Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Những bài thơ chúc Tết hay nhất cho các bé

Tết đến xuân về là thời khắc mọi người quây quần bên nhau, bên cạnh những phong bao lì xì là những bài thơ chúc tết mà các bé chúc ông bà, cô bác. Với những bài thơ ngắn, âm điệu hài hòa dễ đọc dễ nhớ, các bậc bố mẹ nên dạy cho con cháu trong gia đình.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết đến xuân về là thời khắc mọi người quây quần bên nhau, bên cạnh những phong bao lì xì là những bài thơ chúc tết mà các bé chúc ông bà, cô bác. Các bạn cùng tham khảo để dạy cho con em của mình nhé.

Dưới đây là những bài thơ chúc tết hay nhất mà Phong thủy số tổng hợp được từ nhiều nguồn. Với những bài thơ ngắn, âm điệu hài hòa dễ đọc dễ nhớ, các bậc bố mẹ nên dạy cho con cháu trong gia đình. Vừa giúp bé thể hiện được mình, tạo điều kiện cho các bé tiếp xúc nhiều hơn với mọi người, biết ơn người lớn tuổi.

Xem thêm:

+ Xem tử vi 2017 nói gì về bạn

+ Xem tuổi xông đất hợp với gia chủ

Bài thơ chúc tết số 1:

Những bài thơ chúc Tết hay nhất cho các bé

 

Bài thơ chúc tết số 2:

Những bài thơ chúc Tết hay nhất cho các bé 


Thơ chúc Tết ông bà, bố mẹ người thân

Những bài thơ chúc Tết hay nhất cho các bé



Thơ chúc Tết: Bình an – an khang – tài lôc – vinh quang

Những bài thơ chúc Tết hay nhất cho các bé


Năm mới đang tới gần hơn bao giờ hết, hãy dành tặng ông bà hay những người thân yêu của bạn những lời chúc tết ý nghĩa này nhé. Ngoài ra, hay cùng với bé nhà bạn tìm hiểu về Nguồn gốc tết cổ truyền Việt Nam cũng như các phong tục ngày Tết.

 

: Những lời chúc năm mới hay Thơ chúcTết người yêu Thơ chúc xuân hay Tết 2017 Những lời chúc mừng năm mới hay Những câu chúc mừng năm mới
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những bài thơ chúc Tết hay nhất cho các bé

Tương lai tốt đẹp khi mệnh có Thiên Mã

Sao Thiên Mã là một trong những sao di động trong tử vi, có ảnh hưởng tốt xấu tới vận mệnh của một người tùy theo hướng di chuyển và kết hợp với các sao khác.
Tương lai tốt đẹp khi mệnh có Thiên Mã

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Thiên Mã là một trong những sao di động trong tử vi, có ảnh hưởng tốt xấu tới vận mệnh của một người tùy theo hướng di chuyển và kết hợp với các sao khác.


Tuong lai tot dep khi menh co Thien Ma hinh anh
 
Cách xác định sao Thiên Mã theo hàng chi của tuổi:
 
Tuổi Dần Ngọ Tuất, Thiên Mã tại Thân.
 
Tuổi Tị, Dậu, Sửu, Thiên Mã tại Hợi.
 
Tuổi Thân Tý Thìn, Thiên Mã tại Dần.
 
Tuổi Hợi, Mão, Mùi, Thiên Mã tại Tỵ.
 
Những cách tốt:


– Mã Tử Phủ đồng cung: tài giỏi, giàu sang, phúc thọ song toàn; gặp thời vận.
 
– Mã Nhật Nguyệt sáng sủa: gọi là cách Thư hùng mã, chủ việc gặp vận hội tốt, công danh tiến đạt, suông sẻ.
 
– Mã Lộc Tồn đồng cung hoặc Tồn hay Lộc chiếu: chủ sự hanh thông về quan trường, tài lộc, thường thì đây là cách thương gia đắc tài đắc lộc.
 
– Mã Hỏa hay Linh đồng cung: đắc địa thì chủ về quân sự, binh quyền hiển đạt. Nếu hãm địa thì bôn ba, chật vật, có thể bị thương tích.
 
– Mã Khốc Khách: chỉ sự thao lược, chinh chiến dũng mãnh, lập công lớn, hay gặp thời vận may mắn.
 
– Mã, Tướng: làm nên vinh hiển
 
– Mã và Lưu Mã: thăng quan tiến chức; thêm tài lộc, huy chương; có xuất ngoại, hay thay đổi chỗ ở, chỗ làm.
 
Những cách xấu:

– Mã, Hình đồng cung : chỉ sự tai họa khủng khiếp, có thể chết thê thảm (Phù Thi mã – ngựa mang xác chết).
 
– Mã Tuyệt đồng cung hay hội chiếu (Chiết Túc mã – ngựa què): suy bại, ngăn trở trong mọi công việc, gây tai họa.
 
– Mã, Tuần, Triệt (Tử Mã): rất hung hãn, gây tai họa, bại hoại, chết chóc, thương tích tay chân.
 
– Mã ở Hợi (Mã cùng đường – ngựa bí lối): như Mã Tuyệt.
 
Người có sao Thiên Mã đóng ở mệnh là người đa tài, có khả năng trong nhiều lĩnh vực, lại tháo vác, bén chạy, may mắn. Nếu là học trò thì giỏi nhiều môn, nếu là công chức thì đa năng, đa hiệu, đa nhiệm, nếu là nội trợ thì tề gia quán xuyến một mình. Vì vậy, Thiên Mã là sao rất quý cho công danh, nghề nghiệp, bất luận ngành nào, nhất là khi đắc địa ở Mệnh, Thân, Quan, tại các cung Dần và Tỵ. Thiên Mã ở Thân thì kém, ở Hợi thì xấu, vì khắc với hành Hỏa.
 
Thiên Mã ở cung Phụ Mẫu Cha mẹ là người có tiếng, có tài. Thiên Mã, Đà La thì cha mẹ bôn ba, vất vả, thường sống xa cách nhau hoặc xung đột, nếu không thì cha mẹ cũng hay bị vận hạn, bôn ba.
 
Thiên Mã ở cung Phúc Đức Được hưởng phúc, nhưng phải đi xa quê hương bản quán.

Thiên Mã ở cung Điền Trạch Tạo dựng nhà cửa dễ dàng, nhiều nơi chốn, càng xa quê hương càng tốt.
 
Thiên Mã ở cung Quan Lộc Thường xuất ngoại, hay đi du lịch, làm việc lưu động hoặc làm công vụ ở ngoại quốc.

Thiên Mã ở cung Nô Bộc Thiên Mã ở Nô Bộc nếu gặp nhiều sao tốt thì bè bạn, người giúp việc đắc lực, gặp nhiều sao xấu như Tuần, Triệt, Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ, Linh Tinh, Hỏa Tinh, thì bè bạn, người giúp việc tốt xấu lẫn lộn. Tuy vậy, vẫn có người giúp, nhưng hay gặp điều hung họa, cũng có quý nhân giúp đỡ, nhưng mình phải làm việc cật lực, và chính mình cũng giúp đỡ người khác, đi đâu cũng có bạn bè.
 
Thiên Mã ở cung Thiên Di Thường xuất ngoại, hay đi du lịch, làm việc lưu động. Làm công vụ ở ngoại quốc.
 
Thiên Mã ở cung Tật Ách Giải trừ được bệnh tật, có sức khỏe, nhưng nếu có thêm các sao Tuần, Triệt, Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Hình, Thiên Riêu, Linh Tinh, Hỏa Tinh phải coi chừng về tai nạn xe cộ, phi cơ, sông nước, đâm chém, mổ xẻ, hậu vận về già dễ có tai nạn khiến phải ngồi tại chỗ, tù tội, nhẹ nhất là chân tay có thương tật. 
 
Thiên Mã ở cung Tài Bạch Bôn ba mà tạo dựng được tiền bạc. Có năng lực kiếm tiền.
 
Thiên Mã ở cung Tử Tức
Con cái có năng lực, nhưng không được ở gần cha mẹ.

Thiên Mã ở cung Phu Thê Vợ chồng gặp nhau ở xa quê quán. Có thể có vợ hay chồng ngoại quốc. Thường cưới hỏi nhau rất nhanh.
 
Thiên Mã ở cung Huynh Đệ Anh chị em có người đi xa. Anh chị em sống xa cách nhau, mỗi người một nơi.
► Xem tử vi vận mệnh, tài lộc của bạn qua việc tự xem chỉ tay

ST

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tương lai tốt đẹp khi mệnh có Thiên Mã

Buông bỏ lòng ghen tị chỉ với 4 điều đơn giản Phật dạy

Tật ghen tị là một tính xấu, như con rắn luồn vào, bóp nghẹt trái tim con người. Muốn sống bình tâm, hãy nghe lời Phật dạy cách xóa bỏ lòng ghen tị.
Buông bỏ lòng ghen tị chỉ với 4 điều đơn giản Phật dạy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Buong bo long ghen ti chi voi 4 dieu don gian Phat day hinh anh
 
Ghen tị xuất phát từ sự cố chấp của bản thân, tự so sánh bản thân mình với người khác, thấy không bằng mà sinh lòng đố kị, xấu hổ, phẫn nộ, oán hận. Tâm này không những làm khổ mình, mà còn là ngiồn cơn thúc đẩy ta hãm hại người khác để thỏa mãn lòng hư vinh.
 
Biểu hiện của lòng ghen tị thấp nhất là khẩu nghiệp, nói điều sai quấy về người khác. Nặng hơn là biến thành oán khí, sân hận, hành động gây tổn hại tới người khác. Phật dạy cách xóa bỏ lòng ghen tị để thân tâm an lạc, nhận ra giá trị của bản thân và cố gắng nhiều hơn trong cuộc sống.
 
Nếu có lòng ghen tị, sẽ mắc phải những sai lầm rất đáng tiếc dưới đây:
 
1. Tạo ra nghiệp ác, vì thấy người có mà mình không có, nên tạo ra những việc trái với luân thường đạo lý để có cái của người, hoặc hại người mà đoạt lấy cái mình thích.
 
2. Không phát hiện ra khuyết điểm của bản thân, vì chỉ chăm chăm thấy thành tựu của người khác, suy bì với người khác mà không tự soi rọi bản thân xem tại sao mình chưa đạt được thành tựu đó, rút kinh nghiệm mà cố gắng.
 
3. Mất đi bạn bè, người hay ghen tị không được hoan nghênh, không thật lòng đối đãi với người khác nên bạn bè cũng dần mất đi.
 
4. Phá hoại bồ đề tâm, những thiện nghiệp công đức đã gây dựng đều bị mất, tâm tình lúc nào cũng bồn chồn, không thoải mái, không yên ổn, nguy hại tới sức khỏe. 
 
Để chuyển biến thói xấu, 4 phương pháp từ bỏ lòng ghen tị theo lời Phật dưới đây, hãy thực hành hàng ngày.
 
1. Nhận thức tâm ghen tị là nguy hại, nhất định không làm theo.
 
2. Quý trọng bản thân, tự hào vì những gì mình đã đạt được và đang cố gắng để đạt được. Mỗi người có một phúc báo riêng, chỉ có tự mình chân chính làm nên mới là bền vững nhất.
 
3. Tập thói quen tùy hỉ công đức, học cách khen ngợi người khác, công nhận thành tựu của người khác. 
 
4. Quan trọng nhất là giữ tâm thanh tịnh, một lòng hướng Phật, từ bi hỉ xả thì lòng ghen tự khắc không còn.
► Cùng đọc: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm
T
âm Lan (Theo Ebaifo)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Buông bỏ lòng ghen tị chỉ với 4 điều đơn giản Phật dạy

Lời chúc hay ngày thầy thuốc Việt Nam

Trong ngày thầy thuốc Việt Nam 27/2 dành những lời chúc hay tặng những lương y, thầy thuốc, bác sỹ, y tá... những người làm trong ngành y câu chúc hay nhất
Lời chúc hay ngày thầy thuốc Việt Nam

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhân ngày thầy thuốc Việt Nam 27/2 bạn dành những lời chúc hay và đầy chân tình tặng người vợ, người chồng, người anh chị em, người bạn, người quen làm nghề y thật nhiều ý nghĩa.

Hãy lựa chọn những lời chúc hay sau đây đã được sắp xếp theo từng nhóm đối tượng phù hợp để bạn bày tỏ tấm lòng của mình đối với lương y như từ mẫu, mang tới một ngày thầy thuốc Việt Nam lòng biết ơn và cảm thông với công việc đầy nặng nhọc, trách nhiệm và tình thương sâu sắc của những người làm trong ngành y.

Những lời chúc hay tặng bạn gái trong ngành y nhân ngày thầy thuốc Việt Nam

Nhân ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/2, anh chúc cô gái của anh một ngày nhiều niềm vui, nhiều ý nghĩa, nhiều sức khỏe để theo đuổi ước mơ của mình.

—–

Lương y như từ mẫu. Thầy thuốc như mẹ hiền. Nghề thầy thuốc là một sứ mạng thiêng liêng cao cả, của lòng nhân ái. Chúc em yêu của anh luôn mạnh khỏe. Say với nghề! Giỏi với nghề!

—–

Nhân ngày Thầy thuốc Việt Nam xin gửi lời chúc tốt đẹp nhất và mong emluôn khỏe mạnh để mang lại hạnh phúc cho nhiều người hơn nữa.

Hôm nay là ngày Thầy thuốc Việt Nam. Anh chúc em một ngày nhiều tình yêu. Chúc em vui khoẻ, hạnh phúc, cống hiến hết mình vì sự nghiệp chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, vì sự nghiệp mà em đam mê, theo đuổi.

Nhân ngày thầy thuốc Việt Nam, anh chúc em luôn mạnh khỏe, hạnh phúc,thành công trong sự nghiệp và giữ mãi tâm sáng người thầy thuốc.

Mong rằng ngày nào cũng là một ngày đầy ý nghĩa với các thầy thuốc, như ngày hôm nay! Mong rằng các thầy thuốc luôn là biểu tượng của sự tin cậy, niềm hy vọng và sức khỏe! Chúc riêng vợ của anh luôn công tác tốt, vững tay nghề.

Chúc vợ của anh một ngày thật ý nghĩa, nhiều niềm vui, chúc em luôn vững tâm theo con đường mà em chọn lựa. Yêu em!

Nhân ngày Thầy thuốc Việt Nam, anh chúc bác sĩ của anh luôn mạnh khỏe, công tác tốt, giàu nhiệt huyết.

Chúc mừng thầy thuốc nhé! Chúc anh luôn có sức khỏe dồi dào để phục vụ nhân dân. Và quan trọng nhất là công việc thật nhàn hạ để toàn dân ta khỏe.

Cô gái của anh! Chúc em một ngày nhiều niềm vui, nhiều ý nghĩa. Chúc em luôn vững vàng để theo đuổi sự nghiệp cứu người mà em chọn lựa.

Nhân ngày Thầy thuốc Việt Nam, anh chúc em luôn mạnh khỏe, yêu nghề, cống hiến hết mình vì đam mê anh đã chọn. Chúc em thành công trong sự nghiệp và giữ mãi tâm sáng người thầy thuốc.

Ngày Thầy thuốc Việt Nam, em chúc anh luôn mạnh khỏe, hạnh phúc, thành công trong sự nghiệp và giữ mãi tâm sáng người thầy thuốc.

Chúc bác sĩ của em một ngày lễ ý nghĩa, dồi dào sức khỏe để cứu người. Chúc em yêu công tác tốt, nhiều may mắn.

Nhân ngày Thầy thuốc Việt Nam, anh chúc em luôn khỏe mạnh, công tác tốt, giàu nhiệt huyết để cứu người, cứu đời.

Nhân ngày Thầy thuốc Việt Nam xin gửi lời chúc tốt đẹp nhất và mong em luôn khỏe mạnh để mang lại hạnh phúc cho nhiều người hơn nữa.

Những lời chúc hay tặng bạn trai trong ngành y nhân ngày thầy thuốc Việt Nam

Nhân ngày thầy thuốc Việt Nam, chúc anh nhiều sức khỏe, hạnh phúc và nhiệt huyết để cống hiến cho sự nghiệp chữa bệnh cứu người mà anh chọn lựa.

Lương y như từ mẫu. Thầy thuốc như mẹ hiền. Nghề thầy thuốc là một sứ mạng thiêng liêng cao cả, của lòng nhân ái. Chúc anh yêu của em luôn mạnh khỏe. Say với nghề! Giỏi với nghề!

Nhân ngày Thầy thuốc Việt Nam xin gửi lời chúc tốt đẹp nhất và mong anh luôn khỏe mạnh để mang lại hạnh phúc cho nhiều người hơn nữa.

Hôm nay là ngày Thầy thuốc Việt Nam. Em chúc anh một ngày nhiều tình yêu. Chúc anh vui khoẻ, hạnh phúc, cống hiến hết mình vì sự nghiệp chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, vì sự nghiệp mà anh đam mê, theo đuổi.

Nhân ngày thầy thuốc Việt Nam, em chúc anh luôn mạnh khỏe, hạnh phúc,thành công trong sự nghiệp và giữ mãi tâm sáng người thầy thuốc.

Trắng tinh màu áo Lương y
Trái tim nhân hậu đêm ngày tỏa hương
Giúp người đi tiếp trên đường
Lương y – Từ Mẫu khiêm nhường hành trang
Lá tươi xanh, lá ngả vàng
Vượt qua bạo bệnh thênh thang cuộc đời
Trái tim ươm những nụ cười
Trái tim ngăn giọt lệ rơi não lòng
Trái tim bừng sắc hoa hồng
Trái tim Thầy thuốc mênh mông tình người…

Nhân ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/2, em chúc anh luôn khỏe mạnh, yêu nghề, được ngành y tế tạo điều kiện để công tác tốt – giúp người dân được phòng – chữa bệnh, và luôn nhận được sự kính trọng và hợp tác của người bệnh nói riêng và cộng đồng nói chung.

Nhân ngày Thầy thuốc Việt Nam, em chúc bác sĩ của em luôn mạnh khỏe, công tác tốt, giàu nhiệt huyết.

Chúc mừng thầy thuốc nhé! Chúc anh luôn có sức khỏe dồi dào để phục vụ nhân dân. Và quan trọng nhất là công việc thật nhàn hạ để toàn dân ta khỏe.

Mong rằng ngày nào cũng là một ngày đầy ý nghĩa với các thầy thuốc, như ngày hôm nay! Mong rằng các thầy thuốc luôn là biểu tượng của sự tin cậy, niềm hy vọng và sức khỏe! Chúc anh môt ngày ý nghĩa.

Nhân ngày Thầy thuốc Việt Nam, em chúc anh luôn mạnh khỏe, yêu nghề, cống hiến hết mình vì đam mê anh đã chọn. Chúc anh thành công trong sự nghiệp và giữ mãi tâm sáng người thầy thuốc.

Ngày Thầy thuốc Việt Nam, em chúc anh luôn mạnh khỏe, hạnh phúc,thành công trong sự nghiệp và giữ mãi tâm sáng người thầy thuốc.

Chúc bác sĩ của em một ngày lễ ý nghĩa, dồi dào sức khỏe để cứu người. Chúc anh công tác tốt, nhiều may mắn.

Nhân ngày Thầy thuốc Việt Nam, em chúc anh luôn khỏe mạnh, công tác tốt, giàu nhiệt huyết để cứu người, cứu đời.

Ngày Thầy thuốc Việt Nam, xin gửi đến anh lời chúc sức khỏe, hạnh phúc và gặt hái nhiều thành công mới! Cho dù công tác ở lĩnh vực nào, ở đâu, cương vị gì … cũng luôn tự hào về truyền thống tốt đẹp của ngành, luôn xứng đáng với sự trân trọng và tôn vinh của xã hội “Thầy thuốc như Mẹ hiền”.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lời chúc hay ngày thầy thuốc Việt Nam

Văn phòng của ông chủ nên đặt ở đâu? –

Theo phong thủy, phương vị văn phòng của ông chủ là mấu chốt ảnh hưởng đến tài vận của công ty. Chính vì vậy, ngoài những phong thủy thông thường không được phạm vào, còn cần phải bố trí mệnh cục của ông chủ. Tài vận không tốt, làm ăn không thuận lợ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

i, trì trệ, đầu tiên là mệnh trung nhất định có thông tin này, tiếp đó là phải xem tài vị của văn phòng hay công ty ông chủ có tương thông với vị trí Ngũ hành của phương vị tài vụ hay không. Ông chủ là người đưa ra quyết sách của cả một công ty, cùng là người chủ đạo đối với sự phát triển công ty, phong thủy văn phòng của ông chủ tốt hay không có quan hệ trực tiếp đến sự thành bại hưng thoái của công ty.

img13723290924209483553_e92594fdc3

Vậy thì văn phòng của ông chủ nên đặt ở đâu? Đầu tiên, chúng ta cần kiểm tra hỷ dụng thần trong mệnh của ông chủ ở đâu, tiếp đó phối hợp với vị trí dương vượng của nơi kinh doanh rồi lấy phương thức quần tinh cung nguyệt bố cục văn phòng ông chủ mới là tốt nhất. Chỉ sau khi biết được hỷ dụng thần mệnh cục của ông chủ mới có thể xác định được vị trí văn phòng của ông chủ. Chính vì vậy, trước khi bố trí nhất định phải tìm ra thầy phong thủy chuyên nghiệp để phân tích bố cục. Phong thủy ông chủ mà tốt thì nhà máy, công ty mới có thể thuận buồm xuôi gió, điều này không thể xem nhẹ.

Vật cát tường: Hoa mai ngọc

Ý nghĩa tượng trưng: Thuần khiết, chịu lạnh.

Giải thích: Mai, lá rơi kiêu mộc, chủng loại rất nhiều, chịu lạnh tốt, xuân sớm nở hoa, mùi hương thơm.

Người Trung Quốc xưa cho rằng: Hoa mai “phiêu thiên chất chi chí mỹ, linh lạc hàn nhi độc khai”, là một trong những loài hoa quân tử, cũng là tượng trưng cho nhân cách lý tưởng cao đẹp nhất của văn nhân Trung Quốc xưa. Hoa mai thanh khiết, tinh tuý, không có ai nhìn mà không yêu thích, hoa mai còn được gọi là “thiên hạ ưu vật”, “bang cơ ngọc cốt”, người ta cũng thường ví nó như cô gái ngây thơ, thuần khiết.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn phòng của ông chủ nên đặt ở đâu? –

Tình duyên người tuổi Dậu và người tuổi Mão năm 2014 –

Dậu/Dần - Đòi hỏi quá nhiều công sức Dậu và Dần không hòa hợp, cá tính khác biệt khiến hai con giáp này cảm thấy bất ổn khi ở bên nhau. Xung đột ý chí làm cả hai bực tức và buồn phiền. Gà bé nhỏ hơn, và chắc chắn không có được sức mạnh của Hổ, nhưng
Tình duyên người tuổi Dậu và người tuổi Mão năm 2014 –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình duyên người tuổi Dậu và người tuổi Mão năm 2014 –

Sự tích thần tài (P1)

Sự tích về Thần Tài thì có rất nhiều truyền thuyết, mọi người ai cũng biết. Hiện nay, trong phong tục thờ Thần Tài và cúng Thần Tài vào ngày mùng 10 tháng giêng âm lịch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sự tích về Thần Tài thì có rất nhiều truyền thuyết, mọi người ai cũng biết. Tuy nhiên hiện nay, trong phong tục thờ Thần Tài và cúng Thần Tài vào ngày mùng 10 tháng giêng âm lịch hoặc vào ngày mùng 10 âm lịch hằng tháng, là theo sự tích sau, để các bạn tham khảo:

Chuyện kể rằng dưới trần gian không có Thần Tài, chỉ có Thần Tài trên trời, vị Thần cai quản tiền bạc, tài lộc.

Trong một lần đi chơi uống rượu, Thần Tài say quá nên rơi xuống trần gian, đầu va vào đá nằm mê mệt không biết gì, sáng ra mọi người thấy một người ăn mặc giống như diễn tuồng cải lương thì lấy làm lạ và tưởng bị điên.

sự tích thần tài và ngày vía thần tài mùng 10 tháng Giêng âm lịch

Mọi người cũng lột hết sạch quần áo mũ nón của Thần Tài đem bán, Thần Tài tỉnh dậy không có quần áo trên người và cùng do bị va đầu vào đá nên không nhớ mình là ai.

Thần Tài không biết làm việc dưới trần gian nên thường đi lang thang xin ăn khắp nơi. Có cửa hàng nhà kia kinh doanh buôn bán gà, vịt, heo quay ế ẩm, thấy Thần Tài đến ăn xin thì mời vào ăn.

Thần Tài ăn rất nhiều và rất thích ăn heo vịt quay, kỳ lạ thay từ lúc Thần Tài vào ăn thì khách ăn khác kéo đến nườm nượp, người bán hàng thấy vậy nên ngày nào cũng mời Thần Tài vào ăn.

Khách hàng ở quán đối diện trước nay rất đông khách bỗng dưng chuyển hết qua quán bên này ăn.

Được một thời gian người bán hàng thấy Thần Tài chẳng làm gì mà suốt ngày ăn uống đồ ăn ngon, lại toàn dùng tay ăn bốc, người thì bốc mùi, lang thang không tắm giặt.

Nghĩ Thần Tài sẽ làm khách sợ không dám đến ăn và hao phí đồ ăn cho người ăn mày nên người bán hàng mới đuổi Thần Tài đi.

Quán đối diện ngày xưa rất đông khách nay vắng hoe, thấy vậy thì liền mời Thần Tài vào ăn, kỳ lạ thay mọi người lại ùn ùn kéo đến ăn rất đông.

Mọi người thấy vậy nên ai cũng giành mời cho bằng được Thần Tài đến hàng quán của mình ăn để khách đến đông, vậy nên mới có câu “Thần Tài gõ cửa”.

Người dân khu vực đó thấy Thần Tài không có quần áo mặc nên dẫn đi mua quần áo, mọi người dẫn Thần Tài đến cửa hàng nơi quần áo ông bị bán, sau khi mặc quần áo mũ nón vào thì Thần Tài nhớ lại mọi chuyện và bay về trời.

Mọi người coi Thần Tài như là báu vật và lập bàn thờ, tôn thờ từ đó, hóa thân Thần Tài là một người lang thang ăn xin quần áo rách rưới. Ngày Thần Tài bay về trời là ngày mùng 10 tháng giêng âm lịch.

Ngày vía của Thần Tài

Để tưởng nhớ Thần Tài, mọi người chọn ngày vía Thần Tài là ngày Thần Tài bay về trời: Ngày mùng 10 tháng giêng âm lịch.

Ngày vía của Thần Tài mọi người thường mua : 1 bình bông, 1 con tôm, 1 con cá lóc nướng, 1 con cua, 1 miếng heo quay, 1 bộ giấy tiền vàng mã, 1 đĩa quả, chum rượu, để cúng lấy vía Thần Tài, cầu xin cho năm mới làm ăn phát đạt.

Ngoài ngày vía chính của Thần Tài là ngày mùng 10 tháng giêng âm lịch. Nhưng mọi người vẫn chọn ngày mùng 10 âm lịch hằng tháng để cúng Thần Tài, cầu xin cho may mắn về tài lộc trong tháng đó, nên trở thành thông lệ.

Thông thường thì vào ngày mùng 1 và ngày 15 âm lịch, cùng với bàn thờ Tổ tiên và các bàn thờ khác trong nhà, hoặc vào ngày mùng 10 âm lịch hàng tháng. Cúng Thần Tài để trả lễ khi gặp vận hên tài lộc.

Đồ cúng thường là các món ăn ngon như heo vịt quay, gà, hoa quả, nước uống hàng ngày… Dân gian truyền miệng Thần Tài rất thích món Cua biển và heo quay, chuối chín vàng.

Thường ngày nên đốt nhang mỗi sáng từ 6h - 7h và chiều tối từ 6h - 7 giờ, mỗi lần đốt 5 cây nhang. Thay nước uống khi đốt nhang, thay nước trong lọ hoa, và chưng thờ nải chuối chín vàng.

Tránh để các con vật chó mèo quậy phá làm ô uế bàn thờ Thần Tài.

Hàng tháng thường lau bàn thờ, tắm cho Thần Tài vào ngày cuối tháng và ngày 14 âm lịch với nước lá bưởi, hay rượu pha nước. Khăn lau và tắm cho Thần Tài không được dùng vào việc khác.

Thỉnh Thần Tài

Khi thỉnh tượng Thần Tài ngoài cửa hàng về cần gói bọc trong giấy đỏ, hoặc trong hộp sạch sẽ, mang vào chùa nhờ các Sư trong chùa “Chú nguyện nhập Thần”, và nhờ các Sư chọn cho ngày tốt đem về nhà để an vị Thần Tài (kể cả ông Địa cũng vậy).

Về nhà dùng nước lá bưởi rửa và đặt lên bàn thờ, mua các đồ cúng về cúng khấn là được, lần sau cúng vái bình thường.

Sự tích Thần Tài xuất phát từ Trung Quốc. Ai muốn thờ Thần Tài đều phải thực hiện như trên, Thần Tài mới có linh khí, nếu không thì cũng chỉ như bức tượng bình thường.

Khi thỉnh Thần Tài cũng có Thần Tài hợp với gia chủ, cũng có Thần Tài không hợp với gia chủ, chọn tượng Thần Tài mặt tươi cười, mặt sáng sủa, tượng không bị nứt, vỡ, nhìn tượng toát lên vẻ phú quý.

Việc cầu xin tài lộc được nhiều hay ít còn phụ thuộc vào lòng thành của gia chủ, phước đức và số vận của gia chủ.

Thần Tài không thể cho hay biếu người khác, phải tự gia chủ thỉnh về.

Đặt bàn thờ Thần Tài

Bàn thờ Thần Tài đặt dưới đất, nơi trang nghiêm hướng ra cửa chính.

Xem thêm:

Ngày vía Thần Tài sắm lễ đón tài lộc cả năm

Xem cách bài trí bàn thờ Thần Tài


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự tích thần tài (P1)

Lông mày xếch thì có ảnh hưởng như thế nào?

Xem nhân tướng, tính cách của con gái có lông mày xếch hay đàn ông lông mày xếch thì có làm sao? Bài viết dưới đây Phong thủy số sẽ giới thiệu bạn cách xem tướng đàn ông lông mày xếch hoặc phụ nữ lông mày xếch.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem nhân tướng, tính cách của con gái có lông mày xếch hay đàn ông lông mày xếch thì có làm sao? Bài viết dưới đây Phong thủy số sẽ giới thiệu bạn cách xem tướng đàn ông lông mày xếch hoặc phụ nữ lông mày xếch.

Lông mày xếch thì có ảnh hưởng như thế nào?

Theo tổng quyết của Ma Y (Luận về mi) thì:

Mi là lọng che mắt. Là nghi biểu của khuôn mặt Chủ sự hiền ngu của con người

(Chữ Hiền ở đây không phải là hiền lành mà chữ hiền này chỉ những người thông minh tài cao đức rộng mà chỉ các bậc cao nhân, hiền tài mới đạt được).

Nên khi xem tướng pháp con người, người ta sẽ chủ ý tới hình dáng cũng như độ đậm nhạt của lông mày.

Lông mày xếch:

Lông mày mọc xếch lên Thiên thương (chạy lên phía Thái dương) được xem như là người tài hoa,  được mọi người quý trọng, tôn kính. Những người này thường sẽ thành công hơn trong lĩnh vực về nghệ thuật hoặc thẩm mỹ.

Không những thế, những người có lông mày xếch thường là người đào hoa, đa tình. Nhất là với phụ nữ hoặc đàn ông lông mày xếch thường dễ đổ vỡ hôn nhân, do ngoài tình.

Khi xét tổng thể khuôn mặt, nếu người có lông mày xếch kêt hợp với đôi mắt láo liên, môi dày thì người đó thường là kẻ lừa gạt, trộm cướp hay làm ăn phi pháp.

Nhưng ưu điểm của người có lông mày xếch là những người thông minh, có tham vọng lớn họ có khá nhiều bạn và và cũng không ít những kẻ ghen ghét, đố kỵ.

Lông mày xếch thường không tốt bằng mắt xếch. Nhất là đối với đàn ông lông mày xếch lại càng không tốt.

Trên đây là những ý nghĩa chung về người có lông mày xếch cũng như đàn ông lông mày xếch. Để tìm hiểu thêm những thông tin thú vị khác. Bạn có thể tham khảo thêm tại:

+ Tổng quan về tướng mũi của mỗi người

+ Mắt rồng, mắt phượng mày ngài là như thế nào?

+ Hình dáng đôi mắt nói gì về con người bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lông mày xếch thì có ảnh hưởng như thế nào?

Thảo luận về Kì Môn Độn Giáp

Kỳ môn Độn giáp là một môn học dựa trên nguyên lý lập trận đồ ma trận có tính Logic rất cao.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thảo luận về Kì Môn Độn Giáp

Thảo luận về Kì Môn Độn Giáp

Trong các môn học thuộc lĩnh vực Dịch học Trung Hoa, từ cổ chí kim người ta dành cho Kỳ Môn Độn Giáp một vị trí quan trọng. Các soạn giả cuốn Tứ Khố Toàn Thư đời Thanh viết: “ trong các phương kế, Kỳ Môn Độn Giáp là hay nhất”.   Một số học giả của trường Đại học Phúc Đán Thượng Hải trong cuốn Tri thức bách khoa Văn hóa thần bí Trung Quốc xuất bản năm 1994 cũng viết: “ Kỳ Môn Độn Giáp hoàn toàn có thể xứng danh với vị trí cao nhất trong học thuật truyền thống Trung Hoa” ( học thuật truyền thống chỉ khái niệm Phương Thuật. “ Phương” gồm các môn nghiên cứu về Thiên văn, địa lý, ngũ hành, lịch pháp, tướng số. “Thuật” gồm các môn nghiên cứu về y học, thuốc thang, luyện đơn. Từ xưa Kỳ Môn Độn Giáp được xem là môn học Đế vương, nội hàm bao gồm lí luận Chu dịch, Thiên văn học, Âm nhạc, Lịch pháp, thuyết Âm dương ngũ hành v.v.

 

Các khảo sát của nhiều học giả cho thấy, từ đời nhà Tần Kỳ môn được gọi là Âm phù; thời Hán, Ngụy gọi là Lục Giáp;   đời Tấn, Tùy, Đường, Tống gọi là Độn Giáp; đến đời Minh, Thanh gọi là Kỳ Môn Độn Giáp. Kỳ môn độn giáp được gọi là Kỳ môn hoặc Độn giáp. Kỳ môn có nhiều trường phái: Niên gia, Nguyệt gia, Nhật gia, Thời gia với độ phức tạp ngày càng cao. Thời gia kỳ môn được chia làm hai trường phái là Kỳ môn pháp thuật và Kỳ môn lý số.

 

Kỳ môn pháp thuật chủ dùng bùa chú, tu luyện mà thành. Nội dung và phương pháp của nó mang nặng màu sắc tín ngưỡng và nghi thức tôn giáo, nhấn mạnh và đề cao khả năng siêu thực của con người.

 

Kỳ môn lý số lại được chia làm hai nhánh: Kỳ môn phi bàn và Kỳ môn chuyển bàn với cách lập trận đồ Kỳ môn khác nhau. Trong học phần Kỳ môn Độn giáp, Phong thủy Lưu gia giới thiệu nội dung của phần Kỳ môn Phi bàn theo nhánh lý số của trường phái Thời gia.

 

Kỳ môn Độn giáp là một môn học dựa trên nguyên lý lập trận đồ ma trận có tính Logic rất cao. Các thành phần   trong mỗi một cung quan hệ với nhau rất mật thiết, biểu thị cho xu hướng phát triển của sự vật mà ta đang xét tới các mối quan hệ giữa các thành phần của cung này với cung khác là mối quan hệ chi phối, hạn chế, hóa giải lẫn nhau, biểu thị sự liên đới, ảnh hưởng, tác động qua lại của các sự vật trong bức tranh tổng thể.

 

Trong bức tranh tổng thể đó, các yếu tố phản ánh bản thân sự việc hoặc sự việc trong chuỗi liên kết là tập hợp các thông tin như: Thiên thời là yếu tố mang tính quyết định, nhấn mạnh về thời gian, điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế, chính trị và yếu tố văn hóa. Yếu tố thiên thời, giúp ta biết được tiến hành một công việc vào lúc nào là hợp lí nhất. Địa lợi là không gian, địa lý, khu vực v.v. cho ta biết được thực hiện một kế hoạch ở nơi nào là lý tưởng nhất. Nhân hòa là mối quan hệ giữa các thành viên với nhau từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Thần trợ là những thông tin, tính hiệu trừu tượng mà chúng ta không quan sát được như trường vũ trụ, yếu tố may mắn v.v. thông qua đó ta biết được công việc mà chúng ta đang quan tâm có “ quý nhân phù trợ” hay không. Cấu trúc là yếu tố biểu thị xu hướng của sự việc mà nhờ đó chúng ta có thể tiên tri được sự việc đó diễn tiến như thế nào.

 

Trong lịch sử hình thành và phát triển của Kỳ môn Độn giáp, ngoài những ứng dụng trong lĩnh vực quân sự, các ứng dụng trong lĩnh vực khác cũng rất phong phú và đa dạng, các ví dụ mà người xưa để lại cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Học kỳ môn nhằm để dự báo, hoạch định kế hoạch phát triển cá nhân và đưa ra hướng giải quyết các vấn đề trong cuộc sống con người ta hay gặp phải.

Ví dụ: ốm đau bệnh tật, hôn nhân gia đình, học tập thi cử, công ăn việc làm, kinh doanh, đầu tư, kiện cáo, môi trường địa lý, công danh sự nghiệp, hoạch định và đánh giá chiến lược phát triển kinh doanh của cá nhân, công ty. Có thể nói rằng biết được Kỳ môn tức là biết được những gì mình muốn biết.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thảo luận về Kì Môn Độn Giáp

Chùa Cầu Muối - Tỉnh Thái Nguyên

Chùa Cầu Muối là một trong 70 di tích lịch sử văn hóa của toàn huyện được xếp hạng. Chùa Cầu Muối nằm tại trung tâm làng Cầu Muối - Phú Bình
Chùa Cầu Muối - Tỉnh Thái Nguyên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cụm di tích Đình-Đền-Chùa Cầu Muối là một trong 70 di tích lịch sử văn hóa của toàn huyện được xếp hạng. Tại đây có 2 ngôi Đền nổi tiếng linh thiêng “Cầu gì được đấy – ước thỏa lòng thành” có tên Đền Công Đồng và Đền Thượng, nằm tại xóm Cầu Muối xã Tân Thành, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. Nơi đây có lễ hội chính là vào ngày mùng 6 tết (âm lịch) hàng năm.

Đình – Đền – Chùa Cầu Muối cách thủ đô Hà Nội chừng 70 km về phía Đông Bắc, cách trung tâm thành phố Thái nguyên 40 km về phía Đông Nam, cách trung tâm huyện Phú Bình 11 km về phía Đông.

Khu di tích đình – đền – chùa Cầu Muối nằm tại trung tâm làng Cầu Muối, thuộc xã Tân Thành, Phú Bình. Cầu Muối được gọi theo địa danh của làng. 2 ngôi đền có tên: Đền Thượng và đền Công Đồng. Chùa còn có tên chữ là Linh Sơn Tự.

Lịch Sử: Chùa Cầu Muối thờ Phật. Đình – đền – chùa Cầu Muối được khởi dựng từ thời Hậu Lê. Nơi đây không chỉ là nơi sinh hoạt tín ngưỡng văn hoá của nhân dân trong làng mà còn là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Đình Cầu Muối là nơi thờ Thành Hoàng làng là Cao Sơn Quý Minh Đại Vương (tức Dương Tự Minh) một tướng tài dưới thời nhà Lý, ông có công lớn đối với vùng đất Thái Nguyên. Đền Công Đồng thờ Mẫu Liễu Hạnh, đền Thượng thờ Mẫu Thượng Ngàn.

Kiến Trúc: Chùa Cầu Muối quay về hướng Nam, như người Việt có câu “Lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng Nam”. Hướng Nam đón gió mát, tránh gió tây nóng, vừa là hướng thuận với triết lý âm dương ngũ hành, vừa có nghĩa các Đức Phật và Bồ Tát ngồi quay hướng Nam để nghe lời kêu cứu của chúng sinh trong kiếp đời mà cứu vớt. Sự bài trí tượng thờ như thu lại toàn bộ Tam Bảo, được bài trí theo giáo lý của đạo Phật. Các lớp tượng bày từ ngoài vào trong, bố trí từ thấp lên cao, gợi không khí tĩnh lặng, linh thiêng.

Đến nay, Cụm di tích này còn lưu giữ được nhiều hiện vật gốc có giá trị nghệ thuật và niên đại cổ xưa như: Chiêng núm đồng; chuông nhí đồng,giá văn tế, nhang án, ngai thờ, cối đá, 5 bát hương gốm cổ, 23 pho tượng và cây hương đá được lập năm 1719…

Trước đây, Cụm di tích này chỉ mở cửa đón nhân dân địa phương đến làm lễ vào ngày Sóc, ngày Vọng, tức ngày mùng một, ngày rằm theo lịch trăng hàng tháng. Nhưng 3 năm trở lại đây, theo nguyện vọng của người dân trong vùng và du khách thập phương, đình – đền – chùa Cầu Muối mở cửa vào tất cả các ngày trong tuần và lễ hội diễn ra trong cả tháng Giêng, trong đó ngày hội chính vào mùng 6 Tết.

Chùa Cầu Muối vừa hòa đồng trong cảnh quan của làng quê bình dị êm ả, vừa kết tinh khẳng định bản sắc riêng độc đáo như biểu hiện một sức mạnh thiên nhiên vùng “địa linh hội tụ long mạch” với sự huyền diệu mà con người hoài niệm, khát vọng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Cầu Muối - Tỉnh Thái Nguyên

Sự biến đổi của Sao Phá quân

Sao Sát, Phá, Lang có những biến đổi khó có thể tưởng tượng được đối với cuộc sống con người, trong đó tính biến đổi của sao Phá quân là lớn nhất.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Sát, Phá, Lang có những biến đổi khó có thể tưởng tượng được đối với cuộc sống con người, trong đó tính biến đổi của sao Phá quân là lớn nhất.

tinh-cach-sao-pha-quan

Sự biến đổi của sao Phá quân chia thành sự biến đổi do các nhân tố ở bên ngoài và bên trong.

Bên ngoài như quan hệ sống, do sự biến đổi của môi trường (như giáo dục, công việc, hôn nhân, tiền tài); sự thay đổi của các nhân tố bên trong như: tính tình, quan niệm tư tưởng, giá trị quan và phương pháp xử lý sự việc, thế giới tình cảm của cá nhân.

Sự thể hiện tính biến đổi của sao Phá quân rất không ổn định khiến cho người ta có cuộc sống ở hai thái cực, có kịch tính và có cảm giác rất không hài hòa. Ví dụ:

Khi nhỏ thất học đến khi già thì lại là người uyên bác thông thái;

Từng là người tình yêu nồng nhiệt thề non hẹn biển lại còn kết hôn một cách trọng thể ấy vậy mà đột nhiên lại ly hôn, hai bên lạnh nhạt với nhau và trở thành những người xa lạ trên đường;

Hôm nay là người đi làm thuê bôn bả vất vả khắp nơi, ngày mai lại trở thành chủ quản cao cấp trong công ty ở trong thành phố;

Hôm qua sự nghiệp còn thịnh vượng, tiền vào như nước hôm nay đột nhiên lại không xu dính túi, cùng đường bí lối;

Bề ngoài thì tỏ ra rất kiên cường, nhưng trong lòng lại rất yếu ớt; bề ngoài trông giống một núi bằng nhưng trong lòng thì lại sôi sục như núi lửa, bất kỳ lúc nào cũng có thể bộc phát.

Những biểu hiện ngày thường khác với những người thường nhưng khi tình cảm bị xung động thì ngôn ngữ hành động lại khiến người khác phải phát điên lên, không kìm chế nổi phải toát mồ hôi lạnh.

Người mà sao Phá quân tọa mệnh thì trong cuộc đời sẽ phải lăn lộn bởi những biến đổi do các nhân tố bên trong và bên ngoài, rất khó ổn định. Nhưng người kinh ngạc, biến nguy thành an, đón cát tránh hung. Đặc biệt là khi có các cát tinh: Lộc tồn, Hóa lộc, Thiên khôi, Thiên việt, Tả phù, Hữu bật đồng cung hè hoặc hội chiếu thì sẽ có hiện tượng “sống sót sau khi vào tử địa”, điều này rất phù hợp với đặc tính biến hóa mạnh vốn có của sao Phá quân.

Sao Phá quân không ngừng sáng tạo và thay đổi,

Không ngừng thay cũ đổi mới do đó mà thường có tư tưởng luôn đổi mới đồng thời cũng tích lũy không ít những trải nghiệm trong cuộc sống. Đối với tính biến đổi của sao Phá quân, xét từ hai phương diện của một chỉnh thể, vì trong hành vận của nó có sự biến hóa không ngừng nên tất phải có sự sáng tạo không ngừng. 

Sao Phá quân có cá tính thẳng thắn, có tinh thần hiệp nghĩa, bênh vực kẻ mệnh yếu, thích quản những việc không liên quan đến mình.

Những chuyện không liên quan đến mình mà sao Phá quân quản đều là những việc chủ động quản, đồng thời lại coi đó là việc đương nhiên. Sao Thiên tướng cũng thích quản những việc không liên quan đến mình nhưng đó thường là những việc do người khác nhờ thì mới làm, đồng thời lại không thích tự mình thể hiện.

Sao Phá quân bất luận là việc gì đều thích dẫn đầu, không thích đi sau người khác do đó mà thường không nhẫn nhịn được, thường hay nóng nảy, bình thường chỉ thích xông pha nên có lúc cũng không tránh được nhìn về phía trước mà không để ý phía sau, dễ dẫn đến có cảm giác hiu quạnh vì mất phương hướng.

Sao Phá quân có cá tính nóng vội, thường “uyên thâm quá ít người hiểu”, khiến cho người khác kính trọng mà không dám gần gũi, thường cô độc giữa mọi người, thường thuộc kiểu “thân duyên bạc” (tình cảm thân thích nhạt), cần tu tâm dưỡng tính, tích cực cải thiện mối quan hệ với mọi người đồng thời giỏi vận dụng đặc điểm tính sáng tạo vốn có của mình thì nhất định có thể không ngừng phát triển để càng thêm tiến bộ.

Sao Phá quân phải thường xuyên đón nhận các loại thử thách, có dũng khí và năng lực đấu tranh anh dũng nhất, những biến động trong cuộc đời đặc biệt nhiều, do đó phá hoại và kiến thiết lần lượt chuyển đổi cho nhau, mưu cầu phát triển trong sự mâu thuẫn, ổn định sau khi khai sáng, biến động khiến cho người ta sau khi trải qua những khó khăn thì sẽ được ngửi hương hoa thơm.

Sao Phá quân tọa mệnh thì chủ là người thích hợp với việc độc lập lập nghiệp, riêng một ngọn cờ, công việc có tính khai sáng, cần phát triển hướng ra bên ngoài. Nếu có thể xác định được mục tiêu có quan hệ tới văn học, nghệ thuật, sáng tạo, cả đời nỗ lực đồng thời có thể an định được cuộc sống, định kỳ vận động thì nhất định sẽ đón cát tránh hung để đạt được thành công.

Sao Phá quân gặp sao Tử vi chủ có quyền uy, gặp sao Lộc tồn hoặc Hóa lộc thì có thể tiêu trừ được thói quen phá hoại bất lương, tăng thêm trợ lực, sau này khiến cho sự nghiệp thuận lợi thành công.

Sao Phá quân thích hợp đồng cung hoặc hội chiếu với các cát tinh như Khôi, Việt, Phù, Bật, Lộc, Quyền thì có thể tăng thêm được khí thế và thành tựu. Sao

Phá quân không thích hợp với 6 sát tinh và sao Thiên khốc, Thiên hư, sẽ khiến cho nó tăng thêm trở ngại trong quá trình sáng tạo của nó, đồng thời có sự biến động bất lợi, cần phải chú ý tối kiện cáo và sức khỏe.

Sao Phá quân là võ tinh, không thích đồng cung với 2 văn tinh là Văn xương, Văn khúc, bởi vì trên quan niệm giữa Văn, Võ cũng rất có khoảng cách, hai loại không thể nối liền, rất dễ xung kích khắc chế lẫn nhau khiến cho người ta vất vả khổ sở mà phải thiếu mất cảm giác an toàn, về tinh thần khó tránh được sự cô độc, đặc biệt có cảm hứng đối với văn nghệ, gặp cát tinh cũng có thể có biểu hiện.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự biến đổi của Sao Phá quân

Tướng người tốt - xấu (P1)

Tướng phượng: Thân hình dong dỏng cao, khuôn mặt “mắt phượng mày ngài” với đôi mắt thon dài, chân mày nhỏ đẹp, thần sắc uy nghi mạnh mẽ, giọng nói
Tướng người tốt - xấu (P1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Tướng rồng

Là tướng tốt nhất theo quan niệm của người xưa. Đặc điểm: thân hình cao lớn, tướng đi vững chãi, thanh thoát, sắc mặt hồng hào, ánh mắt uy nghiêm mà thuần hậu, giọng nói lớn mà ôn hòa, lông mày dài và rậm. Người này có khả năng giải quyết công việc nhanh, quyết đoán và hợp đạo lý. Có thể nói, đây là tướng đế vương, nắm giữ quyền cao chức trọng.

2. Tướng phượng

(Ảnh minh họa)

Thân hình dong dỏng cao, khuôn mặt “mắt phượng mày ngài” với đôi mắt thon dài, chân mày nhỏ đẹp, thần sắc uy nghi, mạnh mẽ, giọng nói trong trẻo, rõ ràng. Đây là tướng quý, chủ nhân dễ đạt được thành công lớn trong đời.

3. Tướng chim ưng
  Thân hình cao lớn, chân bước vững vàng, tiếng nói vang khỏe, lông mày rậm, ánh mắt rất sáng và sắc bén. Đây là tướng người phù hợp với binh nghiệp nhưng tính cách có phần hung dữ và tàn bạo, hậu vận không được tốt.

4. Tướng kỳ lân

Thân hình vừa phải, ngực rộng, rắn chắc và hơi ưỡn ra phía trước, trán cao mắt sáng, chân mày đen rậm. Nếu có thêm giọng nói to rõ, ôn hòa kết hợp với tướng đi vững chắc thì người này có thể làm nên sự nghiệp hiển hách.

5. Tướng cọp

Thân hình cao to, vai rộng nở ngang, lưng to, chân tay rắn chắc, mắt lớn, miệng rộng môi dày, tiếng nói ầm vang như trống, ánh mắt đầy uy lực. Người này tuy sức khỏe dồi dào nhưng thiếu lanh lợi.

6. Tướng beo

Khuôn mặt dài nhưng mũi ngắn, răng nhỏ và khít, đặc biệt là chóp mũi nhô cao. Người này tuy sức khỏe và uy lực không được như người có tướng cọp và sư tử nhưng lại có phần khéo léo và uyển chuyển hơn. Họ giỏi giao tiếp xã hội, đôi khi có phần thủ đoạn, tinh ranh và mưu mẹo. Do tính cách quá độc đoán nên đời sống gia đình người tướng heo thường không hạnh phúc.

7. Tướng sử tử

Hình dáng bề ngoài cũng có nét tương tự như người tướng cọp nhưng trán đặc biệt cao và gồ lên. Đây là người thông minh, mưu trí, văn võ song toàn.

8. Tướng voi

Thân hình to lớn nhưng nặng nề, bước đi chậm chạp, dáng ngồi nghiêm chỉnh, vững chắc, mũi thấp, môi dày. Người này tuy không thông minh, lanh lợi nhưng tính tình hiền hậu, suy nghĩ chín chắn, làm việc siêng năng nên cuộc sống no đủ, hậu vận giàu sang.

(Theo Nhân tướng học toàn thư)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người tốt - xấu (P1)

Sao Đường Phù

Hành: Mộc Loại: Cát Tinh Đặc Tính: Sự thanh tịnh, thanh nhàn, lợi ích cho việc cầu công danh, điền sản, tài lộc.
Sao Đường Phù

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: MộcLoại: Cát TinhĐặc Tính: Sự thanh tịnh, thanh nhàn, lợi ích cho việc cầu công danh, điền sản, tài lộc.

Ý Nghĩa Đường Phù Ở Cung Mệnh
Người điềm đạm, khiêm nhường, ưa thích sự thanh nhàn, yên tĩnh. Sao này gặp nhiều sao tốt thì tốt thêm, gặp nhiều sao xấu thì xấu lắm. Gặp sao Thiên Tướng, Tấu Thư, Long Trì, Phượng Các, Quan Phù thì đi tu thành đạt, có danh vị, làm thầy cúng cũng có tiếng.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Đường Phù

Phân lập định tính của lý số –

Số biểu lý rất tốt gồm các số sau: 1, 3, 5, 7, 13, 15, 16, 21, 24, 31, 39, 47, 48, 52, 63, 65, 81 (giống số 1); số 93 (giông số 13). Số biểu lý tốt gồm các số: 6, 11, 17, 18, 22, 23, 25, 26, 32, 33, 35, 37, 38, 41, 49, 57, 61, 67, 68. Số biểu lý đ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

images Số biểu lý rất tốt gồm các số sau:
1, 3, 5, 7, 13, 15, 16, 21, 24, 31, 39, 47, 48, 52, 63, 65, 81 (giống số 1); số 93 (giông số 13).

Số biểu lý tốt gồm các số:

6,   11, 17, 18, 22, 23, 25, 26, 32, 33, 35, 37, 38, 41, 49, 57, 61, 67, 68.

Số biểu lý được gồm các số:

8, 9, 19, 27, 29, 30,36, 40, 44, 58, 66, 71, 73, 75, 77, 78

Số biểu lý xấu gồm các số:

2, 4 ,10, 12, 14, 20, 28, 34, 42, 43, 45, 46, 50, 53, 55, 56, 5960, 69, 72, 74

Số biểu lý rất xấu gồm các số:

46, 51, 54, 62, 64, 70, 76, 79, 80.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phân lập định tính của lý số –

Kiếm Phong Kim - Kim loại trên mũi kiếm

Tìm hiểu về nạp âm Kiếm Phong Kim, bản mệnh kiếm phong kim có ý nghĩa như thế nào, kiếm phong kim kỵ với những mạng nào

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kiếm Phong Kim - Kim loại trên mũi kiếm

Kiếm Phong Kim - Kim loại trên mũi kiếm

Tìm hiểu về nạp âm Kiếm Phong Kim

Kiếm, Sa Kim phong lưỡng ban kim

Mộc mệnh nhược phòng tức khắc hiềm

Ngoại hữu tứ Kim giải kỵ Hỏa

Kiếm sa vô Hỏa bất thành hình.

Giải thích: Đừng nghĩ Hỏa khắc Kim, nếu mệnh là Kiếm Phong Kim và Sa Trung Kim mà hợp cùng người mệnh Hỏa trong hôn nhân, lại tốt đẹp vô cùng.

Nạp âm Kiếm Phong Kim (vàng trong kiếm) và Sa Trung Kim (vàng trong cát), nếu không có lửa (Hỏa) thì không thành vật dụng. Nhưng cả hai khắc với Mộc (Kim khắc Mộc) vì hình kỵ, dù Mộc hao Kim lợi (Kim được khắc xuất, mất phần khắc) nhưng vẫn chịu thế tiền cát hậu hung (trước tốt sau xấu), do Kim chưa tinh chế nên không hại được Mộc vượng, không chém được cây lại thêm tổn hại.

Bác Vật Vựng Biên chép rằng: Nhâm Thân Quí Dậu thì Dậu là chính vị của Kim vị trí của Lâm Quan và Đế Vượng, nên Kim già cứng cương mãnh ví như mũi nhọn của lưỡi gươm nên gọi bằng Kiếm Phong Kim. Nhâm Thân Quí Dậu khí thế cực thịnh.

Người mạng Kiếm Phong Kim tự hiển tài năng mình, hành động tư tưởng sắc bén. Hồng quang tỏa chiếu tới sao Đẩu sao Ngưu, ánh sáng rõ ràng như sương tuyết. Có ý chí cao lớn, tâm tính tàn khốc cương nghị và tinh nhuệ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiếm Phong Kim - Kim loại trên mũi kiếm

Tên hay mang lại thời vận tốt

ên là ký hiệu biểu thị sự tồn tại của con người, in dấu cá tính và vận mệnh của họ, là tiêu chí để nhận biết người này với người khác. Hơn nữa, tên người và
Tên hay mang lại thời vận tốt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tên là ký hiệu biểu thị sự tồn tại của con người, in dấu cá tính và vận mệnh của họ, là tiêu chí để nhận biết người này với người khác. Hơn nữa, tên người và đời người còn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy, người phương Đông rất chú trọng tới việc chọn tên với mong muốn tên hay sẽ mang đến những điều tốt đẹp. Dân gian còn lưu truyền nhiều câu chuyện thú vị về vấn đề này.

Tranh cát tường

Bạch Cư Dị (772-846), tự là Lạc Thiên, có nghĩa là “Lạc thiên an mệnh”, một trong những thi nhân nổi tiếng đời Đường. Năm 16 tuổi, ông tham gia kỳ thi tiến sĩ và cũng là lần đầu đặt chân đến kinh thành. Một hôm, ông đem thơ của mình đến bái kiến nhà viết kịch nổi tiếng Lang Cố Huống. Cố Huống nghe đến cái tên Bạch Cư Dị liền nói giọng mỉa mai: “Mấy năm nay gạo ở Trường An rất đắt, e rằng rất khó định cư ở đây”. Tuy nhiên, sau khi đọc thơ Bạch Cư Dị, Cố Huống rất cảm phục và thay đổi thái độ: “Vừa rồi là lão phu nói đùa! Người có tài như anh xem ra định cư ở đây không có gì khó”. Nhận được sự tán thưởng và cổ vũ của Cố Huống, từ đó Bạch Cư Dị ngày càng nổi tiếng.

Dân gian cho rằng, vị trạng nguyên cuối cùng của Trung Quốc tên là Lưu Xuân Lâm thực ra chỉ đứng thứ hai trong kỳ thi. Tuy nhiên, do năm đó cả nước gặp đại hạn, khi triều đình lập danh sách trạng nguyên, thấy cái tên "Xuân Lâm" có ý là cầu mưa xuân nên đã chọn Lưu Xuân Lâm làm trạng nguyên.

Trái ngược với sự may mắn của Lưu Xuân Lâm, trong kỳ thi năm thứ 23 Gia Tĩnh đời Minh, Ngô Thanh lại là người gặp xui xẻo vì tên gọi của mình. Ban đầu, ông được chọn là trạng nguyên, nhưng khi hoàng đế kiểm tra lại thấy cái tên đó không hay liền hạ lệnh hủy chức trạng nguyên của ông vì cho rằng "Ngô Thanh" đồng âm với "Vô Thanh".

(Theo Tên hay thời vận tốt)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tên hay mang lại thời vận tốt

Luận sơ lược Tử vi Tuổi Thìn

CANH-THÌN 14 TUỔI: (Sinh từ 5/2/2000 đến 23/1/2001) Mệnh: Bạch Lạp Kim (Vàng trong nếntrắng)
Luận sơ lược Tử vi Tuổi Thìn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

NAM:  Cung Ly sao Thái-Dương, hạn Tán-Tận:  Mẫu người sáng trí thông minh, lao động trí óc, thường có kế hoạch riêng, thích lưu lạc giang hồ, tự lập và hành sự độc đoán. Tình cảm phức tạp nên tiền vận lao đao chìm nổi. Hôn nhân cách trở khó khăn. Lấy vợ không hạp tuổi thì chia ly đổ vỡ. Phải chăng vì “Canh cô Mồ qủa” mà số cô đơn, xa cha mẹ, không gần anh chị em? Tuy nhiên nhờ đi xa, tha hương lập nghiệp lại thành công. Kỵ màu đỏ, hạp màu vàng, trắng. Ở đời có ba điều đáng tiếc: Một là việc làm được hôm nay lại bỏ qua. Hai là hiện tại bây giờ không lo học. Ba là thân này lở hư. Một người dù thông minh tài giỏi tới đâu mà không nắm lấy cơ hội học hành cho đúng lúc, sẽ phải ân hận suốt đời. Ngay cả thiên tài cũng chỉ là những cố gắng lâu dài. Cha mẹ không thể sống mãi để lo cho mình suốt đời. Chỉ cần chăm chỉ tốt nghiệp 4 năm đại học cũng có thể thảnh thơi 40 năm trong cuộc đời sau này.

“ Tuổi trẻ ai ai cũng học hành

Mai sau rạng rỡ bước công danh

Siêng năng cần mẫn lo đèn sách

Chữ hiếu đền ơn đấng sinh thành”

 

NỮ: Cung Càn sao Thổ-Tú, hạn Hùynh-Tuyền: Mẫu người thông minh, tâm đức tu dưỡng hiền lương, đôi khi trở thành rường cột của gia đình. Số cô đơn cách biệt người thân, có khi xa cha mẹ, không gần anh chị em; phải chăng tại“Canh cô Mồ qủa”? Tiền vận trước 30 vất vả gian nan. Lấy chồng không hạp tuổi thì tình nghĩa phu thê tan hợp bất thường. Ly hương dễ phát đạt giàu sang. Hạp màu vàng, trắng, kỵ màu đỏ.

Ở đời có ba điều đáng trách: Một là việc làm được hôm nay lại bỏ qua. Hai là hiện tại bây giờ không lo học. Ba là thân này lở hư. Một người dù thông minh tài giỏi tới đâu mà không chịu học hành, phải ân hận suốt đời. Ngay cả thiên tài cũng chỉ là những cố gắng lâu dài. Cha mẹ không thể sống mãi để lo cho mình suốt đời. Chỉ cần chăm chỉ tốt nghiệp 4 năm đại học thôi, cũng có thể thảnh thơi 40 năm trong cuộc đời sau này.

“Cơm cha áo mẹ công thầy

Tuổi xuân học tập tháng ngày chăm lo

Tương lai sung sướng ấm no

Yêu cuồng sống vội, hẹn hò không nên”

MẬU-THÌN  26  TUỔI: ( Sinh từ 17/2/1988 đến  5/2/1989)

Mệnh: Đại-Lâm-Mộc ( Cây trong rừng lớn).

NAM:  Cung Chấn, sao Thái-Am, hạn Diêm-Vương: Mẫu người thông minh, khí khái, cương trực, tự tin có kế hoạch, ứng phó và giải quyết được những khó khăn. Các bạn sanh tháng 2, 9, 10 thường  lập gia đình trễ. Nếu bạn là con út trong gia đình, dễ gặp nghịch cảnh như gần mẹ xa cha, gần cha xa mẹ, hay sớm bị mồ côi. Vậy  giờ nào việc ấy. Hãy tận dụng những gì mình đang có trong tay để thăng hoa cuộc sống. Đây là thời gian phải dồn tất cả sức lực vào học vấn để tự mình mở rộng cánh cửa tương lai. “Tận nhân lực tri thiên mệnh”. Nghĩa là phải làm hết sức mình rồi Trời mới giúp. Nếu nghĩ rằng tương lai được xây dựng bằng hiện tại, thì mỗi một giây phút cố gắng bây giờ là một viên gạch xây dựng lâu đài sự nghiệp rạng rỡ cho tương lai. Xây nhà hay làm ăn nên chọn hướng Nam hay chánh Đông. Cưới vợ hạp với tuổi Bính-Tí (1996), Đinh-Sửu (1997), Tân-Mùi (1991) và Canh-Ngọ (1990).

“Khí khái cương trực thông minh

Cây trong rừng lớn một mình đứng cao

Siêng năng học tập giồi trau

Hôm nay khó nhọc ngày sau thành tài”

Năm nay bạn nào đi thi sẽ đậu, tốt nghiệp ra trường sẽ kiếm được việc làm như ý. Bạn nào làm công chức sẽ được lên chức lên lương. Bạn nào kinh doanh thương mại, sẽ phát đạt thành công tài lộc thịnh vượng. Nếu muốn thay đổi chỗ ở chỗ làm, hay đi xa xuất ngoại cũng thực hiện được. Tuy nhiên bạn nào làm việc nhiều bằng computer sẽ dễ bị đau mắt.

NỮ: Cung Chấn, sao Thái-Bạch, hạn Thiên-La: Mẫu người thông minh, có tài năng nhưng tình cảm khô khan. Mặc dù nhanh nhẹn, cơ trí và thẳng thắng, cương quyết, nhưng tiền vận bôn ba, không gặp thời. Hậu vận kiên tâm nhẫn nhục, hiếu thảo, thích triết, thích đạo lý, tạo nhiều thiện nghiệp và có tâm hồn hướng thượng. Người sinh tháng 1, 2, 6, 10 hưởng nhiều phước đức. Nếu bạn là con út trong gia đình, dễ gặp nghịch cảnh như gần cha xa mẹ, gần mẹ xa cha, hay sớm bị mồ côi. Vậy giờ nào việc ấy. Hãy tận dụng những gì mình đang có trong tay để thăng hoa cuộc sống. Đây là thời gian phải dồn mọi nỗ lực vào việc học để tự mình mở rộng cánh cửa tương lai.“Tận nhân lực tri thiên mệnh”. Nghĩa là phải làm hết sức mình trước, sau mới nói tới số trời. Nếu tương lai được xây dựng bằng hiện tại, thì mỗi một giây phút cố gắng bây giờ là xây một viên gạch cho lâu đài sự nghiệp tương lai. Lấy chồng hợp với những tuổi At-Mão (1975), Qúi-Hợi ( 1983), Tân-Dậu ( 1981), Đinh-Mão (1987), Ất-Sửu (1985) và Mậu-Ngọ (1978). Lấy chồng bất luận năm nào, nên chọn ngày giờ cưới hỏi trong tháng 4, và 10 âm lịch là tốt nhất. Làm ăn thương mại, chọn hướng chánh Nam hay chánh Đông.

“Nữ nhi trí tuệ thông minh

Tâm hồn hướng thượng tánh linh hơn người

Học hành đến chốn đến nơi

Tương lai hạnh phúc sáng ngời chẳng sai”

Năm nay cử mặc đồ trắng và hay đau ốm lặt vặt hao tài trong tháng 5. Tuy nhiên, bạn nào đi thi sẽ đậu; ra trường kiếm được việc làm như  ý. Bạn nào làm công chức sẽ được lên chức lên lương. Nếu muốn chuyển trường, thay đổi chỗ ở hay chỗ làm việc đều gặp hoàn cảnh thuận lợi. Nếu muốn sinh con, thì nên có thai sau tháng 6, để đẻ con năm Giáp-Ngọ, có thể giúp cha mẹ phát đạt 20 năm.

BÍNH-THÌN 38 TUỔI (Sinh từ 31/1/1976 đến 17/2/1977).

Mệnh: Sa Trung Thổ (Đất lẫn trong cát).

NAM:  Cung Càn, sao Thổ-Tú, hạn Ngũ-Mộ: Mẫu người hào phóng, năng động sôi nổi, thích mạo hiễm rày đó mai đây, kết giao bằng hữu. Những người ly hương thường học hành đỗ đạt, giàu sang. Nếu không ly hương, tiền vận rất gian nan. Nếu bạn là con út trong gia đình, cha mẹ có thể phải ly tán cách biệt: Gần mẹ xa cha, gần cha xa mẹ. Nên chọn vợ trong những tuổi Đinh-Tị (1977), Mậu-Ngọ (1978), Quý-Hợi (1983) và Đinh-Mão (1987). Tối kỵ tuổi Canh-Thân (1980) và Tân-Dậu (1981). Hướng nhà cửa và làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây Bắc.

“Mẫu người năng động nổi trôi

Rày đây mai đó cuộc đời ly hương

Tình trường ai cũng vấn vương

Cũng nên tính toán con đường hôn nhân.”

Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Ngũ Thọ Tử” kỵ xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở thương mãi. Tháng 4, tháng 8 trong gia đình có người ốm đau, bệnh hoạn hay tang chế bà con. Nếu phải thay đổi chỗ ở, hay chỗ làm việc, cứ xuôi theo tự nhiên, sau cùng mọi việc sẽ được hài hòa. Tuy nhiên, hạn chế đi xa xuất ngoại sẽ chịu nhiều hao tán vô ích. Nếu phải lái xe đi xa, nên bảo trì xe cộ kỹ lưỡng mới khỏi bị nằm đường.

NỮ: Cung Ly, sao Vân-Hớn, hạn Ngũ-Mộ: Mẫu người có chí khí biết tính toán và lãnh đạo. Tính tình rộng rãi, nhân từ, hiếu thảo thủy chung, có đức hạnh. Nhưng nếu bạn là con út trong gia đình thì cha mẹ ly tán hoặc có thể bị mồ côi. Đám cưới, đám hỏi nên tổ chức trong tháng 4, hay10 âm lịch là tốt nhất, bất luận  năm nào. Người tri kỷ tri âm dễ tìm thấy trong các tuổi Bính-Thìn (1976), Đinh-Tị (1977), Tân-Hợi (1971), Ất-Tị (1965), Mậu-Thân (1968), Quý-Sửu (1973) và Tân-Dậu (1981). Tối kỵ tuổi Bính-Ngọ (1966) và Nhâm-Tí (1972). Hướng làm ăn tốt nhất là Đông Nam và chánh Bắc.

“ Mẫu người hiếu thảo thủy chung

Giữ gìn hạnh đức công dung vẹn toàn

Hôn nhân tình đẹp sắc son

Gặp người tri kỷ chẳng còn khổ đau”

Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm “Ngũ Thọ Tử” không tốt cho công việc xây cất nhà cửa, hay cơ sở kinh doanh. Đầu năm không nên đầu tư chứng khoán. Cuối năm, phải cẩn thận lời nói để tránh ngộ nhận, tạo ra miệng tiếng rầy rà. Phải cẩn thận khi lái xe. Trước khi lái đi xa, phải bảo trì xe cộ kỹ lưỡng, tránh nằm đường. Nếu muốn sinh con út, thì nên có thai sau tháng 6, để đẻ con năm Giáp-Ngọ, có thể giúp cha mẹ phát đạt 20 năm.

GIÁP-THÌN 50 TUỔI:  (Sinh từ 13/2/1964 đến 1/2/1965).

Mệnh: Phú-Đăng-Hỏa (Lửa ngọn đèn).

NAM: Cung Ly, sao Thái-Dương hạn Tán Tận: Mẫu người lương thiện, có chí lớn, có tài lãnh đạo, khéo léo về giao tế, biết thuật dụng người. Thiếu niên tân khổ, nhưng nhờ sức chịu đựng, tự tin và nhẫn nại phi thường nên chung cuộc cũng thành sự nghiệp hơn người. Qúy ông sinh tháng 2, 3, 9 thường hay trắc trở tình duyên.  Lấy vợ hạp tuổi cũng giống như mua bảo hiểm: gặp nghịch cảnh, có thể chịu đựng được nghịch cảnh mà lòng dạ giữ được sắc son, khỏi phải thay chồng đổi vợ. Đó là các tuổi Nhâm-Tí (1972), Kỷ-Dậu (1969), Canh-Tuất (1970) và Canh-Tí (1960). Tối kỵ Giáp-Dần (1974) và Ất-Mão (1975). Làm ăn và nhà cửa hợp với hướng Đông và Bắc.

“Thiếu niên tân khổ chuyện thường

Nhẫn hòa chịu đựng can trường tiến lên

Làm ăn phát đạt, ơn trên

Giàu sang phú qúi vững bền trăm năm”

Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Ngũ Thọ Tử” không nên xây cất nhà cửa, hay cơ sở thương mại. Mọi việc làm ăn đều nằm trong chiều hướng tiến lên thuận lợi. Nhờ đó, tình trạng tài chánh được cải thiện khả quan. Tốt nhất là mùa Hè và mùa Đông. Tuy nhiên, hay bị trục trặc, rắc rối về xe cộ. Do đó, hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại để tránh phiền phức.

NỮ: Cung Càn, sao Thổ-Tú hạn Huỳnh-Tuyền: Số người rất thông minh, chịu rèn luyện để ứng phó được nghịch cảnh. Nữ nhân mà nam tướng và nam tánh. Can đảm quyết liệt, dứt khoát. Đại kỵ màu đen, hạp màu đỏ. Hạnh phúc chỉ cảm nhận trong trái tim, nhưng lại do bàn tay và khối óc tạo thành. Lấy chồng hạp tuổi cũng là một yếu tố thuận lợi cho sự bền vững của hôn nhân. Các tuổi ấy là Ất-Tị (1965), Đinh-Dậu (1957), Tân-Mão (1951), Tân-Sửu (1961), Đinh-Mùi (1967) và Quý-Tỵ (1953). Kỵ tuổi Nhâm-Dần (1962) và Bính-Ngọ (1966). Hướng làm ăn tốt nhất là Đông Bắc, Tây Nam và Tây Bắc.

“Nữ nhân nam tính Trời sanh

Can đảm quyết liệt tranh giành lợi danh

Hạnh phúc đôi lứa mong manh

Bàn tay khối óc tạo thành tương lai”

Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Ngũ Thọ Tử” không nên xây cất nhà cửa hay cơ sở kinh doanh. Công việc làm ăn cứ theo đường xưa lối cũ, không nên khuếch trương mở mang, tránh tình trạng lớn thuyền lớn sóng, tiếng có miếng không. Tháng 4, tháng 8 trong gia đình có người bệnh hoạn ốm đau, hay tang chế bà con. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại để khỏi khó khăn về tài chánh. Trước khi lái xe đi xa, phải bảo trì xe cộ kỹ lưỡng, phòng bị nằm đường.

NHÂM-THÌN  62 TUỔI: (Sinh từ 27/1/1952 đến 13/2/1953).

Mệnh: Trường Lưu Thủy (Nước chảy thành dòng lớn).

NAM: Cung Chấn, sao Thái-Am, hạn Diêm-Vương:“Nam Nhâm nữ  Quý”, tuổi Nhâm có cách hơn người đó là thông minh hùng biện, thích lãnh đạo chỉ huy, mưu đồ đại sự và có tinh thần trách nhiệm. Trước khó khăn không lùi bước, cố gắng tiến lên. Ly hương giàu sang phú quí. Hướng nhà cửa và kinh doanh ưu tiên là chánh Nam và chánh Đông. Tuy nhiên phương hướng chỉ đóng góp 20% cho sự thành bại mà thôi. Còn 80% do khí mạch đất đai, lối cấu trúc, môi trường... nói chung là phong thủy, địa lý. Lấy vợ không hợp tuổi có thể nhiều phen thay đổi. Nếu hiền nội nhằm tuổi Mậu-Tuất (1958), Kỷ-Hợi (1959), Canh-Tuất (1970) và Tân-Hợi (1971), thì sau lưng một người đàn ông thành công quả đã có một người đàn bà vĩ đại.

“Nam Nhâm, nữ Quý số trời

Tài trai lãnh đạo hợp thời chỉ huy

Tinh thần trách nhiệm gắng ghi

Giàu sang phú quí nam nhi hưởng đời.

Năm nay  bàn tay Kim Lâu nhằm “Nhị Nghi” nếu muốn xây cất, chỉnh trang nhà cửa hay cơ sở thương mãi, có thể thực hiện được. Muốn thay đổi việc làm, chỗ ở hay đi xa xuất ngoại sẽ gặp hoàn cảnh thuận lợi. Qúy ông làm công chức sẽ được thăng quan tấn chức. Qúy ông kinh doanh thương mãi cũng thành công, tài chánh vững vàng. Gia đình có hỉ sự như thêm cháu nội ngoại. Tuy nhiên, qúy ông dùng nhiều về computer, hay bị đau mắt.

NỮ: Cung Chấn, sao Thái-Bạch, hạn Thiên-La: Nữ nhân mà nam tánh, vừa làm mẹ vừa làm cha và là rường cột của gia đình. Sẵn sàng đứng đầu sóng ngọn gió, phản ứng nhanh nhẹn, đối đầu với phong ba bão táp, cố gắng không ngừng để vươn lên. Dù trong lúc thất thế ngậm đắng nuốt cay, hay khi vinh quang rực rỡ, luôn là người sống không thẹn với lòng. Đừng sợ phải nhìn lại quá khứ đau thương, đó chẳng qua là do duyên nghiệp đẩy đưa ta vào chỗ đoạn trường. Đã sang sông đừng tiếc con thuyền, hãy tiến về phía trước với những hứa hẹn đón mời. Tình đầu bao giờ cũng đẹp, nhưng tình cuối mới là tình bất diệt. Qúy bà sinh mùa Thu, Đông luôn luôn sung túc vững bền. Hướng làm ăn tốt nhất là chánh Đông và chánh Nam. Nếu phu quân nhằm tuổi Ất-Mùi (1955), Ất-Dậu (1945), hay Tân-Mão (1951) thì đường chồng con mới khỏi trắc trở phần nào.

“Nữ nhân nam tánh lạ thường

Gia đình quán xuyến cột rường vững tin

Phong ba chèo chống một mình

Vượt qua cay đắng, quang vinh sáng ngời”

Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Nhị Nghi” nếu muốn xây cất, chỉnh trang nhà cửa, cơ sở kinh doanh, có thể thực hiện được. Nếu muốn thay đổi việc làm, chỗ ở hay đi xa xuất ngoại sẽ được như ý. Qúy bà làm công vụ sẽ được thăng quan tấn chức. Qúy bà kinh doanh thương mãi, rất thành công về tài chánh. Gia đình có hỉ sự như có cháu nội, ngoại…

Nguồn Vietstar

Xin Lưu ý: Đây chỉ là tài liệu tham khảo, nếu Quý khách hàng muốn có bài luận giải tử vi đúng của chính mình, xin vui lòng đóng phí ở dịch vụ Xem tử vi trọn đời để được chuyên gia gửi bài luận giải qua địa chỉ email.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận sơ lược Tử vi Tuổi Thìn

Vì sao quét nhà, hót rác ngày Tết là đại kỵ? –

Việc kiêng kỵ còn tùy vào quan niệm riêng của từng gia đình. Song, hiểu các tập tục ngày Tết sẽ giúp người ta biết cách cư xử sao cho tế nhị, tránh gây hiểu lầm, khó xử. Cùng ## khám phá kiến thức tử vi và tìm hiểu vì sao quét nhà, hót
Vì sao quét nhà, hót rác ngày Tết là đại kỵ? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ihmPPuyr33BON Vì sao quét nhà, hót rác ngày Tết là đại kỵ?

rác ngày Tết lại là đại kỵ nhé!

Theo quan niệm dân gian, việc quét nhà trong ngày Tết sẽ quét đi theo cả lộc xuân, gia đình sẽ bị xui xẻo.

## thấy tục này bắt nguồn từ một điển tích của Trung Quốc ghi trong “Sưu thần ký”. Có người lái buôn tên là Âu Minh, đi qua hồ Thanh Thảo được thủy thần cho một người hầu tên là Như Nguyệt, đem về nhà được vài năm thì Âu Minh ăn nên làm ra, nhà rất giàu.

Một hôm, nhân ngày mồng một Tết, không biết vì lý do gì Âu Minh đánh Như Nguyệt, cô sợ quá chui vào đống rác ở góc nhà. Vợ Âu Minh không để ý nên vô tình quét nhà hót luôn cả đống rác có Như Nguyệt bên trong đổ đi. Từ đó nhà Âu Minh lại nghèo đi. Người ta bảo Như Nguyệt chính là thần tài và lập bàn thờ để thờ. (Có lẽ vì vậy mà bàn thờ thần tài thường để ở góc nhà). Từ đó có tục kiêng hót rác trong ba ngày đầu năm do người ta sợ hót mất thần tài ẩn trong đó đổ đi, sự làm ăn sẽ không phát đạt.

Ở Việt Nam lại có chuyện “Sự tích cái chổi” để giải thích tập tục này.

Theo ## thì ngày xưa ở trên trời có một người đàn bà nấu ăn rất khéo tay nên Ngọc Hoàng giao cho bà chuyên trông nom công việc nấu ăn ở thiên trù. Nhưng bà lại có tật hay ăn vụng và tham lam. Bà yêu một lão chăn ngựa cho thiên đình. Đã nhiều phen bà lấy cắp rượu thịt trong thiên trù giấu đưa ra cho lão và cũng nhiều phen bà dắt lão lẻn vào kho rượu, mặc sức cho lão bí tỉ. Lệ nhà trời những người hầu hạ đều có thức ăn riêng, nhất thiết không được đụng chạm đến ngự thiện, dù là Ngọc Hoàng ăn thừa cũng vậy.

Một hôm, Ngọc Hoàng mở tiệc đãi quần thần. Giữa lúc cỗ đang bày lên mâm thì từ đàng xa, bà đã nghe tiếng lão chăn ngựa hát. Bà biết lão tìm mình. Bà lật đật ra đón và đưa giấu lão vào phía góc chạn. Trong bóng tối, trên giá mâm đặt ở gần đó có biết bao là mỹ vị mùi hương thơm phức. Đang đói sẵn, lão giở lồng bàn sờ soạng bốc lấy bốc để…

Khi những người lính hầu vô tình bưng mâm ngự thiện ra thì bát nào bát ấy đều như đã có người nếm trước. Ngọc Hoàng thượng đế vừa trông thấy không ngăn được cơn thịnh nộ.

Tiếng quát tháo của Ngọc Hoàng dữ dội làm cho mọi người sợ hãi. Người đàn bà nấu bếp cúi đầu nhận tội và bị đày xuống trần, bắt phải làm chổi để phải làm việc luôn tay không nghỉ và tìm thức ăn trong những rác rưởi dơ bẩn của trần gian. Lâu về sau, thấy phạm nhân bày tỏ là phải làm khổ sai ngày này qua tháng khác không lúc nào được nghỉ, Ngọc Hoàng thương tình ra lệnh cho nghỉ ba ngày trong một năm. Ba ngày đó là ba ngày Tết Nguyên đán.Bởi vậy đời sau trong dịp Tết Nguyên đán, người ta có tục lệ kiêng không quét nhà để cho chổi được nghỉ.

Tuy nhiên, theo GS Ngô Đức Thịnh – nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam, việc kiêng kỵ này còn tùy thuộc vào quan niệm và tín ngưỡng riêng của từng người, từng gia đình. Song, nếu hiểu biết các tập tục ngày Tết sẽ giúp người ta biết cách cư xử sao cho tế nhị, tránh gây hiểu lầm, khó xử trong các mối quan hệ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao quét nhà, hót rác ngày Tết là đại kỵ? –

Lễ Giáng Sinh và những điều bạn chưa biết

Khắp phố phường đã vang lên giai điệu của bài “Jingle bell” quen thuộc, vậy là một mùa Giáng Sinh nữa lại sắp về cùng chúng ta. Ai cũng biết Noel là một lễ hội lớn và nhộn nhịp nhưng không có nhiều người hiểu hết ý nghĩa của sự kiện này, hãy cùng Orchard.vn tìm hiểu một số điểm đặc biệt từ lễ hội này nhé!

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nguồn gốc và Ý nghĩa ngày lễ Noel

Lễ Giáng Sinh là ngày Lễ của những người theo đạo Kitô Giáo, mừng ngày Chúa Giêsu Kitô ra đời trong niềm hân hoan, vui sướng. Thế nhưng theo thời gian, lễ hội này được khắp thế giới tiếp thu như một nghi lễ quốc tế với Ông già Noel cưỡi tuần lộc, cây thông Noel trang trí đẹp mắt và người tuyết ngộ nghĩnh.

Ý nghĩa ngày lề Giáng Sinh
Nơi Chúa sinh ra đời.

Noel còn được xem như một ngày lễ của gia đình, nơi các thành viên xum họp,  quây quần bên nhau cùng thưởng  thức bữa tối, cùng nghe giai điệu Merry Chirtsmas! vang lên và không quên  trao cho nhau những món quà mang giá trị kỉ niệm sâu sắc.  Đặc biệt hơn, trẻ con sẽ thật phấn khích vào lễ giáng sinh vì chúng nghĩ sẽ được Ông già Noel thực hiện hóa điều ước của mình như tương truyền nhiều năm trước đó.

Ý nghĩa Một Số Món Đồ Trang Trí

Thường thì Noel sẽ có rất nhiều vật dụng dùng để trang hoàng nhà cửa, phố xá thêm lộng lẫy. Những món đồ trang trí này đều có ý nghĩa của riêng có, hãy cùng điểm qua một vài món nhé.

Vòng Lá Mùa Vọng

Ý nghĩa ngày lề Giáng Sinh
Vòng lá trang trí

Vòng lá mùa vọng là vòng tròn được kết bằng cành lá xanh được trang hoàng trong dịp đông chí để báo hiệu mùa đông sắp kết thúc, trên mỗi vòng lá sẽ được đặt bốn cây nến. Vòng lá tôn vinh được tình yêu vĩnh hằng và vô tận của Thiên Chúa. Nếu đúng với nghi thức Công Giáo, bốn cây nến gồm ba cây màu tím – màu của Mùa Vọng, cây còn lại màu hồng, màu của Chúa Nhật thứ Ba mùa Vọng, hay còn gọi là Chúa Nhật Vui mừng . Chúng ta dễ dàng bắt gặp vòng lá được đặt trên bàn hay treo lên cao vừa trang trí đẹp mắt vừa thể hiện được sự tôn nghiêm. Tuy vậy, trải qua hàng trăm năm, ý nghĩa ban đầu của vòng lá đã bị thay đổi ít nhiều so với ý nghĩa gốc.

Cây Thông

Ý nghĩa ngày lề Giáng Sinh
Cây thông Noel

Cây thông Noel là một biểu tượng không thể thiếu mỗi dịp giáng sinh. Hình ảnh cây thông xanh mượt được gắn kết những quả châu, dây kim tuyến lấp lánh, ánh đèn đủ màu sắc tạo nên sự rực rỡ bắt mắt cho bất kì ai nhìn thấy nó. Cây thông được xem như màu xanh vĩnh cửu, biểu tượng của niềm hi vọng và sức sống trong lễ hội chào đón năm mới. Bởi vì trong thực tế, thông là loài sống ở thời tiết lạnh giá, khắc  nghiệt, nhưng lúc nào nó cũng hiên ngang, giữ được sự tươi tốt, vững chai. Từ đó nó được hình tượng hóa với ý nghĩa tràn đầy ý nghĩa. Cây thông Noel xuất hiện lần đầu tiên ở Đức vào thế kỉ 16, sau đó đến Anh trong những năm đầu thế kỉ 19, ngày nay thì nó đã có mặt trên toàn thế giới.

Thiệp Giáng Sinh

Ý nghĩa ngày lề Giáng Sinh
Thiệp Noel

Thiệp giáng sinh cũng là món quà được nhiều người trao tặng nhau vào lễ Noel.  Với hình ảnh ông già Noel cưỡi tuần lộc, người tuyết trắng xóa được vẽ được trang trí hài hòa và phát ra giai điệu du dương nhẹ nhàng. Thật tuyệt vời nếu chúng ta được gửi tặng những lời chúc an lành hạnh phúc từ những chiếc thiệp giáng sinh đáng yêu phải không nào? Tấm thiệp đầu tiên bắt nguồn từ Henry Cole, một thương gia người Anh, ông đã nhờ họa sĩ John Callcott Horsley vẽ cho mình những tấm thiệp để tặng bạn bè vào dịp Giáng Sinh, không ngờ rằng sau đó, thiệp Noel đã thành mốt thời thượng, lan truyền rất nhanh và bây giờ hầu như Noel ai cũng tặng thiệp cho nhau với những lời chúc ý nghĩa nhất.

Ngôi sao

Ý nghĩa ngày lề Giáng Sinh
Ngôi sao trang trí trên cây thông.

Ngôi sao năm cánh cũng là một thành phần không thể thiếu mỗi khi Giáng Ginh về. Bạn sẽ dễ dàng bắt gặp những ngôi sao to lớn nhiều màu sắc được trang trí khắp nơi. Một ngôi sao to nhất đẹp nhất sẽ được treo ở tháp chuông nhà thờ, từ đó căng giấy ra bốn phía. Có nhiều ngôi sao nhỏ treo đèn lồng và kết hoa đẹp mắt để mừng ngài Chúa sinh ra đời, rực rỡ và lấp lánh như  hồng ân của Chúa Giêsu. Tương truyền, khi Chúa sinh ra, ngôi sao là vật đã chỉ đường ba vị vua từ phía Đông xa xôi đến dâng lễ vật gồm vàng, nhũ hương, mộc dược mừng Chúa Giêsu.

Chiếc bít tất

Ý nghĩa ngày lề Giáng Sinh
Những chiếc bít tất quen thuộc.

Cuối cùng là những chiếc bít tất. Tương truyền rằng, nhà kia có 3 cô gái đến tuổi lập gia đình nhưng không có chàng trai nào nhòm ngó đến vì gia cảnh quá nghèo. Đức giám mục Myra rất thương xót nên đã ném những đồng tiền vàng xuống ống khói nhà của 3 cô gái. Những đồng tiền vàng rơi từ trên nóc nhà xuống đúng các đôi bít tất mà các cô treo hông bên lò sưởi, giúp họ có cơ hội để thực hiện nguyện ước của mình. Câu truyện trên được lan truyền rộng trãi, trẻ em cũng hi vọng nhận được thật nhiều quà, từ đó có tục trẻ em treo bít tất cạnh lò sưởi để được nhận quà từ Ông già Noel.

Hy vọng, một vài thông tin hữu ích này sẽ giúp mọi người có một mùa Giáng Sinh ấm ấp và ý nghĩa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ Giáng Sinh và những điều bạn chưa biết

May mắn sẽ đến nếu ngủ mơ thấy bọ

Giấc mơ xuất hiện hình ảnh của những con bọ có thể mang đến những điềm tốt lành và cả điều mà chủ nhân không mong đợi. Mơ thấy bọ có ý nghĩa gì?
May mắn sẽ đến nếu ngủ mơ thấy bọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Giấc mơ xuất hiện hình ảnh của những con bọ có thể mang đến những điềm tốt lành và cả điều mà chủ nhân không mong đợi.


► Tham khảo thêm: Giải mã việc mơ thấy cá, mơ thấy máu theo thế giới tâm linh

May man se den neu mo thay con bo hinh anh
Ảnh minh họa
  Bạn hãy mở rộng cửa để đón tài lộc sắp kéo đến đầy nhà nếu trong giấc mơ bạn thấy có người bắt bọ chét hay chấy rận cho mình. Ngoài ra, đó còn là cát mộng dự báo mọi việc của bạn sẽ rất hanh thông, may mắn.   Nằm mơ thấy bắt bọ chét hay bắt chí rận cho bất cứ ai là vượt qua một âm mưu ám hại mình.   Hình ảnh bọ chét nhung nhúc, chồng chất có thể khiến bất kỳ ai cũng phải rùng mình khiếp sợ. Nhưng đó là cảnh ai cũng mong muốn gặp trong giấc mơ, bởi đó là điềm báo tốt lành dự báo bạn sắp được phát tài lớn.   Ngược lại với những điều tốt lành trên, một số giấc mơ liên quan đến bọ là điềm không  tốt, bạn nên chú ý để tránh rủi ro. Nếu gặp giấc mơ thấy mình bắt bọ chét, bắt chấy rận cho ai đó thì bạn cần đề phòng những chuyện xấu rình rập.   Chiêm bao thấy bọ dừa, bọ hung, sâu là điềm báo bạn có thể gặp trở ngại trong công việc và cần đề phòng chuyện hao tài tốn của. Bạn cũng nên đề phòng những bất trắc về tiền của và sức khỏe nếu mơ thấy bị bọ cắn.   Nằm mơ thấy bị bọ cắn là điềm có kẻ tiểu nhân đang lăm le ám hại.   Tổng hợp  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: May mắn sẽ đến nếu ngủ mơ thấy bọ

Những nốt ruồi đại phú đại quý kỵ tẩy xóa –

Ai cũng đều có nốt ruồi trên người và đôi khi nốt ruồi có thể cho bạn biết được những điềm hung, cát trong cuộc đời của bạn. Khi thấy những nốt ruồi này trên cơ thể của bạn, bạn đừng nên tẩy xóa vì nó có thể mang lại cho bạn may mắn, phú quý mà hiếm
Những nốt ruồi đại phú đại quý kỵ tẩy xóa –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những nốt ruồi đại phú đại quý kỵ tẩy xóa –

Nốt ruồi trên đầu có ý nghĩa gì?

Những nốt ruồi trên đầu hay nốt ruồi trên đỉnh đầu thường là những nốt ruồi tốt.Tuy nhiên với những nốt ruồi sát chân tóc, những nốt ruồi trên trán gần chân tóc thường là những nốt ruồi không tốt.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn muốn biết nốt ruồi trên đầu có ý nghĩa gì? Nốt ruồi trên đầu là tốt hay xấu là cát hay hung. Cùng Thư viện Xem bói tìm hiểu về vấn đề này nhé.

Nốt ruồi trên đầu có ý nghĩa gì?

Những nốt ruồi trên đầu hay nốt ruồi trên đỉnh đầu thường là những nốt ruồi tốt.Tuy nhiên với những nốt ruồi sát chân tóc, những nốt ruồi trên trán gần chân tóc thường là những nốt ruồi không tốt. Bạn có thể tham khảo ý nghĩa của những nốt ruồi trên đầu dưới đây:

Nốt ruồi trên đầu có ý nghĩa gì?

Nốt ruồi số 1: Nốt ruồi khắc cha. Thường phải xa cha từ nhỏ. Lớn lên phải tự lập, không nhờ vả được cha.

2. Nốt ruồi khắc mẹ. Thường phải xa mẹ từ nhỏ. Không được ở gần mẹ.

3. Nốt ruồi khắc cha mẹ. Thường mất xa mẹ từ khỏ.

4. Người có cuộc sống bình dị, không bon chen.

5 Là người có đạo đức cao.

6 Là người sống rất thọ. Nếu có cả nốt ruồi số 2 thì cuộc sống rất sung túc.

7 Là người có số may mắn, công việc bao giờ cũng thành công.

8 Nốt ruồi đại phú, là người có tiền bạc, tài sản.

9 Nốt ruồi đại quý, là người có chức tước, công danh và địa vị trong xã hội.

10. Người biết thời thế, thường được nhiều cao nhân giúp đỡ.

11. Nốt ruồi thị phi, dễ bị vướng vào những chuyện kiên tụng, mất mát,...

12. Nốt ruồi đại tốt. Cuộc đời sẽ gặp nhiều may mắn.

13. Nốt ruồi khắc cha. Thường cha mất trước mẹ.

14 Nốt ruồi đi xa. Thường phải đi xa mới lập nghiệp được.

15. Sống xa nhà từ bé, đến khi chết cũng không được an nghỉ tại nơi chôn rau cắt rốn.

16. Nốt ruồi thiên hình: Thường bị thương tật về tại nạn hay ốm đau.

Trên đây là một số ý nghĩa về các nốt ruồi ở trên đầu. Để xem thêm những ý nghĩa của các nốt ruồi khác. Bạn có thể tham khảo tại đây:

Xem bói nốt ruồi đoán tương lai, vận mệnh của bạn
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nốt ruồi trên đầu có ý nghĩa gì?

Ý nghĩa sao Tử phù

Sao Tử Phù thuộc hành Kim, chủ sự tang thương, hay gây rắc rối, ngăn trở mọi sự việc. Ngoài ra, còn có ý nghĩa sự chết, báo hiệu tang thương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Tử phù

Ý nghĩa sao Tử phù

Hành: Kim

Loại: Hung Tinh

Đặc Tính: Tật bệnh, buồn thảm, nguy khốn, gây rắc rối ngăn trở công việc.

Là một phụ tinh. Là Sao thứ 6 trong 12 sao thuộc vòng sao Thái Tuế theo thứ tự: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức, Điếu Khách, Trực Phù. Luôn có sao Nguyệt Đức đồng cung.

Sao Tử Phù chủ sự buồn thảm, nguy khốn. Đây là một hung tinh loại nhẹ, chỉ một ác lâm vừa phải có mức độ.

Sao Tử Phù thuộc hành Kim, chủ sự tang thương, hay gây rắc rối, ngăn trở mọi sự việc. Ngoài ra, còn có ý nghĩa sự chết, báo hiệu tang thương.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Tử phù

Mơ thấy nữ tiếp viên: Dục vọng giảm sút –

Nữ tiếp viên có nhiệm chăm sóc phục vụ khách hàng. Hình ảnh nữ tiếp viên trong mơ thường liên quan đến quan hệ nam nữ, có đặc điểm của “mục đích giới tính”.   Vì thế, nếu nam giới mơ thấy nữ tiếp viên, cho thấy dục vọng bị hạ thấp, ý nghĩa tượng
Mơ thấy nữ tiếp viên: Dục vọng giảm sút –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy nữ tiếp viên: Dục vọng giảm sút –

Tuyển tập những câu nói hay về bản thân mình

Tuyển tập những câu nói hay về bản thân mình. Người ta có câu: “Cha mẹ sinh con, trời sinh tính”, bởi vậy mà mỗi con người
Tuyển tập những câu nói hay về bản thân mình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuyển tập những câu nói hay về bản thân mình. Người ta có câu: “Cha mẹ sinh con, trời sinh tính”, bởi vậy mà mỗi con người, mỗi bản thân chúng ta trong cuộc sống không ai giống ai. Mỗi người có một ngoại hình riêng, mỗi tính cách khác nhau sẽ tạo nên sự đa dạng trong cuộc sống của chúng ta. Về chính bản thân mình, bạn có thể hiểu rõ mình muốn gì, làm gì và làm như thế nào nhưng đôi lúc, có những sự quyết định cần sự góp ý của người khác.

Và chúng tôi đã sưu tầm được những câu nói hay về bản thân mà bạn nên đọc và suy ngẫm dưới đây.

Tuyển tập những câu nói hay về bản thân mình

1. Có một câu hỏi đôi khi khiến tôi thấy mơ hồ: Tôi điên hay người khác điên?

2. Không một ai có thể làm cho bạn cảm thấy mình thấp kém nếu không có sự đồng ý của bạn.

3. Thành công và hạnh phúc nằm trong bạn. Quyết tâm hạnh phúc, và niềm vui sẽ đi cùng bạn để hình thành đạo quân bất khả chiến bại chống lại nghịch cảnh.

4. Tương lai của bạn phụ thuộc vào rất nhiều điều, nhưng chủ yếu là vào bạn.

5. Vượt lên phía trước là một công việc đòi hỏi lòng tin tưởng khát khao vào bản thân. Đó là vì sao vài người với tài năng tầm thường nhưng có chí tiến thủ lớn lao lại đi xa hơn nhiều những người với tài năng vượt trội hơn hẳn.

6. Hãy yêu bản thân vô điều kiện, như là bạn yêu những người thân thiết với mình bất chấp khuyết điểm của họ.

7. Hãy có trách nhiệm với cuộc đời mình. Hãy biết rằng chính bạn là người sẽ đưa bạn tới nơi bạn muốn đến chứ không phải ai khác.

8. Sống như chính mình trong một thế giới luôn cố biến mình thành người khác là thành tựu lớn nhất.

9. Bệnh nhân nào cũng đem theo bên trong người thầy thuốc của chính bản thân mình.

10. Ngay bây giờ bạn đã có trong mình mọi thứ bạn cần để đối phó với bất kỳ điều gì mà thế giới ném vào bạn.

11. Hạnh phúc lớn nhất ở đời là có thể tin chắc rằng ta được yêu thương – yêu vì chính bản thân ta, hay đúng hơn, yêu bất kể bản thân ta.

12. Con người chỉ là sản phẩm của cách mình suy nghĩ. Anh nghĩ gì, anh sẽ trở thành cái đó.

13. Tôi là chính bản thân tôi. Tôi thích điều tôi thích. Tôi yêu điều tôi yêu. Tôi làm điều mình muốn làm. Tránh ra và chấp nhận đi. Đây là cuộc sống của tôi, không phải của ai khác.

14. Đừng bao giờ nói về mình những điều mình không muốn trở thành hiện thực.

15. Người biết yêu bản thân mình không có đối thủ.

16. Người sáng tác chính bản thân mình thông thái hơn người sáng tác một cuốn sách.

17. Những đam mê của chúng ta nói lên chính bản thân ta.

18. Bậc thềm tiến vào thánh đường của trí tuệ là biết sự ngu dốt của chính mình.

19. Không có giá trị nào trong cuộc sống trừ những gì bạn chọn đặt lên nó, và không có hạnh phúc ở bất cứ đâu trừ điều bạn mang đến cho bản thân mình.

20. Học… học để là chính mình, và học để từ bỏ với vẻ thanh cao những gì không phải là mình.

21. Điều tôi đi tìm không ở ngoài kia, nó ở trong bản thân tôi.

22. Khi ba mươi tuổi, người ta nên biết rõ mình như trong lòng bàn tay, biết rõ con số cụ thể của những khiếm khuyết và phẩm chất của mình, biết mình có thể đi xa bao nhiêu, đoán trước những thất bại – là chính bản thân mình. Và trên hết, chấp nhận những điều đó.

23. Bạn không cần ai nói với bạn rằng bạn là ai hay bạn là điều gì. Bạn là chính con người bạn!

24. Không dễ để tìm hạnh phúc trong bản thân mình, và không thể tìm thấy nó ở đâu khác.

25. Luôn luôn mơ và nhắm cao hơn khả năng của bản thân. Đừng bận tâm tới việc làm tốt hơn những người đương thời hay những người đi trước. Hãy cố để tốt hơn chính mình.

26. Chúa giúp người biết tự giúp mình.

27. Có một điều mà chúng ta có thể làm được tốt hơn bất cứ ai khác: chúng ta có thể là chính mình.

28. Hãy là bạn với chính mình, rồi người khác sẽ đến.

29. Hãy nghĩ về … thế giới bạn mang trong bản thân mình.

30. Có ba thứ cực kỳ cứng: thép, kim cương, và tự thấu hiểu bản thân.

Ngoài ra, bạn còn có thể tham khảo thêm những câu nói hay về cuộc sống, tình bạn, tình yêu qua blog của chúng tôi để có những cái nhìn mới hơn về cuộc đời mình nhé.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuyển tập những câu nói hay về bản thân mình

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Nhân quả đời thường: Cứu vật vật trả ơn

Có câu Cứu vật vật trả ơn, phóng sinh lợi ích vô cùng, công đức phóng sinh động vật to lớn không thể nào tưởng tượng nổi, lòng lương thiện từ bỏ nghiệp sát
Nhân quả đời thường: Cứu vật vật trả ơn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có câu “cứu vật vật trả ơn”, điều này quả thật đúng, rất nhiều người đã từng gặp trường hợp như thế. Câu chuyện về chú voọc cứu mạng cả thôn làng tại vùng núi sâu Kim Phật khiến người ta phải cảm động.

Vương Chí Thành sống ở dưới chân núi Bắc Cơ, khi đang hái thuốc trong rừng thì bắt gặp một chú voọc đầu đen má trắng khoảng trên 2 tuổi đang bị thương ở tay trái. Anh Vương ôm chú chú voọc này về nhà, rửa vết thương cho nó, đắp thảo dược, giữ lại trong nhà mà chữa trị.

Một tuần sau, vết thương của chú voọc đã khá lên nhiều, nhưng có vẻ con vật không muốn rời đi, hàng ngày vẫn đi quanh quẩn ở nhà của Vương, thậm chí còn giúp đỡ công việc nhà. Lúc có lợn rừng, khỉ vàng, nhím đến ăn trộm hoa màu, chú voọc liền xông ra hù dọa xua đuổi bọn chúng. Cứ như vậy, sau khi sống ở nhà Vương Chí Thành hơn một tháng, một buổi sáng nọ chú voọc đã lặng lẽ rời khỏi nhà anh.

Một ngày, vào lúc 3 giờ sáng cuối tháng 9, thôn làng nơi Vương Chí Thành đang ở vẫn còn chìm sâu trong giấc ngủ.

Đột nhiên một tràng tiếng gõ cửa dữ dội cùng với tiếng la hét thảm thiết, khiến Vương bừng tỉnh. Vương chạy ra cửa xem thử, thì ra là chú voọc đã quay về!

Vương đang định tiến lên ôm nó, chú voọc bỗng tỏ thái độ khác thường, giãy giụa khỏi tay anh, lo lắng kêu to. Thấy Vương Chí Thành không hiểu ý mình, chú voọc đưa ngón tay chỉ về phía dãy núi đằng sau. Vương quay đầu lại nhìn, thì phát hiện dãy núi lớn đang sạt lở, những tảng đá lớn trên núi đang không ngừng lăn xuống.

Chú voọc duỗi thẳng tay ra, gắng sức kéo Vương, ngụ ý là bảo anh hãy chạy cho mau. Vương Chí Thành cuối cùng đã hiểu rõ tính nguy hiểm, anh vội chạy về phòng đánh thức vợ, tay bế con thơ, chạy ra khỏi nhà. Tiếp đó, lại đến từng nhà từng nhà một mà hô lớn lên.

Toàn thôn có năm hộ gia đình với tổng cộng hơn hai mươi người vừa chạy ra khỏi nhà, thì những tảng đá to lớn liền lăn xuống, phá hủy hết toàn bộ thôn làng. Rất nhiều người trong làng đã khóc: Nguy hiểm quá, nếu như không phải chú voọc đến cứu, thì cả thôn đã cầm chắc cái chết.

Thôn dân đã được cứu sống, tìm kiếm “ân nhân” cứu mạng mình. Họ chỉ thấy chú vọoc đầu đen má trắng đứng trên tàng cây nhìn mọi người, miệng phát ra tiếng kêu mừng rỡ “Ô…. ô….”. Dường như, chú muốn chúc phúc cho những người đã thoát khỏi Tử thần, cũng là chúc phúc cho tất cả các loài vật vì từ nay con người sẽ yêu thương động vật hơn.

Chỉ khuyên con người thế gian khôi phục lòng lương thiện, từ bỏ nghiệp sát. Hãy phóng sinh, bởi vì phóng sinh động vật vốn cũng là phóng sinh con người, cứu mạng người khác chẳng khác nào cứu mạng của mình, phóng sinh, lợi ích vô cùng, công đức không thể nào tưởng tượng nổi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhân quả đời thường: Cứu vật vật trả ơn
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd