Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tháng 7 âm lịch - tháng của tâm linh

Tháng 7 âm lịch liên tiếp có lễ Vu lan, ngày Xá tội vong nhân và lễ tình nhân Ngưu Lang – Chức Nữ. Cùng tìm hiểu truyền thuyết về nguồn gốc của các ngày lễ để
Tháng 7 âm lịch - tháng của tâm linh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiếm có tháng nào nhiều ngày lễ tâm linh như tháng 7 âm lịch. Tháng này liên tiếp có lễ Vu Lan, ngày Xá tội vong nhân và lễ tình nhân Ngưu Lang – Chức Nữ. Cùng tìm hiểu truyền thuyết về nguồn gốc của các ngày lễ để hiểu rõ hơn về ý nghĩa của chúng.


► Mời các bạn: Xem lịch âm, lịch vạn sự chuẩn xác tại Lichngaytot.com

Lễ Vu Lan
Thang 7 am lich - thang cua tam linh hinh anh
 
Xuất xứ lễ Vu Lan vào tháng 7 âm lịch xuất phát từ sự tích về Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ. Vu Lan là ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ (và tổ tiên nói chung) - cha mẹ của kiếp này và của các kiếp trước.
 
Theo kinh Vu Lan, Mục Kiền Liên đã tu luyện thành công nhiều phép thần thông. Mẫu thân ông là bà Thanh Đề đã qua đời, ông tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ như thế nào nên dùng mắt phép nhìn khắp trời đất để tìm. Thấy mẹ mình, vì gây nhiều nghiệp ác nên phải sinh làm ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở, ông đã đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ.

Tuy nhiên do đói ăn lâu ngày nên mẹ của ông khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình đi tranh không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, vì vậy khi thức ăn đưa lên miệng thức ăn đã hóa thành lửa đỏ.
 
Mục Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: "dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để vận động chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó". 
 
Làm theo lời Phật, mẹ của Mục Liên đã được giải thoát. Phật cũng dạy rằng chúng sinh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu Lan Bồn Pháp). Từ đó ngày lễ Vu Lan ra đời.

Ngày xá tội vong nhân

Thang 7 am lich - thang cua tam linh hinh anh
 
Cứ theo "Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni Kinh" mà suy thì việc cúng cô hồn có liên quan đến câu chuyện giữa ông A Nan Ðà, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu) cũng gọi là quỷ mặt cháy (diệm nhiên). Có một buổi tối, A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày sau A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ miệng lửa mặt cháy như nó trong tháng 7 âm lịch.
 
A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho phương cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói: "Ngày mai ông phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc thức ăn, lại vì tôi mà cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ được tăng thọ mà tôi đây cũng sẽ được sanh về cõi trên". 
 
A Nan đem chuyện bạch với Ðức Phật. Phật bèn đặt cho bài chú gọi là "Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni", đem tụng trong lễ cúng để được thêm phước. Phật tử Trung Hoa gọi lễ cúng này là Phóng diệm khẩu, tức là cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ đói miệng lửa, nhưng dân gian thì hiểu rộng ra và trại đi thành cúng cô hồn, tức là cúng thí cho những vong hồn vật vờ, không nơi nương tựa vì không có ai là thân nhân trên trần gian cúng bái. Về sau lại được hiểu rộng thêm một lần nữa thành "tha tội cho tất cả những người chết". Vì vậy, ngày nay mới có câu : "Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân". 
 
Lễ tình nhân Ngưu Lang – Chức Nữ 

Thang 7 am lich - thang cua tam linh hinh anh
 
Thuở xưa, có vị thần chăn trâu của Ngọc Hoàng tên là Ngưu Lang, vì say mê nhan sắc của một tiên nữ phụ trách việc dệt vải tên là Chức Nữ nên bỏ bê việc chăn trâu, để trâu đi nghênh ngang vào điện Ngọc Hư. Chức Nữ cũng vì mê tiếng tiêu của Ngưu Lang nên trễ nải việc dệt vải. Ngọc Hoàng thượng đế giận giữ, bắt cả hai phải ở cách xa nhau, người đầu sông Ngân, kẻ cuối sông.

Về sau, Ngọc Hoàng thương tình nên ra ơn cho Ngưu Lang và Chức Nữ mỗi năm được gặp nhau một lần vào đêm mùng 7 tháng 7 âm lịch. Khi tiễn biệt nhau, Ngưu Lang và Chức Nữ khóc sướt mướt. Nước mắt của họ rơi xuống trần hoá thành cơn mưa và được người dưới trần gian đặt tên là mưa ngâu (thông thường vào tháng 7 âm lịch) và gọi họ là ông Ngâu bà Ngâu. 
 
Thời bấy giờ sông Ngân trên thiên đình không có một cây cầu nào cả nên Ngọc Hoàng mới ra lệnh cho làm cầu để Ngưu Lang và Chức Nữ được gặp nhau. Các phường thợ mộc ở trần thế được vời lên trời để xây cầu. Các phường thợ mộc mạnh ai nấy làm, không ai nghe ai. Kẻ muốn làm kiểu này, người muốn làm kiểu kia, cãi nhau chí chóe. 
 
Đến kỳ hạn mà cầu vẫn không xong. Ngọc Hoàng bực tức, bắt tội các phường thợ mộc hóa kiếp làm quạ lấy đầu sắp lại làm cầu cho Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau. Vì thế cứ tới tháng bảy là loài quạ phải họp nhau lại để chuẩn bị lên trời bắc Ô kiều. 
ST


 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tháng 7 âm lịch - tháng của tâm linh

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Bố cục nhà ở và những kiêng kỵ phong thủy

Muốn bố trí các không gian trong nhà hài hòa, hợp phong thủy thì trước hết phải tránh được những điều tối kỵ. Phòng bếp, phòng ngủ, nhà vệ sinh rất nên tránh đặt gần nhau còn phòng khách đại kỵ có cầu thang dạng xoắn ốc ở trong...

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng khách

Phòng khách là không gian quan trọng nhất của ngôi nhà do đó bố cục phòng khách sẽ ảnh hưởng lớn tới vượng khí của ngôi nhà.

Phòng khách kỵ nhất là không vuông vắn. Do là chỗ tụ khí của ngôi nhà nên phòng khách cần phải vuông vức không có góc nhọn. Thêm vào đó cũng không được bố trí hành lang hay đường nội bộ của căn nhà xuyên qua phòng khách. Nếu như căn phòng vốn dĩ không vuông vắn hãy đặt một chậu cây cảnh ở góc nhọn để khí không bị ứ đọng dồn nén vào một chỗ.

Nếu như cửa phòng khác của phòng này đối diện thẳng với cầu thang thì rất kị. Ảnh minh họa

Trong nhà ở hiện đại thường hay có tầng hầm. Đối với thuật phong thủy, tầng hầm là nơi ẩm thấp, không có ánh sáng mặt trời và không khí không lưu thông. Do đó đặt phòng khách ở đây sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và tài vận của gia chủ.

Các cầu thang cũng không nên bố trí ở phòng khách, đặc biệt loại cầu thang xoắn ốc. Loại này khi nhìn xuyên xuống như nút chai sẽ gây bất an cho gia chủ và gây thất thoát dòng khí động trong nhà. Thêm nữa, nếu trong phòng khách có bố trí cầu thang lên tầng thì phải tránh không để chân cầu thang đối diện với cửa phòng khách. Vì cầu thang là “giếng trời”, là nút giao thông giữa các tầng, nếu bố trí đối diện với cửa phòng khách, luồng khí từ cửa sẽ chuyển động mạnh theo cầu thang mà không tụ ở phòng khách.

Phòng ngủ

Giấc ngủ chiếm 1/3 thời gian sống của con người. Mà muốn có giấc ngủ ngon thì một trong những yếu tố tác động là có chỗ ngủ phù hợp. Theo phong thủy, vị trí đặt phòng ngủ và giường ngủ cũng tác động rất lớn đến giấc ngủ và qua đó tác động lên sức khỏe của gia chủ. Nếu ở vị trí tốt thì ngủ ngon, say giấc ngược lại thì hay mộng mị ảnh hưởng sức khỏe.

Đầu tiên là vị trí đặt phòng ngủ trong chỉnh thể ngôi nhà. Theo kinh nghiệm, thường phương vị Tây Bắc là nơi thích hợp để đặt phòng ngủ của chủ nhà. Với vị trí này, chủ sử dụng sẽ khỏe mạnh, sáng suốt và quyết đoán. Cũng giống như phòng khách, phòng ngủ không nên đặt ở tầng hầm vì âm khí nặng và không khí không lưu thông nên nếu ngủ ở đó sẽ hại sức khỏe.

Sau khi chọn một phương vị tốt để đặt phòng ngủ thì vấn đề kê giường như thế nào là điểm quan trọng thứ hai trong thiết kế phòng ngủ. Theo sách Phong thủy cho người mua nhà, giường ngủ rất kị nằm thẳng với lối đi. Nếu đầu giường hướng về phía cửa phòng ngủ thì sát khí sẽ xung thẳng vào đầu người ngủ làm ảnh hưởng sức khỏe. Mặt khác cũng không nên đặt sát tường về phía cửa đi vì như thế những sinh hoạt của người ở bên ngoài có thể ảnh hưởng khiến người ngủ ở trong hay nằm mơ, thần kinh suy nhược.

Nhà hiện đại nhất là các tòa nhà cao tầng thường có xà dầm bê tông to. Nếu như trần phòng ngủ có dầm ngang thì không nên kê giường bên dưới dầm bởi vì khi nằm xuống nhìn lên trần thấy dầm ngang sẽ tạo ra cảm giác luôn bị đè nén. Phong thủy gọi tình huống này là “hung hình”. Dầm ngang nằm bên trên vị trí nào của giường cũng đều không tốt. Nếu nằm trên đầu giường thì sẽ khiến người ngủ trên giường đó hay bị đau đầu.

Nhà bếp

Ở nông thôn Việt Nam, nhà bếp thường làm tách biệt với nhà chính và là nơi chứa đựng thóc lúa, nông cụ… và bị xem nhẹ. Tuy nhiên, trong thuật phong thủy, bếp lại có vai trò rất quan trọng. Người ta thường sử dụng bếp như một công cụ cơ hữu của chính ngôi nhà để đẩy lui các hung sát.


Ảnh minh họa

Điều này được phái Bát trạch Phong thủy sử dụng rất triệt để. Phái này thường khuyên đặt bếp vào những vị trí được cho là xấu nhất trong thổ đất để ngăn chặn các điều xúi quẩy theo kiểu “lấy độc trị độc”.

Theo quan điểm ấy, bếp kị nhất là đặt ở hướng Tây Bắc. Trong La bàn, hướng Tây Bắc thuộc quẻ Càn mà “Càn vi thiên” tức là hướng này có lửa ở cổng trời. Nếu lại đặt bếp ở hướng này thì phạm vào điều gọi là “Hỏa thiêu Thiên môn” sẽ mang điềm gở vào nhà khiến chủ nhà dễ mất công việc, tiền bạc, quyền chức.

Trong việc bố trí nhà bếp, việc chọn hướng cho bếp là quan trọng hàng đầu. Việc này thường phải dựa vào La bàn và bảng Bát trạch theo tuổi để kiểm tra. Những hướng có “Tuyệt mệnh”, “Ngũ quỷ”, “Lục sát”, “Họa hại” là không dùng.

Ngoài ra, trong mối quan hệ liên quan đến các bộ phận khác của căn nhà, việc bố trí nhà bếp cũng có những kiêng kị khác nữa:

Thứ nhất hướng bếp không được đặt ngược hướng nhà. Ví dụ nhà quay hướng Nam mà bếp lại quay về hướng Bắc là rất kị. Điều này được áp dụng cho cả loại bếp tách biệt nhà và bếp ở trong căn nhà. Nếu phòng bếp ở trong căn nhà thì cửa phòng bếp không được quay ngược hướng cửa chính.

Thứ hai kiêng đặt nhà bếp đối diện nhà vệ sinh. Về mặt an toàn vệ sinh thì bếp là nơi nấu nướng đồ ăn thức uống nên cần giữ sạch sẽ không nên đặt gần nhà vệ sinh để tránh vi khuẩn. Về mặt phong thủy, bếp là đại diện cho hỏa còn nhà vệ sinh tắm giặt lại là thủy. Đặt thủy hỏa đối diện sẽ gây ra xung khắc. Cũng trong sự kiêng kị việc đối xung này, cần tránh đặt miệng bếp đối diện với vòi nước, tủ lạnh, máy giặt.

Thứ ba rất kiêng mặt trời chiếu xiên vào bếp. Mặt trời lúc nắng xiên khoai mang nhiều tia cực tím độc hại nếu bếp lại có cửa sổ mở về hướng tây để mặt trời lúc này chiếu vào thì đồ ăn thức uống có thể bị nhiễm độc hại cho sức khỏe.

(Theo kienthuc)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bố cục nhà ở và những kiêng kỵ phong thủy

Sử dụng sức mạnh năng lượng từ nước theo phong thủy?

Khi sự giận dữ dẫn đến bạo lực và cãi nhau lớn tiếng trong gia đình, bạn hãy dùng một chiếc bình để áp dụng liệu pháp nước âm. Bình có nghĩa là bình an, thanh
Sử dụng sức mạnh năng lượng từ nước theo phong thủy?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Ảnh chỉ mang tính minh họa)

bình. Người Trung Quốc thường trưng bày nhiều bình đẹp trong nhà để tạo không khí thanh bình và hòa hợp. Tuy nhiên, bình chỉ có tác dụng tốt khi được đổ đầy nước và đặt trong nhà không có rác hay đồ linh tinh để bừa bãi. Nước ở đây là nước âm, có khả năng hấp thụ và trung hòa sự giận dữ.

Nếu cãi nhau và xung đột giữa 2 người yêu nhau hoặc vợ chồng thì nước có năng lượng của mặt trăng sẽ mạnh mẽ hơn.


Đặt một chậu nước đầy trên mặt đất hoặc trên ban công vào đêm trăng tròn.
Để nước hấp thụ năng lượng của mặt trăng và rồi mang vào nhà, đổ vào bình đẹp. Những bình này có tác dụng giữ gìn sự thanh bình trong nhà.

Cũng có thể treo một bức tranh vẽ hình chiếc bình trong ánh trăng để tăng cường liệu pháp này. Ngoài ra, những nhà phong thủy của Lão giáo còn dùng tranh để tạo ra một loại rung động khí đặc biệt trong nhà.

(Theo Sắp xếp nhà cửa theo phong thủy)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sử dụng sức mạnh năng lượng từ nước theo phong thủy?

Tướng số những chàng trai không tốt |

Con trai có làn da trắng, 'mặt hoa da phấn' thường không đáng tin cậy. Mắt Mắt là cửa sổ tâm hồn và cũng là một bộ phận quan trọng có khả năng truyền đạt tình cảm trong ngũ quan. Nếu một chàng trai có đôi mắt chuyển động không ngừng; trong khi nói ch
Tướng số những chàng trai không tốt |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng số những chàng trai không tốt |

Ý nghĩa của số hạt châu trên tràng hạt niệm Phật

Số lượng hạt châu trong tràng hạt niệm Phật là những con số có ý nghĩa nhất định, biểu đạt những mục đích và điển tích khác nhau.
Ý nghĩa của số hạt châu trên tràng hạt niệm Phật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày càng nhiều người tin rằng, tràng hạt niệm Phật mang tới may mắn, bình an và nếu mang theo người thì mọi chuyện sẽ thuận buồm xuôi gió. Số lượng hạt châu trong tràng hạt là những con số có ý nghĩa nhất định, biểu đạt những mục đích và điển tích khác nhau.


Y nghia cua so hat chau tren trang hat niem Phat hinh anh
 
Tràng hạt niệm Phật có 108 hạt châu là phổ biến nhất, đại biểu cho 183 mê muội, đoạn trừ 108 loại phiền não, cả thể xác và tinh thần đạt tới trạng thái tĩnh tại.   Tràng hạt niệm Phật có 1080 hạt châu dựa theo lý luận Ấn Thiên Thai Tông, mười giới đều có đủ thiện ác, 108 phiền não ở mười giới, hợp thành 1080 loại phiền não. Mười giới tức 1. Địa Ngục giới, 2. Ngạ Quỷ giới, 3. Súc Sinh giới, 4. Tu La giới, 5. Nhân Gian giới, 6.Thiên Thượng giới, 7. Thanh Văn giới, 8. Duyến Giác giới, 9. Bồ Tát giới, 10. Phật giới.   Cũng có những tràng hạt chỉ có 54 hạt châu, đại diện cho quá trình tu hành 54 cấp bậc của Bồ Tát: thập tín, thập trụ, thập hành, thập hồi hướng, thập địa và 4 thiện căn.   7 nguyên tắc phong thủy tối cần thiết khi đặt cây hoa trong nhà
Sử dụng thực vật trong phong thủy nhà ở không chỉ giúp vận khí của ngôi nhà tốt lên mà còn tạo môi trường sống đẹp, trong lành. Nhưng việc

Tràng hạt 42 hạt châu đại diện cho quá trình tu hành 42 cấp bậc của Bồ Tát: thập trụ, thập hành, thập hồi hướng, thập địa, đẳng giác và diệu giác.
  Tràng hạt 36 hạt châu có ý nghĩa giống như tràng hạt 108 hạt châu, vì 1/3 của 108 là 36, ẩn chứa hàm nghĩa lấy tiểu gặp đại. Loại này nhỏ gọn nên dễ mang theo người. Tràng hạt 27 hạt châu hàm ý tu hành tứ hướng, tứ quả là 27 vị hiền thánh, tức thập bát La Hán cùng 9 vị đệ tử của La Hán.  
Y nghia cua so hat chau tren trang hat niem Phat hinh anh
 
Tràng hạt 18 hạt châu đại diện cho 18 giới, tức lục căn, lục trần, lục thức.  Lục căn: 1. nhãn giới, 2, nhĩ giới, 3. tị giới (mũi); 4, thiệt giới (lưỡi), 5. thân giới, 6. ý giới. Lục trần: 1.sắc trần, 2. thanh trần, 3. hương trần, 4. vị trần, 5. xúc trần, 6. pháp trần. Lục thức: 1. nhãn thức, 2. nhĩ thức, 3. tị thức, 4. thiệt thức, 5. thân thức, 6. ý thức.
Tràng hạt 14 hạt châu đại diện cho 14 vô úy của Bồ Tát, được thập phương, tam thế, lục đạo đều ngưỡng mộ.
=> Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh

Tâm Lan  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa của số hạt châu trên tràng hạt niệm Phật

Mơ thấy ăn quả mận: Hôn nhân gặp phiền phức nhỏ –

Mận thuộc cây thân mộc, ra hoa vào mùa xuân, hoa có màu trắng, quả mận khi chín có màu tím đỏ, có thể ăn được. Mơ thấy cảnh mình đang nhấm nháp quả mận giòn ngọt, cho thấy hôn nhân của bạn gặp chút ít phiền phức; mơ thấy người khác thưởng thức mận,
Mơ thấy ăn quả mận: Hôn nhân gặp phiền phức nhỏ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy ăn quả mận: Hôn nhân gặp phiền phức nhỏ –

Màu sắc theo phong thủy cho bếp –

Phòng bếp nên sáng sủa và có nhiều ánh nắng, đem lại sự ấm áp của mặt trời và lò sưởi. Màu đỏ và các tông màu đất là tốt, còn màu xanh lá cây bổ sung năng lượng hành mộc nhằm nuôi dưỡng ngọn lừa của bếp nấu, màu tía hỗ trợ sự thịnh vượng. Đôi khi tạo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ra một thay đổi nhỏ là rất cần thiết, Ví dụ, ba quả táo đỏ tươi để trên bệ bếp trong phòng bếp có gam màu trắng trờ thành tiêu điểm của căn phòng, mang lại sự ẩm áp và sinh lực cho không gian lạnh lùng, vô cảm.

phong-khach-bep-chi-mai-1

Có thể thay đổi không gian phòng bếp tối, chật hẹp bằng sơn màu trắng ấm áp hay màu vầng nhạt, đồ đạc nhẹ sáng màu và đồ trang trí vui mắt với màu đỏ hay vàng. Phòng bếp có nhiều đồ đạc màu đen và màu crom sẽ được lợi từ màu xanh lá cây, màu tía và màu đò nhằm hỗ trợ sức khỏe và sự thịnh vượng.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Màu sắc theo phong thủy cho bếp –

Tướng mặt đàn ông tốt nên lấy làm chồng

Nếu anh ấy có vầng trán cao, sống mũi thẳng và đôi mắt có thần... đó có thể là người đàn ông thành công trong sự nghiệp lẫn hôn nhân.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu bạn đang muốn tìm "một nửa", ngoài việc tìm hiểu tính cách, quan điểm sống, có thể tham khảo thêm vài gợi ý dưới đây khi nhìn vẻ bề ngoài của chàng:

1. Vầng trán cao, bóng và đầy đặn

Đàn ông trán cao, rộng, bóng và đầy đặn lúc nào cũng tràn đầy sức sống, luôn tư duy sáng tạo không ngừng. Người này làm việc có tính nhẫn nại và ý chí kiên cường. Đường công danh sự nghiệp của họ phát triển và bền vững. Dù là người làm kinh doanh hay làm công ăn lương đều có quý nhân phù trợ, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống.

Về tình cảm, người này thích bảo vệ phái yếu, biết tôn trọng và cảm thông với mọi kiếp người. Do đó, đây chính là tướng mặt đàn ông tốt mà các quý cô nên lấy làm chồng.

tuong-mat-dan-ong-tot-nen-lay-lam-chong

Ảnh minh họa: Appguru.

2. Đôi mắt có thần, tinh nhanh nhạy bén

Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Nam giới có mắt sáng, thần thái thanh thoát, đoan chính và nhạy bén là người có thể làm nên đại nghiệp. Người này có nghị lực kiên cường, ít nói nhưng lại hành động hiệu quả, chính xác. Họ giữ được thái độ điềm tĩnh trước mọi khó khăn và hay làm việc trượng nghĩa. Điều đó lý giải nguyên nhân mẫu đàn ông này lại thành công cả trong sự nghiệp và hôn nhân.

3. Đôi tai áp sát vào đầu

Nam giới có đôi tai đầy đặn, to bản và áp sát vào đầu là tướng quý nhân, đạt nhiều thành tựu trong sự nghiệp. Người này hành xử khéo léo, dễ được mọi người tin tưởng giao phó trọng trách. Đa số họ đều có phẩm chất đạo đức tốt, đáng để các quý cô "nâng khăn sửa túi" suốt cuộc đời.

4. Mũi đầy đặn, sống mũi thẳng

Chiếc mũi là đại diện cho tài vận, công danh sự nghiệp của đàn ông. Nếu mũi nhỏ gày, hai cánh mũi lại dẹt xuống, người đàn ông này dù có được thừa hưởng tài sản từ tổ tiên để lại cũng sẽ cạn kiệt và nghèo khó. Ngược lại, nếu dáng mũi to, đầy đặn, sống mũi cao, hai cánh mũi có thịt thì lại là người phúc hậu, tài vận hơn người, công danh sự nghiệp có thành tựu lớn và là người chồng, người cha tốt trong gia đình.

5. Miệng rộng, môi dày, sắc môi hồng hào

Tướng mặt đàn ông này cho thấy họ làm việc tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định, giữ vị trí cao trong tập thể và xã hội. Người này trọng tình nghĩa, thiên về tình cảm. Do đó, sau này họ sẽ là người chồng tốt, vừa gánh vác việc xã hội lại hết mực yêu thương vợ con và vun vén cho hạnh phúc gia đình.

6. Cằm vuông vức, đầy đặn

Cằm hay còn gọi là Địa Các, cho biết vận mệnh cuối đời của con người. Đồng thời nó thể hiện quan niệm, thái độ, tình cảm của một người đối với gia đình. Đàn ông có tướng mặt này rất coi trọng cuộc sống hôn nhân, gia đình.

Hơn thế, người này còn nhân hậu, phúc đức và có sức khỏe tốt. Ngược lại, nếu đàn ông có cằm nhọn lại thích bay nhảy, không chung thủy và ghét sự gò bó của gia đình.

(Theo Tạp chí Thế giới và Gia đình)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt đàn ông tốt nên lấy làm chồng

Xem bói mắt biết tai họa

Các nhà xem bói tướng thuật khi bàn về vận hạn thường lấy 2 mắt chủ quản cho 6 năm vận hạn, tức là mắt trái quản 3 năm là 30, 31 và 32 tuổi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các nhà xem bói tướng thuật khi bàn về vấn đề vận hạn thường lấy 2 mắt chủ quản cho 6 năm vận hạn, tức là mắt trái quản 3 năm là 30, 31 và 32 tuổi; mắt phải quản 3 năm là 33, 34 và 35 tuổi.

Xem mắt biết tai họa

Xung quanh mắt có nốt ruồi đen là người có tính tình tham lam, thường hay ăn trộm. Người sát dưới mắt có nốt ruồi đen tất sẽ gây ra họa hại đối với người khác. Mắt bỗng xuất hiện khí sắc màu đen, cho đến vùng quầng mắt xuất hiện màu đen rất rõ rệt, người như thế trong vòng 10 ngày có thể sẽ vì miệng lưỡi của phụ nữ truyền đến điều thị phi khiến trong nhà không được yên ổn. Nếu sắc đen tương đối mờ nhạt, như thế trong vòng 14 ngày cũng phải chịu điều thị phi mà không được yên ổn.

Người có khí sắc mắt là màu hồng tất sẽ có hỏa hoạn giáng xuống. Người mà có mắt là màu xanh sẽ gặp phải chuyện thị phi đồn đại mà bị liên lụy. Nếu xuất hiện màu đỏ sẽ gặp tai họa liên quan đến chuyện quan trường, nếu khí sắc ở mắt có xuất hiện màu đen thì tài sản bị mất mát. Nếu mắt có xuất hiện màu vàng là tướng tốt lành. Nếu nữ giới trên mắt xuất hiện màu xanh thường vận mệnh người chồng chẳng thể dài lâu. Nếu người nữ mà trên mắt có xuất hiện màu đỏ, chủ về khó khăn trong chuyện sinh nở. Nếu người con gái có khí sắc ở đuôi mắt trắng sáng chủ chồng được thăng quan phát tài.

Xem bói 2 mắt lộ sắc cả đời hung ác

Hai mắt lộ sắc tức là mắt tựa như đám lửa cháy, mắt sắc. 2 viền mắt tựa như phun lửa, tức là trên dưới mắt lộ sắc đỏ hồng, tựa như đám lửa cháy bốc cao hướng ra bên ngoài. Người có hình tướng như thế thường lòng lang hiểm độc, gian trá, cả đời hung ác. Trong khoảng 5 năm từ 30 đến 35 tuổi, người đó được phát tài, nhưng trong khoảng 4 năm từ 37 đến 40 tuổi có thể sẽ gặp nhiều hung họa, nguy hiểm. Hứa Phụ nói: Người mà trong mắt có lộ sắc đỏ tất gặp họa hình thương mà qua đời, mắt như thế được gọi là mắt đỏ như mắt rắn.

Xem bói mắt đen rạng rỡ, cả đời hưởng phúc

Trong sách xem bói tướng Quảng giám tập có chép: Trong 2 mắt có lộ sắc đen, tựa như điểm sơn, rất rõ ràng, ánh mắt rạng rỡ là tướng quý nhân, cả đời được hưởng phúc. Trong khoảng 6 năm từ năm 30 đến năm 35

tuổi sẽ thành công, nối danh thiên hạ. Trong Nguyệt Ba động trung ký chép: Người có mắt to, đoan trang ổn định, không lồi không lộ, trắng đen rõ ràng thường là người có trí tuệ hơn người, sự nghiệp thành công.

Xem bói người có mắt liếc xéo trong lòng không ngay thẳng

Người có ánh mắt hay liếc xéo thường là người có tính cách kiên cường, nhưng lại là người hay cò kè, nhỏ nhen, lời nói hành động thô tục, tương đối tham lam, thường làm những việc tổn hại đến người

khác để mưu lợi cho mình. Người như thế, cho dù là có phú quý, tài hoa hơn người nhưng bản tính cò kè khó thay đổi được. Không chỉ như thế, họ thường có khẩu phật tâm xà, trong ngoài khác nhau. Trong Quảng giám tập nói: Mắt là cửa sổ của tâm hồn, vì thế khi quan sát nhãn thần của một người có thể biết được trong tâm người đó nghĩ gì. Mạnh Tử từng nói rằng: Người có tâm ngay thẳng, ánh mắt rất rạng rỡ; ngược lại, người có tâm không ngay thẳng, mắt sẽ mờ tối không trong sáng. Một người có tâm bên trong ác độc, ánh mắt không thể che giấu được.

Thông qua nhãn thần có thể phán đoán thiện ác của một người.

Mắt nhìn ngay chính, thần khí thanh sảng, ánh mắt ổn định, người đó tâm địa lương thiện. Một người mắt hay liếc xéo, nhãn thần không ổn định, ánh mắt mờ tối, thường là người có tâm hiểm độc. Trong Thái thanh thần giám có nói: Ngưòi có nhãn thần không bình thường, trong tâm mưu mô ác độc. Tóm lại, nhãn thần lương thiện, tâm địa cũng tốt, người có nhãn thần độc ác, tâm địa cũng độc ác. Trong Đại thống phú có nói: Người có ánh mắt liếc xéo thường làm những việc ác độc tổn thương người khác, dù người đó rất giàu có, tâm địa cũng không được ngay thẳng, như thế cũng chỉ là đám tiểu nhân mà thôi.

