Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Thú vị giấc mơ về củ cải

Nếu bạn nằm mơ thấy ăn một củ cải trong giấc mơ, điều này ám chỉ cho tính không cẩn thận của bạn, tuy nhiên bạn sẽ vượt qua được những vấn đề ở hiện tại của
Thú vị giấc mơ về củ cải

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

bạn. Giấc mơ cũng báo hiệu cho bạn một viễn cảnh tươi sáng sẽ đến với cuộc sống của bạn. Bất cứ điều gì bạn đang tìm kiếm đều sẽ xuất hiện trước mặt bạn.


► Tham khảo thêm: Giải mã giấc mơ thấy cá, mơ thấy máu

Thấy vườn củ cải trong mơ ám chỉ công việc kinh doanh của bạn rất thuận lợi, thu được những kết quả bất ngờ. Ngoài ra, bạn còn có được nhiều người bạn tốt giúp đỡ mình những lúc khó khăn hoạn nạn.

  Mơ thấy bạn đang ăn củ cải nghĩa là bạn cảm thấy bị tổn thương do sự vô tình của những người thân.

Thu vi giac mo ve cu cai hinh anh
Ảnh minh họa

Mơ thấy bạn đang trồng củ cải là điềm báo những khát vọng của bạn sẽ thực hiện được.

Thấy hoặc ăn củ cải đường trong mơ ám chỉ rằng bạn sẽ giải tỏa được những rắc rối mà bản thân đang phải chịu đựng. Đây còn là biểu tượng cho lòng trắc ẩn, sự giàu sang hay sự lạc quan của bạn.

Nếu bạn nằm mơ thấy củ cải trắng trong một khu vườn, điều này báo hiệu cho sự giàu có và thịnh vượng

Để giấc mơ mà ai đó đưa cho bạn một củ cải, có nghĩa là họ đang mong muốn được kết tình bằng hữu thâm giao với bạn.

Nam giới kết hôn thấy mình ăn củ cải, người vợ sẽ yên ổn chấp nhận tình trạng hiện thời.

Nữ giới kết hôn mơ thấy mình ăn củ cải là điềm báo sinh con gái.

Nam giới chưa kết hôn mơ thấy ăn củ cải, tương lai sẽ cưới một người vợ đanh đá.

Nữ giới chưa kết hôn mơ thấy mình ăn củ cải tức sẽ có một người chồng nghèo khổ.

Mơ thấy mua củ cải dự báo có khách quý tới nhà.

Tổng hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thú vị giấc mơ về củ cải

Mơ thấy nấm: Cần trân trọng hạnh phúc gia đình –

Chiếc nấm thân hình vốn nhỏ bé lại đội cái mũ to tướng, nên rất mong manh, chỉ cần chạm mạnh là đổ ngay, nó tượng trưng cho sự mong manh trong hạnh phúc gia đình, cần trân trọng mới có thể giữ vững dài lâu. Mơ thấy nấm, nghĩa là cuộc sống ngày một t
Mơ thấy nấm: Cần trân trọng hạnh phúc gia đình –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy nấm: Cần trân trọng hạnh phúc gia đình –

Ảnh hưởng của phong thủy nhà đối với cuộc sống của con người –

Những năm gần đây cùng với mức sống kinh tế của xã hội ngày càng được nâng cao, ngày càng có nhiều người bắt đầu mua được nhà ở riêng cho mình, cho nên khi chọn mua và chính trang nhà nếu biết lợi dụng chính xác lý luận "phong thủy" sẽ mang lại điều

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những năm gần đây cùng với mức sống kinh tế của xã hội ngày càng được nâng cao, ngày càng có nhiều người bắt đầu mua được nhà ở riêng cho mình, cho nên khi chọn mua và chính trang nhà nếu biết lợi dụng chính xác lý luận “phong thủy” sẽ mang lại điều lợi mà tránh được điều hại. Đế bảo vệ sức khoẻ bản thân vì thế mà phong thủy đã trở thành một trong những lĩnh vực được mọi người quan tâm.

Trong “Trạch kinh” có viết rằng: “Nhà ở, cái gốc của con người, con người lấy nhà làm gia đình. Nếu nhà ở bình yên thì gia đình mới tốt lành; nếu nhà ở không bình yên thì gia tộc suy vị. “Điều này cũng chính là đạo lý “an cư” rồi mới “lạc nghiệp”.

phongthuy011

Con người vì nhà ở mà lập thân, nhà ở vì con người mà tồn tại, người và nhà ở gắn kết với nhau cùng cảm nhận trời đất. Cho nên khi xây cất và chọn nhà ở nhất định phải có quan điểm biện chứng khoa học, nhận thức bằng tâm, quan sát tỉ mỉ thì mới xây cất và chọn được ngôi nhà thực sự là tàng phong tụ khí, vừa theo ý mình, có tác dụng tốt cho sức khoẻ tinh thần lẫn thể xác.

Trong “Kinh dịch Hệ từ” có nói rằng: “Thời thượng cổ, hang động con người trú ẩn ớ nơi hoang dã, con người hậu thế biết dựng nhà ở vững chắc để che gió, che mưa”. Đây là sự tiến bộ về nhà ở, người nguyên thuỷ vốn ở trong hang động hoặc lều lán nơi hoang dã, gặp khi trời mưa cộng thêm gió rét, biện pháp giải quyết của con người bấy giờ chính là phát minh ra nhà ở để tránh mưa, tránh gió.

Người xưa đã đưa ra nguyên nhân trực tiếp là vì gió và nước (phong và thuỷ) nên con người mới phải dựng nhà ở, mà con người hiện đại thường nói nhà ở là thứ âm nhạc ẩn dọng, là loại ngôn ngữ vô thành, vì vậy bố cục nhà ở phải thế hiện được trí tuệ thích ứng môi trường của con người, nhà ở tốt con người thịnh vượng luôn là nhu cầu văn hoá nhà ở mà hàng ngàn năm nay con người theo đuổi. Nhìn nhận bằng quan điểm biện chứng thì nhà ở nên có đặc điểm tàng phong tụ khí. Nhưng có học giả đã chí ra rằng, giải quyết vấn đề phong thuỷ nhà ở nếu chỉ từ điểm này thôi thì chưa đủ toàn diện, phong thuỷ học nhà ở là một môn tổng hợp kiến thức của những môn học gồm vật lý địa cầu học, địa chất thuỷ văn học, cảnh quan môi trường học, kiến trúc sinh thái học, khí hậu khí tượng học, tinh thể vũ trụ học, phương vị từ hướng học, thông tin học về sinh mệnh cơ thể con người.

Vì vậy, bất luận là xây cất nhà ở riêng hay chung hay xây dựng và quy hoạch đô thị, nếu như có thể chú ý nghiên cứu và vận dụng khoa học phong thuỷ thì sẽ thu được hiệu quả rất lý tưởng, tạo sự thoải mái và thân thiện cho người sống trong những ngôi nhà đó, sống trong môi trường như vậy chắc chắn con người sẽ luôn khoẻ mạnh và hạnh phúc.

Nhà ở có khả năng tàng phong tụ khí tốt phải đạt được 3 điều kiện cơ bản: Một là có vị trí môi trường tốt; hai là bố cục xây dựng tốt; ba là có khí thế. Người xưa cho rằng, khi chọn nhà ở phải chú ý khảo sát thật tỉ mỉ, sáng suốt phán đoán, đặc biệt chú ý các vấn đề về môi trường và vị trí.

Vị trí và môi trường nhà ở rất quan trọng, có được vị trí làm cho người ở cảm thấy yên ổn thoái mái, may mắn tốt lành là vì nhà đó có hướng tốt, đường giao thông thuận tiện, vị trí và môi trường sống tốt, bố cục hợp lý, tầm nhìn thoáng rộng, sáng sủa thông thoáng, tràn đầy sức sống. Một số vị trí dưới đây tốt nhất không nên chọn làm nơi xây cất hay mua nhà ở.

Một là bên cạnh có cầu giao nhau, ờ vị trí này giao thông không thuận tiện,tiếng ồn của xe chạy với tốc độ cao và dòng khí lưu quẫn xoáy sẽ hại đến người trong nhà, tất nhiên cũng sẽ ảnh hưởng xấu đến sự sản sinh ra tài khí phong thuỷ.

Hai là bên cạnh đường lớn giao nhau, vì sức ảnh hưởng sản sinh ra ở vị trí này so với vị trí gần cầu giao nhau là như nhau, hơn nữa ở đây bụi bẩn nhiều, nhà ở vị trí này không lức nào được yên ổn.

Ba là gần tháp điện cao áp và tháp đài truyền hình, ở vị trí này sóng điện từ rất mạnh, nếu con người ta thường xuyên tiếp xúc với loại sóng này thì hệ thần kinh và hệ miễn dịch sẽ bị ảnh hưởng, có khả năng mắc phải nhiều loại bệnh nghiêm trọng. Vì vậy, tốt nhất không xây cất nhà ở những nơi như vậy.

Bốn là ở vị trí đối diện với vách tường bằng kính. Ở vị trí này ảo ảnh phản xạ ra từ vách tường kính sẽ tạo ra một loại cảm giác ức chế đối với con người, thứ hai là khi ánh nắng mặt trời chiếu vào vách kính sẽ gây ô nhiễm ánh sáng, rất bất lợi đối với sức khoẻ con người.

Sáu là ban công hoặc phòng ngủ chính không được chiếu thẳng với trục đường cái, nếu không nhà sẽ bị trục đường xung sát, không có lợi cho sức khỏe.

Bảy là ban công hoặc phòng ngủ đối diện thẳng với chỗ chuyển góc hoặc góc nhọn của kiến trúc khác gần đó, chỗ chuyển góc và góc nhọn kia giống như một cái chêm chọc vào trung tâm nhà, phong thuỷ học gọi đây là tiêm đao sát. Nhà ở vị trí như vậy sẽ làm cho người trong nhà luôn có cảm giác khó chịu, tinh thần suy nhược, tất nhiên là sẽ hại đến sức khoẻ và công tác.

Tám là nhà xây dựng bên cạnh đường sắt. Tốc độ chạy của xe lửa rất nhanh, dòng khí quẫn xoáy sinh ra khi tàu chạy qua là rất mạnh, thêm vào đó là tiếng ồn của còi tàu, chúng sẽ làm cho người trong nhà không thể yên ổn, có hại đến sức khoẻ.

Chín là nhà ở vị trí mà những kiến trúc khác xung quanh đều rất cao, nhà của mình thấp nhỏ, tầm nhìn bị che khuất tạo nên cảm giác gò bó khó chịu, nếu tình hình này cứ phát triển tiếp sẽ ảnh hưởng rất nghiêm trọng.

Mười là từ ban công và cứa số nhà không được nhìn thấy những sự vật không may mắn như bãi tha ma, bia mộ, hoặc đối diện với ống khói nhà máy, nếu khồng sẽ ảnh hưởng không tốt dến tâm lý người trong nhà, thậm chí làm cho một số người thường xuyên gặp ác mộng, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ.

Mười một là nhà ở không được quá gần với núi có kết cấu đất đá lỏng lẻo, nếu không gặp khi trời mưa to rất dễ xảy ra hậu quả nghiêm trọng.

Phong thuỷ học nhấn mạnh rằng muốn chọn được vị trí nhà ở tốt cần phải dựa theo 4 nguyên tắc lớn đó là hiểu biết tự nhiên, lợi dụng tự nhiên, cải tạo tự nhiên, thuận ứng tự nhiên. Tuyệt đối không được qua loa đại khái, phải xem xét kỹ môi trường tự nhiên xung quanh và có sự tính toán thật kỹ lưỡng.

Quan hệ giữa mồi trường nơi ở với sức khoẻ tinh thần là ý tưởng căn bản của thuật phong thuỷ hiện đại. Xây dựng hoàn thiện đời sống tự nhiên và đời sống nhân văn của con người, nâng cao phấm cách cuộc sống và chất lượng cuộc sông con người là mục đích căn bản mà phong thuỷ hiện đại muốn đạt được. Đúng như chủ trương của học gia kiến trúc nổi tiếng Bối Duật Minh là lấy thái độ lý tính khoa học để giải thích, phê phán và phát huy tư tưởng phong thuỷ truyền thống, chứ không lấy nhân quang “mệnh lý” để đối xử với nó, có vậy mới là một thái độ đúng đắn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ảnh hưởng của phong thủy nhà đối với cuộc sống của con người –

Treo gương bát quái sai cách rước họa vào nhà

Là một vật phẩm có tác dụng khắc phục, bảo vệ, hóa giải các lỗi phong thủy nhà ở rất công hiệu, nhưng nếu dùng gương bát quái sai cách thì chủ nhà sẽ phải lãnh
Treo gương bát quái sai cách rước họa vào nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

hậu quả không ngờ.


Treo guong bat quai sai cach ruoc hoa vao nha hinh anh
 

Treo trong nhà là cách dùng gương bát quái rất sai lầm. Bởi đây là vật có tác dụng phản sát, khuếch tán năng lượng xấu chứ không phải đồ nội thất hay tăng cường phong thủy. Những trường hợp treo gương trong nhà đều phải có ý kiến của thầy phong thủy.

Sai lầm trong cách dùng gương bát quái tiếp theo là treo quá nhiều gương trong nhà, khiến phản tác dụng. Nhà chỉ nên treo hai chiếc gương, một ở mặt trước, một ở mặt sau là đủ. Không phải càng treo nhiều càng tốt.

Gương bát quái có khắc hình thần tướng cưỡi hổ với tay cầm binh khí hay hổ phù ngậm binh khí tạo ra sát khí mạnh. Nếu treo gương này thì hung khí ở khắp nơi cũng kéo đến nhà với sức mạnh áp đảo khiến gương không chống chọi được. Có thể khẳng định, đây là một trong những cách dùng gương bát quái sai lầm nhất, nhiều người mắc phải bởi cho rằng gương bát quái có thần hổ phụ trợ thì càng thêm mạnh.

Bên cạnh đó, có những cách dùng gương bát quái sai tuy không ảnh hưởng tới gia đình mình nhưng có hại cho nhà đối diện như treo gương bát quái khi không cần thiết, treo gương bát quái lồi, treo gương bát quái có hình mũi tên bắn thẳng, hình nòng pháo ở trước cửa,... Như vậy thì bao nhiêu sát khí mà gương phản lại đều chạy thẳng vào nhà đối diện, rất không nên.

Gương bát quái là vật phẩm phong thủy mạnh, không phải cứ mua về treo lên là được, cần có lễ đàng hoàng để phát huy khả năng của nó. Gương mua về nên được bọc kín trong vải đỏ, đặt lên ban thờ, người có chuyên môn sẽ đọc trì chú để khai quang rồi mới tiến hành treo. 

ST


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Treo gương bát quái sai cách rước họa vào nhà

Lời chúc sinh nhật độc đáo và ngộ nghĩnh dành cho bạn thân

Lời chúc sinh nhật độc đáo và ngộ nghĩnh dành cho bạn thân. Bạn thân được ví như một kho tàng, hãy gửi những lời chúc độc đáo và ngộ nghĩnh dành cho họ
Lời chúc sinh nhật độc đáo và ngộ nghĩnh dành cho bạn thân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lời chúc sinh nhật độc đáo và ngộ nghĩnh dành cho bạn thân. Bạn thân được ví như một kho tàng, may mắn thay nếu chúng ta có những người bạn thân để chia sẻ những buồn vui trong cuộc sống.

Trong những dịp đặc biệt như sinh nhật của bạn ấy, bạn hãy gửi những lời chúc tốt đẹp và thú vị nhất đến họ bằng cách tham khảo những lời chúc sau đây để tự mình viết ra những lời chúc chân tình của riêng mình.

Lời chúc sinh nhật độc đáo và ngộ nghĩnh dành cho bạn thân

Tiệc sinh nhật có lợi cho sức khoẻ con người lắm nhe. Nghiên cứu cho thấy ai càng nhiều tiệc sinh nhật thì sống càng lâu!

———-

Chúc ấy tuổi mới ngày càng đẹp trai hơn, tiền luôn đầy túi, bụng ngày càng nhiều múi và người yêu chất cao hơn núi.

———-

Hôm nay không như ngày hôm qua, hôm nay là một ngày đặc biệt, là ngày mà một thiên thần đáng yêu đã có mặt trên thế giới cách đây… năm. Luôn mỉm cười và may mắn nhé.

Chúc cậu có một ngày sinh nhật vui vẻ, tươi vui, yêu đời và đừng có bay tận lên giời vì nhớ tớ nha ( Nửa đùa nửa thật ).

A birthday is just the first day of another 365-day journey around the sun. Enjoy the trip. ~ Sinh nhật chỉ là ngày đầu tiên trong 365 ngày vòng quanh mặt trời. Hãy tận hưởng những ngày còn lại bạn nhé.

Chúc bạn luôn luôn “vui vẻ, tươitrẻ, mạnh khoẻ, tính tình mát mẻ, cuộc đời suôn sẻ” và luôn luôn “tươi cười, yêu đời, ngời ngời sứcsống”

Chúc mừng sinh nhật/No cơm ấm cật/Giậm giật cả năm/Lúc nào cũng măm/Mà ko biết chán…..

Tuổi mới ăn no chóng lớn, tiền bạc đầy nhà, gà đầy chuồng nhé bạn.

Chúc ấy luôn ấm áp, cả bên trong lẫn bên ngoài.

Mọi điều tốt lành nha đại ca. I and my wife wish you a very happy birthday. Always remember to build yourself a wonderful family with fantastic and romantic woman, full of children, but not with my wife.

Cậu này, sinh nhật cậu mà tớ không biết gửi lời chúc đến cậu thế nào cho hay cả. Tớ chỉ mong tình bạn của chúng mình mãi mãi bền lâu. Sinh nhật thật vui cậu nhé, tớ luôn bên cậu!^^

Hôm nay sinh nhật bạn.
Tớ chẳng có quà đâu.
Chỉ có tấm thiệp màu.
Làm quà thay lời chúc.
Chúc cho bạn hạnh phúc.
Thêm tuổi mới bình yên.
Và có thật nhiều tiền.
Cùng thành công rực rỡ.

Chúc mọi điều ước trong ngày sinh nhật của bạn đều trở thành hiện thực.

Nào, hãy thổi nến trên bánh sinh nhật để ước mơ được nhiệm màu!
Chúc bạn: sinh nhật vui vẻ và tràn ngập tiếng cười, luôn luôn yêu đời và ngời sức sống.

Với cái tuổi thật đẹp này, xin chúc bạn có một sức khỏe tươi mới, thành công luôn luôn tới, về sắc diện thì ai nhìn cũng phải chới với, hihi. Happy Birthday !

Nhân ngày sinh nhật, anh chúc em nhan sắc “quyết liệt” thăng hoa, tiền tài ào ào thăng tiến và tình yêu “tưng bừng” bùng nổ.

Hôm nay là một ngày thật đặc biệt, không chỉ đối với em là còn là với cả thế giới – Ngày kỉ niệm sự ra đời của một ngôi sao vui vẻ và đáng yêu nhất cơ mà!

Hãy để những lời chúc sâu lắng của tôi luôn ở bên cạnh cuộc sống tuyệt vời của bạn. Tôi hy vọng thêm tuổi mới bạn luôn khỏe mạnh và thuận buồm xuôi gió trong công việc. Sinh nhật vui vẻ!

Chúc mọi điều ước trong ngày sinh nhật của bạn đều trở thành hiện thực, hãy thổi nến trên bánh sinh nhật để ước mơ được nhiệm màu.

I hope all your birthday dreams and wishes come true. ~ Chúc tất cả các ước nguyện của em trong ngày sinh nhật đều trở thành hiện thực.

Not just a year older, but a year better. ~ Thêm một tuổi là thêm sự tốt đẹp.

Here’s to another year of experience. ~ Đây là thêm một năm trưởng thành hơn.

Birthdays are a new start; fresh beginnings, a time to start new endeavors with new goals. Move forward with fresh confidence and courage. You are a special person, may you have an amazing today and year.

Forget the past, look forward to the future for the best things are yet to come.

Hope you love your new age. It loves you because it looks good on you.

I’ve been that age. I’ve done that age. It is fun. Enjoy!

Don’t count the years. Count the wishes and all the cheers.

Take care always and keep on rocking. Bday!

Hôm nay là một ngày rất đặc biệt, ngày này vài chục năm trước có một bé gái cất “tiếng khóc” chào đời ^^, và bây giờ đã là một cô gái ” xinh đẹp”, là một người bạn thân thương, tốt bụng và rất nhiệt tình của tớ. Chúc cậu luôn “hiền”, trẻ nè, đẹp nè, mạnh khoẻ, thành đạt và nụ cười luôn nở trên môi nhé! Happy Birthday ^^

Chúc cậu có những phút giây thật tuyệt vời bên bạn bè và người thân trong ngày quan trọng này. Hi vọng cậu luôn thành công và hạnh phúc trong cuộc sống. Happy Birthday ^^

Chúc cậu sinh nhật thiệt là vui vẻ, hay ăn chóng lớn và thiệt là nhìu quà! Happy Birthday!!! ^^

Lời chúc độc đáo dành cho đôi bạn “quá thân”

Sinh nhật ấm áp, ăn nhiều mập mạp nhưng đừng kêu quặc quặc. Như vậy rất không hay (Dành cho những bạn hay nói quá nhiều ).

Chúc mừng sinh nhật mày nhé. Cho nợ quà, sang năm trả nhé. Yêu mày lắm lắm

Quà sinh nhật nào ko dùng cho tao nhá:X..iu mày lắm lắm

Chúc sang tuổi mới càng thêm xinh xắn, tươi tắn và trông càng … mắn

Một ngày bình yên, êm ấm bên người mà mình yêu. Nhưng nhớ đừng làm gì đi quá giới hạn “nhạy cảm” nhé bạn.

Chúc mày tuổi mới ngày càng đẹp trai hơn, tiền luôn đầy túi, bụng ngày càng nhiều múi và người yêu chất cao hơn núi.

Chắc hẳn bạn đã tìm được một lời chúc hay để dành tặng cho những người thân yêu nhất rồi phải không. ## mách bạn cách để có những câu chúc mừng sinh nhật hài hước như sau:

– Bạn là một người hài hước thì chỉ cần chắt lọc ra và chọn ra đoạn hay nhất, thay bằng những lời chúc làm cho người nhận cảm thấy vui vẻ nhất.

– Không nhất thiết phải copy ở trên, hãy sáng tạo theo ý mình.

Chúc cho bạn và bạn bè của mình có những giây phút vui vẻ cùng nhau! Chúc các bạn hạnh phúc


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lời chúc sinh nhật độc đáo và ngộ nghĩnh dành cho bạn thân

Chiếc cằm nói gì về tính cách, tương lai của bạn?

Người cằm nhọn rất cá tính, thu hút nhưng thất thường và khó đoán; người cằm gãy thường yếu đuối, hay mau nước mắt...
Chiếc cằm nói gì về tính cách, tương lai của bạn?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Hàm

- Hàm rộng: Người sở hữu chiếc hàm rộng thường rất quyết đoán, hơi kiêu ngạo nhưng thẳng thắn và đáng tin. Họ có may mắn trở thành những người quyền lực trong tương lai. Ngoài ra, họ cũng rất cứng đầu, luôn tin tưởng vào những điều đã chọn, rất khó bị ảnh hưởng bởi những ý kiến, tác động từ xung quanh.

- Hàm ngắn: Thường là những người có tính tình trầm lắng, nhút nhát và không thích thể hiện bản thân. Họ không thích “vác tù và hàng tổng” mà chỉ muốn làm theo những gì được chỉ đạo, giữ cho bản thân tâm hồn nhẹ nhàng và thảnh thơi.

2. Cằm

- Cằm tròn: Những người này thường rất tò mò, ham học hỏi. Một khi đã thắc mắc vì điều gì, họ quyết tâm tìm hiểu cho ra mới thôi. Họ yêu thích những bằng chứng, câu trả lời xác đáng chứ không mấy tin tưởng vào những điều thuộc về tâm linh, cảm giác.

1-9026-1410409929.jpg

- Cằm vuông: Người cằm vuông tính tình thẳng thắn, có gì nói nấy, không toan tính và rất được mọi người yêu quý. Trong cuộc sống họ gặp nhiều may mắn, đặc biệt là về vấn đề tiền bạc.

- Cằm nhọn: Là người cực kỳ cá tính, thu hút, nhưng cũng thất thường và khó đoán. Họ rất độc lập và quyết tâm, luôn khao khát mạnh mẽ và theo đuổi tới cùng những gì mình đã chọn. 

- Cằm nhỏ, hẹp: Những người này thường rất kín đáo, sống ích kỷ và sở hữu “cái tôi” cực kỳ cao.

- Cằm rộng: Là người vui vẻ, dễ tính, dễ gần, rất đáng yêu và thường được nhiều người yêu quý. Họ cũng gặp nhiều thành công trong cuộc sống, nhưng không phải nhờ bản thân mà nhờ may mắn và sự trợ giúp của mọi người.

- Cằm ngắn: Những người sở hữu chiếc cằm ngắn rất thông minh, có đầu óc và năng khiếu kinh doanh. Họ gặp nhiều may mắn và thành công lớn khi tham gia vào các hoạt động thương mại, đầu tư buôn bán… ngay cả khi tuổi đời còn rất trẻ.

- Cằm dài: Những người này cũng sở hữu “cái tôi” rất cao, hay tự ái, hay dỗi hờn và rất khó chiều.

- Má lúm đồng tiền: Họ có tính tình dễ thương vui vẻ, hay mơ mộng, sống không thực tế, rất đáng yêu và luôn chăm chỉ trong mọi việc.

- Cằm gẫy: Thường có tính cách yếu đuối, nhạy cảm, dễ bị tổn thương, mau nước mắt.

Fon Fon (theo Zodiac)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiếc cằm nói gì về tính cách, tương lai của bạn?

Vũ khí phong thủy hóa sát mạnh nhất

Vật phẩm phong thủy hóa sát bao gồm tiền đồng, tượng gà vàng bằng đồng, hồ lô gỗ...
Vũ khí phong thủy hóa sát mạnh nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Với kích thước khá nhỏ bé, nhưng những vật phẩm phong thủy này chính là “vũ khí bí mật” giúp hóa giải sát khí, đuổi dữ đón lành.


Dưới đây là những bảo bối phong thủy mà bạn có thể mang theo mình hoặc trưng bày trong ngôi nhà, văn phòng làm việc để mang tới hiệu quả giải trừ sát khí tốt nhất, giúp bạn thêm khỏe mạnh, công thành danh toại, hôn nhân như ý.

1. Tiền đồng

Vu khi phong thuy hoa sat manh nhat hinh anh
Tiền đồng

Trong phong thủy, tiền đồng có thuộc tính Kim. Tiền đồng dùng trong phong thủy phải là tiền Càn Long, nhưng cũng không cần phải là tiền cổ thật, có thể dùng tiền mô phỏng tiền Càn Long. Tiền đồng bây giờ dùng đồng mới để mô phỏng lại, thuộc tính Kim còn cao hơn.

Vu khi phong thuy hoa sat manh nhat hinh anh 2
Tiền đồng Xuất nhập bình an

Ngoài ra, nên sử dụng tiền đồng Xuất nhập bình an để tránh tai ương, hóa giải điều xui xẻo mang tới những gì tốt đẹp, thuận lợi cho bản thân. Có thể đặt ở trên cửa chính, dùng để ứng phó với các cấm kị phong thủy như mở cửa nhìn thấy cầu thang hoặc thang máy. Hay đặt bên trái cửa chính, dùng dây màu vàng treo lên, có thể tránh mâu thuẫn giữa phụ  nữ trong nhà, như chuyện mẹ chồng nàng dâu. Hoặc có thể đặt 2 đồng tiền dưới gối để giữ gìn tình cảm vợ chồng.

2. Gà vàng bằng đồng hoặc sư tử đồng

Tượng gà đồng chủ yếu dùng để xử lí những rắc rối liên quan đến vận đào hoa như dùng để tránh người phụ nữ xấu xa hoặc người mà bạn ghét hoặc thường xuyên quấy rối. Nên đặt tượng gà bằng đồng ở chỗ cửa chính bị đối xung. Trong trường hợp nghi ngờ người bạn đời của mình có người khác, có thể đặt trong tủ quần áo của người đó. Phải dùng một đôi đặt ở góc phải và trái, chỗ góc khuất.

Vu khi phong thuy hoa sat manh nhat hinh anh 3
Sư tử đồng

Sư tử đồng chủ yếu dùng để hóa sát ngăn tai, thường đặt ở nơi hướng về cửa để hóa giải tất cả những lỗi phong thủy không có lợi như mở cửa nhìn thấy đèn, cột điện hoặc bị xung với đường.

3. Long quy

Long quy vừa có thể hóa giải tai họa lại mang đến sự may mắn. Cách dùng của long quy khá phức tạp, cần phải đặt ở vị trí Tam Sát hoặc nơi có thủy khí nặng.

Vu khi phong thuy hoa sat manh nhat hinh anh 2
Long quy

Tam sát:

Dần, Ngọ, Tuất : Sát Bắc.
Thân, Tý, Thìn : Sát Nam
Hợi, Mẹo, Mùi : Sát Tây
Tỵ, Dậu, Sửu : Sát Đông.

Ví dụ: Năm nay là năm Ất Mùi, theo câu quyết: Hợi, Mão, Mùi: Sát Tây. Có nghĩa là nếu nhà bạn ở hướng Tây là phạm phải Tam sát trong năm nay.

4. Chuông gió

Có hai cách sử dụng chuông gió thường thấy. Thứ nhất là dùng chuông gió để hóa giải vấn đề cửa đối diện với đường. Trường hợp này nên treo chuông gió ở góc trên bên trái của cửa, có thể tránh sát khí.

Vu khi phong thuy hoa sat manh nhat2
Chuông gió

Thứ hai, dùng chuông gió để xử lí vấn đề cửa sổ của nhà mình đối diện với cửa sổ nhà khác, mà nhà bên kia có nhiều người hơn. Có thể treo chuông gió ở cửa sổ nhà mình, để tiền tài của nhà không bị ảnh hưởng.

5. Hồ lô gỗ

Vu khi phong thuy hoa sat manh nhat hinh anh 5
Hồ lô gỗ

Theo quan điểm phong thủy, hồ lô gỗ có 3 tác dụng chính là trị bệnh, kéo dài tuổi thọ, tăng sức sống, có thể khiến con người khỏe mạnh và tinh thần vui vẻ. Nếu trong nhà có người mắc bệnh, bạn có thể treo 3 chiếc hồ lô gỗ, bệnh tình người đó sẽ sớm thuyên giảm. Đây cũng chính là một trong những vật phẩm phong thủy hóa sát rất tốt.

Theo Khám phá

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vũ khí phong thủy hóa sát mạnh nhất

Tính cách diện mạo thông qua Tứ trụ (Tài liệu Tam Mệnh Thông Hội)

- Hán văn: Phú quí bần tiện hồ quan bát tự, tính tình ứng hồ ngũ hành. Thiện ác, nhân nghĩa lễ trí tín, tâm chi sở chủ; hỷ nộ ai lạc ái ố dục, tính chi sở dục.
Tính cách diện mạo thông qua Tứ trụ (Tài liệu Tam Mệnh Thông Hội)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo



Bình giải:
Muốn biết đời người giàu nghèo, sang hèn, thì ta quan sát phân tích nơi bát tự (hay tứ trụ) từ việc phân tích ngũ hành cường nhược ta có thể hiểu được tính tình của con người.
Thiện ác, nhân nghĩa lễ trí tín là biểu lộ tính cách từ trong tâm ra bên ngoài. Hỷ nộ ai lạc ố dục là những biểu hiện tình cảm từ nơi tính cách ra ngoài.
Vậy thông qua bát tự, và thông tin của ngũ hành ta có thể nhận định được tâm tình, tính cách của con người cụ thể hơn.

_Hán văn: đông phương Chấn mộc, hiệu Thanh Long, danh bạch khúc trực, ngũ thường chủ nhân. Kỳ sắc thanh, kỳ vị toan, kỳ tính trực, kỳ tình hòa.
Vượng tướng chủ bác ái chi tâm, từ tường khải để chi ý; tế vật lợi chi nhân, tuất vô niệm quả, trực bổ thanh cao, hành tàng khảng khái, phong tư tú lệ, cốt cách tu trường, thủ túc khiên nhị, khẩu tiêm phát mỹ, diện sắc thanh bạch, ngữ cú hiên ngang, thử tắc mộc thịnh đa nhân chi nghĩa.
Hưu tù chủ sấu thường phát thiểu, ao nựu tính thiên tâm, tật đố bất nhân, thử tắc mộc suy tình quả chi nghĩa dã. Tử tuyệt tắc mi nhãn bất chính, kiên lận bỉ sắc, cơ nhục hạn táo, hạng trường hầu kết, hành toạ bất ổn, thân đa y trắc. Ngộ hỏa sắc đới xích, kiến thổ tắc sắc đới hoàng, phùng kim tắc sắc đới bạch, kiến thủy tắc sắc đới hắc. Kỳ dư tứ hành lệ kiến.

Bình gải:
_Phương đông thuộc quẻ Chấn hành mộc, trong nhị thập bát tú hiệu là Thanh Long, vì tính chất của hành mộc là duỗi thẳng nên có tên gọi khác là Khúc Trực.

Trong tam can ngũ thường, hành mộc chủ về tính cách nhân ái, nơi màu sắc thể hiện là màu xanh, nơi khẩu vị thường là vị chua, tương ứng tâm tính con người thì hành mộc được tượng trưng cho tính ngay thẳng, tương ứng với tình cảm con người hành mộc chủ sự ôn hòa.

Nhưng khi quan sát bát tự (tứ trụ) ta cần phân tích cường độ vượng suy của hành mộc, và xác định hành mộc là dụng thần hay là kị thần trong lá số bát tự (tứ trụ)
Nếu hành mộc là dụng thần hữu tình, hữu lực trong bát tự: tâm tính thường thể hiện nhân từ bác ái, ý tứ rộng thoáng, tâm tính rộng lượng, thường làm lợi ích cho người, trong lòng không khởi sự đa nghi, không tiểu tâm để bụng. Nói chung tính khí ngay thẳng thanh cao. Diện mạo cốt cách thanh tú, ngay thẳng, thân tướng khá cao, tay chân cân xứng khá dài, môi miệng có duyên khá đẹp, sắc mặt thường trắng có pha sắc xanh, làn da thường trắng nhuận và mịn, âm thanh ngôn ngữ thanh trong ngân vang.

Những thông tin tính cách, diện mạo ưu điểm nêu trên do hành mộc là dụng thần hữu lực trong bát tự, hoặc có thể lưu ý thêm khi hành mộc là dụng thần gia thêm thần sát là cát hóa.

Nếu hành mộc trong là số tử bình suy nhược, hưu tù thì những thông tin tính cách hoàn toàn ngược lại, dáng người không cao lớn, có thể là ốm gầy nhỏ con, lông tóc thưa thớt không mịn. Tâm tính lệch lạc không ngay thẳng khó hòa hợp với cộng đồng, tập thể, lòng dạ thường đố kị nhỏ nhen, thù dai.

Nếu hành mộc trong lá số tử bình tử mộ hoặc tuyệt: ánh mắt không ngay thẳng trực diện, chân mày thô và lệch lạc không cân xứng, lưng khom, cong gù và làn da khô rộp không tươi nhuận, cổ dài lêu khêu không tương xứng với thân thể, đứng ngồi không yên, cử chỉ thường dao động không ngớt.

Cũng trong tình trạng hành mộc tử mộ tuyệt này nếu đi kèm theo hành hỏa nơi làn da hiện lên màu đỏ không nhuận, nếu cùng với hành thổ nơi làn da thể hiện màu vàng éo úa, nếu gặp phải hành kim làn da hiện lên bạch tạng, nếu đi cùng với thủy là da hiện lên là xanh có vài chổ xạm nám như đen.
Các hành khác còn lại cứ như thế mà suy ra, ta sẻ dể nhận dạng được tính cách diện mạo trong cơ cấu nguyên lý vận mệnh.

_Hán văn: hỏa thuộc nam phương, hiệu Châu Tước, danh viết viêm thượng, ngũ thường chủ lễ. Kỳ sắc xích, kỳ vị khổ, kỳ tính cấp, kỳ tình khiêm.
Vượng tướng chủ hữu từ nhượng đoan cẩn chi phong, cung kính khiêm nhường chi nghĩa; uy nghi lẫm liệt, thuần phát tôn sùng; diện mạo thượng tiêm hạ khoát, hình thể đầu tiểu cước trường, ấn đường trách nhi mi nồng, tỵ chuẩn lộ nhi nhĩ tiểu, tinh thần khiểm thước, ngữ ngôn cấp tốc, tính táo vô độc, thông minh hữu vi.
Thái quá tắc thanh tiêu diện xích, dao tất hảo động. Bất cập tắc hoàng sấu tiêm lăng, quỷ trá đố độc, ngôn ngữ vọng đản, hữu thủy vô chung.

Bình giải:

_Hành hỏa phương nam quẻ Ly, trong nhị thập bát tú hiệu là Châu Tước, tính chất của hành hỏa là đốt cháy và bốc hơi nên có tên gọi khác là Viêm thượng.
Trong tam can ngũ thường, tính cách hành hỏa chủ lễ nghĩa, nơi màu sắc thể hiện là màu đỏ, nơi khẩu vị thường là vị đắng, tương ứng với tính cách con người thì hành hỏa chủ sự hoạt bát nhanh lẹ, tương ứng tình cảm con người hành hoả chủ cung kính khiêm tốn.

Nhưng khi quan sát cụ thể trong bát tự, ta cần phân tích cường độ suy nhược của hành hỏa, và xác định rỏ ràng hành hỏa là dụng thần hữu lực hay vô lực, hoặc hành hành hỏa là kị thần trong lá số bát tự.

Nếu hành hỏa là dụng thần hữu tình, hữu lực trong lá số bát tự: là mẫu người có phong độ khiêm nhường, cẩn trọng trong hành sự, biết đạo nghĩa kính trên nhường dưới. Vì vậy thân tướng thường thể hiện sự uy nghi khác thường, chất phát không kiêu. Gương mặt phần đầu hơi nhỏ, cằm và mang tai hơi rộng, phần đầu tuy hơi nhỏ nhưng bước chân nhanh lẹ khá dài. Vì là hành hỏa nên chân mày khá rậm làm cho ấn đường hơi bị hẹp, tỵ lương (sống mũi) không dày, chuẩn đầu (đầu mũi) hình thành viên bi tròn gọn hơi nhỏ, nhưng đặc điểm lộ khổng (mũi hếch). Tinh thần hơi phảng phất không ổn trọng, lời nói nhanh lẹ và nóng tính, nhưng lòng dạ không độc hại người khác, vì đây là điển hình cho mẫu người thông minh trong suy nghĩ và hành động.

Nếu hành hỏa đạt độ cực vượng hóa thành kị thần trong lá số bát tự: phần nhiều âm thanh lời nói bị hụt hơi, âm lực tuy to lớn nhưng bị khàn rè kèm theo chát tai, không đủ lực để nói câu từ khá dài, tính khí rất dể phát cáu, nóng nảy. Sắt diện đỏ huyết, thần khí không tươi nhuận nơi làn da. Tác phong thường dao động, đứng ngồi không yên.

Nhưng nếu hành hỏa trong lá số bát tự quá suy nhược không đủ lực để làm dụng thần: sắt mặt vàng vọt, miệng cười nói không có duyên, chuyện không đáng cười lại cười, chuyện không đáng nói lại nói, trong lúc nói lại cười rổn rang hổn loạn. Từ đó hình thành lời nói không có độ trung thực, gây nên vọng ngữ điêu ngoa, thị phi, tâm tính gian lận tận trong đáy tâm hồn.

_Hán văn: thổ thuộc trung ương, danh viết giá sắc, ngũ thường chủ tín, kỳ sắc hoàng, kỳ vị cam, kỳ tính trọng, kỳ tình hậu.
Vượng tướng chủ ngôn hành tương cố, trung hiếu chí thành, hiếu kính thần phật, bất sản khí tín; bối viên yêu khoát, tỵ đại khẩu phương, my thanh mục tú, diện phì sắc hoàng; độ lượng khoan hậu, xử sự hữu phương.
Thái quá tắc chấp nhất cổ phát, ngu chuyết bất minh. Bất cập tắc nha sắc ưu trệ, diện thiên tỵ đê, thanh âm trọng trọc, sự lý bất thông, ngận độc quai lệ, bất đắc chúng tình, điên đảo thất tín, kiên sắc vọng vi.

Bình giải:

_Hành thổ thuộc trung cung Hà Đồ, tính chất hành thổ thường là bền chặt nên có tên gọi khác là Giá sắc.
Trong tam can ngũ thường, tính cách hành thổ chủ uy tín, nơi màu sắc hành thổ thể hiện vàng, nơi khẩu vị hành thổ chủ vị ngọt, tương ứng với tính tình con người hành thổ chủ nhân hậu, cần kiệm và cẩn thận.

Nếu hành thổ là dụng thần hữu tình, hữu lực trong lá số bát tự: là mẫu người trung thực, lời nói việc làm nhất quán trước sau như một, biết đạo nghĩa trung hiếu trong đời, luôn giữ chữ tín, tấm lòng biết tín ngưỡng phật trời.
Nơi tướng pháp thể hiện: lưng đầy vai rộng, sống mũi (tỵ lương) dầy và to, cử động miệng khi nói chuyện có hình vuông, chân mày thanh gọn, thần mắt sáng diệu, gương mặt đầy đặn sắc vàng tươi sáng, phong cách con người luôn khoan dung độ lượng, nếp sống và cư xử với mọi người xung quanh có chừng mực, giữ gìn ý tứ.

Nếu hành thổ cường vượng thái quá thành kị thần trong lá số bát tự: là mẫu người có cá tính cố chấp, tư tưởng kì lạ cổ quái khó hòa hợp với mọi người, tâm tính ngu tối không minh mẫn.

Nếu hành thổ suy nhược không đủ lực để là dụng thần trong lá số bát tự: răng vàng thô kệch rất xấu. Gương mặt không cân đối, tam đình nghiên lệch, sống mũi (tỵ lương) lệch không ngay. Âm ngữ khi nói chuyện thường là thô trọc, không được thanh thoát.
Cách cư xử không thông tình đạt lý, không được lòng người, tâm địa dối trá độc ác, thường điên đảo thị phi không giữ gìn uy tín, làm việc không cẩn trọng thường hay hồ đồ.

_Hán văn: kim thuộc tây phương, hiệu Bạch Hổ, danh viết tòng cách, ngũ thường chủ nghĩa. Kỳ sắc bạch, kỳ vị tân, kỳ tính cương, kỳ tình liệt.
Vượng tướng tắc anh dũng hào kiệt, trượng nghĩa sơ tài, tri liêm sỉ, thức tu ác, cốt nhục tương ứng, thể kiện thần thanh, diện phương bạch tịnh, my cao nhãn thâm, tỵ trực nhĩ hồng, thanh âm thanh lượng, cương nghị quả quyết.
Thái quá tắc hiếu dũng vô mưu, tham dục bất nhân. Bất cập tắc khan lận tham khốc, sự đa tọa vong. Hữu tam tư, thiểu quyết đoán, khắc bạc nội độc, hỷ dâm hiếu sát, thân tà sấu tiểu.

Bình giải:

_Hành kim phương tây quẻ Đoài, trong nhị thập bát tú hiệu là Bạch Hổ, tính chất của hành kim là cứng cáp và liên kết nên có tên gọi khác là Tòng cách.
Trong tam can ngũ thường tính cách của hành kim chủ nghĩa khí, nơi màu sắc thể hiện là màu trắng, nơi khẩu vị là vị cay, tương ứng với tính cách con người thì hành kim chủ quyết đoán mạnh mẽ, cương nghị, tương tứng vời tính tình con người thì hành kim chủ tình cảm mãnh liệt.

Nếu hành kim là dụng thần hữu tình, hữu lực trong lá số bát tự: mẫu người thường thể hiện anh dũng hào kiệt, trong quan hệ xã hội thường xem nặng nghĩa khí không đặt vấn đề tài vật lên hàng đầu, ý thức được tính khí liêm sỉ không phạm điều ác hay việc ác.
Nơi tướng pháp thường thể hiện các đặc điểm: tạng người cân đối (xương thịt cân xứng) cường tráng, thần khí thanh tao. Gương mặt vuông trắng, làn da sáng nhuận. Chân mày cao, nơi xương chân mày gò lên cao và mắt hơi thục thấp xuống, nhưng tia nhìn của mắt sáng và xa viễn. Sống mũi (tỵ lương) thẳng như thước thợ, tai hồng nhận. Âm ngữ khi nói thường là thanh trong có chất giọng ngân vang. Tính cách mạnh mẽ, trong suy nghĩ và hành động rỏ ràng dứt khoát không do dự bất nhất.

Nếu hành kim cường vượng thái quá thành kị thần trong bát tự: mẫu người biểu hiện cậy sức làm việc không biết vận dụng tư duy suy nghĩ trong việc làm, rất dể làm việc một cách nông nổi thiếu suy nghĩ. Trong đời sống xã hội thường vì lợi ích vật chất cho bản thân, từ đó hay lấn lướt kẻ khác trở thành bất nhân bất nghĩa.

Nếu hành kim suy nhược thái quá không đủ lực làm dụng thần trong bát tự: mẫu người thường biểu hiện vì lòng tham cho bản thân sẳng lòng bất nhân bất nghĩa với kẻ khác. Trong hành sự, không biết cân nhắc nặng nhẹ, trước siêng sau nhác lười, tham việc nhưng không thành tựu.
Trong tâm tư thường suy nghĩ rối loạn và không thực tế, năng lực thiếu quyết đoán rỏ ràng. Trong lòng chứa nhiều cay độc, đối xử với người ngoài thường là lạnh lùng không tình cảm. Bản thân thường lấy sự hưởng thụ xác thịt làm sở thích, sẳng tâm hiếu chiến với những kẻ nào gây trở ngại đời sống hưỡng thụ xác thịt. Tướng người hành kim trong trường hợp này thường là gầy và nhỏ con.

_Hán văn: thủy thuộc bắc phương, hiệu Huyền Vũ, danh viết nhuận hạ, ngũ thường chủ trí. Kỳ sắc hắc, kỳ vị hàm kỳ tính thông minh, kỳ tình lương thiện.
Vượng tướng tắc cơ quan thâm viễn, túc trí đa mưu, học thức quá nhân, quỷ trá vô cực; diện hắc quang thái, ngữ ngôn thanh hòa.
Thái quá tắc thị phi hiếu động, phiêu đãng tham dâm. Bất cập tắc nhân vật ải tiểu, hành sự phản phúc, tính tình bất thường, đảm tiểu vô lượng.
Thử tuy ngũ hành chi dụ, thực dữ nhân sự tương can.

Bình giải:

Hành thủy thuộc phương bắc quẻ Khảm, trong nhị thập bát tú hiệu là Huyền Vũ, tính chất của hành thủy là thể lỏng, chảy và thẩm thấu xuống nơi thấp vì vậy có tên gọi khác là Nhuận Hạ.
Trong tam can ngũ thường tính cách của hành thủy chủ về cơ trí, nơi màu sắc thể hiện là màu đen, nơi khẩu vị thường là vị mặn, tương ứng với tính cách con người thì hành thủy chủ sự thông minh, tương ứng với tình cảm con người thì hành thủy chủ lương thiện.

Nếu hành thủy là dụng thần hữu tình, hữu lực trong lá số bát tự: thường là mẫu người biết nhìn xa trông rộng, trí lực đầy đủ, trong hành sự biết vận dụng chiến lược kế sách. Trình độ học hỏi và nhận thức hơn người, cơ trí tuy nhanh lẹ nhưng tâm cơ không phải dạng xảo trá hiểm ác, sắc mặc đa phần là màu đen nhưng thần thái trong sáng, lời ăn tiếng nói đối với mọi người là thân thiện hiền hòa.

Nếu hành thủy cường vượng thái quá trở thành kị thần trong lá số bát tự: thường là mẫu người không chịu an thân an phận, lắm mưu trí trong những việc bất thiện gây điều thị phi trong đời sống xã hội, bản thân nhiều tật ăn chơi hưởng lạc.

Nếu hành thủy bất cập không đủ lực làm dụng thần trong lá số bát tự: thường là mẫu người có thân tướng nhỏ bé, dáng thấp không cao. Tâm tính không ổn định từ đó dẫn đến hành sự thất thường, Tấm lòng nhỏ hẹp thiếu sự độ lượng bao dung, khí chất không can đảm thiếu quyết định dứt khoát.

Bài viết trên tuy là mượn tính chất cơ bản ngũ hành để diễn tả tính cách diện mạo con người thông qua bộ môn tứ trụ (bát tự)
Nhưng thực tế chỉ có vài nét liên quan đến con người, người học hoặc nghiên cứu bộ môn này cần linh động cân nhắc độ cường vượng hoặc suy nhược của tính chất ngũ hành trong tứ trụ. Ngoài ra cần lưu ý thêm ngũ hành nhập cách trong lá số tứ trụ thuộc dạng đạt hay không đạt, và cần quan sát chi tiết thần sát trong phối cục của mệnh lý.

Theo Thiện Minh

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính cách diện mạo thông qua Tứ trụ (Tài liệu Tam Mệnh Thông Hội)

Vị trí đặt bếp cấm kỵ trong phong thủy –

Nếu bạn đã biết những điều nên làm khi đặt bếp thì bạn càng nên nắm rõ những cấm kỵ của nó, bởi vì nếu đặt bếp ở vị trí cấm kỵ, sẽ ảnh hưởng lớn tới sức khỏe và tài lộc của bạn. Vị trí đặt bếp trong phong thủy ảnh hưởng lớn tới sức khỏe và tài lộc c

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu bạn đã biết những điều nên làm khi đặt bếp thì bạn càng nên nắm rõ những cấm kỵ của nó, bởi vì nếu đặt bếp ở vị trí cấm kỵ, sẽ ảnh hưởng lớn tới sức khỏe và tài lộc của bạn.

Vị trí đặt bếp trong phong thủy ảnh hưởng lớn tới sức khỏe và tài lộc của gia chủ.

– Bếp không nên đối diện thẳng cửa ra vào hoặc ngoài đường.

– Bếp không nên nằm ngày phía dưới xa nhà, nếu không cả nhà sẽ bất an ( hay bị sốt nóng ở đầu).

– Bếp không đối diện với tủ lạnh, bởi vì sinh nóng lạnh không đều, dễ bị sảy thai hoặc đẻ non.

– Bếp không đối diện với cửa phòng vệ sinh, bởi sẽ gây bệnh tật, thuốc thang liên miên.

– Mặt sau của bếp không đối diện với góc tường của một nhà khác, bởi sẽ gây chảy máu cam liên tục, dễ mắc bệnh tim.

cam-ky-bep

– Hai bên bếp không đối diện với cửa, phía dưới bếp không có chất bẩn.

– Bếp không để trên ban công.

– Không đặt bệ bếp gần bồn nước. Bếp không thể tiếp xúc trực tiếp với nước. Bếp dùng để nhóm lửa, nấu ăn, còn bồn nước dùng để chứa nước và rửa. Hai thứ này không thích hợp ở cạnh nhau, ở giữa nên có bệ bếp để phân tách, như thế nước và lửa mới không xung khắc nhau.

– Bệ bếp không thể đặt trên bể phân hóa học, trên rãnh nước, hoặc trên đường ống nước ở phòng vệ sinh.

– Bệ bếp cũng không được dựa vào phòng vệ sinh, vì người nấu sẽ phải quay mặt vào phòng vệ sinh.

– Bệ bếp không được đối diện với bồn cầu trong nhà vệ sinh.

– Bệ bếp không được đối diện với cửa các phòng, đặc biệt là phòng người già.

– Bệ bếp không được đối diện với vị trí của thần ( mà bạn thờ trong nhà).

– Bệ bếp nên đặt ở chỗ kín gió và nhiều khí.

– Không để bệ bếp ở vị trí trung tâm bếp.

– Nếu bếp đã hỏng hoặc không sử dụng được nữa, nên vứt đi, như thế gia đình sẽ bình an, thuận hòa.

– Sau bệ bếp không được để trống, vì chỗ trống sẽ có nhiều gió, làm ngọn lửa bếp chập chờn, không ổn đỉnh. Từ đó, ảnh hưởng đến tài vận. Đặc biệt kiêng kị sau bếp có cửa sổ.

– Ngoài ra, nếu cửa sổ trong phòng bếp hướng về phía Tây thì khi mặt trời lặn, sẽ có hiện tượng ánh mặt trời ngả về phía Tây. Nếu ánh nắng này đi vào phòng bếp qua cửa sổ và chiếu thẳng vào bếp thì phải lập tức đóng cửa sổ lại, đợi đến khi mặt trời tắt hẳn mới mở ra.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vị trí đặt bếp cấm kỵ trong phong thủy –

Phong thủy phòng ngủ khiến bạn khó thoát khỏi “kiếp FA”

Bạn luôn thắc mắc không hiểu vì sao mình đẹp trai, xinh gái, công việc lại ổn định, tính tình cũng chẳng tới mức khó ưa, vậy mà tại sao lúc nào cũng cô đơn lẻ
Phong thủy phòng ngủ khiến bạn khó thoát khỏi “kiếp FA”

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  bóng. Có lẽ, bạn nên xem lại căn phòng của mình một chút, có thể nguyên nhân nằm ở đây.


Phòng quá cao 
 
Căn phòng quá cao sẽ bất lợi cho việc thành gia lập thất. Phong thuỷ rất coi trọng khả năng tụ khí tránh gió của ngôi nhà, với kiến trúc quá cao căn phòng sẽ không giữ được khí, không khí tiêu tán không dung hòa, cô âm độc dương mỗi nơi một luồng sẽ khiến bạn càng thêm đơn côi. 

Nhung can phong khien ban kho thoat khoi kiep FA hinh anh
Phòng cao sẽ không giữ dudược khí, khiến bạn càng thêm đơn côi
Phòng quá thấp 
 
Căn phòng quá thấp so với các kiến trúc xung quanh gây áp lực lên chuyện tình cảm khiến con người trở nên nhút nhát. Sự nghiệp vừa khó phát triển mà cuộc sống cũng không thuận lợi. Loại nhà này thiếu dương khí, khó mà sinh vượng đào hoa, hôn nhân cũng không lâu dài. 
 
Phòng nhỏ hẹp 
 
Mặc dù loại nhà này có lợi cho việc tụ tài, nhưng nếu ở lâu dài trong một không gian chật chội dễ khiến con người trở nên bí bách, dễ nổi cáu, không thể hòa đồng với mọi người, vì thế chuyện tình cảm cũng trở nên xa vời.

Nhung can phong khien ban kho thoat khoi kiep FA hinh anh 2
Phòng nhỏ hẹp khiến cho người ở có cảm giác bí bách, dễ nổi cáu
Trong phòng ẩm lạnh 
 
Phòng ẩm ướt là căn phòng thiếu ánh sáng mặt trời, cũng có căn phòng không có hơi ấm hoặc để điều hòa quá lạnh. Những căn phòng như trên rất bất lợi cho chuyện vợ chồng. Nếu người độc thân ở trong căn nhà này thì khó mà thoát khỏi đời độc thân. 
 
Đương nhiên còn nhiều lý do nữa khiến bạn độc thân, nhưng nếu bạn vẫn đang FA thì hãy thử điều chỉnh một chút căn phòng của bạn, biết đâu vận đào hoa lại khởi sắc thì sao. 
 
► Xem thêm: Phong thủy phòng ngủ chuẩn giúp đem lại vận tốt cho gia chủ

Theo meiguoshenpo.com
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy phòng ngủ khiến bạn khó thoát khỏi “kiếp FA”

Xem tướng qua tư thế nằm –

Nằm đương nhiên cho ta thông tin về tâm trạng và tâm thế. Tướng nằm là “duy biến” và thể hiện ở hai trạng thái: - Tướng nằm khi thức - nằm nghỉ ngơi. - Tướng nằm khi ngủ. Dù khi ngủ hay khi nghỉ thì bao giờ cũng có thế cố hữu của cách nằm phù hợp với

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nằm đương nhiên cho ta thông tin về tâm trạng và tâm thế. Tướng nằm là “duy biến” và thể hiện ở hai trạng thái:
– Tướng nằm khi thức – nằm nghỉ ngơi.
– Tướng nằm khi ngủ.
Dù khi ngủ hay khi nghỉ thì bao giờ cũng có thế cố hữu của cách nằm phù hợp với cá thể.

co gai nam ngu

I. TƯỚNG NẰM KHI THỨC – NAM NGHỈ NGƠI.
Khi thức thì người ta hay nằm tùy tiện. Nhưng rồi người nằm sẽ trở về thế quen thuộc của mình.
1. Nằm như thế núi, vững trãi (đầu cao, người nghiêng, chân hơi co, chân kia thẳng) thế nằm của Phật A Di lặc.
Tướng: Phúc thọ, giầu có, mưu mô, túc trí.
2. Nằm ngửa duỗi tay, duỗi chân: Không thọ.
3. Nằm nghiêng: Người kín đáo, kép nép.

II. TƯỚNG NẰM KHI NGỦ.
Sau khi ngủ say, người ta sẽ trở về thế nằm “bất biến” vì vậy mà khái quát tướng nằm là: Nằm yên tĩnh, tự nhiên thì phúc thọ, giầu sang. Nằm mà không yên tư thế gò bó thì xấu: khổ ải.

1. Nằm ngủ mà giang tay, giang chân: Tướng ngang tàng, phóng túng, tham vọng lớn. Không sự hãi, là người dũng lược.
2. Nằm co quắp: Tướng yếu, hèn không có dũng khí, người mồm mép.
3. Nằm nghiêng, duỗi tay chân thoải mãi: Tướng giầu có, sang trọng, sống lâu.
4. Nằm ngủ mà nghiến răng ken két: Tướng chết vì tai họa binh đao, chiến tranh.
5. Nằm ngủ mà miệng há hốc: Tướng chết non.
6. Nằm ngủ mà mở mắt (như Trương Phi): Tướng chết vì kíp nạn giữa đường.
7. Nằm ngủ mà nói mê sảng lung tung: Tướng hèn mọn, thân phận tôi đòi, làm thuê làm mướn.
8. Nằm ngủ úp mặt xuống gối: Tướng đói khát, khổ ải.
9. Nằm ngủ mà xoay tứ phía không định hướng: Tướng bần hàn, luôn lo lắng sinh nhai.
10. Nằm ngủ mà thở ra hôi hám: Tướng ngu đần.
11. Nằm ngủ mà thở ra ngắt quãng: Tướng chết non, đoản mệnh.
12. Nằm ngủ mà thoát ra tiếng “hừ hừ”: Tướng tử nạn.
13. Nằm ành ành (như lợn nằm): Tướng nghèo.
14. Ngủ mà thần thái sợ hãi: Tâm không an, trí suy kiệt.
15. Ngủ mà thở điều hòa thần thái bình lặng: Tướng thanh cao, thư thái, hiền lương.
16. Nằm ngủ mà nét mặt cau có: Tướng thô bạo, đời bất hạnh.
17. Nằm ngủ mà nét mặt dữ tợn: Tướng sát nhân và đoản mệnh.
18. Nằm ngủ mà thần thái bất an: Tướng yếu hèn, kinh khiếp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng qua tư thế nằm –

Xem tướng đàn ông trán chữ M là người như thế nào? –

Nam giới có phần trán và đường ngôi chân tóc phối hợp tạo thành hình chữ M thường được gọi là vầng trán của nghệ sĩ Nam giới có phần trán và đường ngôi chân tóc phối hợp tạo thành hình chữ M thường được gọi là vầng trán của nghệ sĩ Hình dạng vầng trá
Xem tướng đàn ông trán chữ M là người như thế nào? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng đàn ông trán chữ M là người như thế nào? –

Chỉ ra 3 nốt ruồi trên mặt không lo thiếu tiền xài

Nốt ruồi tại mỗi vị trí khác nhau mang tới những điềm báo hung cát không giống nhau.Nhưng nếu sở hữu những nốt ruồi trên mặt này,bạn hoàn toàn yên tâm vui sống
Chỉ ra 3 nốt ruồi trên mặt không lo thiếu tiền xài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Nốt ruồi tại mỗi vị trí khác nhau mang tới những điềm báo hung cát không giống nhau. Nhưng nếu sở hữu những nốt ruồi dưới đây, bạn hoàn toàn yên tâm vui sống, đón nhận phúc lộc trời ban.

 

1. Nốt ruồi ở lông mày


Xem tướng nốt ruồi trên mặt, nếu bạn có nốt ruồi mọc ở vị trí giữa lông mày, đồng thời bị lông mày che phủ, xin chúc mừng, bạn đã sở hữu nốt ruồi phú quý. Cuộc sống của bạn không giàu cũng sang, sung sướng đủ bề, không bao giờ lo thiếu tiền xài.

Bên cạnh đó, bạn rất thông minh, trong gia đình xuất hiện những người tài năng kiệt xuất. Đi tới đâu bạn cũng được quý nhân phù trợ nên dễ dàng vượt qua mọi trở ngại trong cuộc sống.

Chi ra 3 not ruoi tren mat khong lo thieu tien xai hinh anh
 
Ngoài ra, nếu có nốt ruồi xuất hiện ở phía đầu lông mày và bị lông mày che khuất, chứng tỏ chủ nhân rất thông minh, nhạy bén, phong thái đĩnh đạc, có chí tiến thủ mạnh mẽ. Bạn có tài về nghệ thuật hoặc khoa học. Chỉ cần làm những ngành nghề liên quan tới hai lĩnh vực trên là có thể thành công rực rỡ.

Còn nếu có nốt ruồi ẩn sâu ở phần đuôi lông mày, là dấu hiệu cho thấy cuộc sống của bạn luôn vui vẻ, sung túc, tiền bạc lúc nào cũng rủng rỉnh trong túi.

2. Nốt ruồi ở dưới cằm


Cằm còn gọi là Địa Các, cũng là cung Điền Trạch (trong 12 cung tướng mặt). Khi xem tướng, nếu chính giữa cằm có nốt ruồi là điềm báo cho thấy phúc đức của chủ nhân rất lớn, gia vận tốt, công danh sự nghiệp phát triển.

Chi ra 3 not ruoi tren mat khong lo thieu tien xai hinh anh 2
 
Nếu nốt ruồi này xuất hiện đã lâu mà bạn vẫn chưa gặp được cơ hội phát tài phát lộc, đừng nóng vội hay tỏ ra lo lắng. Bởi đây là nốt ruồi báo hiệu sự giàu sang về hậu vận. Ngoài ra, nếu trên nốt ruồi mọc lông, chứng tỏ tài phúc sẽ nhanh chóng nằm gọn trong tay bạn. Có thể bạn quan tâm: Xem đời người phụ nữ qua tướng cằm.

3. Nốt ruồi ở chính giữa mu bàn chân


Không ít người chỉ thích nghiên cứu về tướng nốt ruồi ở lòng bàn chân mà quên đi tướng nốt ruồi ở mu bàn chân. Theo quan điểm nhân tướng học, người có nốt ruồi ở chính giữa mu bàn chân thường được hưởng cuộc sống phú quý.

Chi ra 3 not ruoi tren mat khong lo thieu tien xai hinh anh 3
 
Tuy nhiên, phúc lộc này đến khá chậm và phải “dựa hơi” người nào đó. Vì thế, bạn có thể lựa chọn đối tượng kết hôn có điều kiện kinh tế khá giả. Trong công việc, chọn những ông chủ, nhà lãnh đạo tài ba để chỉ bảo, dẫn dắt hoàn thiện bản thân.

Nốt ruồi tố cáo đàn ông có thói trăng hoa Phụ nữ có nốt ruồi ở lông mày, là phúc hay là họa? Nốt ruồi ở chân tiết lộ vận mệnh sang hèn Ngọc Điệp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chỉ ra 3 nốt ruồi trên mặt không lo thiếu tiền xài

Ý nghĩa phong thủy của hồ lô –

Trong phong thuỷ thì hồ lô là vật khí không thể thiếu để hoá giải hung khí và tăng cường sức khoẻ. Hồ lô là vật dụng chuyên dùng để đựng rượu, đựng nước, thường có hình trái bầu.Chúng ta thường thấy ông Thọ luôn đeo hồ lô trên người. Vì vậy hồ lô là

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phong thuỷ thì hồ lô là vật khí không thể thiếu để hoá giải hung khí và tăng cường sức khoẻ.

Hồ lô là vật dụng chuyên dùng để đựng rượu, đựng nước, thường có hình trái bầu.Chúng ta thường thấy ông Thọ luôn đeo hồ lô trên người. Vì vậy hồ lô là biểu tượng của sự an lành và sức khoẻ.

Hồ lô được làm bằng thuỷ tinh trong vận 8 là cát khí mang lại sức khoẻ may mắn. Hồ lô treo có tác dụng rất lớn trong việc bảo vệ sức khoẻ chống lại bệnh tật. Tốt nhất là treo ở phương vị Thiên Y.

hinh-anh-ho-lo

Dùng hồ lô treo bên cạnh giường ngủ hoặc trong phòng ngủ, treo trên xe ô tô sẽ mang lại bình yên và sức khoẻ cho gia chủ, tránh được rất nhiều bệnh tật. Nếu trong nhà có người mắc bệnh lâu ngày, ngoài thuốc thang chăm sóc, các nhà phong thuỷ khuyên nên treo 3 hồ lô ở đầu giường người bệnh để chóng khoẻ mạnh.

Hồ lô đặc biệt thích hợp dùng cho nhà có trẻ nhỏ hay quấy khóc, hãy treo hồ lô bên cạnh chiếc nôi của trẻ, sẽ tránh được bệnh tật và khóc dạ đề cho trẻ. Hồ lô cũng là quà tặng đầy ý nghĩa cho những gia đình có người ốm đau hoặc có người già với hy vọng mang lại sức khoẻ và trường thọ.

Ngũ hành: Thổ

Mẹo dùng dân gian: Treo ở giường ngủ, phòng ngủ, xe ôtô,…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa phong thủy của hồ lô –

Mơ thấy em trai: Gia đình thuận hòa –

Hình ảnh em trai thường xuất hiện trong những giấc mơ của nữ giới. Một cô gái học tập xa nhà tâm sự: Em trai tôi nhỏ hơn tôi vài tuổi, hoạt bát đáng yêu, cả nhà tôi ai cũng yêu mến chú ấy cả. Nói thật, tôi rất nhớ em. Tôi mơ thấy mình trở về nhà vào
Mơ thấy em trai: Gia đình thuận hòa –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy em trai: Gia đình thuận hòa –

Nhà bếp

Ở trong bếp, thầy Phong Thủy để ý nhất là lò nấu và người nấu cơm. Nhà bếp đại diện cho của cải. Theo lý luận thì thực phẩm tạo ra sức khỏe và ra hiêu suất công việc vì thực phẩm tốt qua con người khiến người đó có khả năng biến ra lợi nhuận lớn mà từ đó lại đem cải tiến thực phẩm của họ. Cũng như thế theo vòng lý luận ngược lại thì nguời nghèo hơn dùng thực phẩm kém chất luợng, do đó lợi nhuận cũng sút kém.
Nhà bếp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu nguời nấu bếp bị hoảng hốt thì một chuỗi kích động phản ứng được hình thành. Thí dụ nếu ông chồng thình lình ôm chầm vợ mình trong khi bà đang xắt cà rốt hay đang nấu đồ ăn trên bếp thì bà có thể nổi cáu, điều này có thể ảnh huởng đến liên hệ của họ trong tối hôm đó và rồi lan tới văn phòng ngày hôm sau.

Bếp lò cũng tuợng trưng cho tình trạng tài chính khá giả trong gia đình. Người ta cần giữ bếp sạch và làm việc đều đặn, như thế tiền sẽ dễ vào nhà. Nếu bếp khó cháy công việc làm hay bị phá ngang với nhiều trỡ ngại. Gia đình có thịnh vựợng hay không cũng có ảnh hưởng đến số lượng bếp được nấu như ta dùng nhiều bếp thì thêm tiền kiếm ra.

Cách chữa: Đặt gương hay kim loại trắng trên tường bếp sau dãy lò và nếu cần ta còn viền thành lọ để tạo thêm không khí thỏai mái trong khi nấu ăn. Người nấu bếp sẽ không giật mình khi có người vào bếp nhờ nhìn phản chiếu sau dãy bếp lò. Số bếp lò dù có nhỏ mà dùng nhiều thì tiền kiếm được vẫn gia tăng. Nếu lò nấu nhìn vào một vách tuờng có cửa sổ thì dù cảnh trí có đẹp vẫn có ảnh hưởng nhất định đến người nấu, tốt hơn hết là đặt gương phản chiếu ra cửa bếp hay treo một chiếc khanh hay một qua 3 cầu thủy tinh giữa dãy bếp và cửa ra vào.

Đây là những biến cách khác về nhà bếp:

1. Vị trí này rất tốt. người nấu bếp dễ thấy người ra vào.

2. Vị trí lò này là tốt nhất, cách sắp xếp không bị gò bó.

3. Vị trí lò ở đây xấu cho nền tài chính và sự ổn định trong nhà.

Cách chữa: Treo gương chiếu bên trên lò nhìn ra cửa.

4. Lò bếp này đặt không gặp may.

Cách chữa: treo gương chiếu bên trên lò nhìn ra cửa.

5. Bếp lò này đặt thất cách và tù túng mà lại có thể làm hai cho nghề nghiệp của chủ nhà.

Cách chữa: Treo gương trên tường hình chữ L theo hình vẽ.

6. Cách sắp xếp này dở tệ.

Cách chữa: Đặt gương trên tường theo hình vẽ, cách đặt gương này cũng làm tăng gấp đôi số bếp lò.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhà bếp

Luận Bàn Họa Của Phái Nữ

+ Họa trinh tiết: Thai, Phục, Kiếp hay Không: chỉ sự hiếp dâm, có thể là hiếp tập thể. Thai, Phục - Thai, Kiếp hay...
Luận Bàn Họa Của Phái Nữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo



+ Họa trinh tiết: Thai, Phục, Kiếp hay Không: chỉ sự hiếp dâm, có thể là hiếp tập thể.
Thai, Phục - Thai, Kiếp hay Không - Riêu, Phục - Riêu, Không, Kiếp - Tham, Phục - Tham, Không, Kiếp - Đào, Phục - Đào, Không, Kiếp - Đào Riêu, Không, Kiếp - Đào, Thai, Không, Kiếp: thất trinh thất tiết.
Đào, Riêu: lăng loàn, đàn bà ngoại tình, có khi không phải với một người. Hồng Loan, Riêu cũng có nghĩa tương tự.
Đào, Thai: tiền dâm hậu thú.
Đào, Thai, Riêu: gái giang hồ.
Cự, Kỵ hay Tham, Kỵ: ám chỉ sự mất trinh, sự bất hạnh trong tình ái.
Thai, Hình, Hỏa, Tang, Hổ, Kiếp: chỉ sự hiếp dâm đi liền với án mạng, tượng trưng cho sự thanh toán vì tình, sự trả thù của tình nhân ác độc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận Bàn Họa Của Phái Nữ

Mơ thấy mưa giông: Nếm trải gian khó để có thành công –

Một trận mưa giông dữ dội trong mơ mang ý nghĩa nếm trải gian khó để có thành công. Nữ giới đã kết hôn mơ thấy mưa giông, nghĩa là sau một thời gian dài cực nhọc vất vả, không oán không than sẽ tìm thấy hạnh phúc bản thân, một cuộc sống đủ đầy, con c
Mơ thấy mưa giông: Nếm trải gian khó để có thành công –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy mưa giông: Nếm trải gian khó để có thành công –

4 con giáp thoát kiếp ế vào cuối năm 2015

Người tuổi Mão, Tý, Sửu và Tuất chuẩn bị nhận tin vui nhé!
4 con giáp thoát kiếp ế vào cuối năm 2015

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Người tuổi Mão

Nửa đầu năm 2015, người cầm tinh con Mèo quá bận rộn với chuyện học hành thi cử, không có thời gian để gặp gỡ bạn bè nên kiếp FA cứ đeo bám hoài không tha.

mao-3511-1438963619.jpg

Tuy nhiên, những tháng cuối năm Thủy Mộc tương sinh nên vận thế tình duyên càng vượng, cơ hội để tìm được “gấu” vô cùng lớn.

2. Người tuổi Tý

Gặp năm con Dê phạm Thái Tuế nên vận may về tình cảm chưa thực sự đến với người tuổi Tý. Tuy nhiên, đến những tháng cuối năm, vận thế bắt đầu chuyển biến tích cực, làm việc gì cũng được quý nhân giúp đỡ, đặc biệt tình duyên lên như diều gặp gió.

ti-1862-1438963619.jpg

Không chỉ dừng lại ở mối tình lãng mạn thông thường, rất có thể hai bạn sẽ có một “happy ending” trong thời gian tới. Hãy chuẩn bị tâm lí sẵn sàng đón nhận niềm hạnh phúc ngập tràn.

3. Người tuổi Sửu

Được mệnh danh là một trong những “con giáp cao số”, gặp không ít trở ngại về tình duyên. Nhưng càng gần những tháng cuối năm 2015, người tuổi Sửu lại vượng vận đào hoa, cùng lúc có nhiều vệ tinh vây xung quanh nên việc kết thúc kiếp FA là điều sớm hay muộn mà thôi.

suu-4560-1438963619.jpg

Ngoài ra, để “bách chiến bách thắng” trên tình trường, người tuổi Sửu cần phải mạnh dạn và tự tin hơn nữa. Chứ với trạng thái rụt rè như hiện tại, e rằng bạn sẽ phải nếm không ít đau khổ trước khi tìm được tình yêu chân chính của mình.

4. Người tuổi Tuất

Khá lận đận về đường tình duyên, đến giờ phút này người tuổi Tuất đã có không ít mảnh tình vắt vai nhưng vẫn chưa “chốt hạ”. Lý do thật đơn giản, đó là vì bạn chưa thực sự tìm được người hiểu và trân trọng mình. 

tuat-7421-1438963619.jpg

Tuy nhiên, trong những tháng cuối năm Ất Mùi này, người tuổi Tuất có rất nhiều cơ hội lựa chọn “gấu” cho mình vì có nhiều vệ tinh vây xung quanh. Thay vì “bật đèn xanh” một cách ồ ạt, con giáp này cần phải thái độ điềm tĩnh, dành thời gian tìm hiểu đối phương. Bạn nên nhớ rằng, nóng vội sẽ không giải quyết được bất cứ vấn đề gì, thậm chí còn dẫn đến thất bại.

Mr.Bull (theo MGSP)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 con giáp thoát kiếp ế vào cuối năm 2015

Ăn tết ta theo ngày dương, nên hay không ?

Trong thời gian gần đây, tại Việt Nam có một cuộc thảo luận thu hút sự quan tâm của nhiều người, xung quanh chủ đề : Có nên nhập Tết âm lịch với Tết dương lịch, hay nói cách khác ăn Tết ta theo ngày dương. Sự thay đổi đụng đến ngày Tết, đụng chạm đến nếp sống và đời sống tinh thần của hàng chục triệu người Việt Nam, nhận được nhiều ý kiến hết sức trái chiều.
Ăn tết ta theo ngày dương, nên hay không ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý kiến thay đổi thời gian Tết cổ truyền theo tấm gương của Nhật Bản cách đây hơn 1 thế kỷ của Giáo sư Võ Tòng Xuân nhận được nhiều ý kiến chỉ trích, nhưng cũng không ít người đồng tình. Gần đây nhất, VTC - một trang mạng ở Việt Nam, đăng tải ý kiến của Giáo sư Xuân và một số ý kiến tiêu biểu - đã nhận được khoảng 60.000 bình luận.

Tết cổ truyền hay Tết nguyên đán vào dịp đầu tháng Giêng âm lịch hàng năm là một dịp hết sức quan trọng trong đời sống văn hóa Việt Nam. Vì sao nhà nông học Võ Tòng Xuân đã đưa ra ý tưởng này ? Các phản ứng phản đối và đồng tình ra sao ?

Đến với tạp chí Cộng đồng của RFI lần này có nhà sử học Dương Trung Quốc, các nhà nghiên cứu văn hóa Trần Lâm Biền, Vương Trí Nhàn, nhà văn Tạ Duy Anh, nhà kinh tế học Đỗ Tiến Long, giáo sư Võ Tòng Xuân cùng các bạn Ngô Thị Hồng Nhung và Thái Dzuy.

Đã từng có người muốn thay đổi thời gian Tết âm lịch

Mở đầu tạp chí, nhà sử học Dương Trung Quốc cho chúng ta biết sơ qua một cái nhìn chung về lịch sử các đề nghị thay đổi lịch Tết cổ truyền ớ Việt Nam và các phản ứng của xã hội.

Nhà sử học Dương Trung Quốc : Đúng là, có lẽ là giáo sư Võ Tòng Xuân bắt đầu từ thực tiễn của nước Nhật Bản, bước vào công cuộc Duy Tân ở đầu thế kỷ XX, đã có một quyết định rất dứt khoát, tức là lấy ngày dương lịch làm ngày đầu năm. Như thế là, theo truyền thống của nhiều nước Á Đông, vẫn sử dụng âm lịch, thì coi như là từ bỏ. Vấn đề tương tự như thế, tôi thấy ở Việt Nam chưa đặt ra (trước ông Võ Tòng Xuân), nhưng đặt ra theo một cách khác.

Cách đây 10, 15 năm, có một vị giáo sư về dinh dưỡng học, cũng là người rất có uy tín xã hội, và cũng có một băn khoăn trước tình hình, thực trạng ngày nghỉ Tết nó ảnh hưởng đến nếp sống, hoạt động của kinh tế phát triển, cho nên đưa ra một dự kiến rằng, phải chăng cứ sau ba năm thì ăn Tết một lần, tức là cộng tất cả những ngày nghỉ của ba năm ấy thành một thời gian khá dài, để như ông nói là, « để ăn Tết cho ra Tết », « chơi cho ra chơi », « còn lúc làm thì ra làm ». Tôi nhớ rằng hồi đó, các phản ứng cũng rất gay gắt.

Chuyện đó cũng bẵng đi, cho đến lúc giáo sư Võ Tòng Xuân có đưa ra một phương thức, đó là ta chấp nhận ngày Tết dương lịch, còn ngày Tết âm lịch, có lẽ cũng giống Nhật Bản thôi, bỏ hẳn thì không bỏ hẳn, nhưng dành cho một bộ phận dân cư, những người có tuổi, có thời gian, còn phần lớn những người đang tham gia lao động xã hội, thì chủ yếu ăn Tết theo dương lịch.

Ngày càng đông người ủng hộ ăn Tết ta theo ngày dương

Tiếp theo đây là tiếng nói của giáo sư Võ Tòng Xuân, điểm lại quá trình gần 10 năm kể từ khi ông nêu ra ý tưởng ăn Tết âm lịch theo ngày Dương và một số ý kiến chung của ông trong vấn đề này.

Giáo sư Võ Tòng Xuân : Đúng là cái ý kiến của chúng tôi, khi nêu ra lần đầu tiên, trong mục Chào buổi sáng trên báo Thanh niên, ngày 14/02/2005, đã có rất nhiều ý kiến phản hồi, và có thể nói, đại bộ phận không đồng tình với ý rằng ăn Tết ta theo ngày dương lịch. Sau đó, bẵng đi một thời gian, thì tới 2008, có một số ý kiến trên một số blog cũng nêu ra vấn đề này, và cũng đã gây ra những tranh luận cũng sôi nổi. Qua đến năm 2009, 2010 cũng thế, và nhất là trong năm 2012, tôi bỗng thấy rất nhiều bà con nêu ra. Nhưng rồi cũng bị phản kháng rất nhiều. Rồi các blog cũng đưa ra những ý kiến phản hồi, vừa ủng hộ, vừa không ủng hộ.

Trên trang web của VTC, thì các anh VTC yêu cầu tôi nêu vấn đề này lại. Tôi và cả các anh biên tập VTC rất ngạc nhiên, vì lần này phản hồi rất đông đảo. Theo các anh, thì có hơn 60.000 phản hồi. Và bản thân tôi, thấy cái số không đồng tình nó bớt đi, và số đồng tình thì tăng lên. Tuy nhiên, số đồng tình vẫn còn là thiểu số, khoảng chừng lối hơn 30%-40% trong số các ý kiến phản hồi lại. Nói cách khác qua thời gian gần 10 năm, cái số người Việt Nam, có ý thay đổi ngày ăn Tết ta của chúng ta để thực hiện trong ngày dương lịch, thì mỗi ngày một đông hơn.

Tôi thấy cái này là một khuynh hướng rất là tất yếu, vì chúng ta hiện nay đang trong cái thời hội nhập kinh tế thế giới, đồng thời ở trong nước, số người có công ăn việc làm cũng tăng lên, trừ trường hợp bà con nông dân ớ nông thôn, thì công việc ở nông thôn thì cũng ít. Phải nói rằng, nghĩ tới ăn Tết, ở nông thôn rất là muốn ăn Tết theo kiểu cổ truyền của mình, vì bà con mình có rất nhiều thời giờ. Thành ra tôi cũng nghĩ rằng, qua các ý kiến của độc giả trên mạng không đồng tình (với việc ăn Tết ta theo ngày dương lịch), thì gồm những người mà chắc chắn tôi biết, có rất nhiều thời gian rảnh rỗi. Và đặc biệt là bà con của chúng ta có ước muốn duy trì các tập quán cổ truyền của mình, họ nêu ra những cái như là : « Hạ nêu » như thế nào, rồi « đưa ông Táo »…

Bên cạnh đó, trong ý kiến của rất nhiều độc giả, kể cả các nhà doanh nghiệp, và rất nhiều nhà nghiên cứu về văn hóa, tôi thấy khuynh hướng « ăn Tết hội nhập », tức là ăn Tết ta theo ngày dương lịch được rất nhiều người ủng hộ.

Thay đổi ngày ăn Tết không gây mất mát gì cả

Thành ra tôi nghĩ, ăn Tết âm lịch với các tập quán cổ truyền, đẹp, có từ lâu, mình thực hiện nó vào ngày dương lịch, thì không bị mất mát gì cả. Chỉ có cái lạ là, bây giờ mình ăn Tết vào ngày Tây. Tôi chắc chắn là, trong khuynh hướng xã hội Việt Nam chúng ta mỗi ngày kinh tế một tốt hơn, ai cũng có việc làm hết, và ai cũng bận rộn vì công việc của mình, để làm thế nào mình làm thật nhiều, để mình có nhiều tiền, để gia đình mình khấm khá hơn, cho đất nước mình là phát triển kịp năm châu.

Một tập quán cổ truyền vào ngày âm lịch mà đổi sang ngày dương lịch, thì chắc chắn nó kỳ quá, nó không giống ai hết, nhưng mà từ từ chúng ta tập riết cho nó quen, thì tôi nghĩ chắc mình cũng quen theo. Như bây giờ, có một điều mà bây giờ mình cũng không thể thay đổi được về ngày âm lịch là ngày chết của người thân của mình. Ngay bây giờ, đám giỗ của bác Hồ, kỷ niệm ngày sinh cũng như ngày chết của bác Hồ, là mình cũng theo dương lịch hết chứ không theo âm lịch. Cái đó mình thấy không có gì. Tại vì mình nghĩ quen rồi, đảng chúng ta, Nhà nước chúng ta làm theo dương lịch, thì bây giờ tất cả đều theo dương lịch, mình thấy quen quá. Nhưng bây giờ, biểu một gia đình nào đó ở nông thôn, làm đám giỗ của ông nội vào ngày dương lịch, thì họ chống đối ngay.

Thành ra, tôi thấy mình đưa vấn đề này ra, thì tôi nghĩ rằng là vào năm 2005, nó còn quá sớm. Bây giờ tới năm 2013, thì tôi thấy khuynh hướng cũng có chiều đi theo cái ý là, chúng ta phải làm gọn lại cái tập quán cổ truyền của mình. Mình cử hành nó vào ngày thuận lợi hơn, tức là ngày dương lịch, thì khuynh hướng này từ từ nó tăng lên. Tôi cũng mong rằng là, khi xã hội Việt Nam chúng ta phát triển mạnh hơn nữa, và mọi người đều có công ăn việc làm ra tiền, làm ra nhiều tiền, thì chúng ta sẽ thấy rằng là việc chúng ta cử hành các tục lệ cổ truyền theo dương lịch cũng không có trở ngại gì về mặt tâm linh, mà trái lại, nó còn thuận lợi cho công việc của chúng ta, hội nhập với cả thế giới.

Đề xuất của giáo sư Võ Tòng là rất can đảm, nhưng cần cân nhắc cách làm

Phản hồi đề xuất của ông Võ Tòng Xuân, nhà văn Tạ Duy Anh cho biết :

Nhà văn Tạ Duy Anh : (...) Trước hết, tôi coi đề xuất của giáo sư Võ Tòng Xuân là một sự can đảm rất lớn, nếu xét trong bối cảnh Việt Nam hiện nay. Can đảm, vì giáo sư Võ Tòng Xuân chắc chắn biết rằng mình phải đối mặt với nhiều ngàn năm truyền thống, tôi nghĩ như vậy, của một dân tộc, mà theo tôi, ngại thay đổi vào loại nhất thế giới. Càng sống, càng nghiệm ra điều đó. Tôi cũng đọc khá nhiều phản hồi. Có lẽ đây cũng là một vấn đề mà nhiều cư dân mạng quan tâm vào loại nhất.


Điều tôi bất ngờ không phải là con số quá nửa, thậm chí 60-70% phản đối, mà là cách phản đối của những người thuộc quá nửa số ý kiến. Tiện đây, tôi cũng muốn nói đến cái văn hóa bình luận ở người Việt đang có vấn đề. Nó khiến cho nhiều tâm huyết bị coi rẻ. Tôi có đọc vài chục bình luận về ý kiến của giáo sư Võ Tòng Xuân, tôi thấy rằng nhiều người bình luận, thiếu cả cái văn hóa tối thiểu.

Giáo sư Võ Tòng Xuân đặt vấn đề nhập Tết ta với Tết tây trước hết là xuất phát từ trách nhiệm của ông với đất nước. Tôi nghĩ ông không có bất cứ động cơ vụ lợi nào khác cả. Bởi vì ông chả được cái gì. Nếu là vì cá nhân, thì ông đã không làm, ông ấy sẽ không chuốc họa vào thân như vậy.

Nhưng những lý lẽ mà giáo sư Võ Tòng Xuân đưa ra, để bảo vệ lập luận của mình, chỉ dựa trên những quan sát thuần túy về mặt kinh tế. Và tôi nghĩ, có thể sẽ có một số phiến diện. Cũng có một vài ý kiến chỉ ra, ví dụ như tôi thấy ý kiến của giáo sư Nguyễn Minh Thuyết, cũng là một ý kiến đáng chú ý để nó cho thấy là, có thể có những phiến diện trong lập luận của giáo sư Võ Tòng Xuân, nó chưa thật thấu đáo. Nhưng mà tôi nghĩ cái ý kiến của giáo sư Võ Tòng Xuân rất cần cái sự bàn bạc, nên được xem xét một cách nghiêm túc, từ nhiều học giả, từ nhiều bạn đọc, chứ nó không đáng và không nên có sự miệt thị đối với một ý kiến chân thành như vậy.

Tôi ủng hộ giáo sư Võ Tòng Xuân về mục đích mà ông mong muốn. Khi đưa ra vấn đề như thế, quả thật là có những vấn đề như giáo sư nói. Thế nhưng mà cái cách làm của giáo sư, thì có lẽ nên phải cân nhắc trong bối cảnh một xã hội thuần « phương Đông » như Việt Nam, một xã hội lệ thuộc vào những phong tục tập quán. Tôi nghĩ rằng, việc bỏ cái ngày Tết cổ truyền là thiếu khả thi.

(…) Các hủ tục đâu phải chỉ có trong tết cổ truyền, mà nó có sẵn trong đời sống xã hội Việt Nam, trong đời sống hàng ngày. Ngày nào, giờ nào cũng xảy ra những chuyện như thế, thậm chí ngày càng gia tăng, có chiều hướng phức tạp thêm. Chỉ có điều ở dịp Tết, do thời gian nghỉ, do sự sung túc về vật chất..., những hủ tục ấy tăng cường về mức độ và cường độ, và thể hiện của nó rõ nét, đậm đặc hơn. (…) Các hủ tục phải được loại bỏ ra khỏi đời sống tinh thần của người Việt, đấy là cái gốc của vấn đề. Làm cái này, nếu chỉ những hoạt động cá nhân, ngăn chặn đơn lẻ, bằng pháp luật, bằng cấm đoán, bằng kỷ luật công chức chẳng ăn thua gì cả, không giải quyết được vấn đề căn cốt của nó. Nhiệm vụ này theo tôi, phải giao cho nền giáo dục quốc gia. Mà nếu nền giáo dục quốc gia, thực sự bắt tay vào ngay từ bây giờ, thì tôi nghĩ phải hàng trăm năm nữa mới có thể khắc phục được tình trạng hiện nay (...).

Chủ trương cải cách phong tục từ đầu thế kỷ XX vẫn còn dang dở

Nhà nghiên cứu văn hóa Vương Trí Nhàn ủng hộ quan điểm của ông Võ Tòng Xuân, và đặc biệt nhấn mạnh đến những sức ỳ của nền văn hóa Việt Nam, cũng như các nỗ lực đòi hỏi thay đổi vẫn còn dang dở của nhiều thế hệ các nhà cải cách văn hóa, từ đầu thế kỷ XX đến nay.

Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn : Tôi có theo dõi ý kiến của giáo sư Võ Tòng Xuân, và tôi thấy rất tán thành, chỉ có điều khó thực hiện, vì trong xã hội có xu hướng tâm lý là thích quay trở về Tết cổ truyền. Đa số người mình, bước vào xã hội hiện đại, vẫn mang tâm lý nông dân, tâm lý nông thôn, hướng về làng quê, hướng về những người cùng huyết thống. Thế và, vẫn như ngày trước, rất nhiều người đi làm ăn ở khắp nơi, vẫn thích về quê, mua lấy một chân gì ở trong làng, rồi thì tết nhất quay về làng hưởng lại không khí ngày trước chẳng hạn...

Tôi thấy, hiện nay, có xu thế, cứ thích lặp lại bằng được, đúng như phong tục tập quán, và coi như thế là một điều đáng tự hào. Tôi thấy không được, vì một là, việc đó không bao giờ có thể làm được, vì chúng ta đã sang một xã hội khác với xã hội cổ rồi. Hiện nay, có một sự trái ngược như thế này : một mặt thì rất thích quay trở về, một mặt lại không có sự tìm hiểu một cách nghiêm túc. Cái việc ăn cả hai Tết, cả âm lịch và dương lịch, theo tôi là một sự nghỉ ngơi quá dài, và nó cản trở lao động sản xuất bình thường của xã hội.

(…) Ngày trước (nhà văn) Thạch Lam có lần đã nói, chúng ta hình như quá lo cho những người chết, mà quên cả những người sống. Cái chuyện tết nhất bây giờ cũng thế, tôi thấy là, tôi đọc lại năm 1946, (nhà thơ) Xuân Diệu, ăn cái Tết độc lập đầu năm 1946, đã nói đến hiện tượng bây giờ chúng ta phải giã từ « cái Tết trung cổ » đi, ăn Tết thật tiết kiệm, nhanh và chuẩn bị làm các việc khác. Bài của Xuân Diệu in trên tạp chí Tiên phong (1946). Thế thì tôi thấy cái điều Xuân Diệu nói từ năm 46, đến nay phải nói là chúng ta vẫn còn phải phấn đấu, nhưng mà…

Có cái chết là, bây giờ tôi thấy là, đề ra cái này, nhưng tôi thấy không có khả năng thực hiện được, vì tôi thấy là cái tâm lý nó phổ biến trong toàn bộ xã hội rồi. Người ta cứ thấy cái việc là làm như ngày trước là niềm vui, và niềm tự hào. Thì tôi cho là không phải thế. Đối với phong tục, phải có hai điều, như Phan Kế Bính : Một mặt thì phải mô tả, phải hiểu, nhưng thứ hai là phải phê phán, phải tìm cách vượt qua nó. Tôi thấy là, trong các nhà nghiên cứu về văn hóa, văn học, thì chính là Phan Kế Bính là người đi đầu, từ năm 1915, đã viết trên Đông Dương Tạp chí, viết về phong tục, thì bao giờ ông cũng có phần vượt qua, phê phán, nhất là những cái hội hè, mà ông cho rằng, nhiều cái dông dài quá, không được việc gì cả. Chính cái tinh thần của Phan Kế Bính, mà sắp tới sẽ là (kỷ niệm) 100 năm (tác phẩm khảo cứu) Việt Nam phong tục, thì cái tinh thần ấy, bây giờ chúng ta vẫn khó lòng thực hiện được.

Mặc dầu như thế, tôi nghĩ, những đợt này rất là nên có sự nêu lên. Tôi có cảm tưởng cái này nằm trong trào lưu chung, tức là đặt vấn đề tâm lý người Việt trên bước đường hiện đại hóa. Hiện đại hóa thứ nhất là trước 1945, nửa đầu thứ kỷ XX. Và cái hiện đại hóa thứ hai là hiện nay. (Tìm hiểu về) Những cản trở, những điều chúng ta phải vượt qua, chúng ta phải tìm cách làm dần dần. Để đến lúc nào đó, cái điều này mới được thông, được hiểu trong số đông. Khi đó, chúng ta sẽ bước sang một kỷ nguyên mới của hiện đại hóa.

Xung đột giữa nếp sống truyền thống và nhu cầu phát triển

Chia sẻ ở một mức nhất định quan điểm của ông Võ Tòng Xuân, tuy nhiên nhà sử học Dương Trung Quốc khẳng định dịp Tết cổ truyền theo ngày tháng âm lịch không những quan trọng đối với nhiều người, mà còn hàm chứa ở mức độ nhất định bản sắc của nền văn hóa Việt Nam. Và để hạn chế những tiêu cực gắn liền với dịp Tết, cần phải có các biện pháp từ nhiều phía.

Nhà sử học Dương Trung Quốc : Tôi nghĩ rằng phản ứng xã hội có nhiều ý kiến khác nhau. Cá nhân tôi thấy rằng là, trước hết ngày Tết nguyên đán, nó gắn với âm lịch, gắn với đời sống và cái nông vụ của người nông dân. Đó là một yếu tố từ truyền thống xa xưa. Ngày Tết còn là nơi gửi gắm nhiều nhu cầu tín ngưỡng, và đặc biệt là hướng về tổ tiên và gia đình.

Đúng là khi mà người Pháp đặt ách đô hộ ở Việt Nam, cũng là đưa văn minh phương Tây vào, thì cái ngày Tết dương lịch đã trở thành một tập quán đối với một bộ phận cư dân ở đô thị, đặc biệt là công chức. Nhưng mà rõ ràng là cái Tết âm lịch vẫn gắn một cách sâu sắc và lâu bền, không chỉ tâm lý của những người nông dân, mà ngay cả những bộ phận thị dân vốn có những mối quan hệ rất bền chặt với gốc gác của mình. Cho nên, ngày Tết âm lịch là ngày Tết thực sự, còn ngày Tết dương lịch chỉ là ngày nghỉ của những người ăn lương nhà nước mà thôi.

Nhưng khi xã hội phát triển và cái đời sống đô thị như hiện nay, thì rõ ràng nó tạo ra những độ chênh, hay những xung đột ở trong những nếp sống của truyền thống, và những nhu cầu phát triển của hiện tại, đặc biệt là trên lĩnh vực tổ chức quản lý xã hội và quản lý sản xuất, và có lẽ nhân tố khiến nhiều người hướng tới sự thay đổi, chính là nguồn lao động. Những người lao động, phần lớn xuất thân từ nông thôn, thậm chí là ở những vùng miền rất xa xôi, tới nơi làm việc, thường có nhu cầu nghỉ lễ tết, tạo ra các áp lực không những chỉ về giao thông, đi lại, mà còn tạo ra áp lực đối những nhà sử dụng lao động nữa, khi tập quán, thói quen, lễ tục gắn kết với đời sống nông thôn vẫn còn rất là sâu sắc. Vì thế tôi nghĩ rằng là, những ý tưởng như của giáo sư Xuân đưa ra, thì nghe rất hợp lý, nhưng vượt được qua thói quen, tập quán là hết sức khó. Bởi vì, dẫu sao thì đối với người Việt Nam, thì ngày Tết âm lịch mới là quan trọng, bởi vì nó giải quyết những vấn đề về tinh thần, về tín ngưỡng, về tập quán và có thể nói phần nào là bản sắc văn hóa của người Việt. (…)

Nếu tổ chức xã hội tốt, thì sẽ dung hòa được

Tôi thì nghĩ rằng phải có sự hài hòa, diễn ra cùng sự phát triển theo xu thế chung. Thí dụ, ngày lao động ngày càng ngắn lại theo sự phát triển, cũng như quyền của con người. Cái thứ hai là, một nguồn gốc của vấn đề gây bức xúc hiện nay là việc phân bố lao động không hợp lý lắm. Ở thời kỳ đầu, chúng ta thấy, vùng phía bắc nông thôn đông dân ở đồng bằng Bắc Bộ người lao động rất nhiều, công việc rất ít, trong khi đó ở các tỉnh phía nam các doanh nghiệp thu hút nhân lực rất nhiều. Nên luồng di cư từ bắc vào nam tạo nên áp lực về nghỉ Tết, đi lại. Bây giờ, theo quan sát chúng tôi thấy tình trạng ấy ngày càng cân bằng hơn. (…) Cái tâm lý gắn kết với quê cha đất tổ có điều kiện để giải quyết thuận lợi hơn. Tôi nói như thế có thể phần nào là thụ động, vì tình trạng đó phải có thời gian mới khắc phục được, nhưng tôi cho là xu thế đó sẽ phù hợp hơn. Chứ còn ngay một lúc mà ta thay đổi, nhất là động vào cái tập quán, cái tín ngưỡng, tôi cho rằng sẽ rất là khó, và cái phản ứng sẽ dẫn tới cái gọi là « lợi bất cập hại ». Cuối cùng, cả hai nhu cầu, vừa bảo đảm cho sự phát triển của xã hội công nghiệp hiện đại, quản lý xã hội hiện đại, với việc duy trì những giá trị truyền thống đều không đáp ứng được. (…)

Vấn đề còn lại có lẽ là cái tâm lý nông dân trong người lao động công nghiệp, thì nó đòi hỏi là phải có nền tảng vật chất, để thực sự con người thay đổi được nếp sống, thì cũng thay đổi được tâm lý. Cộng với việc ta giải quyết một cách hài hòa, ví dụ như việc giảm khoảng cách địa lý giữa nơi làm việc và quê quán. Ngay bây giờ thôi tâm lý của vùng nông thôn cũng thay đổi nhiều, quá trình đô thị hóa cũng đang diễn ra, việc kéo dài thời gian lễ hội, hay những sinh hoạt theo tập quán, tôi nghĩ tự thân nó cũng có những biến động. (…) Truyền thống cũng phải phát triển, chứ không phải cứ y nguyên như cũ. (…) Quan sát ngay trong các lễ tết ở nông thôn bây giờ cũng giản tiện hơn trước rất nhiều. Còn chúng ta hay đưa ra con số hàng mấy nghìn cái lễ hội, thật ra nó chỉ là các sinh hoạt trong cộng đồng làng xã thôi, chứ còn một số lễ hội đã chuyển hướng từ đi hội sang du lịch rồi. Tôi nghĩ, nếu tổ chức xã hội tốt, thì sẽ giải quyết được.

Thực ra là, nhìn vào cái tâm lý gọi là truyền thống ấy, quan trọng nhất vẫn chỉ là trở về với gia đình, và có một số sinh hoạt quan trọng nhất, như là mồ mả tổ tiên, hay lễ hội của làng mình thôi, còn sự kéo dài (thời gian nghỉ Tết), tôi cho rằng là do quản lý lỏng lẻo thôi, hoặc do người lao động chưa thiết tha với lợi ích mà họ được hưởng trong các doanh nghiệp mà họ làm việc thôi. Chứ tôi quan sát thấy không ít doanh nghiệp họ quản lý rất chặt, nhưng với điều kiện là họ phải tạo ra cho người lao động những lợi ích tương xứng, thì tôi thấy họ vẫn làm rất nghiêm chỉnh. Chính tình trạng (bê trễ ngày Tết) nên lên đấy, hoặc là công chức do tình trạng buông lỏng như hiện nay, và thứ hai là người lao động « đơn giản », nên thu nhập của họ không đáng kể, nên họ sẵn sàng bỏ việc lúc nào cũng được. Cái tâm lý ấy và quản lý ấy đúng là nó phương hại đến việc quản lý tổ chức và phát triển xã hội công nghiệp hiện đại. (…)

Tôi thấy cũng không nên coi cái tập quán hay cái văn hóa ngày Tết âm lịch của người Việt Nam là cái bất biến, nên tôi thấy, nếu quy định trong một khoảng thời gian nghỉ thích hợp nào đó, cộng với cách quản lý sử dụng cũng như đãi ngộ cho người lao động, thì tôi cho là về căn bản có thể khắc phục được.

Muốn thay đổi ngày Tết âm lịch phải đến thế hệ sau

Về đề xuất của nhà nông học Võ Tòng Xuân, giáo sư Trần Lâm Biền chê trách sự vội vã và khẳng định cần phải tìm hiểu kỹ những mặt tiêu cực có trong các phong tục tập quán, trước khi muốn phê phán và sửa bỏ.

Giáo sư Trần Lâm Biền : Cái Tết âm lịch rõ ràng là có nhiều cái không hay, nhưng mà, khi người ta chuẩn bị cho cái Tết, thì người người vui vẻ, người người háo hức. (Tất cả mọi người) Già trẻ, có một cái gì đấy, để người ta tìm lấy hạnh phúc, mà họ thiếu ở trong năm. Còn cái năm dương lịch, thì chả có cảm xúc nào với họ cả. (…)

Bây giờ mình chỉ hỏi ông một điều như thế này. Tức là khi những người ở bên Châu Âu, bên Mỹ, họ về đây họ ăn Tết, để làm cái gì, trong khi họ đã quá quen với cái Tết dương lịch. Tại sao họ lại về ? Nó phải có một cái gì đấy không thể thay đổi nhanh được đâu. Cái nền kinh tế nó phải phát triển đến một mức độ nhất định. Nếu mà muốn thay đổi, thì phải thế hệ sau, chứ không phải thế hệ này.

Tập quán lạc hậu thì phải giáo dục, chứ không phải là cấm đoán, phải giải thích cho người ta. Nó lạc hậu đâu, ta bỏ đấy. Còn cái gì là tích cực, cái gì là văn hóa, thì ta sẽ giữ. Nếu chưa nói được những điều xấu xa của nó, và chưa hiểu nó, thì đừng bàn đến chuyện xóa bỏ nó.

Những gì thuộc về truyền thống và tốt đẹp thì nên giữ

Bạn Ngô Thị Hồng Nhung, trưởng nhóm từ thiện Tình nguyện niềm tin, chia sẻ các tâm sự vì sao bạn lại gắn bó với dịp Tết cổ truyền :

Chị Ngô Thị Hồng Nhung : Em cũng có đọc thông tin về đề nghị làm Tết dương lịch, chứ không ăn Tết âm lịch. Em thì, chắc là cũng hơi là người truyền thống một chút nên là, nên là em vẫn thích là có thời gian, mình có cái Tết nguyên đán riêng, và sẽ ăn Tết vào âm lịch, chứ không vào dương lịch. Tại vì nó là ngày Tết cổ truyền, vì nó có cái đặc sắc riêng. Em nghĩ rằng là, những cái gì thuộc về truyền thống và những điều tốt đẹp thì mình nên gìn giữ. Còn nếu vì lấy lý do, cho rằng việc hội nhập khi mình ăn Tết âm, thì nó sẽ ảnh hưởng đến các công việc giao dịch kinh doanh, với các bạn đối tác nước ngoài… thì em nghĩ mỗi dân tộc sẽ có những bản sắc riêng, sẽ phải (được) tôn trọng và thích nghi.

RFI : Bạn có thể cho biết, bản sắc riêng trong ngày Tết âm lịch, cụ thể là gì ?

Chị Ngô Thị Hồng Nhung : Em thấy là, khi tất cả mọi người, khi đi làm ăn xa, khi chuẩn bị Tết âm lịch, sẽ tính toán để thu vén công việc, để làm sao được về nhà quây quần với gia đình, được đi chúc Tết họ hàng, đi tảo mộ ông bà, đi thăm hỏi nhau những ngày Tết, và ăn những món ăn truyền thống.

RFI : Giả dụ như tất cả những sinh hoạt đó vẫn được duy trì, chỉ có điều được chuyển sang một thời điểm khác, ví dụ như đầu năm dương lịch, thì bạn thấy thế nào ?

Chị Ngô Thị Hồng Nhung : Em nghĩ là thời điểm giữa Tết âm lịch và Tết dương lịch nó cũng khác nhau. Có thể vì em ở ngoài miền bắc, thì cái cảm nhận về mùa xuân, về không khí Tết nó sẽ khác hẳn, ví dụ như trong nam chẳng hạn, khi chỉ có hai mùa thôi. Em nghĩ rằng, đến tầm khoảng tháng 1 dương lịch, thì đào chưa nở đâu. Em nghĩ rằng, còn có cả yếu tố về mặt tâm linh, tức là nó là truyền thống, những điều tốt đẹp từ xưa để lại. Nó còn cả về mặt thời tiết, mùa màng, rồi nhiều yếu tố khác nữa… Thực ra thì, ngày Tết âm lịch, bây giờ lớn rồi, thì nhiều khi cảm thấy lo lắng và mệt mỏi nhiều, khi mà nghĩ đến Tết, phải lo Tết, một số vấn đề chi tiêu trong gia đình, hoặc một số vấn đề khác. Nhưng mà em vẫn thích ngày Tết âm lịch, bởi vì có một cái rất là đặc biệt, mà em rất là mong muồn, là mỗi năm, đến ngày cuối năm được về quê, song là đi tảo mộ, cùng với các bà, các bác ở quê, để ra mộ, thăm ông bà, thắp hương và mời ông bà về ăn Tết.

Chủ động lưu giữ, tốt hơn là để mai một

Nhà kinh tế Đỗ Tiến Long là một trong những người ủng hộ ý tưởng ăn Tết âm theo ngày Dương từ nhiều năm gần đây. Theo anh, đối thoại là con đường hết sức quan trọng để có thể tìm ra một giải pháp cho phép bảo tồn những gì tinh túy trong truyền thống và có các thay đổi hướng đến hội nhập với thế giới.

Nhà kinh tế học Đỗ Tiến Long : Bản thân tôi thì vẫn cảm nhận thấy những cái nét đẹp, cũng như cái hân hoan, cảm xúc của ngày Tết, nhưng đồng thời, thì tôi cũng nhận thấy là, dù muốn hay không muốn, thì nó cũng sẽ mất đi một cách tự nhiên (?!). Thế thì nếu mà, để nó mất đi một cách tự nhiên, chúng ta chán ghét nó, thấy nó hoàn toàn không phù hợp nũa, chúng ta bỏ đi, thì có thể chúng ta mất tất cả.

Cả hai thứ đều quan trọng : Bảo tồn các giá trị văn hóa, đồng thời văn hóa nó chỉ phát triển được trong một đời sống kinh tế lành mạnh, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu, năng suất của các doanh nghiệp, của người lao động Việt Nam, nhìn chung vẫn còn rất là thấp. Thế rồi, để hai ba tháng (nghỉ Tết) như vậy, rồi kéo theo một tâm thế chuẩn bị Tết, rồi sau Tết. (…)

Nó (việc thay đổi ngày ăn Tết) là sự chuyển biến thay đổi không phải nho nhỏ, mà đây là sự thay đổi mang tính nhận thức. Chính vì thế tôi gọi là "một tiếp cận mềm", nó đòi hỏi tất cả mọi người cảm thấy cần thiết, và đồng thời trong chính sách đưa ra, có cái giải pháp cho cái việc bảo tồn như thế nào. Mọi người cùng thấy là chúng ta không mất mát gì cả. Rồi thì, trong các hoạt động kinh tế, ví dụ như các doanh nghiệp có các thưởng cuối năm dương lịch lớn hơn âm lịch chẳng hạn, để hướng các hoạt động kinh tế và các hoạt động văn hóa nó mang tính trọng tâm hơn, tìm thấy cái tiếng nói chung trong hoạt động kinh doanh toàn cầu, nhưng đồng thời, bảo tồn được một cách tốt nhất các giá trị truyền thống tốt đẹp.

Tôi nghĩ rằng, những hành vi vẫn quan trọng với người Việt Nam, như thăm mộ ông bà trong trước ngày Tết, hay là cái việc cúng tiễn năm cũ, rồi giao lưu chia sẻ thăm hỏi, chúc mừng trong ngày Tết, tôi nghĩ những hoạt động đó vẫn mang tính tích cực và nó vẫn in sâu vào trong đầu mỗi người. Tôi nghĩ những việc đó chúng ta vẫn có thể duy trì được. Tôi nghĩ rằng, đây là quá trình nhận thức, có bề dày trầm lắng, có thể nói rất phức tạp, nên là nó cần có các diễn đàn cởi mở để chúng ta trao đổi với nhau. Cá nhân tôi không bao giờ nghĩ, sau khi trao đổi như vậy, thì mọi thứ sẽ thay đổi trong một năm, một tháng, hay sau một quyết định cả. Bản thân quá trình trao đổi đó nó cũng cho chúng ta một cách học lẫn nhau. Sự chủ động tích cực bao giờ cũng giữ lại, lưu truyền một vẻ đẹp tốt hơn. Như là một ví dụ ai cũng nhìn thấy là, cái cái áo dài không phải là một hình ảnh đặc truyền thống, mà bản thân nó cũng tiếp nhận rất nhiều giá trị, nét đẹp của những văn hóa khác, hay trang phục khác, nhưng nó vẫn là niềm tự hào và được coi à truyền thống. Điều đó cho thấy, sự chủ động lưu giữ sẽ tốt hơn là để cho nó mai một đi. Đó cũng là tâm sự của tôi trong ngày cuối năm.

Vấn đề chủ yếu là sử dụng thời gian và tài chính hiệu quả, hợp lý

Để khép lại tạp chí, chúng tôi xin chuyển đến quý vị tiếng nói của bạn Thái Dzuy, thành viên sáng lập nhóm từ thiện Người tôi cưu mang.

Anh Thái Dzuy : Cái chủ đề này được bàn luận rất là nhiều, trên tất cả các diễn đàn. Thực ra là rất khó khi nói lên quan điểm của cá nhân, vì nó sẽ đụng chạm đến rất nhiều thứ, vì cái truyền thống của dân tộc mình rất là lâu rồi.

Nói chung là, những người trẻ như tụi mình, lớn lên sau này, sống trong thế giới hiện đại, và tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau, nên chắc chắn trong tư tưởng nó sẽ bị ảnh hưởng những « luồng gió mới ». Thực ra là, mình cũng đi làm cho các công ty nước ngoài, từ rất sớm, từ ngay khi tốt nghiệp đại học. Quan điểm của mình rất là thoáng.

Mình nghĩ rằng là, Tết tây hay Tết ta không quan trọng lắm với mình. Mình xác định rằng, miễn là mỗi dịp nghỉ đó chúng ta thực hiện được những điều tốt, thí dụ là về sum họp với gia đình là một, thứ hai là làm những điều tốt, cầu mong những điều tốt đẹp cho người khác, cho người thân, cho bản thân, cho mọi người. Và thứ ba là, mình sử dụng quỹ thời gian, cũng như là cái tài chính một cách hiệu quả hợp lý, thì Tết tây hay là Tết ta nó đều mang ý nghĩa tốt đẹp cho mỗi người. Còn quan điểm của mình là gộp chung Tết tây hay là Tết ta, thì thực sự là một vấn đề lớn, xin phép mình không trả lời ở đây. Còn quan điểm cá nhân của mình, thì Tết nào mình cũng trân trọng nó cả, mình không lãng phí, mình sử dụng cái quỹ thời gian, cũng như tài chính một cách hợp lý.

Mang lại các hỗ trợ cho nhiều người bất hạnh trong suốt năm, vào dịp Tết, các thành viên của nhóm Người tôi cưu mang, cũng như rất nhiều nhóm và các tổ chức từ thiện khác, lại hướng đến những người nghèo khổ, tật nguyền, bị bỏ rơi, để mong sao làm vơi bớt phần nào những cảnh đời bất hạnh. Sum họp, Trở Về, mở lòng hướng đến người khác, phải chăng là những điều làm nên sự kỳ diệu của ngày Tết mà nhiều người mong ước ?

RFI xin chân thành cảm ơn các vị khách mời đã dành thời gian cho chương trình và cảm ơn quý thính giả đã theo dõi. Xin chúc quý vị một Năm mới hạnh phúc. Hẹn gặp lại quý vị trong tạp chí lần tới.

Trích từ: viet.rfi.fr


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ăn tết ta theo ngày dương, nên hay không ?

Sưu tầm về Dịch thuyết

Một bài viết tổng hợp về Kinh Dịch của cụ Hà Uyên. Rất hay!
Sưu tầm về Dịch thuyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dịch dĩ đạo âm dương

"Dịch dĩ đạo âm dương" chỉ rõ nét đặc sắc của Kinh Dịch, trình bày về lý âm dương. Câu này, có xuất xứ trong Trang Tử - Thiên hạ luận, nguyên văn cả câu là: "Thi bày tỏ cái chí, Thư là để thuật lại công việc, Lễ là để hướng dẫn hành động, Nhạc là để dẫn dắt chí tuệ. Dịch nói về lý âm dương, Xuân Thu chỉ rõ danh phận".

Trang Tử - Thiên hạ thiên viết: "Dịch là để nói về âm dương". Sử ký - Thái Sử công tự tự viết: "Dịch làm sáng tỏ trời đất, âm dương, tứ thời, ngũ hành. Cho nên Dịch sở trường ở chỗ biến". Những lời đó đều nói về tôn chỉ căn bản của Dịch, là vạch rõ quy luật tự nhiên biến hóa của âm dương. Hàn Khang Bá - Hệ từ truyện chú kế thừa Vương Bật lấy Lão Trang để giải thích tông chỉ của Dịch, viết: "Đạo nhất âm nhất dương gốc ở Hư vô. Lại nói: Đạo là gì? Đó gọi là Vô. Không có gì không thông, không có gì là không bắt nguồn từ đó, cái đó gọi là Đạo. Đã là tịch nhiên vô thể, thì không thể là Tượng, phải vận dụng hết "Hữu" thì "Vô" mới hiển dụng. Cho nên đến như "Thần vô phương nhi Dịch vô thể", thì Đạo có thể thấy được vậy. Bởi thế, cùng biến thì tận thần, nhân thần mà minh đạo, âm dương tuy khác nhau, nhưng đồng nhất ở Vô. Ở âm mà vô âm, âm do đó sinh ra; ở dương mà vô dương, dương do đó mà hình thành, cho nên nói 'nhất âm nhất dương' vậy".

Tư Mã Thiên, người thời Tây Hán nói "Dịch dĩ đạo hóa". Ông cho rằng, nội dung đặc sắc của Kinh Dịch là ở chỗ nó nêu lên cái lý biến hóa của sự vật, cho nên ông nói: "Lễ là để ước chế lòng người, Nhạc là để khởi phát cái hòa, Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để biểu đạt tâm trạng, Dịch là để chỉ ra sự biến hóa, Xuân Thu là để chỉ ra cái 'nghĩa'. Kéo đời loạn đưa trở về ngay chính, không gì hơn là đọc Xuân Thu".

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Thần diệu biến hóa, khiến cho dân noi theo"; và, "Thấu hiểu được lẽ thần diệu, biết được lẽ biến hóa, đức sẽ lớn mạnh vậy".

Sử ký - Hoạt kê liệt truyện tự Khổng Tử nói: "Lục nghệ, quy về nói từng thứ một thì, Lễ là để chế ước con người, Nhạc là để khởi phát cái 'hòa', Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để diễn đạt tâm trạng, Dịch là để tỏ rõ thần kỳ biến hóa, Xuân Thu nói về cái nghĩa. Thái sử công nói: Đạo trời lồng lộng, chẳng lớn lắm sao? Trong cái lời nói vi diệu ấy, cũng có thể hiểu được".

Hệ Từ - Thượng truyện viết: "Ôi, đạo của Dịch rộng thay, lớn thay! Lấy nó mà nói về việc ở xa thì không bao giờ cùng, lấy nó mà nói về việc ở gần thì bình thản chính đính, nó bao gồm đầy đủ cả mọi việc trong trời đất". (Phù dịch quảng hĩ, đại hĩ! Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự. Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc tỉnh nhi chính. Dĩ ngôn hò thiên địa chi gian tắc bị hỉ). Việc lập ra quẻ, từ gốc đến thân, từ thân ra cành, tự nhiên thuận hành, đủ trời đất người, có phân có hợp, có tiến có thoái, có ngang có dọc, có thuận có nghịch, v.v...nhưng không có gì, đi mà không lại, tới mà không lui, thấu hiểu tự nhiên.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa nói: "Câu trên là muốn chỉ rõ tầm vóc quảng đại của Dịch lý. Lẽ biến hóa của Dịch thông khắp bốn phía xa, cho nên gọi là 'quảng'; nó thông tới tận trời, cho nên gọi là 'đại". Lại nói: "cái lẽ biến hóa của Dịch cùng cực u thâm, không bao giờ ngừng nghỉ", "cái lẽ biến hóa của Dịch, ở nơi gần, thì giữ được bình thản yên tĩnh mà chính đính, không hỗn loạn vậy".

Du Diễm - Chu Dịch tập thuyết nói: "Đạo Dịch rất quảng đại. Từ việc gần, việc xa, cho đến mọi việc trong trời đất này, không có gì không phải là Dịch. Lấy Dịch mà suy việc xa thì lý thông suốt, không hề trở ngại. Lấy Dịch mà bàn việc gần, thì lý đầy đủ rõ ràng ngay trước mắt, thản nhiên mà chính đính.Lấy Dịch mà bàn luận mọi việc trong vòng trời đất, thì lý lẽ của mọi sự mọi vật đều đủ cả trong đó. Có thể gọi là quảng đại vậy".

Lễ ký - Kinh giải viết: "Khiết tịnh tinh vi, Dịch giáo dã" (Trong sạch thuần khiết, tinh vi, đó là cái giáo lý của Dịch vậy). Chú giải cho câu nói này, Khổng Dĩnh Đạt - Lễ ký chính nghĩa viết: "Dịch cho rằng, đạo làm người ngay chính gặp điều lành, tà vạy ắt sẽ gặp điều dữ, không dâm lạm thái quá, như vậy gọi là 'khiết tịnh'; cùng lý tận tính, lời lẽ vi nhiệm thì gọi là 'tinh vi' vậy".

Dịch chi thất tặc

Câu nói này được viết trong Lễ Ký - Kinh giải. Ý nghĩa câu "dịch chi thất tặc" cho rằng nghiên cứu Dịch, nếu không biết tự tiết chế trong lời dạy của Dịch, thì sẽ có mối lo làm tổn thương tới Lý, làm hại tới vật. Làm người mà cung kính, không cẩu thả thì đủ để giúp cho nội tâm được chính trực. Hành vi thích hợp cũng đủ để giúp cho vẻ ngoài được đoan phương. Trịnh Huyền - Lễ Ký chú viết: "Thất, có nghĩa là không có khả năng tiết chế trong lời dạy của Dịch", lại nói "Dịch tinh vi, ái ố tương công, viễn cận tương thủ, tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại". Nghĩa là: Đạo Dịch rất tinh vi, yêu ghét đối chọi nhau, xa gần chấp thủ nhau, vậy thì nó không thể chứa người khác ý, nếu không sẽ dẫn tới tai hại.

Khổng Dĩnh Đạt - Lễ Ký chính nghĩa viết: "Dịch chủ ở sự thuần tĩnh nghiêm chỉnh, xa gần chấp thủ nhau, yêu ghét đối chọi nhau, nếu không biết tiết chế, ắt sẽ bị tai hại". Khổng Dĩnh Đạt lại phân tích lời chú giải của Trịnh Huyền "Dịch tinh vi", ý muốn nói Dịch lý rất vi diệu sây sắc, cầu tránh xác đáng, không dung chứa người khác mình. Dịch nói "ái ố tương công" là để chỉ sáu hào của quẻ Dịch, hoặc hào âm cưỡi hào dương, hoặc hào dương nén hào âm, kề cạnh nhau mà không có sở đắc, gọi là "ái ố tương công". Nói "viễn cận tương thủ", là chỉ bỉ thủ có ứng là xa gần hợp nhau. Hoặc nếu xa mà không có ứng, gần mà không hợp nhau, thì không thể hòa hợp đến với nhau được.

Câu "tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại", là ý muốn nói, nếu ý hợp nhau thì dù xa mà vẫn yêu nhau; nếu ý xa nhau, thì có gần mà vẫn ghét nhau, tức là không nên cùng với người không giống mình, nếu không sẽ bị tổn hại như bị giặc làm hại vậy.

Dịch khí tòng hạ sinh

Chu Dịch Càn tạc độ có câu: "Dịch khí tòng hạ sinh", nghĩa là Dịch lý thuyết minh quá trình phát sinh của sự vật, đều xuất phát từ sự vận động của "Khí"; mà sự sinh - thành của Khí đều thuận từ dưới lên trên, từ vi tế đến hiển hiện rõ ràng. Do vậy, 6 hào của các quẻ trong Dịch, đều được liệt theo thứ tự từ dưới lên trên.

Chu Dịch Càn tạc độ viết: "Vật do cảm nhau mà động, các vật cùng loại thì ứng với nhau, Khí của Dịch được sinh ra từ dưới". "Khí của trời đất tất có đầu có cuối. Vị trí của sáu hào đều từ dưới lên trên. Cho nên, Dịch bắt đầu từ cái Một, một phân ra hai, hai thông ở ba,... ở bốn, thịnh ở năm, kết thúc ở trên cùng".

Trịnh Huyền chú: "Dịch vốn không có hình, từ vi tế mà hiển hiện ra, khí từ dưới sinh ra, nên lấy hào dưới cùng làm khởi đầu vậy". "Dịch vốn không có hình thể, do Khí biến mà sinh ra cái Một, cho nên Khí từ dưới mà sinh ra".

Bàng thông

Điều lệ dịch học do Ngu Phiên đề xướng. Ý nói hai quẻ sáu hào so sánh với nhau, thể của hào âm dương khác nhau, tức là đây là dương thì kia âm, đây là âm thì kia dương, bàng thông với nhau từng cặp một. Ngu Phiên nói: "Quẻ Tỵ bàng thông với Đại hữu, quẻ Đại hữu bàng thông với quẻ Tỵ". Các quẻ khác giống như vậy.

Bàng thông là một trong những điều lệ quan trọng trong Dịch thuyết của Ngu Phiên. Xét, Văn ngôn truyện quẻ Càn nói: "Lục hào phát huy, bàng thông tình dã", ý nói hào của Dịch biến động chẳng dừng. Ngu Phiên đã căn cứ vào đây mà lấy danh từ "bàng thông", nhưng biến đổi ý nghĩa mà sáng tạo thành Dịch lệ của mình. Tới đời Minh thì Lai Tri Đức phát minh ra Tổng quái, Thác quái, được người đương thời gọi là "tuyệt học", trong đó Thác quái tức là áp dụng lệ Bàng thông của Ngu Phiên.

Trích dẫn

Sáu Hào phát huy biến động, biến thông tình - lý sự vật. Hào ở quẻ này là Âm, thì hào tương ứng của quẻ kia là Dương. Ở quẻ này là hào Dương, thì hào tương ứng ở quẻ kia là Âm.

Một sự vật nếu có thành tựu, thì sự vật ấy ắt phải đắc vị - đắc thời - đắc trung. Muốn duy trì một sự vật gì (?), thì chớ để nó phát triển tối đa, mà phải luôn cảnh giác phòng bị mặt trái của nó. Có như vậy, mới không nhận lấy mặt trái của nó.

Cho nên nói tình dã

Thành Ký tế định

Một trong những điều lệ Quái biến do Ngu Phiên đề xướng, nói rằng các hào vị bất chính đều sẽ biến thành chính, quẻ thành Ký tế, hào vị mới định.

CHI CHÍNH

"Chi" giống như nói "biến". "Chính", là chỉ hào âm cư âm vị - ngôi vi chẵn, hào dương cư dương vị - ngôi vị lẻ. Đây là một trong những điều lệ do Ngu Phiên đề xướng.

Trong quẻ, phàm hào vị nào bất chính đều cần phải biến cho thành chính, tức là điều mà Dịch truyện cho là "chính" và "đáng vị", cũng gọi là "chi biến". Theo điều lệ này, thì hào Sơ phải là dương, hào Nhị phải là âm, hào Tam phải là dương, hào Tứ phải là âm, hào Ngũ phải là dương, hào Thượng phải là âm. Khi quẻ sáu hào đều "chính", thì quẻ thành Ký tế, hào vị đã định, bởi vậy còn gọi là "thành Ký tế định". Ngu Phiên dùng thể lệ này để thuyết giải nhiều thể lệ biến của Dịch. Như quẻ Truân lời hào Lục Nhị là "Thập niên nãi phu", ông giảng là: "Khôn số thập, tam động phản chính, Ly nữ đại phúc, cố thập niên phản thường nãi phu, vi thành Ký tế định dã". Có nghĩa là: quẻ Truân, Chấn hạ Khảm thượng, duy có hào Tam bất chính, biến động đến chính, thành Ký tế mà hạ thể là Ly, thì mới có lời giải thích như trên". Lại như tượng truyện hào Cửu Nhị quẻ Vị tế viết: "Vị Sơ dĩ chính, Nhị động thành Chấn, cố thành chính", hào Cửu Tứ nói: "Động chính, đắc vị", hào Lục Ngũ nói: "Chi chính tắc cát", hào Thượng Cửu nói: "Chung biến chi chính, cố vô cữu". Nghĩa là quẻ Vị tế sáu hào đều thất chính, Ngu Phiên thuyết giải năm hào đều nên biến đến chính. Duy thiếu chỉ có một hào Lục Tam thì cũng theo lệ ngày mà suy ra.

Tam biến thụ thượng

Ngu Phiên đề xuất điều lệ Dịch học, chỉ hào thứ Ba biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng, còn gọi là "Quyền" hay là "Quyền tượng". Chu dịch tập giải khi bàn về quẻ Gia nhân, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Hào Tam đã biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng. Đổi thì được đắc vị. Cuối cùng sẽ tốt". Lại dẫn Tượng truyện nói: "Chỉ hào Tam động. Hào Thượng đổi vị trí với hào Tam thành Ký tế định". Đây là nói quẻ Gia nhân chỉ có hào Thượng Cửu là thất chính, thì lấy hào Cửu Tam đã chính, biến thành hào âm, đổi vị trí với hào Thượng Cửu, thì sau hào đều chính mà thành Ký tế.

Xét thấy, lệ này của Ngu Phiên, lời chú ở sách Chu dịch tập giải đã dẫn, chỉ thấy có hai quẻ Gia nhân và Tiệm, đều thuộc quẻ mà hào Tam và hào Thượng là hào dương. Hào Tam là dương, vốn đã được chính, lại biến thành hào không chính, sau đó đổi ngôi vị với hào Thượng Cửu, khiến hai hào đều được chính. Phép này ngược với lệ: "Chi chính thành Ký tế". Bởi vậy, Ngu Phiên mới tự đặt tên là phép Quyền nghi.

Chu dịch tập giải ở hào Thượng Cửu quẻ Tiệm dẫn chú Ngu Phiên, nói: "Hào Tam đã đắc vị, lại biến nhận với hào Thượng là quyền. Khổng Tử nói: có thể hợp đạo, không thể quyền nghi, cũng không lạ vậy".

Phản quái

Điều lệ Dịch học do Ngu Phiên đời Tam quốc đề xướng. Nghĩa là lấy 6 hào của quẻ 6 vạch đảo ngược lại thành quẻ khác. Như quái tượng quẻ Quán, đảo ngược lại thì thành quái tượng quẻ Lâm. Quẻ Quán và quẻ Lâm hỗ nhau, thành quẻ phản quái.

Người đời sau cũng gọi là quẻ "phản đối", gọi như vậy thấy không chính đính với học thuyết của Ngu Phiên, do vì chữ "đối" theo nghĩa âm đối dương hay dương đối âm, ví như quẻ Quán có quẻ đối là quẻ Đại quá.

Nhưng trong 64 quẻ của Kinh, có 8 quẻ gồm Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Trung phu, Tiểu quá, Đại quá có hình quẻ đặc biệt, đảo ngược cũng không biến đổi, nên không có "phản quái".

Lý Đỉnh Tộ - Chu dịch tập giải ở phần quái từ quẻ Di, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản phục không suy, cũng như Càn Khôn Khảm Ly Di Trung phu Tiểu quá Đại quá". Trong Dịch thuyết của Ngu Phiên, dùng rất nhiều thí dụ về "phản quái". Như Chu dịch tập giải, ở quái từ quẻ Thái, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản là Bĩ. Ở quái từ quẻ Minh di lại nói: phản là Tấn. Ở quái từ quẻ Tiệm nói: phản thành Quy muội, v.v..." Xét, thể lệ phản quái, hoặc phản đối, thực ra là một trong những đặc trưng vốn có của hình thái 64 quẻ trong Kinh.

Tuân Sảng

Tuân Sảng (128 - 190), người Dĩnh Xuyên, Dĩnh Âm, này là thành phố Hứa Xương, tỉnh Hà nam, thời Đông Hán, tự là Từ Minh, còn có tên là Tư. Thủa nhỏ ham học, 12 tuổi đã đọc được Xuân Thu, Luận Ngữ, ông đam mê kinh truyện, không chúc mừng thăm viếng ai, được người đương thời gọi là "Tuân thị bát long, Từ Minh vô song", và được Thái úy Đỗ Kiều khen rằng "có thể làm thầy người khác".

Hậu Hán thư - Tuân Sảng truyện, thì trước tác rộng khắp các loại kinh, tử, sử cộng hơn trăm thiên của ông đều thất truyền. Về Dịch học theo cổ văn Dịch của Phí Trực, lấy Thập dực giải thích nghĩa Kinh, ông đã sáng tạo nghĩa lệ đặc trưng "Càn Khôn thăng giáng", kết hợp dùng cả thể lệ quái biến, tiêu tức để giải thích yếu chỉ của Kinh, tác phẩm Dịch giải của ông đã thất truyền.

Hậu Hán thư - Nho lâm truyện viết: "Vào thời Kiến Vũ, Phạm Thăng truyền bá Mạnh thị Dịch để dạy cho Dương Chính, còn Trần Nguyên và Trịnh Chúng đều truyền bá Phí thị Dịch, về sau Mã Dung cũng truyền dạy cho Trịnh Huyền. Trịnh Huyền soạn Dịch chú, từ đó Dịch học họ Phí thịnh hành, mà Dịch học họ Kinh suy yếu".

Quái biến, thể lệ Dịch học của Tuân Sảng, có thể thấy được đại cương phép quái biến thông qua phép Càn Không thăng giáng, nhưng còn có biệt lệ:

1- Có loại từ Càn Khôn mà biến ra, như Thoán truyện quẻ Khiêm dẫn lời Tuân Sảng nói: "Càn lai chi Khôn" (Khôn từ Càn mà biến ra), lại dẫn trong Thoán truyện quẻ Giải: "Càn động chi Khôn, Càn Khôn giao động, động nhi thành Giải" (Càn động biến thành Khôn, Càn Khôn giao động, do động mà biến thành Giải).

2- Có loại từ Lục tử biến ra, như Thoán truyện quẻ Truân nói: "Đây vốn là quẻ Khảm. Xét, hào Sơ thăng lên Nhị, hào Nhị giáng xuống Sơ, đó là cương nhu bắt đầu giao nhau". Lại dẫn Thoán truyện quẻ Mông nói: "Đây vốn là quẻ Cấn. Xét, hào Nhị tiến lên (thăng) chiếm ngôi hào Tam, hào Tam lùi xuống (giáng) hào Nhị, cương nhu đắc trung cho nên thông".

3- Có loại từ tiêu tức quái biến ra, như quái từ quẻ Tụng dẫn lời Tuân Sảng nói: "Dương đến chiếm ở hào Nhị mà phu động ở hào Sơ". Tiêu Tuần cho rằng ở đây nói quẻ Tụng là gốc ở quẻ Độn. Lại như Thoán truyện quẻ Bĩ dẫn: "Đây vốn là quẻ Thái chỉ âm từ trên xuống, ở vào giữa quẻ Càn".

Dịch thuyết của Tuân Sảng nói đến quái biến còn lại không nhiều, lệ ấy có phải chỉ chừng ấy không, thì chưa rõ. Đến khi Dịch học của Ngu Phiên ra đời, thì thể lệ quái biến càng trở nên tỉ mỉ và có hệ thống.

THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương".

Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn. Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người hậu Hán chú Dịch thường dùng Nguyệt quái nhưng không nói rõ, cho rằng Nguyệt quái mọi người đều biết, bất tất phải nói kỹ, điều đó cho thấy tính quan trọng của Nguyệt quái".

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy".

TRỊNH HUYỀN VÀ DỊCH VĨ CHÚ

Trịnh Huyền là Kinh học gia, Dịch học gia nổi tiếng đời Hán. Cống hiến quan trọng đối với Dịch học của ông là: chú thích kiệt xuất công trình Dịch Vĩ, với trước tác đồ sộ và sắc bén, Trịnh Huyền đã trở thành tập đại thành của Tượng - Số dịch học đời Hán.

Trịnh Huyền (127 - 200) người đất Cao Mạt, thời Đông Hán, tự là Khang Thành, ông nổi danh là một đại sư về Dịch học, tinh thông Ngũ hành, là người kế thừa đầu tiên của Kinh thị dịch học.

Trịnh Huyền nghiên cứu Phí thị dịch học, sau đó ông theo nhà kinh học nổi tiếng Mã Dung nghiên cứu Cổ văn kinh. Học xong, ông về làng giảng dạy ngũ kinh. Do chính biến giữa Hoạn quan với Đại thần thời Hán Linh Đế, ông bị bắt giam; Ra tù ông đóng cửa không đi đâu, ở nhà viết sách.

Ông trước tác nhiều về Ngũ kinh, hậu như chú giải toàn bộ, như Chu dịch chú - Tùy thư - Kinh tịch chí được chép thành 9 quyển, Dịch tán, Dịch luận, tác phẩm nổi tiếng nhất của Ông là Dịch vĩ chú được chép trong Tứ khố toàn thư. Đặc biệt của sách này là hào thần, thần ở đây có nghĩa chỉ về ngôi sao, vì Trịnh Huyền coi 12 hào của Càn và Khôn là 12 'thần' tức 12 ngôi sao, ông dùng Dịch để lập thuyết về Thiên văn học. Trịnh Trần đời Thanh có soạn 4 quyển Trịnh học lục, đây là tư liệu quan trọng để nghiên cứu về Trịnh học. Ngoài ra, Vương Ứng Lân thời Nam Tống biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú; Mã Quốc Hàn biên soạn Tân bản Trịnh thị Chu dịch; Viên Quân đời Thanh biên soạn Trịnh thị di thư.

Trịnh Huyền là đệ tử của Mã Dung, quan điểm học thuật giống như Mã Dung, trên cơ sở kế thừa Kinh thị dịch học mà phát huy Phí thị học.

Chu dịch chú của Trịnh Huyền đã thất lạc. Tùy thư - Kinh tịch chí đã sao chép được 9 quyển, đời sau có biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú một quyển, sách tương đối có tính đại biểu. Những tư liệu trong Tứ khố toàn thư còn lưu giữ đều là những tư liệu nghiên cứu về Trịnh Huyền với Dịch học.

Sách Dịch vĩ được Trịnh Huyền chú giải có trình độ lý luận rất cao. Trên cơ sở của Kinh Phòng về bát quái, hào vị tương kết tương hợp, Trịnh Huyền đã xây dựng thêm số Ngũ hành thành Đại biến số để giải thích số Đại diễn và số Trời Đất của Dịch.

Dịch nói: 天一地二。天三地四。天五地六。天七地八。天九地十。Thiên nhất Địa nhị, Thiên tam Địa tứ, Thiên ngũ Địa lục, Thiên thất Địa bát, Thiên cửu Địa thập”. Số lẻ là dương thuộc Thiên; số chẵn là âm thuộc Điạ. Cho nên ta mới có 10 số thiên-nhiên, dàn thành 5 cặp âm-dương: (1, 2), (3, 4), (5, 6), (7, 8), (9, 10). Trịnh Huyền chú giải: 河以通乾出天。洛以流坤吐地符。河龍圖發。洛龜書成。河圖有九篇。洛書有六篇。(Hoàng-hà để thông hiểu quẻ Kiền suy ra từ trời. Lạc-thủy để lưu hành quẻ Khôn nhả địa-phù. Hoàng-hà Long-đồ phát-xuất, Lạc-thủy Quy-thư hoàn thành. Hà-đồ gồm 9 thiên, Lạc-thư gồm 6 thiên).

Tiêu Diên-Thọ 焦延壽, tự Cống, là sư phụ của Kinh Phòng, đã truyền lại cho Kinh Phòng nguyên lý Hào thần. Sách có chép "Bát-quái Lục-Vị-Đồ 八卦六位圖", lấy ngũ-hành, 10 can (nạp-giáp), 12 chi (trang chi) phổ vào các hào của bát-quái. Đó chính là một thuật của Kinh Phòng. Phép Hào thần sau này đã được Trịnh Huyền sử dụng lấy làm hào âm dương để giải thích Dịch, được ghi lại trong sách Dịch Hán Học 易漢學 của Huệ-Đống 惠棟, Quyển IV, có chép Đồ này.

Số Ngũ hành được xuất hiện sớm nhất ở Thượng thư - Hồng phạm viết: "Đầu tiên là ngũ hành. Thủy nhuận hạ, hỏa viêm thượng, mộc khúc trực, kim tùng cách, thổ viên giá sắc" (Nước thấm xuống làm nên vị mặn, lửa bốc lên làm ra vị đắng, gỗ cong thẳng làm nên vị chua, kim theo thay đổi làm nên vị cay, đất để gieo cấy làm nên vị ngọt). Thông qua đây, Trịnh Huyền lấy số Ngũ hành để chú giải về số trời đất trong Dịch, viết: "Khí của trời đất mỗi thứ có 5. Theo thứ tự ngũ hành, 1 là thủy đó là số trời, 2 là hỏa đó là số đất; 3 là mộc đó là số trời; 4 là kim đó là số đất; 5 là thổ đó là số trời". Ông lại nói: "Số trời đất là 55, với ngũ hành khí thông. Phàm ngũ hành giảm 5, đại diễn lại giảm 1 cho nên thành 4".

Trịnh Huyền chú thích Dịch vĩ rất rõ ràng khúc triết, ông phát triển "Hào thần thuyết" của Dịch vĩ lấy 6 hào của quẻ, tương phối với 12 thần trong 1 năm. Cứ 2 quẻ Dịch đối, ứng trực cho 1 năm, 64 quẻ ứng trực cho một vòng 32 năm, khởi đầu từ hai quẻ Càn Khôn, kết thúc ở hai quẻ Ký tế và Vị tế. Mục địch của Trịnh Huyền là cho quái và hào tương ứng với nội hàm của Thời gian, dẫn tới hiệu quả Thời gian tương ứng với Tiết khí. Hào Thần đối ứng tương tự như với phương pháp Nạp giáp vào quẻ vào hào với vận trình thời gian cho từng năm mới. Tức là: đối với quẻ dương thì đi theo chiều thuận, đối với quẻ âm thì đi theo chiều nghịch. Ta lấy quẻ Càn Khôn làm ví dụ:

Càn vận hành theo chiều trái:

- Hào Thượng: tháng Chín - kiến Tuất

- Hào Ngũ: tháng Bảy - kiến Thân.

- Hào Tứ: tháng Năm - kiến Ngọ

- Hào Tam: tháng Ba - kiến Thìn

- Hào Nhị: tháng Giêng - kiến Dần

- Hào Sơ: tháng Một - kiến Tý.

Khôn vận hành theo chiều phải:

- Hào Thượng: tháng Tư - kiến Tị

- Hào Ngũ: tháng Hai - kiến Mão

- Hào Tứ: tháng Chạp - kiến Sửu

- Hào Tam: tháng Mười - kiến Hợi

- Hào Nhị: tháng Tám - kiến Dậu

- Hào Sơ: tháng Sáu - kiến Mùi

Trịnh Huyền dùng thuyết Hào thần để chú giải quẻ Dịch, chính là do Hào thần đã phản ánh được quy luật âm dương tiêu trưởng, khi Hào thần kết hợp với âm dương khí hóa, đã giải thích được sự thuận nghịch, thành bại của sự - vật, phát huy đầy đủ nguyên lý của Dịch về sự tương ứng giữa con người với thế giới tự nhiên.

Đặc điểm của Trịnh Huyền là lấy Kinh để chú giải Nghĩa, có nghĩa là lấy Dịch kinh chú giải Dịch truyện, cũng như lấy Kinh để giải Vĩ, đây là ông căn cứ vào thuyết lấy âm dương ngũ hành làm cơ sở, Ông đã đề xuất tăng cường ý - nghĩa cho âm dương của Tượng hào, đồng thời dùng Âm dương hào, để giải thích Dịch. Ông cũng đề xuất xây dựng quan điểm của Lão Tử để giải Dịch, như Trịnh Huyền chú Dịch vĩ với Dịch tam nghĩa, lấy tư tưởng vô vi vô vật của Lão để trình bầy mọi điều, Ông viết: "Noi theo Dịch mà vô vi, thì tính của thiên hạ không thể không tự hình thành. Với điều đó, ta có thể nói Dịch đạo là vô vi. Cho nên, trời đất, vạn vật, tất cả đều biến thông".

THUYẾT GIẢI DỊCH CỦA KINH PHÒNG

Kinh Phòng là người khai sáng phái tượng - số Hán dịch, cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học của Dịch học, sự phát hiện ra những điều mới trong Dịch của ông, đã gây được những ảnh hưởng sâu sắc. Đời sau đã coi ông với Mạnh Hỷ là đại biểu cho các nhà Dịch học đời Hán, điều này đã khẳng định vị thế của ông trong Dịch học.

Kinh Phòng (77 - 37 tr.CN) người Tây Hán, người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông vốn họ Lý. Ông học dịch ở Tiêu Diên Thọ, rất thích âm luật, sau chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển.

Ông biên soạn rất nhiều, nhưng theo Hán thư - Nghệ văn chí, thì nay chỉ còn 11 thiên Tai dị Mạch thị Kinh Phòng, 2 thiên Ngũ lộc xung Phòng lược thuyết, Kinh thị đoạn gia. Trừ 3 quyển Kinh thị dịch truyện ra, thì toàn bộ trước tác khác của ông đều thất lạc.

Kinh Phòng là riêng một học phái, đặc điểm về học thuật của ông là nhấn mạnh thuyết "thiên nhân cảm ứng", do làm rõ được về tai dị trong thiên nhiên, rồi từ đó Ông chiêm nghiệm khí số cho xã hội, nên được nhà vua ban thưởng. Kinh Phòng là mở đầu của phái tượng - số Dịch học. Tập Kinh thị dịch truyện là gốc của tượng - số, là ông tổ của chiêm nghiệm Dịch học.

THẾ - ỨNG

Thế - Ứng là điều lệ Dịch học của Kinh Phòng thời Tây Hán. "Thế" là chỉ quẻ nào đó, trong hệ thống bát cung quái, thuộc thế quái thứ mấy của Cung nào đó, như vậy có nghĩa là hào thứ mấy tức là hào "Thế".

"Ứng" là chỉ sau khi xác định hào của Thế quái, hào này nếu là Sơ thì ứng với hào Tứ, nếu là Tam thì ứng với hào Thượng. Ngược lại cũng như vậy.

Thế - Ứng trong Dịch thuyết của họ Kinh là rất quan trọng, là một trong những phương pháp cơ bản để đoán quẻ khi chiêm sự. Thượng Bỉnh Hòa bàn tới hàm nghĩa của Thế - Ứng và phương pháp suy tìm Thế - Ứng, Thế hào, Ông chỉ rõ: "Thế - Ứng là chủ trong quẻ, là chỗ dựa để suy đoán lành dữ, đại để như Trinh - Hối (tức là nội quái và ngoại quái). Thế là ta, Ứng là nó. Song Thế - Ứng xét ra gặp hào nào, vẫn vốn lấy gốc từ bản cung của quẻ Ngộ quái".

Do đó, tìm hiểu căn nguyên của Thế - Ứng của bất cứ một quẻ nào đó, đều phải khảo cứu Bản cung quái thuộc trong Bát cung quái. Lấy cung Càn làm ví dụ, hào Sơ biến là Nhất thế quái Thiên Phong Cấu, vì quẻ Cấu là từ hào Sơ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Cấu: Thế tức tại hào Sơ, Ứng tại hào Tứ. Hào Nhị của Càn lại biến, thì hào Nhị Thế quái Thiên Sơn Độn, vì Độn từ hào Nhị của quẻ Càn biến mà ra, nên Thế của quẻ Độn là hào Nhị, còn Ứng tại hào Ngũ. Hào Tam quẻ Càn lại biến thì thành Tam thế quái Thiên Địa Bĩ, vì quẻ Bĩ do hào Tam của quẻ Càn biến mà thành. Cho nên Thế của Bĩ là ở hào Tam, còn Ứng thì tại hào Thượng. Hào Tứ của Càn lại biến thì thành Tứ thế quái Phong Địa Quan, vì quẻ Quan là do hào Tứ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Thế của quẻ Quan là ở hào Tứ, còn Ứng thì ở tại hào Sơ. Hào Ngũ quẻ Càn lại biến thì thành Ngũ thế quái Thiên Địa Bác, vì quẻ Bác là do hào Ngũ quẻ Càn biến mà ra, cho nên Thế của quẻ Bác là ở hào Ngũ, Ứng tại hào Nhị. Hào Thương quẻ Càn chẳng thể biến đổi, nếu biến thì xuất cung. Sau khi do hào Ngũ của Ngũ thế quái Bác thoái lùi, thì hào Tứ lại biến thành Dương, thành ra Du hồn quái Hỏa Địa Tấn, Thế của Tấn lùi ở hào Tứ (giống với Tứ thế quái Quan), còn Ứng tại hào sơ. Lại do Tứ của Du hồn quái Tấn thoái lùi, hoàn toàn biến đổi ba hào ở dưới, thì thành Quy hồn quái Hỏa Thiên Đại hữu, Thế của quẻ Đại hữu lại lùi ở hào Tam (giống với Tam thế quái Bĩ), còn ứng tại hào Sơ. Còn như bản cung quái Càn là Thiên, thì Thế tại hào Thượng, Ứng tại hào Tam. Bảy cung còn lại cũng giống như vậy.

Khi tìm hiểu quy luật ở trong của Thế - Ứng, thì thấy Thế vị của Nhất thế quái cho đến Ngũ thế quái, lần lượt ở tại hào Sơ cho đến hào Ngũ, bản cung quái tại hào Thượng, thì Du hồn quái giống Tứ thế quái tại hào Tứ, Quy hồn quái giống Tam thế quái tại hào Tam. Xác định Thế hào rồi thì vị trí của Ứng hào sẽ rất dễ thấy. Cho nên Thượng Bỉnh Hòa nói: "Thế đã định thì cách hai hào là Ứng hào", nói cách hai hào là Ứng hào là cách nói giản tiện về sáu ngôi - vị chẵn lẻ âm dương tương ứng của các quẻ trong Dịch.

Kinh thị dịch truyện - về quẻ Quy hồn Đại hữu của cung Càn,Kinh Phòng nói: "Tam công lâm Thế, Ứng Thượng cửu vi Tông miếu". Từ Ngang nói: "Quy hồn đảm đương chức Tam công, Thế vị thì tại hào thứ ba, thế hào Thìn thổ tương ứng với Tông miếu hào Tị hỏa, (đó tức là hào Thượng, Thượng cư quái cực là tông miếu), Hỏa có khả năng sinh Thổ".

Phép Thế - Ứng mà các nhà bói toán đời sau vận dụng, là do Dịch học của Kinh Phòng mà ra. Các nhà dịch học Hán Ngụy, lưỡng Tấn như Tuân Sảng, Can Bảo,... thì lại thường lấy điều lệ "thế - ứng" để giải thích nghĩa của Dịch.

PHI – PHỤC

Điều lệ Dịch học do Kinh Phòng đời Hán đề xướng. "Phi" là chỉ Quái tượng của hào thế đã hiện rõ của một quẻ nào đó, của một cung nào đó. "Phục" là để chỉ Quái tượng đang ẩn phục chưa hiện rõ do hào thế, hoặc hào tương ứng với nó biến thành.

Phàm là tượng "phi - phục", thì phải có âm dương đối nhau, dương phi thì âm phục, âm phi thì dương phục. Chu Chấn - Hán thượng dịch truyện viết: "Phàm quẻ hiện rõ gọi là phi, quẻ chưa hiện rõ gọi là phục. Phi là mới đến. Phục là đã qua".

Kinh thị Dịch truyện trình bày thể lệ được thâu tóm như sau:

1. Bản cung quái trong Bát cung quái lấy âm dương đối nhau để hỗ thành "phi - phục". Như quẻ Càn và quẻ Khôn đối nhau, Càn là "phi" thì Khôn là "phục", Khôn là "phi" thì Càn là "phục". Tượng làm chủ là hào thế (hào Thượng Cửu Thượng Lục). Các cặp quẻ dịch đối Chấn - Tốn, Khảm - Ly, Cấn - Đoài cũng vậy.

2. Quẻ do Bát cung hóa sinh ra từ nhất thế đến ngũ thế, ba quẻ trước là "phi - phục" đối với nội quái, hai quẻ sau là "phi - phục" đối với ngoại quái. Như quẻ Cấu nhất thế quái của cung Càn, hào thế Sơ Lục đã hiển hiện mà cư ở nội Tốn, hào Sơ Cửu quẻ Càn được hóa sinh ra liền ẩn phục mà cư ở nội Càn, bởi vậy quẻ Cấu phi ở nội Tốn mà phục ở nội Càn, hào Sơ là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Độn nhị thế quái, phi ở nội Cấn phục ở nội Càn, hào Nhị là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Bĩ tam thế quái, phi ở nội Khôn phục ở nội Càn, hào Tam làm chủ tượng. Quẻ Quán tứ thế quái, phi ở ngoại Tốn phục ở ngoại Càn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Bác ngũ thế quái, phi ở ngoại Cấn phục ở ngoại Càn, hào Ngũ là chủ tượng. Bản cung còn lại theo đó mà suy.

3. Quẻ Du hồn là "phi - phục" với ngoại quái của ngũ thế quái bản cung. Quẻ quy hồn là "phi - phục" với nội quái của quẻ Du hồn bản cung. Như quẻ Tấn là quẻ Du hồn của cung Càn, hào thế Cửu Tứ đã hiển hiện mà cư ở ngoại Ly, hào Lục Tứ của quẻ ngũ thế quái Bác do quẻ Du hồn phục biến, liền ẩn mà cư ngoại Cấn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Quy hồn cung Càn là Đại hữu, hào Cửu Tam là hào thế, đã hiển hiện ra mà cư ở nội Càn, ba hào âm dưới quẻ Du hồn Tấn, phản quy phục biến, liền ẩn mà thành nội Khôn; bởi vậy quẻ Đại hữu phi ở nội Càn phục ở nội Khôn, hào Tam là chủ tượng. Bảy cung còn lại theo đây mà suy.

4. Khi chiêm quẻ, gặp hai hào động của bản quái, ba hào động của bản quái trở lên, thì lấy hào động trên cùng làm chủ tượng, xét từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, cũng đều căn cứ vào Quái từ Quái tượng và Hào từ Hào tượng để định cát hung.

Xét, về thể lệ "phi - phục", thực chất Kinh Phòng vận dụng nguyên lý đầy vơi, tiêu tức trong mâu thuẫn đối lập âm dương của Dịch, sau đó suy rộng phát triển mà thành. Từ Ngang trong Kinh thị Dịch truyện tiên nói: "Âm dương tiêu trưởng mà có phi-phục. Hiển là phi, ẩn là phục. Đã phi thì từ hiển mà ẩn; đã phục thì từ ẩn mà hiển. Trong phi có phục, trong phục có phi, tiêu tức tuần hoàn không cùng".

Hán thư - Kinh Phòng truyện viết: "Tiêu quái gọi là Thái âm. Tức quái gọi là Thái dương". Nhan Sư Cổ chú: "Tiêu quái gồm Cấu, Độn, Bĩ,Quán, Bác, Khôn. Tức quái gồm Phục, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn". Chu Hy chép ở đầu sách Chu dịch bản nghĩa có nói: "Thái dương sinh hai quẻ Càn Đoài. Thái âm sinh hai quẻ Cấn Khôn".

Kinh Phòng đã kết hợp, vận dụng cả Ngũ hành, Can Chi, Ngũ tinh, Tứ khí, Lục thân, Cửu tộc, Phúc đức, Hình sát, v.v...để giúp vào việc chiêm nghiệm. Các nhà bốc phệ đời sau đều lấy phép "phi-phục" của Kinh Phòng để xin âm dương chiêm đoán tai dị. Những nhà Dịch học thời Hán Ngụy như Tuân Sảng, Ngu Phiên lại thường dùng lý luận "dương hạ phục âm, âm hạ phục dương" trong thể lệ phi-phục để giải thích nghĩa của Dịch. Về câu "Lý sương kiên băng chí" trong Văn ngôn truyện quẻ Khôn, Tuân Sảng nói: "Sương là mệnh lệnh của Trời, dưới Khôn có Càn ẩn phục. 'Lý sương kiên băng', đó là nói đạo thuận tòng. Càn khí thêm vào, tính biến thành cứng. Như bề tôi thuận theo mệnh vua mà hoàn thành đạo làm tôi". Hoặc câu "Quân tử dĩ trí mệnh toại chí" trong Đại tượng truyện quẻ Khôn, Ngu Phiên nói: "Quân tử là chỉ hào Tam, dương đang ẩn phục".

Kinh Phòng kiên trì thuyết "quái khí" để bình nghị âm dương tai biến, cho nên di thuyết của ông truyền ở đời rất sâu rộng. Đầu quyển Thượng là: Càn cung bát quái, thứ đến Chấn cung bát quái, Khảm cung bát quái, Cấn cung bát quái. Đầu quyển Trung là: Khôn cung bát quái, thứ đến Tốn cung bát quái, Ly cung bát quái, Đoài cung bát quái. Đầu quyển Hạ bàn về Thánh nhân làm Dịch, phép đếm cỏ thi bày quẻ, rồi bàn về phép Nạp Giáp, sau đó bàn về 24 khí hậu phối hợp với 64 quẻ, và Tứ Dịch: Thiên dịch - Địa dịch - Nhân dịch - Quỷ dịch. Thiên quan, Địa quan và Ngũ hành sinh tử. Phép bói dùng đồng tiền đời sau thực ra xuất phát từ đây. Cách dùng Hỏa châu lâm cựu truyền cũng khởi đầu từ sách của Kinh Phòng.

DU HỒN

Du hồn là quẻ thuần bản cung của mỗi cung, khi biến đến hào thứ năm, thì hào trên không biến, mà lại đi xuống, biến ở hào thứ tư đã biến, quẻ được hình thành như vậy, thì gọi là quẻ Du hồn. Kinh thị Dịch truyện, đó là Du hồn". Lục Tích chú thích: "Khi âm đã bóc hết dương, nhưng dương đạo không thể bị diệt hết, vì vậy phản dương phục đạo. Nhưng không quay về ngôi bản vị, thì gọi là Du hồn theo "lệ" của Bát quái". Nói về quẻ Tấn: "Khí tinh túy thuần"

Xét, gọi tên Du hồn, vốn gốc từ Hệ từ - Thượng truyện "Tinh khí vi vật, du hồn vi biến". Kinh Phòng đã tiếp thu, lấy làm tên gọi cho quẻ hình thành bởi lần biến thứ sáu của Bản cung quái. Can Bảo chú giải về quẻ Tụng nói: "Quẻ Tụng là du hồn của quẻ Ly. Ly là binh qua, thiên khí hình sát, là quẻ mà vương công phải dùng tới quân đội".

QUY HỒN

Quy hồn là quẻ bản cung của mỗi cung, đã biến đổi tới lần thứ 6 thành quẻ Du hồn, thì đồng thời biến đổi 3 hào đã biến ở dưới quẻ, như vậy thì thành quẻ, gọi là quẻ Quy hồn. Kinh thị Dịch truyện trong mục quẻ Đại hữu nói: "Quẻ trở về bản cung gọi là Đại hữu, tượng trong thấy Càn là bản vị". Gọi là "Bản cung", hay "Bản vị" là chỉ cung Càn biến tới quẻ Quy hồn, thì ba hào dưới lại biến nữa mà trở về Càn. Như vậy, hào Sơ, hào Nhị, hào Tam đều biến hai lần. Hào Tứ biến lần hai thì được quẻ Du hồn.

Lục Tích chú thích rằng: "Tám quẻ vốn khởi từ cung Càn, tới Đại hữu là Quy hồn. Gọi là Quy hồn là nói về tượng của quẻ đó biến, mà quay trở về bản vị Hạ quái của bản cung". Tuân Sảng nói: "Tùy là quy hồn của Chấn, Chấn trở về (quy) từ Tốn (chỉ hạ thể quẻ tam thế Chấn thành Tốn, tới quẻ quy hồn mới hồi phục bản thể thành Chấn), cho nên rất thông thuận. Vì Tốn là khiêm tốn, hòa thuận, nên có nghĩa là Thông.

Kinh thị Dịch truyện nói: "Dịch của Khổng Tử chép: Có tứ dịch. Nhất thế Nhị thế là Địa dịch. Tam thế Tứ thế là Nhân dịch. Ngũ thế Bát thuần là Thiên dịch. Du hồn Quy hồn là Quỷ dịch". Lại nói: "Du hồn, Quy hồn là Quỷ dịch. Quỷ là lại quay về. Quẻ Du hồn từ hào thứ năm, thì quay về mà biến ở hào thứ tư; quẻ Quy hồn từ hào thứ tư, lại quay về mà biến ở ba hào ở dưới quẻ. Thể lệ này đều bao hàm cả tôn chỉ của sự 'quay về' (phục quy)".

Thế quái khởi Nguyệt lệ

Điều lệ Dịch học của Kinh Phòng. Phép này đem Bát cung quái chia ghép với 12 tháng. Không giống với thể chế đem quẻ ghép với tháng, trong Quái khí đồ của Mạnh Hỷ.

Khởi Nguyệt lệ:

- Nhất thế quái: âm làm chủ tháng Năm, vì một âm tại Ngọ. Dương làm chủ tháng Một, vì một dương tại Tý.

- Nhị thế quái: âm làm chủ tháng Sáu, vì hai âm tại Mùi, Dương làm chủ tháng Chạp, vì hai dương tại Sửu.

- Tam thế quái: âm làm chủ tháng Bảy vì ba âm tại Thân, dương làm chủ tháng Giêng, vì ba dương tại Dần.

- Tứ thế quái: âm làm chủ tháng Tám vì bốn âm tại Dậu, dương làm chủ tháng Hai vì bốn dương tại Mão.

- Ngũ thế quái: âm làm chủ tháng Chín vì năm âm tại Tuất, dương làm chủ tháng Ba vì năm dương tại Thìn.

- Bát thuần Thượng, âm làm chủ tháng Mười vì sáu âm tại Hợi, dương làm chủ tháng Tư vì sáu dương tại Tị.

- Du hồn do Tứ thế làm chủ, giống với Tứ thế quái.

- Quy hồn do Tam thế làm chủ, giống với Tam thế quái.

Âm dương nói ở đây, là chỉ hào Thế của thế Quái cùng Du hồn quái, Quy hồn quái, thuộc quẻ nào đó, thuộc cung nào đó, là hào âm hay hào dương. Căn cứ vào thuyết này mà lập "Thế quái khởi nguyệt lệ biểu".

Tất cả 12 tiêu tức quái, đều hợp với 12 tháng phối thuộc, còn 52 quẻ khác, vì hào Thế của chúng hợp với tiêu tức hào của 12 tiêu tức quái, nên cũng phân biệt liệt vào 12 tháng. Cho nên, khởi Nguyệt lệ của Kinh Phòng chính là do 12 tiêu tức quái mở rộng ra mà thành. Sự vận dụng lệ này, vốn là để bói toán chiêm nghiệm.

- Nguyệt kiến Tý - quẻ đời một (nhất thế quái): Phục, Bí, Tiết, Tiểu súc

- Nguyệt kiến Sửu - quẻ đời hai (nhị thế quái): Lâm, Đại súc, Giải, Đỉnh

- Nguyệt kiến Dần - quẻ đời ba (tam thế quái) Thái, Ký tế, Hằng, Hàm.

- Quẻ Quy hồn: Đại hữu, Tiệm, Cổ, Đồng nhân

- Nguyệt kiến Mão - quẻ đời bốn (tứ thế quái) Đại tráng, Khuê, Cách, Vô vọng.

- Du hồn quái: Tấn, Đại quá, Tụng, Tiểu quá

- Nguyệt kiến Thìn - quẻ đời năm (ngũ thế quái) Quải, Lý, Tỉnh, Hoán.

- Nguyệt kiến Tị - quẻ Bát thuần (Bát thuần quái) Càn, Cấn, Tốn, Ly

- Nguyệt kiến Ngọ - nhất thế quái: Cấu, Dự, Lữ, Khốn

- Nguyệt kiến Mùi - nhị thế quái: Độn, Truân, Gia nhân, Tụy

- Nguyệt kiến Thân - tam thế quái: Bĩ, Tổn, Ích, Vị tế

- Quẻ Quy hồn: Tùy, Sư, Tỵ, Quy muội

- Nguyệt kiến Dậu - tứ thế quái: Quán, Thăng, Mông, Kiển

- Du hồn quái: Minh di, Trung phu, Nhu, Di

- Nguyệt kiến Tuất - ngũ thế quái: Bác, Phong, Phệ hạp, Khiêm

- Nguyệt kiến Hợi - Bát thuần quái: Khôn, Chấn, Khảm, Đoài.

Sở Tử Huy viết lời bạt cho sách Khải mông tiểu truyện, đã làm rõ nghĩa của Chu Tử còn thiếu, lập luận của Ông có căn cứ, lý lẽ có hệ thống chặt chẽ. Đã làm rõ nghĩa “Càn Khôn nạp Giáp”, quẻ Càn từ Giáp đến Nhâm, quẻ Khôn từ Ất đến Quý, số của nó đều là 9. Tuy nhiên Ông ngờ thuyết cho rằng, số 9 của quẻ Càn có khả năng kiêm cả số 6 của quẻ Khôn. Nhưng Khôn âm không thể bao hàm Càn dương. Tử Huy cho rằng, trong số 6, có số 1, 3, 5 (là các số dương), như vậy thì số 9 dương cũng có thể chứa trong số 6 âm. Thực ra học thuyết về số không ngoài chẵn - lẻ, chỉ có một nghĩa đó mà rất nhiều thuyết bàn tới, càng suy luận càng nẩy sinh những luận lý mới, thuyết nào cũng đúng cả.

Xét, một quẻ sinh 3 con, 3 con sinh 9 cháu. Phép Bát phong của họ Kinh, mỗi quẻ có 3 hào là “sinh”, có 3 hào ngoài là “hành”. Một quẻ sinh 3 cho nên 8 quẻ “biệt sinh” ra 24 “tử tức” (con cháu), 8 quẻ còn “hoà sinh” 24 “tử tức” nữa. Ngoại quái đều có 1 người hành ở một hào. 3 người “hành” vào trong (nội quái) làm khách, cho nên nói: “có ba người khách từ từ đến”. Nhân lấy phép một hào biến của Tả Thị, mỗi quẻ có 6 biến hào làm thành một quẻ, lại hợp 6 lần biến thành 36 quẻ

Nguồn:

- Kinh thị Dịch truyện - Từ Ngang

- Từ điển Chu dịch - Trương Thiện Văn.

THUYẾT VỀ DỊCH SỐ

Số là sự thăng hoa của Tượng, Dịch số bắt nguồn từ Dịch tượng, hào số trong Dịch là tổ của vạn số. Nói là tổ của vạn số, là từ sau khi Phục Hy họa vẽ bát quái, hào âm "- -" (2 số) và hào dương "-" (1 số), số tổng của hai số (3 số) đã trở thành tổ của vạn số.

Dịch số bao gồm Thiên số và Địa số - số của Đại diễn, số của kỳ - ngẫu (số lẻ - chẵn), và nội dung của tứ đại sinh thành số (bốn số lớn sinh thành). Trong đó Dịch số Hà Lạc có nội hàm quan trọng trong khoa học sinh mệnh.

Sự kết hợp giữa Dịch tượng và Dịch số có ý nghĩa quan trọng về phương diện đi sâu làm sáng tỏ Dịch lý. Số là điểm cơ bản của Khoa học tự nhiên, khi ứng dung về mặt chiêm phệ của tượng - số còn được gọi là "thuật số học", là hạt nhân của văn hóa chiêm phệ, sự tương bổ tương thành giữa tương - số và thuật số đều là hạt nhân của Dịch học.

Đặc điểm tượng - số của Dịch là thông qua tượng - số, phân tích làm sáng tỏ Dịch lý. Trong quá trình từ Tượng đến Số, từ Số đến Lý, về khách quan đã thúc đảy tư duy hình tượng đến tư duy trừu tượng, còn được gọi là Huyền học của tư duy Cổ đại. Dịch số không những có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của Dịch tượng, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Dịch lý. Quy luật phát triển giữa hai bộ môn đó với nhau là: Dịch số bắt nguồn từ Tượng lại phát triển Tượng lên; Dịch số ra đời từ Lý lại thúc đẩy cho Lý phát triển. Ba bộ môn Số - Tượng - Lý tương phản tương thành, cùng chung kích thích sự phát triển của Dịch học và Khoa học tự nhiên.

THIÊN SỐ VÀ ĐỊA SÔ CỦA DỊCH

Nội hàm số Thiên Địa của Dịch là lấy số thiên địa để chứng minh nguyên lý hợp nhất của Thiên Địa, mục đích dùng để chứng minh quy luật tự nhiên của Vũ trụ, như viết: "Thiên nhất, địa nhị, thiên tam địa tứ; thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát; thiên cửu địa thập".

Khái niệm 'cực' trong Dịch là nói đến cái bản nguyên của Thiên Địa, như Dịch truyện - Hệ từ nói: "Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên" (Có trời đất, sau mới sinh ra vạn vật), nên Dịch bàn về số là chủ ý lấy Số để chứng minh sự biến hóa vận động của Thiên Địa. Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số dĩ thành biến hóa nhi hành quỷ thần dã".

Lấy Thiên số và Địa số làm tiêu chí trong quá trình tiêu trưởng của Dịch, đặc biệt là lấy sự nghịch - thuận của âm dương của số, để làm tiêu chí mất còn của âm dương thiên địa, như Dịch - Thuyết quái viết: "Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị số dịch số nghịch dã".

Gọi là nghịch - thuận của Số, là chỉ vãng - lai của Số; "vãng" là số tả huyền (xoay sang trái), thuận thiên nhi hành nên viết thuận; "lai" là số xoay chuyển song hữu (phải) nghịch thiên nhi hành nên viết nghịch. Cho nên, thuận số tượng trưng cho dương sinh âm trưởng, nghịch số tiêu chí âm trưởng dương tiêu. Như trong Tiên thiên bát quái phương vị đồ của Phục Hy, các quẻ Càn Đoài Ly Chấn của nửa vòng bên trái, thì lấy tả huyền vi thuận, tượng trưng cho dương trưởng âm tiêu. Ngược lại, với nửa vòng tròn bên phải, các quẻ Tốn Khảm Cấn Khôn dịch chuyển về bên phải, thể hiện dấu hiệu âm trưởng dương tiêu. Đúng như Chu Hi đã viết: "thiên tả hành, hữu địa tuyền" (Trời đi về phía trái, đất xoay về phía phải).

Thứ tự thuận của Bát quái là từ phải sang trái, tức do: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn; cho nên dương sinh xoay vòng sáng trái (tả) theo thiên thời, âm trưởng đi theo sang vòng bên phải (hữu), tương phản đúng hướng tốt. Bởi vậy Dịch viết: "dịch chi số do nghịch như thành hĩ" (số của Dịch do ngược lại mà thành). Vậy tức là 'Dịch' lấy sự nghịch thuận của số, để chứng minh giải thích mối quan hệ mật thiết giữa bát quái định vị với thiên địa vận hành, phản ánh bối cảnh thiên văn của bát quái.

Dịch lấy Thiên số Địa số để tượng trưng cho Tứ tượng lão dương, lão âm, thiếu dương, thiếu âm là Thái cực tứ tượng. Căn cứ theo nguyên lý thái cực thái cực âm dương tiêu trưởng, số tứ tượng tiêu chí cho bốn giai đoạn của thiên địa âm dương tiêu trưởng. Tức lấy 6 làm số lão âm, tượng trưng cho cực của địa âm; lấy '7 số' làm số thiếu dương đại biểu số khởi đầu của thiên dương; lấy '9 số' làm số lão dương tiêu chí cho cực của thiên dương, lấy 8 làm số thiếu âm tượng trưng cho số khởi đầu của địa âm. Dịch truyện lại tiến thêm một bước ứng hợp giữa tứ tượng số và hào số với nhau, để dùng trong chiêm phệ bói toán.

Thiên số và Địa số trong quá trình phát triển, quan trọng nhất là Trần Đoàn thời Bắc Tống, ông lập thuyết chủ yếu lấy Thiên số và Địa số của Dịch, làm cơ sở để thông biến với Hà đồ và Lạc thư. Trong "Long đồ tam biến" nổi tiếng, Trịnh Huyền đã xây dựng học thuyết sáng tỏ về sự diễn biến của Hà đồ - Lạc thư, tức là ông đã dung hòa và kết hợp được giữa Thiên số và Địa số của Dịch, thêm nữa là Kỳ số và Ngẫu số với Ngũ hành sinh thành số, có nghĩa là đệ nhị biến, đem số của 'ngôi vị' hợp với thiên số và địa số trong đệ nhất bất biến, thành số dĩ hợp thiên địa, đã thể hiện ý nghĩa sâu xa sự tượng hợp thiên địa, hàm ẩn số thiên địa của Dịch, đúng như trong Tống văn giám - Long đồ tự - Đồ tam biến đã nói: "Hậu ký hợp dã; thiên nhất cư thượng vị đạo chi tông, địa lục cư hạ vị địa chi bản; thiên tam địa nhị địa tứ vi chi dụng. Tam nhược tại dương tắc tỵ (tránh) cô âm, tại âm tắc tỵ quả (thiếu, ít) dương". (Sau đã được tổng hợp lại: trời là số 1 làm tôn chỉ của đạo. Đất làm số 6 đặt làm gốc của quả đất. Thiên 3, địa 2, địa 4 đều vận dụng vào. Số 3 nếu ở tại dương thì số âm tránh được sự sô độc, còn ở tại âm thì số dương tránh được cô quả".

Lưu Mục trên cơ sở của Trần Đoàn, lại tiến hành tái tạo thêm, phát triển số thiên địa thành ngũ hành sinh thành số. Có nghĩa là phân biệt Long đồ thiên số địa số với ngũ hành sinh thành số tương kết hợp, sáng tạo nên 'Hà Lạc ngũ hành sinh thành số' nổi tiếng. Như viết: "Đó là số ngũ hành sinh thành. Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ. Đó là số sinh vậy. Như vậy thì số dương không có số để hợp, số âm sẽ không gặp may. Cho nên, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ. Dẫn đến là số âm dương đều có sự hòa hợp và may mắn, như vậy vật sẽ đắc thành, nên được gọi là thành số".

Số thiên địa của Dịch là mẫu của vạn số, có mối quan hệ mật thiết với ngũ hành sinh thành số, âm dương kỳ ngẫu số, đại diễn phệ số. Thiên số và Địa số là cơ sở của ngũ hành sinh thành số, là sản vật kết hợp giữa thiên địa số và ngũ hành của Dịch, Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập". Hán thư - Ngũ hành chí viết: "Thiên dĩ nhất sinh thủy, địa dĩ nhị sinh hỏa, thiên dĩ tam sinh mộc, địa dĩ tứ sinh kim, thiên dĩ ngũ sinh thổ". Dịch số câu ẩn đồ viết: "Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ".

Hơn nữa sự tương hợp của số thiên địa trong "Long đồ tam biến" của Trần Đoàn, cũng bắt nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc như các hữu hợp, biến hóa nhi hành quỷ thần dã". Lại viết "Trên trời là số 1, dưới đất là số 5, vị trí số 5 tương đắc sẽ có sự hòa hợp nhau, sẽ có sự biến hóa mà làm thành quỷ thần vậy".

Dịch lấy thiên số làm kỳ số là dương số; lấy địa số làm ngẫu số là âm số, từ đó mà đặt cơ sở cho kỳ ngẫu âm dương số. Như trong thiên địa số của Dịch truyện - Hệ từ viết: "Phàm thiên số đều là kỳ số, địa số đều là ngẫu số. Lấy thiên làm đương, lấy địa làm âm", qua đây ta thấy mối quan hệ sâu xa giữa kỳ ngẫu âm dương số của Dịch với thiên địa số.

Số 50 của Đại diễn là số diễn giả, dùng để chiêm phệ Dịch, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết với số thiên địa của Dịch. Bởi vì số Đại diễn là cơ sở để lấy thiên số và địa số hợp ngũ phương mà diễn giả vạn số. Hơn nữa số Đại diễn cũng thoát thai từ số thiên địa của Dịch. Đúng như Dịch truyện - Hệ từ viết: "Đại diễn chi số ngũ thập... thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử số dĩ thành biến hóa nhi hành quẻ thần dã".

Lấy kỳ số và ngẫu số tượng trưng thiên địa, được khởi nguồn từ tứ tượng pháp thiên địa mà có, từ phản ánh bắt nguồn ở tượng của số, nói rõ tính vật chất của Dịch số. Như Dịch - Thuyết quái viết: "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số", tham tức là số 3 là kỳ số (số lẻ); lưỡng tức là số 2 là ngẫu số, 'tham thiên lưỡng địa' tức là để gọi thiên kỳ địa ngẫu, thiên dương địa âm, cũng có nghĩa là để giám sát cả trời đất. Ý tứ của toàn câu là lấy số âm dương kỳ ngẫu để nắm chắc độ số của thiên địa, thông qua Ngũ âm làm số đo trời, cụ thể là lấy âm dương của số, làm thước đo âm dương của trời đất. Cho nên nói đây là nội hàm chủ yếu của kỳ ngẫu số trong Dịch.

Kỳ số và ngẫu số làm tiêu chí cho số âm dương, được bắt nguồn gốc ở hào âm hay dương, trong đó Hào dương là kỳ số, là 'dương số chi phụ' (cha của số dương); Hào âm là ngẫu số, là 'âm số chi mẫu' (mẹ của số âm). Từ đây đặt nên mối quan hệ vững chắc giữa kỳ ngẫu số và âm dương.

Kỳ số và ngẫu số cũng biểu thì cho sự 'hư - thực', vẫn bắt nguồn từ hào âm dương, trong đó ngẫu số là 'hư', kỳ số là 'thực'. Nội hàm hư thực của kỳ ngẫu số cũng được phản ánh ở Bát quái, như quẻ Ly là trung hư, quẻ Khảm là trung mãn. Cho nên trong Thái cực đồ, điểm trắng kỳ số tượng trưng cho thực, điểm đen ngẫu số tượng trưng cho hư.

Đối với triết lý, được phản ánh trong mối quan hệ giữa Dịch truyện và Lão Tử. Thứ nhất, là từ góc độ của Ngẫu số tiến hành phân tích rõ sự sinh thành của Vũ trụ, như "Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Cụ thể là sự sinh thành của Bát quái và vạn vật, thông qua kỳ số và ngẫu số của Dịch, đã phản ảnh triết lý 'nhất phân vi nhị' (một chia làm đôi), nhờ sự gợi mở của triết lý này mà người đời sau đã sáng lập nên 'Tiên thiên bát quái thứ tự đồ', và 'Thiên thiên lục thập tứ quái thứ tự đồ'. Hai đồ hình này đã bao hàm rõ nét nguyên lý 'nhất phân vi nhị', đã ảnh hưởng lớn đến thế hệ sau.

Ngoài ra, trên cơ sở 3 hào làm nhất quái của Dịch kinh, thì Dịch truyện còn đề xuất tư tưởng 'tam tài quan' của thiên địa nhân nhất thể. Trên cơ sở này, mà người đời sau đã xây dựng lập thuyết 'hàm tam vi nhất' (bao hàm 3 làm 1), như trong Tam thống lịch đời Ngụy, Mạnh Khang chú giải: "Thái cực nguyên khí, hàm tam vi nhất", có nghĩa là lấy hai con cá mầu đen trắng đại biểu cho thiên địa, đường phân giới tuyến hình chữ 's' đại biểu cho Nhân, từ đồ hình đã chỉ rõ hợp nhất tam tài thiên địa nhân.

Lão Tử đã phát triển nổi bật Kỳ số của Dịch, chủ yếu là lấy Kỳ số giải thích sự sinh thành của Vũ trụ: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Dịch truyện nhấn mạnh Ngẫu số 'nhị', đó là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lão Tử phát huy 'tam' Kỳ số, tích cực đề xuất rằng 'tam' sinh vạn vật. Dịch truyện sáng lập bộ môn sáng trói về "nhất phân vi nhị", còn Lão Tử đề xướng "nhất phân vi tam". Thuyết minh Dịch truyện và Lão Tử lấy 'tham' và 'lưỡng' để giải thích vũ trụ thông qua hình đồ triết lý diễn sinh như sau:

......................[Hào âm --> ngẫu số 2 --> nhất phân vi nhị

Tham thiên [Hào số 3 --> hàm tam vi nhất --> Trung hòa quan

Lưỡng địa [Hào dương -->Kỳ số 1 --> nhất phân vi tam

.....................(nhị hợp vi nhất)

Dịch lấy hào dương làm Kỳ số, hào âm làm Ngẫu số, Dịch ghép lấy hào ba của Kỳ số 'tổ' thành kinh quái, lấy Ngẫu số lưỡng kinh quái 'hợp' thành trọng quái. Kỳ Ngẫu số của Dịch đã xác lập định luật lấy đơn số làm 'lẻ', lấy song số làm 'chẵn', đặt cơ sở cho luật kỳ - ngẫu cổ đại. Đặc biệt là căn theo luật Kỳ số là hào dương, Ngẫu số là hào âm, đã quy định Kỳ là số dương Ngẫu là số âm, từ đây xác định nội hàm âm dương của luật Kỳ - Ngẫu, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế cho đến tận này nay. Như trong Bạch hổ thông - Giá tụ Ban Cố viết: "Dương số Kỳ, âm số Ngẫu", đã nói rõ kỳ ngẫu của Dịch có quan hệ mật thiết đối với sự hình thành của luật kỳ ngẫu âm dương.

Luật kỳ ngẫu âm dương đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với nhiều bộ môn: lịch pháp, thuật số, chiêm phệ, vận khí học,... của thời cổ đại. Như thời tính Can chi kỷ (12 năm), lấy kỳ số làm dương Can, ngẫu số làm âm Can, học thuyết Vận khí trong Hoàng đế nội kinh cũng như vậy. Lại như các thuật số Thái ất, Kỳ môn, Lục Nhâm cũng đầu lấy âm dương kỳ ngẫu làm tiền đề: hào âm tượng trưng cho 'nhất phân vi nhị', hào dương có ý chỉ 'hợp nhị vi nhất'.

Dịch truyện dựa trên cơ sở Dịch kinh, đã xác minh rõ quan niệm về sự thống nhất đối lập ẩn tàng trong luật kỳ ngẫu của các hào âm và hào dương, hoàn toàn phù hợp với số sinh tượng, tượng sinh lý, có nghĩa là quy luật tư duy trìu tượng sản sinh ở tư duy hình tượng, tiến thêm một bước chứng thực quan điểm 'tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số'. Từ đây mà tư tưởng biện chứng được xác lập.

Gọi là luật chính phản, có nghĩa là chỉ hướng chính và hướng phụ của sự vật. Bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều tồn tại hai mặt chính phản (phải trái), tức có chính hướng tất có phản hướng, bao gồm hư thực u ẩn, khai hợp (khép mở), minh ám (sáng tối), trú dạ (ngày đêm), tử sinh,... Hào dương và hào âm của Dịch kinh, có hắc ngư và bạch ngư trong Thái cực đồ, rồi tới hắc điểm và bạch điểm của Hà đồ Lạc thư, tất cả đều tàng ẩn chứa đựng nguyên lý thư thực chính phản, mà còn đều lấy Kỳ làm chính hướng làm thực, lấy Ngẫu làm phản hướng làm hư; đối với Hà Lạc cũng vậy: Kỳ số là chính là thực, Ngẫu số là phản là hư.

Luật chính phản là luật đặc hữu của Dịch, là sự phát triển đặc thù của quy luật mâu thuận của Dịch, mà chủ yếu chỉ tính chất hư thực, u hiện (kín lộ), khai hợp (đóng mở), để làm sáng tỏ quy luật chính phản của sự vật. Cụ thể như hào âm của bát quái là hư số, còn Hào là thực số vậy. Cũng như số ẩn (độn số) của Kỳ môn độn Giáp, các hào trong Kỳ môn gồm: Độn - Giả - Mộ - Tỵ (tránh) - Huyệt - Phục thì đều thuộc ẩn thuộc hư, còn Kỳ - Môn - Tiến - Du - Phi - Sư thì đều là các hào hiển lộ rõ, là thực. Sau đó Kỳ môn dựa vào đó suy diễn hư thực, chiêm đoán cát hung, đạt đến mục đích tránh được họa, được hưởng phúc.

SỐ ĐẠI DIỄN

Số Đại diễn là thành phần chủ yếu của Dịch số. Đại diễn tức là diễn ngữ, diễn dịch, là chỉ về phương pháp dùng thẻ bằng cỏ Thi để diễn dịch xem đoán vận số. Số Đại diễn là tổng hòa của thiên số và địa số trong Dịch: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập".

Số Đại diễn sở dĩ lấy 'ngũ thập' là do thời cổ đại, lấy 'ngũ thập' làm cực số tự nhiên quan trọng, nguyên nhân là do số 'ngũ thập' có đầy đủ nội hàm với vũ trụ thiên văn. Như trong Hoàng đế nội kinh nói: "nhân khí hành Kinh mạch ngũ thập doanh", nhấn mạnh 'ngũ thập doanh' là số thọ của phép dưỡng sinh. Linh Khu - Ngũ thập doanh viết: "ngũ thập doanh bị, đắc tân thiên chi thọ hỉ" (được số thọ của cả trời đất). Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt dẫn lời Kinh Phòng nói: "Ngũ thập giả, vị thập nhật, thập nhị thìn, nhị thập bát tú dã". Mã Dung cũng nói: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thập tứ khí, phàm ngũ thập" (khái quát lại là năm mười)

Số Đại diễn 'ngũ thập hữu ngũ', còn có thuyết là số căn cứ để vua Đại Vũ trị thủy thời cổ đại, như trong Chu bễ toán kinh nói "Vũ trị hồng thủy, bắt đầu mở rộng vận dụng và bỏ lược đi phần huyền hoặc nên gọi là số đại diễn".

Số Đại diễn là điển phạm lấy Số mà nghiên cứu Tượng, tuy là số chiêm toán, nhưng lại có mối tương quan mật thiết với vũ trụ sinh thành, lý luận này bắt nguồn từ ở Thái Nhất (Bắc Thìn) ở trong bất động, là bối cảnh thiên văn vũ trụ xoay chuyển của 49 ngôi sao bắc đẩu tinh tọa, Mã Dung viết: "Hợp thái cực, lưỡng nghi, tứ thời, ngũ hành, thập nhị nguyệt, nhị thập tứ khí vi ngũ thập, nhi giảm khứ bắc thìn chi nhất vi dụng tứ thập cửu. Dịch hữu thái cực vị bắc thìn dã. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thấp tứ khí. Bắc thìn cư vị bất động. Kỳ dư tứ thập cửu, chuyển vận nhi dụng dã". Giảm bớt đi số 1 của bắc thìn, xem như giảm một ngày để dùng số 49. (Dịch có thái cực gọi là bắc thìn. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh 4 mùa, bốn mùa sinh 5 hành, 5 hành sinh ra 12 tháng, 12 tháng sinh ra 24 khí. Sao ở Bắc cực ở vị trí bất động, ngoài ra còn lại 49, được chuyển vận mà sử dụng)

Số Đại diễn ngoài hàm chứa tính thiên văn ra, thì cũng hàm chứa cả số âm dương, cụ thể là số "dư" từ số Đại diễn sau khi kinh qua tam biến của chiêm phệ, lấy đó trừ đi 4 thì được 9 là lão dương số, được 6 là lão âm số, được 7 là thiếu dương số, được 8 là thiếu âm số, bốn số này cũng tức là âm dương tứ tượng. Ngoài ra, số lão dương và số lão âm được lấy làm tiêu chí của hào dương và hào âm trong Dịch.

Số Hà Lạc là sự hợp nhất của số thiên địa, số đại diễn và số sinh thành. Tổng số của Hà đồ là "ngũ thập hữu ngũ" (năm mươi dư năm), đây là số tổng hòa trong Dịch, mà Lạc thư tổng số là "tứ thập hữu ngũ" (bốn mươi dư năm). Hai số đại diện cho chính - phản, trái phải của số Đại diễn.

Thổ khí là nguyên cớ của vạn vật. Được gọi là số 'sinh' gồm các số 1, 2, 3, 4, 5 là số tượng trưng cho thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; trong đó số của Thổ là nguyên cớ cho bốn số đứng ở ngôi vị trước mà ỷ vào (nhi ỷ số: số dựa vào) mà được thành số 6, 7, 8, 9, 10. Tổng hòa của Hà đồ sinh thành số cũng là 'ngũ thập hữu ngũ'.

Phệ số tức là số bói quẻ bằng cỏ Thi 'kỳ dụng tứ thập hữu cửu' (dùng số bốn mươi dư chín). Thi số là chỉ phệ số của 'tứ thập hữu cửu' rút ra trong 'ngũ thập' của số Đại diễn một "can rễ" không dùng, thông qua sự biến hóa của bói toán (phệ biến), thì thấy được sự dung nhất giữa ba bộ môn số - tượng - lý.

Sách số là chỉ Càn Khôn sách số có nguồn gốc từ lấy số 4 đại diện cho tứ doanh nhân với 9 là số 'dụng cửu' của hào dương mà thành 36, tiếp theo lại nhân với 6 của hào dương mà thành 216 sách số của Càn. Số 4 của tứ doanh nhân với số 6 là số 'dụng lục' của hào âm thành thành 24, lại nhân tiếp với 6 của hào âm thì được 144 là sách số của Khôn, tổng hòa của sách số là 'tam bách hữu lục thập', đây là chỉ số của một vòng quay mặt trời thời xưa. Cho nên, Càn Khôn sách số là tiêu chí chỉ sự vận hành của thiên địa, cũng tức là Càn Khôn sách số của 28 vì sao quanh bầu trời vòng quay hết 64 quái 384 hào.

Số chỉ vạn vật là số 11520, là một khí số quan trong thời cổ đại, được tổ hợp từ sách số của Càn là 36 nhân với 192 hào dương được 6912, sách số của Khôn là 24 nhân với số hào âm được 4608, cộng lại thành số 11520. Phệ số và số phi ức có sự tương quan mật thiết giữa số chỉ vạn vật với khí số thiên văn (số phi ức: số không ức đoán hoặc số không phán đoán được).

Thiệu Ung đã phát triển phệ số, lấy bát quái tự số (số thứ tự) và lục hào số làm cơ sở của phệ số, để tiến hành bói toán diễn dịch, và trên cơ sở của Càn Khôn sách số và số chỉ vạn vật, xây dựng thuyết "vạn vật giai số". Chỉ ra số chung thủy của thiên địa là số 1.216.192.320, số trước sau của trời đất.

Trần Đoàn kết hợp giữa số Đại diễn và số hà lạc, mà sáng chế ra "Hà lạc lý số". Tức là sự đối ứng giữa việc lấy năm tháng ngày giờ sinh ra con người, với số can chi Hà đồ Lạc thư và bát quái, từ đây mà chiêm nghiệm mệnh số của con người. Với đặc điểm có đủ diễn biến thừa tiếp của tiên thiên quái và hậu thiên quái, lấy Giờ sinh của con người định ra vị trí hào động của tiên thiên quái, sau lại biến thành hậu thiên quái, để xét mệnh vận lâu dài.

Số bát quái do số đại diễn của Dịch bao quát, được Đại Tử Bình phát triển thành phương pháp xem Bát tự, tức tứ trụ mệnh học, cụ thể là phối ứng giữa can chi của năm-tháng-ngày-giờ sinh, kết hợp với quy luật âm dương ngũ hành sinh khắc, để tiến hành chiêm nghiệm vận mệnh nhân sinh.

Huệ Đống nói: "Hư ngũ nhi hữu diễn, hư nhất nhi khả dụng, nhất dữ ngũ giai đạo chi bản dã" (Số 5 hư mà có thể diễn dịch, số 1 hư mà có thể khả dụng, số 1 và số 5 đều là gốc của đạo vậy".

THUYẾT VỀ PHỆ PHÁP

Phệ pháp là phương pháp xem bói theo Dịch. Hệ từ thượng truyện nói: "Dịch là đạo của thánh nhân, gồm bốn phương diện, mà thứ nhất là chiêm bói". Bài 'Đại diễn chi số' cũng là bài riêng trình bầy chi tiết về yếu chỉ của phép bói. Thiên Phệ nghi trước là do Chu Hi soạn ở đầu quyển Chu dịch bản nghĩa đã trình bầy rõ về phép bói.

Trước hết, chuẩn bị 50 thẻ cỏ thi đựng vào trong ống. Phía nam ống đặt một khay gỗ, chia làm hai ô to, ô to bên trái lại được chia làm 3 ô nhỏ. Khi bói, hai tay cầm 50 sợi cỏ thi, tay phải nhặt ra một thẻ đặt vào trong ống (đây là điều mà Hệ từ truyện gọi là: Số đại diễn 50, sử dụng có 49, còn gọi là 'hư nhất bất dụng'). Rồi lấy cả hai tay tùy ý chia đôi 49 thẻ đặt vào hai ô to bên trái và bên phải của khay gỗ. Đây gọi là 'doanh thứ nhất' (doanh có nghĩa là kinh doanh), cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: chia ra làm hai để tượng trưng cho lưỡng nghi. Tiếp đó, dùng tay trái cầm lấy số thẻ trong ô to bên trái, tay phải nhặt lấy 1 thẻ trong ô to bên phải, rồi cài vào khe ngón tay út trái. Đây tức là 'cài 1 để tượng trưng cho tam tài: trời đất người'. Tiếp theo, dùng tay phải đếm 4 thẻ một số thẻ ở tay trái. Đây tức là nửa trước 'của doanh thứ ba', cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'đếm bằng số 4 để tượng trưng tứ thời'. Tiếp đó, lấy số thẻ sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, kẹp vào khe ngón tay vô danh của tay trái. Đây tức là nửa trước của 'doanh thứ tư', cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: 'quy số lẻ về chỗ kẹp để tượng trưng cho nhuận'. Tiếp theo, dùng tay phải trả lại số thẻ đã đếm vào ô lớn bên trái, rồi cầm lấy số thẻ trong ô lớn bên phải, và dùng tay trái đếm 4 thẻ một. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ ba'. Tiếp theo, lại lấy số thẻ, sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, như trước kẹp vào khe ngón tay giữa của tay trái. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ tư', đây cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'kẹp lần hai để tượng trưng cho hai lần nhuận'.

Bây giờ, những thẻ thừa ra trong hai lần đếm đã kẹp được, ô lớn bên trái thừa 1 thẻ, thì ô lớn bên phải thừa 3 thẻ; Bên trái thừa 2 thẻ thì bên phải thừa 2 thẻ; Bên trái thừa 3 thẻ thì bên phải thừa 1 thẻ; Bên trái thừa 4 thẻ thì bên phải cũng thừa 4 thẻ. Lấy số thẻ thừa của hai lần đếm, nhập vào số thẻ của một lần cài, thì được không phải là 5 thẻ thì 9 thẻ. Bốn doanh thế là xong. Dùng tay phải, lấy số thẻ đã đếm, đưa trở lại vào ô to bên phải, gộp với số thẻ đã qua 1 lần cài 2 lần kẹp, đặt vào ô nhỏ thứ nhất bến trái khay gỗ. Đó là hoàn thành một lần biến. Tổng số thẻ thừa có được sau lần biến thứ nhất 'không 5 thì 9'.

Sau lần biến thứ nhất, dùng hai tay lấy số thẻ đã đếm xong 1 lần biến, ở hai ô to bên trái và bên phải khay gỗ, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh ở lần biến thứ nhất, lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ hai bên trái. Đó là hoàn thành 2 lần biến. Tổng số thẻ thừa sau lần biến thứ hai là 'không 4 thì 8'.

Sau lần biến thứ hai, đêm số thẻ đã đếm của lần biến thứ hai, ở trong 2 ô to bên trái và bên phải, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh như lần biến thứ nhất, thứ hai, mà lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ ba bên trái. Đó là hoàn thành ba lần biến. Tổng số thẻ thừa có được lần biến thứ ba là 'không 4 thì 8' (giống lần biến thứ hai).

Xong ba lần biến, thì mới xem số thẻ đã đếm của lần biến thứ ba, và số thẻ cài kẹp thu được của 3 lần biến, mà vạch thành từng hào. Số thẻ cài kẹp thu được sau ba lần biến là 5, 4, 9, 8. Các số 4, 5 là lẻ (trong hai số này, đều chỉ chứa một số 4, nên gọi là lẻ). Các số 9, 8 là chẵn (trong hai số ngày, đều chứa hai số 4, nên gọi là số chẵn). Tổng hợp lại số 1 cài 2 kẹp và số chẵn hay lẻ như sau: gọi là 3 số lẻ, tức là 5, 4, 4 thì gọi là 'tam thiểu', gộp lại là 13, thì số thẻ đã đếm là 36 (49 - 13), đem chia cho 4 được 9, gọi là Lão dương, phép bói gọi là "trùng".

Nếu số cài kép thu được sau 3 lần biến là 2 số lẻ 1 số chẵn (tức 5, 4, 8 hoặc 9, 4, 4), thì gọi là 'lưỡng thiểu nhất đa', gộp là là 17 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 32 (tức 49 - 17), đem chia 4 được 8, là Thiếu âm, còn gọi là "sách".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 2 số chẵn 1 số lẻ (tức 9, 8, 4 hoặc 5, 8, 8), thì gọi là 'lưỡng đa nhất thiểu', gộp lại là 21 thẻ, vậy là số thẻ đã đếm là 28 (tức 49 - 21), đem chia cho 4 được 7, là Thiếu dương, còn gọi là "đơn".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 3 số chẵn, tức là 9, 8, 8, thì gọi là 'tam đa', gộp lại là 25 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 24 (tức 49 - 25), đem số thẻ đã đếm chia 4 được 6, là Lão âm, còn gọi là "giao".

Bốn doanh thành một biến, ba lần biến thì được một hào, 18 lần biến thì được 6 hào mà thành quẻ. Hào thu được trong 3 lần biến đầu gọi là Sơ hào. Hào thu được của lần biến thứ 4 đến thứ 6 là Nhị hào. Hào thu được của lần biến thứ 7 đến thứ 9 là Tam hào. Hào thu được của lần biến thứ 10 đến thứ 12 là Tứ hào. Hào thù được của lần biến thứ 13 đến thứ 15 là Ngũ hào. Hào thù được của lần biến thứ 16 đến thứ 18 là Thượng hào.

Quẻ bói được gọi là "bản quái", quẻ biến thành gọi là "chi quái". Phép bói thời cổ dựa vào tình hình biến và bất biến của Bản quái (quẻ chiêm được), mà chiêm đoán cát hung lợi hại. Sách Chu dịch khải mông của Chu Hi quy nạp thành 7 điều như sau:

1. Một hào biến thì xem ở lời hào biến của Bản quái.

2. Hai hào biến thì xem ở lời của hai hào biến của Bản quái, nhưng vẫn lấy hào trên làm chính.

3. Ba hào biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái và Chi quái, đồng thời lấy Bản quái làm "Trinh" (trong), Chi quái làm "Hối" (ngoài).

4. Bốn hào biến thì xem hai hào bất biến ở Chi quái, vẫn lấy hào dưới làm chính.

5. Năm hào biến thì xem ở hào bất biến của Chi quái.

6. Sáu hào biến thì xem ở hai hào Dụng ở quẻ Càn và quẻ Khôn, những quẻ còn lại xem ở Thoán từ và Chi quái.

7. Sáu hào đều không biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái.

Trong quá trình bói Dịch, được một quẻ sáu hào, nếu có một, hai, hoặc mấy hào biến động, thì hào ấy gọi là "động hào", cũng gọi là "biến hào". Sách Chu dịch khải mông của Chu Hy có bàn về quy định của các lệ này. Đời sau, các nhà Dịch học có người coi đó là Pháp thức, nhưng cũng có người chỉ trích.

Thượng Bỉnh Hòa soạn sách Chu dịch cổ phệ khảo căn cứ vào thuyết sẵn có của Chu Hi, và chỉ ra rằng: "Quẻ có nhất hào động, nhị hào động, tam hào động, thậm chí tứ hào, ngũ hào, lục hào toàn động. Ta gặp quẻ này thì suy đoán thế nào? Nay xét thành lệ của người xưa, cùng những điều bàn luận quy định của Chu Tử lấy đó làm pháp thức. Song chẳng thể câu nệ. Vì Dịch quý ở chỗ chiêm nghiệm sự biến dịch. Sự thông biến của Tượng và Từ, cùng sự ứng hợp với sự thực, sự gợi ý của thần minh, đều là thiên biến vạn hóa, có những điều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên không thể cố chấp. Cần phải căn cứ vào Sự mà chọn lấy Từ, quan sát Tượng mà ấn chứng với Ta, bỏ chỗ sơ mà dùng chỗ thân".

Thượng Bỉnh Hòa còn tập hợp các lời bói trong Sử truyện làm chứng cứ, nói rõ những tình huống mà Chu Hi nêu ra, và chỉ ra rằng, khi bói Dịch đều phải kết hợp quái tượng của Bản quái và Chi quái để suy đoán cát hung, ông chỉ trích mạnh thuyết "Càn Khôn chiêm nhị dụng" của Chu Hi, cho rằng Nhị dụng chỉ chứng tỏ phép bói Dịch dùng Cửu - Lục, không dùng Thất - Bát, quyết không phải là lời chiêm đoán của quẻ Càn và Khôn, và chỉ rõ: "Đặt ra cái đó, mà lời chiêm đoán của sáu hào đều biến, thì 62 quẻ còn lại, đều nên có lời chiêm đoán của sáu hào biến, thế mà sao lại không có? Hơn nữa, trong Dịch, nhất, nhị, tam, tứ, ngũ hào biến đều chưa xem tới, mà đột ngột xem tới lục hào biến, về nghĩa khó thông, về lệ cũng không thỏa đáng".

Lại nói: "Xét, phép cũ của cổ nhân, thường xem lời Thoán truyện mà đoán. Nhưng Thoán truyện thường không sát với ta, thì xem cái gì phù hợp mà suy đoán, thế thì quan sát Tượng quẻ là hơn".Có nghĩa là, vừa phải dựa vào Quái từ, vừa phải coi trọng việc phân tích hàm nghĩa của Quái tượng".

"Dịch vốn là dùng để bói, không nắm được phép bói, ý nghĩa của "cửu - lục", thì không biết vì sao lại như vậy, và càng khó lý giải về chương Đại diễn của Hệ từ. Ngay sách Xuân Thu nói "mỗ quái chi mỗ quái" là cũng chưa nắm được duyên do. Vì vậy, người học Dịch trước hết phải nắm vững phương pháp của phép bói. Nay ta sử dụng Phệ nghi do Chu Tử lưu truyền lại. Vậy thì Phệ nghi là do Chu Tử chế định ra, hoặc có thể do tiên nho truyền lại, Chu Tử không nói gì, bất tất phải bàn luận gì thêm".

ĐƠN SÁCH TRÙNG GIAO

Từ sau đời Hán, người bói dùng đồng tiền thay cho 50 cọng cỏ Thi. Bói được hào Thiếu dương, thì gọi là "Đơn", tức giống như đếm cỏ Thi mà gặp "lưỡng đa nhất thiểu", số của nó là 7, vẽ thành phù hiệu --(vạch dương); Bói được hào Thiếu âm, thì gọi là "Sách", tức khi đếm cỏ Thi gặp "lưỡng thiểu nhất đa", số của nó là 8, vẽ thành phù hiệu - - (vạch âm). Bói được hào Lão dương, thì gọi là "Trùng", tức là đếm cỏ Thi gặp "Tam thiểu", số của nó là 9, vẽ phù hiệu (hình vuông); Bói được hào Lão âm, thì gọi là "Giao", tức là khi đếm cỏ Thi gặp "Tam đa", số của nó là 6, vạch thành phù hiệu X (dấu nhân).

Trịnh Huyền chú Nghi lễ - Sĩ quan lễ có đoạn "phệ dữ tịch" kể đến phép lấy tiền thay cỏ Thi như sau: "Lấy 'tam thiểu' làm "trùng tiền", trùng tiền thì 9; 'tam đa' làm "giao tiền", giao tiền thì 6; "lưỡng đa nhất thiểu" làm "đơn tiền", đơn tiền thì 7; "lưỡng thiểu nhất đa" làm "sách tiền", sách tiền thì 8".

Bói Dịch, ba lần biến mà được số [9 - 8 - 8] thì gọi là Tam đa. Tức là biến lần đầu được 9, lần thứ hai và thứ ba đều được 8, thì được hào Lão âm. Ba lần biến của việc bói Dịch khi được số [5 - 4 - 4] thì gọi là Tam thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được số 5, lần biến thứ hai và thứ ba đều được số 4, thì được hào Lão dương. Sau ba lần biến được số [9 - 8 - 4] hay [5 - 8 - 8] thì gọi là Lưỡng đa nhất thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được 9 hoặc 5, lần biến thứ hai được 8, lần biến thứ ba được 4 hoặc 8, thì được hào Thiếu dương. Sau ba lần biến được số [5 - 4 - 8 (5-8-4)] hoặc [9 - 4 - 4] thì gọi là Lưỡng thiểu nhất đa, thì được hào Thiếu âm.

Số thẻ cài kẹp được "Tam cơ", ví như [5 - 4 - 4], cộng là 13 thẻ, là số đã qua gọi là số "phục". Số còn lại là 36 thẻ, là Lão dương, là số hiển hiện hay số "phi". Do vậy, số cho hào "phục" gồm số Tam cơ là 13 - 25 và số Tam ngẫu là 17 - 21.

Lý Lâm Phủ chú: "Dùng 49 thẻ, chia ra mà đếm. Về biến có 4 loại: một là hào Đơn, hai là hào Sách, ba là hào Giao, bốn là hào Trùng. Tất cả 18 lần biến mà thành quẻ".

Hệ từ - Thượng truyện viết: "Tam ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số; Thông kỳ biến, toại thành thiên địa chi văn; Cực kỳ số, toại đinh thiên hạ chi tượng". = Năm ba lần biến hóa, đan xen tổng hợp các số. Biến đã thông, thì thành vẻ đẹp của trời đất; Số đã cực, thì định được tượng của thiên hạ. Lý Đỉnh Tộ dẫn lời Ngu Phiên nói: "Số là số của sáu vạch. Sáu hào biến động, đạo tam cực sinh, vì vậy mà tạo thành tượng cát hung trong thiên hạ".

Khổng Dĩnh Đạt giải thích: "Cực kỳ số, chỉ sự tính toán cùng cực số âm dương, để định ra tượng muôn vật trong thiên hạ, như là tính toán cùng cực 216 thẻ để định ra tượng Lão dương của Càn. Tính toán cùng cực 144 thẻ để định ra tượng Lão âm của Khôn. Nêu ra Càn Khôn, thì những cái khác là có thể biết được vậy".

Thượng Bỉnh Hòa giải thích "Tam ngũ dĩ biến" trong Chu dịch thượng thị học nói: "Số hào đến 3, nội quái đến đó là cuối. Cho nên, nói hẳn phải biến đổi" (Hào số chí tam, nội ngoại chung hỉ cố viết tất biến". Đây là nói theo Tam tài, còn nói theo Ngũ hành, thì đến năm là đủ, cho nên quá năm là phải biến đổi.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu dịch chính nghĩa khi nói về hào Sơ Cửu quẻ Càn viết: "Số 7 là Thiếu dương, số 8 là Thiếu âm, số 9 là Lão dương, số 6 là Lão âm".

Nhà sư Nhất Hạnh đời Đường cho rằng, khi đếm cỏ thì bói quẻ, ba lần biến đều là lẻ, tức là "Tam cơ", còn gọi là Tam thiếu, được số 9 tức là tượng quẻ Càn; Đều là chẵn, tức là Tam ngẫu, cũng gọi là Tam đa, được số 6, là tượng của quẻ Khôn. Càn Khôn là Cha Mẹ, nên gọi Cửu Lục là Lão dương Lão âm. Ba lần biến, hai chẵn một lẻ, tức "lưỡng đa nhất tiểu", được số 7, là tượng của các quẻ Chấn Khảm Cấn. Còn trong ba lần biến được hai lẻ một chẵn, tức "lưỡng thiểu nhất đa", được số 8, là tượng các quẻ Tốn Ly Đoài. Sáu quẻ này là ba trai ba gái mà Càn Khôn sinh ra, nên gọi Thất Bát là Thiếu âm Thiếu dương.

Thuyết của Nhất Hạnh nói:

Ba lần biến đều là thiểu là tượng của quẻ Càn, Càn là Lão dương, mà số dư của phép đếm 4 được 9 nên gọi là Cửu.

Ba lần biến đều là đa là tượng của quẻ Khôn, Khôn là Lão âm, mà số dư của phép đếm 4 được 6, nên gọi là Lục.

Ba lần biến mà một lần thiểu là tượng các quẻ Chấn Khảm Cấn, ba quẻ này là Thiếu dương, mà số dư phép đếm 4 được 7, nên gọi là Thất.

Ba lần biến mà một lần đa là tượng của các quẻ Tốn Ly Đoài, ba quẻ này là Thiếu âm, mà số dư của phép đếm 4 được 8, nên gọi là Bát.

Cho nên, những số Thất Bát Cửu Lục là do số dư mà đặt tên là Âm Dương. Âm Dương sở dĩ là Lão Thiếu không phải vì điều đó, mà vì là tượng của Bát quái trong ba lần biến.

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu". Triết lý của Dịch cho rằng, quy luật của sự vật khi phát triển đến cùng cực thì sẽ biến hóa, khi đã biến hóa thì sẽ thông suốt, khi đã thông suốt thì sẽ lâu bền.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa viết: "Đạo của Dịch khi cùng thì tùy theo thời mà biến đổi, khi đã biến đổi thì có sự khai thông, khai thông thì được lâu bền, cho nên nói 'thông' tất 'bền' vậy".

Du Diễm - Chu dịch tập thuyết viết: "Đến thời biến, thì phải biến, nếu không biến sẽ cùng, đó là đạo có biến tất có thông của Dịch. Có biến sẽ có thông, tức là tùy theo thời. Dân hãy còn hăng hái, chưa thấy mệt mỏi chán ghét, Thánh nhân không được bắt họ từ bỏ cái chí hăng hái đó; dân chưa được yên ổn Thánh nhân không được bắt buộc họ phải hăng hái làm việc. Chỉ đến khi số đã cùng, thời đã biến, lúc đó Thánh nhân nhân đó mà biến thông thúc đẩy, có như vậy dân mới không mệt mỏi. Nếu không dân sẽ cảm thấy phiền nhiễu, chán ghét, làm sao không mệt mỏi được? Cứ như vậy mà thuận theo, không cần biết lý do tại sao, như vậy là "thần"; thuận hành dần dần biến cải, không cần câu thúc vào ngôn từ để hướng dẫn hành động, như vậy là "hóa". Theo đạo "thần hóa", đó là đạo dạy dân, dưỡng dân của Thánh nhân đấy, nếu không theo đạo đó, tất dân không chịu theo.

Đạo của Dịch không có cùng, chỉ có số mới cùng. Số dương cùng ở số 9, số âm cùng ở số 6. Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu dài, lâu dài thì lại cùng. Do vậy, "nếu được trời giúp thì tốt, không có cái gì không lợi vậy".

Theo nghĩa "Dịch biến" và "Dịch bất biến" làm chuẩn mực để sáng tỏ về lẽ động tĩnh của nhân sự: Số cơ ngẫu là 7 - 8 vậy; giao trùng là 6 - 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7 - 8 là "Dịch bất biến", hào vạch theo số 6 - 9 là "Dịch biến" vậy. Quẻ tuy là "dịch bất biến", mà trong lại có "dịch biến", thì có nghĩa là 'hanh'. Hào tuy là "dịch biến", mà trong lại có cái "dịch bất biến", thì gọi là 'trinh'. Phép xem Hồng Phạm dùng hai chữ "trinh - hối", "trinh" tức là tĩnh, "hối" tức là động. Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ dùng; Thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ xử; Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt; Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đâu cho thoát được.

Tiên Nho khi nói Quái biến thì chưa có sự chuyển dịch về cương nhu âm dương, đảo ngược vị trí trên dưới. Nay lấy Càn làm Khôn, lấy Thủy làm Hỏa, lấy trên làm dưới, làm rối ren chìm đắm, thường thì tượng Dịch từ đây mà nhầm lẫn vậy. Du Việt theo thể lệ Bàng thông "thành Ký tế định" của Ngu Phiên, và phép "thăng - giáng" của Tuân Sảng, bàn chung về cái lý "cùng tất biến, biến tất thông" của các quẻ Dịch.

Trong Dịch, có 192 hào âm và hào dương "đắc chính", cũng đồng thời tồn tại 192 hào âm và hào dương "thất chính"; Được chính tức là Ký tế định, thất chính sẽ hóa thất chính thành chính, rồi sau đó mới có thể định. Cho nên đối với những quẻ Bàng thông, bỉ thử giao dịch lẫn nhau, thì trong 192 hào, có 96 hào âm gặp hào dương; hoặc 96 hào dương gặp hào âm, do vậy có thể biến dịch được. Có 96 hào âm gặp hào âm, hoặc hào dương gặp hào dương, do vậy không biến dịch. Có thể biến dịch, thì gọi là "thông", không thể biến dịch, thì gọi là "cùng"; Cùng tất sẽ có biến và có phép của sự biến thông, biến tất sẽ có hóa, hóa tất sẽ chuyển từ bất chính thành chính.

Lại nói rằng, muốn biết Lý "cùng - thông", thì trước hết phải biết lý "thăng - giáng" của âm dương, đây là thuyết của Tuân Từ Minh, muốn biết cái lý "thăng - giáng", trước hết phải biết cái lý "cùng - thông", đây là thuyết của Ngu Trọng Phiên. Tham nhập hai thuyết làm một, đó là do Tiêu Lý Đường.

Tóm lại, hào quẻ có thể thông với các quẻ khác, thì gọi là "thông", khi hào quẻ không thông với các quẻ khác thì gọi là "cùng". Cùng, mà tự biến đổi âm dương của mình, tức là hóa bất chính thành chính, thì gọi là "biến hóa".

THUYẾT VỀ "KHÍ" CỦA TRƯƠNG TẢI

HÀM NGHĨA CHUNG VỀ KHÍ

Khí là nguồn gốc hoặc là bản thể của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Khí là thứ vật chất tinh vi, chuyển động không ngừng, Khí là cơ sở thống nhất của Thiên Địa vạn vật, là nguồn gốc sinh thành vạn vật. Lý luận này có liên quan đến thuyết sinh – thành vũ trụ cổ đại. Khí là nguyên nhân sự tồn tại của thiên địa vạn vật, cho nên Khí không là hình thái vật chất cụ thể nào, nó không có hình thể, không có âm thành và hình thái. Như vậy, những người đưa ra và theo thuyết Khí bản thể luận đã loại bỏ ý kiến cho rằng Lý, Thái cực, Đạo có trước Khí, và chúng ngự ở trên Khí để chi phối Khí; họ chỉ rõ: Khí là bản thể cao nhất. Mặt khác, họ thuyết minh mối liên kết giữa Khí với Thái hư, và nêu rõ: Khí là phạm trù thông thường mang nội dung trừu tượng.

Khí là nguyên tố hoặc chất liệu của tồn tại khách quan. Chất liệu này, nguyên tố này hoặc hữu thể, hữu hình, có thể thấy được, có thể nghe được; hoặc là vô hình, vô thể, không thấy được, không nghe được. Khí là hiện tượng vật chất vi nhỏ, là thứ hỗn độn chưa có hình chất, sau khi ngưng tụ mới trở thành có hình có tượng. Nghiên cứu Khí sẽ nhận thấy tính thống nhất của vạn vật trên thế giới, nghĩa là thấy được bản chất chung của những hiện tượng và của vạn vật. Những học gia theo quan điểm Khí bản thể luận, thì coi Khí là phạm trù cao nhất của kết cấu logic triết học lý luận mà họ tin theo. Các học gia theo quan điểm Lý học bản thể luận và Tâm thức bản thể luận cũng cho rằng: Khí có tính vật chất và tính năng động, Khí nhập vào Đạo, vào Lý, vào Thái cực, và vào Tâm, đó là nguyên tố, chất liệu hoặc khâu trung gian để cấu tạo nên thế giới muôn vật.

Khí là thực thể khách quan có động thái công năng. Khí không ngừng chuyển động biến hóa, lúc thì tụ vào, lúc thì tản ra, nghi ngút, khi bay bổng, khi trầm lắng, lúc co đặc, lúc dàn mỏng, … Chuyển động biến hóa chính là hình thức và điều kiện tồn tại của Khí. Nếu Khí không có công năng động thái này thì Khí không tồn tại và chẳng có giá trị gì. Khí hàm chứa cặp âm dương đối lập thống nhất, Khí là bản chất của vật, cho nên Khí chuyển động biến hóa không ngừng thì mọi vật luôn chuyển động và biến hóa. Vai trò của Khí trong một hệ thống được xem như thứ vật chất trung gian môi giới, chuyển động biến hóa của Khí mà tạo tác nên muôn vật, thuộc tính của Khí cũng ảnh hưởng đến muôn vật.

Khí là sinh mạng của con người. Con người sống thọ hay chết yểu, đức tính con người thiện hay ác, đời sống vật chất giầu hay nghèo, sang hay hèn, địa vị tôn quý hay ti tiện, đều liên quan đến Khí. Khí chuyển động ở cơ thể con người thực hiện đạo dẫn thần khí, đấy chính là công pháp nhằm điều chỉnh cơ năng sinh lý cơ thể con người, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường sinh lực và khả năng miễn dịch, trị bệnh kiện thân, kéo dài tuổi thọ. Vì thế Khí là đồng hồ sinh học mang nội dung những thông tin về sinh mệnh cơ thể người, bởi vì con người bẩm thụ khí mà sinh ra. Khí có Khí trong sạch và Khí vẩn đục, Khí u ám, Khí quang minh, Khí thành hiền, Khí thô bỉ, do bẩm thụ Khí khác nhau mà từng con người có tư chất, thọ yểu, quý tiện khác nhau.

Khí là vật chất môi giới hoặc môi thể đầy ắp trong vũ trụ. Trong khoảng không vũ trụ, các hành tinh như nhật nguyệt trăng sao, cùng chuyển động trong một trật tự hài hòa, mọi sự vật tương hỗ cùng tồn tại trong một hệ thống, giữa các sự vật đó có một dòng Khí quán thông với nhau, làm cho các vật thể có sức hút để giữ lấy nhau, và có lực đẩy để khỏi va chạm vào nhau. Sức hút ấy, lực đẩy ấy, gọi là “ái cự lực”. Nó làm cho mọi vật trong vũ trụ vừa cự nhau vừa dựa vào nhau mà tồn tại. Khí chính là môi giới hoặc môi thể làm cho ánh sáng, âm thanh được phát ra và truyền đi lan tỏa rộng khắp. (Khí hút nhau gọi là “ái lực”, khí đẩy nhau gọi là “cự lực”, cái gọi là “ái cự lực” tạo nên sự chuyển động trong mâu thuẫn tự thân của Khí)

Khí là phẩm cấp đạo đức. Khí là do tụ nghĩa mà sinh thành một lý tưởng đạo đức, Khí này đầy ắp giữa khoảng trời đất, nó quán thông với Khí của đất trời. Thứ Khí này, không phải thứ huyết khí cụ thể, mà là tri Khí, thần Khí, là một loại tinh thần, ý thức hoặc ý chí, đó cũng là sự tu dưỡng đạo đức.

Khí hàm nghĩa vừa là thực thể của tồn tại khách quan, vừa là tinh thần đạo đức của chủ thể. Khí là phàm trù bao trùng cả thế giới tự nhiên cùng toàn bộ đời sống xã hội, sự sống của con người, Khí cũng là phạm trù mà mọi dòng phái, mọi học phái triết học cùng sử dụng chung trong suốt chặng đường phát triển của lịch sử. Khí có hàm nghĩa rất sâu rộng, khó mà lý giải một cách phiến diện và đơn nhất.

THÁI HƯ TỨC LÀ “KHÍ”

Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng.

Trương Tải cho rằng, Khí tức là hư, hư tức là Khí; Khí tụ thành hình, Khí tan biến thì hình mất, Khí trở về nguồn, quay về Thái hư. Thái hư là tên gọi khác của Khí, hàm nghĩa của Khí và Thái hư tương đương nhau, chúng khác nhau ở chỗ, Thái hư là Khí vô hình, trạng thái hữu hình là muôn vật. Thái hư không có thuộc tính của hữu hình. Chính mông - Thái hòa, Trương Tải chỉ rõ: "Thái hư không thể không có Khí, Khí không thể không tụ thành muôn vật, muôn vật không thể không tản ra thành Thái hư, theo đó mà quay vòng không bao giờ dứt". Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình là quá trình chuyển hóa lẫn nhau, bởi vì chúng cùng chung nguồn gốc là Khí.

Từ quan điểm "Thái hư vô hình là bản thể của Khí", Trương Tải cho rằng Thái hư cũng là bản nguyên của vũ trụ. Trương tử ngữ lục - trung viết: "Hư là tổ tông của trời đất, trời đất sinh từ hư không" (Hư giả, thiên địa chi tổ, thiên địa tòng hư trung lai). Quan điểm "hư có thể sinh ra khí", coi hư là bản nguyên của vũ trụ, coi Khí do Thái hư sinh ra, quan điểm này trái ngược với lý luận "Thái hư tức là Khí" của Trương Tải. Ông chỉ rõ, quan điểm "Hư sinh Khí" thực chất là quan điểm "Hữu sinh ra từ Vô" của Lão Tử, đó là lối tư duy hư cấu, một thứ bản thể mang tính quan niệm, thoát ly thế giới vật chất, sau đó lại từ cõi "Hư" hoặc "Vô" sinh ra thế giới vật chất. Trương Tải kiên trì quan điểm: Khí là gốc, khẳng định vật chất là tính bản nguyên và là tính chất thứ nhất của Khí. Thật rõ ràng!

Đạo thể hiện quy luật mang tính cương lĩnh định hướng; Lý thể hiện quá trình mang tính nguyên tắc thực thi. Đạo và Lý thể hiện sự chuyển động biến hóa của Khí, chúng không phải bản thể ở trên Khí, mà thống nhất trong hệ thống triết học Khí bản thể luận. Ông nói: "Bởi Thái hư nên mới có tên gọi là Thiên, bởi Khí hóa nên mới có tên gọi là Đạo". Trương Tải cho rằng Đạo là "Do Khí hóa mà có tên là Đạo", tức là quá trình chuyển động biến hóa của Khí mang tính vật chất, xa rời Khí là xa rời chuyển động của Khí, như vậy sẽ không có cái gọi là Đạo. Khi nói về phạm trù Lý, ông viết: "Khí trời đất tuy hàng trăm ngả tụ và tản, được và mất, nhưng chúng vẫn thuận theo Lý, không rối loạn", đều tuân theo quy luật và trật tự, đó chính là Lý. Đạo và Lý không thể tách rời khỏi Khí mà tồn tại riêng.

"Thái hư là thể của Khí" đã giải quyết đúng mối quan hệ Thái hư với Khí, Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình được đặt thống nhất trong Khí.

Trên cơ sở "Thái hư tức là Khí", Trương Tải nêu quan điểm Khí vừa là 'hữu' vừa là 'vô'. "Khí năng nhất hữu vô" tức là Khí có thuộc tính thống nhất 'hữu - vô' ngay trong bản thân Khí. Chính mông - Thái hòa viết: "Nếu nói vô vàn tượng là sự vật thấy được trong Thái hư, thì đó là vật với hư không tồn tại mối liên hệ trợ giúp nhau. Hình độc lập với Hình, Tính độc lập với Tính. Hình và Tính, trời và người không tồn tại mối qua hệ qua lại với nhau; kiến giải như vậy là sa vào thuyết sai lầm, coi trời đất núi sông là hệ quả ảo hóa". Thái hư là vô hình, muôn tượng là hữu hình, tuy Trương Tải xây dựng mối liên hệ giữa chúng, thông qua thuyết Khí tụ tán, nhưng giữa chúng vốn có sự khác biệt. Ông chỉ rõ, nếu không nhận ra sự khác biệt đó, sẽ không thể hiểu được muôn vật sinh ra như thế nào, tách rời bản nguyên với muôn vật, coi chúng là tồn tại độc lập riêng rẽ, không liên quan với nhau, thì sa vào quan điểm sai lầm của Phật giáo, coi thế giới Càn Khôn là ảo hóa.

Trương Tải nói: "Biết hư không tức là Khí, hữu vô, ẩn hiện, thần hóa, tính mệnh quan hệ trong sự thống nhất vô nhị. Nhìn vào những chuyển động tụ tán, xuất nhập, có hình và không có hình, có thể biết được gốc sinh ra chúng, hiểu biết đó chính là đi sau vào Dịch".

"Bản" tức là lấy Khí làm gốc, hữu vô, ẩn hiện, tụ tản, có hình hoặc không có hình đều bắt nguồn ở Khí, chúng là hai loại hình thái biểu hiện khác nhau của Khí bản thể. Khi Khí tản, chúng là Thái hư vô hình, biểu hiện của chúng là: vô, ẩn, u tối, không có hình, hư. Khi Khí tụ, chúng là muôn vật hữu hình, biểu hiện của chúng là: hữu, hiển, minh, hình, và thực. Đạo và Dịch phản ánh chuyển động biến hóa của Khí.

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Khí tụ lại, hiện ranh giới rõ ràng thì đó là hữu hình. Khí tản ra, không thấy ranh giới rõ ràng thì đó là vô hình. Vậy, khi mà Khí tụ lại, sao lại không gọi chúng là Hữu? Khi mà Khí tản ra, sao lại không theo đó gọi chúng là Vô?". "Từ vô sinh ra hữu, biểu hiện thành vật. Từ hữu chuyển thành vô, đó là quá trình ẩn mà biến đi...đại ý là không vượt quá giới hạn hữu vô, vật tuy là thực mà gốc của thực ở cõi vô" (vật tuy thị thực, bản thị hư lai). Trương Tải cho rằng, Khí kiêm hai thuộc tính hữu và vô, đây là thuộc tính của tự nhiên. Hai thuộc tính của tự nhiên dựa vào nhau, trợ giúp nhau, không thể khuyết một trong hai thuộc tính đó. Chính mông - Càn xưng viết: "Những gì có thể tạo nên hình dạng đều là Hữu, mọi cái là Hữu đều là Tượng, mọi Hình Tượng đều là Khí".

Từ Khí hóa nên Tượng, từ Tượng hóa thành Hữu. Khi Khí tản chưa tụ lại thì đó là Vô. "Thái Hư là gốc của Khí, thì trong suốt vô hình". Từ Khí hóa hư, hư thì vô hình. Thuộc tính "vô" của Khí không phải tuyệt đối hư vô, đó chính là chỉ về Thái hư vô hình, mắt không nhìn thấy được, khi so sánh với muôn vật hữu tượng hữu hình thì Thái hư là vô hình, cho nên gọi đó là Vô, nhưng Thái hư vô hình không phải tuyệt đối hư vô, mà trong cái "hư" hàm chứa cái "thực", trong cái "vô" hàm chứa cái "hữu".

Trương tử ngữ lục - trung - Trương Tải nói: "Đạo của trời đất lấy cực hư làm thực, con người cần tìm lấy cái thực trong cái hư" (Thiên địa chi đạo vô phi dĩ chí hư vi thực, nhân tu hư trung cầu xuất thực). Muôn vật hữu hình tuy là thực hữu, nhưng sự vật cụ thể chung quy phải tiêu vong.

So sánh với sự vật cụ thể biến hóa mất đi, thì Thái hư vô hình là vĩnh hằng. Hữu và Vô luôn chuyển hóa lẫn nhau, sự vật hữu hình chuyển hóa thành Thái hư vô hình, Thái hư vô hình chuyển hóa thành sự vật hữu hình. Thế giới vật chất biến hóa theo quy luật Khí hóa tụ tán, hữu và vô liên hệ với nhau. Vô không phải tuyệt đối hư vô, mà chỉ là vô hình của Thái hư. Trương tử ngữ lục - Trung viết: "Kim loại sắt thép cũng đến lúc phải mục ruỗng, núi đồi cũng đến lúc phải đổ nát. Mọi vật hữu hình đều dễ hoại, chỉ có Thái hư là không lay chuyển, cho nên, Thái hư là thực nhất". Chính mông - Thái hòa - Trương Tải nhấn mạnh: "Biết Thái hư là Khí, không phải là Vô". Trong hư không mênh mông vô cùng vô tận, đâu đâu cũng là Khí mịt mù. Bản thân Thái hư chính là Khí, Khí của Thái hư là vô hình. Hiểu được đạo lý này, thì không có cái gọi là Vô; Dịch - Hệ từ: "Thánh nhân ngẩng lên và cúi xuống, rồi nói biết hàm nghĩa của 'u minh', mà không nói biết hàm nghĩa của 'hữu vô'. 'U' tức là 'vô', 'minh' tức là 'hữu'. Dùng khái niệm 'u' thay thế cho khái niệm 'vô', để tránh ngộ nhận 'vô' là khẳng định tuyệt đối hư vô vậy".

Khí là thứ vật chất mang tính liên tục, tính tự có khiêm thuộc tính hữu và vô. Đây thuộc về phạm trù tính hữu hạn và tính vô hạn, tính tạm thời với tính vĩnh hằng, tính gián đoạn với tính liên tục trong sự tồn tại của thế giới vật chất. Sự cầu thị trong thế giới Càn Khôn.

Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể".

Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa".

Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ).

"Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng).

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc!

Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau".

"Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ.

Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa.

Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch".

Trương Tải nói: “Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng.”

THUYẾT VỀ THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương". Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn.

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy". Ngụy thư - Luật lịch chí chép từ Chính Quang lịch - Cầu tứ chính thuật ghi thứ tự tiếp nhau của 60 quẻ như sau:

- Tháng Một: Vị tế, Kiển, Di, Trung phu, Phục [18 âm - 12 dương]

- Tháng Chạp: Truân, Khiêm, Khuê, Thăng, Lâm [19 âm - 11 dương]

- Tháng Giêng: Tiểu quá, Mông, Ích, Tiệm, Thái [17 âm - 13 dương]

- Tháng Hai: Nhu, Tùy, Tấn, Giải, Đại tráng [14 âm - 16 dương]

- Tháng Ba: Dự, Tụng, Cổ, Cách, Quải [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tư: Lữ, Sư, Tỵ, Tiểu súc, Càn [14 âm - 16 dương]

- Tháng Năm: Đại hữu, Gia nhân, Tỉnh, Hàm, Cấu [10 âm 20 dương]

- Tháng Sáu: Đỉnh, Phong, Hoán, Lý, Độn [11 âm - 19 dương]

- Tháng Bảy: Hằng, Tiết, Đồng nhân, Tổn, Bĩ [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tám: Tốn, Tụy, Đại súc, Bí, Quan [15 âm - 15 dương]

- Tháng Chín: Quy muội, Vô vọng, Minh di, Khốn, Bác [17 âm - 13 dương]

- Tháng Mười: Cấn, Ký tế, Phệ hạp, Đại quá, Khôn [18 âm - 12 dương]

18 + 19 + 17 + 14 + 13 + 14 = 95 hào âm

12 + 11 + 13 + 16 + 17 + 16 = 85 hào dương

10 + 11 + 13 + 15 + 17 + 18 = 84 hào âm

20 + 19 + 17 + 15 + 13 + 12 = 96 hào dương

Thứ tự này là theo cách nói của sách Dịch vĩ - Kê lãm đồ. Căn cứ theo thuyết: "Nhu tại nội nhi cương đắc trung" lấy quẻ Trung phu làm khởi đầu. Đây là nêu hào Ba hào Bốn có đức "âm hư" ở giữa 6 hào, và hai hào Nhị Ngũ có đức "dương thực" nằm giữa thượng quái và hạ quái, để nói rõ hàm nghĩa "trung hư" là thành, "trung thực" là tín, biết hồi chuyển mà quay trở lại. Dịch vĩ - Kê lãm đồ viết: "Khí dương của trời đất, vũ trụ bắt đầu sinh ra từ quẻ Trung phu". Lại viết: "Giáp Tý, khí của quẻ khởi từ Trung phu, 6 ngày 7/80 ngày". Tức là chỉ hào Năm quẻ Trung phu có số thứ tự là 365, tương đương với số ngày của một Năm.

Phép 'Cầu tứ chính thuật', là do Mạnh Hỷ người thời Tây Hán đề xuất, tự là Trường Khanh, là người khai sáng Mạnh thị học về Kinh Dịch kim văn, thành tài và có trước thư lập ngôn. Dịch Hán học - Huệ Đống đã nói về đặc điểm về Mạnh thị học như sau: "Quái khí đồ của họ Mạnh lấy các quẻ Khảm Chấn Ly Đoài làm bốn quẻ chính, 60 quẻ còn lại, mỗi quẻ chủ 6 ngày 7 phân (lục nhật thất phân) hợp với số vòng trời 12 Nội tích quái, gọi là tiêu-tức. Càn đầy là tức, Khôn rỗng là tiêu, kỳ thực Càn Khôn là 12 vạch". Lại nói: "Bốn quẻ chỉ bốn mùa, mỗi hào chủ 24 khí, 12 quẻ chủ 12 giờ, mỗi hào chủ 72 hậu, 60 quẻ chủ 6 ngày 7 phân, mỗi hào chủ 365 ngày 1/4 ngày. Tích quái là Quân. Tạp quái là Thần. Tứ chính là phương bá. Hai ngày 'chí', hai ngày 'phân', hàn, ôn, phong, vũ, đều lấy ứng quái làm tiết. Ngoài ra, trong 48 quẻ còn lại, quẻ Dương có 24 quẻ, gọi là Thiếu dương, quẻ Âm có 24 quẻ, gọi là quẻ Thiếu âm. Cho nên 60 quẻ này còn được gọi là Tạp quái, cũng giống như nói rằng: vua tôi chung sức liên hợp, giao tạp để thành hình quái khí, để mà chỉ rõ cái lý âm dương tiêu tức". Dịch vĩ - Càn tạc độ có câu: "Lục thập tứ quái tam bách bát thập tứ hào giới", Trịnh Huyền chú giảng là: "Tiêu tức ở tạp quái là tôn quý, mỗi tháng ví như một quẻ mà ngôi thuộc vào đấy, đều có nơi hệ thuộc".

Chu dịch Thượng thị học - Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người đời Hậu Hán chú Dịch, thường dùng Nguyệt quái mà không nói rõ ra, vì Nguyệt quái mọi người đều biết, không nhất thiết phải chỉ ra. Tầm quan trọng của nó có thể bết vậy". Tức là 12 Tích quái, vì 12 quẻ này dùng để biểu thị quy luật âm dương tiêu-tức của 12 tháng, cho nên gọi là Nguyệt quái.

TÍNH LIÊN TỤC THỜI GIAN THEO THUYẾT KINH PHÒNG

Thuyết quái viết: Thiên địa định vị

...........CÀN.........................KHÔN

........G.Tuất......Hỏa...........A.Dậu..........Thủy

........G.Thân.....Thủy..........A.Hợi...........Hỏa

........G.Ngọ.......Kim...........A.Sửu..........Kim

........G.Thìn......Hỏa...........A.Mão..........Thủy

........G.Dần......Thủy..........A.Tị..............Hỏa

........G.Tý.........Kim...........A.Mùi............Kim

- Giáp Tý - Ất Sửu = hào 1 - hào 4

- Giáp Tuất - Ất Hợi = hào 6 - hào 5

- Giáp Thân - Ất Dậu = hào 5 - hào 6

- Giáp Ngọ - Ất Mùi = hào 4 - hào 1

- Giáp Thìn - Ất Tị = hào 3 - hào 2

- Giáp Dần - ẤT Mão = hào 2 - hào 3

Thuyết quái viết: Sơn Trạch thông khí

............CẤN............................ĐOÀI

...........B.Dần......Hỏa.............Đ.Mùi..........Thủy

...........B.Tý........Thủy............Đ.Dậu..........Hỏa

...........B.Tuất.....Thổ..............Đ.Hợi...........Thổ

...........B.Thân.....Hỏa.............Đ.Sửu.........Thủy

...........B.Ngọ......Thủy............Đ.Mão.........Hỏa

...........B.Thìn......Thổ..............ĐTị.............Thổ

- Bính Dần - Đinh Mão = hào 6 - hào 2

- Bính Tý - Đinh Sửu = hào 5 - hào 3

- Bính Tuất - Đinh Hợi = hào 4 - hào 4

- Bính Thân -Đinh Dậu = hào 3 - hào 5

- Bính Ngọ - Đinh Mùi = hào 2 - hào 6

- Bính Thìn - Đinh Tị = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Lôi Phong tương bạc

...............CHẤN..............................TỐN

..............C.Tuất.......Kim................T.Mão........Mộc

..............C.Thân......Mộc.................T.Tị...........Kim

..............C.Ngọ.......Thổ.................T.Mùi.........Thổ

..............C.Thìn.......Kim.................T.Dậu........Mộc

..............C.Dần.......Mộc.................T.Hợi.........Kim

..............C.Tý..........Thổ.................T.Sửu........Thổ

- Canh Tuất - Tân Hợi = hào 6 - hào 2

- Canh Thân - Tân Dậu = hào 5 - hào 3

- Canh Ngọ - Tân Mùi = hào 4 - hào 4

- Canh Thìn - Tân Tị = hào 3 - hào 5

- Canh Dần - Tân Mão = hào 2 - hào 6

- Canh Tý - Tân Sửu = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Thủy Hỏa bất tương xạ

..............KHẢM..........................LY

.............M.Tý.......Hỏa...............K.Tị.........Mộc

.............M.Tuất....Mộc...............K.Mùi......Hỏa

.............M.Thân...Thổ................K.Dậu.....Thổ

.............M.Ngọ.....Hỏa...............K.Hợi.......Mộc

.............M.Thìn....Mộc...............K.Sửu......Hỏa

.............M.Dần.....Thổ...............K.Mão......Thổ

- Mậu Tý - Kỷ Sửu = hào 6 - hào 2

- Mậu Tuất - Kỷ Hợi = hào 5 - hào 3

- Mậu Thân - Kỷ Dậu = hào 4 - hào 4

- Mậu Ngọ - Kỷ Mùi = hào 3 - hào 5

- Mậu Thìn - Kỷ Tị = hào 2 - hào 6

- Mậu Dần - Kỷ Mão = hào 1 - hào 1

Bài Tây Minh của Trương Hoành Cừ tức Trương Tái là một áng văn quan trọng của Đạo học gia. Bài này, vốn là đoạn văn đầu của thiên Càn Xưng trong Chính Mông.

Trương Tái chép đoạn đầu thiên này vào vách tường phía Tây nơi thư phòng, ông đặt tên là Đính Ngoan, rồi chép đoạn cuối của thiên này vào vách tường phía Đông, ông đặt tên là Biếm Ngu. Trình Di thấy thế, đổi Đính Ngoan thành Tây Minh, và đổi Biếm ngu thành Đông Minh. Về sau, Chu Hi tách bài Tây Minh này ra thành một bài độc lập và chú giải nó. Bài Tây Minh của Trương Tái và Thái Cực Đồ Thuyết của Chu Liêm Khê là hai áng văn bất hủ của Tống Nho. Bài Tây Minh như sau:

Càn là cha, Khôn là mẹ; tấm thân nhỏ nhoi của ta tương hợp với trời đất mà đứng ở giữa. Cho nên cái Khí lấp đầy trời đất là thân thể của ta. Cái thống lĩnh trời đất là bản tính của ta. Người dân là đồng bào của ta. Vạn vật là bạn bè của ta. Nhà vua là con cả của cha mẹ ta (tức trời đất). Quan đại thần là người quản lý việc nhà của con cả. Hãy tôn trọng bậc trưởng thượng, vì họ là bậc trưởng thượng (của trời) đáng cho mình tôn trọng.; hãy thương xót kẻ mồ côi yếu đuối, vì chúng là trẻ thơ ấu (của trời) đáng cho mình thương. Thánh nhân hợp nhất với đức (của trời). Hiền nhân là bậc ưu tú (của trời). Trong thiên hạ những kẻ già yếu, tàn tật, không anh em, già không con, già không vợ, già không chồng, đều là anh em của ta, họ chật vật khốn khổ mà không biết than thở cùng ai. (Kẻ khá giả) Tùy thời mà bao bọc những kẻ đáng thương ấy, đó là thể hiện lòng tôn kính (cha trời mẹ đất). (Kẻ khốn đốn) vui với mệnh trời, không lo buồn tủi phận, đó là thể hiện lòng chí hiếu (với cha trời mẹ đất). Làm trái lệnh cha mẹ là phẩm hạnh của đứa con ngỗ nghịch. Kẻ làm hại điều nhân gọi là tặc. Kẻ gây ác là hạng bất tài. Ai giữ được nguyên hình sắc như thủa ban đầu mới là giống hệt cha trời mẹ đất. Ai hiểu được sự biến hóa của sự vật tức là nối được sự nghiệp của cha trời. Ai nghiên cứu đến tận cùng cái thần diệu của sự vật, là nối được chí lớn của cha trời. Cẩn thận khi ở một mình, dù ở chỗ̃ khuất vắng mà không làm điều hổ thẹn với lương tâm, đó là một hiếu tử không làm nhục cha trời. Luôn gìn giữ tâm và nuôi dưỡng tính, đó là hiếu tử không biếng lười của cha trời. Ghét riệu (vì riệu làm loạn tâm tính), đó là sự quan tâm ông Vũ đến cong lao dưỡng dục của cha trời mẹ đất. Nuôi dưỡng anh tài là ban ân đức cho đồng loại (thể hiện đạo hiếu) của Dĩnh Khảo Thúc (đối với cha trời mẹ đất). Tận tâm chí hiếu để cha mẹ vui lòng, đó là công của Thuấn. Không chạy chốn (số mệnh) mà chỉ đợi bị giết, đó là Thân Sinh cung kính (thiên mệnh). Giữ gìn toàn vẹn thân thể do cha mẹ sinh ra cho đến lúc chết, đó là Tăng Sâm. Một mực vâng lời cha, đó là Bá Kỳ. (Cha trời mẹ đất cho ta) phú quý hạnh phúc, là làm dày dạn cuộc sống của ta; cho ta nghèo hèn lo buồn, tức là cho ngọc quý để ta mài giũa vậy. Khi còn sống ta cứ thuận theo trời mà hành sự; khi ta chết, ta cảm thấy thanh thản an bình.

Nho gia cuối thời Chiến Quốc đều chịu ảnh hưởng của Đạo gia. Trong số Nho gia thời đó, Tuân Tử là một bậc đại sư, tuy chịu ảnh hưởng của Đạo gia, đạt được chủ nghĩa tự nhiên của Đạo gia. Như chữ thiên theo Khổng Tử là ông Trời, tức đấng chủ tể vũ trụ. Theo Mạnh Tử thì chữ thiên này là số mệnh hay vận mệnh. Còn theo Tuân Tử thì chữ thiên này là cõi tự nhiên.

Giải Tế - Tuân Tử viết: "Cho nên từ phương diện thực dụng mà nói, Đạo rốt cuộc là Lợi [...] Từ phương diện ngôn từ mà nói, Đạo rốt cuộc là luận biện. Từ phương diện trời mà nói, Đạo rốt cuộc là nguyên nhân. Các thứ ấy chỉ nói lên một góc của Đạo. Đạo có bản thể thường hằng nhưng (ứng dụng) thì luôn biến đổi. Biết một góc thì không đủ gọi là biết. Kẻ thiên kiến thì chỉ thấy một góc của Đạo chưa thể xem là biết được. Nhưng hắn tự cho mình biết hết, còn tô điểm vẽ vời cho cái biết của mình, thế là bên trong thì loạn bên ngoài thì gạt người, trên che lấp dưới, dưới bưng bít trên, đó là cái họa của che lấp

(Cố do dụng vị chi, đạo tận lợi hĩ. [...] Do từ vị chi, đạo tận luận hĩ. Do thiên vị chi, đạo tận nhân hĩ. Thử sổ cụ giả, giai đạo chi nhất ngung dã. Phù đạo giả, thể thường nhi tận biến, nhất ngung bất túc dĩ cử chi. Khúc tri chi nhân, quan ư đạo chi nhất ngung, nhi vị chi năng thức dã, cố dĩ vi túc sức chi, nội dĩ tự loạn, ngoại dĩ hoặc nhân, thượng dĩ tế hạ, hạ dĩ tế thượng, thử tế tắc chi họa dã).

Đối với những học thuyết của các nhà thời đó, Tuân Tử cũng có nhận thức rõ ràng và phê bình xác đáng!

Thiên luận - Tuân Tử nói: "Lão Tử có thấy chỗ co mà không thấy chỗ duỗi. Mặc Tử có thấy chỗ bằng nhau mà không thấy chỗ khác nhau" (Lão Tử hữu kiến ư khuất, vô kiến ư tín. Mặc Tử hữu kiến ư tề, vô kiến ư kỵ).

Giải Tế - Tuân Tử nói: "Mặc Tử bị dụng che lấp nên không biết văn" (Mặc Tử tế ư dụng nhi bất chi văn).

Ông lại nói: "Huệ Tử bị lời nói che lấp nên không biết cái thực. Trang Tử bị trời che lấp nên không biết người (Huệ Tử tế ư từ nhi bất tri thực. Trang Tử tế ư thiên nhi bất tri nhân).

Đại sư Tuân Tử nòng cốt vẫn là Nho gia, chịu ảnh hưởng lớn từ Khổng Tử. Thời ông có thể nói là loạn, nên dân chúng tìm niềm tin vào đồng cốt và cúng tế. Tư tưởng Nho gia và nghề nghiệp làm Quan Cai trị của ông ảnh hưởng chủ đạo ở sách ông viết. Do vậy Tuân Tử cũng “Thiên Kiến” trong phê bình Lão học và âm dương gia…(có thể thiên kiến cả về đẳng cấp xã hội). Còn Đạo và thấy của Tuân Tử là cái thấy của nhà cai trị và Thầy dậy người đi cai trị.

Quan niệm Đạo đức của Tuân Tử ngược với Mạnh Tử và cho con người bản tính vốn ác, quan điểm này có thể cũng xuất phát từ quan điểm Cai trị, hoặc hoàn cảnh thời ông sống hỗn loạn, cái ác nhiều. Do vậy, Tuân Tử phản kích kịch liệt Mạnh Tử và các Đạo gia, Âm dương gia.

Ông lại có quan niệm kỳ quặc về Thánh nhân, Thánh nhân là phải cố hết sức tự cầu cho có nhiều phúc và chiếm nhiều tài nguyên, chỉ biết súc tích tài vật và lợi dụng trời đất - phải chăng quan điểm này có ảnh hưởng hậu duệ sau này..??

Vì tư tưởng Nho gia cố hữu và là nhà Cai trị vậy, nên có thể nhận định Tuân Tử không thâm nhập được vào Lão Trang học và học phái Âm dương gia. Tuy Tuân Tử có nhắc đến Tự Nhiên nhưng là Tự Nhiên theo đại sư Tuân Tử.

(Tham khảo Lịch Sử Triết Học Trung Quốc – Tg Phùng Hữu Loan ; NXB Khoa Học xã Hội)

Quái từ: Khuê, tiểu sự cát.

Lời quẻ: Quẻ Khuê tượng trưng cho sự ngang trái chia lìa, biết thận trọng xử sự thì thu được tốt lành.

Tự quái truyện giải thích Khuê là quai = ngang trái. Thuyết văn giải tự - Hứa Thận giải thích là "Mục bất tương thích", tức là hai mắt không nhìn nhau, có nghĩa là chống trái, không hòa thuận với nhau.

Tiểu, chỉ về âm nhu, hàm nghĩa cẩn thận, thận trọng. Lời quẻ chỉ ra rằng: phàm sự vật ở vào thời chống trái nhau, thì phải dùng phương pháp mềm mỏng, nhu thuận, thận trọng tìm ra cách xử lý thích hợp, thì mới có thể chuyển mâu thuẫn thành hài hòa được. Nếu cứ cương cứng một cách thái quá, khiên cưỡng mong cầu hòa hợp, thì khó mà vượt qua khuê ly được. Vì vậy, Lời quẻ mới nói là Tiểu sự cát.

Cổ nhân nói:

Trịnh Khang Thành giảng: "Khuê tức là đối lập nhau, lửa thì muốn bay lên, (nước) ao hồ thì muốn thấm xuống, cũng như con người đồng cư tâm ý khác nhau, nên gọi đó là Khuê" (Khuê, quai dã. Hỏa dục thướng, Trạch dục hạ. Do nhân đồng cư nhi chí dị dã, cố vị chi Khuê).

Ngu Phiên chú giảng: "Hai quái Ly Đoài tượng trưng cho hai thiếu nữ vậy" (Nhị nữ Ly Đoài dã).

Quách Dương chú giảng: "Tám quẻ Văn Vương lập ra, Ly là con gái giữa, Đoài là con gái út. Cả hai đều là tượng âm nhu, cho nên đối lập nhau chứ không tương ứng. Ly ở trên, là tượng dính bám vào trời. Đoài ở dưới là hồ nước, tượng trưng cho khả năng dung hòa. Lấy nhu tiến lên phía trên, đến hào Ngũ đắc vị. Trên ứng với Thượng, nên gọi là đắc trung ứng cương. Lại thêm hào âm nhu chiếm vị trí ngôi tôn, là bề tôi mà chiếm vị của vua, cùng tương ứng với Nhị, là vuâ phải ứng theo bề tôi, cho nên chỉ thành tựu được việc nhỏ" (Văn Vương bát quái, Ly vi trung nữ, Đoài vi thiếu nữ, gia vị âm tượng, cố tương khuê nhi bất tương ứng. Đoài tại hạ, Ly tại thượng. Ly giả, lệ vu thiên chi tượng, Đoài giả, trạch tại hạ năng dung chi tượng. Dĩ nhu nhi thượng tiến, chí lục ngũ đắc vị, thượng ứng thượng cửu, cố xưng vi đắc trung ứng cương. Hựu nhân âm hào lục ngũ chiếm cửu ngũ chi vị, vi thần chiếm quân vị; dữ cửu nhị tương ứng, vi quân ứng vi thần, chỉ năng thành tựu tiểu sự).

Chu dịch tập giải dẫn lời Ngu Phiên nói: "Tiểu là chỉ hào Ngũ. Âm cũng gọi là tiểu. Hào này đắc trung ứng cương nên được tốt".

Chu dịch chiết trung dẫn lời Hà Khải nói: "Việc đã chống trái nhau rồi, thì không thể lấy cái tâm nóng giận mà giải quyết được. Chỉ có cực kỳ bình tĩnh, từ từ chuyển hóa. Đó là mẹo hay để hòa hợp vậy. Cho nên mới nói Tiểu sự cát. Tiểu sự là chỉ việc xử sự mềm mỏng. Không phải đại sự là không tốt, mà chỉ sự thận trọng thì được tốt vậy".

Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt nói: "Một khi vật tình đã chống trái nhau, thì không thể làm việc đại sự được. Làm việc đại sự là phải huy động nhiều người, việc đó chỉ có ở thời đại đồng mới làm được. Tiểu sự là những việc như ăn uống, quần áo, không phải đợi sức đông, tuy chống trái mà vẫn có thể làm được".

(Bài viết sưu tầm của cụ Hà Uyên)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm về Dịch thuyết

Trăm năm mệnh lý què quặt

Một bài viết hay về mệnh lý theo môn Tử Bình. Mời các bạn cùng đọc.
Trăm năm mệnh lý què quặt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tác giả: Vương Khánh (Bạn Durobi dịch)

1. Tỉnh ngộ

Học mệnh 15 năm, nghi hoặc và tìm kiếm mất đủ 11 năm, khoảng thời gian sung sức nhất đời người thế là lãng phí mất. Tôi (VK) vẫn còn may, hãy còn chưa bị hói hết tóc thì thấy ánh sáng cuối đường hầm của mệnh học, không biết bao nhiêu dân nghiền bát tự còn đang mò mẫm trong đêm tối. Bát tự tức nhân sinh, mệnh học tức vũ trụ. Bát tự mệnh học quả là không đơn giản, may có những vị tiên sư trí tuệ phi phàm như Quỉ Cốc Tử, Từ Tử Bình đã đem môn huyền học cao thâm của vũ trụ này dùng công thức đơn giản để định cách, tức đã sáng lập nên hệ thống bát tự dự đoán học. Người đời sau như chúng ta chỉ cần vận dụng công thức đi dự đoán, trong đa số trường hợp có thể đoán rất chuẩn xác. Lý luận cao thâm, trình thức phức tạp không tương đồng với vận dụng khó khăn, như máy tính vậy, là kết tinh của trí tuệ khoa học, vận dụng nó thì cực đơn giản. Bát tự mệnh học cũng vậy, nếu không thì làm sao những vị thầy bói khiếm thị không biết lấy một chữ cũng lấy nó làm nghề mưu sinh được? Cái lý thì thế nhưng hình như trong thực tế không phải vậy, đại lục TQ kể từ khi thầy Thiệu Vỹ Hoa vào những năm 90 khởi xướng phổ cập môn Bát Tự đến nay đã hơn 20 năm rồi; Đài Cảng từ thời Dân Quốc đến nay cũng gần cả trăm năm; người học qua môn mệnh lý này đâu ít hơn số triệu, thế mà cho đến nay người thực sự được giới mệnh lý công nhận là cao thủ ít ơi là ít! Mấy năm trước có vị tiền bối bên Kỳ Môn cảm thán rằng: “Đại lục không có một ai biết đoán mệnh cả!”

Bây giờ đi qua mới phát hiện, thứ mà đại lục và Đài Cảng cả trăm nay học là thứ “Mệnh lý què quặt”, mà lại què đúng cái chân nhẽ ra phải là chủ lực. Một bệnh nhân với cái chân tật nguyền như vậy nếu có cho anh ta thêm 100 năm nữa thì đi được bao xa?

2. Điểm chuyển biến của Tử Bình mệnh học

Phương pháp luận mệnh từ nhà Thanh về trước hầu hết dùng cách cục làm chính, kiêm cố thêm nhật chủ vượng suy, đi bằng hai chân cách cục pháp và vượng suy pháp. Điều này thể hiện rõ rành rành trong những kinh điển như “Uyên Hải Tử Bình”, “Tam Mệnh Thông Hội”, “Tích Thiên Tủy”. Nếu bạn lâu quá không đụng tới mấy cuốn ấy thử bỏ chút thời gian lật lại xem có phải vậy không. Đến thời nhà Thanh, phương hướng luận mệnh môn Tử Bình phát sinh chuyển biến, đem Tử Bình pháp phân làm Vượng Suy phái và Cách Cục phái. Nhân vật đại biểu cho Vượng Suy phái là nhà mệnh lý chuyên nghiệp – tiên hiền Nhậm Thiết Tiều sống khoảng niên hiệu Đạo Quang nhà Thanh, tác phẩm tiêu biểu của ông là “Tích Thiên Tủy Xiển Vi”

Nhân vật đại biểu cho Cách Cục phái là vị tiên hiền Tiến Sĩ đời Càn Long là Thẩm Hiếu Chiêm, tác phẩm tiêu biểu của ông là “Tử Bình Chân Thuyên” Từ đó về sau, Tử Bình mệnh học không còn hoàn chỉnh nữa, hễ dùng cách cục thì không nhắc tới nhật chủ vượng suy, hễ trọng thị vượng suy thì khinh thị cách cục thành bại. Cuộc cải cách này cả trăm năm lại đây rất được những kẻ sơ học ủng hộ. Phải thôi, học tập mệnh lý không còn bị ràng buộc bởi cách cục và vượng suy bên nào nặng bên nào nhẹ, sẽ không còn bị khó khăn làm thế nào dung hòa cách cục và vượng suy. Hai phương pháp luận mệnh sau khi cải cách, vô luận là cách cục pháp hay là vượng suy pháp, chủ tuyến rạch ròi, đường hướng suy luận rõ ràng, trình tự đơn giản, dễ nhập môn, chẳng tốn bao thời gian là có thể nhập đạo. Từ đó, mệnh học là môn huyền học có ít người nghiên cứu nay trở thành môn học đại chúng dễ dàng, người học tăng rất nhiều. Từ đó, môn Tử Bình mệnh học mà cách cục và vượng suy liên quan chặt chẽ đã diễn biến thành môn mệnh lý không khuyết chân phải thì què chân trái, và đó chính là mệnh lý đại chúng hiện đại.

3. Sự truyền thừa của mệnh học hiện đại

Sự phát triển của mệnh lý hiện đại công lao lớn nhất đương nhiên phải qui công cho ba đại gia: Viên Thụ San tiền bối, Từ Lạc Ngô tiền bối và Vi Thiên Lý tiền bối, đương thời gọi là Nam Viên, Bắc Vi, Đông lạc Ngô. Nếu không có ba vị tiền bối này dốc bao tâm huyết trước tác rất nhiều tác phẩm mệnh lý để lại cho hậu học thì chúng ta đâu dễ tiếp xúc môn mệnh lý huyền học này. Về học thuật tu dưỡng của ba vị tiền bối thì khỏi bàn cãi, đều là bậc bác lãm quần thư, tất cả mọi kinh điển Tử Bình mệnh học đương nhiên là tư liệu học tập chủ yếu của các ông. “Tam Mệnh Thông Hội”, “Uyên Hải Tử Bình” quá là bao la phức tạp, “Thần Phong Thông Khảo” thì hệ thống chưa đủ sự tinh luyện, chỉ có “Tích Thiên Tủy Xiển Vi” do Nhậm Thiết Tiều chú và “Tử Bình Chân Thuyên” của Thẩm Hiếu Chiêm là chủ đề rõ ràng, luận thuật tường tận, nên sự ảnh hưởng đến ba vị tiền bối là rất rõ. Nhậm Thiết Tiều dùng vượng suy pháp lấy nhật chủ làm trung tâm, vừa đơn giản rõ ràng vừa dễ học dễ dùng, phù hợp tâm tính thích đi đường tắt của con người; cách cục pháp của Thẩm Hiếu Chiêm tuy hệ thống cũng khá là tường tận, có điều bên trong đặt quá nhiều cánh cửa, đọc rất hay nhưng rất khó áp dụng. Do như vậy nên ba ông đương nhiên ngả về vượng suy pháp của Nhậm Thiết Tiều thôi. Đại sư cũng là phàm nhân, khi học tập đều theo thói thường, khuynh hướng ở tác phẩm chủ đề rõ ràng, lý luận rành mạch.

Sự khác biệt lớn của đại sư và người thường khi học Dịch là họ có độ nhạy cảm đối với Dịch học, thiên tính này của họ loáng thoáng cảm giác rằng cách cục pháp nhất định là thứ hay, chỉ có điều nhất thời chưa hiểu lắm, nên không thể bỏ qua. Cứ như vậy sau khi hấp thu vượng suy pháp của Nhậm Thiết Tiều xong thì cũng bảo lưu cách cục pháp, hình thành nên phương pháp luận mệnh lấy vượng suy chủ đạo cách cục. (cách cục pháp và vượng suy pháp là hai hệ thống luận mệnh khác nhau, lấy lý luận vượng suy pháp chỉ đạo cách cục đó là nguyên nhân chủ yếu làm cho từ nhà Thanh về sau cách cục pháp hoàn toàn đi chệch hướng.)

Cách cục pháp trong hệ thống luận mệnh của ba ông kỳ thực chỉ là một thứ phụ thuộc, thường chỉ có tác dụng gọi tên cho bát tự, giống như tên người thì không liên quan cát hung vậy; cũng thường dùng như vũ khí để khỏa lấp lúc vượng suy pháp không cách nào giải thích được cát hung họa phúc của mệnh cục. Kỳ thực ai tinh ý sẽ thấy rõ, cách cục giống như “gân gà” của ba ông vậy, ăn thì dở mà bỏ thì tiếc, lấy làm vật bài trí cho rồi. Ba vị tiền bối tung hoành Dịch đàn mấy mươi năm, quyết định hướng đi của mệnh học từ thời Dân quốc đến nay, để lại nhiều tác phẩm ảnh hưởng sâu sắc. Thử hỏi, từ Dân quốc về sau người nào có chút văn hóa, có tâm cầu tiến, mấy ai không đọc sách của ba ông? Sách mệnh lý xuất bản hầu hết là của ba ông hoặc học giả hậu học trưởng thành đi theo sau ba ông biên soạn, thế thì làm sao không bị học thuật của ba ông ảnh hưởng? Nhất là Từ Lạc Ngô tiền bối, rất là dụng tâm lương khổ, muốn cho hậu học đều có thể đọc hiểu cổ thư nên bèn “các kinh ta chú thích hết”, vô luận sách mệnh lý phái nào sau khi ông chú xong cũng đóng lên cái dấu ấn vượng suy pháp, như cuốn “Tử bình Chân Thuyên” chuyên luận cách cục sau sự nỗ lực của ông đã bị biến thành phương pháp phụ thuộc của vượng suy pháp – vượng suy cách cục pháp. Kỳ thực con đường học tập mệnh lý rất hẹp, chủ yếu chỉ hai đường, manh phái và phái sáng mắt. Manh phái chỉ truyền người khiếm thị. Phái sáng mắt cơ bản là không có sư thừa, chủ yếu lấy sách làm thầy, hoặc có thể nói sư phụ của sư phụ chúng ta là sách. Hễ đọc sách thì không thể không đụng ba vị tiền bối này, nói trắng ra là sư phụ của hầu hết người sáng mắt chính là ba ông Viên, Vi, Từ.

Và như vậy vượng suy pháp đã trở thành chủ lưu, thậm chí là pháp môn có một không hai lưu truyền rộng rãi cho đến ngày nay.

4. Giới thiệu đôi nét về vượng suy pháp và cách cục pháp

Chúng ta đã rất quen thuộc vượng suy pháp rồi, chính là lấy nhật chủ làm trung tâm, định ra sự vượng suy cường nhược của nhật chủ và thập thần, sau đó dùng phép tắc cân bằng định ra hỉ kỵ, đoán cát hung.

Bộ phận quan trọng nhất của vượng suy pháp là định vượng suy của nhật chủ chính là thân vượng thân nhược, sau đó xác định nhật chủ hỉ gì, kỵ gì. Thường thì thân vượng cần khắc, tiết, hao để cân bằng, hỉ Tài Quan Thực Thương; thân nhược cần sinh phù để cân bằng, hỉ Ấn Tỷ. Cường thì ức (chế), nhược thì bổ, thuận thế hóa tiết, thông quan điều hậu, là nguyên tắc chọn dụng thần tối cơ bản.

Cách cục pháp luận mệnh dùng chủ khí trong mệnh cục làm trung tâm (thần nắm lệnh của tháng là chủ khí của trời, thập thần tích cực nổi trội nhất trong thiên can là chủ khí của đất), lập hướng, định cách cục, luận thành bại, thành cách thì quí, thành cục thì phú, không thành cách cục đều là người bình thường.

Làm thế nào để đoán định thành bại của cách cục, chủ yếu phải xem lập hướng điểm có thông qua được 3 cửa quan là hộ vệ, thật giả, thanh thuần hay không. Chỉ có 3 cửa quan đều thông qua thì mới tính cách cục được thành lập, không quí thì phú. 3 cửa chỉ cần 1 cửa không thông qua thì luận là không thành cách cục, án tình huống cụ thể phân làm 3 loại bán thành phẩm, thứ phẩm và phế phẩm, lấy tiêu chí này đoán định ngoài đại quí đại phú ra (đã thành cách cục) thì còn có các tầng thứ khác, hoặc tiểu phú quí, hoặc có thành tựu, hoặc bình phàm, hoặc là đồ bỏ đi, rõ ràng đâu ra đấy.

Cái gọi là 3 cửa quan: Hộ vệ, thật giả, thanh thuần, được biểu thuật như sau.

Hộ vệ: Tức là thập thần lập hướng (thập thần lập cách cục) xung quanh có hình thành một cơ chế bảo vệ hoặc ức chế hoàn thiện hay không. Lấy nguyên tắc hộ vệ hung thần thì nghịch dụng, cát thần thì thuận dụng để phán đoán thành bại. 4 hung thần: Sát, Thương, Kiêu, Kiếp cần chế cần hóa, như Thương Quan cần gặp Tài hoặc Ấn, Thất Sát cần gặp Thực hoặc Ấn hoặc Thương Nhận hợp Sát ; 4 cát thần: Tài, Quan, Ấn, Thực cần được sinh và hộ vệ, như Quan tinh cần gặp Tài hoặc Ấn, Ấn tinh cần gặp Quan hoặc Tỷ. Cát hung thần chỉ khi đã cụ bị cơ chế hộ vệ và ức chế này mới có thể kiện khang và thành tựu, và mới có thể là vật hữu dụng cho ta.

Lúc luận cách cục, hộ vệ là tối quan kiện, chúng ta chớ cho rằng thân vượng gặp Tài, Sát thì có thể thăng quan phát tài. Bạn đầu tiên phải tính: Tài này tự thân nó có an toàn, kiện khang hay không? Sát này có thể thuần phục làm vật hữu dụng cho ta không? Đơn lẻ chỉ mỗi thập thần thì nó chỉ là “nguyên liệu” mà thôi, chỉ khi qua sự tổ hợp hợp lý mới thành hình, tức biến thành “thành phẩm”, tức Tài là tài phú, Quan là địa vị.

Ví dụ 1: Càn tạo: Giáp Dần-Đinh Mão-Ất Sửu-Ất Dậu Đại vận: Tân Mùi Lưu niên: Kỷ Sửu Thân vượng Kiếp vượng, vượng suy pháp nhất định sẽ cho rằng địa chi Sát có Tài sinh có thể dùng được, nhưng trên thực tế vấn đề xảy ra ngay chỗ Sát này. Thất Sát là hung thần, không có chế hóa mà lại có nguồn; mà xung quanh nhật chủ không có Ấn tinh hộ vệ, Thực Thần thì yếu nên khó dùng, không hề có chút lực để kháng kích Thất Sát, điềm đại hung. Đại vận Tân Mùi Sát thấu, ứng kỳ đến, lưu niên Kỷ Sửu bị ung thư không chữa khỏi mà chết.

Ví dụ 2: Khôn tạo: Canh Tý-Quí Mùi-Canh Tý-Canh Thìn Vượng suy pháp nhất định sẽ cho rằng mệnh này thân vượng Thương Quan đắc dụng nên mệnh chủ rất thông minh. Dùng cách cục pháp mà nói, sau Tiểu Thử 4 ngày thì Đinh hỏa nắm lệnh, Quí thủy Thương Quan che đầu, mà Tý Thìn củng thủy, Thương Quan quá vượng. Thương Quan là thập thần lập cục. Thương Quan là hung thần, gặp Tài và Ấn mới tính là chế hóa thành công. Hiện ở thiên can chẳng những không có thần hộ vệ, còn có 2 Tỷ Kiên tương sinh, hung thần Thương Quan ngông nghênh, tất sẽ làm chuyện xấu. Khí nắm lệnh là Chính Quan bị Thương Quan khắc phá, dự báo đây là hung mệnh. Mệnh chủ bước vào vận thứ 2 là Nhâm Ngọ bị sốt đến độ hoại não, trở thành người thiểu trí. Chắc qua 2 ví dụ trên các bạn chắc đã nhận thức tầm quan trọng của hộ vệ.

Thật giả: Tức là vấn đề căn khí và lực của thập thần hộ vệ. Có căn gốc tức có lực, là thật; không có căn gốc thì vô lực, là giả.

Thanh thuần: Tức là vấn đề đơn nhất hay đa hiện của thập thần lập hướng (thập thần lập cách cục). Chỉ có một là thanh thuần, âm dương cùng hiện 2 bên hoặc âm âm, dương dương song hiện ở 2 bên là tạp trọc (năm tháng là một bên, giờ là một bên). Như Quan Sát hỗn tạp, Thực Thương cùng hiện, Ấn Ấn song thấu, đầu là tạp trọc.

Cách cục pháp luận mệnh, nói đơn giản thì rất đơn giản, chính là trước tiên phải tìm chủ khí lập hướng (lập cách cục), sau đó xem nó có thông qua 3 cửa quan hộ vệ, thật giả, thanh thuần hay không, thông qua thì thành cách cục đại phú đại quí, không qua thì thành người phổ thông

Trong các giai tầng xã hội. Phú quí bần tiện, cát hung họa phúc chỉ một chốc là rõ ngay. Mức độ khó của nó ở chỗ tìm đúng trung tâm điểm để luận mệnh, hoặc gọi là lập hướng điểm hoặc lập cách cục điểm. Trên lý luận nói dễ tìm, không phải thần nắm lệnh của tháng thì là thập thần nào hoạt động tích cực nhất trên hàng can, nhưng trên thực tế vận dụng có một số mệnh cục do nhân tố tổ hợp, chủ khí của lệnh tháng hoặc là bị phá hoại hoặc bị hợp hóa hoặc bị che lấp mất nên không dùng được; thập thần hoạt động tích cực nhất trên hàng can phải tính tới vượng suy, cát hung thần, thập thần ý hướng v.v…cho nên cũng không phải ngó sơ một cái mà xác định được. Ưu thế lớn nhất của vượng suy pháp ở chỗ trung tâm điểm là cố định khỏi cần tìm, nhật chủ chính là trung tâm điểm luận mệnh, đơn giản thế đấy, cho nên rất được người mới học ủng hộ.

Vượng suy pháp và cách cục pháp có 3 điểm lớn khu biệt với nhau:

A. Trung tâm điểm luận mệnh (thái cực điểm) không giống nhau.

Vượng suy pháp lấy nhật chủ làm trung tâm điểm luận mệnh, cách cục pháp lấy chủ khí của trời và đất làm trung tâm điểm luận mệnh. Trên thực tế là sự khác biệt cực lớn của 2 loại nhân sinh quan, nhân sinh lấy “ta” làm trung tâm, hay là lấy “tự nhiên trời đất” làm trung tâm.

B. Lối suy nghĩ luận nhân sinh thành bại không giống nhau. Vượng suy pháp lấy vượng suy cân bằng luận nhân sinh thành bại cát hung. Cách cục pháp lấy cách cục luận nhân sinh phú quí bần tiện.

C. Nhận thức đối với thập thần không giống nhau Vượng suy pháp đối với thập thần chỉ bàn hỉ kỵ, không luận cát hung. Phù hợp nguyên tắc vượng suy cân bằng thì là cát, chính là Sát, Kiêu. Thương, Kiếp cũng là là hỉ; không phù hợp nguyên tắc vượng suy cân bằng thì là hung, dù là Tài, Quan, Ấn, Thực cũng là kỵ với ta.

Cách cục pháp đối với thập thần có sự phân biệt cát hung rõ ràng, hơn nữa còn nghiêm ngặt án theo nguyên tắc thủ dụng hung thần thì nghịch dụng, cát thần thì thuận dụng

Cho nên vượng suy pháp và cách cục pháp là 2 hệ thống luận mệnh hoàn toàn không giống nhau, tối kỵ dùng lẫn với nhau. Dùng lý niệm của vượng suy pháp đi bình cách cục thì thật nực cười. Cũng giống như vậy mà dùng tư tưởng của cách cục pháp đi luận vượng suy thì cũng tréo nghoe.

5. Tính cục hạn của vượng suy pháp, cách cục pháp nguyên nhân đi chệnh hướng của nó

Vượng suy pháp và cách cục pháp là 2 phương pháp luận mệnh độc lập, chúng có thể lưu truyền tới ngày nay, đặc biệt là vượng suy pháp trở thành chủ lưu của luận mệnh thì tất nhiên phải có chỗ độc đáo của nó. Đồng thời, 2 phương pháp này luôn bị người ta chất nghi và phê phán thì chắc chắn có tồn tại không ít khuyết điểm. Một phương pháp mà có thể lưu hành được đương nhiên là phải có sự hợp lý, một phương pháp hay bị phê phán thì cũng phải có nguyên nhân. Chúng ta tĩnh tâm lại tìm thử nguyên nhân ở đâu.

(A) Ưu điểm của vượng suy pháp.

Phương pháp vượng suy cân bằng lấy nhật chủ làm trung tâm, khi luận đoán những phương diện như mệnh chủ tính cách, chủ quan năng động tính, phương thức của hành vi, tình hình sức khỏe, hôn nhân gia đình thì rất thiện nghệ, chẳng những dễ học mà tính chính xác rất cao; đối với phú quí bần tiện, cát hung họa phúc cũng có thể xem được đại khái.

Những ưu thế kể trên đủ để người mới học phục lăn, tự nhiên đối với vượng suy pháp nảy sinh cảm giác tin tưởng và tin phục, còn đối với những hạng mục như tầm mức của phú quí bần tiện và sự biến hóa của nó, sự lớn nhỏ của cát hung họa phúc và ứng kỳ của nó thì luôn cho rằng đấy là thứ cao cấp trong mệnh lý, theo sự nâng cao trình độ dần dần của mình thì nhất định sẽ có thể giải quyết, không hề nghi ngờ chút nào tính cục hạn của vượng suy pháp. Vượng suy pháp chỉ có ưu thế ở vài phương diện như nêu trên cũng đủ làm người học bình thuờng tự thấy vui rồi, dù gì mục đích học mệnh lý của đa số người không phải lấy nó làm nghề mà chỉ đơn thuần là sự ham thích.

(B) Khuyết điểm lớn nhất của vượng suy pháp

a. Lấy nhật nguyên làm trung tâm luận phú quí bần tiện, cát hung họa phúc.

Đặc điểm lớn nhất của vượng suy pháp luận mệnh là dùng nhật nguyên làm trung tâm tiến hành toàn diện luận mệnh, sự phú quí bần tiện, thọ yểu cát hung, biến hóa trồi sụt, tất tần tật đều lấy đó làm trung tâm. Chúng ta phải nhận thức rõ: Trong cuộc sống hiện thực, là “ta” ảnh hưởng, cải tạo tự nhiên và xã hội, hay là “ta” bị tự nhiên và xã hội ảnh hưởng, cải tạo. Nói đơn giản một chút, trong cuộc sống thực tế, “ta” là trung tâm của xã hội hay là xã hội là trung tâm của “ta”. Lý lẽ rõ là: Con người cực nhỏ bé trong thế giới tự nhiên, con người là một bộ phận nhỏ trong xã hội. Chúng ta thường bị tự nhiên xoay chuyển, thường bị trào lưu xã hội dắt mũi. Chúng vì cuộc sống mà hàng ngày xoay tròn quanh công việc, quanh sự nghiệp. Chúng ta có nhà có xe, nhưng phải làm để trả tiền nhà tiền xe. Chúng ta cả đời muốn thay đổi người khác, đến cuối cùng ngay đến con cái nó cũng chẳng thèm nghe ta. Chúng ta nỗ lực thay đổi mệnh vận, đến cuối cùng cũng phải tin là con người có mệnh. Chúng ta tin rằng “xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”, đấu tranh kháng lại tự nhiên, kết cục cuối cùng là kính úy tự nhiên, nhận ra thuận theo tự nhiên, vận dụng tự nhiên thì nhân loại mới hòa hợp hòa hợp vạn thế, di dưỡng thiên niên.

Phương pháp luận mệnh vượng suy lấy nhật chủ làm trung tâm đi ngược với qui luật tự nhiên, không phù hợp hiện thực xã hội, đã sai ngay từ lập hướng điểm lúc ban đầu. Đây là chỗ sai lớn của vượng suy pháp. Nó chỉ có thể suy đoán những tượng thuộc tự nhả, như tính cách, hành vi, hôn nhân, sức khỏe, mà đối với chủ tượng của nhân sinh, chúng ta thường nói là mối quan hệ giữa con người và xã hội, cũng chính là phú quí bần tiện, cát hung họa phúc, thì không hề với tới.

b. Thập thần chỉ phân hỉ kỵ, không phân cát hung.

Thập thần trong bát tự là hình tượng miêu tả hoặc đại biểu cho các loại nhân vật sự kiện. Khí có âm dương, người có thiện ác, vật có đẹp xấu, thế thì thập thần đại biểu cho nhân vật và sự kiện làm sao không thể có sự phân biệt thiện ác? Đây phải là điều cơ bản của mệnh lý, nếu thập thần không phân chia thiện ác thì chỉ ngũ thần là đủ, cổ nhân khi xưa tiếc chữ như vàng cớ gì phải làm ra thêm 5 thần dư thừa như vậy?

Chỉ cần là người có dụng tâm học qua mệnh lý đều biết, Thương Quan, Thất Sát, Kiêu Thần, Kiếp Tài chỉ cần vượng mà không có chế hóa, không hợp trói thì dù cho có là dụng thần vượng suy cũng khó nên thành tựu gì, và chuyện rắc rối theo sau nó cũng không ít.

Thất Sát đoạt mệnh, Thương Quan thương thân gây chuyện, Kiếp Tài tranh danh đoạt lợi, Kiêu Thần chuyên giật chén cơm, có cái nào mà không phải châm đối sự kiện khang và phú quí của nhật chủ đâu, nếu không phân cát hung thì đời người đâu có nhiều hung tai hoành họa lắm thế.

Cử 2 ví dụ để đơn giản nói rõ.

Ví dụ 3: Càn tạo: Ất Hợi-Kỷ Sửu-Giáp Thìn-Ất Hợi

Bát tự này nhìn giống như thân Tài lưỡng đình, dùng vượng suy pháp xem thì mệnh này tốt. Dùng cách cục pháp xem, dùng Chính Tài cách luận thành bại, cát thần Chính Tài cần có Quan Sát hoặc Thực Thương hộ vệ, hiện thời thì không thấy dụng thần Quan Sát, Thực Thần nào cả, đã thế còn có 2 Kiếp Tài tọa vượng đến khắc, chẳng những không thành cách mà còn bị phá tổn nghiêm trọng. Phú quí thôi đừng mơ nữa, cát thần nắm lệnh bị phá, cách bị phá bởi hung thần Kiếp Tài không có chế hóa, tất là người có tai nạn lớn. Mệnh chủ là người cực kỳ nghèo, sau do sự cố trong lúc mưu sinh mà mất đôi cánh tay, phải đi làm ăn mày. Kiếp Tài là đệ nhị ác thần trong 4 hung thần, cực hung hãn, là cường đạo chuyên môn đoạt Tài, không có Tài thì đoạt mệnh.

Ví dụ 4: Càn tạo: Đinh Dậu-Quí Mão-Nhâm Ngọ-Canh Tuất

Đại vận: Mậu Tuất

Lưu niên: Mậu Tý

Mệnh này Thất Sát có nguồn ám tàng, trong kết cấu thì Thất sát không bị chế, Sát cơ trùng trùng, đại vận thấu Sát sẽ là ứng kỳ. Vận Mậu Tuất, năm Bính Tuất bị ung thư ruột, năm Mậu Tý không chữa khỏi mà chết. Thất Sát không bị chế, không hợp trói, chỉ cần có lực và có nguồn thì tất sẽ công thân. Thiên can chỉ hung tai hoành họa có tính bất thình lình, địa chi chủ ác tật tuyệt chứng, điều này ít khi không ứng nghiệm. Vượng suy pháp không phân thập thần cát hung, xem thì đơn giản, thực tế thì đã chặn mất nửa con đường dự đoán, càng đi càng hẹp.

c. Không phân âm dương, không quản đục trong.

Vượng suy pháp luận mệnh chỉ bàn sự cân bằng của lực lượng, không bàn hỗn tạp đục trong. Có lúc cũng ngờ rằng những người quá thiên về vượng suy có phải họ sống trong chân không? Hiện thực cuộc sống mỗi ngày cho chúng ta biết: Người mà trong cuộc sống, công việc, hành vi hỗn tạp vô trật tự sẽ không có thành công và hạnh phúc thực sự. Luận mệnh xem mức độ của phú quí bần tiện, đặc biệt phải chú ý thanh thuần, tạp đục. Một trong những biểu hiện của tạp đục là âm dương thập thần phân lập mệnh cục làm 2 bên, như Quan Sát, Thực Thương. Âm âm, dương dương cùng hiện cũng là một loại của tạp đục, có điều ảnh hưởng đến mức độ phú quí ít hơn. Hỗn tạp là sự tạp loạn vô trật tự của khí, không có ảnh hưởng phương hướng, càng không có lực lượng duy trì. Thể hiện trên tính cách là không có chủ kiến, do dự không quyết; thể hiện trên hành vi là không muốn làm gì cả, không muốn đi sâu thâm nhập cái gì; thể hiện trên tình cảm là bắt cá hai tay, tình cảm không chuyên nhất. Kết quả là nhất sự vô thành, còn hai bàn tay trắng.

Thường người ta hay nói: “Bá nghệ bá tri, vị chi bá láp”, chính là chỉ kết quả của Thực Thương hỗn tạp.

Phụ nữ mệnh có Quan Sát hỗn tạp thì ai cũng biết là hôn nhân trắc trở, một là đàn ông theo đếm không hết, hai là khó ở mãi với một ông chồng.

Mệnh nam giới mà Quan Sát hỗn tạp thì khó có nghề nghiệp ổn định đàng hoàng, thuộc giới tam giáo cửu lưu. Hỗn tạp không thanh (trong), cách cục pháp luận mệnh cho là không cát, ít ra cũng làm giảm tầm mức của cách cục. Vượng suy pháp luận mệnh chẳng những không kỵ hỗn tạp, khi thân vượng còn mừng Quan Sát hỗn tạp, bởi vì phù hợp yêu cầu cân bằng, nhưng trên thực tế lại hoàn toàn không phải vậy. Những ví dụ như vậy rất nhiều, lấy ngay bát tự của tôi và bát tự cùng năm tháng ngày nhưng khác giờ của bạn học của tôi làm một so sánh.

Ví dụ 5: Càn tạo: Quí Sửu-Ất Mão-Bính Ngọ- Đinh Dậu

Ví dụ 6: Càn tạo: Quí Sửu-Ất Mão-Bính Ngọ-Nhâm Thìn

Theo vượng suy pháp luận mệnh thì nhật chủ của hai người đều rất vượng, nhật chủ hỉ gặp Quan Sát cùng đến chế ngự. Vd (6) hiển nhiên ngon hơn vd (5) nhiều. Thực tế thì lại không phải như vậy. Cách cục pháp giải quyết mối nghi hoặc này khá dễ. Vd (6) Ấn cục dụng Quan, mà Quan Sát lại hỗn tạp, cục không thành. Cho nên mới khó chuyên tâm theo đuồi công việc tính chất Ấn và bị thất nghiệp, chỉ đi làm thuê. Vd (5) Ấn cục dụng Quan, Quan tinh thanh mà không tạp, thành cục. Có điều Quan tinh bị ám thương, cục có tì vết. May mà có thể chuyên tâm theo nghề nghiệp thuộc Ấn.

Khí phân trong đục thì mới hiện rõ sự trật tự và tạp loạn; tình cảm phân trong đục thì mới thấy chuyên nhất và lăng nhăng; người phân trong đục thì mới có phú quí và bần tiện. Thiên địa nhân nào có phải thứ khác, luận mệnh sao không thể phân trong đục?

d. Sử dụng thập thần, nhầm coi nguyên liệu là thành phẩm.

Vượng suy pháp luận mệnh, đem cá thể Tài, Quan, Ấn làm tượng trưng cho giàu có, địa vị, quyền lực. Tài tức tiền tài, vật chất, Quan tức quan chức, địa vị, Ấn tức phúc khí, chỗ dựa. Kiểu lý luận như vậy thường dẫn đến kết luận và hiện thực không khớp. Mệnh có thân vượng Tài vượng mà không giàu, thân vượng Quan vượng mà không quí rất nhiều. Kỳ thực đơn lẻ thập thần như Tài Quan Ấn đều chỉ là một loại nguyên liệu cho phú quí mà thôi, không phải thành phẩm của phú quí. Những nguyên liệu phú quí này có thể trở nên phú quí thật sự hay không, cũng tức là sự giàu có, địa vị, vinh dự, thế thì phải xem chúng có thể thành tài được không.

Thế nào gọi là thành tài? Chính là có một cơ chế bảo hộ hoàn thiện, như gặp Tài thì xem Quan, thấu Quan xem Ấn, gặp Ấn xem Quan, chỉ khi tự thân phối hợp hoàn thiện mới tính là thành tài, nếu nhật chủ thực sự có thể được như vậy mới tính là phú quí.

Ví dụ 7: Càn tạo: Quí Hợi-Quí Hợi-Mậu Thìn-Kỷ Mùi

Ví dụ 8: Càn tạo: Quí Hợi-Quí Hợi-Mậu Thìn-Mậu Ngọ

Hai bát tự này chỉ khác mỗi giờ sinh, quĩ tích của nhân sinh cũng khá giống. Hai người đều thân vượng Tài vượng, vd (8) Thìn Ngọ giáp Tị, Tỉ Kiên cũng vượng, Mậu Quí hợp, thế đoạt Tài rất lớn. Bát tự như vậy có phải rất giàu không? Tài ở đây không thể xem là tài phú sau khi “thành tài”, bởi vì nó đã không có Quan Sát chế Tỉ Kiếp, cũng không có Thực Thương tiết Tỉ Kiếp để hộ vệ, Tài này tự thân nó cũng khó bảo toàn thì còn có thể xem là tài phú cho mình được chăng? Kiểu Tài không nguồn không hộ vệ này lúc nào cũng bị Tỉ Kiếp uy hiếp là tượng thương thân lao lực. Do đó cả hai người đều là người bình thường, vd (8) còn bị thương tai phá tài liên miên, ngón tay đã bị tàn tật.

© Nguyên nhân làm vượng suy pháp tẩu hỏa nhập ma

Cách luận mệnh vượng suy cân bằng lấy nhật chủ làm trung tâm quả thực có thể nhanh chóng suy đoán chính xác không ít chuyện, như tính cách, sức khỏe, hôn nhân như đã nói ở trên. Những thứ này đều là việc cá nhân, bản thân của nhật chủ, lúc luận đoán nhất định phải lấy nhật chủ làm trung tâm, vừa vặn phù hợp lý luận suy đoán lấy nhật chủ làm trung tâm của vượng suy pháp, cho nên tỷ lệ chính xác rất cao. Suy đoán chuyện quá khứ của bản thân hoặc việc bên ngoài bản thân như: giàu có, địa vị, vinh dự, công việc, sự nghiệp, v.v… thế thì không phải lấy nhật chủ làm trung tâm nữa, mà là lấy chủ khí trong mệnh cục làm trung tâm điểm, hoặc thần nắm lệnh hoặc thập thần tích cực nhất trên hàng can làm trung tâm.

Vượng suy pháp lấy nhật chủ làm trung tâm, do có ưu thế suy đoán việc trong nội bản thân nên bị ngộ nhận là suy đoán tất cả sự vật trong đời người đều có thể lấy nhật chủ làm trung tâm, phạm sai lầm lấy cái thiên lệch làm cái toàn bộ, hoặc tự ngã ý thức bành trướng đến không có điểm dừng. Loại sai lầm như vậy thực ra không ít vị dẫn dắt vượng suy pháp đã biết từ trước, chỉ có điều bởi lý do tự thân lợi ích hoặc là không tìm ra được một phương pháp luận mệnh tốt hơn nên chìm đắm vào nó không ra được, cứ như vậy càng lúc càng sa lầy, li khai Tử Bình mệnh học càng lúc càng xa.

(D) Cục hạn tính của cách cục pháp Cách cục pháp chủ yếu luận tầm mức của nhân sinh và sự biến hóa của thành bại được mất, còn về tính cách, sức khỏe, hôn nhân, lục thân, v.v… thì lại không phải sở trường. Tuy nhiên lúc dùng cách cục đoán mệnh, có lúc cũng có thể đoán trúng hơn nửa tình trạng sức khỏe, hôn nhân, nếu đóan trúng nhiều thì cũng là xảo hợp, không phải tất nhiên, cũng giống như vượng suy pháp cũng có lúc đoán trúng tầm mức phú quí cùa nhật chủ vậy.

Tử Bình mệnh học là môn học vấn chuyên bàn thiên đạo, địa đạo, nhân đạo, lấy cách, cục, tượng để thể hiện. Cách cục pháp chủ yếu luận thiên đạo và địa đạo, cũng chính là luận cách và cục. Cách, để xem quí tiện; cục, để xem giàu nghèo. Thành cách thành cục, phá cách phá cục chủ về sự biến hóa của cát hung, thành bại, được mất, các phuơng diện nhân sinh sự vật hình tượng khác thì không thuộc cách cục cai quản, nếu cứ muốn nhất định phải dùng lý luận cách cục pháp, có một số việc cũng giải thích được, có điều như vậy rất dễ phạm sai lầm giống như vượng suy pháp, hiện thời có không ít vị học cách cục pháp đã dính vô sai lầm tự ngã ý thức bành trướng rồi!

Tại sao phải học hết sở trường các pháp, chẳng qua bởi vì mỗi phương pháp tự thân nó đều có tính cục hạn. Thay vì tốn bao tinh lực đi bù vá khuyết hãm của mình, chi bằng sau khi làm mạnh ưu thế tự thân mình xong, dùng ít thời gian đi học thêm chỗ hay của người khác. Kiểu lấy dài đắp ngắn này vừa đỡ mất công sức vừa nhanh, đó mới là đường lối học tập đúng của chúng ta.

(E) Một sai lầm của cách cục pháp

Cách cục, là cái sườn, kết cấu tổ chức của bát tự. Nếu nói vượng suy pháp và tượng pháp là “da” thì cách cục phải xem là “xương”.

Hiện nay cách cục pháp không dễ học, nguyên nhân chủ yếu là do chỗ sai quá nhiều, đem những cách, cục, tượng rất đơn giản làm cho phức tạp lên, thậm chí còn gom cách, cục, tượng vô làm một, cũng chính là kiểu tự ngã bành trướng cách cục pháp là tất cả. Điểm sai lớn nhất của cách cục pháp là cho rằng cách cục và nhật chủ vượng suy là vô quan, cho rằng cách cục khẳng định sự phú quí và thành tựu, cơ bản là không dùng nhật chủ vượng suy. Trên thực tế luận mệnh nhất định không phải như vậy, cái khác không nói, tạm nói Tài cách vậy, Tài là cát thần, điều kiện thành cách của nó là phải gặp Thực Thương và Quan tinh đến hộ vệ, kị gặp Tỉ kiếp và Ấn tinh, chỉ khi Tài tinh song thấu làm đục cục mới cần Tỉ Kiếp khử đi. Thế nhưng khi bạn xem “Tử Bình Chân Thuyên” và một số sách cách cục, luận đến thủ dụng Tài cách, hễ thân nhược Tài vượng thì phần lớn lấy Ấn Tỉ làm dụng thần, thế là có những cách quái đản như Tài cách phối Ấn, Tài cách dụng Tỉ, tự mâu thuẫn với Tài cách luận thành bại luận đã nói ở trước.

Chẳng phải đã nói cách cục pháp không bàn nhật chủ vượng suy hay sao? Chẳng phải đã nói điều kiện Tài cách thành công là gặp Thực Thương và Quan tinh hay sao? Bây giờ tài tinh lại song thấu, thế tại sao phải lấy Tỉ Kiếp và Ấn tinh mới thành cách? Kỳ thực mục đích lấy Ấn tinh và Tỉ Kiếp không phải để hộ vệ Tài tinh mà là để sinh phù nhật chủ, để nhật chủ có năng lực gánh nổi Tài. Tử Bình mệnh học chân chính, nguyên bản chính là sự hài hòa thống nhất của cách cục pháp và vượng suy pháp, lấy cách cục làm chủ, vượng suy làm phụ, lấy nhật chủ làm thể, cách cục làm dụng, chẳng những phải tìm cách cục dụng thần mà còn phải xem thể dụng thần. Đàm luận cách cục, mục đích tối cùng không xa rời mối quan hệ giữa cách cục và nhật chủ, hà tất phải phủ nhận nhật chủ vượng suy?

6. Mệnh lý chỉ khi dùng hai chân mà đi thì mới đi được xa

Môn học âm dương, cho dù là phong thủy hay là tứ trụ, chỉ cần là cái học chân chính thì nhất định phải dùng 2 chân để đi, 1 chân cũng có thể đi nhưng cô âm thì không sinh, độc dương thì không trưởng, đi không được xa, được lâu là vậy. Võ học cái thế đều phân nội công và ngoại công, nội luyện hơi thở, ngoại luyện gân cốt bì, mục đích là để bản thân đạt cảnh giới thủy tạt không vô, đao thương bất nhập. Mệnh học cũng vậy, phân hai hệ thống thể và dụng, cách cục pháp lấy thiên địa chủ khí làm chủ và tượng pháp (bao gồm vượng suy) lấy nhật chủ làm trung tâm, chỉ cần hai pháp trên dung hợp mới có thể định được tầm mức nhân sinh, lại có thể đoán được chuyện lẻ tẻ trong đời người, thiên địa nhân, cách cục tượng, có hết ở trong ấy.

(Vương Khánh)

P/s: Đáng lưu ý nhất là câu này:

Mấy năm trước có vị tiền bối bên Kỳ Môn cảm thán rằng: “Đại lục không có một ai biết đoán mệnh cả!”

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trăm năm mệnh lý què quặt

Hóa giải xui xẻo dồn dập không chỉ trong tháng cô hồn

Đôi khi những điều xui xẻo đến dồn dập cùng lúc khiến bạn không kịp trở tay. Vậy giải pháp nào hóa giải xui xẻo triệt để?
Hóa giải xui xẻo dồn dập không chỉ trong tháng cô hồn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đôi khi những điều xui xẻo đến dồn dập cùng lúc khiến bạn không kịp trở tay. Vậy giải pháp nào hóa giải chúng triệt để?

 

Không ít người thắc mắc rằng có những thời điểm mà dường như tất cả mọi thứ đều trở nên tồi tệ và ập tới cùng lúc chứ không chỉ riêng trong tháng cô hồn như: nhiều đồ đạc hỏng, mất tiền, công việc gặp trở ngại, tai nạn xe cộ… Và thông thường, may mắn đến một lần trong khi đó vận xui lại đến gấp hai, ba lần. 
 
Đó có thể là sự trùng hợp về thời gian hoặc có thể liên quan đến tử vi, vận thế, các yếu tố phong thủy. Theo đó, một vài thay đổi về phong thủy sẽ giúp hóa giải xui xẻo và mang đến nguồn năng lượng tích cực giúp bản thân mỗi người vượt qua sóng gió một cách bình yên, vô sự. 

1. Xem lại vị trí giường ngủ

  Vị trí giường ngủ là một trong những điều quan trọng trong phong thủy, ảnh hưởng đến sức khỏe và tiền bạc của mỗi chúng ta. Khi ngủ, con người rất dễ bị tổn thương khi không thể tự bảo vệ mình.

Hoa giai xui xeo don dap ap toi khong chi trong thang co hon hinh anh
Ảnh minh họa
 
Trường hợp nếu chân giường chĩa thẳng vào cửa sổ, cửa ra vào hay phòng vệ sinh thì cơ thể sẽ bị ảnh hưởng bởi các luồng năng lượng tiêu cực, tà khí. Đó là lí do khiến bạn gặp hết xui xẻo về sức khỏe lại đến tiền bạc. 
 
Vì thế, nếu muốn hóa giải những xui xẻo ập đến cùng lúc, bạn nên kê lại vị trí giường nếu phạm một trong những lỗi trên.
 

2. Phía trước nhà ở

  Nếu trước nhà bạn nhìn ra con mương hoặc ống cống, sinh khí của gia đình sẽ bị trôi theo dòng nước. 
 
Cách hóa giải hiệu quả đó là trồng bụi cây hoặc chậu hoa trước cửa nhà. Như vậy, bạn sẽ giữ lại sinh khí trong nhà, mang đến nhiều may mắn.
 

3. Phía sau nhà ở

Nếu có đường chạy ngang phía sau nhà, điều này tượng trưng cho nước, thể hiện bạn đang quay lưng lại với nước cũng như nguồn tiền bạc. Do đó, gia chủ có thể làm hàng rào cây hoặc xây bờ tưởng để ngăn cách phía sau nhà và đường đi, mọi xui xẻo sẽ được hóa giải.
 

4. Xem lại những món đồ mới mua


Hoa giai xui xeo don dap ap toi khong chi trong thang co hon hinh anh
Ảnh minh họa
 
Nếu những xui xẻo xảy ra liên tiếp từ khi mua món đồ mới, bạn phải cảnh giác với nó, bởi có lẽ vấn đề xuất phát ở đây. 
 
Theo quan điểm phong thủy, những món đồ cũ (second-hand) tồn đọng những năng lượng từ người chủ trước. Nếu nguồn năng lượng này không tương thích với tuổi của bạn thì sẽ khiến bạn gặp nhiều chuyện không may.

5. Thay đổi cách nghĩ tích cực hơn

  Khi gặp nhiều chuyện không may cùng lúc, mọi người thường có suy nghĩ theo chiều hướng tiêu cực đó là không biết sẽ còn chuyện xui xẻo nào hơn thế xảy ra nữa không. Điều đó chỉ khiến mọi thứ càng trở nên tồi tệ hơn.
 
Theo đó, những suy nghĩ lạc quan và tích cực sẽ là giải pháp tốt thu hút nguồn sinh khí tốt ở quanh bạn.

Những bài viết cùng chủ đề tháng cô hồn:
Infographic: Nên làm gì trong tháng cô hồn để không bị vong linh quấy quả? Cô hồn là gì? Tại sao lại có tháng cô hồn và lễ cúng cô hồn? Cho đàn ông sờ ngực sẽ gặp may mắn trong tháng cô hồn? Kinh nghiệm cúng lễ đuổi ma xua tà trong tháng cô hồn Trong tháng cô hồn kết hôn hoặc khai trương, nên hay không?
ST

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải xui xẻo dồn dập không chỉ trong tháng cô hồn

Những câu chúc mừng tân gia ý nghĩa nhất

Tổng hợp những câu chúc mừng Tân Gia ý nghĩa nhất cho tất cả mọi người là một món quà của những câu nói hay xin gửi tặng đến những độc giả
Những câu chúc mừng tân gia ý nghĩa nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tổng hợp những câu chúc mừng Tân Gia ý nghĩa nhất cho tất cả mọi người là một món quà của những câu nói hay xin gửi tặng đến những độc giả có ý định lên nhà mới hay còn gọi là Tân gia nhé.

Tân gia là một truyền thống rất tốt đẹp của dân tộc ta, vì vậy bạn đang băn khoăn chưa biết chọn lựa câu nào để sử dụng thì bài viết hôm nay sẽ là một lời gợi ý không tồi đâu nhé.

Những câu chúc mừng Tân Gia ý nghĩa nhất

“Cung chúc an khang toàn gia thịnh
Vạn kỷ niên xuân ý cát tường”

——–

“Gia đình vạn sự bình an
Tài vô lộc đến phúc duyên tràn đầy”

———

“Phát đạt đắc trường tồn
Hưng thịnh lộc vĩnh cửu”

———

“Thời đáo hưng long phúc thọ hội
Vận phùng phát đạt lộc tài sinh”

———

“Vinh hoa phú quý niên trường thọ
Tài lộc an khang tuế cát tường”

——–

“Mua bán phát tài thông bốn bể
Tài nguyên thịnh vượng nối ba sông”

Đồng thời, bạn cũng có thể dùng thơ để gửi lời chúc mừng tân gia:

Chúc mừng gia đạo đặng an khương
Ngũ phúc lâm môn dán ngõ đường
Đức lộc đa tài lưu mãi hưởng
Công danh hiển đạt đáo hoài vương
Thỏa lòng như ý tràn vui tưởng
Hỷ dạ hanh thông trải cát tường
Viên thổ tứ thời hưng phú vượng
Khắp nhà bông trái tỏa mùi hương…

Chúc mừng Đức Lộc đến toàn gia
Ngũ phúc lâm môn trải khắp nhà
Điền trạch bốn mùa sinh vạn quả
Thổ viên tám tiết nở ngàn hoa
Lòng mơ như ý niềm vui thỏa
Dạ ước hanh thông hỷ sự hòa
Hưng vượng đồng tâm xây chí cả
Chúc mừng Đức Lộc đến toàn gia

Chúc mừng Phước đức đáo lưu gia
Phú quý kim ngân tấn ngập nhà
Lộc biếc tứ thời – cây trĩu quả
Hạnh xanh bát tiết – nhánh đầy hoa
An cư êm ấm hoài vui thỏa
Lạc nghiệp bình yên mãi hỷ hòa
Hưng vượng đồng tâm xây chí cả
Công thành danh hiển đạt tài đa….

Chúc mừng Đức Lộc đến toàn gia
Ngũ phúc lâm môn trải khắp nhà
Cành biếc bốn mùa sinh vạn quả
Cây xanh tám tiết nở ngàn hoa
Công danh tấn phát lòng vui thỏa
Sự nghiệp tràn dâng tâm đạo hòa
Hưng vượng đồng tâm xây chí cả
Chúc mừng Đức Lộc đến toàn gia….

Chúc mừng hạnh phước đến toàn gia
Tài lộc thênh thang trước cửa nhà
Điền trạch thiên thời sinh vạn quả
Thổ viên địa lợi nở ngàn hoa
Lòng mơ như ý niềm vui thỏa
Dạ ước hanh thông hỷ sự hòa
Hưng thịnh muôn đời xây chí cả
Chức mùng hạnh phúc đến toàn gia

Chúc mừng gia đạo vạn an khương
Ngũ phúc lâm môn đại cát tường
Đức lộc đa tài lưu mãi đọng
Công danh hiển đạt đáo hoài vương
Hạnh ninh hưng vượng giăng đầu ngõ
Phú quý giàu sang tấn cửa đường
Viên thổ tứ thời sanh trĩu quả
Trước nhà bông kết tỏa mùi hương…

Trên đây là những câu chúc mừng tân gia hay và nghĩa nhất cho mọi người. Bạn đã chọn cho mình câu chúc tân gia ưng ý chưa?


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu chúc mừng tân gia ý nghĩa nhất

Bật mí bí quyết phong thủy tốt đã thất truyền ngàn năm

Phong thủy tốt sẽ đem đến cho con người nhiều may mắn, nắm được những quy luật phong thủy tốt, bạn sẽ có phương pháp để tránh đi đại nạn.
Bật mí bí quyết phong thủy tốt đã thất truyền ngàn năm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy tốt sẽ đem đến cho con người nhiều may mắn, phong thủy không tốt thì đem lại vận khí bất lợi. Hiện nay có nhiều người đã và đang quan tâm tới các vấn đề phong thủy bên cạnh mình là tốt hay xấu. Và nắm được những quy luật nhất định, bạn sẽ có phương pháp để tránh đi đại nạn.


► Mời các bạn xem Lịch nghỉ Tết 2017 đã được cập nhật tại Lichngaytot.com

Bat mi bi quyet phong thuy tot da that truyen ngan nam hinh anh 2
Ảnh minh họa

Trong vườn nhà nên tràn ngập ánh mặt trời, tránh để cây to tán rộng bao phủ hết không gian. Bước vào cửa nhà thì nên có Mộc trong Mộc, nếu không mẹ con dễ bất hòa.
 
Vườn nhà có khe lớn thì sẽ tổn thương đường con cái. Phía sau gia trạch có rãnh lớn thì chủ hung vận, trạch vận khó phát. Đây cũng là bí quyết phong thủy tốt nên áp dụng.
 
Nơi ở cần tránh khuyết góc, nếu hướng Tây Nam bị khuyết thì tổn hại tới mẹ, Tây Bắc bị khuyết thì tổn hại tới cha, Đông Bắc bị khuyết thì ổn hại tới con. Hai bên cổng nhà cần tránh trồng cây to, đặc biệt các loại cây có tính trường thọ. Cạnh cửa nhà mà có hai cây lớn thì nhất định có họa người thứ 3. 
 
Dưới cửa sổ phòng lớn cần tránh xây nhà nhỏ cạnh nhà chính, dễ tổn thương nhân khẩu. Nhiều gia đình có thói quen xây nhà bé cạnh nhà chính, xây nhà bên trái thì 3 tháng sau tất gặp họa. 
 
Trong khuôn viên không thể không có nhà, nếu không gia tài không tụ, vợ con khó quản. Nếu tường nhà phía Tây cao, phía Đông thấp, thì hung tinh Bạch Hổ hoành hành, tai nạn liên miên. 
 
Trong khuôn viên nhà không được xây trụ gỗ, nếu không dễ xích mích hàng xóm bốn bề.

Bat mi bi quyet phong thuy tot da that truyen ngan nam hinh anh 2
 
Trong khuôn viên nhà tránh xây đầm cá nếu không trong một năm nhà sẽ tổn tài, 3-5 năm thì gia chủ bị bệnh phổi, ung thư đường ăn uống. Hiện tượng phong thủy này gọi là “Thủy phá thiên tâm”.
 
Muốn phong thủy tốt, ngoài khuôn viên nhà thì không được đào đầm hình vuông, nếu không cả nhà dính dáng tới chuyện tang tóc. 
 
Góc Tây Nam ngoài nhà không được xây nhà cao hơn, nếu không sẽ gặp Bạch Hổ Hàm Tiếu Sát “ăn” cả gia đình. 
 
Hai bên hông phải trái của căn nhà kỵ nhất có nhà cao(trong phạm vi 10m). E là căn nhà sẽ bị âm khí bao chùm, con cái tổn thất. 
 
Tường bao quanh nhà tránh quá cao,  nếu không gia chủ dễ phạm họa lao tù hay nghèo khổ. Quan vận bất thông, công danh không thể tề tựu.
An Hà

Phương hướng đại cát đại lợi trong tháng 10/2016 Giải sát cho nhà phạm lỗi hộ hình phong thủy cực nặng Hóa giải sát khí trong phong thủy nhà ở bằng sơn hải trấn
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bật mí bí quyết phong thủy tốt đã thất truyền ngàn năm

Tránh nhà có hình lồi

Nhìn chính diện, ngôi nhà giống hình ngọn núi, có nghĩa là chính giữa xây 2 tầng, 2 bên trái phải mỗi bên 1 tầng. Loại nhà này khiến người ta có cảm giác như 2
Tránh nhà có hình lồi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

bên vai bị gió bão thổi bay mất, mang tướng không tốt lành. Nhà thiết kế kiểu này dễ gây cháy nhà hay khiến gia chủ bị hao tài tốn của.

Khi xây dựng, trong 1 khoảng thời gian nhất định, mức độ chấn động của nó là cố định. Quy tắc chu kỳ chấn động là: nhà càng cao chu kỳ càng dài, nhà càng thấp chu kỳ càng ngắn. Nếu bộ phận sóng dài và bộ phận sóng ngắn của chấn động cố định của 1 ngôi nhà trùng với nhau, khi gặp động đất hay gió bão, những bộ phận nối tiếp nhau sẽ bị kéo theo những lực đối lập nhau, cuối cùng sẽ có nguy cơ bị tách rời ra.

(Hình minh họa)

Nói một cách cụ thể, những nơi nối tiếp giữ chỗ 2 tầng và chỗ 1 tầng sẽ có nguy cơ bị nứt rời. Hiện tượng này rất dễ thấy ở những ngôi nhà xây bằng gỗ hay vữa. Những ngôi nhà xây bằng vữa rất hay bị nứt, chính là do không xét đến vấn đề lực học. Thông thường, khi nhà bị nứt, nước mưa dễ dàng ngấm vào. Khi đã ngấm vào tường, chắc chắc nước mưa sẽ ngấm tiếp vào các kết cấu khác, gây ra nguy cơ đổ nhà nghiêm trọng.

Không chỉ có thế, vào mùa đông, nước mưa ngấm vào nhà, khi bị lạnh sẽ nở ra, làm vết nứt càng rộng. Hiện tượng này là nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc nhà cửa giảm độ bền và chịu lực. Hiện tượng sau khi bị suy thận của con người cũng giống với hiện tượng này. Chức năng của thận không còn bình thường, tim và gan cũng theo đó yếu đi, cuối cùng toàn cơ thể suy nhược.

Nếu nhất định phải xây 1 ngôi nhà theo kiểu cao thấp không đều như trên, khi sử dụng cột chống, nhất định cần xét đến những lực tác động nằm ngang hay nằm nghiêng, dùng những nguyên liệu chịu lực càng cao, càng có thể đảm bảo sự an toàn cho người ở.

(Theo 100 điều nên tránh khi xây nhà)

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tránh nhà có hình lồi

Trang trí trần nhà như thế nào cho phù hợp? –

Phong thủy truyền thông cho rằng, trong ngôi nhà thì trần nhà đươc coi là trời còn nền nhà là măt đất, vì vậy, khi trang trí trần nhà cần chú ý: - Màu sắc của trần nhà phải thanh nhã, nhẹ nhàng, nên dùng gam màu nhạt như màu lam nhạt, xanh da trờ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy truyền thông cho rằng, trong ngôi nhà thì trần nhà đươc coi là trời còn nền nhà là măt đất, vì vậy, khi trang trí trần nhà cần chú ý:

av

–     Màu sắc của trần nhà phải thanh nhã, nhẹ nhàng, nên dùng gam màu nhạt như màu lam nhạt, xanh da trời, trắng sữa, xám nhạt, vàng nhạt… làm màu chủ đạo. Đối xứng với tấm trần là mặt nền nhà cần phải mang màu đậm hơn một chút.

–   Với những trần nhà thấp do có xà ngang, bạn hãy trang trí xung quanh tấm trần thật đơn giản, còn phần giữa trang trí bằng một chùm đèn pha lê đủ loại đẹp mắt, tuyệt đôi không được gắn gương phản chiếu lên trần nhà.

–  Những phòng khách không đủ ánh sáng tự nhiên, khắc phục bằng cách lắp bóng đèn huỳnh quang khuất quanh tấm trần, phần giữa trang trí bằng một chùm đèn pha lê, ban ngày, ánh sáng gần giống với ánh sáng tự nhiên của mặt trời phát ra từ bóng đèn huỳnh quang sẽ khiến phòng khách tươi sáng hơn. Buổi tối, gian phòng khách sẽ đẹp lung linh nhờ sự kết hợp của hai chùm ánh sáng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trang trí trần nhà như thế nào cho phù hợp? –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd