Nằm mơ thấy khoai lang là điềm gì? –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Tác giả: Lương Trâm
- Thứ nhất là khác nhau về hình thức, bói dịch dùng thi thơ để giảng còn Chu dịch dùng văn xuôi để giảng.
- Thứ hai là bói dịch có nhiều lọai gồm :
8 Quẻ ba hào như Liên Sơn dịch đời Hạ có quẻ đầu là Cấn, Qui tàng dịch đời Thương có quẻ đầu là Khôn.
32 Quẻ năm hào như “Tam Bửu Hiệp nhứt” người Việt hay thường sử dụng
64 Quẻ sáu hào “ Bói dịch cổ truyền” người Việt hay thường sử dụng
Khác với bói dịch, Chu dịch chỉ có một lọai là 64 quẻ sáu hào, được ghi chép có hệ thống dạng kinh điển , còn dùng để nghiên cứu, không như những sách bói “diệc” chỉ dùng cho việc chiêm bói được lưu hành trong dân chúng.
Trước hết xin nói về cách trình bày của các lọai bói dịch người Việt hay xử dụng
Quẻ năm hào:
Ví dụ: quẻ Giá sắc
Nội dung: Dịch nghĩa:
Thả thủ quân tử phận. Quân tử nên giữ phận
Vật dụng tiểu nhân ngôn. Chớ nghe lời tiểu nhân
Phàm sự giai đương cẩn Mỗi việc nên cẩn thận
Tác phước bảo an nhiên Làm lành vậy mới yên
Quẻ sáu hào:
Ví dụ: Phong Sơn Tiệm ( Hồng nhạn phi cao)
Ý nghĩa: Chim Hồng nhạn được sổ lồng bay xa.
Tiến từ từ bay lên mây trong sự thông đạt thong dong.
Không có gì cản trở.
Nhưng không thể bay vụt từ trong lồng lên mây ngay được.
Giải đoán: Vận khí thịnh đạt dần dần. Công việc mỗi ngày đều phát triển đều đặn. Không gặp trở ngại. Thành quả rất to lớn so với lúc khởi sự.
Lời khuyên: Giữ tiết hạnh thanh cao. Ung dung không vội vả.
Phụ chú : Giải trừ mọi tai ương. Tuy tiến chậm nhưng rất yên ổn.
Hào 1 : trung bình, tiến hơi chậm
Hào 2 : rất tốt
Hào 3 : trung bình
Hào 4 : tốt
Hào 5 : tốt
Hào 6 : rất tốt, đại cát
Ứng hạp : Tuổi Bính : Thìn, Ngọ, Thân
Tuổi Tân : Mão, Tỵ, Mùi
Tháng 1
Hành thổ
Lời giảng của của quẻ này viết theo văn xuôi nhưng được ngắt ra 4 đọan, có lẽ vào đời Tần bị cấm thi thơ, các lọai sách đều phải chép lại bằng văn xuôi.
Tiếp đến là cách trình bày quẻ trong Kinh Dịch : Quẻ Phong Sơn tiệm ( xin không trích giảng hào từ)
Thóan từ: Tiệm, nữ qui cát, lợi trinh.
Dịch: Tiến lần lần, như con gái về nhà chồng, tốt; giữ đạo chính thì lợi.
Giảng: Quẻ này là Tốn ( cây), dưới là Cấn( núi). Trên núi có cây, có cái tượng dưới thấp lần lần lên cao, nên đặt là Tiệm.
Tiến mà lần lần, không nóng nảy, vẫn tỉnh như nội quái cấn, vẫn hòa thuận như ngọai quái Tốn thì không bị vấp váp, không bị khốn cùng.
Hào từ:
- Sơ lục: Hồng tiệm vu can, tiểu nhân lệ, hữu ngôn vô cửu.
Dịch: Hào âm 1, con chim Hồng tiến đến bờ nước, nhỏ dại cho là nguy, than thở nhưng không có lỗi.
- Lục nhị: Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản, cát.
Dịch: Hào 2 âm, chim hồng tiến đến phiến đá lớn, ăn uống thảnh thơi, tốt
- Cửu tam: Hồng tiệm vu lục, phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung lợi ngự khẩu.
Dịch: Hào 3 dương, chim hồng tiến tới đất bằng, chồng đi xa không về, vợ có mang không nuôi, xấu, đuổi cướp thì có lợi.
- Lục tứ: Hồng tiệm vu mộc, hoặc đắ kỳ giốc, vô cửu.
Dịch: Hào 4 âm, chim hồng nhảy lên cây, may tìm được cành thẳng mà đậu, không có lỗi.
- Cửu ngũ: Hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dụng, chung mạc chi thắng, cát.
Dịch: Hào năm dương, chim hồng lên gò cao, vợ ba năm không sinh đẻ, nhưng cuối cùng không có gì thắng nổi điều chính, tốt.
- Thượng cửu: Hồng tiệm vu qui, kỳ vũ khả dụng vi nghi, cát.
Dịch: Hào trên cùng dương, chim hồng bay bổng ở đường mây. Lông nó có thể dùng làm đồ trang sức, tốt.
Hai loại dịch trên mặc dù có khác nhau về hình thức, nhưng nhìn chung tất cả đều có đặc điểm là có hào âm,hào dương. Âm dương được hình thành do sự vận động của vũ trụ. Sự vận động này thuận theo chiều hướng sinh của ngũ hành hình thành bát quái. Đó là học thuyết Âm dương- Ngũ hành của người xưa.
1/ Thuyết Âm dương - Ngũ hành:
a - Sự hình thành Âm dương:
Thái cực vận động sinh ra lưỡng nghi, tức là hai khí : Âm và Dương. Phần dương thì động, nóng, sáng, trong, nhẹ, nổi lên trên sinh ra khí dương và nơi tích lũy nhiều khí dương là bầu trời được ký hiệu là ( ). Dương được sinh ra từ cực Bắc và bên trái chủ dương.
Phần âm thì tỉnh, lạnh, tối, đục, nặng, chìm xuống dưới sinh ra khí âm và nơi tích lũy nhiều khí âm là đất được ký hiệu là ( ) . Âm được sinh ra từ cực Nam và bên phải chủ âm.
Cực Nam
Cực Bắc
Hình lưỡng nghi
Âm dương có sự liên hệ thần bí, đó là sự hấp dẫn lưỡng tính thần kỳ. Theo Lôi Đạc, trong tác phẩm Mỗi ngày 10 phút với Chu Dịch, nhà ảo thuật Trung quốc nổi tiếng là Tàng quốc Chân đã phát hiện điều này khi đem hai con thạch sùng đực, cái ném mạnh xuống đất. Khi đuôi của hai con thạch sùng bị đứt, chúng nhảy nhót trên mặt đất, rồi hai chiếc đuôi ngày càng gần lại với nhau, dựa sát vảo nhau sau đó bám chặt lấy nhau thành hình “bánh quấn thừng: Thế nhưng dùng hai con thạch sùng cùng giống thì không thấy có hiệu ứng này. Một thử nghiệm khác nữa là bắt vài con thạch sùng có bốn chân, phân biệt đực – cái, chặt đuôi và lột da chúng ra, sau khi đốt cháy nghiền thành bột, đổ vào hai cây nến rỗng ruột, đặt trên bàn cách nhau 30 cm, châm lửa trên hai cây nến đó. Điều kỳ dị đã xuất hiện, hai ngọn lửa hấp dẫn nhau, dần dần dựa sát vào nhau, cuối cùng dính lại tạo thành một tuyến lửa nằm ngang như chiếc cầu vồng được đặt tên là “cầu lửa”.
Qua phát hiện đó có thể thấy được tuy âm dương là hai yếu tố tương phản nhau nhưng trong mọi vật hai yếu tố âm dương luôn dung hòa lẫn nhau, tương giao cùng nhau, bổ túc cho nhau, liên kết với nhau rất mật thiết. Cả hai đều đóng vai trò quan trọng trong sự sinh thành của muôn vật, tất cả sự biến hóa trong vũ trụ đều có thể giải thích bằng hiện tượng chuyển biến của âm dương. Âm trưởng thì dương sẽ tiêu, dương trưởng thì âm sẽ tiêu, âm tăng đến chỗ cực thịnh thì dương sẽ phát sinh và âm sẽ phải thóai dần, khi dương tăng đến chỗ cực thịnh thì âm sẽ phát sinh và dương sẽ thóai dần, đó là lẽ tuần hòan của âm dương trong trời đất như : Mùa đông âm khí nhiều khí hậu lạnh. Cuối đông âm khí thịnh, dương khí bắt đầu phát sinh. Qua xuân dương khí mới phát sinh còn non, khí hậu ấm áp dần dần. Đến mùa hạ dương khí tăng trưởng, khí hậu nóng. Cuối hạ dương khí cực thịnh khí hậu nóng bức và âm khí sẽ phát sinh. Qua mùa thu âm khí mới phát sinh còn non khí hậu mát, âm khí dần dần tăng trưởng lại bước qua đông.... cứ như thế mà tiếp diễn ; hoặc cũng như chuyển biến âm dương trong ngày đêm : từ nửa đêm – sáng sớm – giữa trưa – buổi chiều – lại nửa đêm. Sự âm tiêu dương trưởng và dương tiêu âm trưởng tiếp diễn nhau rất cần thiết để điều hòa sự tuần hòan của trời đất, nếu dương cực thịnh mãi mà âm khí không phát sinh hoặc ngược lại thì trời đất bất hòa và sự sinh hóa của của muôn vật sẽ rối lọan như : chỉ có đêm mà không có ngày hay ngược lại, thời tiết nóng mãi hoặc lạnh mãi đều bất lợi cho sự sinh trưởng của vạn vật. Mặt khác, trong sự chuyển hóa để tương giao với nhau, dương khí có khuynh hướng thăng cao lên tức ly tâm, âm khí có khuynh hướng giáng xuống thức hướng tâm. Đó là dương thăng, âm giáng.
Ví dụ: không khí nóng có khuynh hướng bay lên cao, không khí lạnh có khuynh hướng hạ xuống thấp. Sự kiện không khí vùng lạnh thay thế vùng nóng sẽ sinh ra gió.
Sự vận động của âm dương sẽ sinh ra 4 khí gọi là tứ tượng : Thái âm – Thiếu dương – Thái dương – Thiếu âm
Hình tứ tượng
Từ bốn khí này giao hòa thăng giáng với nhau, tạo ra sự đối kháng, chuyển dịch. Đây chính là động lực phát triển cũa sự vật, hiện tượng, con người. Động lực ấy thể hiện ra 8 dạng thức trong không gian, đó là bát quái. Bát quái với 5 thuộc tính ngũ hành đã tạo ra vũ trụ, vạn vật, trong đó có con người với hành vi của họ.
Bát quái với tính chất gắn liền với bầu trời xin được tạm gọi là “Thiên Bát Quái”
Bát quái có tính chất gắn liền với trái đất xin được tạm gọi là “ Địa Bát Quái”
b- Ngũ hành:
Ngũ hành được cho là 5 dạng vật chất gồm :
- Hành Thủy tượng trưng cho nước
- Hành Mộc tượng trưng cho cây cối
- Hành Hỏa tượng trưng cho lửa
- Hành Thổ tượng trưng cho đất
- Hành kim tượng trưng cho kim lọai.
Căn cứ vào tính chất các hành trên có sự sinh, khắc với nhau
Ngũ hành tương sinh :
Thủy sinh Mộc
- Mộc sinh Hỏa
- Hỏa sinh Thổ
- Thổ sinh Kim
- Kim sinh Thủy
Ngũ hành tương khắc :
- Thủy khắc Hỏa
- Hỏa khắc Kim
- Kim khắc Mộc
- Mộc khắc Thổ
- Thổ khắc Thủy
Năm hành trên được xếp thành các phương vị trên Hà Đồ, Lạc Thư.
c/ Thuyết Thiên Địa Nhân:
Thuyết Thiên Địa nhân nói lên sự chi phối của trời đất đối với con người.
- Thiên: Thiên can là tọa độ không gian được thể hiện ở 10 vị trí: Giáp , Ất , Bính , Đinh , Mậu , Kỷ , Canh , Tân , Nhâm , Quí. Thiên là khỏang không gian bao la, trong Thiên có ba yếu tố hợp thành là Nhật ( mặt trời) ; Nguyệt ( mặt trăng) ; Tinh ( các vì tinh tú). Vạn vật con người chuyển dịch trong không gian theo 10 thiên can, được Nhật, Nguyệt, Tinh chiếu vào tác động ảnh hưởng suốt cả cuộc đời, do vậy yếu tố năm, tháng, ngày, giờ sinh được người xưa cho là có thể quyết định được vận mệnh của từng người.
- Địa: Địa chi là tọa độ thời gian được thể hiện ở 12 vị trí thời gian trong năm , tháng, ngày, giờ gồm : Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Địa được cấu thành bởi 3 yếu tố thủy , hỏa , phong. Từ yếu tố địa , người xưa hình thành nên môn địa lý phong thủy dùng để xem xét sự vận động hài hòa của thủy hỏa phong, nếu mất cân bằng trong vận động của ba yếu tố này ở một địa điểm mà một người đang sinh sống thì người đó sẽ gặp trở ngại và tai họa.
Tóm lại, nói Thiên Địa Nhân là nói con người luôn luôn bị chi phối bởi Thiên và Địa, ba yếu tố này tương tác lẫn nhau, con người muốn tồn tại, sinh sống bình thường phải có sự cân bằng giữa bản thân với thiên địa. Không gian Dịch là không gian Thiên Địa Nhân, là thế giới của âm dương giao hòa, chuyển hóa cho nhau, thế giới giữa hai mặt đối lập tồn tại và bổ xung cho nhau nên khi nắm bắt được chuyển động đó người xưa đã lập ra mô hình trạng thái không gian gọi là âm, dương ( lưỡng nghi). Âm, dương vận động sinh ra bốn khí gọi là tứ tượng, lại tiếp tục vận động thành ra bát quái
2/ Hà đồ – Lạc thư:
Hà đồ – Lạc thư đã được người Trung hoa xem như nguồn gốc của bát quái có nghĩa là sự hình thành của bát quái phải được gợi ý của Hà đồ – Lạc thư, thánh nhân mới dựa vào đó mà phỏng theo. Hình dạng của Hà đồ – Lạc thư ra sao không ai biết được , chỉ nghe nói đến từ cháu của Không Tử là Khổng An Quốc nhưng mãi đến đời Tống hai đồ hình đó mới thấy phổ biến.
Căn cứ vào “ Dịch học Tượng số luận” của Hòang Tông Nghi thì Trần Đòan đã truyền cho Chủng Phóng, Chủng Phóng truyền cho Lý Khái, Lý Khái truyền cho Hứa Kiên, Hứa Kiên truyền cho Phạm Ngọc Xương, Ngọc Xương truyền cho lưu Mục. Lưu Mục căn cứ vào Hà đồ-Lạc Thư trước tác ra “ Dịch số câu ẩn đồ”, bức đồ của ông mới được đông đảo người biết đến. Cho đến nay người ta cũng chưa hiểu được, vào đời Tống, vị đạo sĩ ở Hoa Sơn là Trần Đòan đã lấy ở đâu ra được những hình Hà đồ-Lạc Thư ấy.
Sau khi Hà đồ-Lạc Thư ra đời, một bộ phận trong học phái này chia rẽ. Một số người không tin vào những thứ này, nhà Đại văn học Âu Dương Tu cho rằng : “đầu độc sai lầm vào những người học giả, gây tác hại đâu có nhỏ”. Cuộc tranh luận này kéo dài tới cuối đời Thanh, Dân quốc, thậm chí đến sau ngày giải phóng.
a - Hà đồ: Theo ghi chép của người Trung Hoa, Hà đồ là vật mà Hòang Đế được trời ban cho từ sông Hòang Hà, trên lưng con long mã, đồ hình có 5 cặp số được sắp xếp như sau: 1 với 6 ở dưới là số sinh thành của thủy ở phía Bắc
2 với 7 ở trên là số sinh thành của hỏa ở phía Nam.
3 với 8 ở bên trái là số sinh thành của mộc ở phương Đông
4 với 9 ở bên phải là số sinh thành của kim ở phương Tây
5 với 10 là số sinh thành của thổ ở trung ương.
Hà đồ là bức đồ đầu tiên của kinh dịch, sự vận hành của nó theo chiều hướng sinh của ngũ hành. Bắt đầu từ thủy sinh mộc = đông sang xuân; mộc sinh hỏa = xuân sang hạ; hỏa sinh thổ - vào trung tâm, thổ sinh kim = hạ sang thu; kim sinh thủy = thu sang đông.
Hình Hà đồ
b - Lạc thư: Theo truyền thuyết Lạc thư do thần qui mang trên lưng nên có tượng con rùa đầu đội 9, đuôi mang 1, bên trái mai mang 3, bên phải mai mang 7, vai bên trái mang 4, vai bên phải mang 2, chân trái mang 8, chân phải mang 6, giữa lưng mang 5
Hình Lạc thư
Theo các nhà nghiên cứu thì Lạc thư là một dạng Cửu tinh Đồ, là Cửu trù Hồng Phạm, nếu đọc theo chiều nghịch kim đồng hồ là biểu đồ phương vị ngũ hành được vận hành theo hướng khắc.
Do vậy, theo thiển nghĩ, bát quái phải được dựa vào Hà đồ để thiết lập vì ngũ hành có tương sinh thì muôn vật mới được sinh hóa, nói lên sự sinh sinh nối tiếp nhau không ngừng của đạo dịch.
Thử vẽ Bát quái:
1/ Thiên Bát quái: ( biểu đồ tiết khí)
Bốn mùa
Từ 4 mùa âm dương lại biến đổi thành 8 tiết khí dựa trên cơ sở 2 cụm tứ tượng, bắt đầu từ điểm cực âm. Theo lẽ tự nhiên, cực âm sẽ sinh dương, cụm tứ tượng bên trái sẽ được sinh dương, khi dương thịnh đến điểm cực dương cụm tứ tượng bên phải sẽ được sinh âm, từ đó có được hệ thống bát quái gắn liền với trời như thời tiết, gió mưa, là biểu đồ bát tiết.
Xem xét biểu đồ trên, có thể thấy các tiết khí chuyển biến theo hướng sinh, bắt đầu từ điểm cực âm theo chiều thuận kim đồng hồ: Bắt đầu từ thủy sinh mộc = đông sang xuân; mộc sinh hỏa = xuân sang hạ ; hỏa sinh thổ - vào trung tâm, thổ sinh kim = hạ sang thu; kim sinh thủy = thu sang đông. Hướng sinh trên thuận theo lẽ tự nhiên thành ra tám tiết khí:
![]() |
|
- Khôn : cực âm ( ) tiết đông chí - dương thủy- vị trí số 1
- Chấn : bắt đầu sinh dương ( ) tiết lập xuân - âm mộc- vi trí số 8
- Ly : âm tiêu dương trưởng ( ) tiết xuân phân - dương mộc - vị trí số 3
- Đòai : dương thịnh ( ) tiết lập hạ - âm hỏa - vị trí số 2
- Kiền : cực dương ( ) tiết hạ chí - dương hỏa - vị trí số 7
- Tốn : bắt đầu sinh âm ( ) tiết lập thu - âm kim - vị trí số 4
- Khảm : dương tiêu âm trưởng ( ) tiết thu phân-dương kim-vị trí số 9
- Cấn : âm thịnh ( ) tiết lập đông - âm thủy - vị trí số 6
Thứ tự của bát quái trên thuận theo hướng sinh là : Khôn, Chấn, Ly , Đòai , Kiền , Tốn , Khảm , Cấn, được hiểu như một hệ thống bát quái có tính chất gắn liền với trời như: thời tiết, khí tượng , gió mưa.... Hệ thống này được Trung Hoa gọi là Tiên Thiên Bát Quái. Tuy vậy , người Trung hoa không dùng Tiên thiên bát quái để giải thích thời tiết mà dùng để giải thích về địa lý, phương hướng như sau:
- Khôn : là đất nên ở phương Bắc, vì phương bắc giá lạnh nên thuộc thủy
- Chấn : ở Đông bắc vì gió từ Tây nam thổi qua đông bắc gây tiếng động, hoặc sáng (ly) tối (khảm) cọ sát nhau sinh ra sấm.
- Ly : là mặt trời nên ở phương đông,vì mặt trời mọc ở phương đông
- Đòai : ở Đông nam vì phía Đông nam Trung hoa nhiều đầm hồ
- Kiền : là trời nên ở phương nam, phương nam nóng thuộc hỏa
- Tốn : ở Tây nam là nơi nóng (nam) và lạnh (tây) xô xát sinh ra gió
- Khảm : là mặt trăng nên ở phương Tây, vì mặt trăng hiện ra ở phương tây
- Cấn : ở Tây bắc vì tây bắc Trung hoa có nhiều đồi núi.
2/ Địa bát quái: (biểu đồ địa lý phương hướng)
Về Địa bát quái, hiện nay chưa rõ được kết cấu như thế nào nhưng cũng xin đề xuất đồ hình để tham khảo
Ví dụ: Địa Bát Quái
Hậu Thiên bát quái
Địa Bát quái, được hiểu như hệ thống bát quái có tính chất gắn liền với trái đất như : địa lý, phương hướng , được sắp xếp một cách hợp lý như sau :
- Cấn , hành thổ mượn vị trí số 1, có ba hào : âm+âm+dương= dương thổ
- Chấn ở vị trí số 8 thuộc mộc, có ba hào : dương+dương+âm= dương mộc
- Tốn ở vị trí số 3 thuộc mộc, có ba hào : dương+dương+âm = âm mộc
- Ly ở vị trí số 2 thuộc hỏa, có ba hào : dương+âm=dương = âm hỏa
- Khôn hành thổ mượn vị trí số 7, có ba hào : âm+âm+âm = âm thổ
- Đòai ở vị trí số 4 thuộc kim, có ba hào : dương+dương+âm = âm kim
- Kiền ở vị trí số 9 thuộc kim, có ba hào : dương+dương+dương = dương kim
- Khảm ở vị trí số 6 thuộc thủy, có ba hào : dương+âm+dương = dương thủy
So sánh với Hậu thiên bát quái của Văn Vương:
- Cấn mượn vị trí số 8 thuôc thổ
- Chấn ở vị trí số 3 thuộc mộc
- Tốn ở vị trí số 2 thuộc hỏa
- Ly ở vị trí số 7 thuộc hỏa
- Khôn mượn vị trí số 4 thuộc thổ
- Đòai ở vị trí số 9 thuộc kim
- Kiền ở vị trí số 6 thuộc thủy
- Khảm ở vị trí số 1 thuộc thủy
Xét theo bát quái phong thủy thì Tốn phải thuộc mộc và Kiền phải thuộc kim, như vậy Hậu thiên bát quái xem ra có vấn đề. Hệ thống này chỉ đúng khi đứng ngòai Hà đồ, tuy nhiên âm dương ngũ hành khi tách rời nhau sẽ không còn ý nghĩa, do vậy suy cho cùng vẫn là sai. Một điểm sai nữa là người Trung hoa không dùng hệ thống bát quái này để giải thích về địa lý mà gọi đó là Bát tiết bát quái :
- Cấn: Tiết lập xuân,
- Chấn: Tiết xuân phân
- Tốn: Tiết lập hạ
- Ly: tiết hạ chí
- Khôn: tiết lập thu.
- Đòai: tiết thu phân
- Kiền: tiết lập đông
- Khảm: tiết đông chí
Có lẽ để thuyết minh cho vấn đề sai lệch về các hành của hệ thống này, thuyết quái truyện viết: “ Đế xuất hồ Chấn. Tề hồ Tốn. Tương kiến hồ Ly. Trí dịch hồ Khôn. Thuyết ngôn hồ Đòai. Chiến hồ Càn. Lao hồ Khảm. Thành ngôn hồ Cấn."
Thuyết quái truyện cũng có lời giải thích cho đọan văn khó hiểu trên: “Vạn vật xuất ở Chấn , Chấn thuộc phương đông. Gọn gàng ở Tốn, Tốn thuộc đông nam, gọn gàng là muốn nói muôn vật đều sạch sẽ. Ly là sáng, vạn vật cùng thấy nhau, là quẻ ở phương Nam, đấng thánh nhân quay về phương nam mà nghe thiên hạ, hướng vào nơi ánh sáng mà trị là tượng ở đấy. Khôn là đất, muôn vật đều được nuôi dưỡng ở đó, cho nên nói là làm việc ở Khôn. Đòai là chính thu, vạn vật đều vui vẻ, nên nói vui vẻ là nói ở Đòai. Đánh nhau ở Kiền, Kiền là quẻ ở tây bắc, đó là nói về âm dương xô xát vậy. Khảm là nước, là quẻ ở chính Bắc, là quẻ khó nhọc, muôn vật đều ở đó nên nói khó nhọc ở Khảm. Cấn là quẻ đông bắc, nơi muôn vật thành ở lúc cuối và lúc đầu, nên nói thành là nói Cấn”.
Lời giải thích trên khi đọc xong lại càng thấy khó hiểu, nên xin được đề xuất lời giải thích khác như sau:
- Đế xuất hồ Chấn: là mặt trời mọc ở phương đông.
Vấn đề chính là đây. Theo tôi, vị trí mặt trời mọc là vị trí bước qua số 1 của Hà Đồ, là qua cực Bắc đã sinh dương, về thời khắc thì vào giờ Dậu nên Chấn phải ở vị trí số 8 thuộc mộc. Đối với người tạo ra Hậu thiên bát quái thì Chấn phải ở vị trí số 3 thuộc mộc là nơi mặt trời ló dạng, về thời khắc thì vào giờ Mẹo.
- Tề hồ Tốn : do mang Chấn đặt vào vị trí số 3 , là chỗ của Tốn, nên phải sắp xếp lại vị trí của Tốn.
- Tương kiến hồ Ly : Tốn bị bỏ ra phải vào vị trí số 2 thuộc hỏa, là vị trí của Ly, nên nói là gặp nhau ở cung Ly.
- Trí dịch hồ Khôn : dể Ly có chỗ phải suy tính dời Khôn đi.
- Thuyết (duyệt) ngôn hồ Đòai : Khôn được dời vào vị trí số 4 thì Đòai phải vào vị trí của Càn ở số 9 thuộc kim, đến Đòai thì thuyết phục được.
- Chiến hồ Càn : tranh cãi ở Càn. Khi Đòai vào vị trí của Càn thì Càn phải dời vào chỗ của Khảm số 6 thuộc thủy mà Càn thì thuộc kim.
- Lao hồ Khảm : mặc dù Càn thuộc kim nhưng vì muốn thực hiện việc chỉnh sửa trên nên phải ép Càn vào ở vị trí của Khảm nên nói là lao hồ Khảm
- Thành ngôn hồ Cấn : đến cung Cấn thì kết luận, đã quyết định xong.
Đọan văn khó hiểu trên có lẽ ghi lại sự tranh cãi giữa Hoa tộc và người đại diện cho Hoa Hạ là Cộng công. Cộng công được biết như là một chức quan trông coi về khoa học kỹ thuật ở thời ấy. Theo ghi chép của Trung Hoa, giữa cháu nội Hòang đế là Chuyên Húc và Cộng Công vào thời ấy đã có sự bất đồng ý kiến về khoa học kỹ thuật qua truyện kể về Cộng Công húc đầu vào núi Bát Chu như sau:
Cộng Công là người có công lao rất lớn trong phát triển nông nghiệp của Trung hoa được dân chúng tôn là Thủy sư tức thần nước. Con của ông là Hậu thổ cũng có năng lực trong nghề nông được dân chúng tôn là Xã thần tức thần đất, là các thần quản về thủy lợi. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình đất ở 9 châu họ đã thống nhất là phải sửa bằng đất đai, tuy nhiên ý đồ này không được Chuyên Húc đồng ý. Cộng công vì giận mà húc đầu vào núi Bát Chu.
Bát Chu là núi Côn Lôn, ngọn núi có những quái thạch nhọn hoắt, cao chạm tầng mây. Sau cú húc mạnh của Cộng Công, quả núi này lập tức gảy gập ngay, đất đá lở xuống ầm ầm, cây cối ngã nghiêng, trời đất mù mịt, tưởng như xảy ra động đất, bầu trời nghiêng ngã. Thì ra theo lời đồn đại, núi này chính là cây cột chống trời, cột trời sụp thì dây chằng đất đứt rời từng khúc, do đó phía Đông nam sụp xuống lấp bằng chỗ trũng khiến cho sông ngòi đều theo dòng chảy về phía đông rồi đổ vào biển đông. Bầu trời khi đó nghiêng về phía Tây Bắc cho nên các vì tinh tú , mặt trời, mặt trăng ngày ngày đều mọc ở phía Đông và lặn ở phía Tây....
Phân tích câu truyện trên có thể suy ra : núi ( Cấn) Bát Chu sụp xuống làm dây chằng đất (Khôn) đứt rời, có nghĩa trục Khôn-Cấn trở lại là trục thẳng ; phía Đông nam (Tốn) sụp xuống , bầu trời nghiêng về phía Tây Bắc (Càn), có nghĩa là trục Tốn Càn trở lại là trục ngang, các vị trí đó là Càn-Khôn-Cấn-Tốn trong tư nam thời Xuân thu chiến quốc. Cuối cùng là mặt trời lại mọc ở phương Đông là vị trí số 8 trên Hà đồ.
Nhưng tại sao Cộng Công lại phải húc đầu vào núi Bát Chu?
Bởi vì núi là tượng Cấn. Liên Sơn Dịch của Hoa hạ lấy quẻ đầu là Cấn. Nói là Cộng Công húc đầu vào núi Bát Chu có nghĩa là muốn sửa bái quái của tộc Chu cho đúng với vị trí ban đầu. Sự bất đồng này có lẽ cũng nghiêm trọng, vì sau đó những người tộc Hạ sống trên đất Tề thường lo sợ về chuyện bị “trời sập”.
Tư Mã Thiên cho rằng Hậu Thiên bát quái là sản phẩm của Văn Vương có lẽ do trong các quẻ bói mà người Việt đang dùng có một số quẻ đã đề cập đến những vấn đề liên quan đếnVăn Vương như:
Quẻ “Vị thủy phong hiền” còn gọi là Sơn Lôi di :
Khương Tử Nha là bậc đại hiền.
Ngồi câu cá chờ thời bên bờ sông Vị thủy.
Vua Văn Vương nghe tiếng đích thân đến tận nơi thỉnh ra giúp nước.
Rước về tôn làm thường phụ.
Quẻ “ Phượng minh Kỳ sơn”- Thiên trạch lý :
Phượng hòang bất thần xuất hiện ở núi Kỳ sơn cất tiếng gáy.
Báo hiệu điềm lành.
Vua Văn Vương ra đời.
Tạo dựng một thời đại thái bình thạnh trị.
Quẻ “Trảm tướng phong thần” - Thủy trạch tiết :
Đời nhà Thương có vua trụ bạo ngược.
Khương Tử Nha vì đại nghĩa diệt được Trụ vương.
Muốn cho óan khí của quân thù tiêu tán để quốc thái dân an.
Nên đã lên “Vạn phong Sơn” cầu siêu, phong thần cho tướng sĩ tử trận.
Về nguồn gốc Kinh dịch, một số nhà nghiên cứu cho rằng Kinh dịch không thực sự là của Trung quốc. Ông Hondanariyouki nhận xét “ Ở Chu dịch, các từ thóan tượng đều lấy tên từ các lọai muông thú phương nam (chim hồng). Thêm vào đó, ở Chu dịch có “phi long”; “tiềm long” càng khiến cho người ta cảm thấy Chu dịch là trước tác của người nước Sở viết ra, và ra đời sau khi Trung quốc đã mở đường giao thông về phía nam Kinh Sở”.
Nói về các tộc người đã từng sinh sống trên đất Trung Hoa, Theo ##/img/www.uglychinese.org thì trên đất Trung Hoa thời xa xưa đã có họ Suiren (Tọai Nhân), sau đó họ You Chao (Hữu sào) đã thay thế họ Tọai nhân, tiếp nữa là họ Fuxi ( Phục Hy) và Nuwa (Nữ Oa) đã thay thế họ Hữu sào, sau cùng là họ Shennong (Thần nông) đã thay thế họ Phục Hy.
Theo truyền thuyết cũng như thuyết quái truyện của kinh dịch thì họ Tọai nhân đã phát minh ra “lửa” ; họ Phục Hy đã phát minh ra “cái lưới” và chữ viết dưới dạng “thắt nút kết thằng” (chữ Khoa Đẩu?) để ghi việc, đã biết trồng trọt chăn nuôi; họ Thần Nông phát minh ra “cái cày”, mở chợ lập làng, tìm ra cây thuốc. Đó chính là Tam Hòang. Ngòai ra không thấy đề cập đến Hữu Sào đã phát minh ra những gì.
Gần đây khảo cổ học đã khai quật được một dụng cụ làm ra lửa ở Chiết Giang có niên đại cách đây hơn 8000 năm, cho thấy rằng họ Tọai Nhân là người Hòa Bình ở di chỉ Hemudu ở bờ nam sông Trường Giang có lẽ đã di cư lên phía Bắc đến di chỉ Dawenkou ở Sơn Đông khỏang 4300 tr.cn khi vùng này bị ngập mặn do nước biển dâng. Họ Tọai Nhân đã bị họ Hữu Sào, tổ tiên của người Hàn Quốc đến thay thế vào khỏang 3898 tr.cn. Họ Hữu sào lại bị họ Fuxi, có lẽ là tổ tiên của tộc Khương cũng được gọi là Viêm Đế từ phía Tây đến thay thế. Khảo sát kỹ có thể thấy được ngòai họ Khương ra Tộc Khương còn có họ Phù, những cái tên có liên quan như Phù sai (Fu chai), Phù nam......v.v . Phục Hy và Nữ Oa được cho là hai anh em do đó có thể Tộc Khương sau khi đến Trung Hoa đã kết lại với nhóm tiền Đông Nam Á để phát triển nông nghiệp. Ở Việt Nam có câu ví: bà Nữ Oa bằng ba mẫu ruộng.
Ở Trung Hoa vào thời Phục Hy, người xưa có lẽ đã hiểu được qui luật âm dương và sự vận động của nó, đã thuận theo những qui luật ấy để phát triển nông nghiệp. Trong kinh dịch cũng có đề cập đến Phục Hy đã trông trời, trông đất, trông vạn vật mà vẽ quái, thời diểm này có thể là họ Phục Hy không chỉ vẽ quái mà ít nhất đã biết đến tứ tượng tức là bốn mùa để theo đó mà trồng trọt. Khi Thần Nông đến thì Phục Hy bị thay thế vì họ Thần Nông đã phát minh ra cái cày và phương thức tát nước vào ruộng để cải tiến và phát triển nền nông nghiệp của Phục Hy và Nữ Oa. Họ Thần Nông đã từng vượt biển nên ắt phải có kiến thức về thiên văn khí tượng và địa lý phương hướng, ắt họ phải là chủ nhân của Hà đồ.
Với các chi tiết đã trình bày trên, tôi cho rằng học thuyết Âm dương ngũ hành và thuyết Thiên Địa Nhân có nhiều hy vọng là của người tiền Việt nam. Nó được ra đời không nhằm mục đích chiêm bói mà trước tiên để tiên đóan thời tiết và xác định phương hướng nhằm phục vụ cho nghề đi biển và nghề nông , các vì sao được quan tâm trước tiên là sao Bắc Cực và sao Bắc đẩu.
“Bói diệc” là lọai sách bói được phổ biến trong dân gian tương tự như nông lịch đã được giải thích sẵn, ai xem cũng hiểu. Kinh dịch của người Trung quốc, được dựa vào quẻ bói diệc, được kết hợp với những ghi chép của các ẩn sĩ ở Giang nam thời ấy để sọan thảo ra dưới hình thức một lọai sách triết , trong bộ kinh dịch này yếu tố tương quan giữa con người với trời đất không được thể hiện đầy đủ như trong các sách bói cổ truyền người Việt thường sử dụng.
Một điều rõ ràng là việc sáng tạo ra học thuyết Âm dương Ngũ hành, Thiên Địa Nhân không phải từ trí tuệ của một người mà là trí tuệ của nhiều người được tích lũy từ thời đại này sang thời đại khác do đó trong những ghi chép của người xưa cũng không thấy khẳng định ai là chủ nhân của học thuyết này. Việc cho rằng 64 quẻ dịch là do Văn Vương sáng tạo ra và Khổng Tử biên sọan thực chất là một sự gán ghép có lựa chọn. Khổng Tử là một người đã từng nghiên cứu kinh dịch, những tài liệu ấy Khổng tử lấy từ đâu ra thì không nghe nói đến, chỉ biết rằng trước kia Khổng Tử chưa thực sự nghiên cứu bói dịch cho đến khi ông bói được quẻ “Lữ” và mời một người họ Thương Cù trong dân gian để giải quẻ cho ông. Thương Cù thị nói: “Tiểu hanh, cố bào thánh trí, nan đắc thánh vị” ý nghĩa là ôm ấp có hùng tâm xây dựng sửa sang đất nước nhưng không giành được quyền vị. Tức thì Khổng Tử rớt nước mắt, ngộ cảm thấy rằng đường đạo của mình khó được thi hành, từ đó mới bắt đầu nghiên cứu dịch. Tuy nhiên việc bắt đầu nghiên cứu dịch và việc hòan thành bộ Kinh dịch là hai việc hòan tòan khác nhau. Theo tôi, những phát minh ở đất Trung hoa đều đã có từ xa xưa nhưng việc người thời sau tiếp thu những tinh hoa của nền văn minh trước chỉ ở chừng mực nào đó. Ví dụ như lịch pháp nhà Hạ lấy tháng Dần làm tháng mở đầu cho một năm, khi nhà Ân Thương lên thay, lấy tháng Sửu làm tháng mở đầu cho một năm, đời Chu lấy tháng Tý làm tháng đầu năm, nhà Tần lấy tháng Hợi làm tháng đầu năm. Đến thời Hán các biến cố như nhật thực , nguyệt thực, hạn hán lũ lụt đều xảy ra khác với thời điểm được ghi trong lịch. Đúng vào lúc Tư mã Thiên đến Giang nam tìm sử liệu được một cụ già ở đất Thương ngô tặng cho bộ sách trúc giản vớt được trên sông Tương. Đó chính là bộ “nhật thư” bí truyền của người Hạ . Hán vũ đế đã theo lời tấu của Tư mã Thiên, truyền chiêu mộ ẩn sĩ ở miền Giang nam để điều chỉnh lịch theo phương pháp của nhà Hạ, sau khi hoàn thành đặt tên là lịch Thái sơ.
Để giải thích, Chu Hy viết: “Về cách tính thời gian nên theo nhà Hạ, nghĩa là nên lấy kiến Dần chi nguyệt làm tháng mở đầu cho bốn mùa. Hàng năm lấy thời kỳ vạn vật sinh sôi nảy nở phồn thịnh làm kỳ mở đầu cho bốn mùa. Cách tính của nhà Hạ giản tiện hơn cả vì thế nên theo… trời mở đầu cung Tý, đất mở đầu cung Sửu, người mở đầu cung Dần. Tam đại lần lượt thay đổi mà noi theo. Nhà Hạ coi cung Dần là nhân chính phù hợp với người nên lấy kiến dần chi nguyệt làm chính nguyệt. Nhà Ân coi cung Sửu là Địa chính phù hợp với đất nên lấy kiến Sửu chi nguyệt làm chính nguyệt. Nhà Chu coi cung Tý là Thiên chính phù hợp với trời nên lấy kiến Tý chi nguyệt làm chính nguyệt. Tính tháng năm dịnh bốn mùa cốt để cho dân tiện làm ăn sinh sống, tiện hoàn thành mọi việc. Vì vậy khi tính năm tháng, định bốn mùa nên lấy sự phù hợp với người làm đầu mối. Chính vì vậy mà nhà Hạ lấy kiến Dần chi nguyệt làm tháng mở đầu của một năm”
Ngoài ra không thấy Chu Hy giải thích vì sao nhà Tần lại lấy kiến Hợi chi nguyệt làm chính nguyệt.
Như vậy đã thấy rằng việc tiếp thu tinh hoa của tộc Hạ chỉ bắt đầu vào thời Hán.Thời điểm ấy tinh hoa của Trung hoa phát ra ào ạt nhờ vào chủ trương chiêu hiền đãi sĩ của Hán Cao tổ. Vào thời này, những nhân tài Việt trên đất Hoa ban đầu sống như những ẩn sĩ. Sĩ là một từ để chỉ tầng lớp tri thức ở Trung quốc. Ẩn sĩ là những người có tri thức, hoàn toàn vượt ra ngoài vòng chính trị, có thái độ bất hợp tác và phản kháng chính quyền đương thời, họ là những nhân sĩ tinh anh sáng tạo văn hóa, giáo hóa quần chúng. Thấy được tác dụng tiềm ẩn trong lớp nhân sĩ, Hán Cao tổ Lưu Bang khi lên ngôi được 11 năm đã có chiếu viết :
“Các bậc đế vương nổi tiếng chưa ai cao hơn Văn vương, những bậc bá chủ chưa ai cao hơn Tề Hoàn đều chiêu hiền đãi sĩ mà thành danh. Kẻ hiền gỉả, bậc trí nhân trong thiên hạ ngày nay có ai được như người xưa… nay ta lấy sự linh thiêng cùa trời đất, cùng với hiền sĩ đại phu trở thành người một nhà, định đọat thiên hạ. Muốn tông miếu tổ tiên trường tồn mà không bị diệt vong, hiền nhân đã cùng ta sao ta có thể hưởng lợi một mình. Hiền sĩ đại phu có khả năng làm việc cùng ta, ta có thể tôn hiển họ”.
Như vậy đã có một số người Việt vì muốn cho tông miếu tổ tiên được trường tồn, không bị diệt vong đã ở lại trên đất của ông cha mình nay gọi là nước Trung quốc. Một điểm đặc biệt là trong nhóm dân tộc thiểu số ở Trung hoa không có tên dân tộc Việt. Nếu ai đó hỏi rằng :
- Vậy thì dân tộc Việt đã biến đi đâu ?
- Họ không biến đi đâu cả, họ đã trở thành người Hán.
- Họ đã trở thành người Hán, như vậy có phải tinh hoa của dân tộc họ cũng đã trở thành tinh hoa của Trung quốc?
- Đúng vậy!
Nguồn: www.e-cadao.com
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Không gian phòng khách tuyệt vời Tết 2015 |
Đốt ngón tay của mỗi người đều mang những đặc điểm đặc biệt nổi bật của tính cách. Hãy cùng xem bói đốt ngón tay cái nói lên điều gì về con người của bạn nhé
A- So Sánh độ dài đốt ngón tay
Xem bói đốt ngón tay
1. Hai đốt bằng nhau
Bạn là một người khá là tỉ mỉ và cẩn trọng khi lên kế hoạch thực hiện công việc. Trước khi đưa ra một quyết định nào đó, bạn thường phân tích rõ ràng từng mặt của vấn đề do đó mọi lựa chọn của chọn đều mang lại kết quả tốt. Bạn luôn là người bình tĩnh để tìm ra hướng đi đúng trong bất cứ trường hợp nào. Tuy nhiên, trong tình yêu, sự bình tĩnh của bạn khiến mối quan hệ của hai người khó có thể tiến xa.
2. Đốt trên dài hơn
Nếu đốt trên của ngón tay cái dài hơn ngón dưới, điều đó cho thấy bạn là một người đáng tin cậy và có nhiều đam mê, tham vọng. Tuy nhiên, trong tình yêu bạn lại là người thiếu kiên nhẫn và hay nóng vội. Bạn thích đóng vai trò là người chỉ đạo nên đôi khi sẽ khiến người tình của mình cảm thấy ngột ngạt và khó chịu. Khi người ấy không trả lời tin nhắn hay không gọi điện cho bạn, bạn sẽ nổi giận và cố gắng liên lạc với anh/cô ấy để chất vấn lí do.
3. Đốt trên ngắn hơn
Những người có đốt trên ngắn hơn đốt dưới thường được đánh giá là một người đáng tin cậy. Họ cũng có khả năng quan sát tốt. Họ dành khá nhiều thời gian để suy ngẫm trước khi quyết định lựa chọn cái gì do đó đôi khi họ để vuột mất những cơ hội tốt trong công việc cũng như cuộc sống.
Trong tình yêu, bạn thường không mạnh dạn thể hiện tình cảm của mình. Cho dù bạn đang để mắt đến một ai đó, bạn thấy rung động khi nghĩ đến họ nhưng bạn lại không chịu bày tỏ cảm xúc thật của mình cho người đó nghe, bạn chỉ yêu trong âm thầm mà không dám thổ lộ.
B-So sánh độ dầy - hẹp của đốt ngón tay thứ 2
1- Đốt tay thứ hai đầy đặn
Nếu để ý thấy đốt tay thứ hai của ngón cái đầy đặn thì điều đó cho thấy bạn rất thích hợp với các công việc liên quan đến vật lý.
2- Đốt tay thứ hai nhỏ
Bạn là một người thông minh, có nhiều sáng tạo và lối tư duy tốt. Nắm bắt được những ưu điểm này nên bạn rất biết cách thể hiện tài năng và trí thông minh của mình với người khác. Chính vì điểm này, trong công việc bạn thường được cấp trên tán thưởng.
C- Xem xét độ mở của 2 đốt ngón tay
1- Ngón cái và ngón trỏ không mở được hơn 90%
Bạn là người khá nhút nhát. Bạn không thích sự thay đổi và luôn muốn có một cuộc sống ổn định. Một nơi ấm cúng và an toàn, thoải mái là những gì bạn mong muốn.
2- Ngón cái và ngón trỏ mở được trên 90%
Bạn là một người khá tự tin và luôn chủ động trong mọi chuyện. Bạn luôn biết rõ những việc nên làm để có thể đạt được mục tiêu chính vì vậy cơ hội thành công đến với bạn dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Sức hấp dẫn ấy không xuất phát từ vẻ mỹ lệ bên ngoài, kể cả một cô gái có nhan sắc bình thường thì với một nụ cười bí hiểm phong tình cũng đủ để mọi người mê mẩn.
![]() |
![]() |
Đối với một đất nước, có những thông tin không thể công bố hay tiết lộ ra được, gọi là bí mật quốc gia. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, có những chiến lược sản phẩm, kỹ thuật sản xuất hay sáng chế khoa học phải được bảo mật tuyệt đối để tránh bị đánh cắp thông tin, ảnh hưởng đến cạnh tranh của công ty; đó là bí mật kinh doanh. Đối với một cá nhân cũng có những bí mật ẩn dấu chỉ có thể tiết lộ cho những người tin tưởng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, kể cả những người chúng ta tin tưởng vẫn vô tình làm lộ những điều bí mật mà chúng ta chia sẻ. Nhân tướng học đã đúc rút được kinh nghiệm về tướng mặt của người không thể giữ bí mật. Qua đó giúp chúng ta hạn chế hoặc không nên kể những điều mà ta muốn giữ kín cho những người này, kể cả họ là những người mà ta tin tưởng.
Răng vẩu là chỉ người này chưa nói đã có thể nhìn thấy đầu lưỡi và răng lộ ra. Những người này thích kể lể, hay nói nhiều, nhiều khi vì tính buôn chuyện quá đà mà những câu chuyện họ kể đã bị sai lệch hay bị bóp méo chân tướng sự việc ban đầu.
Vốn là nam giới nhưng có giọng nói "eo éo" giống như nữ giới, âm thanh từ giọng của họ thường gây phản cảm cho người khác khi tiếp xúc, mà tính tình của họ cũng rất quái gở giống như giọng nói khác với giới tính của họ vậy.
Tâm tư họ thay đổi thất thường, họ lắm mưu nhiều kế, thích bài xích những người có quan điểm trái ngược mình, họ nói năng chua ngoa, cay nghiệt. Tóm lại, là nam giới nói giọng giống nữ giới hoặc nữ giới nói giọng giống nam giới hay những người tạo cho người khác có cảm giác không hài hoà về chỉnh thế thì đều là hiện tượng bất bình thường, sự lẫn lộn giữa âm và dương này sẽ ảnh hưởng tới số phận của họ, gây cho họ rất nhiều khổ não khó nói và những trắc trở trong đường đời.
Người có con ngươi lồi ra phản ứng mau lẹ, tính tình ngay thẳng, song thiếu khả năng phán đoán, sẽ không suy nghĩ chín chắn đối với mọi chuyện mà thường tiện đưa ra quyết định, họ làm việc nông nổi, nói năng bừa bãi, thiếu suy nghĩ, không quan tâm tới hậu quả có thể xảy ra do nói lỡ lời gây nên, do đó, họ thường gây những tổn thất không thể cứu vãn nổi, cần chú ý suy nghĩ kỹ càng trước khi nói lành động.
Ngoài ra, nếu xem tướng mặt mà con ngươi lồi, ánh mắt lại láo liên, nhìn đông ngó tây, chuyển động không lúc nào yên thì cho thấy đây là kẻ hễ có thời cơ là làm bậy, chuyên trêu chọc người khác.
Người có dái tai nhỏ và nhọn không chịu nổi áp lực tâm lý, không giữ được bí mật, dễ là người "phát tán" tin tức, họ có lòng hiếu kỳ rất cao, việc gì cũng muốn hỏi từ đầu tới cuối. Kiểu người này là "kẻ phao tin đồn nhảm" điển hình, luôn muốn chuyện riêng tư của người khác làm niềm vui, gặp phải kiểu người này, nhất thiết không được "dốc bầu tâm sự' với họ, nếu không sẽ dễ dàng trở thành trò cười cho thiên hạ và trung tâm bàn tán của mọi người.
Nếu một người có trán hình chữ M, xương mày lại cao, nhật giác và nguyệt giác hai bên góc trán đặc biệt sáng thì cho thấy người này có giác quan thứ sáu mạnh mẽ, tức là họ có thể phán đoán trước sự việc hơn hẳn người khác mà không cần dựa vào kinh nghiệm tích luỹ từ trước, bởi vậy họ rất giỏi đầu cơ, có vận "kiếm tiền ngoài luồng".
Tai nhỏ, hơn nữa vành tai có hình dạng xấu xí thì người này sinh ra đã ốm đau quặt quẹo, tính tình nhu nhược, thiếu lòng tin, suy nghĩ vấn đề không theo tuần tự duy lộn xộn, bởi vậy cả đời họ không thể kiểm soát nổi vận mệnh của mình.
Người có trán dày, xương chẩm rộng và đầy đặn có tư chất thông minh hơn người, khả năng tiếp thu rất tốt, trong đầu họ luôn chứa đầy ý tưởng mới mẻ và sáng tạo, họ rất phù hợp với việc học hành, nghiên cứu. Nếu theo đuổi lĩnh vực học hành thì sẽ trở thành đại văn hào hoặc người có học thức cao siêu. Còn nếu theo đuổi lĩnh vực khác thì sẽ không đạt được thành tựu nào lớn.
Hai cánh mũi một bên to một bên nhỏ là đặc trưng điển hình của kẻ ham chơi, họ chỉ thích tụ tập đánh bạc mà không thích làm ăn chân chính. Nếu lỗ mũi có lông lộ ra ngoài thì cho thấy đánh bạc sẽ không thắng mà chỉ thua, càng thua càng ham, cuối cùng dẫn tới phá sản.
Tâm sự của thiếu nữ, biết ai là người thấu hiểu. Thời nay vẫn có không ít những nàng Lâm Đại Ngọc, chẳng qua là họ cố tỏ ra mạnh mẽ mà thôi. Bên cạnh đó, còn có những người do không biết cách cư xử khéo léo nên quan hệ với mọi người xung quanh không tốt, phải sống cuộc sống cô đơn không có người bầu bạn. Thực ra, chỉ cẩn họ cố gắng thay đổi thì mối quan hệ với những người xung quanh sẽ trở nên tốt đẹp hơn.
Những người có đôi mắt to thì tính cách hoạt bát, thích giao tiếp, rất nhiệt tình mang lại niềm vui cho bản thân và mọi người. Nhưng nếu mắt to mà lại đờ đẫn không có thần lại không tốt, cho thấy hiện người này tư duy hỗn loạn, thiếu tự tin, luôn luôn có cảm giác bất an; luôn luôn nỗ lực làm việc nhưng không được người khác ghi nhận, đánh giá cao; thường cảm thấy cô đơn, trống trải và không thể thoát ra khỏi tâm trạng đó.
Nữ giới có đường pháp lệnh dài, sâu thì tính tình rất mạnh mẽ, luôn tỏ ra kiên cường, không hề dịu dàng nên không chiếm được cảm tình của nam giới, chuyện tình cảm không tốt đẹp nên hôn nhân không hạnh phúc.
Trên đường pháp lệnh có nốt ruồi màu đen hoặc nâu chứng tỏ người này tính cách hay thay đổi. Không biết cách nắm bắt thời cuộc, ứng xử không khéo léo, không biết ứng biến linh hoạt, tạo thành những phản ứng dây chuyền, cuộc sống không được như ý, hôn nhân không hạnh phúc.
Những người phụ nữ có nốt ruồi trên môi thì giác quan rất phát triển, thích bị kích thích về giác quan, dễ bị rơi vào trạng thái không thể kiểm soát về tình dục. Nếu đường viền môi đậm cho thấy đó không hẳn là người phụ nữ quá phóng đãng, chỉ là quá cô đơn mà thôi. Nhưng nếu đường viền môi mờ nhạt thì không tốt, thể hiện đây là người phụ nữ không hề biết kiềm chế.
Những người có khuôn mặt gầy, nhỏ rất mơ mộng, không thực tế và cũng không thích giao du kết bạn, và còn có thói quen suy nghĩ theo chiều hướng tiêu cực cho nên thường chỉ cô độc một mình trong thế giới mộng mơ, khi tỉnh lại thì càng thấy cuộc đời đáng sợ, người đời lạnh lùng, càng cảm thấy cô đơn. Nếu trong cuộc sống gặp phải việc không như ý, liền cảm thấy như trời đất đảo lộn, cho rằng bản thân là người đau khổ nhất thế giới, luôn tưởng bản thân như những nhân vật chính trong các vở bi kịch mà tự chuốc lấy đau khổ
Cung điền trạch nằm ở giữa mắt và lông mày. Cung điền trạch lõm xuống thể hiện người đó tính cách trầm tĩnh, ít nói, thích suy ngẫm, nhưng không thích chia sẻ tâm sự với ai mà luôn chỉ giữ trong lòng nên không có bạn bè thân.
Ở đây, tuy tác giả không nói tiếp bát tự của hai bên nam nữ hợp hay không hợp, nhưng cách làm coi trọng bát tự của phía nữ trước khi kết hôn lại là một nội dung lấy vợ hợp hôn trong dân gian nước ta. Thời xưa hợp hôn gọi là hợp họ, có nghĩa là hợp hai họ lại là hôn nhân. Thời xưa kết hôn lấy vợ, hai bên phần lớn không có, cơ hội được nhìn mặt nhau, càng không nói đến được tìm hiểu phẩm chất đạo đức, thói hư tật xấu của đôi bên nữa. Cho nên trong quá trình hợp hôn, ngoài một khâu mà bài báo của Chu Bá Xuân đề cập tới, phần lớn là phía Nam trước tiên phải mời người xem bát tự của phía nữ có vượng phu ích tử không hay là thương phu khắc tử? Nếu quả đúng là vượng phu ích Tử thì phía Nam sướng như mở cờ trong bụng, nếu là thương phu khắc tử thì phía nam sẽ rút lui ngay, đi tìm đám khác. Trong xã hội phong kiến hoặc xã hội cũ, kết hôn may hay không may hoàn toàn dựa vào vận khí, tẩm lý này của xã hội cũng dễ hiểu thôi. Theo cách làm này thì quả là hoang đường chẳng nói làm gì, lấy một ví dụ, bây giờ nam nữ tìm hiểu nhau, phía nhà gái gửi đến một bát tự như thế này.
Năm Đinh Sửu Tháng Nhâm Dần
Ngày Đinh Dậu Giờ Kỷ Dậu
Trong mệnh ngày Thổ Đinh Hoả là bàn mệnh của cô gái, dùng can tháng khắc ta Nhâm Thuỷ là Hoả phu tinh mà Giáp Mộc trong chi tháng Dần đã là ấn của bản mệnh Đinh Hoả, lại là cát thần, thực thần của Nhâm Thuỷ phu tinh, lại thêm con trai ký cư ở cùng giờ, một là Đinh Hoả sinh ra Kỷ Thổ là con, hai là phu tinh Nhâm Thuỷ được kỷ Thổ là quan, tử tinh kỷ Thổ được Giáp Mộc trong Dần là quan, bốn là Đinh Hoả khắc chi giờ Dậu là tài. Tổng hợp sự phân tích nói trên, hẳn là một mệnh vinh phu ích tử, cho nên bên nam giới sướng quá, luôn miệng xin tiếp nhận? Nếu như phía nhà gái đưa đến một bát tự như thế này
Năm Giáp Thìn Tháng Quý Dậu
Ngày Bính Tý Giờ Tân Mão
Trong đó lấy can ngày Bính Hoả làm bản mệnh, đã có can tháng Quý Thuỷ khắc ta là phu, lại có địa chi Thìn hội Thuỷ làm ám phu, lại thêm can chi ngày giờ Bính Tân tương hợp, Tý Mão tương hình, địa chi hình mà thiên can hợp, sách đoán mệnh cho là mệnh hoang dâm lang bạt, tửu sắc hôn mê. Hơn nữa Bính Hoả khắc Tân Kim trong Dậu tài vượng, mà tài này lại ở dưới toạ của phù tinh, cho nên có thể bán gian đắc tài. Gặp phải nữ mệnh này, với phía nam hợp hôn mà nói thì khó lòng tiếp nhận. Ở trong xã hội phong kiến ở nước ta.
Vốn dĩ là một xã hội lấy nam giới làm trung tâm nên biểu hiện ở phương diện hợp hôn, phần lớn là do bên nam lựa chọn bên nữ. Vì thế có một bài ca cổ:
Chọn vợ phải bình tĩnh
Phu tinh phải khoẻ mạnh
Nhị đức toạ Chính tài
Tứ trụ mang hưu tù
Quý nhân một ngôi chính
Kim thuỷ nếu tương phùng
Nói kỹ để anh nghe
Can ngày cần nhu thuận
Phú quý tự nhiên lai
Tăng mệnh lại tăng thọ
Hai ba được đón chào
Thì được dung nhan đẹp
Tứ quý một ngôi sát
Tài quan nếu tàng khố
Dần Thân Tỵ Hợi toàn
Tý Ngọ và Mão Dậu
Thìn Tuất kiêm Sửu Mùi
Có Thìn sợ thấy Tuất
Thìn Tuất nếu cùng thấy
Có sát không sợ hợp
Hợp thần nếu có nhiều
Dương nhận mang thương quan
Toàn bàn lại là ấn
Thiên can một chữ liên
Địa chi một chữ liên
Đây ca quyết nữ mệnh
Được quyền lại phú quý
xung khai ai cũng giàu
Cô dâu bụng luôn nghĩ
Hẳn là theo người đi
Đạo vợ hẳn đại kỵ
Có tuất sợ thấy Thìn
Phần nhiều dâm phá nhân
Không sát lại sợ hợp
Không kỳ nữ cùng cầm ca
Phức tạp việc đa đoan
Hẳn là sẽ tổn con
Cô phá hoạ liên miên
Hai bên thành hôn sự
Ngàn vàng chớ coi thường.
Tuy nói như vậy, nhưng ngược lại, phía nữ chọn chồng thì việc nghiên cứu phân tích bát tự của phía nam đưa đến trưóc nay cũng không tuỳ tiện. Vì rằng gả gà theo gà, gả chó theo chó, nó là chuyện đại sự liên quan đến hạnh phúc suốt đời của nhà gái, làm thế nào có thể tuỳ tiện được đây? Trong nhiều trường hợp, yêu cầu của nhà gái đối với bát tự của nhà
trai là ngũ hành trung hoà, không thiên không dựa, cho rằng một người đàn ông như vậy không chỉ suốt đòi cơm no áo ấm, tính cách lại trung hoà, thọ mệnh kéo dài. Thời xưa đề xướng con gái lấy chồng, từ trước đến sau chỉ cân nhắc nhà trai có vinh hoa phú quý hay không, mà không suy xét đến tính tình tật xấu của nam giới ấy và họ sống có thọ không, thế thì những ngày tiếp theo sẽ như thế nào?
Cho nên, từ cách xem và sự lo lắng về vấn đề giá thú nói trên, sách đoán mệnh đã tổng quát yếu lĩnh hợp hôn nam nữ như sau: nam đi chọn vợ, bát tự quý là thấy có nhị tinh chồng con, nếu chồng hưng con ích thì phúc hẳn đẹp: nữ chọn chồng, bát tự quý là được khí trung hoà, nếu không thiên không dựa, tuổi thọ hẳn dài.
Nhưng bát tự nam nữ trong thế gian này thiên biến vạn hoá, số mục rất nhiều, làm gì có nhiều mệnh phu vinh tử quý và bát tự trung hoà? Vì vậy, bát tự giữa nam nữ nếu lệch, khi hợp hôn cần nắn lệch tìm ngay, chuyển yếu làm mạnh thì sẽ được tốt. Ví dụ can ngày bản thân nam mệnh là Mộc mà Giáp Ất Mộc của tỷ kiên, kiếp tài trong bát tự, nhưng phía nữ đưa bát tự bản thân đến chỉ là Mậu Kỷ Thổ, theo lý mà nói, Mộc khắc Thổ, chồng chế ước vợ, theo luân lý phong kiến thì đó là việc trời định rồi, nhưng rốt cục phía bên nam Mộc thế quá mạnh, khó tránh khỏi giữa đường khắc thê, cho nên lúc này cần xem thực thương canh Tân Kim của phía nữ như thế nào. Nếu thực thương nặng, do Kim có thể chế Kim, cho nên hai bên đứng vững, có thể hợp hôn. Nếu phía nữ thương thực không đủ, chỉ cần Mậu Kỷ Thổ nhiều, có thể sinh Kim, không ảnh hưỏng đến đại cục, có thể hợp hôn. Chỉ lo bản thân suy nhược mà không có Thực thần Canh Kim chống cự lại, thế thì đôi bên chỉ nói lời tạm biệt, đi tìm đối tượng khác vậy. Cùng lý lẽ ấy, nói ngược lại nếu thực thương Canh Tân Kim trong nữ mệnh quá nhiều, thế thì lúc tìm chồng tốt nhất là Mộc của Tỷ kiên, Kiếp Tài đối phương nhiều mới có thể chống cự lại được, vì rằng Mộc nhiều Kim khuyết, phía nữ sẽ phí sức chém chặt. Nghe nói, nếu vợ chồng lấy nhau theo nguyên tắc này, tuy bát tự bản thân mỗi người thiên thắng thiên suy, môi người bù cho nhau mà giữ được động thái cân bằng, cho nên vẫn là “bén duyên cầm sắt, con cái đề huề”
Quy nạp lại nguyên tắc hợp hôn lấy thừa bù thiếu sẽ là: nam mệnh Mộc thịnh thì nên lấy Kim, được cương Kim của nữ bù cho thì là rất đẹp, được Thổ sinh Kim cũng tốt, được Hỏa là thứ 2, được Thuỷ Mộc thì không lấy được, nếu nữ mệnh cương Kim hỉ Hoả, được Hoả mạnh của nam trợ giúp thì vô cùng đẹp, được Mộc sinh Hoả cũng đẹp, được Thuỷ là thứ 2, được Kim Thổ thì lấy đầu tiên. Các ngũ hành khác thiên thịnh thiên suy cũng theo thế mà tính.
Ngoài ra trong hợp hôn, còn có các loại “cốt tuỷ phá”, “lục hại”, “bại đại” là những hung sát cần biết để tránh và kỵ. Những biện pháp để phán định những hung sát này là căn cứ địa chi năm sinh, kết hợp với tháng sinh nông lịch để đoán định. Ví dụ người sinh năm địa chi Tý sinh vào tháng Ngọ (tháng 5), nếu là nữ mệnh thì bị coi là phạm vào thần sát tái giá. Khi hợp hôn nếu nhà trai nhìn thấy nữ mệnh này, thì vội rút lui thật xa, về cách nói hung sát không có căn cứ này, Trần Tố Am trong mệnh lý ước ngôn quyển 4 đã thẳng thường bác bỏ: Sách nữ tài hợp hôn nói không có lý lẽ. Hôn nhân của người ta do tiền định. Chọn hôn mệnh chẳng qua là do lòng yêu con của bố mẹ, nam chọn nữ, bát tự quý thấy có nhị tinh phu tử, nữ chọn nam, bát tự quý được đạo trung hoà sao còn lập ra các thuyết lừa dối như cốt tuỹ phá, thiệt tảo trửu, lục hại, đại bại, lang tịch, phi thiên, bát bại, cô hư v.v , lấy 12 chi của năm sinh, lấy một chữ tháng sinh là phạm, còn có lý lẽ gì? Ông nói tiếp, tiến tài thoái tài, vọng môn thủ goá, vợ gặp nguy chồng gặp ách, tử mộ tuyệt lấy vợ chồng chỉ lấy Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ nạp âm vào tháng sinh là phạm, chồng thoái tài tiến tài, thuộc vào vận mệnh của mình, sao có chuyện dựa vào người khác mà dẫn đến tai hoạ được? Tiếp đó, cuốn sách còn bác bỏ thẳng cánh: sách hợp mệnh lấy số mệnh cung năm của nam nữ, phối hợp với thiên y, phúc đức là thượng hôn, du hồn, quy hồn là trung hôn, ngũ quỷ, tuyệt mệnh là hạ hôn, nếu như có lý thì người cầu hôn đều chọn thượng hôn, trung hôn đê lấy mà bỏ hạ hôn đi, thiên hạ không có ai oán nữ bỏ chồng nữa, ở trên nói đến bát bại, gọi là bát bại như lợn dê chó sủa 3 tháng mùa xuân, lại lấy người Hợi, Mùi, Tuất, 3 tháng sinh làm bát bại, chẳng kể ngày giờ, chẳng kể cha con, đủ thấy là dối trá. Còn như nữ mệnh tối kỵ đào hoa sát, như Dần, Ngọ, Tuất tự Mão ra nếu Dần, Ngọ, Tuất, thuộc Hoả, sẽ tắm ở Mão, Hoả ở Mão đóng băng, sẽ bị trách là loã thể, như thể chẳng có công đâu mà bác bỏ. Sách viết đến đây, lấy một ví dụ về nữ mệnh và nói; Ta thấy cả hai bố con đều toàn, bà già phú quý. Vì lúc trẻ mang các sát bát bại, bố mẹ đã cải tạo bát tự cho bà hợp với người, cho đến khi chết mới nói cho chồng con biết mệnh thực để ghi vào mộ chí. Khi xem được mệnh thật, vốn là chồng con sáng đẹp, được trung hoà, người đời nói mang bát bại nhiều hung, nào có biết bát tự của bà cực đẹp.
Nguồn: Quang Tuệ
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Thư (##)
Ngày sinh có những bí mật vô cùng đặc biệt mà bạn chưa khám phá hết. Trong tử vi phương đông, để lập 1 lá số tử vi phân tích cuộc đời của bạn qua 12 cung cũng dựa trên ngày tháng năm sinh âm lịch và giờ sinh. Đối với tử vi phương tây cũng tương tự như thế. Bài viết dưới đây chỉ là một mô tả ngắn dựa trên ngày sinh để nói về đường tình duyên của bạn. Nên sử dụng ngày sinh dương lịch trước khi xem. Nếu thấy đúng thì like Fanpage của ## nhé
1. Những người sinh ngày 1, 10, 19 và 28
Bạn là con người yêu thích sự lãng mạn, từng bị trúng tiếng sét ái tình và bạn tin vào tiếng sét đó. Tuy nhiên, tính cách cả thèm chóng chán của bạn cũng khiến người ta buồn đấy nhé, hôm nay thấy rung động bởi ánh mắt này, nhưng ngày mai bạn lại bị nụ cười khác hút hồn. Ánh mắt ngày hôm qua làm bạn rung động thì hôm nay lại khiến bạn trống rỗng. Bạn thẳng thắn trong tình yêu nên lúc nào yêu ra yêu và ghét cũng rất rõ ràng đó.
Yêu thật sự: 2 người
Trái tim tan vỡ: 2 lần
2. Những người sinh ngày 2, 11, 20 và 29
Bạn thích chủ động đi tìm tình yêu của mình chứ không thích ngồi đó chờ tình yêu đến. Chẳng may cho ai cứ lao vào bạn thì chỉ có vô ích mà thôi. Bạn thường nhắm đối tượng từ xa mới quyết định có nên “bắn tên” hay không. Để được một ai đó thực sự rung rinh mình thì bạn sẽ phải mất nhiều công sức cưa cẩm, gây thương nhớ cho họ đấy.
Yêu thật sự: 3 người
Trái tim tan vỡ: 4 lần
3. Những người sinh ngày 3, 12, 21 và 30
Bạn chắc chắn và tự tin trong việc chọn nửa kia cho mình trong tình yêu. Bạn bè bạn không bao giờ hiểu bạn bằng người ấy.
Thậm chí sự lựa chọn của bạn là vô điều kiện. Bạn luôn âm thầm ở bên và theo dõi người mình yêu, ở sau họ khiến bạn thấy hạnh phúc.
Yêu thật sự: 3 người
Trái tim tan vỡ: 5 lần
Xem bói tình yêu của bạn qua ngày sinh
4. Những người sinh ngày 4, 13, 22 và 31
Với bạn tình yêu là một phạm trù luôn phải nghiêm túc. Bạn ghét những cuộc tình qua đường, không chung thủy và hoa lá cành. Tuy nhiên, bạn có thể hợp với nhiều tuýp người. Bạn tìm thấy những ưu điểm ở hầu hết mọi người. Tình yêu hay mang lại cho bạn những bất ngờ mà bạn không biết trước được nó sẽ xuất hiện khi nào và ở đâu. Tình yêu của bạn cũng khá là bí ẩn.
Yêu thật sự: 2 người
Trái tim tan vỡ: 2 lần
5. Những người sinh ngày 5, 14 và 23
Mọi người nói bạn không có đam mê, thật là một sai lầm. Thực tế, bạn rất sâu sắc và đa cảm. Cũng vì thế mà bạn có thể yêu chết mê chết mệt người ta ngay sau vài buổi hò hẹn. Tinh yêu của bạn đầy hứng khởi chứ không hề nhạt nhòa nhé.
Yêu thật sự: 5 người
Trái tim tan vỡ: 5 lần
6. Những người sinh ngày 6, 15 và 24
Với bạn, yêu là một hệ quả tất yếu của tình bạn. Trong tình yêu bạn rất trung thành, chín chắn và chân thật đối với nửa kia. Bạn không phải là kẻ lừa dối cũng không phải tán tỉnh cho vui. Bạn thường giữ được tình bạn tốt đẹp với người cũ, đồng thời sẵn sàng nhen nhóm lại ngọn lửa tình yêu trong tương lai.
Yêu thật sự: 4 người
Trái tim tan vỡ: 5 lần
7. Những người sinh ngày sinh: 8, 17 và 26
Bạn thích cảm giác đang yêu, thích đến nỗi ban không muốn để mình ở trong tình trạng single chút nào. Nói cách khác là bạn sợ nhất sự cô đơn. Thật không may, tình yêu không dễ dàng chiều theo ý muốn bạn được. Có những người được bạn coi là tình yêu thì lại đang lừa dối và lợi dụng bạn, đem lại đau khổ cho bạn mà thôi. Hãy chờ tình yêu thực sự bạn nhé, đó sẽ là lúc bạn hạnh phúc và thấy ngọt ngào nhất.
Tình yêu thực sự: 2 người
Trái tim tan vỡ: 3 lần
8. Những người sinh ngày 9, 18 và 27
Với bạn, yêu là thứ tình cảm vương vấn day dứt mãi, dù đã chia tay nhau khá lâu rồi. Nói cách khác là bạn thích sống với quá khứ hơn hiện tại. Thực tế, mối tình đầu luôn để lại cảm xúc thiêng liêng và mãnh liệt trong bạn. Bạn thường không dứt khoát trong tình cảm. Bạn thường bị động trong chuyện tình cảm của mình. Nhất là khi kết thúc cuộc tình, người bị chia tay luôn là bạn. Hãy cố gắng mạnh mẽ và có những quyết định đúng đắn trong tình yêu bạn nhé.
Tình yêu thật sự: 5 người
Trái tim tan vỡ: 4 lần
9. Những người sinh ngày 7, 16 và 25
Bình tĩnh và tự chủ, bạn tìm cách bày tỏ tình yêu bằng lời nóim, hành động. Có những khi người ấy của bạn còn phải đọc ra hành động để biết tình cảm của bạn. Bạn có tài ghìm cương người ta mà không bị phát hiện ra đấy.
Tình yêu thực sự: 1 người
Trái tim tan vỡ: 2 lần
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Cách tính nét
Chữ A tính 3 nét.
Chữ Â tính 5 nét (3 nét của chữ A và 2 nét dấu ^).
Chữ Ă tính 5 nét (3 nét của chữ A và 2 nét của dấu á (V).
Chữ B tính 3 nét (1 nét sổ thẳng và 2 nét vòng bán nguyệt).
Chữ C tính 1 nét (1 nét vòng bán nguyệt).
Chữ D tính 2 nét (1 nét sổ thẳng và 1 nét vòng bán nguyệt).
Chữ Đ tính 3 nét (1 nét sổ, 1 nét ngang, 1 bán nguyệt).
Chữ E tính 4 nét (1 nét sổ và 3 nét ngang).
Chữ Ê tính 6 nét (1 nét sổ, 3 nét ngang và 2 nét dấu ^). Chữ G tính 3 nét (1 nét bán nguyệt, 1 nét sổ và 1 nét ngang).
Chữ H tính 3 nét (2 nét sổ và 1 nét ngang).
Chữ I tính 2 nét (1 nét sổ và 1 dấu chấm).
Chữ K tính 3 nét (như cách phân tích trên).
Chữ L tính 2 nét (như cách phân tích trên).
Chữ M tính 4 nét (như cách phân tích trên).
Chữ N tính 3 nét (như cách phân tích trên).
Chữ O tính 1 nét (một vòng tròn).
Chữ Ô tính 3 nét (lvòng tròn và 2 nét dấu ^).
Chữ Ơ tính 2 nét (lvòng tròn và 1 râu).
Chữ P tính 2 nét (1 bán nguyệt và 1 sổ thẳng).
Chữ Q tính 2 nét (1 vòng tròn và 1 gạch chéo).
Chữ R tính 3 nét (1 bán nguyệt và 2 vạch).
Chữ S tính 1 nét (1 nét xoắn).
Chữ T tính 2 nét (1 nét ngang và 1 sổ thẳng).
Chữ U tính 2 nét (1 móc câu và 1 sổ thẳng).
Chữ Ư tính 3 nét (1 móc, 1 sổ và 1 râu).
Chữ V tính 2 nét (2 gạch bán chéo).
Chữ X tính 2 nét (2 gạch chéo).
Chữ Y tính 2 nét (1 gạch chéo, 1 gạch xiên).
Lưu ý
Ta cần lưu ý và cẩn thận khi tính số nét từng chữ trong một từ cho chính xác để khỏi sai lầm trong dự đoán số biểu lý.
Các ví dụ ứng dụng cụ thể số hóa
– Ví dụ 1: Ta tính số hóa họ tên sau:
NGUYỄN VĂN BỔNG
+ Ta tính:
3+3+2+2+6+3+1=20; 2+5+3=10; 3+3+3+3+1=13 + Số hóa ta có: 20 + 10 + 13
– Ví dụ 2: LÊ THỊ HƯƠNG
+ Ta tính: 2+6= 8; 2+3+3=8; 3+3+2+3+3=14 + SỐ’ hóa ta có: 8 + 8 + 14
– Ví dụ 3: TRẦN SƠN
+ Ta tính: 2+3+5+3+1=14; 1+2+3= 6 + Số hóa ta có: 14 + 1 + 6
– Ví dụ 4: HOÀNG VŨ TRỌNG BẰNG
+ Ta tính:
3+1+3+3+3+1; 2+3=5; 2+3+1+3+3+1; 3+5+3+3+1
+ Số hóa ta có: 14 + 5 + 1 + 13 + 15
– Ví dụ 5: TỐNG PHAN HỒNG
+ Ta tính: 2+3+3+3+1=12; 2+3+3+3=11; 3+3+3+3+1=13
+ Số hóa ta có: 12 + 11 + 1 + 13
– Ví dụ 6: PHẠM THÁI THỊ NGỌC LAN
+ Ta tính: 2+3+3+4+1=13; 2+3+3+2+1=11; 2+3+2+l=8; 3+3+1+1+1=9; 2+3+3=8;
+ Số hóa ta có: 13 + 11 + 8 + 9 + 8
– Ví dụ 7: VỪA A DĨNH
+ Ta tính; 2+3+3+1=9; 3; 2+2+3+3+1=11;
+ Số hóa ta có: 9 + 3+ 11
– Ví dụ 8: LÒ BÁ THÀO
+ Ta tính: 2+1+1=4; 3+3+1=7; 2+3+3+1+1=10
+ Số hóa ta có: 4 + 7 + 10
Thời gian: tổ chức vào ngày 9 tháng 9 âm lịch.
Nội dung: Ngày mùng 9 tháng 9 là ngày dương, tháng dương và số 9 được lập lại hai lần. Vì thế, ngày này còn được gọi là tết Trùng Dương hay tết Trùng Cửu. Lúc mới xuất hiện, Tết Trùng Cửu mang ý nghĩa chúc mừng mùa màng bội thu. Năm 221 trước Công nguyên, sau khi thống nhất đất nước Trung Hoa, nhà Tần đã tổ chức hoạt động cúng tế chúc mừng mùa màng bội thu vào tháng 9 âm lịch hằng năm trên khắp cả nước. Ngày mùng 9 tháng 9 được xem là ngày rất tốt lành trong khoảng thời gian nhà Tần và triều Tây Hán cai trị Trung Quốc và ngày tết Trùng Cửu đã ra đời từ đó.
Tuy nhiên, lịch sử đã mang đến cho tết Trùng Cửu thêm nhiều ý nghĩa khác. Vào cuối triều Đông Hán, khoảng năm 190 – 220 sau Công nguyên, đất nước Trung Quốc liên tiếp xảy ra nhiều trận bệnh dịch lớn. Trình độ y học lúc bấy giờ không thể khống chế các cơn dịch nên số người chết vì dịch bệnh tăng cao. Mọi người rất lo sợ và gom góp thực phẩm mang lên núi cao để lánh nạn. Trong số đó có một người tên Hoàng Cảnh.
Theo truyền thuyết, Hoàng Cảnh là người đã tu hành thành tiên và có phép thuật. Biết trước bệnh dịch sẽ xảy ra, Hoàng Cảnh đã thông báo với nhiều người và dặn dò rằng “Tay đeo túi đỏ đựng hạt thù du, uống rượu hoa cúc, chạy lên núi tránh họa”. Hoàng Cảnh chiến đấu với Ôn Thần dưới chân núi và đã chiến thắng Ôn Thần sau nhiều ngày chiến đấu. Từ đó về sau, tay đeo túi đỏ đựng hạt thù du, uống rượu hoa cúc và lên núi đã trở thành 3 phong tục lớn trong tết Trùng Cửu và được lưu truyền cho đến nay.
Tuy câu chuyện Hoàng Cảnh đại chiến Ôn Thần chỉ là truyền thuyết nhưng việc đeo túi thơm đựng hạt thù du phòng ngừa bệnh dịch lại mang yếu tố khoa học. Ngày Trùng Cửu diễn ra vào lúc giao mùa từ mùa thu sang mùa đông. Đây cũng là thời gian xuất hiện nhiều muỗi gây bệnh truyền nhiễm. Thù du là một loại thảo dược có độc tính nhẹ, có mùi vị nồng, có thể dùng để xua đuổi côn trùng. Cho hạt thù du vào trong túi thơm hoặc cho vào trái hồ lô có khoan nhiều lỗ nhỏ để mùi của hạt lan tỏa trong không khí, tiêu diệt côn trùng. Kỹ thuật may túi thơm và chế tác hồ lô đựng hạt thù du vẫn tồn tại đến nay, tập tục đeo túi thơm đựng hạt thù du cũng còn được giữ gìn ở một số nơi.
Theo danh y đời nhà Minh tên Lý Thời Trân, hoa cúc có công dụng chữa trị nhiều bệnh như đau mắt, chóng mặt, nhức đầu, giải phong nhiệt. Rượu hoa cúc có thể giúp tránh bị trúng gió, khử nhiệt, bổ gan sáng mắt, tiêu viêm giải độc. Rượu hoa cúc có vị đắng, người xưa cho rằng, uống loại rượu này sẽ thêm tuổi thọ nên họ gọi đây là ‘rượu trường thọ’. Phong tục uống rượu hoa cúc vẫn được bảo tồn cho đến nay ở khu vực tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc.
Ngoài uống rượu hoa cúc, ngắm nhìn hoa cúc là một trong những phong tục của tết Trùng Cửu. Hoa cúc được xem là loài hoa tượng trưng cho sự cao thượng, đại diện cho tình bạn và nét nho nhã của danh sĩ. Cúc được xem là một trong bốn loài hoa quân tử: mai - lan - cúc – trúc.
So với việc đeo túi hương đựng hạt thù du và uống rượu hoa cúc, tập tục lên núi vào ngày Trùng Cửu được nhiều người biết rõ hơn. Nhân dịp tết Trùng Cửu, nhiều người thường đến vùng ngoại thành để leo núi, thưởng ngoạn phong cảnh, hít thở bầu không khí trong lành.
Thời gian: tổ chức vào ngày 9 tháng 9 âm lịch.
Địa điểm: xã Thái Hà, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Quách Hữu Nghiêm - danh nhân văn hóa Thái Bình (thế kì 15).
Nội dung: Lễ hội có lễ rước, tế lễ. Song song với các hoạt động dâng hương là phần hội gồm: đấu võ, đấu vật, chọi gà...
Thời gian: tổ chức từ ngày 9 tới ngày 15 tháng 9 âm lịch.
Địa điểm: xã Thụy Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Công Nương phu nhân - mẹ Nguyễn Uy, An Dương Vương, Nguyễn Uy, Mai Công Phúc.
Nội dung: Lễ rước từ đền mẫu về đình. Dẫn đầu đoàn rước có tiết mục múa và đánh trống ngũ liên. Rước vào ban ngày, còn lễ dang hương hoa vào ban đêm. Phần hội có các trò chơi dân gian: cờ tướng, vật, chọi gà, bắn vịt, bơi trải.
![]() |
Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Hợi |
► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình |
No1: Người tuổi Tỵ
Dù là nam hay nữ, đa số người cầm tinh con rắn đều thông minh, có tinh thần vui vẻ, đồng thời tôn sùng chủ nghĩa thần bí. Họ thích theo đuổi cái đẹp, liên tục cập nhật các xu hướng thời trang mới nhất. Đó là cách người tuổi Tỵ thể hiện phong cách sành điệu không lẫn vào đâu được của mình.
![]() |
Đôi khi cách ăn mặc của con giáp này khiến mọi người không khỏi “giật mình” nhưng xét về tổng thể vẫn được xem là có gu thẩm mỹ cao. Đi tới đâu, người tuổi Tỵ cũng muốn trở thành tâm điểm của mọi ánh nhìn nên họ khá cầu kỳ và chỉn chu trong chuyện ăn mặc.
No2: Người tuổi Tuất
Thẳng thắn, chân thành và cởi mở là những nét nổi bật trong tính cách người tuổi Tuất. Con giáp này thích làm việc theo hứng và trưng diện thời trang theo phong cách không giống ai, nhưng vẫn đảm bảo mỹ quan và được nhiều người khen ngợi.
![]() |
Với những anh chàng và cô nàng tuổi Tuất, chuyện ăn mặc không chỉ thể hiện gu thẩm mỹ của mỗi người, đó còn là cá tính, bản chất riêng. Họ thích nhìn nhận và đánh giá người khác trước tiên là qua phong cách ăn mặc. Do đó, nếu muốn chiếm được cảm tình ngay từ cái nhìn đầu tiên của người tuổi Tuất, bạn nên chỉn chu hơn trong cách phối đồ của mình nhé.
No3: Người tuổi Ngọ
Tính cách người cầm tinh ngựa vô cùng phóng khoáng, vui vẻ. Theo đó, phong cách thời trang của họ cũng khá nổi bật. Người tuổi Ngọ biết phát huy những thế mạnh trên cơ thể cũng như trong tính cách của mình để thu hút sự chú ý và tình cảm của mọi người.
![]() |
Do đó, ngoài việc chăm chỉ chọn những món hàng có thương hiệu, con giáp này còn chọn cho mình cách phối đồ theo xu hướng thời trang mới nhất trên thế giới. Họ thích trưng diện thời trang không chỉ để làm đẹp vẻ ngoài mà còn muốn khẳng định con mắt tinh tế và cá tính đích thực của mình.
Mr.Bull (theo Dyxz)
Văn Khấn cúng đầy tháng, cúng mụ được dùng khi đứa trẻ được đầy tháng. Ông bà ta xưa quan niệm rằng: Đứa trẻ được sinh ra là do các vị Đại Tiên (Bà chúa Đầu thai), Tiên Mụ mà trực tiếp là 12 bộ Tiên Nương (12 bà Mụ) nặn ra ban cho.
Vì vậy, khi đứa trẻ đầy cữ (đứa trẻ chào đời được 3 ngày), đầy tháng (đứa trẻ chào đời được một tháng), đầy năm; bố mẹ, ông bà đứa trẻ phải bày tiệc cứng Mụ để tạ ơn các bà Mụ và cầu xin các Mụ ban cho đứa trẻ mọi điều may mắn tốt lành.
Lễ cúng Mụ phải được làm cẩn thận chu đáo, với các lễ vật bao gồm:
– 12 đôi hài xanh giống hệt nhau và một đôi hài cũng màu xanh nhưng to hơn
– 12 nén vàng xanh giống nhau và một nén vàng xanh to hơn.
– 12 bộ váy áo đẹp màu xanh giống hệt nhau và một bộ váy áo xanh cắt giống 12 bộ kia nhưng to hơn.
– 12 miếng trầu cánh phượng giống hệt nhau và một miếng trầu têm cánh phượng to hơn.
– 12 bộ đồ chơi: Bát,đũa, thìa, chén cốc, con giống, xe cộ, nón, mũ… giống hệt nhau và một bộ giống như vậy nhưng to hơn (những đồ lễ này có thể bằng nhựa, bằng sành sứ).
– 12 con cua, 12 con ốc, 12 con tôm to nhỏ bằng nhau để sống (có thể đồ chín) là lễ vật dâng cúng 12 bà Mụ.Và mỗi loại một con to hơn hoặc nhiều con (ít nhất ba con) cũng để sống là lễ vật dâng cúng bà Mụ Chúa. (Các con này để vào bát to bày cúng, sau khi cúng xong thì đem cua, ốc thả ra ao, hồ; tôm có thể thụ lộc).
– Phẩm oản, bánh kẹo, hoa quả chia đều thành 12 phần giống nhau và một phần có đủ phẩm oản, bánh kẹo, hoa quả nhưng lớn hơn (hoặc nhiều hơn).
– Lễ mặn: Xôi, gà, cơm, canh, các món lễ mặn, rượu. . .
– Bát hương, lọ hoa tươi nhiều màu, tiền vàng, cốc nước thanh tịnh (bày ở mâm trên cùng lễ mặn).
Bày lễ:
Bày lễ cúng Mụ mang tính chất thành kính, văn hoá và nghệ thuật, thường bàn lễ cúng Mụ được bày (trình bày) một cách hài hoà, cân đối.
+ Tất cả lễ vật dâng bà Mụ chúa để ở chính giữa phía trên của hương án
+ Lễ vật dâng 12 bà Mụ chia thành 12 phần giống nhau
+ Mâm lễ mặn cùng hương, hoa nước để trên cùng
+ Mâm tôm, cua, ốc để phía dưới
Sau khi bày lễ xong, bố hoặc mẹ cháu bé thắp 3 nén hương, rồi bế cháu bé ra trước án khấn
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
– Con kính lạy Đệ nhất Thiên tỷ đại tiên chúa.
– Con kính lạy Đệ nhị Thiên đế đại tiên chúa.
– Con kính lạy Đệ tam Tiên Mụ đại tiên chúa.
– Con kính lạy Thập nhị bộ Tiên Nương
– Con kính lạy Tam thập lục cung chư vị Tiên Nương
Hôm nay là ngày…. Tháng….. năm….
Vợ chồng con là ………. sinh được con (trai, gái) đặt tên là ……..
Chúng con ngụ tại:……………………………
Nay nhân ngày đầy tháng (đẫy cữ,) chúng con thành tâm sửa biện hương hoa lễ vật và các thứ cúng dâng bày lên trước án, trước bàn tọa chư vị Tôn thân kính cẩn tâu trình:
Nhờ ơn thập phương chư Phật, chư vị Thánh hiền, chư vị Tiên Bà, các đấng thần linh, Thổ công địa mạch, Thổ địa chính thần, Tiên tổ nội ngoại, cho con sinh ra cháu tên là………… sinh ngày…… được mẹ tròn con vuông.
Cúi xin chư vị tiên Bà, chư vị Tôn thần giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật, phù hộ độ trì, vuốt ve che chở cho cháu được ăn ngoan, ngủ yên, hay ăn chóng lớn, vô bệnh vô tật, vô tai, vô ương vô hạn, vô ách, phù hộ cho cháu bé được tươi đẹp, thông minh, sáng láng, thân mệnh bình yên, cường tráng, kiếp kiếp được hưởng vinh hoa phú quí. Gia đình con được phúc thọ an khang, nhân lành nảy nở, nghiệp dữ tiêu tan, bốn mùa không hạn ách nghĩ lo.
Xin thành tâm đỉnh lễ, cúi xin được chứng giám lòng thành.
Nam mô a di Đà Phật (3 lần)
Phòng ngủ, phòng tắm, phòng sinh hoạt chung là những không gian thư giãn trong khi tranh chữ lại đưa lại cảm nặng nề, áp lực. Những cảm xúc, nghĩ suy từ những chữ này đưa lại sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tâm trạng, giấc ngủ cũng như đời sống gối chăn trong phòng ngủ vợ chồng.
2. Nội thất phòng ngủ nhẹ nhàng, ấm cúng
Phòng ngủ của bạn nên bài trí nội thất theo phong cách nhẹ nhàng, trang nhã, gam màu trang trí nên lấy màu nhạt và ấm cúng, gần gũi ví dụ màu đất, hồng phấn… Với cách phối màu này, thị giác sẽ được xoa dịu, tâm trạng chủ nhân cũng yên bình hơn rất nhiều.
Các vật dụng sắc nhọn hay đồ kim loại nên tránh sử dụng.
3. Ánh sáng đèn dịu nhẹ và ấm cúng
Ánh sáng trong phòng ngủ nên vừa đủ sáng, đèn vàng kết hợp với chụp đèn hình tròn là cách sử dụng đèn thích hợp nhất. Trang trí hiện đại lấy ánh sáng vàng làm nguồn sáng phản chiếu là sự lựa chọn không tồi, rất thích hợp với quy tắc phòng ngủ không nên quá sáng.
3. Vị trí phòng ngủ
Vấn đề quan trọng nhất của khoa học phong thủy phòng ngủ là cửa đối diện cửa. Cửa phòng không nên đối diện cửa chính hoặc cửa nhà vệ sinh, điều này giúp tránh các tà khí chiếu trực tiếp vào phòng ngủ, nếu thiết kế nhà bạn lỡ mắc phải lỗi này, bạn có thể dùng bình phong hoặc màn che để hóa giải để tránh.
Ngoài ra, phòng ngủ không nên đặt kề phòng bếp, bởi vì bếp là vị trí của nặng lượng lửa, là một nơi bấp bênh, không ổn định, còn phòng ngủ lại là nơi nghỉ ngơi, cần yên tĩnh.
4. Cách đặt giường ngủ
Phòng ngủ tối kỵ đặt xà nhà trên đầu giường, cách làm này có thể khiến bạn lo lắng, đau đầu, tăng áp lực não và tăng huyết áp, từ đó dẫn đến giấc ngủ không sâu giấc. Tủ đầu giường hoặc gối sẽ là phươnmg pháp để hóa giải điều này, bạn sẽ cảm thấy an toàn hơn.
Gương trên bàn trang điểm cũng là một vật dung không thể thiếu trong phòng ngủ, nhưng nếu gương đối diện với giường thì lại là điều không tốt. Gương dễ ảnh hưởng đến tình cảm vợ chồng, đồng thời cũng dễ ảnh hưởng đến giấc ngủ. Ngoài ra, tường nên áp sát với đầu giường, không nên để lại một lối đi ở giữa.
(Theo Eva)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Ly kỳ những ghi chép và giai thoại
Về việc Gia Cát Lượng lấy vợ thì sách “Tương Dương ký” chép rằng: “Ở miền Nhữ Năm có một danh sĩ là Hoàng Thừa Ngạn, tính tình thanh cao, khoát đoạt và thành thực. Ngạn đến bảo với Lượng rằng: “Nghe anh kén vợ, tôi có đứa con gái xấu xí, đầu vàng, da đen, nhưng tài năng có thể phối hợp với anh được”. Lượng bằng lòng tức thì Ngạn đem con gái đến cho”. Người đương thời rất buồn cười về chuyện ấy, nên trong làng xóm hay nhắc câu: “Mạc học khổng Minh trạch phụ/ Chi đắc A Thừa xú nữ” (Nghĩa là “đừng học cách Khổng Minh kén vợ/ Chỉ được gái A Thừa xấu kinh”.
Gia Cát Lượng cùng người vợ Nguyệt Anh.
Còn giai thoại về chuyện tình của Gia Cát Lượng và Hoàng Nguyệt Anh được ghi chép và kể lại khá nhiều, ví như chuyện ông quyết chí mai phục để tiếp cận “người đẹp”. Chuyện rằng, là người ham học hỏi, nghe nói ở Ngọa Long Cương có viên ngoại họ Hoàng, trong nhà Cát nhiều sách quý, Gia Cát Lượng bèn dời tới đây, dựng lều tranh ở gần để tìm dịp hội kiến. Thêm vào đó, tin đồn nhà họ Hoàng có cô con gái tên Hoàng Nguyệt Anh, nức tiếng khắp vùng là một tài nữ càng thôi thúc ông đến để có cơ hội gặp gỡ, kết giao. Biết được ý định của Gia Cát Lượng, Hoàng viên ngoại ra sức ngăn cản mà không hề cho biết lý do.
Trước tình hình đó, Gia Cát Lượng không hề nản lòng ông vẫn muốn dùng tài năng và học vấn của mình để thuyết phục Hoàng viên ngoại tác hợp cho mình và cô con gái nên duyên. Thế nhưng, một điều vô cùng bất ngờ xảy ra, đó là Hoàng viên ngoại tiết lộ, con gái ông có dung mạo vô cùng xấu xí, rất khó coi, rồi khuyên Gia Cát Lượng nên tìm ý trung nhân tài sắc vẹn toàn. Kể từ đó, thiên hạ rộ lời đồn thổi về nhan sắc “ma chê quỷ hờn” của tài nữ Nguyệt Anh.
Lại có sách kể rằng, tiểu thư họ Hoàng tuy hiền dịu, nết na, trí tuệ vẹn toàn, nhưng dáng vẻ thô kệch, xấu đến độ “ma chê quỷ hờn”. Gạt bỏ những lời đồn đó, Gia Cát Lượng quyết tâm cầu hôn người con gái kỳ tài.Trước sự nhiệt tình của Gia Cát Lượng, để thử thách ông, Hoàng Nguyệt Anh đưa ra hàng loạt câu hỏi để thử tài người đến hỏi cưới mình. Với sự thông minh và học thức yên thâm, để chiếm được trái tim người phụ nữ tài giỏi này, Gia Cát Lượng dốc hết tâm lực, tài trí, cuối cùng cũng thuyết phục được thiên kim tiểu thư họ Hoàng.
Tuy nhiên, một luồng ý kiến khách thì lại cho rằng Hoàng Nguyệt Anh trên thực tế là một người phụ nữ có nhan sắc mĩ miều, xinh đẹp tuyệt trần nhưng lại cố ý đeo mặt nạ xấu xí để tìm được “người anh hùng thực sự” của mình. Chuyện Hoàng viên ngoại loan tin con gái mình xấu xí, thô kệch chỉ cốt để thử thách lòng kiên trì và bản lĩnh cương nghị của Gia Cát Lượng. Lượng nghe tiếng Hoàng Nguyệt Anh tài giỏi phi thường, đã bất chấp mọi tin đồn về nhan sắc của bà và đến cầu hôn. Hoàng Nguyệt Anh đã thử thách trí tuệ, tài năng (qua trận pháp vườn đào) lẫn đức độ của Gia Cát Lượng trước khi chấp nhận cuộc hôn nhân này.
Dù sắc đẹp của Nguyệt Anh xấu đẹp thế nào đến nay vẫn còn gây tranh cãi, song người ra đều đồng ý rằng, bà là một người phụ nữ tài hoa xuất chúng, thông thiên văn, tường địa lý, bát quái ngũ hành, kì môn độn giáp, ngay cả binh pháp (thứ chỉ dành cho đấng mày râu) bà cũng rất am hiểu. Gia Cát tiên sinh thông binh pháp, ít nhiều phải kể đến công lao của bà.
Trong một vài tư liệu cũng có ghi, các phát minh “mộc ngưu lưu mã” (trâu gỗ ngựa máy), “nỏ bao” của Khổng Minh cũng đều có sự tham gia giúp đỡ của Hoàng Nguyệt Anh. Và cũng ít ai biết rằng “Long Trung sách” của Gia Cát Lượng cũng dựa trên sự gợi ý ít nhiều của bà. Nói chung Hoàng Nguyệt Anh là một hậu phương vững chắc và trợ thủ đắc lực của gia Cát Lượng, góp phần không nhỏ vào các thành công cuả ông sau này.
Sách “Khổng Minh đại truyện” có ghi rõ, thừa tướng Gia Cát sau khi xuất sơn, mọi việc ở nhà đều được Gia Cát phu nhận chu toàn, vợ chồng tương kính, chưa bao giờ xảy ra mâu thuẫn hay xung đột gì. Nếu không nhờ có bà, Khổng Minh tiên sinh chưa chắc đã có thể toàn tâm phò trợ cho chủ tướng Lưu Bị.
Quà tặng người tình: Chiếc quạt lông
Tương truyền, vì ham mê võ nghệ, Hoàng Nguyệt Anh, với cái tên cúng cơm A Sửu, theo dọc danh dự trên núi. Sau khi hoàn thành việc học võ, bà được vị sư phụ tặng cho chiếc quạt lông vũ, cùng với hai chữ “minh”, “lượng” và dặn dò: “tên hai chữ này chính là đức lang quân như ý của con”.
Kỳ nhân Gia Cát Lượng.
Gia Cát Lượng trong lần đầu tới cầu hôn, cô gái xấu xí tóc vàng, da đen đã tặng chàng một chiếc quạt lông và hỏi: “Gia Cát tiên sinh, có biết tại sao tôi lại tặng ngài quạt lông không?” Gia Cát Lượng nói: “Là lễ nhẹ nhưng nghĩa tình thì nặng phải chăng?” A Sửu cô nương nói: “Còn ý nghĩa thứ hai?”. Gia Cát Lượng suy nghĩ mà không thể giải đáp. A Sửu nói tiếp: “Thưa Gia Cát tiên sinh, tiên sinh vừa cùng gia phụ đàm luận thiên hạ đại sự, tâm mang đại kế, khí vũ hiên ngang, say mê hứng thú. Nhưng mà, tôi phát hiện khi ngài nói tới Tào Tháo, Tôn Quyền thì chân mày hiện rõ ưu tư. Tôi tặng ngài chiếc quạt này là để ngài che mặt những khi như vậy”.
Qua câu nói đầy ngụ ý của Hoàng Nguyệt Anh, Gia Cát Lượng có thể thấu hiểu được tâm ý của bà không muốn chồng mưu sự bất thành vì dao động tình cảm, và món quà bà tặng sẽ như thứ bảo bối giúp ông che giấu cảm xúc, suy nghĩ thực sự trước đối phương. Sau khi kết duyên cùng tài nữ Nguyệt Anh quạt lông vũ trở thành vật bất ly thân với Khổng Minh – Gia Cát Lượng. Ông luôn coi nó như thứ bấu vậy luôn phải nâng niu trân trọng. Chiếc quạt cùng áo bát quái và người vợ gắn bó từ thuở hàn vi vẫn là những bảo vật đáng giá nhất mà Gia Cát Lượng luôn gìn giữ bên mình.
Đường con cháu của nhà Gia Cát
Anh ruột của Gia Cát Lượng là Gia Cát Cẩn làm quan tại Đông Ngô với Tôn Quyền. Khi chưa có con, Gia Cát Lượng xin người con của Gia Cát Cẩn để làm đích tử và phong cho chức phò mã, nhưng với lòng công bình chính trực, Gia Cát Lượng xin Cẩn cho con đi vận chuyển lương thực thi hành quân dịch như các binh sĩ khác.
Sau khi Gia Cát Lượng sinh được hai con trai thì cho cháu của Cẩn về Đông Ngô hội họp với ông, vì con của Cẩn là Kiều đã chết ở mặt trận. Con cả của Lượng và cháu đích tôn đều bị chết trong những cuộc đánh quân nước Ngụy và con thứ hai của Lượng là Gia Cát Chiêm nối nghiệp.
Gia Cát Lượng mang hết tài năng chăm lo việc nội trị, ngoài lo đánh dẹp làm việc quá sức nên bị ốm và chết tại Gò Ngũ Trương, trong khi hành quân, thọ 54 tuổi. Mộ chôn tại Định Quân Sơn ở Miện Dương, không đắp lăng tẩm.
Cháu 36 đời sau của Gia Cát Lượng là Gia Cát Hy, làm quan với nhà Minh có lập gia phả cho nhà Gia Cát vào năm Sùng Trinh, tức năm Nhâm Thân. Các đời sau của dòng họ Gia Cát đến nay vẫn còn tiếp tục.
Theo Câu chuyện Pháp luật
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, dạy các Tỷ kheo:
Này các Tỷ kheo, có bốn hạng người này hiện hữu, có mặt ở đời. Thế nào là bốn ? Có tội, nhiều tội, ít tội và không có tội.
Thế nào là hạng người có tội ? Này các Tỷ kheo, có hạng người thành tựu thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp có tội. Như vậy là hạng người có tội.
Và thế nào là hạng người nhiều tội ? Này các Tỷ kheo, có hạng người thành tựu thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp có nhiều tội. Như vậy là hạng người có nhiều tội.
Thế nào là hạng người có ít tội ? Này các Tỷ kheo, có hạng người thành tựu thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp không có tội nhiều, chỉ có ít tội. Như vậy là hạng người có ít tội.
Và thế nào là hạng người không có tội ? Này các Tỷ kheo, có hạng người thành tựu thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp không có tội. Như vậy là hạng người không có tội.
Có bốn hạng người này, này các Tỷ kheo, hiện hữu, có mặt ở đời.
(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ II, chương 4, phẩm Loài người, phần Có tội [lược], VNCPHVN ấn hành 1996, tr.72)
Tội lỗi là một trong những thuộc tính cơ bản của chúng sanh. Con người có mặt ở trên đời thì tội lỗi có mặt. Thậm chí từ trong quá khứ, trước khi được sinh ra, tội lỗi hay nghiệp đã đóng vai trò chi phối, là tác nhân chính để hình thành nên hình dáng, tính cách, hoàn cảnh của mỗi cá nhân trong hiện tại. Vì thế, con người là sự kế thừa tội lỗi, nghiệp lực của chính mình và do vậy, người sống trên đời có tội cũng là chuyện bình thường.
Khi chưa trở thành các bậc Thánh, ai cũng giống nhau ở chỗ là đều có tội cả. Có khác chăng là mức độ gây nghiệp, tạo tội nhiều hay ít, về phương diện này hay phương diện kia mà thôi. Tội lỗi, theo tuệ giác của Thế Tôn, đó là những hành vi tạo tác bất thiện được tạo ra nơi việc làm, lời nói và suy nghĩ của con người.
Tuy chúng ta chấp nhận có tội vì hiện ba nghiệp chưa thanh tịnh nhưng tội phải ít và nhỏ thôi và điều cần thiết nhất là tự thân phải rõ biết điều đó. Khi còn trong thân phận chúng sanh, biết rõ những hạn chế, thói hư tật xấu của chính mình để phấn đấu, vươn lên, loại trừ điều ác, đạt đến sự hoàn thiện là tối cần. Con người sở dĩ ngày càng tạo nhiều tội lỗi, một phần do không nhận chân được điều xấu ác hoặc xem những điều xấu ác hiện tồn tại với số đông là bình thường, thậm chí không ít người còn tự mãn với những thành tựu dựa trên nền tảng tham sân si.
Hơn ai hết, người con Phật cần phải trở về với chính mình, biết rõ mọi hành vi của tự thân nhằm kiểm soát, từng bước làm chủ, chuyển hóa ba nghiệp thân khẩu ý xấu ác. Đạt đến sự hoàn thiện, không tội lỗi là một lộ trình dài. Nền tảng cơ bản của lộ trình đó là tuệ tri, biết rõ tự thân có tội nên trước hết phải cố gắng để không tạo thêm nhiều tội lỗi đồng thời phát huy thiền quán để thấy mọi tội lỗi đều xuất phát từ tâm, tâm thanh tịnh tức ba nghiệp thanh tịnh.
![]() |
Ảnh minh họa |
Túi treo cho ghế tựa
Chiếc ghế là vật dụng được sử thường xuyên tại gia đình hay nơi làm việc của bạn, phục vụ cho các mục đích nghỉ ngơi, giải trí, học tập… Việc gắn thêm một chiếc túi nhiều ngăn vào sau lưng một chiếc ghế tựa sẽ giúp bạn tiết kiệm được thời gian khi không phải đi tìm đồ và rất tiện khi có thể lấy được ngay những vật dụng này ra sử dụng. Bạn có thể bỏ được nhiều thứ vào chiếc túi này từ máy tính, bút, chai nước hoặc bất kỳ cái gì có thể nhét vừa.
Móc quần áo đa năng
Tủ đựng quần áo của bạn thường không có một chỗ riêng để cất giữ những đồ trang sức. Tuy nhiên với một chiếc móc treo đa năng, gồm một thanh thiết kế hình sóng lượn và một thanh có gắn thêm các ghim treo, giúp bạn có thể dễ dàng treo và trang trí những đồ trang sức xinh xắn trên đó. Bạn có thể treo chiếc móc này trong tủ quần áo hoặc treo bên ngoài như một vật trang trí cho căn phòng.
Túi đựng đồ treo trên cửa
Giữa buồng làm việc của bạn và đồng nghiệp thường có rất ít khoảng trống cho việc để các đồ đạc, đặc biệt là những vật dụng linh tinh phục vụ cho mục đích cá nhân của bạn tại văn phòng. Để có thêm không gian cho việc cất giữ các đồ đạc này bạn có thể thiết kế một chiếc túi treo gắn vào cánh cửa phòng. Đây là một vị trí treo đặc biệt vì chiếc túi sẽ ẩn đi khi người khác mở cửa nhìn vào buồng làm việc của bạn, giúp cho nơi làm việc của bạn luôn gọn gàng.
Kê chân giường tích hợp ổ điện
Trong một không gian nhỏ hẹp thì chỉ cần bố trí thêm một ổ điện thôi cũng rất khó khăn vì đòi hỏi phải dịch chuyển nhiều đồ đạc khác. Tuy nhiên, lại có một vị trí có thể đặt ổ điện rất thuận tiện trong phòng ngủ của bạn, đó là bạn gắn ổ điện vào chiếc kê chân giường. Đối với ổ điện thêm này, bạn có thể cắm đèn ngủ, cắm sạc điện thoại và rất nhiều vật dụng khác.
Móc dán tường
Việc đóng đinh hay khoan lỗ bắt vít vào tường cần hết sức hạn chế vì nó sẽ để lại những lỗ thủng trên bức tường nhà bạn, gây mất mỹ quan. Tuy nhiên, có một giải pháp thay thế là bạn có thể dùng móc dán tường. Các loại móc dán tường có thể treo được một trọng lượng rất lớn, lên tới 5kg và với màu sắc đa dạng thì nó cũng đồng thời là một vật trang trí thêm cho căn phòng của bạn.
Ghế gấp
Để căn phòng của bạn gọn gàng hơn, tạo thêm khoảng trống cho sinh hoạt thì cách tốt nhất là dùng những vật có khả năng thu gọn lại để cất đi không cần thiết. Và ghế gấp là một giải pháp để bạn tiết kiệm không gian.
Giá chồng
Từ giày dép, sách vở cho tới đồ ăn vặt… bạn có thể cất gọn vào những chiếc giá chồng. Với những chiếc giá chồng này, bạn có thể lựa chọn số tầng tùy ý để chồng chúng lên nhau.
Giá treo cho phòng tắm
Những phòng tắm nhỏ hẹp thường không có chỗ để đồ mỹ phẩm, bạn có thể gắn thêm một chiếc giá treo bằng inox để đặt những vận dụng này.
Hộp để đồ dưới gầm giường
Gầm giường là một khoảng trống khá lớn thường bị bỏ quên. Với những chiếc hộp được thiết kế bánh xe ở chân có thể kéo ra, đẩy vào dễ dàng là nơi cất giữ nhiều đồ đạc như quần áo, sách vở…
Túi treo giầy dép
Bạn có thể có nhiều loại giày dép để đi cho các mùa khác nhau. Đôi khi bạn cũng gặp phải phiền toái trong việc cất giữ các đôi giày yêu thích để đi cho mùa năm sau. Có một giải pháp là bạn có thể cho chúng vào các túi đựng giày dép và treo chúng vào vị trí thích hợp trong ngôi nhà của bạn.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Bởi vậy, nhiều người thích bày tranh hoặc tượng hổ trong nhà ở hoặc ở văn phòng. Nhưng cần chú ý đến năm tuổi, vì có những tuổi rất kỵ những vật trang trí hình hổ.
![]() |
Hổ ngọc |
Theo thuật số thì hổ, ngựa, chó kỵ nhau, bởi vậy người tuổi Ngọ và tuổi Tuất không nên bày những đồ trang trí có hình hổ tại nhà ở hay văn phòng, nếu không, sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tài vận trắc trở.
Người tuổi Dần cũng không nên bày các đồ trang trí có hình hổ vì như tục ngữ nói: “Một núi không thể có hai hổ”, tuổi Dần gặp hổ dễ gặp tiểu nhân hoặc kình địch, công việc không suôn sẻ.
Theo Bát Trạch Minh Kính
o mùa xuân. Song, nếu mở cửa sổ ở các hướng khác cần tham khảo một sô” lưu ý dưới đây:
– Nhà ở quay lưng phía Bắc, nhìn về hướng Nam thì nên trổ cửa sổ ở đầu hồi phía Đông.
– Nên trổ cửa sổ ở tường phía Đông Nam với nhà tọa theo bất kỳ hướng nào vì cửa sổ ở hướng đó không chỉ đón được ánh bình minh mà còn giúp cho nền nhà luôn khô ráo, thoáng đãng, không bị ẩm mốc.
– Nếu trổ cửa sổ hướng Tây Nam thì khi mặt trời ngả về Tây, sẽ bị hắt vào nhà do vậy nên lợp mái vẩy ngoài cửa sổ, để tránh ánh nắng chiếu trực tiếp.
– Nếu buộc phải trổ cửa sổ hướng Tây Bắc cần thiết kế cửa sổ nhỏ và cao, lợp mái vẩy ngoài cửa sổ, để tránh ánh nắng chiếu trực tiếp.
– Không nên trổ cửa sổ hướng Tây vì mùa hè phải hứng chịu trực tiếp khí nóng nắng quái, còn mùa đông lại phải hứng khí lạnh, nếu buộc phải có cửa sổ thì không nên trổ quá rộng và cần phải có rèm cửa sổ che nắng.
– Không nên trổ cửa sổ hướng Đông Bắc vì gió Đông Bắc thổi vào trong nhà khiến nhà luôn ẩm ướt và lạnh giá, nếu buộc phải có cửa sổ thì không nên trổ quá rộng và cần phải có rèm cửa.
– Nên trổ rộng cửa sổ ở phía Nam, mùa hè có thể hứng gió mát vào trong nhà, mùa đông hứng tia nắng ấm, có lợi cho thông gió trong phòng, điều tiết khí nóng bên trong phòng, đảm bảo phòng luôn sáng sủa.
Hành: ThủyLoại: Đài Các TinhĐặc Tính: Công danh, quý hiển, may mắn, quyền quý, khoa giáp
Tên viết tắt thường gặp: Long
Phụ tinh. Thuộc bộ sao đôi Long Trì và Phượng Các. Gọi tắt là bộ sao Long Phượng. Một trong 4 sao của bộ Tứ Linh là Long Trì, Phượng Các, Bạch Hổ, Hoa Cái. Gọi tắt là Long Phượng Hổ Cái.
Ý Nghĩa Long Trì Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Long Trì ở Mệnh thì nhan sắc rất đẹp, da mặt hồng hào, thanh tú, nhất là đối với phụ nữ.
Kiếp người vốn ngắn ngủi, thoáng chốc đã phải trở về với cát bụi. Vì vậy, đừng suy nghĩ thiệt hơn, tranh giành mà chỉ làm người tốt là đủ rồi.
Một vị lữ khách trông thấy một bà lão ở trên bờ sông. Bà lão đang lo lắng không biết vượt qua sông thế nào?
Mặc dù toàn thân mệt mỏi rã rời, người lữ khách vẫn cố gắng hết sức mình giúp bà lão vượt qua sông.
Sau khi đã qua được sông, thật không ngờ, bà lão khiến người lữ khách rất thất vọng…
Sau khi qua sông, bà lão không nói gì cả, vội vàng bỏ đi.
Người lữ khách cảm thấy rất hối hận: “Dường như thật không đáng phải cố gắng nỗ lực giúp bà lão! Bời vì ngay cả hai chữ ‘Cám ơn’, mình cũng không được nhận”.
Đâu biết rằng, vài tiếng sau, trong lúc anh mệt không thể tiếp tục bước đi thì có một vị trẻ tuổi đuổi theo anh.
Người này nói: “Cám ơn anh vì đã giúp bà nội tôi! Bà dặn tôi mang cho anh một chút đồ và nói chắc anh sẽ dùng đến nó”.
Nói xong vị này lấy lương khô ra đưa cho anh, đồng thời tặng anh một chú ngựa.
Đừng nên vội vàng tìm câu trả lời cho cuộc sống
Đừng nên vội vàng mong muốn cuộc sống sẽ cho bạn biết hết các câu trả lời,
Đôi khi, bạn cần phải kiên nhẫn chờ đợi.
Cho dù nếu bạn hướng vào một cái hang động mà hét lên, cũng cần đợi một lúc, mới cảm nhận âm thanh vọng lại.
Cũng có nghĩa là cuộc sống sẽ cho bạn đáp án nhưng sẽ không cho bạn biết tất cả ngay lập tức.
Nếu như có một ngày, trong cuộc sống của bạn gặp phải những phong ba bão táp, và bạn không thể chịu đựng được nữa, vậy thì, mong bạn hãy biết chờ đợi….
Khi bạn đang gặp phải những nghịch cảnh mà cảm thấy mọi việc đều không tốt.
Tình yêu, công việc, sự nghiệp, lý tưởng đều tan thành mây khói.
Trong tâm thấy tuyệt vọng vô cùng,
Vậy bạn hãy thử thay đổi một chút cách nhìn nhận các vấn đề, rồi tự nhủ với bản thân: “Tất cả đều đã có an bài tốt nhất!”
Không nên phiền muộn, không nên chán nản,
Càng không nên chỉ nhìn vào khoảng thời gian tồi tệ này.
Hãy biết nhìn xa trông rộng, để mở mang tầm mắt,
Không nên ân hận, càng không nên oán trời trách người,
Luôn lạc quan, cố gắng, tin rằng ông Trời sẽ không tuyệt đường của người tốt
Người nhiều tiền hay ít tiền, đủ ăn là được rồi!
Người xấu hay đẹp, vừa mắt là được rồi!
Người già hay người trẻ, khỏe mạnh là được rồi!
Gia đình giàu có hay nghèo túng, hòa thuận là được rồi!
Chồng về sớm hay về muộn, có về là được rồi!
Người vợ phàn nàn nhiều hay ít, lo việc nhà là được rồi!
Con cái dù làm tiến sĩ hay bán hàng ngoài chợ cũng được, an tâm là được rồi!
Nhà to hay nhà nhỏ có thể ở được là được rồi!
Trang phục có thương hiệu hay không, có thể mặc được là được rồi!
Ông chủ không tốt, có thể chịu được là được rồi!
Hết thảy phiền não, có thể giải được là được rồi!
Cả đời người, bình an là được rồi!
Ban công và lô gia góp phần tạo nên hiệu quả thẩm mỹ của mặt đứng công trình, đồng thời góp phần cung cấp thêm khoảng không gian mở, tạo điều kiện để con người tiếp xúc với thiên nhiên. Xét dưới góc nhìn phong thuỷ, nếu như nói phần diện tích trong nhà mang tính động thì lô gia và ban công như phần tĩnh giúp cân bằng âm dương trong tổng thể của căn nhà.
Ban công đẹp nhưng nên tạo gờ để duy trì và lưu giữ dòng năng lượng trong căn hộ.
Giải phóng dòng năng lượng đã qua sử dụng
Xã hội hiện đại phát triển nhanh cùng lúc kéo theo việc hình thành các khu chung cư cao tầng. Trong các khu nhà này cửa nhà chính thường có xu hướng quay vào trong phần hành lang chung, trong khi chỉ có ban công mới được tiếp xúc trực tiếp với ngoại cảnh tự nhiên, tức là các yếu tố nắng, mưa, không khí, ánh sáng.
Bởi vậy trong ứng dụng phong thuỷ, có ai đó đặt vấn đề là nên dùng hướng ban công làm hướng chính để luận đoán phong thuỷ ngôi nhà vì có lẽ khí (trong Phong Thuỷ) ở đây được hiểu theo hướng là không khí, là ánh sáng. Phần cửa sổ thu nhận nhiều khí hơn cửa chính nên coi đó là yếu tố chính để luận đoán.
Quan điểm này nghe qua có vẻ đúng, nhưng nếu đặt vấn đề là thử bịt cửa chính của căn hộ đó thay vào đó chỉ dùng cửa sổ thì câu hỏi là liệu con người đó có sống nổi không, trong khi nếu chúng ta có chẳng may sống ở một căn hộ nào đó mà thiếu ban công, cửa sổ thì tất nhiên là cũng vẫn sinh hoạt được.
Ban công đơn giản, kín đáo, tỷ lệ đẹp dễ tạo và lưu giữ nguồn năng lượng tích cực.
Ban công bán nguyệt là một dạng thức tốt theo phong thuỷ.
Do vậy khi ứng dụng phong thuỷ thì yếu tố đại môn - tức là cửa ra vào - chính là hướng dùng để luận phong thuỷ. Tất nhiên là về lâu về dài thì thì một căn nhà chỉ có cửa mà không có ban công cũng sẽ không tốt, do hiện tượng bế khí theo phong thuỷ, còn nói theo khoa học thì là không có sự thông thoáng.
Chúng ta nên hiểu yếu tố khí được sinh ra là do tương tác, sự vận hành của dòng người đem năng lượng dương cho ngôi nhà. Nếu coi cửa chính như nơi nạp năng lượng cho căn hộ thì ban công hay cửa sổ góp phần điều tiết và làm giải phóng dòng năng lượng đã qua sử dụng tức là giải quyết vấn đề bế khí, nói theo ngôn ngữ Phong thuỷ.
Lưu trữ dòng năng lượng tốt, cân bằng cho ngôi nhà
Hình thức Ban công đan chữ X.
Các hình thức phô trương kết cấu nếu thiết kế không khéo sẽ tạo nên hình tượng xấu trong phong thuỷ - Tượng “lộ cốt”
Chính vì thế, khi chọn vị trí của ban công trong tổng thể ngôi nhà cũng nên quán xét vị trí của ban công và hướng cửa chính.
Không nên bố trí ban công hay cửa sổ thẳng hướng với cửa chính ra vào. Điều này có thể gây nên hiện tượng gió xuyên phòng đột ngột, gây bất lợi đối với sức khoẻ con người. Mà nhất là trong các chung cư cao tầng, càng lên cao gió thổi càng mạnh, lại càng bất lợi. Ngoài ra, bố trí theo kiểu này thì lượng không khí trao đổi với bên ngoài không nhiều dễ hình thành các khu vực khí bị tù túng, tạo điều kiện phát sinh các loại vi khuẩn yếm khí, về lâu dài không lợi cho gia chủ.
Điểm tĩnh tại giúp duy trì sự cân bằng năng lượng cho ngôi nhà. Ảnh:TL
Ban công có hình thức cac thanh nan sắt uốn lượn hữu tình ôm lấy ban công. Ảnh:TL
Trong thiết kế ban công nên lưu ý không nên chạy theo hình thức mà thiết kế quá cầu kì, tạo nên các hình thù phức tạp gây nên các dòng năng lượng tạp loạn không tốt.
Ngoài việc chú trọng về cân đối kích thước sao cho phù hợp với nhân trắc học cũng nên chú ý thiết kế các hình thức nhất quán về cấu trúc, thẩm mỹ và chất liệu sẽ dễ tạo môi trường tốt phát sinh những dòng năng lượng tích cực.
Trong phong thuỷ, tính hình tượng rất được chú trọng, do đó không nên tạo những hình tượng xấu cho ban công ví dụ như các hình tượng mang tính lộ kết cấu, hay các hình thức các thanh vắt chéo chữ X cũng không lợi về Phong thuỷ, biểu tượng này thường không đem lại may mắn cho gia chủ.
Ban công giúp cân bằng âm dương trong tổng thể căn nhà. Ảnh:TL
Hình thức phức tạp dễ tạo thành các loại năng lượng xấu. Ảnh:TL
Nên tìm các hình thức hoặc là kín đáo, hoặc là dáng ôm vòng, những hình thức này vừa dễ đẹp vừa góp phần giúp lưu giữ những dòng năng lượng tích cực trong căn nhà bạn, tránh dòng năng lượng thất thoát một cách đột ngột.
Khu vực ban công mang yếu tố tĩnh (âm) có thể càng tuyệt vời hơn nếu biến nó thành một khu vườn treo, giúp ta lấy lại cân bằng trong cuộc sống vốn đầy sôi động mang yếu tố dương. Tuy nhiên, việc bố trí trồng cây nên có sự tính toán sao cho hài hoà với cảnh quan và không gian sinh hoạt, không nên trồng thái quá thì lại tạo thành nơi tích tụ nhiều năng lượng âm không tốt.
Một điểm đáng lưu ý khác là nên tạo cho ban công có gờ bao quanh, đấy chính là một yếu tố nhỏ, nhưng nó giúp lưu trữ dòng năng lượng lâu dài, giúp duy trì sự thịnh vượng và sức khoẻ cho căn nhà của bạn.