Mất to lộ sắc hung, tai họa không ngừng

Thuật xem tướng cho rằng người mà mắt to tròn, đột xuất lộ sắc hung thường là người có tính cách hung bạo, cuộc đời thường gặp nhiều tai họa, có khi phải chịu ngục tù, giam cầm. Người như thế cả đời hung ác. Trong những năm từ 28 đến 35 tuổi họ thường gặp phải những chuyện không may. 37, 38, 39 tuổi cũng khó thoát khỏi chuyện hung họa. Người này cho dù sinh ra trong gia đình phú quý nhưng cũng trở thành người tham lam, hiểm độc. Nhưng nếu có thể tĩnh tâm đọc sách, thường xuyên kết giao với những người quân tử có đức hạnh cao quý thì cũng có thể tạo được một khoảng cách nhất định, tránh xa được đám tiểu nhân hiểm ác và vì thế những tai họa giáng xuống cũng giảm đi được một nửa. Trong Nguyệt Ba động trung kỷ có nói: Không nên kết hạn với người mắt lộ sắc hung nếu không sẽ gặp phiền phức, thậm chí tai họa giáng xuống. Lại nói: Người có mắt lộ rõ ra ngoài, tâm vì thế cũng khó giấu kín. Mắt gà mắt chuột, tham lam vô liêm Si. Trong Nguyệt Ba động trung ký có nói: Người có mắt tựa như mắt gà là người thích chuyện tranh đấu với người khác, có tính phong lưu đa tình. Người có mắt tựa mắt rắn, thịt trên mắt dày thường là người có tâm hiểm độc. Người có mắt nhỏ như mắt chuột, hai bên mắt trái phải khác nhau, mắt trái nhỏ hơn mắt phải, người như thế có tâm trộm cướp, tham lam vô liêm sỉ. Người có tướng mắt được trình bày như những đặc điểm trên đây, dù được sông trong nhà giàu sang phú quý cũng là phường trộm cướp, gian dâm, bản tính thích tranh đấu khó thay đổi được.

Hay nhìn trộm người khác, có nhiều nghi ngờ

Nhìn trộm là chỉ khi nói chuyện với người khác, hoặc khi cùng tụ tập đông người, mắt thấp trầm ngâm, thường hay nhìn trộm người khác. Người có tướng mắt như thế đa phần có tính tình không an định, sinh nhiều mốì nghi ngờ trong tâm. Chính vì như thế, gặp chuyện gì họ cũng chắng đưa ra được đối sách tốt.

Xem bói mắt như mất phượng, cả đời phú quý

Người có thần thanh sảng, thanh tú, nhãn thần sáng bóng tinh khiết, nhãn châu trắng đen rõ ràng, chính là nói ánh mắt như sao tỏa sáng ra bôn phía. Người có mắt dài như mắt phượng, tức là mắt nhỏ dài nhập vào gần tóc mai, độ dài của mắt quá 1 tấc 5 phân. Người có tưỏng mắt như thế, bất luận là nam hay nữ đều là người phú quý. Quan Vân Trường thời Tam quốc, Phòng Huyền Linh thời Đường đều có tướng mắt này.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói mắt biết tai họa

Bạn thuộc tuýp người thông minh hay chỉ dựa vào trực giác?

Hãy soi gương và xem vị trí tai của mình cao hay thấp hơn mắt nhé, chúng sẽ cho biết bạn giải quyết vấn đề bằng sự thông minh hay trực giác mách bảo.
Bạn thuộc tuýp người thông minh hay chỉ dựa vào trực giác?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ban-thuoc-tuyp-nguoi-thong-minh-hay-chi-dua-vao-truc-giac
Số 1 Số 2

Mộc Trà (theo Buzz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn thuộc tuýp người thông minh hay chỉ dựa vào trực giác?

Vài lưu ý để phát triển tốt các mối quan hệ (P2)

Nên chú trọng xây dựng thật tốt mối quan hệ với hàng xóm, đồng thời lưu tâm đến góc Tây Bắc nhà bạn để gặp được nhiều may mắn trong cuộc sống.
Vài lưu ý để phát triển tốt các mối quan hệ (P2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tạo những mối quan hệ tốt đẹp với hàng xóm

Nhằm duy trì và phát triển tình cảm thân thiện với những người hàng xóm, tốt nhất bạn nên khiến không gian nhà mình không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sống của họ, mà còn mang lại lợi ích cho họ. Muốn vậy, bạn phải bảo đảm môi trường sống của mình tràn đầy khí lành mạnh và có ảnh hưởng tốt đẹp cho láng giềng. Đồng thời, tránh những ảnh hưởng xấu mà kiến trúc hay cách bài trí ngôi nhà của bạn có thể gây ra cho họ.

Những ảnh hưởng xấu của căn nhà có thể tạo ra từ mũi nhọn của chóp mái nhà, xà nhà dôi ra, góc cạnh của ngôi nhà… nếu chúng chĩa thẳng đến mặt tiền nhà của người khác. Khi bạn sử dụng gương Bát quái cũng cần cẩn thận chú ý vì nó là 1 biểu tượng rất mạnh và có thể gây tổn thương cho người khác.

Cổng và hàng rào theo dạng tròn sẽ không tạo ra những mũi tên chĩa vào nhà hàng xóm

Khi căn nhà của bạn bị ảnh hưởng xấu từ bên ngoài mà bạn không thể treo gương bát quái vì không muốn ảnh hưởng đến nhà hàng xóm thì tốt nhất là sử dụng chuông gió hoặc trồng cây để ngăn cản những tác hại đó. Bằng cách này, bạn đã góp phần tạo ra năng lượng tốt đẹp cho cuộc sống của những người xung quanh, đồng thời duy trì mối quan hệ hàng xóm luôn tốt.

Ngoài ra, có thể lắp đặt những ngọn đèn trước cổng nhà để tạo ra năng lượng tốt lành cho hàng xóm. Đây là hành động thể hiện sự hòa hiếu và giao lưu mật thiết giữa bạn với những người láng giềng. Nếu nhà bạn có hàng rào ngăn cách với nhà bên cạnh thì hãy bảo đảm những kiểu thiết kế của hàng rào không gây ảnh hưởng đến nhà họ.

Bảo vệ góc may mắn của các thành viên trong gia đình

Góc Tây Bắc do cung Càn ngự trị chính là nguyên nhân đem lại những điều may mắn hay bất hạnh cho các thành viên sống trong nhà. Vì vậy, góc này trong bất cứ ngôi nhà nào đều phải được bảo vệ cẩn thận.

Góc Càn không được xác định theo hướng của cửa chính, mà phải xác định theo hướng Tây Bắc của la bàn. Khi đã xác định chính xác, bạn nên treo chuông gió gồm 8 ống kim loại rỗng ở góc này để thu hút những điều tốt đẹp, may mắn đến với cuộc sống của bạn. Bằng cách này, bạn cũng có thể cung cấp năng lượng cho vận may của người cha trong gia đình.

Không nên để đèn sáng ở góc Tây Bắc của ngôi nhà, vì như vậy sẽ thu hút những bất hạnh, những rủi ro vào nhà. Ngoài ra, sự hiện hữu của Hỏa tại hướng Tây Bắc cũng rất có hại. Vì vậy, bạn không nên lắp đặt đèn chiếu sáng hoặc đèn chùm ở đây.

(Theo Thanhnien)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vài lưu ý để phát triển tốt các mối quan hệ (P2)

Tướng mặt của người cô đơn

Tướng cách cô độc: Lông mày có hình chữ “bát”, tiếng nói như sấm,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tướng cách cô độc: Lông mày có hình chữ “bát”, tiếng nói như sấm

tuong-menh-yeu

Nếu như xương to nặng, đó là người cô đơn.

Dái tai quá to, lông mày giao nhau, lông mao dày, tóc mai dày, đó là người cô đơn.

Nếu vành tai lật ngược người đó thường sống một mình.

Lông mày rậm dày, chủ cô đơn.

Nếu như tiếng nói như tiếng sấm, đó cũng là người cô đơn.

Nếu như nách có mùi, cằm lệch cũng là mệnh cô đơn.

Xương gò má cao chủ về người đơn độc, cô lẻ.

Nếu như khóe miệng hướng xuống cũng chủ người cô đơn.

Tướng cô quả: Xương gò má cao, dưới mắt không có thịt 

Người có xương gò má cao, một đời cô độc, không có con nối dõi hoặc phải nhận con nuôi.

Người dái tai mỏng, sống xa cha mẹ vợ con, nhà cửa gia nghiệp phá tán, không bảo vệ được cơ nghiệp tổ tông.

Xương lông mày cao, nhiều vợ nhưng vợ phá hoại, bạc bẽo. Những người có hình tướng như thế còn lắm bệnh nhiều tật, tính khí bạo ngược, nóng nảy.

Người mà dưới mắt mỏng thịt, con gái gặp tai họa, ít khi giúp người khác, không được người ngoài quý mến.

Tướng yểu: Mặt như hoa đào, dáng đi nghiêng ngả

Người béo như không xương là tướng đoản mệnh.

Nếu người có hình tướng sau: 2 mắt không có thần, tai nhỏ vẹo, người mệt mỏi như vô thần vô khí, thân dài nhưng mặt ngắn, da mặt mỏng, lưng lõm xuống, sắc mặt giống như hoa đào, dáng đi nghiêng ngả là tướng đoản mệnh.

Tướng tản mạn: Tướng mệnh không thọ

Nếu người có hình tướng sau thì tuổi thọ không dài: Đuôi lông mày tản mạn, dái tai mỏng, khuôn mặt không hài hòa, mũi hếch, lỗ mũi lộ, trán nhọn, cằm nhọn, sống mũi lệch vẹo, da mặt lạnh, khí sắc ảm đạm, các bộ vị đều có nếp nhăn lại có nốt ruồi đen, 3 bộ vị là trán, mũi, cằm đều bằng phẳng và rộng, vẻ mặt sáng láng rạng rỡ thì người đó làm việc gì cũng thành.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt của người cô đơn

Có nên treo nhiều gương trong nhà không? –

Với không gian chật hẹp, một số gia đình cho rằng treo nhiều gương trong nhà không những có thể tăng thêm chiều sâu của căn nhà mà còn cảm thấy rộng rãi khi nhìn vào, hơn nữa còn có thể tăng thêm độ chiếu sáng của căn nhà, cảm thấy ánh sáng rực rỡ h

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ơn.

Gương dùng trong phong thuỷ có rất nhiều loại, ví dụ như gương lồi, gương lõm, gương bát quái, gương bạch hổ… Những loại gương này chủ yếu là dùng để “chiếu sát”, chiếu thẳng vào tà khí hung để cho tà khí phản chiếu ngược lại, tránh tà khí chiếu vào mà bị tổn hại. Phong thuỷ học cho rằng gương soi là thứ đại diện cho sự mâu thuẫn giữa hư ảo và chân thực. Nếu treo quá nhiều gương sẽ tạo ra nhiều ánh sáng phản xạ, gây nhiễu loạn sự làm việc bình thường của từ trường cơ thể, khiến người ta bị thương tổn bởi bức xạ ánh sáng.

anh 5

Đồng thời khi sử dụng gương trong nhà cần phải chú ý mấy điểm sau đây:

–  Gương và nhà phải có tỷ lệ nhất định. Gương treo trong nhà sao cho để người soi nhìn rõ phần đầu, mặt. Nếu gương hình chữ nhật dài, thì treo sao cho có thể soi được toàn thân.

–  Không nên treo gương ngay chính giữa nhà, đồng thời trong phòng khách treo gương to dễ làm người ta phân tâm.

–  Không nên treo gương đốì diện với cửa sổ, vì khi mở cửa sổ, ánh sáng ngoài chiếu trực diện vào gương, rất khó soi gương.

–   Không nên treo gương ở đầu giường vì ánh sáng phản xạ của gương là loại ánh sáng độc, chiếu vào người sẽ gây nên các phản ứng không tốt như suy nhược thần kinh, chất lượng giấc ngủ kém. Nếu gương chiếu thẳng vào giường, khi nằm ngủ, khí năng vốn có sẽ bị suy giảm, mất năng lượng của cơ thể, gây đầu váng mắt hoa. Vào ban đêm, sự phản xạ kích thích mạnh thần kinh của người gây nên ảo giác và sợ hãi, khiến nhiều người cho rằng gương chiếu vào giường sẽ bắt mất hồn.

–   Tuyệt đối không được treo 2 tấm gương đôi diện với nhau, bởi như vậy sẽ làm khí năng bị nhiễu loạn.

Nên treo một tấm gương soi to trong phòng vệ sinh, vì nó vừa có thể phản xạ đẩy uế khí đi, lại có tác dụng chải đầu trang điểm, ngoài ra cũng cho cảm giác không gian chật hẹp của phòng vệ sinh như rộng thêm ra.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có nên treo nhiều gương trong nhà không? –

Soi thấu bản tính con người chỉ qua cái tai

Bằng việc nhìn vị trí, hình dạng và màu sắc của tai, người ta có thể phán đoán tính cách của một người tốt hay dở.
Soi thấu bản tính con người chỉ qua cái tai

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  Theo Nhân tướng học, tai chính là bộ phận tiết lộ chuẩn nhất tính cách của con người trong số ngũ quan.

Soi thau ban tinh con nguoi chi qua cai tai hinh anh
Ảnh minh họa
  Tai to: Không thông minh và lười biếng.   Tai nhỏ: Người này rất hạy cảm.   Tai cụp xuống: Cực kì thông minh.   Viền tai không rõ ràng: Ngốc nghếch   Tai to, mỏng dẹt, không không rõ: Người này hay lừa gạt người khác, thô lỗ và nhỏ mọn.   Tai trắng bệch, viền tai không rõ: Gian dối.

Soi thau ban tinh con nguoi chi qua cai tai hinh anh 2
Ảnh minh họa
  Viền tai mỏng: Là người yếu đuối và không có khả năng giúp đỡ người khác.   Tai dày: Vô tư.   Tai hơi cong: say mê âm nhạc.   Tai thẳng: mê ăn uống, mất lịch sự.   Phụ nữ tai nhỏ, hồng hào, hơi xòe ra ngoài (giống kiểu tai khỉ): Thông minh nhưng không trung thành và hay lừa gạt.   Tai vểnh: Là người hoạt ngôn nhưng dễ phản bội.   Dái tai sát vào đầu: Hay ngồi lê đôi mách.

31 Tips nhận diện hung cát qua đôi mắt
Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, muốn nhìn thấy tinh lực của một người phải nhìn vào đôi mắt của người đó, nếu đôi mắt sáng trong, thần thái mắt sáng ngời thì người
  Tai tròn và dày thịt: Xấu tính.   Tai cao: Hay khiếm nhã.   Tai dài và dày thịt: Lười biếng, kiêu căng và ngạo mạn.   Tai mập, tròn, có viền mỏng: Chỉ số IQ bình thường.   Tai hồng, viền rõ ràng: Biết ăn nói đúng nơi đúng chỗ, rất đáng tin.  
► Xem thêm: Nốt ruồi ở tai nói lên tính cách, số mệnh của bạn

Theo Facereading
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Soi thấu bản tính con người chỉ qua cái tai

Tết Thượng Nguyên

Trong 12 cái rằm của năm thì ngày rằm tháng giêng mang nhiều ý nghĩa hơn cả. Ngày này được gọi là lễ Thượng Nguyên, rằm tháng 7 là lễ Trung Nguyên và rằm tháng
Tết Thượng Nguyên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong 12 cái rằm của năm thì ngày rằm tháng giêng mang nhiều ý nghĩa hơn cả. Ngày này được gọi là lễ Thượng Nguyên, rằm tháng 7 là lễ Trung Nguyên và rằm tháng 10 là lễ Hạ Nguyên.

(Ảnh minh họa)

Theo quan niệm của Phật giáo thì ngày mồng 1 và ngày rằm hàng tháng được coi là ngày của Phật, các tín đồ đến ngày ấy phải đi lễ chùa. Rằm tháng giêng là rằm đầu tiên, nhiều người tin rằng ngày ấy đức Phật giáng trần tại các chùa để chứng độ lòng thành của phật tử, lại thêm cái không khí vui xuân còn đậm đà cho nên số người đi chùa đông hơn. Đây còn là ngày vía thiên quan, người ta đến chùa dâng sao để giải hạn.

Thời xưa, ngày này là tết Trạng Nguyên. Nhân dịp trăng sáng đầu năm, nhà vua cho mở đại tiệc tại vườn thượng uyển, triệu các vị trạng nguyên đến dự hội, ngắm cảnh xem hoa làm thơ xướng họa, ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên và ân đức nhà vua đã đem lại thái bình thịnh trị.

Dần dần những buổi họp mặt tương tự vào đêm rằm tháng giêng được các văn nhân thi sĩ tổ chức, không chỉ trong vườn thượng uyển với nghi lễ vua tôi mà ở nhiều nơi, việc xem hoa ngắm cảnh dưới trăng thoải mái hơn, những vần thơ xướng họa, đối đáp phong phú và sinh động hơn. Tết Nguyên Tiêu là một sinh hoạt tao nhã mang nhiều ý nghĩa.

Trong dân gian, với số đông người theo phong tục thờ cúng ông bà thì rằm tháng giêng trước hết được hiểu một cách đơn giản là ngày rằm lớn. Tùy theo tín ngưỡng và ngành nghề, có gia đình lễ bái phật, có gia đình cúng thổ công, thần tài hoặc cúng âm hồn các đẳng... nhưng luôn có cúng gia tiên, bày tỏ lòng hiếu kính với ông bà, cha mẹ, cảm ơn trên đã phù hộ cho con cháu an lành, làm ăn khá giả.

Văn nhân thi sĩ, nhất là các cụ cao niên thì thưởng trăng thù tạc với nhau bằng chén trà, chung rượu, bàn cờ. Các cụ ăn uống ít, chỉ ngâm nga bàn tán những câu tâm đắc. Đúng như cái cảnh tuyệt vời thơ mộng của đêm Nguyên Tiêu:

Kỳ cục đả thanh phong giáp trận

Tửu hồ khuynh bạch tuyết hòa bôi

Dịch nghĩa là:

Chén hòa tuyết trắng nghiêng hồ rượu

Trận giáp phong thanh đánh cuộc cờ...

(Theo Nghi lễ thờ cúng của người Việt)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tết Thượng Nguyên

Bí quyết – Chiến thuật đặt tên thương hiệu –

Trong suốt thập niên qua, chúng ta đã có rất nhiều tên gọi mới cho hàng trăm công ty, sản phẩm và dịch vụ. Sau đây là một số những bí quyết hữu dụng khi đặt tên được chúng tôi thu thập lại. 1. Dựa trên tiêu chí kinh doanh Hãy bắt đầu bằng cách viết r

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong suốt thập niên qua, chúng ta đã có rất nhiều tên gọi mới cho hàng trăm công ty, sản phẩm và dịch vụ. Sau đây là một số những bí quyết hữu dụng khi đặt tên được chúng tôi thu thập lại.

dat-ten-cho-doanh-nghiep

1. Dựa trên tiêu chí kinh doanh

Hãy bắt đầu bằng cách viết ra dòng tiêu đề quảng cáo, câu tường thuật về chiến lược định vị, hay một đoạn giới thiệu tổng quan về sản phẩm. Sau đó, tiếp tục nghĩ đến một cái tên giúp nói lên tất cả chiến lược marketing đó. Chẳng hạn bạn có sản phẩm café bột hoà tan có hương vị như café rang xay đích thật. Cái tên hiện ra chính là: TASTER’S CHOICE (lựa chọn của người sành điệu). Sản phẩm xà bông tắm mới của bạn chứa nhiều chất dầu và tinh chất làm mềm da nhằm tạo ra độ mịn cho da trong mỗi lần chạm phải. Đó là tên CARES (sự chăm sóc). Chuỗi nhà hàng Mexico mang đến một loạt các món ăn cay ngon lành có thể mang tên THE WHOLE ENCHILADA (enchilada hết sẩy).

2. Thay đổi cách viết

Món thạch tráng miệng JELL-O. Nước uống trái cây cho trẻ em mang tên FROOT. Một từ được hoán đổi cách đánh vần có chủ định sẽ cũng có thể trở thành tên sản phẩm của bạn. Hoặc có thể là công ty: TOYS R US.

3. Khác biệt

Quan sát đối thủ cạnh tranh. Nếu mọi người khác đều sử dụng công nghệ cao, hãy chọn một cái tên trí tuệ. Nếu mọi thể loại tên gọi đều mang tính nam giới, hãy tìm một tên gọi mang nữ tính. Một bệnh viện tại Arkansas nhận thấy các đối thủ đều có tên gọi rất nghiêm túc và đơn giản cho các trung tâm chăm sóc sản phụ, như The Maternity Center (Trung tâm Sản khoa) hay The Birthing Center (Nhà hộ sinh). Vậy nên họ tự gọi mình là STORK & COMPANY và mọi người đều yêu thích cái tên này. Có một danh sách dài các nhãn hiệu xe có tên gồm ba vần, và đều kết thúc bằng ký tự “a”: Achieva, Aurora, Bravada, Celica, Corolla, Cressida, Integra, Maxima, Miata, Previa, Tredia, và nhiều nhiều “a” nữa! Nếu bạn đang lập thương hiệu cho một mẫu xe mới, có thể bạn sẽ muốn đi ngược lại xu hướng đó đấy.

4. Sáng tạo trước, đánh giá sau

Tự bạn (hay đội ngũ của bạn) hãy bắt đầu bằng cách tạo ra thật nhiều cái tên khác nhau nhất có thể. Hãy viết lại hết tất cả mọi thứ xuất hiện. Không hề có ý tưởng nào là tệ cả. Sau đó hãy bắt đầu chọn lựa, phán xét. Trong một buổi làm việc nhóm, hãy phạt những kẻ phát ngôn kiểu “ý tưởng gì mà dở tệ!” bằng cách bắt họ tìm thêm 2 tên gọi khác.

5. Ưu tiên số lượng

Đừng dồn tâm tư tình cảm vào chỉ một danh sách vài ba cái tên có thể nghĩ đến. Hãy tạo ra thật nhiều tên gọi. Cứ mỗi lần đặt tên, bạn sẽ bỏ đi ít nhất 8 trong 10 tên gọi đã nghĩ ra (đôi khi còn nhiều hơn thế nữa.)

6. Chọn một ý tưởng bất kỳ

Nhà tư vấn về sáng tạo Roger von Oech đề xuất nên khơi mở tâm trí của bạn với những điều chẳng liên quan gì đến vấn đề mà bạn đang giải quyết. Hãy mở từ điển vào ngay trang 133 và lấy ngay từ thứ ba. Tìm mọi cách để liên hệ từ tìm được với cái tên bạn cần (thử dụng nó như một ẩn dụ chẳng hạn). Hãy viết ra tên đội thể thao bạn yêu thích nhất. Điều đó sẽ ảnh hưởng đến dự án bạn đang thực hiện ra sao? Hãy tuỳ biến mọi ý tưởng, nó có thể giúp tâm trí của bạn thăng hoa đấy.

7. Thử dùng từ ghép ký tự

VISTA là một từ được ghép từ Volunteers In Service To America (hội hoạt động tình nguyện Hoa Kỳ). Hay tên MADD được ghép bởi cụm Mothers Against Drunk Driving (hội các bà mẹ chống nạn lái xe khi say rượu). Những tên ghép ký tự rất khó tạo. Nhưng nếu có được một tên ghép nào có nghĩa, bạn đã thật sự tìm ra những tiền đề marketing cho chính tên gọi đó rồi đấy.

8. Cứ thoải mái!

Tránh xa điện thoại. Hãy rời khỏi văn phòng. Về mặt thể chất, bạn sẽ có thể đạt được mục tiêu đặt tên một cách hiệu quả nhất trong một môi trường hoàn toàn thư giãn. Về tinh thần, cảm xúc, đó phải là một môi trường khiến bạn thoải mái sáng tạo.

9. Tham khảo các nhà bán lẻ địa phương

Họ thường có những tên gọi rất sáng tạo và đầy tính khơi gợi. Những cách suy nghĩ nào họ dùng mà bạn có thể sử dụng lại? Tên gọi BANANA REPUBLIC (cộng hoà chuối) được đặt cho những bộ trang phục du lịch nền vải khaki. ONE NIGHT STAND (một đêm huy hoàng) được đặt cho hiệu cho thuê lễ phục cao cấp. CREATURE COMFORTS (niềm vui cho thú cưng) là tên gọi cho một nhà chăm sóc vật nuôi.

10. Sáng tạo một từ hoàn toàn mới

Hãy thử ghép lại một từ mới bắt nguồn từ những từ bạn hiện có. Một số trường hợp, bạn có thể gắn kết vài chữ lại với nhau. Đó là thuật ghép âm. Một chiếc xe hơi cộng với một chiếc xe van trở thành tên gọi CARAVAN. Phần điểm tin trong tuần được gọi là NEWSWEEK. Ngoài ra còn có CITIBANK, NUTRASWEET, SUNKIST, BRIDGESTONE, KITCHENAID, WATERPIK. Kỹ thuật này hoàn toàn không mới. Vào những năm 1860, một loại vật liệu lót sàn cứng và rẻ được làm từ là của loài thực vật có hoa màu xanh (“linum”, theo tiếng Latin) và dầu (‘oleum’) được đặt tên là LINOLEUM. Món thịt hộp SPAM (Spiced ham). NABISCO từng là tên của một công ty bánh quy toàn quốc (National Biscuit Company).

11. Tìm hình ảnh đại diện

Hình ảnh nào có thể đại diện cho công ty hay sản phẩm của bạn? Một loài vật? Một màu sắc? Đại dương? Hay núi? Một khái niệm hình tượng có thể giúp bạn tìm ra một cái tên phù hợp. Một chuyên gia marketing từng đặt tên cho loại thuốc xịt chuyên trị đau cổ họng. Để vòi phun xịt vào đúng vị trí, miệng của người sử dụng phải mở khá to. Hành động này tạo ra cảnh một nhà xiếc thú đang để đầu mình trong miệng con sư tử. Cái tên – Throat Tamer và ý tưởng phát ra tiếng “gầm” trong cơn đau cổ họng không là quá xa để có thể nghĩ đến.

Công ty Kollmorgen giới thiệu một loại động cơ điện một chiều cực mỏng cho những ứng dụng công nghiệp. Lợi thế nằm ở độ mỏng của sản phẩm, và đó cũng là chìa khoá cho ý tưởng. Tên gọi họ đặt cho động cơ này là THE PANCAKE (bánh kếp).

12. Chọn mức từ vựng phù hợp

Độ dân trí và giai tầng xã hội của khách hàng thường quyết định những từ vựng được chấp nhận nhiều nhất. Những ngôn từ quá học thuật hoặc mang tính khoa học sẽ có thể phù hợp cho các sản phẩm dược. King’s English (tiếng Anh Hoàng tộc) là ngôn ngữ phù hợp cho các dịch vụ ngân hàng. Từ vựng phổ thông phù hợp cho những sản phẩm tiêu dùng.

13. Cân nhắc lý do sử dụng sản phẩm

Một đôi giày thể thao giá 100 đô-la sẽ khiến người ta cảm thấy mình nhanh nhẹn, hoạt bát hơn. Vậy điều gì sẽ liên hệ đến những yếu tố đó? REEBOK là tên của một loài linh dương chân dài tại Châu Phi. PUMA là một từ tiếng Tây Ban Nha để gọi tên một loại mèo hoang dã khổng lồ. (Vậy một cái tên như Keds hay Converse có khiến tôi cảm thấy nhanh nhẹn đến thế không?).

14. Lưu ý nơi sản phẩm được sử dụng

Hãy tưởng tượng ra sản phẩm của bạn đang được khách hàng cầm trên tay và thật sự sử dụng. Một chuyên gia marketing nhận ra rằng nhiều người thích tự ghi âm trên đường đến chỗ làm và về nhà. Một thiết bị ghi âm cầm tay đã được đặt tên là COMMUTER.

15. Vay mượn từ ngữ

Sears đã tạo ra một loại bình ắc-quy cho xe hơi có độ bền và sức chứa cao. Họ mượn một từ trong từ điển DIE-HARD (kháng cự đến cùng) để diễn tả khái niệm phức tạp này một cách đơn giản nhất có thể. Một nhà ngôn ngữ học đề cập đến hình thức này là một “ẩn dụ tùy biến.” Một ví dụ khác: kem đánh răng CLOSE-UP có rất nhiều chất kháng khuẩn (sản phẩm được xem là dành cho những nụ hôn). Ngày xưa, các thủy thủ Hà Lan từng có câu “spiksplinternieuw” để gọi một con tàu mới hạ thủy. Từ đó có nghĩa rằng con tàu mới “từ đầu đến đuôi”. Và các thủy thủ Mỹ đã đổi thành “spic and span” (mới coóng). Một nhà sản xuất bột giặt gia dụng đã nhanh chóng nhận ra và lấy ngay tên sản phẩm của mình: SPIC-AND-SPAN.

16. Dùng những công cụ tốt nhất

Để dành nhiều nỗ lực hơn nữa cho công đoạn này, lựa chọn duy nhất chính là sử dụng bộ từ điển tiếng Anh Oxford đồ sộ. Một lựa chọn khác có thể là Từ điển Webster phiên bản quốc tế ấn bản lần 3. Ngoài ra, khi đã dùng từ điển, hãy cố gắng khai thác mục các từ đồng nghĩa. Bỏ qua những bộ từ điển mỏng thường dùng trong văn phòng. Hãy lấy những bộ thật dày. Cũng có thể dùng bộ Từ điển Từ Đồng nghĩa của March (March’s Thesaurus). Một bộ tốt hơn nữa là The Synonym Finder (của tác giả J.I. Rodale, NXB. Warner Books). Bộ này có đến 1,5 triệu từ đồng nghĩa.

17. Đến Nhà thờ

Năm 1878, hãng Procter & Gamble đã sáng chế ra một loại bánh xà phòng mới. Loại sản phẩm này có màu trắng, tinh chất, và nổi trên nước. Ông Harley Procter đã vất vả để tìm tên cho sản phẩm này. Cảm hứng lại đến vào một sáng Chủ Nhật khi ông đang nghe Linh mục đọc Thánh Vịnh đoạn 45 câu 8 – “All thy garments smell of myrrh, and aloes, and cassia, out of the ivory palaces, whereby they have made thee glad.” Procter đã tìm ra tên gọi IVORY (ngà) (dù ngay cả chất liệu ngà thực tế cũng không hoàn toàn trắng về màu sắc, và thậm chí không hề nổi được!)

18. Lắng nghe Khách hang

Trong thời đại này, “lắng nghe khách hàng” đồng nghĩa với việc tổ chức focus group hoặc panel trực tuyến. Ngày xưa, đơn giản chỉ là những buổi gặp gỡ tình cờ. Một dược sĩ tại Thành phố Baltimore đã tự bào chế kem dưỡng da vào đầu những năm 1900. George Bunting đã bán những hộp kem màu xanh có nhãn “Thuốc chữa rám nắng của Bác sĩ Bunting.” Các khách hàng nữ luôn phải che dù khi ra nắng nên cảm thấy rất hào hứng với loại kem này. Nhưng George lại muốn mở rộng kinh doanh hơn nữa. Rồi một ngày nọ, một khách hàng nam bước vào cửa hàng và khen ngợi thuốc chữa rám nắng đã đã giúp ông khỏi hoàn toàn căn bệnh chàm (eczema). Kể từ đó, công thức của Bác sĩ Bunting mang tên NOXZEMA (chạy âm từ cụm chữ “No Eczema”).

19. Nghĩ về cái tên như một lời cam kết

Những tính năng hay lợi điểm nào bạn có? Công thức NYQUIL được phát minh từ cụm chữ “ny” (ban đêm) và “quil” (dịu nhẹ). Lời hứa hẹn ở đây chính là một giấc ngủ dịu dàng vào ban đêm. “Hãy vươn cao tay, nếu bạn đủ TỰ TIN” chính là thông điệp từ một sản phẩm khử mùi SURE. Các nhà ngôn ngữ học đã quan sát thấy rằng một cái tên có giá trị cao hơn một thanh âm đơn thuần. Đó còn là một tập hợp các liên tưởng.

20. Dùng tiếng nước ngoài

Tìm những chuyển ngữ của các căn từ, từ gốc, những thuật ngữ liên quan. Mitsubishi (có ký hiệu là ba viên kim cương) đã tìm ra chữ DIAMANTE (gốc Diamond, kim cương) là tên gọi cho dòng xe sang trọng mới. VOLVO có nghĩa “tôi xoay” trong tiếng Latin. OREO có nghĩa “ngọn đồi” trong tiếng Hy Lạp (mới đầu, bánh bích quy có hình dạng nhô lên như một ngọn đồi, không phải một miếng dẹp.) Café decaf được giới thiệu lần đầu tại Châu Âu. SANKA là một từ rút gọn từ một ngữ tiếng Pháp, “sans cafein” (không cafein). Chủ một hầm rượu nhỏ đã nói về những nỗ lực trong sản xuất rượu của ông với bạn bè là “labor of love” (công sức của tình yêu). Cách nói đó đã trở thành tên của hầm rượu. Thành ngữ tiếng Pháp chính là “Travail du Coeur” (công việc của tình yêu).

21. Dùng máy vi tính

Một số chương trình phần mềm có thể giúp đặt tên công ty hoặc sản phẩm. Hoặc bạn có thể tự tạo bằng cách dùng một chương trình “ghép” từ theo cột A với cột B. Máy vi tính tất nhiên sẽ không có nhiều khả năng đánh giá như con người. Chúng không biết những định hướng về marketing hay những nhận biết về ngôn ngữ. Nhưng chắc chắn chúng sẽ cung cấp được rất nhiều lựa chọn từ việc gán ghép từ ngữ.

22. Mua những tên đã có

Một ngân hàng đã trả 10,000 đô-la để mua lại tên cho dịch vụ quản lý tiền mặt của một ngân hàng khác (vốn đã ngừng dịch vụ này). Một công ty kinh doanh nước hoa đã trả một triệu đô-la cho quyền sử dụng một tên gọi. (tên gọi đó đã được đăng ký tại hơn 70 quốc gia.) Coors được cấp quyền sử dụng tên loại bia IRISH RED từ một nhà nấu rượu đã ngưng hoạt động từ lâu.  Nếu một tên gọi mà bạn nghĩ đến đã bị một người khác sở hữu, nhưng họ lại ít hoặc không dùng đến, cứ mua lại. Có thể nhờ người trung gian đứng ra thương lượng. Bạn có gì để mất đâu.

23. Hãy dành thời gian lắng nghe

Bạn không bao giờ biết được mình sẽ nghe thấy những điều gì cả. Một sản phẩm giúp an thần ngủ ngon nổi tiếng được đặt tên khi nghe một nhóm người rời khỏi nhà hát muộn vào một buổi tối nọ. Họ nói với nhau: “Night, all” (mọi người ngủ ngon nhé). Và điều đó đã mang đến một cái tên mới: “NYTOL”(chạy âm từ chữ Night-all).

24. Không dùng những ký tự đầu

Nghiên cứu cho thấy những tên ghép ký tự đầu khó nhớ hơn đến 40% so với những tên bao gồm từ thật hay những từ được tạo ra. Nếu không tin, hãy thử nhìn vào danh sách các công ty của bảng xếp hạng Fortune 500. Có bao nhiêu tên công ty bạn thật sự nhận ra? (Bạn có biết UST, SPX hay NCH là gì không?)

25. Thử đọc to cái tên

Những cái tên cần nên dễ nghe lẫn dễ nhìn. Hãy tưởng tượng mỗi ngày có bao nhiêu lần cái tên đó sẽ được đọc qua điện thoại. Chỉ cần đổi cấu trúc từ thôi đã có thể tạo ra một âm đọc dễ dàng hơn nhiều. Nguồn gốc của cả hai chữ sau đây đều có nghĩa là “ấm áp” hoặc “yêu thương”. Nhưng chữ CALIDA vẫn dễ nghe hơn từ CALIDUS.

26. Dùng tiếp tố

Các tiếp tố có vai trò rất đặc biệt trong việc tạo ra những cái tên mới. Những tiếp tố sau rất hữu ích, như -ime, -in thường được dùng cho dược/hóa phẩm (ANACIN, BUFFERIN, LISTERINE).

Tiếp tố -oid có nghĩa “chung” hay “có hình thức giống” (CULLOLOID, POLAROID) và -ex thường được dùng để nhấn mạnh “sự tuyệt hảo” hay để tạo uy tín cho một tên gọi (ROLEX, KLEENEX, PLAYTEX).

Tiếp tố -elle mang đầy nữ tính, giúp bổ sung tính dịu dàng hòa nhã (kim cương sáu cạnh TRIELLE).

27. Tên gọi nói lên lợi ích sản phẩm

Một loại nước hoa có tên PASSION (cảm xúc). Một loại nước khử mùi có tên NO SWEAT (không mồ hôi). Một loại xe địa hình mang tên EXPLORER (người khai phá). Một hợp chất polyethylene bền, khó rách được đặt tên là DURATION (sự bền bỉ).

28. Tựa bóng cây to

Tên gọi của một người đồng minh sẽ có thể cho bạn nhiều gợi ý. Ví dụ như nếu bạn đang đặt tên cho bản tin của công ty, hãy xem thử tên của những tờ báo đô thị lớn. Nhưng hãy tìm kiếm sâu hơn những cái tên rất rõ ràng như TIMES, HERALD hay GAZETTE. Bạn cũng sẽ tìm thấy một số phát minh mới. Tại thành phố Seattle, có tờ Post-Intelligencer. Tại bang California, có Sacramento BEE. Tại Bắc Carolina có High Point ENTERPRISE.

29. Hãy bắt đầu với một ký tự lạ.

Trong tiếng Anh, có những từ đa số bắt đầu với 5 ký tự sau: S, C, P, A và T. Năm ký tự ít dùng nhất là X, Z, Y, Q, và K. Cứ 1 trong 8 chữ sẽ bắt đầu bằng S. Nhưng chỉ có 1 trong 3000 chữ bắt đầu bằng ký tự X. George Eastman đã tìm ra tên KODAK từ nhiều lý do khác nhau. Tên gọi đó ngắn, lạ tai, và nghe rất kêu. Theo ông, “Ký tự K rất được tôi yêu thích – ký tự đó có vẻ mạnh mẽ, sắc sảo.”

30. Lặp âm

Nhịp điệu có thể ảnh hưởng đến sự thu hút và tính dễ nhớ của một cái tên. KODAK lặp âm K cuối của từ Book. Hãy thử nghe xem nhịp lặp của những cái tên như FRUIT OF THE LOOM, hay COCA-COLA.

31. Xem bản đồ

Các địa danh cũng có thể dùng làm tên sản phẩm. Loại giầy bít cổ hở được cho là có nguồn gốc từ một loại dép không quai hậu ở Na-uy (clog). Henry Bass, một người thợ làm đồng ở Maine, đã đặt tên cho đôi giầy là WEEJUN tức hai vần cuối của từ Norwegian. Một công ty làm bánh quy tại Massachusetts đã lắp đặt một cái máy làm bánh mới có thể cuộn bánh quy với mứt. Loại mứt đầu tiên được thử nghiệm làm từ quả phỉ. Họ chọn đặt tên sản phẩm theo tên thị trấn gần đó tên là Newton. Theo đó, cái tên FIG NEWTONS ra đời.

32. Hoán đổi mọi trật tự bình thường

Tướng Ambrose Everett Burnside là Chỉ huy của Quân đoàn Potomac trong suốt cuộc nội chiến tại Mỹ. Đặc điểm phân biệt nổi trội nhất của ông (mà về sau đã tạo nên xu hướng) chính là bột râu quá cỡ ở hai bên mặt, chạy dài từ mang tai xuống hai má. Chúng được gọi theo tên ông là “burnsides” (râu của Burnside). Theo thời gian, từ đó đã đổi thành SIDEBURNS. Công ty quản lý siêu thị Pathmark vốn đã có thể đặt tên là Công ty General Supermarket. Thay vào đó, hãng đã chọn là SUPERMARKETS GENERAL.

33. Vay mượn ý tưởng

Thomas Edison từng nói rằng các ý tưởng chỉ có thể độc đáo khi nó phù hợp với vấn đề của bạn. Các nhà thiết kế trong quân độ đã mượn tranh Picasso để tạo ra những mẫu hoa văn lá cây để trang trí cho các chiếc chiến xa (xe tăng). Thế nên hãy tự nhiên, hãy vay mượn một trong các ý tưởng đó.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết – Chiến thuật đặt tên thương hiệu –

Quẻ Quan Âm: Tào Phi Xưng Đế, Tào Phi lên ngôi

Quẻ Quan Âm thứ 95 Quẻ Quan Âm: Hàn Văn Công Ngộ Tuyết đoán rằng giữ yên phận vị của mình, tin vui bay đến, thì tiền tài phúc lộc cũng tự theo về
Quẻ Quan Âm: Tào Phi Xưng Đế, Tào Phi lên ngôi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 95 được xây dựng trên điển cố: Tào Phi xưng đế.

Quẻ trung bình thuộc cung Tuất. Một mặt trong lòng phải ôm ấp chí hướng cao xa, mặt khác phải trải qua thực tiễn, giữ yên phận vị của mình. Đợi đến khi gà vàng đáp lời, tin vui truyền tới, thì tiền tài phúc lộc cũng về theo.

Thừ quái chí khí công danh chi tượng. Phàm sự thủ thường đại cát dã.

Điển cố quẻ Quan Âm: Tào Phi Xưng Đế

Tào Phi (187 – 226), tự là Tử Hoàn, là người huyện Tiêu thuộc nước Bái. Là con trai thứ hai của Tào Tháo, do Biện thị sinh ra, trong cuộc chiến tranh chấp quyền thừa kế, đã chiến thắng người em trai Tào Thực vốn có tài văn chương vượt trội.

Năm Kiến An thứ 16 (năm 211), Tào Phi được Tào Tháo lập làm Ngũ quan Trung lang tướng, Phó thừa tướng, cho trấn giữ Nghiệp Thành. Trong thời gian đó xảy ra việc Điền Ngân, Tô Bá ờ Hà Gián làm phản, lúc ấy Tào Tháo đi đánh Lương Mã Siêu, Hàn Toại ờ phía tây chưa trở về, vì thế Tào Phi đích thân chỉ huy quân đội, dẹp yên được cuộc phản loạn này, dần dần giành được sự yêu mến tin tường của Tào Tháo. Đồng thời Tào Phi còn sử dụng nhiều mưu kế, được sự giúp đỡ của các đại thần như Tư Mã Ý, Ngô Chất, nên được lập làm Vương Thế tử.

Năm Kiến An thứ 22 (năm 217), Tào Phi được Tào Tháo lập làm Ngụy Thái tử. Tháng giêng năm Kiến An thứ 25, Tào Tháo qua đời, Tào Phi kế vị trở thành Ngụy Vương. Tào Phi kết tội Tào Thực không tham gia lễ tang, ép em trai phải làm được bài thơ trong vòng bảy bước chân, ý muốn sát hại Tào Thực. Sau đó lại chiếm đoạt một cách thuận lợi binh quyền của một người em trai khác là Tào Chương, cuối cùng Tào Phi đã kế thừa chức quan và tước vị của Tào Tháo, ngồi yên ờ ngôi vị Ngụy Vương.

Ba tháng sau, trong cung điện của Hán Hiến Đế ở Hứa Xương, Hoa Hâm cùng các quan văn võ vào triều yết kiến Hiến Đế. Hoa Hâm tấu rằng: “Từ khi Ngụy Vương tự lên ngôi đến nay, đức hạnh bao trùm khắp nơi, thi hành điều nhân đến vạn vật, xưa nay không ai sánh kịp, cho dù là Đường Ngu thời thượng cố, cũng không thể hơn. Vừa đây quần thần mở hội nghị, nhất trí cho rằng mệnh vận trong thiên hạ của nhà Hán đã kết thúc, mong bệ hạ hãy làm theo cách của vua Nghiêu vua Thuấn, nhường núi sông xã tắc cho Ngụy Vương. Như vậy trên sẽ hợp với ý trời, dưới sẽ hợp với lòng dân, mà bệ hạ lại có thể yên ồn mà hưởng phúc thanh nhàn!”

Hiến Đế kinh hãi biến sắc, mãi không nói được gì, một lát sau mới khóc mà nói rằng: “Trẫm nhớ Cao Tố vung cây kiếm ba thước, chém rắn khời nghĩa, dẹp Tần diệt sở, tạo lập cơ nghiệp, đời nối đời, đã được bốn trăm năm rồi. Ta tuy không có tài, nhưng cũng không có lỗi lầm gì, lại càng không có tội ác, sao có thể nhẫn tâm vứt bỏ cơ nghiệp tổ tông như thế được?”

Vương Lãng tâu rằng: “Từ xưa đến nay, có hưng vượng ắt sẽ có tàn phế, có thịnh ắt có suy, làm gì có nước nào không bị diệt vong, gia tộc nào không bị phá bại? Nhà Hán truyền đòi đã bốn trăm năm, kéo dài đến đời của bệ hạ thì khí số đã hết, nên sớm rút lui, nếu chậm trễ sẽ có biến cố”. Hiến Đế bèn khóc lớn, đi ra cửa nhìn, thấy đến mấy trăm người mặc áo giáp cầm giáo mác, đều là binh lính nước Ngụy, liền khóc mà nói với quần thần rằng: “Ta muốn trao thiên hạ cho Ngụy Vương, may ra giữ được chút hơl tàn, để sống hết tuổi trời”. Bèn ra chiếu thư, nhường thiên hạ cho Tào Phi.

Mùa đông năm ấy, Tào Phi phế truất Hán Văn Đế, tự lập làm Đại Ngụy Hoàng Đế. Lịch sử gọi là Ngụy Văn Đế. Vào ngày cử hành nghi thức lên ngôi, Tào Phi lên đàn tiếp nhận ngôi vị hoàng đế, Hán Văn Đế Lưu Hiệp đem ngọc tỷ tượng trưng cho quyền lực hoàng đế dâng hai tay trao cho Tào Phi, sau đó đến lượt các quan, bái lạy Ngụy Văn Đế lên ngôi. Sau khi nghi thức kết thúc, Tào Phi phong cho Lưu Hiệp làm Sơn Dương Công. Trong vùng đất được phong, vẫn theo lịch pháp của nhà Hán, cử hành lễ tế trời đất ở ngoài kinh thành theo nghi thức của thiên tử, khỉ dâng thư lên hoàng đế có thể không xưng thần.

Tào Phi lại truy tôn ông nội là Tào Tung làm. Thái Hoàng đế, còn cha là Tào Tháo làm Vũ Hoàng đế, tôn xưng mẹ là Biện thị làm Hoàng Thái hậu. Đến đây, Tào Phi đã hoàn thành đại nghiệp thay đổi triều đại.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Tào Phi Xưng Đế, Tào Phi lên ngôi

Nhất Bạch lưu niên ảnh hưởng tới phong thủy nhà ở

Lưu niên phi tinh là hướng bay tới của các sao trong một năm, ảnh hưởng tới cách cục của ngôi nhà. Luận giải vấn đề này, bắt đầu từ Nhất Bạch lưu niên.
Nhất Bạch lưu niên ảnh hưởng tới phong thủy nhà ở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy Huyền Không dựa vào Cửu tinh để luận đoán cát hung. Lưu niên phi tinh là hướng bay tới của các sao trong một năm, ảnh hưởng tới cách cục của ngôi nhà. Luận giải vấn đề này, bắt đầu từ Nhất Bạch lưu niên. 


Nhat Bach luu nien anh huong toi phong thuy nha o hinh anh
 
Phi tinh Nhất Bạch hay còn gọi là Tham Lang, ngũ hành thuộc Thủy, màu sắc là trắng, phương vị Hậu thiên Bát quái thuộc cung Khảm, chủ về tài quan, danh tiếng, chức tước và sự học hành. Khi Nhất Bạch lưu niên bay tới các cung khác nhau sẽ tạo ra sự hung cát khác nhau cho ngôi nhà.
 
Nhất Bạch đến phương Khảm, Trạch Kinh có viết: “Nhất Bạch ứng với quan tinh, chúa tể văn chương”. Chủ về học hành, thi cử hanh thông, thuận lợi. Tốt cho quan văn, danh tiếng và chức tước.
 
Nhất Bạch đến cung Cấn: phát tài, lợi cho điền sản, dựng cơ nghiệp.
 
Nhất Bạch đến phương Chấn: chủ trong nhà có người di chuyển hoặc đi xa, tỳ khí quá nóng.
 
Nhất Bạch đến phương Tốn: “Nhất, Tứ đồng cung” chủ về học hành thuận lợi, đỗ đạt cao, vang danh bốn bể, người bình thường cũng có thể thi đỗ, có nhiều tiến bộ hoặc đạt thành tích cao trong học tập.
 
Nhất Bạch đến phương Ly: Thủy Hỏa tương giao, chủ về thuận lợi, vui mừng.
 
Nhất Bạch đến phương Khôn: chủ về nữ nhân nắm quyền, người trong nhà dễ bị mắc bệnh đường ruột, hệ tiêu hóa.
 
Nhất Bạch nhập trung cung, Trạch Kinh viết: “Nhất đi với Nhị, Ngũ trai tráng thương vong”, chủ về bệnh tật, thương vong.
 
Nhất Bạch đến phương Càn: chủ thông minh, tài trí, có danh tiếng, phát tài nhỏ.
 
Nhất Bạch đến phương Đoài: người trong nhà hiếu động, dễ có việc cưới hỏi, hỷ sự, Nhất Bạch đúng vận là Đào hoa vận, khác vận là Đào hoa sát.
 
Nếu phương vị đó là những vị trí quan trọng như cổng, cửa, bếp, giường ngủ,… đồng thời có những vật kích hoạt thì tính ứng nghiệm sẽ khá cao.
Theo Phong thủy Huyền không
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhất Bạch lưu niên ảnh hưởng tới phong thủy nhà ở

Lỗi phong thủy phòng cưới khiến vợ chồng tắt lửa yêu

Đặt bể cá, cây cảnh, các đồ điện, gương soi... trong phòng cưới sẽ khiến ngọn lửa tình yêu của cặp uyên ương sớm lụi tàn.
Lỗi phong thủy phòng cưới khiến vợ chồng tắt lửa yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặt bể cá, cây cảnh, các đồ điện, gương soi... trong phòng cưới sẽ khiến ngọn lửa tình yêu của cặp uyên ương sớm lụi tàn.


► Xem thêm: Những yếu tố phong thủy phòng ngủ ảnh hưởng đến tài vận gia đình bạn

1. Đặt bể cá, cây cảnh trong phòng cưới
 
Trong phong thủy, những vật như bể cá, cây cảnh có tính Thủy quá mạnh, tốt nhất không nên để trong phòng mới cưới khiến ngọn lửa tình yêu của vợ chồng lụi tàn vì nước.
 
2. Chất đồ lung tung dưới gầm giường
 
Gầm giường là nơi u ám, không thông thoáng, nếu cộng thêm nhiều đồ linh tinh sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ không khí trong phòng, khiến người trong đó khó ngủ hoặc ngủ không sâu giấc, dễ gặp ác mộng và không tốt cho sức khỏe.

Loi phong thuy phong cuoi khien vo chong tat lua yeu hinh anh
Ảnh minh họa

3. Sơn phòng ngay trước ngày cưới
 
Trong sơn tường có chứa một số chất gây hại cho sức khỏe, nếu sơn tường ngay trước ngày cưới sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, thậm chí gây hại tới thế hệ con cái sau này. Theo đó, bạn nên sơn phòng trước đó một thời gian để các chất độc hại bay đi.

4. Phòng cưới có quá nhiều đồ điện
 
Trong phong thủy, căn phòng đặt quá nhiều đồ điện gọi là “hỏa trạch”, không tốt cho sức khỏe con người. Ngoài ra, do ảnh hưởng của các loại từ trường, vợ chồng dễ nảy sinh mâu thuẫn hoặc có tâm lí tìm người thứ ba để chia sẻ tình cảm.

5. Tivi chiếu thẳng vào chân người
 
Các nhà khoa học đã chứng minh bức xạ điện từ ở tivi có hại với sức khỏe con người. Nếu đặt tivi trong phòng cưới mà ở vị trí chiếu thẳng vào bàn chân lại càng gây hại.
 
Bởi chân chính là trái tim thứ hai của mỗi người. Khi tivi ở chế độ màn hình chờ và chiếu thẳng vào lòng bàn chân, các tia bức xạ có thể ảnh hưởng tới hoạt động của tuần hoàn máu, từ đó sinh ra nhiều loại bệnh tật.
 
6. Treo gương trong phòng ngủ, đối diện với giường
 
Không ít người đã nhận ra lỗi phong thủy này và đã thay đổi, trong khi đó cũng có người rất thích treo gương trong phòng ngủ, thậm chí treo đối diện với giường để nhân đôi sự “mặn nồng” trong đời sống vợ chồng. 
 
Việc treo gương đối diện với giường ngủ dễ tạo ra ảo giác hoặc gây ra sự ám ảnh nếu như bất chợt tỉnh dậy giữa đêm khuya. Điều đó khiến tâm trạng của vợ chồng bất an, lo lắng và khó có được những giây phút thực sự thăng hoa.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lỗi phong thủy phòng cưới khiến vợ chồng tắt lửa yêu

Ðức Phật không đặt ra những luật lệ cho đời sống hôn nhân

Ðức Phật không đặt ra những luật lệ cho đời sống hôn nhân nhưng đưa ra những lời khuyên cần thiết dạy phật tử làm thế nào để sống một hôn nhân hạnh phúc
Ðức Phật không đặt ra những luật lệ cho đời sống hôn nhân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hôn nhân là một sự quy ước của xã hội, một thể chế do con người tạo ra nhằm vì mục đích an lạc, hạnh phúc của con người, để phân biệt xã hội loài người với đời sống thú vật và duy trì tật trự và sự hoà hợp trong quá trình sinh sản

Dù là những kinh điển đức Phật giáo không đề cập đến vấn đề chế độ một vợ một chồng hoặc là chế độ đa phu đa thê, song người phật tử tại gia được khuyên hạn chế ở chế độ một vợ một chồng. Ðức Phật không đặt ra những luật lệ cho đời sống hôn nhân nhưng đưa ra những lời khuyên cần thiết dạy phật tử tại gia làm thế nào để sống một đời sống hôn nhân hạnh phúc.

Có những sự liên hệ phong phú trong những bài pháp của Ngài rằng người ta nên khôn ngoan và khéo léo trung thành với chế độ một vợ một chồng và không tham đắm vào sắc dục và bỏ vợ mình đi theo những người phụ nữ khác. Ðức Phật nhận ra rằng một trong những nguyên nhân chính của sự suy vi của người đàn ông là sự dính líu của anh ta đối với những người phụ nữ khác. (Kinh Parabhava)

Người đàn ông phải nhận ra những khó khăn, những thử thách và nỗi phiền phức mà anh ta phải chịu đựng chỉ vì để duy trì người vợ và gia đình. Những khó khăn này sẽ được thổi phồng lên nhiều lần khi đối diện với những tai ương. Biết được những yếu điểm của bản chất con người, Ðức Phật chế giới luật khuyên chư đệ tử Ngài tránh vi phạm giới dâm.

Quan điểm của Đức Phật giáo về vấn đề hôn nhân rất là khai phóng. Trong Phật giáo, hôn nhân được xem như một vấn đề mang tính cá nhân và riêng tư chứ không phải là một trách nhiệm đối với tôn giáo. Không có quy luật nào trong đức Phật giáo buộc con người phải kết hôn, hoặc là ở độc thân hoặc là sống một đời sống hoàn toàn trinh bạch.

Giới luật cũng không đặt ra cho người Phật tử buộc họ phải sinh con cái hoặc là điều chỉnh số lượng con cái mà họ phải sinh. Ðạo Phật cho phép mỗi cá nhân hoàn toàn có quyền tự do quyết định cho chính bản thân mình về tất cả những vấn đề liên quan đến đời sống hôn nhân gia đình.

Người ta có thể hỏi rằng tại sao Tăng sĩ Phật giáo không lập gia đình bởi vì không có luật nào đồng ý hoặc chống lại việc lập gia đình của họ. Lý do hiển nhiên rằng để được phục vụ cho nhân loại, người tu sĩ đã chọn một lối sống tôn thờ chủ nghĩa độc thân. Những vị nào xuất gia tu tập và từ bỏ đời sống hôn nhân gia đình một cách tình nguyện để tránh xa những lời cam kết thế gian nhằm duy trì sự an lạc nội tâm và dành hết cuộc đời của mình phục vụ cho nhu cầu phát triển tâm linh và giải thoát cứu cánh của tha nhân. Mặc dù người xuất gia theo Phật giáo không cử hành một lễ cưới, song họ cũng có thể thực hiện tinh thần phục vụ của tôn giáo để mà ban phước cho cặp tình nhân mới cưới.

Ly hôn hay ly dị không cấm theo quan điểm của Đức Phật giáo

Mặc dù quy luật tất yếu chắc chắn là không thể phát sinh nếu những mệnh lệnh (giới luật) của Ðức Phật được tuân giữ một cách nghiêm khắc. Nam và nữ phải có quyền tự do chia ta nhau nếu họ thực sự không thể hợp tình hợp ý nhau. Chia tay là cách chọn lựa thích hợp nhất để tránh cảnh khổ đau của cuộc sống gia đình phải diễn ra trong một khoảng thời gian dài. Ðức Phật còn đi xa hơn nữa là khuyên người đàn ông già không nên lấy vợ trẻ bởi vì người già và người trẻ không thể tương hợp nhau, sẽ tạo ra những vấn đề không đáng, sự bất hoà và sự suy vi (Kinh Parabhava).

Một xã hội phát triển thông qua một hệ thống những mối quan hệ xoắn vào nhau và tương quan tương duyên nhau. Mỗi mối quan hệ là một sự cam kết hết lòng hỗ trợ và bảo vệ nhau trong một nhóm hay cộng đồng người. Hôn nhân đóng một vai trò rất quan trọng trong mạng lưới những quan hệ của sự hỗ trợ và bảo vệ lẫn nhau này.

  • Một cuộc hôn nhân tốt đẹp phải phải triển và phát huy dần dựa trên cơ sở của sự hiểu biết chứ không dựa trên sự ép buộc, gượng ép, xuất phát từ lòng chung thuỷ và thành thật với nhau chứ không chỉ hoàn toàn dựa trên sự ham muốn.
  • Thể chế của hôn nhân cung cấp một nền tảng tốt đẹp cho sự phát triển của văn hoá, một sự hội nhập vui vẻ của hai cá nhân để được nuôi dưỡng và thoát khỏi trạng thái cô đơn buồn tẻ, sự nghèo khổ và sợ hãi.
  • Trong hôn nhân, mỗi bên phát huy một vai trò bổ sung cho nhau, tạo nên sức mạnh và dũng khí đạo lý, mỗi bên biểu lộ sự công nhận vai trò hỗ trợ và đánh giá cao những kỹ năng của nhau.
  • Không nên mang ý niệm trọng nam khinh nữ, hoặc trọng nữ kinh nam.
  • Mỗi bên hỗ tương cho nhau, làm một người bạn đời dựa trên sự bình đẳng, biểu lộ sự nhã nhặn, hào phóng, yên tĩnh và nhiệt tâm với nhau.

Việc phá thai là không công bằng

Người Phật tử không có lý do nào để chống lại việc hạn chế sinh đẻ. Họ tự do trong việc sử dụng bất kỳ phương pháp tránh thai truyền thống hay hiện đại. Những ai phản đối việc hạn chế sinh đẻ bằng cách nói rằng việc làm đó chống lại quy luật của Thượng đế, nên nhận ra rằng quan niệm của họ liên quan đến vấn đề này là không hợp lý.

Trong vấn đề hạn chế sinh đẻ, những việc cần nên thực hiện là để ngăn chặn sự xuất hiện của một chúng sanh mới. Không liên quan đến việc sát sanh và không có tạo nghiệp bất thiện. Nhưng nếu họ đưa ra bất kỳ hành động nào để thực hiện việc nạo phá thai, thì hành động này là không đúng bởi vì nó liên quan đến việc sát hại sanh mạng hoặc là huỷ diệt một sự sống hữu hình hay vô hình. Do đó, việc phá thai là không công bằng.

Theo giáo lý Ðức Phật, năm điều kiện phải có mặt để đưa đến hành động sát sanh. Năm điều kiện đó là:

  1. Một chúng sanh
  2. Ý thức hay biết đó là một chúng sanh
  3. Ý định giết hại
  4. Tìm mọi cách để giết và
  5. Kết quả là cái chết.

Khi một người nữ thụ thai, có một chúng sanh hiện hữu trong bào thai của cô ta và yếu ttó này đáp ứng điều kiện thứ nhất. Sau một vài tháng, cô ta biết rằng có một cuộc sống mới bên trong cô ta và yếu tố này thoả mãn điều kiện thứ hai. Sau đó, vì lý do này hay lý do khác, cô ta muốn muốn giết đi mạng sống này bên trong cô ta. Vì vậy, cô ta bắt đầu tìm kiếm một bác sĩ chuyên về việc phá thai để làm công việc đó và như thế, điều kiện thứ ba được đáp ứng. Khi bác sĩ phá thai thực hiện công việc, điều kiện thứ tư được thoả mãn và cuối cùng sanh mạng bị giết bởi vì hành động đó.

Vì vậy, tất cả những điều kiện đều hiện hữu. Như thế, hành động này của người mẹ phạm vào giới thứ nhất là không được giết hại và việc làm này có giá trị như việc giết một mạng người. Theo Phật giáo, không có một lý do nào để nói rằng chúng ta có quyền tước đi mạng sống của những sinh vật khác. Trong một số tình huống đặc biệt, con người cảm thấy bị bắt buộc phải làm điều đó vì sự thuận tiện cho chính bản thân. Nhưng họ không nên biện minh hành động phá thai này bằng cách này hay bằng cách khác mà họ sẽ phải chịu những nghiệp quả xấu. Ơû một số nước, việc phá thai được xem là phi pháp, nhưng việc làm này là để vượt qua một số vấn đề. Những nguyên lý tôn giáo không bao giờ dâng nộp những thú vui của con người. Những nguyên lý ấy đại diện cho lợi ích của toàn thể nhân loại.

tự tử
Tước đi mạng sống của chính mình cho dù trong bất cứ tình huống nào cũng đều được xem là không đúng với tinh thần và luân lý đạo đức.

Tự tử là một hành động bất thiện

Tước đi mạng sống của chính mình cho dù trong bất cứ tình huống nào cũng đều được xem là không đúng với tinh thần và luân lý đạo đức. Chấm dứt sự sống của chính mình do vì sự bực mình hay thất vọng chỉ tạo nên khổ đau ngày càng nhiều hơn. Tự tử là một cách hèn nhát để chấm dứt những vấn đề trong cuộc sống con người. Người với tâm thanh tịnh và khinh an không bao giờ tự tử. Nếu người từ bỏ thế giới này trong một trạng thái tâm tán loạn và bực mình, thì anh ta sẽ không thể tái sinh trong một điều kiện tốt hơn. Tự tử là một hành động bất thiện và không lành mạnh bởi vì nó được khích lệ bởi một tâm hồn tràn đầy tâm tham lam, sân hận và si mê. Những người tự tử không biết cách đối diện với những vấn đề, làm thế nào để đối diện với sự thật của cuộc đời và làm thế nào để sử dụng tâm mình theo phương pháp chính đáng. Những con người như thế không thể hiểu được bản chất của cuộc đời và những điều kiện của thế gian.

Có một số người hy sinh mạng sống của chính mình cho những gì họ nghĩ rằng vì sự nghiệp cao cả và thánh thiện. Họ chấm dứt mạng sống của họ bằng những biện pháp như thế như tự thiêu thân, tự hy sinh, hoặc là chết đói. Những hành động như thế có thể được xếp vào những hành động can đảm và dũng cảm.

Tuy nhiên, theo quan điểm của Phật giáo, những hành động như thế không được xem như có tội. Ðức Phật đã chỉ rõ ràng rằng trạng thái tâm trong lúc tự tử sẽ dẫn đến khổ đau nhiều hơn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ðức Phật không đặt ra những luật lệ cho đời sống hôn nhân

Chị em mê mẩn với đèn xông tinh dầu - phụ kiện trang trí nhà vừa đẹp vừa thơm

Đèn xông tinh dầu là sự kết hợp hoàn hảo giữa đèn chiếu sáng và máy xông tinh dầu, mang đến cho không gian nhỏ sự ấm áp, hương thơm dễ chịu và là phụ kiện trang trí bắt mắt.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đèn xông tinh dầu đang là sản phẩm được các chị em phụ nữ tìm kiếm để sử dụng trong ngôi nhà nhỏ của mình. Loại đèn này không chỉ mang lại hương thơm, cảm giác ấm áp cho mùa đông mà còn trở thành một phụ kiện trang trí cho không gian sống thêm đẹp và ấn tượng.
  Đèn xông tinh dầu - sự kết hợp hoàn hảo giữa đèn chiếu sáng và máy xông tinh dầu. 
Đèn xông tinh dầu là sự kết hợp hoàn hảo giữa đèn chiếu sáng và máy xông tinh dầu. Bạn có thể đặt nó ở bất cứ đâu trong ngôi nhà, đặc biệt là phòng ngủ, phòng làm việc,... Ánh sáng dịu nhẹ, mùi hương thoang thoảng giúp thanh lọc không khí, xua đuổi côn trùng và đặc biệt an toàn với sức khỏe người sử dụng. So với lọ nước xịt phòng quen thuộc thì lựa chọn này đem lại cảm giác tự nhiên, dễ chịu hơn rất nhiều. 
 
đẻn 3
 
Loại đèn này không chỉ mang lại hương thơm, cảm giác ấm áp cho mùa đông...     ... mà còn trở thành một phụ kiện trang trí cho không gian sống thêm đẹp và ấn tượng.
Đèn xông tinh dầu có cấu tạo gồm hai phần: phần bên dưới là vị trí của hệ thống chiếu sáng, phần bên trên là nơi nhỏ các giọt tinh dầu (khoảng 5-7 giọt vào nước ấm). Về chất liệu, đèn xông tinh dầu có thể chiều lòng cả những chị em khó tính nhất bởi độ phong phú của mình. Người yêu nét mộc mạc giản dị có thể chọn mẫu đèn bằng gốm sứ hoặc gỗ (phần đĩa trên bằng thủy tinh), người thích sự lấp lánh sang trọng sẽ chọn cho mình loại bằng pha lê nhiều màu hay thủy tinh đẹp mắt, phong cách vintage với đèn bằng kim loại đồng, sắt. Hoa văn của đèn có thể được vẽ, in chìm, khắc nổi,…với các hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam, chữ thư pháp, hoa lá, chim muông từ đơn giản đến cầu kỳ, nổi bật.
    Đèn xông tinh dầu được tạo nên từ nhiều vật liệu như gốm sứ, gỗ, thủy tinh, pha lê...
 Với nhiều kiểu dáng từ đơn giản, ngộ nghĩnh đến sang trọng, quý phái.
Bên cạnh chức năng của một chiếc đèn chiếu sáng, sưởi ấm, đèn xông tinh dầu còn là điểm nhấn thu hút cho căn phòng nhỏ của bạn. So với các loại đèn thông thường, mẫu sản phẩm này đa năng và ấn tượng hơn rất nhiều. Ngay cả khi không sử dụng tinh dầu, bạn cũng có thể sắp xếp chúng trang trí nơi phòng khách, hành lang hay các bậc cầu thang cho không gian huyền ảo và lấp lánh.        
đèn 1
Đèn xông tinh dầu mang lại sự ấm áp, hương thơm và vẻ đẹp huyền ảo cho không gian.

Hiện nay, trên thị trường có hai loại chính là: loại xông tinh dầu nến và loại xông tinh dầu điện. Loại thứ nhất khá đơn giản, chi phí rẻ, nến tạo lửa được sử dụng là mẫu tealight, không mùi, hình tròn, nhiều màu. Tuy nhiên, loại thứ hai lại được ưa chuộng hơn bởi sự đa dạng về mẫu mã cũng như tính an toàn và thuận tiện. Với bóng đèn, bạn sẽ không lo lắng về vấn đề lửa khi nhà có trẻ nhỏ, nó vẫn hoạt động an toàn ngay cả khi bạn đi vắng.  Xông tinh dầu nến có cấu tạo đơn giản và cách sử dụng dễ dàng.  Bạn có thể chọn cho mình mẫu xông tinh dầu bằng nến tealight thông dụng.  đen 2
Hoặc sử dụng mẫu đèn xông tinh dầu cho cảm giác sang trọng và an toàn.

Tinh dầu có rất nhiều loại để cho bạn lựa chọn theo sở thích. Chẳng hạn như một số loại đang được ưa chuộng hiện nay như: Tinh dầu chanh sảng khoái, tinh dầu bạc hà, tinh dầu khuynh diệp giúp giảm đau đầu, tinh dầu cam, tinh dầu bưởi hương nhẹ nhàng, tinh dầu hoa hồng, hoa ly thơm ngát, tinh dầu oải hương lãng mạn, tinh dầu quế, gừng, sả giúp xua tan mệt mỏi, căng thẳng, khử trùng không khí hiệu quả, vân vân… Các loại tinh dầu này được đóng thành từng chai nhỏ, với các dung tích 10ml, 20ml, 30ml, 50ml và 100ml, giá thành dao động từ 70.000 - 350.000 đồng/ lọ.  Tinh dầu giúp chủ nhân thư thái, xua tan mọi căng thẳng cho cảm giác dễ chịu.

Trên thị trường hiện nay có rất nhiều nhà sản xuất cũng như nhập khẩu đèn xông tinh dầu. Nổi bật phải kể đến các mặt hàng thủ công của làng nghề gốm sứ Bát Tràng, với mẫu mã tinh tế, đường nét sắc sảo. Bên cạnh hàng Việt Nam có có các cửa hàng nhập khẩu đèn Đài Loan, Trung Quốc với kiểu dáng sang trọng. Bạn cần lựa chọn các hãng uy tín cả về đèn xông lẫn tinh dầu để đảm bảo an toàn sức khỏe, tránh mua tinh dầu trôi nổi không rõ nguồn gốc xuất xứ. Những mẫu đèn xông tinh dầu có giá từ vài trăm ngàn đến hàng chục triệu đồng tùy vào kiểu dáng, kích thước, chất liệu và giá trị thẩm mỹ. 

Bạn có thể mua đèn xông tinh dầu tại các cửa hàng chuyên kinh doanh nội thất, phụ kiện trang trí nhà ở hoặc tham khảo trên các trang web bán hàng online uy tín trong và ngoài nước.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chị em mê mẩn với đèn xông tinh dầu - phụ kiện trang trí nhà vừa đẹp vừa thơm

Tuyển tập ý nghĩa của con số 60, 61, 62, 63, 64, 65, 66, 67, 68, 69

Cùng Phong thủy số tìm hiểu về ý nghĩa của những con số như ý nghĩa số 68, ý nghĩa số 69, hay số 67 có ý nghĩa gì. Dưới đây là tất cả những thông tin về ý nghĩa của các con số từ ý nghĩa số 60 đến ý nghĩa con số 69.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cùng Phong thủy số tìm hiểu về ý nghĩa của những con số như ý nghĩa số 68, ý nghĩa số 69, hay số 67 có ý nghĩa gì. Dưới đây chúng tôi cung cấp cho bạn tất cả những thông tin về ý nghĩa của các con số từ ý nghĩa số 60 đến ý nghĩa con số 69.

Tuyển tập ý nghĩa của con số 60, 61, 62, 63, 64, 65, 66, 67, 68, 69

Xem thêm: Giải mã hiện tượng nháy mắt phải, giật mắt trái

Ý nghĩa số 60:

Số 60 mang ý nghĩa gì? Ý nghĩa của số 60 có tốt hay không? Trong quẻ dịch thì số 60 là tượng trưng cho những điều đen tối đã qua, sự thay đổi và chỉnh lý cũng như sau thời gian gián đoạn. 

Ý nghĩa số 61:

Số 61 có ý nghĩa là lộc sinh, hay sinh lộc. Ý nghĩa số 61 là sự kết hợp giữa số 6 và số 1. Trong quẻ dịch số 61 có ý nghĩa gì? Số 61 có ý nghĩa là tượng trưng cho sự thành thật, con người có uy tín, đáng được tin tưởng

Ý nghĩa số 62:

Số 62 mang ý nghĩa gì? Theo dịch học thì số 62 mang ý nghĩa là lộc mãi. Đây là con số mang ý nghĩa về sự may mắn, mang nhiều lộc cho người sở hữu. 

Ý nghĩa số 63:

Số 63 mang ý nghĩa gì trong quẻ dịch. Quẻ số 63 có ý nghĩa là tượng trưng cho nhưng lợi ích nhỏ, sự hợp tác hay cùng nhau. Còn về mặt ý nghĩa từ sự kết hợp giữa ý nghĩa số 6 và ý nghĩa số 3 thì số 63 mang ý nghĩa là lộc tài, con số này giúp người làm ăn gặp được nhiều may mắn, nhiều tài lộc, tiền tài.

Ý nghĩa số 64:

Số 64 trong quả dịch có ý nghĩa là sự dở dang, mọi sự còn chưa xong, vẫn còn sự nối tiếp, như một kết thúc mở cho mọi sự vật hiện tượng. để có thể cố gắng, học hỏi thêm trong tương lai. Đây là quẻ cuối cùng tỏng 64 quẻ dịch nên nó có ý nghĩa lớn nhất, mang một tìm nhìn xa hơn.

Số 65 có ý nghĩa gì?

Nhiều người hiện đang sở hữu con số 65, nhưng băn khoăn không biết số 65 có ý nghĩa gì, ý nghĩa số 65 có may mắn, có tốt đẹp hay không. Có nhiều quan niệm về ý nghĩa của số 65, có người cho rằng số 65 mang ý nghĩa là phú quý trường thọ, nhưng cũng có người cho rằng ý nghĩa số 65 là lộc sinh. Với ý nghĩa nào thì đây cũng đều là một con số may mắn, một con số “đẹp” mà bạn nên sở hữu.

Ý nghĩa số 66:

Số 6 mang ý nghĩa là lộc, vậy ý nghĩa của số song 6 hay số 66 là song lộc, đây là một con số may mắn, theo phong thủy thì con số này chưa đừng nhiều sự may mắn, tài lộc cho người sở hữu.

Số 67 có ý nghĩa là gì?

Theo quan niệm người Á Đông, số 67 là sự kết hợp giữa ý nghĩa số 6 ( “lục” hay là  “lộc), ý nghĩa số 7 là “thất”, số 67 mang ý nghĩa về sự không may mắn, không mang lại điều tốt cho người sở hữu.

Số 68 có ý nghĩa là gì?

Trái ngược với ý nghĩa số 67 thì số 68 mang ý nghĩa về sự may mắn, nhiều người quan niệm 68 là “lục bát” hay đọc trệch thành “lộc phát” với ý nghĩa con số 68 là con số may mắn, phát tài, phát lộc. Số 68 có ý nghĩa là mang lại may mắn cho người sở hữu, nên những người kinh doanh thường rất thích con số này được hiện hữu ở số điện thoại, số xe, hay số cửa hàng của mình.

Ý nghĩa của con số 69:

Ý nghĩa của con số 69 thường được hiểu là lộc trường phát, được hiểu từ sự kết hợp giữa con số 6 và con số 9 là “lục” “cửu” hay là “lộc” “cửu” ý chỉ nguồn lộc dồi dào, bất tận, hay vĩnh cửu, chính là sức mạnh về sự tài lộc mãi mãi. Đây là ý nghĩa chính của con số 69.
Trên đây là toàn bộ ý nghĩa của các con sô từ 60 đến 69. Nếu bạn có tìm hiểu thêm những ý nghĩa khác, những khía cạnh khác về ý nghĩa số 60 đến ý nghĩa số 69 thì bạn có thể góp ý với Phong thủy số tại mục: Thư viện Xem bói

: Ý nghĩa của các con số từ 0 đến 100
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuyển tập ý nghĩa của con số 60, 61, 62, 63, 64, 65, 66, 67, 68, 69

Tiền hết tình tan vì đặt ảnh người yêu làm hình nền

Đặt ảnh người yêu làm hình nền là một trong những thói quen sẽ “giết chết” tình yêu lứa đôi và chính túi tiền của bạn.
Tiền hết tình tan vì đặt ảnh người yêu làm hình nền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đó là một trong những thói quen sẽ “giết chết” tình yêu lứa đôi và chính túi tiền của bạn.


Những thói quen hàng ngày của chúng ta tiềm ẩn rất nhiều điều kiêng kị trong phong thủy. Điển hình như đặt ảnh người yêu làm hình nền, chụp ảnh món ăn trước mỗi bữa ăn, móng tay quá ngắn, bàn chân bẩn… Nếu phạm phải những điều tối kị sau đây, bạn nên học cách thay đổi càng sớm càng tốt.

1. Đặt ảnh người yêu làm hình nền điện thoại

Một số người có thói quen để ảnh nửa kia của mình làm hình nền điện thoại hoặc máy tính mà không biết rằng điều đó có thể ảnh hưởng xấu tới tình cảm đôi lứa.

Tien het tinh tan vi dat anh nguoi yeu lam hinh nen hinh anh
Ảnh minh họa

Theo quan điểm phong thủy, những màn hình của các thiết bị này lúc sáng tối thất thường khi có chuông báo gọi tới hay chương trình gì đó cập nhật… Điều này tạo cảm giác bất an, có thể gián tiếp ảnh hưởng tới “an khí” của nửa kia.

2. Chụp ảnh món ăn trước khi dùng bữa

Xét theo quan điểm trong phong thủy, việc chụp ảnh món ăn ở mọi góc độ, lại còn chia sẻ trên các trang mạng xã hội một cách thường xuyên, liên tục vô hình chung bạn đã chia sẻ sự may mắn, phúc lộc của mình cho mọi người. Tất nhiên điều này không hề có lợi cho bạn. Đây là một trong những thói quen xấu đồng thời là lỗi phong thủy cần tránh.

3. Cắt móng tay quá ngắn

Quan điểm dân gian cho rằng chủ nhân của bàn tay mà có ngón tay út dài vượt qua đường đốt tay trên cùng của ngón áp út thường có cuộc sống sung túc, đầy đủ, hiếm khi phải lo lắng về cơm áo gạo tiền.

Do đó, nếu cắt móng tay quá ngắn, đặc biệt là ngón út cũng ảnh hưởng phần nào tới vận may của bạn.

Tien het tinh tan vi dat anh nguoi yeu lam hinh nen hinh anh
Ảnh minh họa

4. Để bàn chân dơ bẩn

Đôi bàn chân dơ bẩn tức là đã mang theo những điều xấu xí, xui xẻo vào trong nhà khiến cho trường khí xấu mạnh dần lên, ảnh hưởng đến vận thế của gia đình bạn. Bạn thử hình dung xem nếu chân giẫm phải nước thải, vật bẩn… rồi cứ vậy mang vào nhà thì không khí trong ngôi nhà bạn sẽ ra sao.

Nhằm tránh được thói quen không tốt này, bạn nên chú ý khi đi đường, lau chùi giày dép, chân tay thật kĩ trước khi vào nhà, tránh ảnh hưởng xấu tới mọi người trong gia đình và chính bản thân bạn.

5. Bày biện quá nhiều tượng Phật trong xe

Không ít người có sở thích hoặc thói quen bày biện tượng Phật ở trong xe để cầu bình an mà không biết rằng môi trường di động, bầu không khí xung quanh xe ồn ào, nhiều tạp âm vô tình đã “kinh động” đức Phật và gây tác dụng ngược lại.

6. Nam giới để ví tiền ở túi quần sau


Đây là một trong những thói quen không những ảnh hưởng tới sức khỏe mà còn gây hại tới tài vận và phúc khí của nam giới. Bạn biết đấy, túi quần sau nằm ở vị trí khá thấp và chịu nhiều tác dụng lực (khi bạn ngồi lên chẳng hạn). Nếu tiền bạc cất giữ ở vị trí này lâu ngày sẽ khiến tài vận của bạn không những khó tăng lên mà còn có xu hướng giảm đi.

► Mời các bạn: Xem phong thủy theo ngũ hành để đón lành tránh dữ

Theo Khám phá



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tiền hết tình tan vì đặt ảnh người yêu làm hình nền

Tìm hiểu phong thủy trước khi Xây nhà

Thiết kế và xây nhà nhà theo quan điểm phong thủy dựa vào khí và nước. Việc lựa chọn các hình thức thiết kế phù hợp phong thủy sẽ quyết định đến sự phát triển công danh, tài lộc, sức khỏe và con cái trong nhà.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiết kế phong thủy cho ngôi nhà là một yêu cầu cần thiết nhưng nhiều người xây nhà xong mới nhờ đến điều này. Thực tế, không ít căn nhà vì vậy mà phạm điều cấm kỵ trong bài trí đồ đạc, sắp xếp cảnh quan.

Để người trong nhà được sống hạnh phúc và khỏe mạnh cũng như có nhiều công danh và tài lộc, một số gia đình đã tốn kém thêm không ít chi phí để chỉnh sửa ngôi nhà.

Lý do thiết kế phong thủy trước khi thiết kế chi tiết và xây dựng

Phong thủy coi trọng địa khí lên hàng đầu, vì địa khí sẽ quyết định được mảnh đất đó có tốt cho việc phát triển công danh tài lộc, sức khỏe hay không. Nếu mảnh đất đó mà có "xạ khí" tức là tử khí thì cần phải hóa giải khí đất trước khi xây dựng. Nếu gia chủ không kiểm tra địa khí và thiết kế phong thủy trước khi xây dựng thì khi làm nhà trên đó sẽ rất nguy hiểm và khó hóa giải.

Thiết kế phong thủy trước khi xây dựng là để việc phân phòng, phân cổng, cửa, hướng nhà, hướng bếp, hướng ban thờ, phòng ngủ, đường nước vào và ra đúng với nguyên lý và kỹ thuật phong thủy, nhằm đảm bảo ngôi nhà xây xong thì mọi người sống trên đó được khỏe mạnh, tinh thần luôn ở trạng thái tốt.

Thiết kế phong thủy trước cũng là việc lựa chọn được các số đo đẹp cho cửa cổng, cửa chính, cửa phụ, cửa sổ, ban thờ sao cho lấy được các số đẹp mang lại may mắn. Ngoài ra, bạn sẽ không phải phá gian nhà này để làm phòng bếp hay thay đổi thiết kế lại ngôi nhà trong quá trình sử dụng. Việc chuẩn bị trước còn tạo cho bạn tư tưởng yên tâm và thỏa mãi để công việc cũng như cuộc sống được tươi mới hơn.

Một số trường phái trong thiết kế phong thủy trước khi xây nhà

Phong thủy địa khí: đo khí đất, đo năng lượng của đất, từ đó sẽ biết mảnh đất đó là mảnh đất phát về kinh doanh, về quan trường, hay là mảnh đất bình thường, đất gây bệnh... Từ đó, bạn có phương pháp hóa giải nếu không may gặp đất xấu.

Phong thủy bát trạch: dựa trên cung mệnh của mệnh chủ và hướng đất để tính toán xem hướng nhà có hợp không, không hợp thì hóa giải như thế nào, tính toán các hướng: giường ngủ, hướng bếp, hướng bàn thờ, hướng bàn học, bàn làm việc, hướng cửa, hướng cổng sao cho được các khí tốt.

Phong thủy loan đầu: khảo sát, phân tích các con đường, ngôi nhà, dòng sông, ao hồ, ngọn núi, cao ốc chung quanh mảnh đất để xem tác hại hay tác dụng tốt đến ngôi nhà, từ đó đưa ra phương pháp hóa giải.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu phong thủy trước khi Xây nhà

Vận đào hoa, tình duyên của 12 con giáp trong tháng 2

Những người tuổi Mão dễ gặp rắc rối vì quá nhiều vệ tinh vây quanh. Người tuổi Mùi cẩn thận với kẻ tiểu nhân.
Vận đào hoa, tình duyên của 12 con giáp trong tháng 2

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-1 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-2 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-3
Sửu  Dần Mão
khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-4 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-5 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-6 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-7
Thìn Tỵ Ngọ Mùi
khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-8 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-9 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-10 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-11
Thân Dậu Tuất Hợi

Maruko (theo Inka)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận đào hoa, tình duyên của 12 con giáp trong tháng 2

Con rồng trong tâm thức người Việt

Rồng Việt - Ảnh: InternetDù là một con vật tưởng tượng đầy tính siêu nhiên, nhưng bóng dáng của rồng đã trở nên phổ biến trong đời sống xã hội nước ta,
Con rồng trong tâm thức người Việt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Rồng Việt - Ảnh: Internet

Dù là một con vật tưởng tượng đầy tính siêu nhiên, nhưng bóng dáng của rồng đã trở nên phổ biến trong đời sống xã hội nước ta, và cũng đã tiềm ẩn trong tâm thức sâu thẳm của mọi người dân Việt.

Con rồng đã cùng với những nhân vật có thật trong lịch sử dân tộc, như Lý Thái Tổ thấy rồng vàng xuất hiện nên đặt tên Kinh đô mới là Thăng Long; và sống cùng với những con vật trong nghệ thuật Việt Nam, như qua bộ tứ linh: long, lân, qui, phụng. Và nó vẫn tồn tại đến ngày nay, chẳng những nằm yên trong sử sách, trong các tác phẩm mỹ thuật (điêu khắc, hội họa, trang trí), mà còn múa bay, bay lượn một cách sống động và hấp dẫn trong các lễ hội dân gian.

Con rồng Việt đã ra đời từ thời Hồng Bàng với truyền thuyết "Con Rồng cháu Tiên" chứa đầy huyền thoại. Ẩn phục mấy ngàn năm, nó bay lên vào năm 1010 vào đầu đời Lý, rồi đi theo con đường phát triển của dân tộc trong gần 1000 năm nay để sinh ra một đàn 9 con chung sống trên vùng đồng bằng Cửu Long ở Nam Bộ. Cuộc đời của con rồng Việt cũng lâu dài và sức sống của nó cũng mãnh liệt như chính lịch sử tiến hóa của dân tộc.

Từ con rồng là một biểu trưng cho nguồn cội của giống nòi, nó hóa thân thành một hình tượng của quyền lực tối cao trong thiên hạ: ông vua. Yết kiến "long nhan" không phải nhìn thấy "mặt rồng" mà là được gặp con người đứng trên trăm họ. Vua và rồng như hình với bóng. Hình ảnh con rồng đã được các triều đại quân chủ Việt Nam từ thời Lý đến thời Nguyễn dùng để trang trí trên các công trình kiến trúc cung đình từ Thăng Long thuở ấy đến Cố đô Huế hiện nay.

Khi thấy dân chúng bắt chước hình ảnh con rồng để tô vẽ, đắp nối, khắc chạm tại các công trình kiến trúc trong dân gian như nhà ở, đình chùa, miếu mạo, thì triều đình cấm không làm rồng đầy đủ cả 5 móng và tô điểm đẹp đẽ như rồng của vua. Trước luật lệ khắt khe đó, họ lại làm rồng từ 4 móng trở xuống với hình thức đơn giản hơn, nhưng vẫn là rồng. Con rồng phổ biến trong dân gian tuy đơn giản, nhưng vô cùng linh hoạt và bay bướm. Nhiều vật thể đã được người nghệ sĩ tài hoa cách điệu hóa thành rồng để đáp ứng yêu cầu thẩm mỹ và thỏa mãn ước vọng thăng hoa của nội tâm lãng mạn. Một đóa hoa, một nhành lá, một cành mai, một thân trúc, một gốc tre đều có thể kiểu thức hóa thành rồng với hàng trăm mô-típ trang trí tuyệt vời.

Nhưng con rồng không phải chỉ dùng để trang trí, nó còn chứa đựng ý nghĩa sâu xa trong sinh hoạt đời thường của người Việt: biểu tượng cầu mưa, ước mong phồn thực. Từ thuở xa xưa, nhân dân ta sống chuyên về nghề trồng lúa nước. Đã làm ruộng nước thì cần phải có mưa thuận gió hòa. Đối với nông dân trong mấy ngàn năm qua, hiện tượng cơn lốc cuốn nước ngoài biển khơi là hình ảnh con rồng thò đầu xuống đại dương uống nước để lên trời làm mưa tưới tắm ruộng đồng. Bất cứ thời nào, mưa cũng là một nhu cầu thiết yếu, một điều kiện sống còn đối với nông nghiệp.

Hơn 90% người Việt sống bằng nghề nông. Chính các vua chúa ngày xưa cũng xem nghề nông là "bản nghệ" (nghề gốc, nghề chính, nghề quan trọng nhất trong nước), thương nghiệp chỉ là "mạt nghệ" (nghề ngọn). Cho nên, dù được trang trí ở đâu (trong cung đình, ngoài dân gian) và bất cứ thời đại nào (Lý, Trần, Lê, Nguyễn), hình ảnh con rồng vẫn luôn luôn đi kèm với mây trời và sóng nước. Do vậy, con rồng đã trở thành phúc thần của người làm ruộng là một điều tất yếu, và trở nên bản mệnh của người làm vua cũng là một lẽ tất nhiên.

Người xưa cũng đã thường xem con rồng là một linh vật. Nó đứng đầu trong "tứ linh" như đã thấy. Qua ca dao, người bình dân Việt Nam quan niệm con rồng như là một hình ảnh đẹp, có giá trị về cả thể chất lẫn tinh thần. Nó cũng thuộc về loài vật, nhưng là loài vật cao cấp nhất. Có nhiều câu ca dao đã sử dụng hình tượng con rồng để nói bóng về một con người cao sang hay một cái gì đáng quí:

            - Trứng rồng lại nở ra rồng
            Liu điu lại nở ra giòng liu điu

            - Một ngày dựa mạn thuyền rồng
            Còn hơn muôn kiếp ở trong thuyền chài

            - Dẫu ngồi cửa sổ chạm rồng
            Trăm khôn nghìn khéo không chồng cũng hư

Tuy nhiên, đối với dân ta, con rồng không phải luôn luôn là một thực thể bất khả xâm phạm. Có khi người ta dùng hình ảnh nó như một thứ để giễu cợt, mỉa mai kẻ bất chính, không có thực tài mà cao ngạo:

            Rồng nằm bể bắc phơi râu,
            Đến khi nước cạn hở đầu hở đuôi

Trẻ con cũng đem hình ảnh con rồng ra để dùng vào trò chơi đố:

            Đầu rồng đuôi phụng le te,
            Mùa xuân ấp trứng, mùa hè nở con

                                                (Cây cau)

Từ một con vật trong huyền thoại của nền văn minh nông nghiệp xa xưa (Long của Trung Hoa, Makara của Ấn Độ, Rồng của Việt Nam), nó đã được đưa vào nằm trong cổ thư. Rồi từ chữ nghĩa trong sách vở, con rồng lại bò ra khỏi trang giấy để hiện hình trên các công trình kiến trúc, rồi đi vào trong đời sống văn hóa, xã hội và tâm thức của nhân dân ta. Con rồng chẳng những là biểu tượng của sự cao quý và quyền lực, mà còn là hình ảnh quen thuộc và gần gũi trong đời sống dân dã. Trong văn hóa truyền thống của người Việt, có lẽ không có một con vật nào mà chức năng đã được biến hóa một cách linh hoạt bằng con rồng.

Phan Thuận An

(Theo Tapchisonghuong.com)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con rồng trong tâm thức người Việt

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd