuyển động như thế nào, các Chiêm tinh gia thời đó đã dùng một phương pháp đơn giản nhưng rất khoa học, là ghi chép lại vị trí của các hành tinh sau một thời khoảng nhất định. Thời điểm tốt nhất để xem thiên văn là mỗi tháng một lần vào cuối hay đầu tháng, lúc trăng hoàn toàn bị che mất (đêm 29, 30 hay 1). Muốn định rõ vị trí của cácsao, có lẽ họ cũng biết dùng theo phương pháp chấm tọa độ, nhưng kém chính xác rất nhiều. Dùng sao Bắc đẩu làm chuẩn và theo đồ hình Bát quái, họ có thể định phương vị (hay khẩu độ) của một sao, và kế đến là cũng theo lối ước chừng độ cao của mặt trời để định khoảng cách từ đường chân trời. Thí dụ như để định vị ngôi sao ở 220 độ từ hướng Bắc (theo chiều kim đồng hồ) và 25 độ cách chân trời nằm ngang, họ có thể nói là nằm ở giữa cung Khôn (hướng Tây-Nam) cách chân trời khoảng một gang tay chẳng hạn. Về sau để được chính xác hơn, có thể các chiêm tinh gia đã dùng đến các tên của quẻ dịch để phân chia thành 64 cung trên vòng tròn. Ðó chính là lý do tạisao các nhà nghiên cứu về sau cóthể hiểu lầm vì bị nạn "tam sao thất bổn", nên tưởng là môn lịch số có nguồn gốc từ Dịch lý mà ra.
Dù bằng cách nào thì cũng nhờ khái niệm tuần hoàn và chu kỳ âm dương của Dịch lý, chiêm tinh gia thời đó có thể tin chắc là các vì sao đều chuyển động theo một chu kỳ nhất định nào đó. Nếu không thì có lẽ họ không bỏ thì giờ quá lâu cho cả một đời người để tìm ra gần đúng chu kỳ của 5 hành tinh trong Thái dương hệ, trước Âu châu cả hơn ngàn năm!
Kết quả công trình nghiên cứu và ghi chép vị trí sao của các Chiêm tinh gia Trung hoa nói trên cho thấy là cứ mỗi 60 năm thì cả 5 hành tinh đều quay trở về lại gần vị trí cũ! Ðặc biệt hơn hết, là vào khoảng cuối năm Quý Hợi và đầu năm GiápTý thì cả 5 hành tinh đều hội tụ lại, và nằm sát với nhau chung một hướng. Xin nhắc lại đây để tránh hiểu nhầm, nhờ tìnhcờ ngẫu nhiên quan sát thấy hiện tượng 5 sao tụ hội về một chỗ trước khi phân tán ra, nên có thể các nhà lịch số cho rằng đó là khởi điểm đầu tiên cho chu kỳ 60 năm, và họ đặt tên cho năm có hiện tượng đó là GiápTý, đứng đầu trong bảng lục tuần hoa giáp.
Sau đây là bảng tóm lược số vòng chu kỳ quay quanh mặt trời của 5 hành tinh, dựa theo thời gian một (1) năm của trái đất làm chuẩn:
Dựa vào bảng tính toán chu kỳ ở trên cho thấy có một vài chi tiết cần chú ý: Sau khoảng chừng 20 năm thì các sao tụ về tại một vị trí khác, và phải sau gần 60 năm của trái đất, thì cả bốn(4) sao Thủy tinh, Hỏa tinh, Mộc tinh, và Thổ tinh mới quay về gần đúng vị trí đầu tiên hay xê xích một chút. Khoảng cách sai số sau 60 năm là từ 10 đến 30 cung độ (arc), do các số lẻ thứ nhất của số chu kỳ trong 60 năm đều nằm trong giới hạn của 0 - 0.1 hay 0.9 - 1.0 theo vòng tròn (360 độ) của mặt trời. Ðối với người quan sát các hành tinh đứng từ vị trí trên trái đất và ở một gốc độ chéo, thì chắc sẽ nhìn thấy khoảng cách hay độ xê xích nhỏ hơn rất nhiều, hoặc có thể không thấy được độ sai biệt bằng mắt thường! Riêng trường hợp của Kim tinh (Venus) tuy nằm gần như đối diện với vị trí cũ (số lẻ 0.54), nhưng chu kỳ quay chung quanh mặt trời chỉ có chừng hơn 7 tháng, nên chỉ cần thêm khoảng 4 tháng (cũng còn trong 1 năm của trái đất) là quay vòng trở lại để hội tụ cùng các sao.
Như vậy, với một vài bằng chứng ở trên có thể tạm kết luận rằng: Chuyện các chiêm tinh gia Trung hoa cách đây hơn 1000 năm đã tìm ra chu kỳ gần đúng của 5 hành tinh là sự thật hiển nhiên rất dễ hiểu theo khoa học. Hình vẽ thứ hai sau đây cũng để minh chứng cụ thể cho thấy vị trí của 5 hành tinh vào tháng 2 năm 1984 (dương lịch, âm lịch là 30 tháng Chạp năm Quý Hợi, gần tết Nguyên đán) theo cách tính đúng qũy đạo chính xác của khoa học ngày nay.
Tuy nhiên cũng xin lưu ý và nhấn mạnh một lần nữa là do sự trùng hợp ngẫu nhiên đưa đến, không phải cứ 60 năm là các sao phải tụ về ở cùng một phương vị giống như vậy. Lý do là vì các sai số khoảng 0.06 cho Mộc tinh và 0.037 cho Thổ tinh như đã nói, nên phương vị của các sao tụ hội lại cũng thay đổi xê xích mộtchút sau khoảng 60 năm. Muốn các sao tụ hội về cùng phương vị gần giống như cũ phải mất khoảng 1600 năm, hay gần 27 lần của chu kỳ 60 năm! Nhưng dù vậy cũng chỉ gần đúng mà thôi. Nghĩa là trong thực tế không hề có sự trùng nhập lại giống y hệt như cũ được!
(Chú thích: Mercury bị che bởi Venus và Mars nên không thấy trong hình)
Nhân đây cũng nên nhắc đến một sự kiện lịch sử có ảnh hưởng rất nhiều đến vận mệnh của cả nước Việt nam. Do bởi các vua chúa Trung hoa thời bấy giờ vì quá tin vào lập thuyết của các chiêm tinh gia, cho rằng một khi các tinh tú đều chầu về một phương nào thì nơi đó tụ hội được nhiều linh khí, nghĩa là có "Thánh nhân" hay bậc đế vương sinh ra đời! Bởi vậy nên tính ra trong khoảng 400 năm ( 400 - 800 AD) vào thời nhà Ðường, các Sao đều chầu về phương Nam (gần giống như hình vẽ trên), làm cho họ phải lo sợ. Từ nguyên nhân đó, mới có việc sai phái đạo sĩ Cao Biền làm Thái thú để tìm cách trấn yểm phương Nam. Ngoài ra sau này họ cũng thường gởi các "Gián điệp" giả dạng đội lốt tu sĩ hay thầy Ðịa lý và thầy thuốc bắc để dò tìm nhân tài của Việ nam. Một khi phát hiện được nơi nào có "thần đồng" hay thiếu niên giỏi chữ là họ tìm đến để thử tài và tìm hiểu. Nếu đúng thì bằng nhiều cách như dụ dỗ, mua chuộc nếu cha mẹ nghèo, xin cho làm con nuôi để "dạy dỗ và huấn luyện chữ nghĩa v.v. Ðó là lý do tại sao trong những câu chuyện kể về các vị thần đồng Nho học của Việt nam thời xưa, thường nói tới việc có những người "khách lạ" tìm đến để ra câu đối và thử tài thông minh!
Nếu những gì nói trên đúng theo thuyết của các chiêm tinh gia Trung hoa, thì trong số những đứa trẻ sinh năm 1984-85 ở Việt nam sẽ cho ra nhiều thiên tài xuấtchúng ngoại hạng trong tương lai (!?) Ðúng hay sai thì chưa biết, nhưng ứng nghiệm vào các quốc gia thuộc vùng Ðông nam A¨ thịnh vượng giầu có hơn trong vòng 20 năm qua, và dĩ nhiên kết qủa là sẽ cho ra nhiều trẻ em thần đồng nhờ được nuôi dưỡng huấn luyện và giáo dục trong môi trường tốt hơn!
Nói chung với cách tính phỏng chừng và đơn giản dựa vào ba sao là: Hỏa tinh (Mars) có chu kỳ gần 2 năm, Mộc tinh (Jupiter) có chu kỳ khoảng 12 năm, và Thổ tinh có chu kỳ gần 30 năm, các nhà làm Lịch số đã tìm ra mẫu số chung gần đúng là 60 năm để cả ba sao tụ hội lại gần nhau, và có cùng chung một cung, hay cùng phương vị theo bát quái (mỗi cung khoảng 45°.)
Ðiều cần biết thêm ở đây chính là chu kỳ gần 2 năm của sao Hỏa (Mars), nghĩa là cách khoảng một năm thì các chiêm tinh gia thấy sao Hỏa nằm ở vị trí hướng đối ngược lại. Do hiện tượng trên trùng hợp với lý thuyết về Dịch hay luật âm dương, nên có thể các nhà lịch số tin rằng thời gian cũng giống như vậy là cứ một năm Dương một năm Âm thay đổi đều nhau!
Mộc tinh (Jupiter) là sao quan trọng nhất có chu kỳ gần đúng 12 năm. Quan trọng theo các nhà Lịch số thời bấy giờ có thể từ hai lý do. Thứ nhất, đó là sao duy nhất để phân biệt và chuẩn định sự khác biệt của các năm. Thổ tinh (Saturn) vì xa và khó thấy hơn, nhất là chu kỳ đầu tiên quá lâu và có tới gần 30 năm không chính xác bằng Mộc tinh. Riêng Hỏa tinh thì lại càng không chính xác vì chu kỳ quá ngắn chỉ có khoảng gần 2 năm. Thứ hai, dựa vào kinh nghiệm tích lũy từ quan sát và thực nghịêm của các chiêm tinh gia theo lối cha truyền con nối có thể đã kéo dài trong vài trăm năm, sau Mặt trời và Mặt trăng, Mộc tinh có ảnhh ưởng nhiều nhất đối với con người và Trái đất (sẽ giải thích thêm ở mục Tử Vi). Chính vì vậy, họ đã dùng chu kỳ 12 năm của Mộc tinh để đặt tên cho 12 năm, còn gọi là Thập nhị Ðịa chi. Dám chắc mới đầu chỉ có tên bằng con số 1, 2, 3, 4,...12. (Nếu để ý thì thấy các số lẻ 1, 3, 5...thuộc số Dương, số chẳn 2, 4, 6... là số Âm, phù hợp với Dịch lý đã nói ở trên). Còn tại sao sau này lại có tên của 12 con vật là Tý, Sửu, Dần...v.v, thì lại thuộc một vài lý do khác không nằm trong phạm vi bài viết này, nên xin miễn bàn ở đây. Nói chung, yếu tố quan trọng là nhờ vào quan sát thực nghịêm, một phương pháp thông dụng trong nghiên cứu khoa học.
Sau cùng, có lẽ các chiêm tinh gia cũng chỉ thấy có sao Thổ tinh là có chu kỳ lâu nhất trong 5 hành tinh, nên theo trình độ hiểu biết thời bấy giờ, họ cho rằng đó là vị thần chính của nhà Trời ảnh hưởng đến mọi sự sắp đặt và thay đổi của "Thượng đế", nên gọi là Thiên Can (?). Nhưng tại sao là 10 mà không là 5, vì 5 nhân 12 mới bằng 60? Hỏi vậy là xem thường khả năng về Toán của chiêm tinh gia! Nếu chỉ dùng 5 số Thiên can ghép với 12 Ðịa chi sẽ bị trở ngại ngay, nhất là không giải quyết được nguyên tắc Âm Dương, một năm Dương và một năm Âm đi liền với nhau như đã giải thích về chu kỳ của sao Hỏa ở trên. Ðể giải tỏa vấn nạn đó, các chiêm tinh gia buộc phải dùng gấp đôi con số 5 lên thành 10, tuy vẫn duy trì 5 đặc tính Ngũ hành của Thiên can. Bởi vậy cho nên bây giờ chúng ta mới có hai Can đi liền với nhau có cùng chung một Hành (theo thuyết Ngũ hành), và có một Dương và một Âm. Thí dụ như Giáp với Ất (hành Mộc), Bính với Ðinh (Hỏa), Mậu với Kỷ (Thổ), Canh với Tân (Kim) và Nhâm với Quý (Thủy).
Ngoài ra, do ảnh hưởng của thuyết Ngũ hành, việc đặt hay gọi tên 5 hành tinh theo Ngũ hành là hoàn tòan dựa vào màu sắc khi nhìn bằng mắt thường, và không có liên hệ gì với đặc tính vật lý. Theo lý thuyết của Ngũ hành về màu sắc, gọi là Mộc tinh vì có sắc xanh. Hỏa tinh vì có sắc đỏ như lửa. Thổ tinh vì có sắc vàng, Kim tinh (Venus) vì có sắc trắng do có độ sáng mạnh, và Thủy tinh (Mercury) có sắc đen vì quá gần mặt trời nên không thấy được sáng lắm!
Tóm lại hệ thống Âm lịch dựa vào các hành tinh chính sau: Mặt trời để định Giờ và Ngày, Mặt trăng dùng cho Tháng, Mộc tinh (Jupiter) dùng cho Năm hay 12 Ðịa chi, và sau cùng Thổ tinh (Saturn) và Hoả tinh (Mars) dùng để định Thiên can (Âm hoặc Dương) và Ðại Chu kỳ 60 năm hay LụcTuần Hoa Giáp. Ghi nhận thêm ở đây là theo âm lịch, mỗi tháng chia ra làm 3 tuần, có khoảng từ 9 đến 10 ngày, gồm: Thượng, Trung, và Hạ tuần. Về sau này thì các nhà soạn lịch tính và thêm vào các ngày đặc biệt như Ðại hàn, Tiểu hàn, Lập Đông, Hạ chí v.v
Những Bí ẩn của khoa Tử vi
Trong suốt hơn một ngàn năm, bộ môn Tử vi được coi như là khoa học huyền bí bởi tất cả các yếu tố an sao và giải đóan đều dựa theo một vài công thức định trước, mà không có sự giải thích hay chứng minh lý do tại sao. Dù tin hay không tin, thực tế cho thấy khoa tử vi cũng đã được lưu truyền trong dân chúng khá lâu, và ít nhất cũng đã có một số người chấp nhận, nghĩ rằng có thể dùng để đoán được phần nào vận mệnh tương lai của con người! Ðiều đáng ngạc nhiên là nếu đúng theo dữ kiện cho thấy, khoa Tử vi hiện tại này chỉ còn có Việt nam là đất dụng võ, dù có nguồn gốc từ Trung hoa. Ngay cả các sách viết về Tử vi ở TrungHoa cũng có nhiều, nhưng họ không thích xài Tử vi mà lại chọn các môn khác thông dụng hơn như Tử Bình (gọi tắt là Bát tự có 8 chữ, lấy số theo hàng Can và Chi của Năm, Tháng, Ngày và Giờ). Một lý do có thể giải thích là vì sau này họ đã khám phá và thấy được rằng, vận hành của các sao không được chính xác như đã tin tưởng lúc ban đầu!
Những gì được người viết phát hiện và trình bày sau đây cho thấy vài đặc tính khoa học của bộ môn Tử vi. Trần Ðoàn (được coi như ôngTổ sángchế ra Tử vi) hay các vị thầy tiền bối của ông vào khoảng thời nhà Ðường, có thể đã tiến xa hơn và biết khá nhiều về vận hành của các hành tinh. Nhưng tiếc rằng vì các điều kiện thực tế chủ quan về văn hóa xã hội thời bấygiờ, nên họ đã dấu kín và giữ kín bí mật tối đa, nhất là không muốn giải thích hay viết sách để lại lưu truyền cho hậu thế.
Cung An mệnh. Theo quan niệm về triết lý nhân sinh của Khổng giáo chịu ảnh hưởng ít nhiều đạo Lão, mỗi người sinh ra đều có một số phận được an bài trước gọi là thiên mệnh. Các nhà lý số hay tử vi gia Trung hoa dựa vào lý thuyết trên nên tin rằng, khi một đứa bé vừa sinh ra đời là chịu ảnh hưởng định đoạt cho số phận bởi các tinh tú hiện diện trên trời ngay thời điểm đó. Câu văn nổi tiếng thường nghe là "...sinh ra đời dưới một ngô isao..." phản ánh niềm tin trên. Nói cách khác, khi một đứa trẻ sinh ra đời tại một địa điểm nào trên trái đất, sẽ chịu ảnh hưởng của tất cả các tinh tú chiếu vào ngay tại thời điểm đó, và định đoạt số mệnh luôn cả đời cho đứa bé vừa sinh!
Không phải tự nhiên mà các Tử vi gia (TVG) bày đặt ra cách an mệnh trong Tử vi như sau: Khởi từ cung Dần (hay tháng Giêng) đếm theo chiều thuận (kim đồng hồ) đến tháng sinh, rồi từ đó lại đếm ngược cho tới giờ sinh để an cung mệnh. Dựa vào triết lý số phận cùng cách an cung mệnh cho thấy, các TVG thời đó đã khám phá ra được hai đặ ttính vận hành của trái đất và mặt trời, một đúng và một sai!
Thứ nhất, đúng là họ đã biết trái đất tự xoay vòng quanh lấy chính nó theo chiều ngược với kim đồng hồ! Trò chơi lồng đèn xoay (còn gọi là đèn kéo quân hay đèn cù) rất thịnh hành vào thời nhà Ðường, cho thấy các TVG lúc bấy giờ có thể đã có khái niệm về trái đất tròn và xoay. Nhưng như đã viết ở trên, họ đã giữ làm bí mật gia truyền, và nhất là sợ nguy hiểm cho chính bản thân và gia đình do quan niệm "Thiên cơ bất khả lậu" hoặc vì những người cầm quyền như Vua Chúa không tin (giống như trường hợp của Gallileo). Một lý do khác là ngay chính các TVG cũng không hiểu và không giải thích được hiện tượng tại sao con người không bị rơi ra ngoài nếu trái đất xoay tròn! Thêm vào, các hiện tượng thiên nhiên như nhật thực hay nguyệt thực, đã tạo cơ hội để các TVG hiểu ánh sáng từ mặt trăng là do từ ánh sáng mặt trời chiếu vào và thỉnh thoảng lại bị trái đất che (cho trường hợp nguyệt thực). Có thể với cách suy luận tầm thường và đơn giản theo lối chứng minh "phản đề" là: Nếu Trái đất nằm yên không xoay, thì dựa vào quan sát hàng ngày cho thấy mặt trời, mặt trăng, năm (5) hành tinh và đa số các tinh tú thấy được, phải "chạy" xung quanh trái đất mỗi ngày một lần! Ðiều này cho thấy hoàn tòan vô lý vì nhờ các hiện tượng nhật thực và nguyệt thực. Cụ thể như nhờ có hiện tượng nhật thực toàn phần giữa ban ngày, các TVG đã thấy được các ngôi sao và các hành tinh hiện ra, dù trong chốclát. Nghĩa là không phải vào ban ngày, các tinh tú chạy xuống dưới đất rồi đến tối mới hiện lên!
Thứ hai, các TVG đã hiểu sai khi khám phá ra và tin rằng mặt trời quay chung quanh trái đất mỗi năm một lần theo chiều thuận kim đồng hồ! Nhưng thật là may mắn cho khoa Tử vi, cái sai về lý thuyết lại trở thành đúng trên thựctế! Lý do là nhờ luật tương đối về chuyển động. Nghĩa là nếu các TVG đang đứng trên trái đất nhìn mặt trời, trong khi trá iđất di chuyển xung quanh mặt trời theo chiều ngược kim đồng hồ, thì cũng giống như các TVG đứng trên trái đất nằm yên, và nhìn mặt trời di chuyển xung quanh trái đất theo chiều thuận kim đồng hồ!.
Những bằng chứng trên cho thấy khi an cung mệnh, các TVG đã theo gần đúng nguyên tắc vận hành của trái đất và mặt trời, xác định vị trí tương đối lúc đứa bé sinh ra đời trong thái dương hệ. Tuy nhiên, xin được nhấn mạnh và giải thích rõ ở đây thêm một chút để tránh sự hiểu lầm. Ðúng ra, phần nào là do ảnh hưởng thể xác của người mẹ, do tính di truyền hay phù hợp với môi trường vào thời điểm đó, nên "chuyển bụng" mà sinh ra đứa bé, hơn là do cơ thể đứa bé sinh ra chịu ảnh hưởng của các hành tinh!
Vòng Tử vi và Thiên Phủ: Coi như quan trọng nhất cho lá số tử vi nên dựa vào tất cả bốn yếu tố là Năm, Tháng, Ngày và Giờ sinh. Nghĩa là chịu ảnh hưởng của Mặt trời, Mặt trăng và năm hành tinh. Theo nhận xét của người viết thì có thể sau khi định vị trí của đứa rẻ khi mới sinh ra đời dựa vào tháng và giờ, các TVG còn dựa vào hai yếu tố sau cùng là vị trí của các hành tinh hay thiên can, và vị trí của Mặt trăng hay ngày sinh. Nhưng làm sao họ biết sao Tử vi phải được an ở đâu dựa vào ngày sinh (?), và đây vẫn còn là một bí ẩn cần được nghiên cứu thêm. Câu trả lời tạm thời là có thể các TVG đã dựa vào quan sát thực nghiệm hình ạng và khuôn mặt của hàng trăm (hay vài ngàn) đứa trẻ trong một thời gian kéo dài cả mấy trăm năm. KhoaTướng số cũng cóthể nhờ đó mà phát sinh ra. Nên nhớ là ngày nay các nhà coi Tử vi chuyên nghiệp cũng cần phải dựa vào hình dạng hay tướng mạo để "điều chỉnh" và kiểm chứng lại trước khi bàn tới lá số của người nào.
Vòng Thái tuế: Trong số những người Việt nổi tiếng một thời nghiên cứu về khoa Tử vi, có thể TVG Thiên lương (bút hiệu) là người đã khám phá ra những yếu tố quan trọng đặc biệt nhất về vòng an sao Thái tuế. Vòng Thái tuế theo quan niệm của nhóm nghiên cứu TVG Thiên Lương, có ảnh hưởng nhiều đến thái độ sống và cách ứng xử của con người đối với xã hội. Tại sao vòng Thái tuế lại đóng một vai trò chính trong khoa Tử vi? Câu trả lời là vì đã dựa vào sao Mộc tinh (Jupiter). Các chiêm tinh gia từ xưa đã quan sát và biết chu kỳ đặc biệt duy nhất gần 12 năm của Mộc tinh trong Thái dương hệ. Nhưng yếu tố chính quan trọng ở đây là họ đã cảm nhận được ảnh hưởng của Mộc tinh đối với các sinh vật đang sống trên trái đất, nhất là con người theo từng năm (bởi vậy nên SaoThái tuế bao giờ cũng an theo năm sinh, nghĩa là sinh năm nào thì an Thái tuế ở ngay cung đó).
Theo dữ kiện khoa học tìm thấy được, Mộc tinh (Jupiter) hay saoThái tuế có hai đặc tính nổi bật nhất trong Thái dương hệ. Thứ nhất là Hành tinh lớn thứ hai chỉ nhỏ hơn Mặt trời, với đường bán kính trung bình khoảng chừng 70 ngàn cây số (km), gấp 11.2 lần Trái đất. Do đó, lực hấp dẫn (gravity) của Mộc tinh lên Trái đất rất là đáng kể (chỉ sau Mặt trăng quá gần với Trái đất). Thứ hai, và đây mới chính là điều đáng nói, ảnh hưởng từ trường của Mộc tinh mạnh nhiều hơn khoảng 10 lần của Trái đất. Yếu tố sóng từ trường như các phát hiện gần đây cho thấy, ảnh hưởng rất nhiều trên não bộ của con người nhất là cho các trẻ em! Thí dụ cụ thể là cách đây mấy năm, đã xảy ra hiện tượng một số các trẻ em Nhật bị ói mửa và bất tỉnh vì coi một chương trình truyền hình! Hay giới y học càng ngày càng có khuynh hướng tin và công nhận các loại sóng từ trường, từ các dụng cụ điện tử hay các đường dây điện cao thế, có thể gây nguy hại cho não bộ con người nếu hấp thu quá nhiều!
Trở lại chuyện tử vi, theo lý giải của phái TVG Thiên lương nếu người nào an mệnh tại cung có sao Tuế phá, xung chiếu với cung thiên di có sao Thái tuế, thì người đó thường hay bất mãn chống đối, sinh bất phùng thời, v.v. Ðể kiểm chứng hiện tượng trên, người viết chọn một lá số thí dụ để cho cung mệnh có được sao tuế phá: Người tuổi Canh-Thìn (1940), sinh tháng 9, giờ Tý, mệnh an ở cung tuất. Sauđó, dùng cách định vị trí của các hành tinh vào thời điểm nói trên, thì thấy rằng vị trí trên mặt đất vào giờ đó đối diện thẳng với sao Mộctinh, và ở vị trí gần nhất, theo hình vẽ sau:
Dựa vào hình vẽ trên cho thấy người sinh tháng 9 giờ Tý và người sinh tháng ba giờ Ngọ đều an mệnh tại cung Thìn và có cùng sao Tuế phá tại mệnh. Khác biệt duy nhất của hai trường hợp trên là chỉ có người sinh tháng 9 mới chịu ảnh hưởng hoàn toàn của Tuế phá, trong khi người sinh tháng 3 thì ngược lại không ảnh hưởng tí nào vì nhờ mặt trời che hoàn tòan! Một yếu tố có thể là do ảnh hưởng của sóng từ trường quá nhiều từ mộc tinh, nên não bộ của đứa bé lớn lên sẽ có khuynh hướng phát triển nhiều, thuộc loại thông minh hơn người, và thường đưa đến trường hợp chống đối những chuyện chướng tai gai mắt, nên dễ đưa đến bất mãn vì không hùa theo với người được (trường hợp của Cao Bá Quát trong lịch sử). Mặt khác có thể do thiếu giáo dục và hướng dẫn, dễ kết bè đảng với kẻ xấu (Kiếp, Không, Sát Phá Tham hãm địa) thành tay đạo tặc gian hùng v.v. Nên nhớ là những tay đạo tặc gian hùng có tiếng tăm phần đông đều thuộc loại thông minh hơn người rất nhiều !
Hai hành tinh gần mặt trời nhất cũng có thể làm cơ sở để an một số sao trong Tử vi. Kimtinh (Venus) có chu kỳ 0.61 và quay trở lại vị trí cũ (khoảng chừng 5 vòng) cho mỗi 3 năm tròn của trái đất, nên có một số sao trong Tử vi chỉ an theo ba (3) nhóm gồm: Thìn Tuất Sửu Mùi (Tứ mộ), hay Dần Thân Tỵ Hợi và Tý Ngọ Mão Dậu.
Ðặc biệt Thủy tinh (Mercury) quay quanh mặt trời quá mau, cứ mỗi ba tháng làm 1 vòng, trong khi trái đất cứ ba tháng lại di chuyển một phần tư (1/4) vòng chung quanh mặt trời, nên theo vị trí tương đối của người đứng quan sát từ mặt đất sẽ thấy như Thủy tinh chỉ di chuyển trong 4 vị trí chia đều trên vòng tròn (vì tầm nhìn quan sát bị gián đoạn không liên tục, do vị trí của Thủy tinh quá gần mặt trời). Phải chăng vì vậy mà sao Thiên Mã và một số sao khác chỉ an trong 4 cung thuộc trong 3 nhóm trên (?)
Những gì vừa được trình bày cho thấy mặc dù khoa Tử vi đẩu số không được hoàn hảo và còn nhiều nghi vấn theo tiêu chuẩn khoa học hiện đại, nhưng dám chắc rằng đó chính là biểutượng cho tinh hoa của nền văn minh Ðông phương, một thời rạng rỡ đã qua trong thiên niên kỷ đầu tiên của nhân loại, và hy vọng sẽ có ngày trở lại trong vinh quang của thiên niên kỷ thứ ba này.
Nguyễn Cường
Sacto 1/ 2003
TRẦN VIỆT SƠN (tập hợp các kinh nghiệm cổ kim)
Trong số trước mở đầu loạt bài “Nguyên tắc giải đoán lá số tử vi”, chúng tôi đã cống hiến quý bạn những “chất liệu”, “dụng cụ” để quý bạn sử dụng trong việc giải đoán. Kỳ này chúng tôi xin nêu lên nguyên tắc đầu tiên để ước tính 1 cung Mạng hay hoặc dở, tức là 1 đời người nói chung tốt hoặc xấu.
Các nhà tướng số theo các sách cổ thường nêu lên 1 yếu tố lấy trong tử bình:
- Lấy can chi của năm, tháng, ngày, giờ sinh rồi xét Âm Dương và xét các hành- Cùng Dương hay cùng Âm là tốt (nhất là cùng Âm thì cuộc đời an lành, không vận hạn)
- Không được thế thì năm Âm, tháng Âm cũng được
- Năm tháng ngày giờ sinh đều có hành (Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ). Nếu được năm sinh tháng, tháng sinh ngày, ngày sinh giờ là tốt. Nếu khắc nhau thì giảm kém
- Muốn xác định yếu tố đó, phải xem Vạn Niên Lịch và lại phải theo tiết khí chứ không theo tử vi. Vì phải xem Vạn Niên Lịch và theo nguyên tắc Tử Bình cho nên phức tạp. Bởi thế, nhiều cao thủ tử vi bỏ yếu tố đó và chỉ xét những yếu tố khác:
Hai yếu tố đầu không xác định vào chi tiết, chỉ nêu lên sự kiện tốt hơn lên hay giảm bớt đi. Các yếu tố 3,4,5,6,7 đi vào chi tiết, cho phép xác định nhiều sự kiện trong cuộc đời về hình tướng, sức khỏe, tính tình, công danh và việc làm, thế đứng trên bậc thang xã hội
Sau khi chúng tôi trình bày yếu tố, chúng tôi sẽ ngược trở lại để xếp đặt phép giải đoán chung
YẾU TỐ 1: MỆNH & CỤC
- Mệnh có hành, Cục có hành
- Hành Mệnh sinh cho hành Cục: tốt nhiều
- Hành Cục sinh cho hành Mệnh: tốt vừa
- Hành Cục khắc hành Mệnh: xấu vừa
- Hành Mệnh khắc hành Cục: xấu
Như người mệnh Kim, cục Thủy được tốt vì sinh. Bị giảm hay được tốt có nghĩa là giảm đi hay tốt hơn so với những giải đoán trên lá số. Sự giảm đi hay tốt hơn không được chính xác là bao nhiêu. Ở đây còn tùy kinh nghiệm. Nhiều cao thủ tử vi không quá chú trọng yếu tố này
YẾU TỐ 2: VỊ TRÍ CUNG MỆNH
Người ta gọi “Mệnh Dương cư Dương vị”, “Âm cư Âm vị” là tốt. Còn Mệnh Dương cư Âm vị, Âm cư Dương vị là kém tốt
- Các tuổi Tí, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất là tuổi Dương
- Các tuổi Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi là tuổi Âm
- Tuổi Dương mà Mệnh đóng ở cung Dương trên lá số là tốt
- Tuổi Âm mà Mệnh đóng ở cung Âm (tức các cung Sửu, Mão Tị, Mùi, Dậu, Hợi) là tốt
- Trái lại, tuổi Dương mà Mệnh đóng cung Âm, tuổi Âm mà mệnh đóng cung Dương là xấu
Tốt tức là tăng độ số tốt, xấu tức là giảm độ tốt
YẾU TỐ 3: CHÍNH TINH THỦ MỆNH
Ở cung Mệnh có 1 hay 2 chính tinh thủ Mệnh chỉ về vận mạng đại cương của người (vị trí cao thấp trong xã hội), hình tướng, tính tình, có thể luôn cả sự giàu nghèo, hướng đi trong đời, nghề nghiệp…Đó là cung quan trọng nhất
Đoán Mệnh, thật ra phải kèm luôn cả các yếu tố 4,5,6,7. Nhưng chúng tôi hãy chỉ xin nêu lên các yếu tố chính tinh thủ Mệnh.
Như đã ghi trong số trước, 1 chính tinh có 1 vị trí trên lá số, vị trí đó tốt giúp cho chính tinh có tất cả các hiệu lực, hay vị trí hãm khiến mất hết hiệu lực và có thể thành xấu nữa. Tùy theo vị trí, chính tinh có thể:
Tuy nhiên, vì 1 chính tinh còn Âm Dương, phương hướng, vả lại có những kinh nghiệm thêm vào, cho nên việc ấn định vị trí miếu hay hãm lại không hẳn theo hành. Theo bảng ghi, thì Thiên Tướng miếu tại cung Dần Thân, vượng tại Thì, Tuất, Ngọ, đắc tại Sửu Mùi Tị hợi, hãm tại Mão Dậu.
Có thể làm 1 cuộc so sánh: 1 chính tinh giống như 1 ông cò trọng nhậm ở 1 địa phương: địa phương đó thuận tiên, thích hợp thì ông Cò có thực quyền (nhập miếu, đắc địa); địa phương đó xấu, gặp nhiều người to chèn ép thì ông cò sợ sệt, không có quyền (hoặc có thể kể như ông cò về hưu). Nhưng chưa phải mệnh gặp chính tinh miếu mà là được ảnh hưởng tốt, cũng không phải gặp chính tinh hảm mà là xấu. Còn phải xét Âm Dương của chính tinh nữa. Tùy theo Âm Dương mà chính tinh có thể ảnh hưởng hay không.
Nếu mình tuổi Dương mà chính tinh là Dương thì chính tinh không ảnh hưởng vào mình (không khắc, cũng không sinh dưỡng tốt, kể như chính tinh trung lập đối với mình). Nhưng nếu chính tinh là Âm thì sẽ có trọn ảnh hưởng nếu nhập Miếu, vượng địa hay đắc địa, để ảnh hưởng tốt (sinh dưỡng cho Mệnh) hay xấu (khắc Mệnh).
Cụ Hoàng Hạc giải thích sự kiện Âm Dương theo Dịch Lý, cũng tương tự như các cực của 1 thanh nam châ,: cực Dương và Dương đẩy nhau, cực Âm và Âm đẩy nhau (tức không biết đến nhau, không ảnh hưởng vào nhau). Các cực Dương và cực Âm mà gặp nhau thì hút nhau tức là có ảnh hưởng vào nhau, sinh dưỡng tốt, hoặc là khắc xấu).
Như thế, về 1 chính tinh có tốt cho mình hay không cần phải xem chính tinh có vị trí tốt hay không (miếu vượng đắc hãm), chính tinh có Âm Dương để đạt ảnh hưởng vào đương số hay không, và chính tinh có hành khắc Mệnh hay sinh phò cho mệnh.
Vậy thì 1 chính tinh miếu vượng đắc địa phải có Âm Dương khác với Âm Dương của tuổi và phải có hành sinh cho hành của mệnh mới là tốt.
Ví dụ: người tuổi Mùi, tức tuổi Âm, mạng Hỏa, chính tinh ở cung Mệnh là Vũ khúc tại Sửu (miếu). Vũ khúc là Âm Kim, đồng với tuổi Âm thì Vũ khúc không có ảnh hưởng với tuổi Mùi.
Người tuổi Mão tức tuổi Âm, mạng Hỏa, chính tinh ở cung Mệnh tại Dần là Thiên Tướng (Dương Thủy). Tại Dần Thiên Tướng miếu, thuộc Dương là có ảnh hưởng với tuổi Âm, nhưng hành Thủy lại khắc mạng Hỏa. Vậy Thiên Tướng ở đây tuy là miếu nhưng lại khắc mạng.
(Trong kỳ sau, chúng tôi sẽ xin chiếu theo các lá số để luận về ảnh hưởng của các chính tinh trước khi xét các yếu tố 4,5,6,7)
....
Để xác định 1 mệnh là tốt hay xấu và tốt xấu nghiêng về những hướng nào (tốt là giàu, có công danh, có cuộc sống ngay lành không vận hạn; xấu là nghèo, hèn, hoang tàn, hay đổi thay….), chúng ta lần lượt nhận xét các yếu tố sau này trên cung mệnh:
Ngoài nguyên tắc ấy, còn những cách nêu lên những sự giải đoán khác biệt
MỆNH TỐT
Có mệnh tốt, cuộc đời giàu sang, học hành và công danh khá giả, nếu:
Chính tinh miếu, vượng, đắc địa, có hành dưỡng cho hành mạng, không bị những hung tinh vướng vào và được thêm những bộ sao tốt sau đây (càn được nhiều càng tốt nhiều)
MỆNH XẤU
Không có chính tinh tốt và hạp mạng, mà lại gặp những bộ sao xấu thì Mệnh kém, nhiều sự rủi, nhiều vận hạn:
NHỮNG CÁCH RIÊNG BIỆT ĐỂ XÁC ĐỊNH MẠNG
Vị trí cung Mệnh Thân: phải nhìn xem vị trí cung Mệnh so với các sao trong vòng Thái Tuế. Mệnh được Thái Tuế, Quan Phù, Bạch hổ là người ngay chính, hoạt động hợp với lòng mình và dễ đạt kết quả. Mệnh ở 1 cung đối diện với 3 sao trên là thường gặp nghịch cảnh, khó đạt sở nguyện. Mệnh ở 1 cung sau cung có 1 trong 3 sao trên (theo chiều thuận thì cung đó đứng sau cung có Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ) là người kém vế, đi làm cho người khác. Cung Mệnh ở 1 cung đứng trước cung có Thái Tuế, Quan Phù, bạch hổ là người hay lấn lướt người khác nhưng phải coi chừng ăn người khác rồi cũn dẫn đến thất bại vì gặp Thiên Không tại mệnh hay tam hợp mệnh
YẾU TỐ LỘC TỒN
Phải nhìn xem đương số có được hưởng lộc tồn hay không. Như người tuổi nào thì ghi cung đó và nhìn xem cung đó hay 2 cung tam hợp có Lộc tồn hay không. Không có Lộc tồn là không được hưởng lộc trời (lộc tự nhiên và bền vững, và hạnh phúc với cuộc sống lành, không tai nạn)
Cũng có thể là cung mệnh có Lộc tồn hoặc được Lộc tồn ở tam hợp chiếu về, cũng được hưởng Lộc tồn nhưng hạn chế.
YẾU TỐ VÒNG TRƯỜNG SINH
Phải nhìn xem cung mệnh được sao gì: Được Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Thai, Dưỡng là tốt. các sao còn lại là xấu
YẾU TỐ ĐÀO HỒNG, THIÊN KHÔNG
Phải nhìn cặp Đào hoa, hồng Loan và Thiên Không đứng với nhau tại Mệnh như thế nào:
Về chi tiết các cách, xin đón coi kỳ giai phẩm tới.
******
Về các nguyên tắc giải đoán Tử vi, chúng tôi đã kể đến sự kiện Mệnh, Cục tương sinh hay tương khắc Mạng, đó là những yếu tố rất đại cương để tăng thêm độ số hay giảm hạ độ số.
Kế đó, chúng tôi đã lần lượt kể đến các nguyên tắc đi vào chi tiết để đoán Mạng của một người:
Kỳ này, chúng tôi sẽ nêu lên những cách sao chính mà một cung Mệnh có thể gặp để thấy ngay cái tốt hay cái xấu của một vận mạng.
Ý nghĩa vòng Tràng sinh
Sao của vòng Tràng sinh gặp tại Mệnh chỉ về trạng thái, cấp bậc, trình độ sống của một người.
Vòng Tràng sinh gồm có: Tràng sinh, Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.
Cách an các sao trong vòng Tràng sinh dễ đúng với nguyên tắc giải đoán sau:
Giải đoán
Tùy theo cung Mệnh có sao nào của vòng Tràng sinh mà có một ý nghĩa (xin chú ý rằng đây chỉ là một yếu tố để còn phối hợp với các yếu tố khác). Thí dụ: được Đế vượng là được trạng thái sống rất tốt, rất thuận lợi, nhưng nếu các thế sao khác lại hỏng thì đương số được sự thuận lợi để đạt đến mức độ thấp kém hơn như các sao khác cho phép.
Mệnh gặp Tràng sinh (ngay tại cung Mệnh): khỏe mạnh, ít vận hạn, ra đời ở thế khác ngay.
Mệnh có Mộc dục, sinh ra ở trạng thái như tuổi dậy thì, có nhiều triển vọng để tiến.
Mệnh có Quan đới, Lâm quan, hay Đế vượng, có nhiều điều kiện dễ dàng đạt được những bằng cấp, chức vị.
Mệnh có Suy: cuộc đời sút kém, nhưng ít thôi (trạng thái vừa suy sau khi vượng tột bậc).
Mệnh có Bệnh: cuộc đời suy giảm hoặc có cản trở, có bênh làm suy giảm sinh hoạt (đại mạng như Khổng Minh, gặp Suy, cũng vẫn trở nên quan sựu vạn đại nhờ các thế sao tốt, nhưng cuộc đời bị suy giảm, gặp Bệnh cũng tương tự).
Mệnh có Tử: cuộc đời suy kém nhiều (làm nghề cao quý, cũng suy giảm).
Mệnh có Mộ: cuộc đời phẳng lặng ở chỗ tối (không chừng lại đạt hạnh phúc) vì không tham vọng và được sống yên.
Mệnh có Tuyệt: cuộc đời tầm thường, không được nhắc tới.
Mệnh có Thai: cuộc đời có những mầm hé nở để vươn lên.
Mệnh có Dưỡng: cuộc đời tốt, tu tâm dưỡng tính càng tốt.
Các thế chính tinh và trung tinh, hung tinh
Như đã nói mạng số muốn tốt, thì cung Mệnh cần phải có chính tinh miếu, vượng, đắc địa (có như vậy thì chính tinh mới sáng láng) nhưng hành của chính tinh đó cũng phải dưỡng cho Mệnh minh hay hòa thì mới tốt. Nếu chính tinh tốt mà lại khắc mình, thì xấu (còn xấu hơn cả là chính tinh hãm mà phù cho Mệnh của mình).
Vậy khi nói rằng người đó có Tham Vũ miếu tại Mùi là tốt lắm là chưa đủ, còn phải xét xem Tham Vũ đó có phù cho mình không mới được.
Chính tinh ở vào một cách nào đó, như cách Tử phủ vũ tướng, Sát phá liêm tham, Cự nhật, Cơ nguyệt đồng lương. Những cách đó không nhất thiết là tốt hay xấu, sở dĩ được nêu lên là để còn xét với những sự kiện khác, hoặc là để xét về đại vận ( như có Tử phủ, Vũ tướng, đến đại vận Sát phá liêm tham, là người có trí tuệ gặp thêm bàn tay làm việc như Cơ nguyệt đồng lương, gặp những sao nặng phá thì bị họa hại, trong khi Sát phá liêm tham lại không sợ).
Xét chính tinh, chưa đủ ấn định mạng số khá hay kém, mà còn phải xét xem các chính tinh đó được phò hay bị phá.
Nếu chính tinh tốt, mà lại gặp Tuần Triệt thì lại bị giảm kém. Nếu chính tinh hãm, gặp Tuần Triệt thì lại tốt ra.
Một chính tinh như Tử, Phủ gặp Không, Kiếp hãm thì lại bị hỏng nhưng Thiên tướng gặp Không kiếp lại không hề hấn gì. Chính tinh tốt và phò cho Mệnh là tốt, nhưng cũng phải thêm những sao như Khôi Việt, Xương Khúc, Long Phượng, Hổ Cái, Tướng ấn thì việc học hành mới giỏi, đỗ đạt cao, đường công danh tốt có chính tinh tốt mà gặp những hung tinh nặng như Không kiếp, Kình đà, Linh hỏa ở thế hại thì lại hỏng. Những hung tinh miếu vượng và nhập vào cách tốt thì lại được tốt.
Các cách thật phức tạp, kể hết ra thì đó là một cuốn tự điển giải đoán, mà có khi không thực tế bằng công trình nêu lên những nguyên tắc và các cách chính.
Bởi thế, chúng tôi sẽ chỉ nêu lên những nguyên tắc, kèm thêm một số những cách chính (như cách Hồng, Đào, Thiên không, các hung tinh, các trung tinh mạnh…) để quý bạn trông vào lá số thấy ngay những điều mình có thể giải đoán được.
Xin đón các kỳ sau các cách chính để giải đoán Mệnh.
Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí
Để có được "một nửa" như ý, mọi người nên "nhắm" vào những đối tượng có trái tim nhân hậu, giàu tình yêu thương thì mới có được tình yêu như ý. Theo đó, một người sâu sắc, một người cởi mở sẽ bổ sung cho nhau để cuộc sống luôn tươi mới và vui vẻ.
![]() |
(Ảnh chỉ mang tính minh họa) |
Cuộc sống, công việc dù có bận rộn song những người này vẫn không quên dành thời gian chăm lo, vun đắp cho tổ ấm của mình.
Những người phụ nữ tuổi Sửu thuộc nhóm máu B sau khi lập gia đình và có cuộc sống hạnh phúc, họ trở nên hiền thục và quyến rũ hơn.
Đối với nam giới, họ sẽ là người mang lại bầu không khí vui vẻ, thân mật cho mọi thành viên trong gia đình cũng như mọi người xung quanh.
(Theo 12 con giáp về tình yêu hôn nhân)
Về mặt vị trí quan sát. Tuy nói tổng quát là làn da nhưng trong tướng học khi nói đến da mặt, chỗ Sắc dễ thấy nhất còn các phần khác của cơ thể không mấy quan trọng.
b) Màu Sắc của từng bộ vị trên khuôn mặt hay thân thể:
Trên cùng một khuôn mặt hay cùng một thân thể của một cá nhân ta thấy có nhiều loại màu đơn thuần khác nhau :
- Màu hồng, màu hơi thâm đen của Môi, của các chỉ tay, vành Tai.
- Màu đen hay hung hung của râu tóc, long mày.
- Màu trắng của lòng trắng Mắt, màu nâu (ta thường gọi là đen) của tròng đen.
- Màu đỏ của các tia máu Mắt.
c) Sự đậm nhạt của từng loại màu
Cùng một loại màu, chẳng hạn như da mặt, làn Môi ta thấy có Môi hồng nhạt, hồng
đậm, hồng phương trắng: cùng một loại da trắng, ta thấy có người trắng hồng, trắng xanh trắng ngà. Tóm lại, sự đậm nhạt của màu cũng là một thành tố của ý niệm Sắc trong tướng học không thể bỏ qua được.
d) Phẩm chất của từng loại màu đơn thuần
Cùng một màu hồng của Môi, má nhưng ta thấy có người Môi khô, Môi mọng, có người Sắc da hồng nhuận, có người da khô như vỏ cây hết nhựa.
Ngoài màu đơn thuần, ta còn có những màu phức hôp do các màu đơn thuần hợp thành. Lĩnh vực của chúng ta cũng đồng một khuôn khổ như các lĩnh vực của các đơn Sắc. Sau hết, trên khuôn mặt của 1 cá nhân, dù màu đơn thuần hay màu phức hợp, chúng có thể biến đổi từ màu này sang màu khác hay về phẩm chất, về độ đậm nhạt, về thành phần cấu tạo (đối với các màu phức tạp) qua thời gian. Chẳng hạn màu da trắng của một người sau 1 thời gian có thể biến thành hồng hay xanh xám : tóc có thể từ đen mướt đến hung đỏ, cặp Mắt trong xanh và làn Môi tươi tắn có thể vì 1 lý do bệnh lý nào đó mà biến thành cặp Mắt trắng dã làn Môi đen sì.
Tóm lại, khi nói đến Sắc trong tướng học là nói đến màu của các loại da, màu các bộ vị, độ đậm nhạt, phẩm chất, sự phối hợp các màu đơn thuần thành các màu phức hợp, sự biến thiên của các màu con người từ khu vực này sang khu vực khác. Nghiên cứu về Sắc tức là nghiên cứu về tất cả mọi trạng thái của các lĩnh vực nói trên, đi từ tổng quát đến chi tiết, đơn giản đến phức tạp. Đôi khi quan sát bằng tịh giác chưa đủ còn phải vận dụng cả trực giác bén nhạy thiên phú nữa, nhất là trong lĩnh vực quan sát phẩm chất và độ đậm nhạt của màu Sắc ở từng bộ vị trên con người.
II- CÁC LOẠI SẮC TRONG TƯỚNG HỌC:
Nói đến Sắc là nói đến màu, nhưng ở đây nặng về phần màu da trên khuôn mặt Tướng học Á Đông phân ra 7 loại đơn Sắc:
- Màu đỏ
- Màu hồng
- Màu tía
- Màu xanh
- Màu trắng
- Màu đen
- Màu vàng
Ba màu Đỏ Hồng Tía dược tướng học ngũ hành hóa thành hỏa Sắc là màu chính thức cửa 3 tháng hè, là màu da căn bản của người loại Hỏa trong phép phân loại Ngũ hành hình tướng.
- Màu xanh thuộc Mộc, là màu Sắc chính của 3 tháng mùa xuân, màu da căn bản của người hình Mộc.
- Màu trắng thuộc Kim, là màu Sắc tượng trưng cho ba tháng mùa thu, là màu da căn bản của người hình kim.
- Màu đen thuộc Thủy là màu Sắc của mùa đông và là màu chíng của người hình thuỷ.
Sau cùng là vàng, màu Sắc tượng trưng cho an lành quanh năm, là màu da căn bản của loại người hình Thổ.
a) Ý nghĩa của từng loại màu trên con người:
Theo kinh nghiệm tích luỹ lâu đời của cổ nhân, người ta thấy bình thường mỗi một màu xuất hiện bất chợt trên các bộ vị của một cá nhân có ý nghĩa riêng biệt như sau:
- Màu Xanh chỉ về lo lắng, kinh hiểm, tật ác, trở ngại tiểu nhân nhục nhã
- Màu Đỏ chỉ khẩu thiệt thị phi, quan tụng, tù ngục phá tài, tật bệnh hung Tai.
- Màu Đen chỉ thủy ách. Hao phá, mất chức chết chóc.
- Màu Trắng chỉ hình khắc thiếu phục tật bệnh.
- Màu Hồng (đôi khi là Tía) chỉ các sự ngẫu nhiên đắc tài, đắc lợi may mắn ngoài ý liệu.
- Màu Vàng chỉ vui vẻ tài lộc thăng tiến, bình an may mắn.
Tuy vậy, các ý nghĩa trên không phải là định lệ bất di bất dịch. Trong thực tế, việc phân định và giải đoán ý nghĩa của Sắc vô cùng phức tạp vì mỗi loại Sắc có liên hệ chằng chịt xa gần với nhiều dữ kiện khác.
Sách Quy giám đã từng nói "vui buồn may rủi đều có thể hiện lên khuôn mặt qua Khí Sắc. Sắc phân ra lớn nhỏ, dài ngắn, cao thấp, rộng hẹp tùy thời cải biến hoặc xấu hoặc tốt, hay khô hay nhuận. Khởi nguyên của Khí ở ngũ tạng, Sắc bắt nguồn từ Khí, ban ngày hiện ra ơ ngoài. Cái dụng của Sắc còn tuỳ theo thời gian, Khí hậu. Sắc hiện ra có khi lớn như sợi tóc, nhỏ như sợi lông con tằm, dài như sợi lông, ngắn như chiều dài hạt tấm. Thế của Sắc có tính thịnh suy. Cho nên cần phải phối hợp thời gian, Khí hậu, Ngũ hành mà quan sát. Trong các loại Sắc, Sắc đỏ rất khó quan sát cho chính xác. Hay do nội tạng, hỏa vượng mà mặt đỏ, hay do đột nhiên cảm cúm mà mặt đỏ, hay do uất ức mà mặt đỏ. Chỉ đỏ Sắc tự nhiên, thiên bẩm hay vô bệnh tật mà phát sinh ra mới thật là Sắc đỏ của tướng học. Về thời gian, ít ra nó phải xuất hiện ở một bộ vị nhất định cả ngày mới có thể lấy làm căn cứ mà đoán tật bệnh cát hung, quan gia sự vận.
Nói tóm lại, biểu ý nghĩa đặc thù của từng loại Sắc chưa đủ để đoán mà còn phải lồng vào ý nghĩa đơn độc của nó vào một khung cảnh tổng quát bao gồm các yếu tố sau đây để tìm ra ý nghĩa kết hợp của nó :
- Sự lớn rộng hay hẹp của một khu vực xuất hiện Sắc.
- Tính cách Thanh Trọc của Sắc
- Hư Sắc hay thực Sắc.
- Bộ vị xuất hiện.
- Phối hợp hay không với màu da tổng quát căn bản của từng loại người(Ngũ hành hình tướng)
- Phối hợp hay không phối hộp với màu Sắc từng mùa
- Rõ ràng hay mờ ảo, thường trực hay bất chợt.
- Đơn thuần hay tạp Sắc. . .
Chẳng hạn, màu đen tuỳ theo định nghĩa thông dụng là một màu xấu nhưng nếu thấy xuất hiện ở người hình Thuỷ trong ba tháng mùa đông là đặc biệt lại ở Địa cát, với Sắc thái tươi bóng lại là một màu tốt, đặc biệt chủ về khang kiện và phát tài.
Màu đỏ tuy là màu chỉ về thị phi, quan tụng nhưng nếu người hình Kim trong ba tháng hè, Sắc tươi tắn không hỗn tạp mà lại hanh thông. Nếu vẫn ở cá nhân trên mà trong đỏ lại pha lẫn đen thành màu huyết dụ thì lại chủ về hung hiểm khó tránh: pha lẫn màu xanh hay vàng mà vẫn Thanh*(nghĩa là màu Sắc tươi tốt về hình thái) Sắc thì tùy Tai ương vẫn có nưhng mức độ nguy hại giảm thiểu đến tối đa, rốt cục không có gì đáng ngại, Từ đó, ta co thể áp dụng lối suy luận trên vào các màu khác.
b) Quy tắc tổng quát về cách đoán Sắc:
Trong phép đoán Sắc ta không cần quá câu nệ vào ý nghĩa riêng rẽ của từng màu mà cần phải để ý đến ý nghĩa kết hợp của nó trong một bối cảnh chung. Ngoài các yếu tố kể trên, ta cần phải phân biệt một vài điểm quan trọng trước khi lưu ý đến ý nghĩa của từng loại Sắc. Đó là :
1- Hư Sắc và thực Sắc :
Hư Sắc là trường hợp Sắc và Khí không tương hợp, chỉ có Sắc hiện ra ở ngoài da, mà phía dưới da không có Khí. Để hiểu ta có thể ví hư Sắc với vết bùn hay một vết màu bất chợt phết lên lớthành ra nhìn vào vết bùn hay một vết màu bất chợt phết lên lớp da lên cây, thành ra nhìn vào vết đó trên thân cây, ta không thể biết được chất nhựa chu lưu dưới lớp vỏ cây ra sao. Trường hợp này cũng còn gọi là hữu Sắc vô Khí.
Trái lại, thực Sắc là màu da thực sự của vỏ cây, nó phản ánh trung thực chất vỏ cây chu lưu ở trên lớp vỏ cây. Tùy theo chất nhựa sung mãn hay khiếm hụt, màu Sắc của vỏ cũng biến chuyển theo.
Trong tướng học chỉ có thực Sắc mới đáng lưu tâm còn hư Sắc không đáng kể.
2- Vương Sắc trệ Sắc, hoại Sắc.
Vương Sắc: màu thuộc loại chính cách, sáng sủa phân bổ đều khắp các bộ vị quan sát, phù hợp với thời gian tối thuận của nó. Vương Sắc đắc cách phù hợp với từng loại hình tướng là dấu hiệu tốt.
Trệ Sắc: màu xuất hiện đúng chỗ, đúng lúc nhưng phẩm chất xấu hay phân phối không đều đặn (hay lốm đốm, hay chỗ chậm chỗ nhạt)
Trong tướng học nói đến vương Sắc và trệ Sắc là người ta chú ý đến màu Sắc chính yếu trên khuôn mặt hay các bộ vị chính yếu.
Như danh xưng của nó, trệ Sắc chủ về các loại bất tường tiềm ẩn sắp bộc phát.
- Kim trệ: da mặt hiện ra Sắc trắng bệch và khô như mặt đất bị mốc là điềm báo trước về sự cùng khốn, ngưng trệ của của cải.
- Mộc trệ: Khuôn mặt xanh xao, u ám chủ về bệnh tật, Tai họa.
- Thủy trệ: toàn thể các bộ vị chính trên mặt, nhất là hai Tai, mờ ảo như khối ám là dấu hiệu tiềm ẩn chủ yếu về quan trung thị phi.
- Hỏa trệ: mặt nổi màu đỏ trông khô héo là điểm hao tổn tiền bạc.
- Thổ trệ: màu da mặt vàng lốm đốm không đều, không sáng như màu nghệ khô, là triệu chứng nội tạng bệnh hoạn, công việc khó thành.
Hoại Sắc: xuất hiện trái thời gian, sai bộ vị hay pha trộn nhiều màu Sắc tương khắc.
Tranh Phong Thủy
Tóc trên đầu không những có thể bảo vệ da đầu, mà những sợi tóc đen óng mượt còn có thể tô điểm cho cả đầu, mặt của con người, làm cho mặt con người ta trở nên rạng rỡ, xinh đẹp thêm lên và càng hiện rõ thần sắc tinh anh lanh lợi của người. Điều quan trọng hơn là tóc còn có thể phản ánh trạng thái sức khoẻ của con người. Thông qua quan sát sự biến hoá nhỏ bé của tóc trên đầu, người ta có thể biết được bệnh.
Tóc trên đầu chủ yếu là do chất anbumin sừng cấu thành. Trong tóc có hơn 20 loại axít amin (amimo acid (S)), còn có cả hơn 10 loại nguyên tố vi lượng như kẽm, đồng, sắt ... nữa. Theo các báo đưa tin thì việc xác định hàm lượng các nguyên tố vi lượng trong tóc có thể chẩn đoán được rất nhiều bệnh. Tóc cũng như các cơ quan khác trong cơ thể con người luôn luôn đổi mới, thay thế. Tóc của mỗi người có khoảng 10 vạn sợi. Cuộc đời mỗi sợi tóc ước khoảng 3 đến 4 năm. Tốc độ mọc dài ra mỗi ngày của một sợi tóc là 0,3 đến 0,4 milimét. Trong trường hợp bình thường, tất cả mọi sợi tóc không phải đều là mọc đồng bộ như nhau, ước tính khoảng trên 90% số tóc sinh trưởng, còn gần 10% số tóc lại bị rụng một cách tự nhiên. Người thành niên có khoảng 60 sợi tóc rụng trong mỗi ngày. Vì rằng số tóc rụng và số tóc sinh trưởng luôn giữ ở mức cân đối vơớinhau, cho nên không thấy có hiện tượng rụng tóc rõ rệt. Nhưng nếu số tóc rụng nhiều hơn số tóc sinh trưởng thì sẽ hình thành tình trạng mái tóc thưa, thậm chí có trường hợp rụng hết cả tóc. Hiện nay khoa học đã biết nguyên nhân của rụng tóc có rất nhiều, có nguyên nhân có tính chất sinh lý như người có chửa, người đẻ con bị rụng tóc, lại có cả nguyên nhân có tính chất bệnh lý do chủ yếu là mắc các chứng bệnh như thương hàn, viêm phổi, thiếu máu, ung thư ... Ngoài ra còn do cả nhân tố di truyền nữa.
Thực ra thì cổ nhân của chúng ta từ xa xưa cũng đã nhận thức được sự sinh trưởng và rụng tóc đều có quan hệ mật thiết đối với sức khoẻ. Y học dân tộc cho rằng sự thịnh suy của thận khí có thể hiện ra ở tóc, đó chính là "kỳ hoa tại phát" (tinh hoa của người ta là ở nơi tóc). Thận khí là một động lực thúc đẩy những hoạt động cơ năng như phát dục, trưởng thành và sinh đẻ. Khí thận khí đầy đủ, thì tinh lực của cơ thể dồi dào, lông tóc sinh trưởng khoẻ, xanh tốt. Ngược lại, nếu thận khí suy thoái quá sớm thì sẽ làm cho con người ta già trước tuổi, tóc rụng và râu tóc bạc sớm.
"Y thuật" có viết: "Nhìn vào màu tóc khô ráp hay óng ả có thể quan sát được bệnh của tạng phủ". Nhìn tóc biết được bệnh, chủ yếu là thông qua nhìn sự thay đổi về chất, về màu sắc của tóc để khám biết các bệnh có trong cơ thể và sự biến đổi, phát triển của nó.
Kinh nghiệm chứng minh rằng tất cả những trường hợp sau đây thì đều cần phải nêu ra ở phần đầu hoặc các phần khác có thể có bệnh tiềm ẩn, cần phải cảnh giác.
Tóc bạc quá sớm. Nếu thanh niên mà bạc tóc thì phải kiểm tra xem là do các nhân tố như di truyền, có vấn đề về mặt tinh thần, hay là do bị bệnh gây nên. Các bệnh như bệnh lao, bệnh về dạ dày và ruột, bệnh thiếu máu, bệnh xơ cứng động mạch ... đều có thể làm cho tóc bạc sớm.
Tóc quá đen hoặc tóc dần dần đen sẫm lại. Các nhà khoa học trên thế giới phát hiện tóc đen là màu sắc đặc biệt của những người thuộc giống da vàng. Nhưng tóc mà đen quá hoặc từ trước đến giờ không đen lắm, bây giờ bỗng đột nhiên dần dần đen nhánh lại, như vậy có khuynh hướng là bị mắc chứng ung thư.
Tóc rụng không bình thường, có thể nghĩ đến là trong cơ thể có khả năng thiếu kẽm. Tóc giòn, yếu, dễ gẫy, có thể nghĩ đến khả năng có bệnh ở tuyến giáp trạng. Y học dân tộc cho rằng tóc của người thành niên thưa thớt, trông khô cứng, màu vàng khè thì như vậy phần lớn thuộc về thận có khuyết tật, khí huyết hư suy gây ra.
Nam giới khi mà thấy tóc rụng nhiều quá mức thì phải nghĩ đến khả năng có bệnh về thận. Nữ giới tóc rụng cả hoặc lác đác rụng nhiều thì phải nghĩ đến khả năng mắc bệnh viêm thận. Khi thấy tóc rụng ở trên đỉnh đầu thường phải nghĩ đến khả năng do bị viêm kết tràng, viêm túi mật gây nên.
Rụng tóc có kèm thêm với cả các lông trong toàn thân thưa thớt, thì thường thường là biểu hiện của một số bệnh về nội tiết.
Mỗi ngày số tóc rụng tới trên mười sợi, thậm chí rụng hàng mảng tóc, đó là triệu chứng báo trước bị bệnh hói đầu, cần phải cảnh giác, tìm nguyên nhân gây bệnh để phòng trị sớm.
Nam giới sau khi lớn phổng, nếu thấy tóc cứ mọc lùi về sau, đầu tóc óng nhẫy, nhiều gầu, da đầu bị ngứa thì phải đề phòng hói đầu do thừa mỡ.
Bất kể là nam hay nữ, khi chải và gội đầu, phát hiện thấy tóc dễ gẫy rụng, trong da đầu tìm thấy những vết chấm, vằn, những cái bớt to bằng hạt đậu nành, nhưng lại không đau, không ngứa, thì phải đề phòng bệnh rụng tóc do vết chấm vằn, tục gọi là "bệnh trọc đầu".
"Nhìn tóc biết bệnh" chủ yếu thích hợp với những người ở độ tuổi thanh thiếu niên và trung niên. Còn về những người già, do tuyến mỡ ở da đã suy thoái, sự phân tiết ở da giảm đi, không đủ để làm mượt tóc, do vậy tóc trở nên khô khẳng và mất tính mượt mà, óng ả. Đó là một hiện tượng suy lão tự nhiên, không thuộc trạng thái có bệnh. Khi gặp những trường hợp nói trên, người già có thể không cần phải băn khoăn suy nghĩ nhiều.
Quy tắc bói bài:
1. Nhắm mắt, giữ trạng thái tĩnh trong 30 giây.
2. Tự hỏi thầm bản thân "Hiện tại mình mong muốn có một cuộc sống như thế nào".
3. Chọn một lá bài theo trực giác và click vào hình xem đáp án.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Maruko (theo lnka)
Trong thời Đông Chu, dân chúng đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng rau cháo cầm hơi, có ngày phải nhịn đói.
May mắn thay, ngày đầu tiên đến đất Tề, có một nhà hào phú biếu thầy trò một ít gạo. Khổng Tử liền phân công Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi thổi cơm.
Đang đọc sách ở nhà trên bỗng nghe một tiếng cộp từ nhà bếp vọng lên, Khổng Tử liếc mắt nhìn xuống thấy Nhan Hồi mở vung, lấy đũa xới cơm cho vào tay và nắm lại từng nắm. Xong, Nhan Hồi đậy vung lại, liếc mắt nhìn xung quanh rồi đưa cơm lên miệng.
Hành động của Nhan Hồi không lọt qua đôi mắt của vị thầy tôn kính. Khổng Tử thở dài ngửa mặt lên trời than: “Chao ôi. Học trò yêu quý nhất của ta mà lại ăn vụng thầy, vụng bạn? Bao nhiêu kỳ vọng ta đặt vào nó thế là tan thành mây khói”.
Lúc dọn cơm ra, Khổng Tử nói: “Chúng ta đi đường xa vạn dặm, thầy rất mừng vì trong lúc đói khổ, các con vẫn giữ được tấm lòng trong sạch, vẫn yêu thương nhau, vẫn một dạ theo thầy.
Hôm nay, ngày đầu tiên đến đất Tề, may mắn thay thầy trò ta lại có được bữa cơm. Bữa cơm đầu tiên trên đất Tề làm thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương. Thầy muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ thầy, các con bảo có nên chăng?”
Trừ Nhan Hồi đứng im, còn các môn sinh đều chắp tay thưa: “Dạ thưa thầy, nên ạ”. Khổng Tử lại nói: “Nhưng không biết nồi cơm này có sạch hay không?”
Tất cả học trò không rõ ý Khổng Tử muốn nói gì nên ngơ ngác nhìn nhau. Lúc bấy giờ Nhan Hồi liền chắp tay thưa: “Dạ thưa thầy, nồi cơm này không được sạch”.
Khổng Tử hỏi: “Tại sao?”
Nhan Hồi thưa: “Khi con mở vung ra xem cơm đã chín chưa, chẳng may một cơn gió tràn vào, bồ hóng và bụi trên nhà rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm. Con đã nhanh tay đậy vung lại nhưng không kịp. Con liền xới lớp cơm bẩn ra định vất đi nhưng lại nghĩ: cơm thì ít, anh em lại đông, nếu bỏ lớp cơm bẩn này thì mất một phần ăn, anh em hẳn phải ăn ít lại. Vì thế, con đã mạn phép thầy và tất cả anh em, ăn trước phần cơm bẩn ấy, còn phần cơm sạch để dâng thầy và anh em.
"Thưa thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi. Bây giờ, con xin phép không ăn cơm nữa, con chỉ ăn phần rau. Và thưa thầy, nồi cơm đã ăn trước thì không nên cúng nữa”.
Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử ngửa mặt lên trời mà than: “Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật”. Suýt nữa Khổng Tử đã trở thành kẻ hồ đồ.
1. Môi trái tim
![]() |
Bạn sáng tạo, thông minh, hóm hỉnh, luôn quan tâm đến người khác và là cầu nối tuyệt vời giữa mọi người.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Dung Nguyen (theo Asiantown)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
(3) Điểm quan trọng khi chọn tủ bếp
– Chọn bề mặt bàn bếp.
Vật liệu làm mặt tủ bếp có rất nhiều, hiện nay trên thị trường có hàng chục loại khác nhau, vì vậy khi chọn không thể chỉ dựa vào hình thức bên ngoài và giá cả, phải xem xét đến tính thực dụng của nó, nên có sự hiểu biết về các loại vật liệu làm ra nó.
– Chọn vật liệu như thế nào?
Chúng ta có thể thấy rất nhiều loại tủ bếp trên thị trường, giá của chúng có sự chênh lệch đáng kể. Vậy thì làm thế nào để phán đoán được tủ bếp tốt? Chủ yếu phải dựa vào tính bảo vệ môi trường của vật liệu, độ kín khít giữa các tấm vật liệu, các phối kiện bằng kim loại của tủ.
– Những điểm quan trọng khi chọn mua các phối kiện kim loại của tủ.
Các phôi kiện kim loại được chia làm hai loại lớn theo chức năng và yêu cầu trang trí. Môi trường bếp ẩm ướt, nhiều khói, kim loại chọn dùng phải qua kiểm nghiệm, chọn loại không dễ bị ăn mòn, han gỉ, đứt, gẫy. Phối kiện kim loại của tủ bếp có một số chức năng quan trọng như gắn nối linh kiện, làm bản lề, làm ray trượt. Trong đó, chức năng làm bản lề là loại cần phải được khảo nghiệm nhất, nó không những có tác dụng gắn chắc cánh cửa tủ với thân tủ mà còn độc lập chịu trọng lượng của cánh cửa. Ngoài ra, ray trượt ngăn kéo cũng không được xem nhẹ, nó đỡ toàn bộ trọng lượng ngăn kéo, chỉ có ray trượt có chất lượng tốt thì khi sứ dụng ngăn kéo mới không bị mất lực. Cho nên khi chọn các phối kiện kim loại nhất định phải quan tâm đến chất lượng.
(3) Tránh ngộ nhận khi chọn tủ bếp
– Tấm chống cháy không phải là vật chống được lửa hoàn toàn
Rất nhiều người cho rằng tấm chống cháy là thứ không thể cháy được. Trên thực tế, đây chỉ là một cách gọi mà thôi, kì thực, gọi là “tâm chịu lửa” có lẽ sẽ chính xác hơn. Bề mặt tấm này được phủ một lớp melamine, nguyên liệu này chỉ có thể chống cháy tạm thời do rang, nướng chứ không mang đầy đủ ý nghĩa chống lửa. Thông thường, thời gian chịu lửa của tâm vật liệu chống cháy này đạt từ 35 đến 40 giây, trong phạm vi thời gian này, nó không bị cháy, chỉ làm cho dầu mỡ bị đen và có thể cọ sạch được; nhưng nếu thời gian quá lâu sẽ xuất hiện hiện tượng các bon hoá, hoặc nguyên liệu bên trong bị cháy. Căn cứ vào đặc điểm này, cho thấy thời gian chịu lửa càng lâu, chất liệu tâm chống cháy càng tốt.
Trong quá trình thực tế sử dụng, nhiều người không hiểu tình trạng này, cứ để tâm chống cháy ở nhiệt độ cao trong thời gian dài, như vậy rất dễ có hiện tượng biến dạng và các bon hoá.
– Chống ẩm không có nghĩa ỉà chống được nước hoàn toàn
Trong quá trình thực tế sử dụng tủ bếp, có người cho rằng tâm chống ẩm có thể hoàn toàn chống được nước, thực tế thì quan niệm này hoàn toàn thiếu chính xác. Tấm chống ấm chỉ là tấm vật liệu bình thường được gia công thêm một lớp chất chống ẩm mặt ngoài mà thôi, tâm này hút hơi ẩm trong không khí nhưng nếu ngâm nó trong nước lâu nó có thể trương nở, dẫn đến bề mặt bị vỡ, làm giám tuổi thọ của tủ. Cho nên trong thực tế sử dụng phải cố giữ cho tủ luôn khô ráo, lau khô ngay những chỗ có nước, tránh để tủ bị thấm nước sinh biến dạng.
– Không nóng vội trong lắp đặt tủ bếp
Lắp đặt tủ bếp phải căn cứ vào kích thước phòng bếp, thường thì phải cân nhắc đến việc đo kích thước, cần hoàn tất việc này trước khi tiến hành chỉnh sửa bếp. Cho nên nếu cần chọn một chiếc tủ bếp hoàn chỉnh thì phải thiết kế nó trước khi sửa bếp, dự liệu trước đường dây điện nguồn, công tắc và đường ống nước v.v… Đo lần đcầu dựa vào mốc tường và nền bếp, lần thứ hai đo lại khi đã hoàn thành việc cải tạo bếp, tiếp theo căn cứ vào số đo chi tiết cuối cùng đế làm tủ, giữa việc lắp đặt và mua tủ cần có một khoảng thời gian nhất định, tránh bị thúc ép về thời gian dẫn đến sai kích thước hoặc lắp đặt không được chu đáo.
Men theo con đường rợp bóng cây cuối khu biệt thự Tây Hồ ở thủ đô Hà Nội, giữa bát ngát hương sen và cảnh đất trời hòa quyện trong ánh nắng chiều tà, doi đảo nhỏ được người xưa ví là “bãi đất cá vàng” nhô ra giữa mặt nước lung linh, đúng là cái thế “đầu rồng, thân rồng, rùa cõng” khiến khách vãn cảnh cảm thấy âm dương đối đãi, tâm hồn mình thư thái lạ.
Vượt qua cổng Phủ Tây Hồ sừng sững bên cây đa cổ, con đường vào phủ uốn lượn theo mép hồ lơ thơ liễu rủ lại đưa bước chân du khách tới hai cây vối lớn hiếm thấy và một cây si cổ thụ ngay trước cửa Động Sơn Trang, vươn những chùm rễ đại ra mặt nước cho chim chóc đua nhau về làm tổ.
Cảnh đẹp nên thơ ấy là một trong những lý do khiến Phủ Tây Hồ luôn thu hút khách thập phương đến bằng đường bộ cũng như bằng đò trên hồ Tây. Truyền thuyết về công trình văn hóa tín ngưỡng được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia này cũng là điều khiến không ít du khách trầm trồ tán thưởng.
Sự tích vị Thánh Mẫu thờ trong Phủ Tây Hồ được người dân tổng Thượng, huyện Phụng Thiên xưa (nay là vùng Yên Phụ, Nghi Tàm, Tây Hồ, Quảng Bá, Xuân La, Vạn Dâu) kể lại rằng: Quỳnh Hoa là con gái Ngọc Hoàng thượng đế ở Đệ nhị Thiên Cung, do đánh rơi chén ngọc dâng rượu chúc thọ đã phải xuống trần gian đầu thai làm Giáng Tiên - con gái thường dân Lê Thái Công ở An Thái - Vân Cát - Vụ Bản - Nam Định vào năm 1557. Lớn lên, có nhan sắc tuyệt trần, lại giỏi thi thơ, song lấy chồng và sinh con - một trai, một gái - thì Giáng Tiên chớp mắt thăng thiên đình. Nàng giáng trần lần thứ nhất để gặp lại người thân, có hai nữ thần Quế Nương, Thị Nương hậu vệ; lần hai hiển linh để cứu nhân độ thế, trừng phạt kẻ bất lương trêu ghẹo người này, lại gia ơn cho kẻ khác và du ngoạn khắp chốn danh lam, giáng bút đề thơ.
Có truyền thuyết kể rằng chính tại mảnh đất Phủ Tây Hồ ngày nay, Quỳnh Hoa đã tái ngộ xướng họa thơ văn cùng Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (lần thứ nhất đàm đạo tại xứ Lạng) trong vai cô chủ quán tửu lâu Tây Hồ phong nguyệt, ít ngày sau Trạng Bùng quay lại đã thấy biến mất cả người lẫn quán, chỉ còn hồ nước mênh mông. Quỳnh Hoa đã được dân chúng lập phủ thờ, đặt tên là Bà Chúa Liễu Hạnh, được xem là một trong bốn vị “tứ bất tử”, là tấm gương về sự tự mình tạo lấy hạnh phúc.
Bà Chúa Liễu Hạnh theo quan niệm dân gian đã trở thành một mẫu quyền năng vô lượng và phân thân, hóa thân thành các thần linh cai quản muôn mặt của vũ trụ: Mẫu Cửu Thiên Huyền Nữ cai quản trên trời, Mẫu Thượng Ngàn cai quản núi rừng, Mẫu Thủy (hay Mẫu Thoải) cai quản trên sông biển, thể hiện sự ngưỡng mộ chân thành, coi trọng vai trò của người mẹ.
Phủ Tây Hồ bao gồm cổng làm kiểu tam quan, kiến trúc chính 3 nếp (Tam tòa thánh mẫu); phương đình, tiền tế, hậu cung; Điện Sơn Trang, khu nhà khách, lầu Cô, lầu Cậu. Di tích Phủ Tây Hồ hiện còn lưu giữ được khối di vật khá phong phú mang giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật thuộc thế kỷ XIX, XX như bộ tượng tròn gần 300 pho, hoành phi, câu đối…Đặc sắc nhất là bức đại tự ghi: “Thiên tiên trắc giáng” (Tiên trời xuất hiện) và bức hoành phi ở cửa cung đề: “Mẫu nghi thiên hạ” (làm mẹ của cả thiên hạ).
Độc đáo nhất ở Phủ thờ là ba pho tượng nữ thần đặt song hành: Mẫu Thượng Ngàn là vị mặc áo xanh lá cây tượng trưng cho rừng, nơi con người xưa sinh sống bằng các loại củ; Mẫu Thoải (thủy) là vị mặc áo trắng, tượng trưng cho nước; Mẫu Địa là vị mặc áo vàng, tượng trưng cho đất. Ba vị mẫu này hợp thành Tam phủ, giải thích quá trình tiến hóa của cư dân Việt, từ rừng núi, sông suối xuống đồng bằng định cư trồng lúa nước. Cũng theo quan niệm Tam phủ thì, cai quản thiên phủ có thiên quan ban phúc lộc cho con người, cai quản địa phủ có địa quán xá bỏ tội lỗi cho con người, cai quản thủy phủ có thủy quan cởi bỏ mọi chướng ngại, khó khăn cho con người. Với sức mạnh huyền bí ban phúc, xá tội và giải ách, tín ngưỡng Tam phủ rất hấp dẫn mọi người.
Vào dịp tết đến xuân về, du khách thường đổ về đây rất đông, vì cùng với việc lễ cầu may, họ còn thưởng ngoạn cảnh đẹp Tây Hồ, nhớ về “áo mây xe gió” của bà chúa Liễu Hạnh. Được coi là nơi linh thiêng nên phủ Tây Hồ được nhiều người đến cúng lễ và cầu phúc, cầu lộc, nhất là vào ngày 3 tháng ba và ngày 13 tháng tám âm lịch.
Phong thủy phòng khách hài hòa sẽ đem lại nhiều may mắn cho các thành viên trong gia đình. Dưới đây chúng tôi tư vấn một số cách bài trí giúp phòng khách của bạn vừa đẹp vừa hợp phong thủy.
1. Vị trí
Phòng khách nên được đặt ở nơi có ít nhất hai bức tường bao quanh, tránh sử dụng căn phòng nằm sâu trong nhà. Một phòng khách hợp phong thủy sẽ giúp nguồn năng lượng sống, năng lượng tài năng đi vào nhà mà không bị ngăn trở hoặc dần tiêu tan vì phải đi qua các phòng khác trước khi đến nơi. Vị trí này còn đảm bảo các nguồn năng lượng trên luôn được tươi mới, mạnh mẽ, giúp cho phòng khách tràn đầy sinh khí.
2. Diện tích và nội thất
Trước khi xây nhà hoặc mua nhà mới, gia chủ nên chú ý đến diện tích của phòng khách. Một căn phòng rộng rãi, thoáng mát phù hợp làm nơi tụ họp cho gia đình và khách mời. Khi đó, các nguồn năng lượng bổ trợ sẽ có cơ hội đi vào phòng và lan tỏa ra không gian xung quanh.
Hãy bày trí đồ đạc tránh bị rối mắt, không kê quá nhiều đồ làm không gian căn phòng bị chật chội. Tránh kê đồ đạc vướng lối đi khiến nguồn năng lượng tốt bị trì trệ. Nên đặt bộ bàn ghế tựa lưng vào tường, không nên đặt ở giữa phòng để tránh những cảm giác thiếu an toàn ở khoảng trống sau lưng. Ngoài ra, bạn có thể lắp đặt một quả cầu pha lê trên trần nhà phòng khách để vô hiệu hóa những năng lượng tiêu cực.
Bạn nên chọn màu sắc đồ đạc trang nhã, hài hòa với sơn tường và thảm. Có thể đặt những bình hoa tươi hay phấn thơm để căn phòng thêm tươi sắc và thơm mát. Riêng với đồ điện tử như tivi, máy tính (chứa năng lượng dương tốt) thì hãy đặt chúng ở vị trí bạn muốn bổ trợ, như hướng bắc (hỗ trợ sự nghiệp), hướng nam (công danh và sự công nhận).
3. Bày trí nội thất theo la bàn phong thủy
Với hướng bắc (đại diện cho năng lượng thủy), gia chủ có thể treo tranh thác nước, suối nguồn hoặc hình ảnh con thuyền hướng về phía người xem. Bạn có thể đặt một bình thủy sinh hoặc chậu cá cảnh bên trong nuôi 8 chú cá vàng và một cá đen, đặt một hòn non bộ nhỏ có dòng nước chảy về hướng căn phòng. Sử dụng sắc lam và đen chủ đạo trong đồ đạc tại hướng này cũng là lựa chọn phù hợp.
Đối với hướng nam (năng lượng hỏa), bạn nên đặt những cây nến lớn, đẹp mắt; sử dụng đồ đạc bằng gỗ và có màu sắc như đỏ, hồng, da cảm và lục. Với hướng đông và đông nam (năng lượng mộc, thổ), gia chủ nên treo những bức tranh có khung gỗ, kê giá sách bằng gỗ, sử dụng màu lục và nâu là chính.
Ở hướng tây và tây bắc (năng lượng kim), gia chủ nên sử dụng tất cả đồ đạc bằng kim loại như khung tranh, đế nến và sử dụng các màu sắc chủ đạo như màu đồng, lam, vàng, xám. Đối với hướng đông bắc và tây nam (năng lượng thổ), gia chủ nên đặt những loại đá quý, khoáng sản, đồ gốm sứ hoặc thủy tinh, pha lê và sử dụng các tông màu như màu đất sét, nâu vàng, đỏ.
4. Sử dụng các biểu tượng bổ trợ sự thịnh vượng
Để gia tăng thịnh vượng, giàu có cho gia đình, trên bàn khách, gia chủ có thể đặt những vật như tiền xu mạ vàng hay thỏi vàng, đặt tượng Phật ở nơi trang trọng, tránh đặt dưới sàn nhà hoặc bên trái phòng. Ở phía đông của phòng nên đặt đồng xu cùng một dải ruy băng màu đỏ hoặc bức tượng một con rùa đầu rồng ngậm tiền xu, hướng nhìn vào phòng ở phía đông nam.
Ngoài ra, có thể treo bức tranh hình con rồng ở phía đông hay đặt một tượng voi cũng sẽ mang đến may mắn và tài lộc cho gia đình. Ở hai bên cửa ra vào phòng khách, hãy đặt hai bức tượng khuyển canh giữ nhà.
5. Thiết kế ánh sáng phù hợp
Hệ thống đèn điện, ánh sáng tự nhiên và cách sử dụng ánh sáng đóng một vai trò quan trọng trong việc thu hút nguồn năng lượng tốt cho phòng khách. Gia chủ nên bố trí phong phú các nguồn sáng như đèn bàn, đèn trần, đèn ốp tường và cửa sổ hợp lý để hứng ánh sáng và không khí tự nhiên. Cần lưu ý, tránh thiết kế hai hay nhiều cửa sổ trong phòng khách cùng một lúc để các nguồn năng lượng không bị tiêu hao hoặc gây nên tình trạng quá nhiều nguồn năng lượng ồ ạt, xung khắc nhau.
Nguyên tắc phòng khách hợp phong thủy quan trọng là hướng, cách bày trí đồ nội thất hợp lý và trên hết là tạo tâm lý thoải mái cho đại gia đình. Chỉ như vậy, không gian trong phòng khách mới thực sự là nơi gặp gỡ vui vẻ và đầy ắp tiếng cười của gia đình, bạn bè và người thân.ột vị trí rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự giàu có cũng như hạnh phúc của gia đình.
Ôn tửu trảm Hoa Hùng
Trong "Tam Quốc diễn nghĩa", điển tích "ôn tửu trảm Hoa Hùng" được cho là thuật lại chiến công đầu tay của Quan Vân Trường.
Theo tiểu thuyết, bối cảnh câu chuyện diễn ra khi 18 lộ chư hầu Quan Đông khởi binh thảo phạt gian thần Đổng Trác. Quân Quan Đông bao vây thành Lạc Dương.
Tướng quốc Bình Nguyên là Lưu Bị dẫn các tướng Quan Vũ, Trương Phi... theo cùng Thái thú Bắc Bình Công Tôn Toản.
Chư hầu cùng tiến cử Viên Thiệu làm minh chủ, Thái thú Trường Sa (một địa danh thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc ngày nay) Tôn Kiên làm tiên phong tới Dĩ Thủy Quan khiêu chiến.
Tướng của Đổng Trác là Kiêu kị hiệu úy Hoa Hùng tiếp chiến, đánh bại Tôn Kiên, chém đầu bộ tướng của kiên là Tổ Mậu.
Hoa Hùng khiêu chiến quân Quan Đông, trảm liên tiếp 2 tướng.
Trong lúc liên quân chư hầu bất lợi, Viên Thiệu đành than - "Tiếc rằng hai tướng Nhan Lương, Văn Xú chưa tới.
Nếu có 1 người ở đây thôi, đâu cần phải sợ Hoa Hùng?"
Lời Thiệu chưa dứt, Quan Vũ đã bước ra nói - "Tiểu tướng xin đi lấy đầu Hoa Hùng!"
Thời điểm đó, Quan Vân Trường chỉ là một "mã cung thủ" vô danh tiểu tốt, cho nên Viên Thiệu và Viên Thuật đều không bằng lòng, sợ mất mặt trước Hoa Hùng.
Trong các vị "lãnh đạo" có mặt, duy nhất Tào Tháo ủng hộ Quan Vũ xuất trận, và mời Quan Công một chén rượu.
"Rượu đã rót ra, Quan mỗ sẽ trở lại ngay!" - Quan Công nói xong cầm đao lên ngựa.
Không lâu sau đã thấy Quan Vũ đem đầu Hoa Hùng về ném dưới đất.
Chén rượu của Tào Tháo vẫn còn ấm, vì vậy mới có tích Quan Công "ôn tửu trảm Hoa Hùng".
Theo "Tam Quốc diễn nghĩa", trảm Hoa Hùng là thắng lợi đầu tay của Quan Vũ, và cũng là "uy chấn càn khôn đệ nhất công".
Hoa Hùng ở Lạc Dương, Quan Vũ ở đâu?
Mặc dù "ôn tửu trảm Hoa Hùng" đã trở thành một điển tích vô cùng nổi tiếng đối với độc giả Tam Quốc, xong nhiều tư liệu lịch sử lại cho thấy "chiến công" của Quan Vân Trường hoàn toàn phi thực tế.
Tháng giêng năm Sơ Bình thứ nhất (190), các quận Quan Đông khởi binh phạt Đổng Trác, tôn Thái thú Bột Hải Viên Thiệu làm minh chủ. Khi ấy, Công Tôn Toản vẫn còn ở U Châu chứ không tham gia hội sư.
Thêm vào đó, thời điểm này, Lưu Bị còn chưa về đầu quân cho Công Tôn Toản, cho thấy chi tiết Bị cùng Toản tham gia liên minh là không chính xác.
Theo các tài liệu lịch sử Trung Quốc, vào thời gian trên, Lưu Bị đang dẫn quân đánh Đốc Bưu.
Khi đại tướng quân Hà Tiến phái đô úy Khưu Nghị tới Đan Dương mộ binh, Lưu Bị mới dẫn đội quân ít ỏi của mình theo người này.
Tại Hạ Bì đụng độ giặc Hoàng Cân (khăn vàng), quân Lưu đánh trận lập công, Lưu Bị được phong chức phó quan ở Hạ Mật, sau làm Cao Đường úy, rồi Huyện lệnh Cao Đường.
Về sau Cao Đường bị giặc Hoàng Cân phá, Bị mới về đầu quân cho Trung lang tướng Công Tôn Toản và được phong làm Biệt bộ tư mã.
Thời gian Lưu Bị làm Biệt bộ tư mã không được "Tam Quốc Chí" ghi lại, nhưng sách "Tư trị thông giám" và "Tục hậu Hán thư" đều viết, giai đoạn này vào khoảng tháng 10 năm Sơ Bình thứ hai (191), tức gần 2 năm sau khi liên minh Quan Đông thành lập.
Căn cứ vào các mốc thời gian thực tế, khi các châu quận khởi binh đánh Đổng Trác năm 190, Lưu Bị nhiều khả năng vẫn còn làm quan ở Hạ Mật, hoặc Cao Đường, chứ không thể có mặt tại tiền tuyến Lạc Dương.
Lưu Bị không ở Lạc Dương, cho thấy Quan Vũ cũng không có khả năng xuất hiện tại Lạc Dương để... trảm Hoa Hùng.
Công của Quan Vũ hay của "mãnh hổ Giang Đông"?
Theo một số nguồn sử liệu Trung Quốc, "Mãnh hổ Giang Đông" Tôn Kiên được cho là tác giả của chiến công mà Quan Vũ "hưởng".
Cái chết của mãnh tướng Hoa Hùng đã được lịch sử ghi lại. Nhưng nhân vật trảm Hoa Hùng không phải là Quan Vũ, mà là "Giang Đông chi hổ" Tôn Kiên.
Tôn Kiên vốn là Thái thú Trường Sa (địa danh ở tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc), tước Ô Trình Hầu. Thời điểm chư hầu Quan Đông khởi binh, Tôn Kiên cũng từ Hồ Nam bắc tiến, hội sư với Viên Thuật tại Lỗ Dương.
"18 lộ chư hầu" cất quân bao vây Lạc Dương, song thực tế mỗi bên đều e ngại Đổng Trác và tính toán bảo toàn thực lực nên không có bên nào tiến quân, mà tất cả đều giữ thái độ "quan sát".
Chỉ có quân đội của Tào Tháo, Tôn Kiên và Vương Khuông từng giao chiến với Đổng Trác.
Tôn Kiên bị tướng Đổng Trác là Từ Vinh tấn công ở phía đông huyện Lương, Kiên cùng mấy chục kỵ binh đột phá vòng vây.
Khi ấy, trên đầu Tôn Kiên thắt chiếc khăn màu đỏ, ông sợ bị quân địch nhận ra nên đưa khăn cho tướng thân tín là Tổ Mậu.
Tổ Mậu "đóng thế" cho Tôn Kiên, dẫn dụ quân Đổng Trác đuổi theo, Tôn Kiên mới thoát nạn.
Sự việc trên được tác giả La Quán Trung "biến tấu" trong tiểu thuyết "Tam Quốc diễn nghĩa", rằng tướng Đổng Trác tập kích Tôn Kiên là Hoa Hùng, và chính Hoa Hùng chém đầu Tổ Mậu.
Lịch sử Trung Quốc cho thấy, ở chiến dịch tiếp theo - chiến dịch Dương Nhân, Hoa Hùng mới xuất trận và cũng bị chém đầu trong trận đánh này.
Trong chiến dịch này, Tôn Kiên tập trung tàn binh đóng tại Dương Nhân ở phía tây huyện Lương. Đổng Trác phái Lữ Bố, Hoa Hùng, Hồ Chẩn tấn công Kiên.
Lữu Bố bất hòa với Hồ Chẩn, trong khi Chẩn là chủ soái, cho nên Bố cố ý gây rối trong quân, tạo tâm lý hoang mang, khiến sỹ tốt phe Đổng Trác mất tinh thần.
Trước sự tập kích của Tôn Kiên, 3 tướng Lữ - Hồ - Hoa thua chạy. Hoa Hùng bị Tôn Kiên chém đầu.
Trên thực tế, Hoa Hùng không có thành tích quân sự đáng kể. "Tam Quốc diễn nghĩa" đã cường điệu tài năng của viên tướng này. Chiến công chém 2 tướng Du Thiệp, Phan Phụng cũng chỉ là hư cấu.
Có nhiều bình luận cho rằng, "Tam Quốc diễn nghĩa" đề cao hình ảnh Hoa Hùng, mục đích không ngoài "tô điểm" cho sự lợi hại của Quan Vân Trường.
Tôn Kiên vốn là tác giả chiến công trảm Hoa Hùng, song tiểu thuyết hư cấu lại "tặng" công lao của Kiên cho Quan Vũ, quả thực là một sự bất công đối với danh tướng Giang Đông.
Bất chấp thực tế lịch sử, người đọc Tam Quốc vẫn biết đến Quan Vân Trường nhiều hơn với "càn khôn đệ nhất công" trảm Hoa Hùng:
Uy chấn càn khôn đệ nhất công,
Viên môn họa cổ hưởng đông đông.
Vân Trường đình trản thi anh dũng,
Tửu thượng ôn thời trảm Hoa Hùng.
theo Trí Thức Trẻ
n đoán ban đầu thay đổi, có khả năng dẫn đến sai sót.
Đứng bên ngoài căn nhà đoán định tất cả các vị trí, tưởng tượng khả năng bố cục trong nhà. Căn cứ vào thế vận và bát quái để đoán định những vấn đề gì sẽ phát sinh, sau đó nghĩ cách giải quyết những vấn đề có khả năng phát sinh đó. Lúc này, thầy phong thuỷ mới bước vào nhà để kiểm chứng những suy đoán của mình vừa nãy có chính xác không. Tiếp đó, nói hết tình hình cho gia chủ, cố gắng tránh suy nghĩ trong nhà vì từ trường của ngôi nhà sẽ làm nhiễu loạn, ảnh hưởng đến tính chính xác của sự phán đoán.
Nếu thầy phong thuỷ đứng ở vị trí Ngũ Hoàng sát của căn nhà để giảng giải phong thuỷ cho khách hàng thì những điều ông ta nói ra không phải là phong thuỷ tốt nhất. Ngược lại, nếu ông ta chỉ đứng ở vị trí cát tinh giảng giải cho khách hàng thì cũng không chính xác lắm, khả năng ảnh hưởng của cát tinh mà báo chuyện vui chứ không báo điềm xấu. Vì thế, trong quá trình giảng giải, thầy phong thuỷ phải đi quan sát toàn bộ vị trí trong nhà và đưa ra những kết luận mà mình quan sát được cho chủ nhà biết.
Tóm lại, khi xem phong thuỷ cho một căn nhà nào đó, nhất định phải đứng ở bên ngoài quan sát kỹ một khoảng thời gian. Sau khi đã có suy đoán thì mới vào trong nhà quan sát để kiểm tra xem suy đoán đó chính xác hay không rồi nói cho chủ nhà biết để tránh phong thủy, từ trường của căn nhà làm nhiễu loạn, mà từ đó đưa ra những suy đoán thiếu tính chính xác.
1. Nam tuổi Tý và nữ tuổi Ngọ
Chàng trai tuổi Tý thận trọng, thích giảng đạo lý và tuân theo những nguyên tắc nhất định. Trong khi đó, cô nàng tuổi Ngọ lại thích tự do bay nhảy và làm lãnh đạo.
![]() |
Nếu cặp đôi này bên nhau, họ không thể tránh khỏi mâu thuẫn. Đặc biệt, sau khi kết hôn, cả hai đều cảm thấy áp lực và khó chịu với đối phương. Chuyện đứt gánh giữa đường là điều khó tránh khỏi.
2. Nam tuổi Sửu và nữ tuổi Mùi
Con trai tuổi Sửu tính khí nóng lạnh thất thường, chỉ cần chút tác động nhỏ là tâm trạng đã biến đổi 180 độ. Họ cuồng nhiệt, phá cách và thích những điều mới lạ, bất ngờ. Ngược lại, con gái tuổi Mùi đa sầu đa cảm, mong muốn đối phương mang lại cảm giác an toàn tuyệt đối cho mình.
![]() |
Khi mới bắt đầu yêu, hai tính cách trái chiều này có vẻ “hút” nhau mạnh. Tuy nhiên, theo thời gian, đặc biệt là sau khi kết hôn, tình cảm đôi bên đều phai mờ vì cho rằng hai tính cách quá khác biệt.
3. Nam tuổi Dần và nữ tuổi Thân
Chàng trai tuổi Dần nóng tính, bướng bỉnh, không thích bị áp đặt hay ràng buộc và đặc biệt kém lãng mạn. Cô gái tuổi Thân lại thích nghe những lời đường mật, muốn người khác cưng chiều và mang lại nhiều lãng mạn thú vị cho mình.
![]() |
Có thể nói, đây là cặp đôi oan gia, gặp nhau là nảy sinh mâu thuẫn nếu không ai chịu nhường nhịn. Khi đã kết hôn thì cuộc hôn nhân đó thực sự biến thành thảm họa cho cả đôi bên.
Xem tiếp
Mr.Bull (theo Dyxz)
Tùy từng hoàn cảnh gia đình mà dọn dần, trước hết cần xác định tổng thể thứ tự việc cần làm. Luôn nhớ là lau dọn từ tầng trên xuống tầng dưới, từ cao xuống thấp, từ trong ra ngoài. Nếu ít người thì trước Tết 1 tháng nên bắt đầu dọn dần từng phòng.
- Việc tân trang như sơn bả, quét mạng nhện những nơi tường ẩm ướt hoặc sửa chữa hư hỏng nhẹ của nhà… cần làm trước cả tháng, sau Rằm tháng Chạp sẽ khó thuê người làm.
- Vệ sinh trong nhà trước, để tiết kiệm thời gian, công sức hãy xác định vị trí cần dọn dẹp trước (lau chùi, quét dọn mạng nhện, những vết ố nứt trên tường, xử lý hư hỏng trong nhà…), rồi mới quét dọn tổng thể, lau rửa sàn nhà.
- Nên bọc cẩn thận đồ dễ vỡ, hỏng rồi hãy dọn.
Nhà bếp
Nhà bếp dọn mất nhiều thời gian, hãy tranh thủ từ đầu tháng Chạp và làm dần từng thứ:
- Làm sạch lò vi sóng. Hãy đặt một cốc nước (có thể cho thêm vài lát chanh) và bật lò khoảng 5 phút, hơi nước sẽ làm mềm các mảng bám và chỉ việc lau sạch.
- Tủ lạnh cần vứt bớt thực phẩm quá hạn, đồ để quá lâu. Lau, khử mùi từ ngăn trên cùng xuống dưới bằng nước baking soda, hoặc nước lau tủ lạnh để không để lại mùi. Dùng khăn mềm lau chùi, bàn chải đánh răng làm sạch các vết bẩn ở các khe, kẽ. Lót một lớp khăn giấy vào ngăn rau và cánh tủ lạnh để thấm nước, dịch thực phẩm và lần sau lau dễ hơn.
- Làm sạch chén đĩa bằng cách ngâm dấm ăn, nước cốt chanh vào nước rửa chén sẽ làm sạch lớp dầu mỡ nhanh hơn, chén đĩa sáng đẹp màu hơn.
- Dùng vải hoặc khăn mềm thấm một ít giấm hoặc chanh lau chùi sạch cả chỗ bị cháy, vết bẩn và sạch bóng đồ inox.
- Bồn rửa bát luôn rửa hết bát đĩa, đổ giỏ rác ngay sau khi rửa bát và lau khô sẽ giúp bếp gọn mắt hơn.
- Nên dán lớp nilon trong suốt lên tường chỗ nấu ăn để dầu mỡ bắn ra sẽ bám vào nilon, bẩn thì thay và tường vẫn sạch.
- Nhà tắm, vệ sinh cần vứt bỏ tất cả chai lọ rỗng... Xịt nước tẩy rửa làm sạch bệ xí, bồn rửa, gạch men… Vòi sen quấn vải tẩm dấm, hoặc tháo ra ngâm dấm, hoặc xịt nước tẩy rửa ngâm 20 -30 phút cho các vết bẩn bong ra hãy dùng bàn chải kì cọ.
Phòng khách
- Sau khi quét dọn mạng nhện, làm sạch các vết bẩn ở trần, tường hãy làm sạch gương/cửa kính để căn nhà sáng sủa hơn. Không cần tốn kém với các loại nước tẩy rửa, khăn khô, khăn ướt… Có thể dùng giấm và báo cũ để lau gương kính sáng bóng.
- Sau đó làm sạch sofa, salon và các vật dụng nhỏ trong phòng.
Nơi thờ tự
Nơi thờ tự cần lau dọn cẩn thận và nên để giáp Tết hãy làm. Hãy vệ sinh trần nơi thờ tự trước, rồi hãy bao sái (lau dọn) đồ thờ sẽ tránh được ướt át hoặc làm bụi bẩn bám lại vào đồ đã lau. Phải dùng nước sạch để lau, không nên lạm dụng nước tẩy rửa. Nên dùng nước lá thơm lau đồ thờ cúng (bát hương, bài vị…).
![]() |
![]() |
► Xem thêm: Bí mật 12 cung hoàng đạo cùng những tin tức Horoscope được cập nhật mới nhất |
► Lịch ngày tốt gửi tới bạn đọc công cụ xem tướng và xem bói tử vi để biết tính cách, số mệnh của mình |
![]() |
Ảnh minh họa |
Trong tử vi Tân Mão là con mèo ăn mầm đậu, là người vui vẻ, thích kết giao bạn bè, bẩm tính trung hậu, trọng chữ tín.
Tùng bách Mộc cao vút tầng mây che phủ mặt đất, gió lay động như tấu lên một khúc nhạc, hiên ngang trong gió mưa. Mộc này tàng ẩn dưới Kim, vị trí ở Chính Đông,là cực vượng.
Thích núi làm gốc, Thủy đến tưới tắm, do đó ưa gặp Đinh Sửu Giản hạ Thủy, Bính Ngọ, Đinh Mùi Thiên hà Thủy, không ưa Bính Tý Giản hạ Thủy, do Tý Mão phạm hình. Gặp Ất Mão Đại khê Thủy có thể phát đạt, không ưa Mậu Tý, Kỷ Sửu Tích lịch Hỏa, chủ đoản thọ.
Nạp âm ưa Mậu Tuất, Kỷ Hợi Bình địa Mộc, lại thêm Bính Tuất, Đinh Hợi ôc thượng Thổ, tất thành lương đống.
Nạp âm kỵ nhất có Hỏa.
Phàm Bính Thân, Đinh Dậu Sơn hạ Hỏa; Giáp Tuất, Ất Hợi Sơn đầu Hỏa; Giáp Thìn, Ất Tỵ Phúc đăng Hỏa; Mậu Ngọ, Kỷ Mùi Thiên thượng Hỏa đều không được phạm.
Không ưa Mậu Thân, Kỷ Dậu Đại dịch Thổ, chủ bần cùng yểu mệnh. Nếu lại thêm Nhâm Tuất, Quý Hợi Đại hải Thủy thì càng thêm hung.
Can khác có Đinh, mệnh chủ làm những việc tổn hại đến danh dự.
Người sinh năm này thường thuở nhỏ không ưa học hành thi cử.
Mỗi khi gặp năm mão, Dậu trong nhà không yên ổn. Nếu bản thân tránh được hung họa thì người nhà cũng khó được bình yên.
Bạn đời chớ chọn người sinh năm Bính, Đinh. Nên tìm người sinh năm Giáp, Ât. Trụ khác có Mộc chủ cuối đời chán nản.
coi là Cấn Quái, phương Tây Nam trong Bát Quái được coi là Khôn Quái, tính chất của chúng là thuộc Thố, còn Quái tướng của nhà tắm là thuộc Thủy. Đem nhà tắm thuộc Thủy đặt trên Cấn Phương và Khôn Phương thuộc Thổ sẽ sinh ra bất lợi thổ khắc Thủy, vì thế đó là đại hung.
Trong phong thủy nhà ở, để nhà tắm không mang lại hung tướng, tốt nhất nên đặt ở hướng Tây Bắc, Đông Nam hoặc phía đông (nhìn từ trung tâm ngôi nhà), đồng thời, cần phải tránh hương tương xung với năm sinh của nam nữ chủ nhà. Nếu nhà tắm ở hướng Bắc hoặc hướng Đông Bắc thì cần chuyển nhà tắm sang phương vị khác, chì cần tránh trung tâm chính Bắc 150 (phạm vi Tý), Đông Bắc lệch về Bắc 150 (phạm vi Sửu) và trung tâm nông Bắc 150 (phạm vi Cấn) là được. Nếu tính toàn bộ nhà vệ sinh đều nằm trên hướng Bắc hoặc Đông Bắc thì chỉ cần đặt bồn cầu lệch đi phương vị đó trên 150 là được. Nếu bồn cầu nằm trong phạm vi này thì chỉ cần dịch chuyển bồn cầu là được, không cẩn phải cải tạo là nhà tắm.
Ngoài hướng Bắc và hướng Đông Bắc ra, nhà tắm nằm trên hướng Tây Nam cùng thuộc hung tướng. Nếu cần dịch chuyển thì chỉ có thể dịch chuyển sang hướng Tây hoặc Tây Bắc. Nhà tắm nằm ở hướng Tây cũng không tốt, song chỉ cần trong nhà không có người sinh năm Dậu thì không cần phải lo lắng. Để thiết kế vẹn toàn, có thể đặt bồn cầu ở hướng Tây Bắc, cũng không nên đặt nhà vệ sinh ở hướng Nam, tốt nhất chuyển sang phương vị Đông, Đông Nam, Tây Bắc, bởi vì hướng Nam là phương vị sáng sủa, hướng Nam là Ly Quái, Ngũ hành thuộc Hòa, còn nhà tắm Ngũ hành thuộc Thủy, nhà tắm thuộc Thủy đặt ở hướng Nam thuộc Hỏa là nhà tắm đã khắc với Hỏa Địa, vì thế bất cát. Nhà tắm nếu nằm trên phương vị này thì có thể ảnh hưởng đến vận khí.
Còn một điểm nữa cũng vô cùng quan trọng, nhà vệ sinh không nên đặt ờ vị trí trung tâm nhà, nguyên nhân như sau:
Một là, dựa vào phương vị “lạc thư”, trung tâm nhà thuộc Thổ, còn nhà vệ sinh, nhà tắm thuộc Thổ, nếu đem nhà vệ sinh thuộc Thủy đặt vào vị trí trung tâm thuộc thổ thì sẽ xảy ra sự tương khắc, Thổ khắc Thủy. Không những trái với đạo phong Thủy mà còn gây mất thẩm mỹ, không tạo được ấn tượng.
Hai là, nhà tắm, nhà vệ sinh đặt ở vị trí trung tâm nhà ở thì việc cấp nước và xả nước đều phải đi thông qua các phòng khác nên việc sửa chữa là vô cùng khó khăn. Nếu đường ống xả nước thải cũng đi qua các phòng khác vậy thì càng bất cát.
Ba là, trung tâm nhà cũng như trái tim con người vậy, vô cùng quan trọng, tim tạng mà tăng ô nạp uế thì còn được gọi là “cát trạch” nữa không?
Ngoài ra, dịch chuyển vị trí nhà vệ sinh tuyệt đối không được xây nó sát với thần đàn (nơi thờ cúng), nếu không thì sẽ bị biến thành hung tướng.
Tử vi trong đời sống người Việt
Trước hết, cần phân biệt giữa tử vi Đông phương và tử vi Tây phương, vì có gần nhau về mặt tên gọi (cùng là tử vi) nhưng chúng khác nhau khá nhiều về mặt bản chất. Tử vi Tây phương (theo tiếng Anh là Horoscope) có phần đơn giản hơn khi xét về cơ sở luận đoán vì chỉ gồm 12 chòm sao tương ứng với 12 cung Hoàng Đạo (như Bảo Bình, Song Ngư, Xứ Nữ...). Về mặt này rõ ràng có liên quan nhiều đến Thiên văn học. Còn tử vi Đông phương có phần phức tạp hơn khi có nhiều bộ sao ảnh hưởng (trên dưới 100 sao) với nhiều nguyên tắc sắp xếp bố trí và giải đoán khá tinh vi. Tuy nhiên ý nghĩa thiên văn học trong nó có phần không còn đầy đủ, rõ ràng, nhiều bộ sao chỉ còn mang tính chất tượng trưng. Thay vào đó những lý luận ứng dụng về các nguyên tắc Âm Dương Ngũ hành lại trở nên khá quan trọng.
Bài viết này chủ yếu tìm hiểu về tử vi Phương đông, mà cụ thể là bắt nguồn từ Trung Quốc, đã phát triển từ rất lâu đời, được tương truyền là do Trần Đoàn một đạo sĩ thời nhà Tống của Trung Quốc là người đầu tiên xây dựng nên. Cho đến nay vẫn là một đề tài quen thuộc đối với nhiều người dân Việt Nam và Trung Quốc. Thậm chí ở nước ta, môn tử vi lại còn được phát triển rộng rãi hơn ở Trung Quốc. Trong khi đó, đất nước Đông Á này có phần chuộng tứ trụ, tử binh – những môn cũng gần gũi với tử vi hơn.
Ngày trước, bác học Lê Quý Đôn cũng từng nghiên cứu về tử vi và đến nay, vẫn còn có nhiều học giả tiếp tục nghiên cứu và tiếp tục bổ sung vào kho tàng kinh nghiệm làm ăn cho nó ngày càng trở nên phong phú, hấp dẫn.
Môn tử vi đã đi sâu vào đời sống người Việt, khá quen biết và thân thuộc đến mức độ có người đã đồng nghĩa tử vi với việc xem bói nói chung. Tuy nhiên, cũng có nhiều người phân biệt rành rẽ với các môn bói toán khác vì cho rằng tử vi đáng tin và có vẻ khoa học hơn. Thực sự nếu nhìn nhận một cách khách quan, thì các kết quả nhận định về con người, đời người của tử vi hoàn toàn không phải là theo cảm tính mà là tuân thủ theo những nguyên tắc và hệ thống lý luận riêng. Cho dù vẫn còn có những tranh cãi và có một số trường phái với một vài quan điểm chưa thống nhất nhưng tử vi đã có những nguyên tắc và hệ thống lý luận tương đối chặt chẽ, dễ hiểu và có khả năng kiểm chứng. Như vậy, có thể xếp tử vi vào một ngành khoa học thuộc nhánh dự đoán học, hay dự trắc học, cụ thể hơn là nhân trắc học, vì tử vi thuần túy chỉ dự đoán về các khía cạnh của mỗi cá nhân.
Lá số tử vi và số phận con người
Một điều dễ nhận thấy để phân biệt tử vi với các môn dự đoán khác như: bốc dịch, xem tướng, chỉ tay... là tử vi chỉ phụ thuộc vào 5 yếu tố cơ bản: năm, tháng, ngày, giờ sinh và giới tính.
Cùng dựa trên 5 yếu tố này còn có các môn khác như: tứ trụ, bát tự Hà Lạc... Tuy nhiên, điểm đặc biệt của tử vi là đã được phát triển theo hướng mã hóa sâu sắc các dữ liệu về ngày giờ sinh vào các sao (ngôi sao).
Có khoảng trên dưới 100 sao trong môn tử vi, theo một quy luật nhất định các sao này được bố trí, sắp xếp vào 12 ô (thường được gọi là 12 cung) trong một cái bảng gọi là lá số tử vi. 12 cung trong lá số tử vi có tên gọi như sau: Mệnh, Phụ mẫu, Phúc đức, Điền trạch, Quan lộc, Nô bộc, Thiên di, Tật ách, Tài bạch, Tử tức, Phu thê, Huynh đệ. Tương ứng theo tên gọi, mỗi cung mô tả về vấn đề có liên quan, như cung Phu thê mô tả về tình duyên đôi lứa, cung Điền trạch mô tả về nhà cửa đất đai. Các sao trong mỗi cung này đều được quy định cho các đặc tính nhất định như phúc đức, tài lộc, uy quyền... Dựa vào sự bố trí sắp xếp của chúng trên lá số mà chúng ta có thể đưa ra những lời bình giải, nhận định về đặc điểm cuộc đời của con người đó như: phúc thọ, tài năng, tính cách...
Như vậy có thể thấy rằng, tử vi quả có tham vọng muốn mô tả khá toàn diện các khía cạnh trong cuộc đời của mỗi con người: tướng mạo, phong cách, cá tính, khả năng, thiên hướng, các mối quan hệ gia đình lúc nhỏ như cha mẹ, anh chị em, công danh sự nghiệp, tình duyên gia đạo, tài sản, đất đai, tiền tài... Tóm lại từ lúc mới sinh ra cất tiếng khóc chào đời cho đến khi nhắm mắt về với ông bà tổ tiên.
Ở đây lại thấy xuất hiện vấn đề liên quan đến số mệnh, định mệnh, vận mệnh liệu con người ta có số phận không. Riêng vấn đề này đã gây ra không biết bao nhiêu cuộc tranh luận liên quan đến rất nhiều ngành khoa học khác và vẫn chưa có hồi kết thúc. Cho nên điều quan trọng lại là vấn đề chúng ta nhìn nhận về số phận như thế nào. Có một điều mà ai cũng thấy rằng nếu coi số phận là cái đã định sẵn, chẳng hạn nếu đã có số giàu nên ta ngồi yên không cần làm ăn gì cả thì thật vô lý và nguy hiểm. Vậy nên Không Tử mới nhận định rằng: Tận Nhân lực, tri Thiên mệnh - chỉ khi nào cố gắng, con người mới khám phá ra thực sự mệnh của mình là như thế nào.
Vậy, tử vi có đáng tin cậy hay không? Câu hỏi thật ngắn nhưng nếu chỉ trả lời một chữ “có” hoặc “không” thì e rằng chưa đủ. Điều quan trọng là chúng ta nên nhìn nhận tử vi như thế nào cho đúng với thực chất của nó. Thêm vào đó, nếu có một cái nhìn đúng đắn, khách quan cũng góp phần tránh mê tín dị đoan, hoặc việc lợi dụng tử vi vào việc bói toán nhảm nhí.
Tử vi - một công cụ của môn khoa học dự đoán
Trước hết tử vi cũng chỉ là một trong những môn khoa học về dự đoán. Mà đã là dự đoán, lấy ví dụ như dự báo thời tiết không phải lúc nào cũng có thể nói chuyện nắng mưa chính xác tuyệt đối được. Vì vậy tử vi cũng có xác suất đúng sai nhất định, được đa số người trong ngành nhận xét là rơi vào khoảng 70 – 75%. Cho dù dựa trên nền tảng là lý thuyết về Âm Dương Ngũ hành cũng như những nguyên tắc riêng, tử vi cũng vẫn dựa trên rất nhiều kinh nghiệm qua ngàn đời, đúc kết từ việc xem xét đánh giá của số lượng khổng lồ không biết bao nhiêu lá số của bao nhiêu con người qua nhiều thế hệ. Lại không ngừng được bổ sung tổng kết qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử, trong các hoàn cảnh xã hội, môi trường biến động theo cuộc sống.
Đôi khi chúng ta thấy một số vấn đề trong cuộc sống được những người am hiểu về tử vi nói ra rất đúng. Thực sự điều này cũng không có gì quá ngạc nhiên hay huyền bí. Đơn giản là vì sau một thời gian dài nghiên cứu, tổng kết từ hàng loạt lá số, đó là một số đặc điểm tương tự nhau của những người có cùng năm tháng hoặc ngày giờ sinh. Và ngược lại vẫn có những điều mà nhận định của tử vi không đúng, hoặc đúng với người này mà không đúng với người khác. Điều này cũng là hiển nhiên, rõ ràng ta có thể thấy hai người có cùng ngày giờ sinh, thậm chí là hai người sinh đôi vẫn có thể có nhiều điểm khác nhau, kể cả về nét mặt, tính cách...
Để ý về các yếu tố hình thành nên lá số tử vi, bao gồm chỉ vào 5 yếu tố: năm, tháng, ngày, giờ sinh và giới tính. Vậy một cách đơn giản có thể tính được toàn bộ số lượng lá số khả dĩ có thể lập được. Theo các nhà tử vi học, nó rơi vào khoảng trên 500.000 lá số. Với dân số Việt Nam khoảng 86 triệu người, ta có thể tính trung bình cứ khoảng 170 người sẽ có lá số giống nhau. Như vậy thật khó tin với một dự đoán chẳng hạn như 170 người này đều làm nghề... bán thịt lợn. Tuy nhiên, có thể tạm chấp nhận với dự đoán là họ đều có khả năng bán hàng.
Một điều nữa chúng ta cũng dễ dàng nhận ra, một số người tuy có ngày giờ sinh giống nhau nhưng không giống nhau về bố mẹ, ông bà, anh chị em, cũng không giống nhau về nội dung môi trường, hoàn cảnh sinh sống, nên có những ảnh hưởng khác nhau tạo thành những đặc điểm khác nhau. Do đó, họ không thể hoàn toàn giống nhau được. Đây là chưa kể đến việc nhận định một lá số tử vi cũng đòi hỏi một khả năng, kinh nghiệm và bản lĩnh nhất định, không phải ai cũng bình luận giống ai.
Như vậy, trong lúc những nhà nghiên cứu về tử vi cũng như các môn khoa học dự đoán nói chung còn đang tiếp tục hoàn thiện lý thuyết của mình để đưa ra những khuyến cáo mới, chúng ta nên nhìn nhận tử vi như một công cụ dự đoán. Cho dù những lời bình giải của nó có chỉ ra điều gì, cũng cần bình tĩnh nhận xét khách quan, chiêm nghiệm với thực tế, chỉ tin vào những gì thực sự đúng. Các kết quả của tử vi đưa ra không thể là một việc bắt buộc phải xảy ra, nên xem rằng nó chỉ mang tính chất cảnh báo. Điều này tương tự như những nghiên cứu về ảnh hưởng và hành vi con người trong những ngày trăng rằm cho thấy người ta có xu hướng dễ trở nên nóng giận, khó kiềm chế. Hay khi đi trên những đoạn đường cao tốc, đôi khi chúng ta có thể bắt gặp những cảnh báo về nguy cơ tai nạn tiềm ẩn nhưng không rõ nguyên nhân cụ thể chỉ biết rằng đoạn đường đó có mật độ tai nạn giao thông cao bất thường.
Một quan điểm hết sức thực tế, thay vì chỉ muốn biết số mình sau này sướng hay khổ, chúng ta nên quan tâm đến việc liệu tử vi giúp ta nâng cao chất lượng cuộc sống như thế nào. Hay ít nhất để cho nó trở thành một phương pháp thư giãn, giải trí làm cho tâm hồn ta rộng mở, cảm thấy yên tâm, thư thái hơn. Hãy tưởng tượng vào một ngày nào đó bạn có dịp gặp gỡ, đàm đạo với một người am hiểu tử vi chân chính. Nếu như cái mà bạn nhận được sau đó là giải tỏa được bức xúc, lấy lại cân bằng trong cuộc sống, thêm tự tin để vượt qua thử thách thì bạn đã là người ứng dụng tử vi một cách thông minh.
Theo Nguyễn Quang