Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

5 mẹo phong thủy đơn giản cho hôn nhân viên mãn

Những mẹo phong thủy giúp hôn nhân hạnh phúc dưới đây sẽ phần nào chỉ ra cho bạn những việc cần làm trước, trong và sau khi kết hôn để có cuộc sống vui vẻ.
5 mẹo phong thủy đơn giản cho hôn nhân viên mãn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những mẹo phong thủy giúp hôn nhân hạnh phúc dưới đây sẽ phần nào chỉ ra cho bạn những việc cần làm trước, trong và sau khi kết hôn để có cuộc sống vui vẻ với bạn đời.


5 meo phong thuy don gian cho hon nhan vien man hinh anh 2
 
1. Lương duyên đến từ phía Đông Nam

Đông Nam là phương hỉ vị, quẻ Tốn, rất có lợi cho việc kết hôn, lại còn mang ý nghĩa tin tưởng, xã giao, tốt cho giao tiếp trong gia đình. Nếu muốn tìm kiếm tình yêu hoặc muốn đi tới bàn chuyện kết đôi thì nên xuất hành về hướng Đông Nam, thời gian tốt nhất trong ngày là trước giữa trưa.
 
Nếu qua người mai mối thì nên chọn người có nhà ở hướng Đông Nam hoặc khi gặp gỡ nhau thì chọn nơi có phương vị này, nhất định hai bạn sẽ có mối lương duyên.
 
2. Bố trí hoa đào phong thủy
 
Nếu tha thiết muốn kết hôn mà mãi chưa gặp người vừa ý thì hãy bố trí hoa đào phong thủy. Đặt một bình hoa màu hồng phấn cùng một viên thủy tinh hồng ở vị trí Đông Nam nhà. Nếu đã có người yêu mà dùng dằng chưa thể bàn tới hôn nhân thì đặt thêm ở đây ảnh chụp chung của hai người, có tác dụng thúc đẩy hỉ sự.
 
5 meo phong thuy don gian cho hon nhan vien man hinh anh
 
3. Chọn thời cơ kết hôn hợp phong thủy

Mẹo phong thủy giúp hôn nhân hạnh phúc tiếp theo là phải chọn thời điểm kết hôn hội tụ đủ thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Chọn tuổi kết hôn nên nhằm vào số tuổi là bội số của 9 như 18, 27, 36. Lấy đó làm chuẩn, trước sau ba năm cũng là thời cơ tốt để lập gia thất.
 
Ngoài ra, trời đất có bốn mùa, nhân sinh cũng có bốn mùa, bởi thế thời gian kết hôn đẹp nhất là mùa xuân, tiếp đến là thu, hạ, kị nhất mùa đông, nếu không sau này chung sống rất vất vả.
 
Dễ dàng nắm trọn hạnh phúc với đào hoa vị
Theo phong thủy, để tăng may mắn trong đường tình cảm, người ta có thể sử dụng các phương pháp “đào hoa vị”. Cắm hoa trong phòng ngủ là phương pháp “đào hoa
4. Vị trí đặt giường ngủ
 
Phong thủy cho hôn nhân viên mãn tuyệt đối kị kê giường ngủ ở Khảm vị. Đây là ví trí đào hoa vượng nhưng thiên về tình dục, người chồng dễ phóng túng bên ngoài, bỏ bê gia đình. Chấn vị và Tốn vị là vị trí thích hợp để kê giường ngủ, hôn nhân yên ổn, vợ chồng hòa hợp. Nếu không thể thay đổi vị trí giường thì hạ thấp vị trí gối đầu cũng được.

5. Sử dụng màu đỏ trong bữa ăn
 
Hôn nhân bao giờ cũng trước ấm sau lạnh, trải qua giai đoạn kích thích, mới mẻ sẽ nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Để cải thiện tình cảm vợ chồng, người vợ hãy tranh thủ khi làm đồ ăn tăng thêm sắc đỏ, tích cực làm những món ăn có màu rực rỡ như sốt cà chua, thịt gà nấu cà chua, thịt bò hầm.
 
Màu đỏ trong phong thủy có tác dụng kích thích nhiệt tình, hâm nóng tình yêu, tăng không khí đầm ấm, có thể khiến đôi vợ chồng hòa hợp, yêu thương.

► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không

Trần Hồng (Theo k366)

X
em Clip "Hướng giường ngủ chuẩn phong thủy"


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 mẹo phong thủy đơn giản cho hôn nhân viên mãn

Top 3 con giáp chào đón điều may mắn trong 3 năm tới

Trong những năm qua, một số con giáp gặp nhiều khó khăn, nhưng 3 năm tới là thời điểm rất tốt. Sau đây là 3 con giáp may mắn ba năm tới.
Top 3 con giáp chào đón điều may mắn trong 3 năm tới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xui xẻo qua đi, điều tốt sẽ lần lượt kéo đến. Trong những năm qua, một số con giáp gặp nhiều khó khăn, phạm nhiều lỗi, nhưng 3 năm tới đây sẽ là thời điểm rất tốt. Sau đây là 3 con giáp may mắn ba năm tới.


Top 3 con giap chao don dieu may man trong 3 nam toi hinh anh
 
Hạng 3: Tuổi Mùi

Top 3 con giap chao don dieu may man trong 3 nam toi hinh anh 2
 
Người tuổi Mùi trong 3 năm tới luôn gặp thuận lợi và may mắn, tin vui lần lượt kéo đến. Các việc như: kết hôn, thăng chức, tăng lương, đạt được mục tiêu, thực hiện lý tưởng,…sẽ không khó để thấy ở mệnh trụ năm Mùi trong 3 năm tới.  
Lỗi phong thủy khiến nỗi cô đơn đeo bám gia chủ
Con người luôn vấp phải sự hạn chế từ ảnh hưởng môi trường xung quanh. Theo các chuyên gia, sự tồn tại của một số lỗi phong thủy sẽ khiến nỗi

Hạng 2: Tuổi Hợi

Top 3 con giap chao don dieu may man trong 3 nam toi hinh anh 3
 
Từ năm 2016 đến năm 2018, đây là ba năm vô cùng quan trọng đối với người tuổi Hợi, họ phải đưa ra nhiều quyết định ảnh hưởng đến gia đình, sự nghiệp, công danh. Điều may mắn là vận khí của họ trong ba năm này thật sự là không tồi, từ năm 2016 đã bắt đầu bằng những điều thuận lợi và trong ba năm tiếp theo sự việc tốt đẹp sẽ diễn ra và nối đuôi nhau mà đến.
  Hạng 1: Tuổi Tỵ
Top 3 con giap chao don dieu may man trong 3 nam toi hinh anh 4
 
Mệnh trụ năm Tỵ trong 3 năm tới vô cùng may mắn. Những người tuổi Tỵ còn độc thân rất có cơ hội kết hôn trong 3 năm tới, nếu có ý định khởi nghiệp thì cũng dễ dàng đạt được thành công. Đây là thời điểm họ nhận được không chỉ là tiền tài mà còn danh tiếng và địa vị. Vậy nên, con giáp này nên nắm bắt thời điểm 3 năm tới để hoàn thành các dự định của bản thân.

=> Xem Lịch vạn niên, lịch vạn sự chuẩn nhất tại Lichngaytot.com

Chi Nguyễn

Xem Clip để thu nạp kiến thức về Số phận rủi may


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 con giáp chào đón điều may mắn trong 3 năm tới

Bí quyết trang trí phòng ngủ –

Cách bố trí, thiết kế phòng ngủ (1) Phong cách trang trí phòng ngủ nên tuân theo nguyên tắc sử dụng màu sắc nhẹ nhàng, ấm áp, nhã nhặn, Màu sắc, chất liệu trang trí có thể chọn những loại mà cả thị giác và xúc giác đều có cảm giác về nhiệt độ như vá

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1259142371-374988

Cách bố trí, thiết kế phòng ngủ

(1) Phong cách trang trí phòng ngủ nên tuân theo nguyên tắc sử dụng màu sắc nhẹ nhàng, ấm áp, nhã nhặn, Màu sắc, chất liệu trang trí có thể chọn những loại mà cả thị giác và xúc giác đều có cảm giác về nhiệt độ như ván sàn gỗ, nền nhà bằng nhựa, thảm trải nền nhà, tấm gỗ trang trí, thảm treo tường. Phải tránh tối đa sử dụng với số lượng lớn vật liệu cứng như kính, đá cấm thạch, đồng thời chọn lựa những chất liệu hút ẩm như thảm lông, rèm cửa, thảm treo tường.

(2) Rèm cửa phòng ngủ nếu có điều kiện tốt nhất nên làm hai tầng, một tầng dày một chút để tránh ban đêm bị tiếng vang bên ngoài quấy nhiễu; một tầng là vải mỏng nửa trong suốt, dùng vào ban ngày, có tác dụng điều tiết ánh sáng,

(3) Độ lớn nhỏ của không gian phải phù hợp, Trần nhà cách sàn nhà không dưới 2.5m, diện tích phòng ngủ không được nhỏ hơn 12m2, lớn hơn thì càng tốt, nhưng phòng cũng không nên quá rộng không gian quá rộng sẽ khiến con người cảm thấy trống rỗng và mất đi cảm giác gần gũi.

Những điều kiêng ky trọng bố trí phòng ngủ 

Phòng ngủ là nơi con ngưòi nghỉ ngơi và thường xuyên sử dụng, chiếm vị trí vô cùng quan trọng trong cuộc sống gia đình. Khi bố trí phòng ngủ phải chú ý các điểm sau.

(1) Kỵ tạo cho con người cảm giác ức chế. Khi bố trí phòng ngủ, diện tích kê đồ không được quá lớn nên tận dụng không gian một cách tối đa, tạo cho chủ nhân không gian hoạt động đầy đủ, không nên vừa vào phòng đã có cảm giác ức chế, ngột ngạt đến nỗi không thể thở nổi.

(2) Kỵ thiếu tính thẩm mỹ. Về hình khối, thông qua sự phối hợp của các vật dụng đem đến cho chúng ta cảm nhận về một cái đẹp theo trực quan, vừa sử dụng dễ dàng, gọn gàng ngăn nắp, lại vừa có phong cách đơn giản, thống nhất, sáng sủa.

(3) Kỵ dùng nguyên liệu quá cầu kỳ. Theo nguyên tắc đơn giản, nhẹ nhàng, màu sắc trong phòng nên đơn giản (nên dùng gam màu ấm, thường dùng màu trung gian như màu phối hợp giữa các màu như da cam, đỏ, lục), cố gắng tránh treo đèn treo lớn đầu giường; đèn tường, đèn bàn phải đẹp, ánh sáng cũng phải đẹp.

Tóm lại, bố trí phòng ngủ tuyệt đối tránh màu sắc lòe loẹt, kỳ quái sặc sỡ, tránh phá vỡ không khí an nhàn.

Màu sắc hài hòa

(1) Phối hợp giữa màu sắc và ánh sáng: cùng một màu, trong điều kiện sáng tối khác nhau sẽ có hiệu quả rất khác biệt. Căn cứ nguyên lý này, hướng của căn phòng không giống nhau thì màu sắc trong phòng cũng thay đổi theo. Nếu cửa hướng Nam thì căn phòng thường có đầy đủ ánh sáng, màu sắc dễ thành màu ấm tự nhiên, do đó tường, trần nên chọn màu hơi lạnh, mùa đông không có cảm giác lạnh lẽo, mùả hè cũng không có cảm giác nóng bức. Cửa hướng Bắc thì ngược lại, màu trong phòng có thể ấm một chút.

(2) Phối hợp hài hòa màu sắc: phối hợp hài hòa màu của tường, nền, cửa và đồ dùng có thể làm tăng màu sắc trong phòng, giàu tính nghệ thuật. Nếu tường phòng ngủ dùng giấy dán tường màu xanh lá cây nhạt phối hợp với thảm trải nền màu trám và đồ dùng trên giường màu nhạt, đồ dùng trong nhà màu dưa muối có thể thể hiện cái đẹp trầm lắng. Phòng khách có thể dùng thảm màu hồng phối hợp với sofa trắng, rèm cửa màu xám vừa phải; dùng giấy dán tưòng màu xanh da trời nhạt kết hợp với đồ dùng màu vàng nhạt có thể thể hiện được bầu không khí phong phú, nồng nhiệt, trong sự yên tĩnh lộ ra sức sống mãnh liệt.

Cách đánh giá chất lượng ván lát sàn

Ván lát sàn tốt nhất nên dùng liễu thủy khúc, gỗ cây dó, giáng hương… Khi lựa chọn nên chú ý chất liệu, màu sắc phải thống nhất, kích cỡ hoàn toàn như nhau, độ dày tương đương, không có vết nấm mốc, mọt. Tốt nhất là xử lý định hình bằng sấy khô, chống biến dạng co lại do ngậm quá nhiều nước.

Cách đánh giá chất lượng gia công ván sàn

(1) Việc lát các loại nguyên liệu lên mặt sàn nên tiến hành sau khi hoàn thành cơ bản việc trang trí nhà và tường. Khi lát gỗ, ghép ván sàn thì phòng nên khô ráo, tránh thi công khi không khí ẩm ướt.

(2) Khi lát sàn bằng gỗ, hàm lượng nước trong ván sàn không được lớn hơn 18%. Trên nền xi măng lát một sàn gỗ thì khoảng cách không được lớn hơn 35cm. Đưòng kính thanh ván không được lớn hơn 12cm. Sàn gỗ phải được lắp ghép chắc chắn, bằng phằng.

(3) Lát nền (dính vào nhau) phải chắc chắn, không phát ra âm thanh, không lỏng lẻo, không bị rỗng bên trong.

(4) Mặt sàn gỗ phải được bào nhẵn, đánh bóng, không có vết bào, vỏ bào, vết xước. Nếu đánh véc ni thi hoa văn trên gỗ phải rõ.

(5) Nếu ghép tấm công nghiệp thì chỗ khe nối phải đồng đều, độ rộng khe nối phải bằng nhau, bề mặt sạch sẽ, không có hiện tượng keo dán tràn ra.

(6) Ván ốp chân tưòng phải khít với ván lát nền. Đường trên ván ốp phải thẳng hàng, dán chặt vào mặt tường, không có khe hở.

(7) Ván lát sàn nên lát theo đường thẳng từ ngoài cửa vào trong. Khe giữa các ván ghép phải khít vào nhau, màu sắc tương đương nhau, trên bốn bức tường phải để lại khoảng phát sinh lcm. Ván gỗ nên dùng đinh ghép ván sàn chuyên dụng để cố định.

(8) Ván sàn sau khi lát xong phải đánh bóng rồi mối quét sơn. Ván sàn phải được đánh phẳng lì, độ lệch trong 2m từ mặt sàn phải nhỏ hơn một chút hoặc bằng 5mm, không được có rãnh lõm xuống hay vết cạo. Tại vị trí góc tường dùng máy mài nhỏ để mài.

(9) Khi lau dọn phải chờ cho dầu khô hoàn toàn mối được tiến hành.

Cách chọn lựa đèn

(1) Căn cứ vào diện tích lớn nhỏ của căn phòng để chọn đèn: Đèn sáng thích hợp với phòng lớn. Phòng nhỏ hẹp phải chọn đèn có ánh sáng dịu, vì đèn có ánh sáng dịu có thể làm nổi bật không khí của toàn bộ căn phòng, khiến cho mắt bị đánh lừa mà không chú ý đến sự nhỏ hẹp của căn phòng.

(2) Căn cứ vào chức năng của căn phòng để chọn lựa đèn: Nếu là phòng đọc sách thì nên tạo một môi trường đọc sách ấm cúng. Do đó lựa chọn đèn nên căn cứ vào yêu cầu đọc sách, ánh sáng thích hợp, ổn định thì mắt mới không bị mỏi.

(3) Căn cứ vào mùa để chọn đèn: Để thích ứng với mùa và môi trường khác nhau có thể lắp đặt hai loại đèn có ánh sáng khác nhau. Ví dụ: ánh sáng trắng hơi lạnh, có thể khiến con người cảm thấy mát mẻ; ánh sáng lam, lục có thể khiến con người cảm thấy yên tĩnh, thư thái; ánh sáng vàng hay cam hơi nóng, có thể khiến con người cảm thấy ấm áp. Đèn có ánh sáng lam, lục thích hợp cho mùa hè, ánh sáng vàng, cam thích hợp cho mùa đông.

(4) Căn cứ vào yêu cầu sử dụng để chọn đèn: Nếu để trang điểm, ánh sáng nên chiếu từ hai bên thì mặt người trang điểm nhìn mới rõ. Nếu ánh sáng chiếu từ trên xuống thì phía dưới mắt lại bị tối. Khi xem vô tuyến, ánh sáng yếu từ hai bên hay phía trên vô tuyến hắt lên tường, xuống nền hay lên trần có thể bảo vệ thị lực, cũng có thể tránh nhiễu màn hình vô tuyến.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết trang trí phòng ngủ –

Thuyết minh về phong tục cổ truyền ngày tết

Cứ mỗi mùa xuân về, bao trái tim con người lại háo hức đón chờ. Tết cổ truyền từ lâu đã trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa Việt. Nó không chỉ là ngày chào mừng năm mới mà còn là dịp để con người sum họp. Vì vậy không chỉ Việt Nam mới có ngày Tết mà nó còn được phổ biến rộng rãi ở một số nước thuộc châu Á.
Thuyết minh về phong tục cổ truyền ngày tết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết Nguyên đán (hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền, năm mới hay chỉ đơn giản Tết), là dịp lễ quan trọng nhất trong văn hóa của người Việt Nam và một số các dân tộc chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc khác. Vì Trung Quốc và một số nước chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc dùng lịch pháp theo chu kỳ vận hành của mặt trăng nên Tết Nguyên Đán muộn hơn Tết Dương lịch (còn gọi nôm na là Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch. Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).   Người Việt tin rằng vào ngày Tết mọi thứ đều phải mới, phải đổi khác, từ ngoại vật cho đến lòng người, vì vậy khoảng mươi ngày trước Tết họ thường sơn, quét vôi nhà cửa lại. Họ cũng tất bật đi sắm sửa quần áo mới để mặc trong dịp này. Trong những ngày Tết họ kiêng cữ không nóng giận, cãi cọ. Tết là dịp để mọi người hàn gắn những hiềm khích đã qua và là dịp để chuộc lỗi. Mọi người đi thăm viếng nhau và chúc nhau những lời đầy ý nghĩa. Trẻ em sau khi chúc Tết người lớn còn được lì xì bằng một phong bì đỏ thắm có đựng ít tiền dành cho chúng tiêu xài ngày Tết. Tết ở 3 miền Bắc, Trung, Nam ở Việt Nam cũng có những điều khác nhau.   Phong tục của ngày tết cổ truyền ở Việt Nam vô cùng phong phú. Nào là chúc Tết, lì xì, bày mâm ngũ quả, trồng cây nêu, gói bánh chưng, treo câu đố,….Tất cả tạo thành nét đẹp văn hóa ngày Tết của người Việt.   Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho học cho tới những người bình dân "tồn cổ" vẫn còn trọng tục treo "câu đối đỏ" nhân ngày Tết. Những câu đối này được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên còn được gọi là câu đối đỏ.   Bản thân chữ "câu đối đỏ" cũng xuất hiện trong câu đối Tết sau:   Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.   Câu đối thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Nên lưu ý là từ đối ở đây có nghĩa là ngang nhau, hợp nhau thành một đôi. Câu đối là một trong những thể loại của Văn học Trung Quốc và Việt Nam.   Câu đối có nguồn gốc từ người Trung Quốc. Người Trung Quốc gọi câu đối là đối liên nhưng tên gọi xưa của nó là đào phù.   Câu đối được xem là tinh hoa của văn hóa chữ Hán, người Trung Quốc quan niệm: "nếu thơ văn là tinh hoa của chữ nghĩa thì câu đối là tinh hoa của tinh hoa".   Đối liên có lịch sử ra đời cách đây khoảng 3000 năm, nhưng theo Tống sử Thục thế gia, câu đối đầu tiên được ghi lại do chính chúa nhà Hậu Thục (934-965) là Mạnh Sưởng viết trên tấm gỗ đào vào năm 959.   Khi viết câu đối, nếu chọn được câu chữ tuân theo nguyên tắc sau thì đôi câu đối được gọi là chỉnh đối hay đối cân.   Ngày Tết thiếu câu đối Tết là chưa đủ Tết. Trong nhà dù tranh hoàng thế nào mà thiếu câu đối đỏ, Tết vẫn phảng phất thiếu một cái gì đó thiêng liêng. Câu đối xưa được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm bởi những người có học hành, chữ nghĩa giỏi mà dân gian gọi là Ông Đồ nhưng ngày nay thì câu đối tết còn được viết bằng chữ quốc ngữ với những nội dung phong phú và rất đẹp. Làm câu đối, thách họa đối, chơi câu đối,…vốm là hinh thức sinh hoạt độc đáo và tao nhã của người Việt Nam. Nó thể hiện trí thông minh sắc sảo, cách xử sự linh động và cao thượng, thế giới quan lành mạnh cũng như những mong ước tốt đẹp trong cuộc sống thường ngày.   Tết đến, câu đối lại càng khó có thể thiếu trong niềm vui đón chào năm mới của mỗi gia đình.    Ngày xưa, câu đối thường treo lên cột, khắc trên khung mái, hoặc viết lên cổng, cửa, tường nhà, đền miếu, đình chùa... Đặc biệt, hai hàng cột gỗ hai bên bàn thờ phải treo câu đối, còn phía trên bàn thờ là hoành phi, cuốn thư. Tất cả làm cho không gian thờ cúng trở nên cân bằng vuông vức như có khuôn phép, tạo cảm giác hài hòa, trang trọng và linh thiêng.   Câu đối được làm từ nhiều chất liệu: có loại sơn son thiếp vàng để dùng lâu dài, có loại làm bằng giấy bồi (gọi là liễn) hoặc cắt bằng giấy màu, viết bằng mực nho... để dễ thay đổi theo từng năm, từng mùa cho mới, cho hợp hoàn cảnh. Ngày thường, câu đối chỉ treo trên bàn thờ. Ngày tết thì treo ở nhiều nơi, thậm chí những người ham mê và muốn giữ tục lệ cũ còn chơi câu đối giấy, dán suốt từ ngoài cổng vào trong nhà! Câu đối có thể mua sẵn hoặc nhờ, thuê người viết, nhưng hay nhất vẫn là do tự chủ nhân làm ra.   Mỗi câu đối gồm hai vế có số chữ bằng nhau, ý nghĩa và luật bằng trắc đối chọi hoặc tương hợp nhau. Câu đối thể hiện những cảm nhận sâu sắc về thiên nhiên và cuộc sống trần thế, về năm mới và mùa xuân, đề cao đạo lý cùng những quan niệm đẹp, cầu mong mọi việc tốt lành... Mơ ước năm mới vui vẻ, hạnh phúc, làm ăn phát đạt và có nhiều bạn bè.   Dịp tết, thường phải có câu đối đỏ. Màu đỏ vốn được coi là màu rực rỡ nhất và theo quan niệm dân gian, là biểu tượng của sức sống mãnh liệt (máu, lửa). Nó vừa nổi trội vừa hài hòa với màu xanh của bánh chưng, màu vàng của hoa mai... làm tươi sáng thêm không khí tết, tạo cảm giác ấm áp trong mùa xuân mới.   Từ xa xưa, Tết Nguyên Đán đã trở thành một bộ phận hợp thành nét văn hóa đặc sắc của người dân Việt Nam. Nó là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Việt. Nó được thể hiện trên nhiều phương diện như: chúc tuổi, lì xì,….và đặc biệt qua phong tục dán câu đối Tết. Đó là nét văn hóa cần được duy trì và phát triển.

Nguồn: Lính Chì

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thuyết minh về phong tục cổ truyền ngày tết

Xem giờ sinh dự đoán tình cảm vợ chồng sau khi kết hôn

Kết hôn là "canh bạc" đối với người phụ nữ, họ luôn hy vọng được nhận hạnh phúc và tình yêu của người chồng trong hôn nhân. Theo tử vi, thông qua giờ sinh có thể phần nào dự đoán tình cảm vợ chồng sau khi kết hôn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Giờ Tý (23 giờ - 1 giờ sáng)

Gia thế của chồng mệnh chủ rất tốt, là người đàn ông có hiểu biết, độ lượng, quyết đoán. Nếu mệnh chủ là người "phụ nữ thép" hết mình trong sự nghiệp chính là sự kết hợp tuyệt vời với người bạn đời. Sau khi kết hôn, họ nên làm bạn nhiều hơn, cùng nhau "sát vai chiến đấu", điều này khiến vượng gia vận và sự nghiệp, đồng thời tình cảm càng mặn nồng.   Giờ Sửu (1 giờ - 3 giờ)

Sau khi kết hôn, mệnh chủ và chồng thường vì sự khác biệt trong tính cách mà phát sinh tranh chấp, xa cách lâu ngày. Bạn đời của họ là người đàn ông có lòng tự trọng, đối với tình cảm thì lúc nóng lúc lạnh, yêu cầu nhiều từ người vợ. Đối với người có giờ sinh này tốt nhất không nên lấy chồng sớm.

Giờ Dần (3 giờ - 5 giờ)

Bề ngoài, người chồng của mệnh chủ luôn nghe lời, chịu mọi sự sắp xếp của vợ, khiến nhiều người phải ngưỡng mộ. Tuy nhiên, trong thâm tâm họ luôn tồn tại sự bất mãn, chỉ có điều không nói ra vì "sức mạnh" của vợ, vậy nên họ luôn âm thầm làm những điều sai trái như có "người thứ ba". Lời khuyên cho người có giờ sinh Dần là nên ôn nhu và quan tâm chồng.   Giờ Mão (5 giờ -7 giờ)

Khi tài phú và địa vị của chồng bạn càng được nâng cao thì tình cảm của hai người sẽ còn bao nhiêu? Tuy nhiên "đàn ông lắm tiền sinh hư", họ sẽ có nhiều niềm vui mới bên ngoài còn mệnh chủ không thể rời bỏ những chuyện nhỏ nhặt tại nhà. 
Giờ Thìn (7 giờ - 9 giờ)

Chồng của người sinh vào giờ Thìn là người vừa an phận vừa có ý chí vươn lên, luôn chăm chỉ làm việc để xây dựng mái nhà như mong muốn. Mệnh chủ có phúc nhận được tình yêu từ chồng, song cần phải ghi nhớ cố gắng đảm đương trách nhiệm mẹ hiền vợ đảm.   Giờ Tỵ (9 giờ -11 giờ)

Chồng của mệnh chủ là người có năng lực cùng chút thủ đoạn, không cam tâm làm người bình thường trong xã hội. Sau khi kết hôn, họ đa phần chuyên tâm vào sự nghiệp và chuyện gia đình sẽ do mệnh chủ gánh vác, con cái sẽ là nhân tố quan trọng để gắn kết mối quan hệ vợ chồng.

Xem gio sinh du doan tinh cam vo chong sau khi ket hon hinh anh 2
 
Giờ Ngọ (11 giờ -13 giờ)

Dù đã kết hôn nhưng mệnh chủ luôn nhận được sự theo đuổi của người khác phái do đào hoa vận chủ rất tốt, tuy nhiên điều này khiến người chồng không an lòng. Vậy nên, mệnh chủ nên biểu lộ rõ thái độ bản thân, tích cực trò chuyện với chồng để tránh những hiểu lầm.
Giờ Mùi (13 giờ - 15 giờ)

Cá tính của vợ chồng đều rất cực đoan, như hai đầu của thỏi nam châm. Khi có tranh chấp, cả hai đều không dễ dàng lùi bước, điều này khiến tình cảm đi đến "bờ vực thẳm". Vậy nên, để cải thiện điều này, mệnh chủ nên kết hôn với người hơn mình ít nhất 5 tuổi để dung hòa.   Giờ Thân (15 giờ -17 giờ)

Hai vợ chồng như miếng ghép, chỉ cần ở bên nhau sẽ có kết quả viên mãn. Vợ chồng tâm đầu ý hợp, càng bên nhau lâu càng ăn ý, ân ái.
Xem gio sinh du doan tinh cam vo chong sau khi ket hon hinh anh 3
 
Giờ Dậu (17 giờ - 19 giờ)

Chồng của mệnh chủ không phải là tuýp người săn sóc phụ nữ, lại hay hấp tấp nên thường hay giữa vợ chồng thường có cuộc cãi vã nhỏ, tuy nhiên cũng không để vợ mình phải chịu thiếu thốn về tiền bạc và tình cảm. Vậy nên, mệnh chủ nên hãy bỏ qua chuyện nhỏ nhặt để hạnh phúc dài lâu
Giờ Tuất (19 giờ - 21 giờ)

Tình cảm của mệnh chủ hình thành trên cơ sở niềm say mê, hơn nữa tính cách của hai bên rất ăn ý, không thể rời bỏ lẫn nhau   Giờ Hợi (21 giờ - 23 giờ)

Tình cảm của hai vợ chồng luôn nồng nhiệt, không hối hận về sự lựa chọn của mình. Khi đã xác định tình cảm thì vợ chồng không thể thiếu lẫn nhau, điều này khiến nhiều người phải ngưỡng mộ và ghen tị.

Chi Nguyễn
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem giờ sinh dự đoán tình cảm vợ chồng sau khi kết hôn

Bảo bối thần tài nào sẽ “chiêu tài đón lộc” cho 12 con giáp?

Đối với mỗi con giáp theo ngũ hành sẽ có những vật mang lại may mắn, "đón tài rước lộc" cho chính con giáp đó.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cùng 12 con giáp điểm danh những vật phẩm phong thủy giúp cho mỗi con giáp không những tăng thêm may mắn trong công việc, cuộc sống mà còn tốt cho cả sức khỏe và tinh thần của các bạn nữa đấy. Mỗi con giáp tương ứng với một mệnh nhất định trong ngũ hành, theo đó, nếu biết sử dụng những bảo bối phong thủy sẽ giúp mang lại nhiều may mắn về tài chính. Đọc xong nhanh tay tậu ngay bạn nhé!

Tuổi Tí, Thìn Người tuổi Tí và tuổi Thìn nên sử dụng các đồ vật có liên quan đến nước (thủy) để làm vật may mắn cho mình. Nguồn nước sẽ mang lại cho bạn sự may mắn, thành công trong sự nghiệp và sớm có được một cuộc sống giàu có cho người tuổi Tí và tuổi Thìn. Dựa theo yếu tố này và các quan niệm về phong thủy, tuổi Tí nên đặt một bể cá vàng nhỏ hoặc một bình hoa thủy tinh trang trí trong phòng làm việc, như vậy vừa trang trí lại vừa mang lại cho bạn nhiều tài lộc hơn.

Bao boi than tai nao se “chieu tai don loc” cho 12 con giap?
Ảnh minh họa.

Còn với bạn tuổi Thìn, nên đặt chậu nước với các hòn non bộ hay trồng hoa sen, hoa súng nhỏ trong nhà nhé!

Tuổi Sửu, Hợi Để gọi tài lộc về, những người tuổi Sửu và tuổi Hợi nên đặt một vài đồ vật bằng gốm trong nhà. Gốm được nung trong lò lửa (hỏa) rất lâu, hứa hẹn sẽ mang đến cho bạn nhiều may mắn, tài lộc, đặc biệt phát tài trong tương lai gần.

Tuổi Dần, Mão, Thân Các yếu tố thuộc về đất sẽ đem lại vượng khí cho những người tuổi hổ, tuổi mèo và tuổi khỉ. Tuổi Dần và tuổi Thân nên đặt một chậu cây trong nhà, còn tuổi Mão nên mang theo mình một miếng ngọc (ngọc tức là Thổ). Tuổi Tuất cũng nên đặt một chậu cây trong nhà, nhưng bạn nên tránh những cây trồng dưới nước nhé. Các linh vật này sẽ mang lại cho bạn sự may mắn nhờ vào tinh hoa đến từ trời đất. Từ đó, bạn sẽ gặp được nhiều thuận lợi trong cuộc sống, khó khăn sẽ có người giúp đỡ, quý nhân phù trợ sớm đạt được nhiều thành công.

Tuổi Tỵ Hành Kim là yếu tố trợ lực cho con đường tài lộc của người tuổi Tỵ. Vì vậy, người tuổi này rất hợp đeo các loại trang sức bằng kim loại, đặc biệt là vàng và bạc. Chúng sẽ mang lại may mắn về tài chính cho người tuổi Tỵ.

Tuổi Ngọ Theo phong thủy, hướng Tây Bắc có thể giúp người tuổi Ngọ phát triển sự nghiệp và tài chính. Vì lí do này, nên đặt một con cóc bằng đồng ở phía Tây Bắc để hút nhiều may mắn và tài lộc dễ tụ lại.

Tuổi Mùi Các bạn tuổi Mùi cần chú ý tới hướng Bắc. Bạn nên đặt một vật bằng gỗ theo hướng này trong nhà. Một vật dụng bằng gỗ không chỉ tốt cho bạn theo phong thủy mà còn là vật trang trí, đồng thời giúp ích cho tuổi Mùi về phương diện sức khỏe. Nếu bạn làm công việc liên quan tới bếp núc thì hãy đặt một con dao hoặc cái nồi ở đầu bếp, nó sẽ mang đến thuận lợi cho bạn.

Tuổi Dậu Ngôi sao may mắn của người tuổi Dậu vô cùng thú vị. Bạn nên để vài hạt giống (ngũ cốc) vào một chiếc túi vải nhỏ và luôn mang theo bên mình. Nó tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở, sẽ mang đến cho người tuổi Dậu luồng tài khí dồi dào, bên cạnh đó còn giúp bạn tránh được tai ương, vượt qua mọi khó khăn và thử thách trong cuộc sống. Những vật phẩm kể trên rất tốt cho 12 con giáp theo phong thủy, chắc chắn các bạn sẽ đón nhận được nhiều may mắn và thuận lợi cho mình nếu làm theo đấy, hãy nhanh tay “tậu” ngay cho mình nhé.

Tuổi Tuất Với những người tuổi Tuất, nên tránh các yếu tố Thổ và Thủy trong cuộc sống. Người tuổi này có thể trang trí văn phòng bằng cành đào để tăng may mắn và thành công.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảo bối thần tài nào sẽ “chiêu tài đón lộc” cho 12 con giáp?

Tuổi Dậu thờ Phật nào?

Người tuổi Dậu năm 2017 phạm Thái Tuế, là năm có nhiều hung hiểm và tai ương. Tuổi Dậu thờ Phật nào phù hợp nhất, có thể mang tới bình yên và may mắn cho bản
Tuổi Dậu thờ Phật nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

mệnh?
Năm 2017 Đinh Dậu là năm bản mệnh của người tuổi Dậu, ngoài các biện pháp phong thủy chiêu tài hóa sát, giảm tai ương khác, kiến nghị bản mệnh nên thỉnh bản mệnh Phật về đeo. Bản mệnh Phật không những có thể hóa giải Thái Tuế mà còn hóa giải nhiều loại tai sát, dùng trong năm nay và nhiều năm kế tiếp đều tốt.
  Tuổi Dậu thờ Phật nào? Có những điểm gì cần chú ý khi người tuổi Dậu thỉnh bản mệnh Phật về đeo?  

1. Bản mệnh Phật của người tuổi Dậu


ban menh phat tuoi dau
 
Vị Phật độ mệnh cho người tuổi Dậu là Bất Động Minh Vương Bồ Tát.  Người tuổi này có năng lực lãnh đạo, sức hấp dẫn cá nhân mạnh mẽ, thường được trọng vọng trong tập thể. Ý nghĩ tốt cần có hành động thiết thực nếu không sẽ không thể cải thiện được tình hình.    Thủ hộ thần của người tuổi Dậu có hình tượng đặc trưng lý tính, đeo bên mình giúp phụ trợ, thúc đẩy năng lực hành động và tính quyết đoán, sớm hoàn thành đại nghiệp, khắc phục tính cách do dự, loại bỏ mọi chướng ngại vật trong cuộc sống.   Người tuổi Dậu sinh năm:1945, 1957, 1969, 1981, 1993, 2005 đều có thể đeo bản mệnh Phật Bất Động Minh Vương. Năm 2017 năm bản mệnh nếu đeo Phật bên người không chỉ giảm bớt lo lắng về Thái Tuế mà còn tạo được đột phá trong sự nghiệp.
Xem thêm bài viết Những lưu ý cần biết khi đeo bản mệnh Phật Bất Động Bồ Tát
 

2. Tác dụng của bản mệnh Phật trong năm 2017

  Vị Phật nào độ mệnh cho tuổi Dậu? Bất Động Minh Vương Bồ Tát che chở, phù hộ, gia trì cho con giáp này tai qua nạn khỏi, điển hình là trong năm 2017 nhiều điềm hung họa.   Năm nay sự nghiệp của tuổi Dậu do ảnh hưởng của Thái Tuế nên tính tình nôn nóng, tâm tình bất ổn thậm chí không muốn trao đổi giao tiếp nên dễ đắc tội với người khác, công việc bị ảnh hưởng không ít.   Vận trình tình cảm không khả quan, tuy rằng đào hoa vượng nhưng chung quy lại đều là công dã trang, có bắt đầu nhưng chẳng có kết quả đáng kể. Người đã kết hôn thì gia đình viên mãn, vợ chồng quan hệ hòa hợp, ổn định hơn so với những người độc thân.   Theo tử vi năm 2017 của tuổi Dậu, về phương diện sức khỏe do tự hình nên phải chú ý bảo dưỡng, ăn ít cay, ăn nhiều hoa quả, tập thói quen ăn những món thanh đạm, tốt cho thân thể.    Tài vận thường thường, giữa năm cũng có tiền tài tuy không giàu to nhưng cơ bản đủ làm thỏa mãn nguyện vọng của người tuổi Dậu.  

3. Những lưu ý khi đeo bản mệnh Phật


ban menh phat tuoi dau 2
 
Người tuổi Dậu đeo bản mệnh Phật Bất Động Minh Vương sẽ giúp điều hòa tinh thần, trải qua năm bản mệnh một cách thoải mái, êm đẹp hơn. Khi thỉnh bản mệnh Phật cần thành tâm, không nhất thiết phải tính toán quá nhiều. Nếu cho rằng đeo bản mệnh Phật không thể đeo thâm các đồ vật phong thủy khác là sai lầm, không hề có kiêng kị gì cả.   Khi thỉnh bản mệnh Phật về nên khai quang để phát huy linh lực trừ tà tiêu tai. Đây là linh vật, không thể đeo tùy tiện, kì thực đây cũng là một phương pháp tu hành nên hãy đeo chu đáo, thận trọng và nhất tâm hướng Phật. Quan trọng nhất là chăm chỉ làm việc thiện, không có ý niệm xấu xa, người đeo Phật mà tâm không đoan chính thì không có tác dụng gì cả.   Không nên để người khác chạm vào bản mệnh Phật. Trong quá trình sử dụng cần giữ gìn sạch sẽ, lau chùi bằng nước sạch, bảo vệ để không bị nứt vỡ hay tổn thương. Bản mệnh Phật càng sử dụng lâu càng ứng nghiệm, không phải đồ càng mới càng tốt, không quan trọng là càng to càng quý.    Bản mệnh Phật nên chọn loại thiết kế tinh xảo, làm bằng các loại đá phong thủy như ngọc, hắc diệu thạch, thủy tinh, mã não,…. để tăng thêm cát tường vượng vận. Xem thêm bài viết Đeo ngọc phong thủy không chỉ để ngắm mà còn chiêu nạp phúc khí   Mỗi người sinh ra đều có một vị Phật độ mệnh, biết được tuổi Dậu thờ Phật nào thì có thể tên tâm thỉnh bản mệnh Phật về để đeo, che chở cho mình tai qua nạn khỏi, không lo sợ Thái Tuế, không ngại ngần hung hiểm.
Vị Phật độ mệnh cho người tuổi Tuất Vị Phật độ mệnh cho người tuổi Tý Thỉnh bản mệnh Phật, đeo phúc bên người
Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Dậu thờ Phật nào?

Xem tướng lằn chân

Dưới chân mềm nhuyển, tế nhị mà nhiều lằn là tướng quí, thô tục. Cứng queo mà không lằn là tướng hèndưới chân có lằn rùa là tướng ăn lộc hai ngàn hộc
Xem tướng lằn chân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

·         Cứng queo mà không lằn là tướng hèn

·         dưới chân có lằn rùa là tướng ăn lộc hai ngàn hộc

·         Dưới chân có lằn chim là tướng quan văn

·         Dưới chân có lằn sách suốt lên là tướng lục bộ Thị lang

·         Dưới chân có ba lằn như văn gấm là tướng ăn lộc muôn chung

·         Dưới chân có lằn như cây hoa là tướng chứa của vào số

·         Dưới chân có lằn như Mũi kéo là tướng chứa vàng cự vạn

·         Dưới chân có lằn như hình người là tướng quan cao cực phẩm

·         Có lằn như ba cây thước là tướng phúc lộc

·         Có lằn như tám trôn ốc là tướng giàu sang.

·         Hai ngón nhỏ không lằn thì phải, hai ngón nhỏ đều có, gọi là lằn mười ốc, là tướng người tính thô bỉ

·         Duy mười ngón đều không lằn, phần nhiều là tướng phá bại.

·         Dưới chân có lằn, đại lợi con cháu

·         Dưới chân có lằn rùa là tướng có tiếng thanh một đời

          Dưới chân có Nốt ruồi đen là tướng hiền sĩ phú quí.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng lằn chân

Đặt tên ở nhà cho bé hay, ý nghĩa 2018 –

Đặt tên ở nhà cho bé hay ý nghĩa 2018 giúp bạn tìm được một cái tên phù hợp nhất cho con yêu của mình. Hiện nay ngoài tên trên giấy khai sinh thì các ông bố, bà mẹ thường đặt cho con một nickname độc đáo để gọi ở nhà với ý nghĩa gần gũi, yêu thương h

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặt tên ở nhà cho bé hay ý nghĩa 2018 giúp bạn tìm được một cái tên phù hợp nhất cho con yêu của mình. Hiện nay ngoài tên trên giấy khai sinh thì các ông bố, bà mẹ thường đặt cho con một nickname độc đáo để gọi ở nhà với ý nghĩa gần gũi, yêu thương hoặc theo quan niệm của người xưa là tên xấu để dễ nuôi, không khóc quấy. Những cái tên ở nhà cho bé thường liên quan đến các con vật, đồ ăn, nhân vật hoạt hình,…mà bố mẹ cảm thấy dễ thương. Việc chọn đặt tên cho con gái hay đặt tên cho con trai tại nhà cũng được lựa chọn kỹ, có thể nó gắn liền với kỉ niệm nào đó của bố mẹ, hay mong muốn dành cho con sau này. Dù là nguyên nhân gì thì những cái tên đó vẫn luôn thật dễ thương và đáng yêu.

Nếu bạn đang muốn tìm cho con mình một cái tên ở nhà hay độc đáo thì có thể tham khảo những gợi ý đặt tên ở nhà cho con dưới đây sẽ phần nào giúp bạn tìm được cái tên thích hợp cho con yêu của mình.

Nội dung

  • 1 Đặt tên ở nhà cho con Trai
  • 2 Đặt tên ở nhà cho con gái
  • 3 Ngoài ra có những tên ở nhà hay và ý nghĩa cho bé trai và bé gái
    • 3.1 Em bé thông minh, năng động, nhanh nhẹn
    • 3.2 Em bé xinh xắn, dễ thương
    • 3.3 Em bé cá tính mạnh mẽ
    • 3.4 Em bé nhỏ nhắn, đáng yêu
    • 3.5 Em bé vui vẻ, hay cười, hay nói:
    • 3.6 Em bé mũm mĩm
    • 3.7 Em bé trắng trẻo
    • 3.8 Em bé có làn da ngăm “bánh mật”

Đặt tên ở nhà cho con Trai

Dù là tên ở nhà song nó phản ánh niềm vui, sự hãnh diện của cha mẹ gửi gắm vào con mình. Tuy nhiên, có khá nhiều phụ huynh lại quá coi trọng vấn đề đặt tên ở nhà cho con, trả lời về vấn đề này, có một số chuyên gia tâm lý cho rằng: Tâm lý chung của bậc phụ huynh đó là thông qua cái tên, họ mong muốn con họ gặp được nhiều điều may mắn, mang ý nghĩa tốt đẹp, phản ánh nguyện vọng của mình về con.

Một số chuyên gia cho rằng, cha mẹ cũng không nên quá coi trọng chuyện đặt tên cho con bởi tên gọi không thể quyết định được vận mệnh tương lai hay giúp con trẻ ăn ngoan ngủ kỹ như nhiều chị em chia sẻ.Cùng tham khảo những cái tên ở nhà thật dễ thương cho bé trai nhà mình mẹ nhé:

Tên theo trái cây, củ quả: Cà-ri, Cà-rốt, Bom, Khoai, Khoai Tây, Sắn, Dưa, Đậu, Đen, Mướp, Su Hào, Bầu, Bí, Bắp, Ngô, Tiêu, Bơ, Chuối, Bí Đỏ, Bí Ngô,…

Tên ở nhà theo động vật dễ thương hay năm sinh của bé: Tị, Thìn, Tí, Sửu, Heo, Nhím, Beo, Gấu, Tôm, Tép, Ỉn, Ủn, Cún, Cọp, Sóc, Nghé, Cua, Cò,…

Tên ở nhà theo nhân vật hoạt hình hoặc truyện tranh: Doremon, Nobita, Đê-khi, Chaien, Misa, Superman, Iron Man, Batman, Nemo, Songoku (Goku), Tin Tin, Tom, Jerry,..

Tên theo các loại món ăn, thức uống: Kẹo, Cà Phê, Ken, Tiger, Bột, Mì, Dừa, Bún, Bánh mì, Bơ, Coca,…

Tên theo người nổi tiếng hoặc nhân vật trong phim: Messi, Beckham, Ronaldo, Roberto, Madona, Pele, Tom, Bill, Brad Pitt, Nick, Justin, John, Adam Levin, Edward,…

Tên theo hình dáng, đặc điểm của bé: Híp, Tròn, Mũm Mĩm, Đen, Ròm, Mập, Phệ, Bư, Bi, Tẹt, Sumo, Sún,…

Đặt tên ở nhà cho con gái

Khi muốn chọn tên hay để đặt ở nhà cho con gái rượu đó là nên chọn những cái tên ngắn gọn, 2 vần, dễ nghe, thân mật và gần gũi.

Dưới đây là những gợi ý tên ở nhà đang được nhiều người lựa chọn để đặt tên cho con gái, cha mẹ có thể tham khảo:

Tên hay ở nhà theo hoa quả: Mít, Ổi, Sơ ri, đào, Nhãn, Mận, Bí, Su hào, Khoai, Na, Bắp cải, Cà chua, Hồng

Tên hay ở nhà theo động vật dễ thương: Thỏ, Nhím, Sóc, Vẹt

Tên hay ở nhà theo tiếng Anh: Bin, Bo, Bond, Tom, Sue, Bee, Shin, Bim, Bon, Ken, Bi, Cindy

Tên hay ở nhà các ông bà xưa thường đặt để dễ nuôi: Mén, Tí, Ty, Bông, Tít, Tót, Cún, Bống, Tủn,

Tên hay ở nhà theo nhân vật truyện tranh: Xuka, Doremon, nobita, tép pi

Tên hay ở nhà theo nhân vật trong phim hoạt hình: Dumbo trong phim Chú voi biết bay “Dumbo”; Doug (chú chó trong phim “Up”); Gấu Pooh; Tod và Copper trong bộ phim “Con cáo và chó săn”; Simba trong phim “Vua sư tử”; Timon và Pumbaa trong phim “Vua sư tử”; Nhóc Maruko trong loạt phim hoạt hình Maruko Chan; Tom và Jerry; Nemo trong phim hoạt hình “Giải cứu Nemo”.

Tên hay ở nhà theo nốt nhạc: Đô, Rê, Mi , Fa, Sol, La, Si

Tên hay ở nhà theo tên con sao Việt: Dollar, Bella, Luna, Anna, Misa, Misu, Cherry, Devon, Suli, Suti, Panda, Cadie Mộc Trà.

Tên hay ở nhà theo nhân vật nổi tiếng: Ben, Brad hoặc Pitt, Jun, Jin, Kun, King, Nick, Victoria, Queen

Tên hay ở nhà theo ngoại hình: Xoăn, Nhí, Chanh, Bự

Ngoài ra có rất nhiều cái tên cho bé ở nhà rất hay và ý nghĩa, đặt được cho cả trai và bé gái mà vẫn thể hiện được sự thông minh xinh xắn, đáng yêu của trẻ.

Ngoài ra có những tên ở nhà hay và ý nghĩa cho bé trai và bé gái

Em bé thông minh, năng động, nhanh nhẹn

Cá Heo, Khỉ, Chuột, Sóc (những loài động vật thông minh, nhanh nhẹn)
Chớp (nhanh như chớp)
Chuồn Chuồn (loài côn trùng bay nhanh nhất)
Jerry (chú chuột nhanh nhẹn, thông minh luôn chiến thắng mèo Tom trong bộ phim hoạt hình Tom & Jerrry)
Tintin (chàng thám tử thông minh, hiểu biết sâu rộng, đam mê khám phá trong bộ truyện “Những cuộc phiêu lưu của Tintin”)
Kid (kẻ bí ẩn với tài năng ảo thuật, thoát ẩn thoắt hiện, nhiều khi phải khiến thám tử lừng danh Conan bó tay)
Đêkhi: nhân vật đẹp trai, học giỏi, được nhiều người yêu mến trong truyện Đô-rê-mon

Em bé xinh xắn, dễ thương

Tấm (truyện cổ tích VN Tấm-Cám).
Xuka (cô bạn xinh xắn, học giỏi, hòa đồng trong truyện Đô-rê-mon)
Dâu Tây, Cherry (những loại quả ngọt ngào, dễ thương)
Kitty (cô mèo Hello Kitty đáng yêu)
Moon, Luna (trong tiếng anh có nghĩa là “mặt trăng” dịu dàng, tỏa sáng)

Em bé cá tính mạnh mẽ

Ớt
Nhót
Chanh
Quậy
Hạt Tiêu

Em bé nhỏ nhắn, đáng yêu

Ốc Tiêu
Hạt Tiêu
Tí Teo
Tí Ti
Bé Xíu

Em bé vui vẻ, hay cười, hay nói:

Híp
Tít
Hớn
Tếu
Bờm
Vẹt
Sáo
Khướu (Khiếu)

Em bé mũm mĩm

Phính
Múp
Mập
Tròn
Béo
Heo
Ỉn
Bông
Bé Bự
Khoai Tây
Bé Ú
Mèo Ú
Đô – rê – mon (hoặc gọi tắt là Mon): Chú mèo máy béo tròn, tốt bụng có chiếc túi thần kì trong truyện tranh Nhật Bản
Po: Chú gấu trúc béo tròn, đáng yêu trong bộ phim Kungfu Panda
Bánh Ú, Bánh Bao, Bánh Rán, Bánh Đúc

Em bé trắng trẻo

Giò
Sữa
Bột
Bông
Mía

Em bé có làn da ngăm “bánh mật”

Sô cô la
Bánh Mật
Mật Ong
Kẹo Kéo
Caramen
Cà Phê
Ca Cao
Bánh Quy
Ô liu (Olive)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên ở nhà cho bé hay, ý nghĩa 2018 –

Mơ thấy đóng đinh: Có thành tích bất ngờ từ nỗ lực bản thân –

Cảnh đóng đinh xuất hiện trong mơ dự báo với sự cố gắng hết mình của bản thân, bạn sẽ có được thành tích bất ngờ. Mơ thấy đinh sáng bóng hay còn mới, dự báo tin tốt lành bất ngờ; đinh cong, vẹo hay bị gỉ sét, tượng trưng những sai lầm nhỏ nhặt, hoặc
Mơ thấy đóng đinh: Có thành tích bất ngờ từ nỗ lực bản thân –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy đóng đinh: Có thành tích bất ngờ từ nỗ lực bản thân –

Thời gian càng dài, lòng người càng nhạt

Vô cầu tức là không ham muốn, nếu con người mà có thể không ham muốn, nhân phẩm tự nhiên sẽ cao thượng, mà khổ não cũng sẽ tự tiêu tan
Thời gian càng dài, lòng người càng nhạt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không biết năm nào tháng nào, ở trong vùng trời mênh mông sinh ra đời một sinh mệnh, gọi tên là “Người”, lúc vừa đáp trên mặt đất thì Người không mảnh vải che thân, không mang theo vật gì…

Một làn gió mát thổi tới, Người cảm thấy lạnh, vì vậy trên không trung rơi xuống một bộ quần áo mặc vào cho Người.

Người cảm động nói: “Ai vậy? Cảm ơn nha!”.

Lúc này, trên không trung có một âm thanh đáp lại: “Ta là Thần, nay Ta ban cho ngươi quần áo, Ta còn muốn ban cho ngươi một ít hạt giống, một cái cày, ngươi cần phải đi giúp những người giống như ngươi ở phương xa, giúp họ gieo trồng hạt giống này, giúp họ cày cấy, khi đến mùa thu thì cùng họ thu hoạch hoa quả, ngươi phải nhớ kỹ đó, đây hết thảy đều là Ta ban cho ngươi, ngươi cũng phải giống Ta, dùng tất cả để giúp đỡ người khác. Nhớ chưa?”

Người vô cùng cảm kích nói: “Nhớ kỹ rồi!”

Từ đó, Người làm theo lời Thần chỉ dẫn đã tìm được đám người kia, giúp họ cày cấy, giúp họ gieo trồng hạt giống. Thần thấy Người làm theo lời mình mà giúp đỡ người khác, rất vui mừng, thấy người cày cấy mà đầu thấm đẫm mồ hôi, sinh lòng thương xót, vì vậy lại ban cho Người một con ngựa.

Người dùng ngựa để cày đã tiết kiệm được nhiều sức lực, Người tràn đầy cảm kích đối với Thần, không dám chút sơ suất, tận tình hết khả năng đi giúp đỡ người khác. Mùa thu đến, Người đem hoa quả thu hoạch được chia sẻ với mọi người, mọi người vô cùng cảm kích, đều cùng ca hát khen ngợi công lao của Người.

Người vô cùng hổ thẹn nói: “Không nên như vậy, đây đều là Thần ban tặng! Tôi vỗn dĩ hai bàn tay trắng, tôi có thể làm gì chứ!”

Lại một mùa thu nữa đến, hoa quả thu hoạch nhiều mà khó mang đi, vì vậy Người hỏi Thần: “Thần ơi! Ngài có thể nghĩ cách giúp tôi không?”

Thần vì vậy lại ban cho Người một chiếc xe ngựa, như vậy có thể chở được rất nhiều đồ, mọi người lại cùng ca hát khen ngợi tán tụng công đức của Người.

Người khiêm tốn đáp: “Đây đều là Thần ban ân, Thần đã ban cho tôi những thứ này là để tôi có thể giúp đỡ mọi người, tôi chỉ là đưa ân huệ của Thần đến cho mọi người, tôi có làm gì đâu chứ!

Không biết qua bao nhiêu năm, Người trải qua thời gian nhận khen ngợi của người khác đã bắt đầu tự mãn, cảm giác bản thân công cao cái thế, giúp người khác được nhiều như vậy, không phải đều là công lao của mình sao?

Người cũng mệt mỏi vì đi đường, liền lấy xe ngựa chở đồ cho mình ngồi, thấy Trương Tam khen mình nhiều, liền giúp Trương Tam thêm một ít, thấy Lý Tứ không vừa mắt, liền dứt khoát không để ý tới hắn nữa, mặc kệ hắn đau khổ cầu xin. Người lại ở trước mọi người bắt đầu khoe khoang bản lĩnh của mình để thêm nhiều người ca ngợi, cảm kích công đức của mình, cũng bắt đầu cùng mọi người cò kè mặc cả khiến mọi người dựng cho mình một toà trang viên mỹ lệ.

Hết thảy chuyện đó Thần đều thấy, trong tâm lo lắng, khuyên nhủ hắn, nhưng Người đối với Thần lại không còn tôn kính như trước, nói: “Chỉ có tôi mới có thể vì mọi người làm nhiều chuyện như vậy. Ông chỉ là cho tôi công cụ mà thôi, không có tôi Ông có thể làm gì?”

Bởi vì sự ích kỷ của Người, con ngựa kia bắt đầu không muốn phục vụ nữa, làm việc ngày càng chậm. Cái cày cũng bắt đầu bị gỉ. Người thấy ngựa không muốn làm việc, liền lạm dụng trí huệ Thần ban cho để tạo một cây roi, quất mạnh vào ngựa. Không lâu sau đó ngựa vì bị hành hạ mà chết, cái cày cũng bị va phải đá mà gãy.

Người bắt đầu oán trách Thần, vì sao ban cho mình một con ngựa không nghe lời, một cái cày khó sử dụng. Thần nghe xong, liền vô cùng thương tiếc và đau buồn. Vì vậy, trong một đêm bão tố, một tia chớp khiến trang viên của Người bốc cháy, Người lo chạy trốn mà không kịp mang theo vật gì, trang viên cũng thành tro tàn trong đám lửa.

Người trần truồng đứng trên một cánh đồng bát ngát, trong gió rét giá lạnh, lúc này hắn mới nhận ra mình đã trắng tay rồi, hắn cực kỳ bi thương, oán trách ông Trời vì sao đối với mình không công bằng như vậy.

hoa sen
Thần cũng không xuất hiện, chỉ có gió lạnh từng hồi, Người vô cùng bi thương, hối hận lỗi lầm không thể tha thứ của mình.

Một làn gió mát làm tỉnh lại trí nhớ đã bị bụi trần phong kín trong Người, Người bắt đầu nhớ lại hoàn cảnh lúc bản thân vừa đến trên đời, nhớ tới lời Thần nhắc nhở và những đồ vật Thần đã ban cho.

Người rốt cuộc tỉnh ngộ, xấu hổ không thôi, trong nội tâm tràn ngập hối hận, khóc không thành tiếng hướng lên trời nói:

“Thần ơi! Tôi thật không còn mặt mũi nào cầu Ngài tha thứ, mọi điều của tôi đều được Ngài ban cho, vì để tôi giống Ngài mà giúp đỡ chúng sinh, Ngài ban cho tôi thêm nhiều thứ như vậy là để tôi có thể phục vụ cho mọi người thêm nhiều, mà tôi lại làm trái ý muốn của Ngài, tôi xem năng lực Ngài ban là khả năng của mình, cho mình tài trí hơn người, giúp mình mưu cầu tư lợi.

Tôi vốn hai bàn tay trắng, là Ngài ban cho tôi hết thảy, vì để làm lợi cho chúng sinh, tôi mới có hết thảy mọi điều tốt. Nhưng nay tôi đã làm trái lời Ngài dạy bảo, rời bỏ mục đích thật sự là làm lợi cho chúng sinh, giờ tôi đã thành hai bàn tay trắng. Tôi thật sự hối hận vô cùng, cầu xin Thần từ bi, ban cho tôi một cơ hội nữa, tôi sẽ làm hết khả năng của mình để tạo phúc cho mọi người, thực hiện ý muốn của Ngài, giống như Ngài mà từ bi với mọi người”.

Nói xong quỳ xuống không dậy, rồi ngất đi. Thần cũng không xuất hiện, chỉ có gió lạnh từng hồi, Người vô cùng bi thương, hối hận lỗi lầm không thể tha thứ của mình.

Không biết qua thời gian bao lâu, Người tỉnh lại, hai mắt toả sáng, thấy dê bò khắp núi, hoa mầu khắp nơi, ngựa chạy thành đàn, vạn hoa khoe đẹp, trăm chim ngân hót, nắng ấm trời trong, mây trời bay múa, chúng sinh hoan hô ca xướng, ngợi khen Thần vĩ đại, Thần từ bi.

Người nhận ra mình cùng chúng sinh có được những điều tốt đẹp hơn trước, không khỏi vô cùng cảm kích, mừng rỡ, lệ tuôn đầy mặt…

Cổ nhân nói: “Nhân đáo vô cầu phẩm tự cao”. Vô cầu tức là không ham muốn, nếu con người mà có thể không ham muốn, nhân phẩm tự nhiên sẽ cao thượng, mà khổ não cũng sẽ tự tiêu tan…

“Sống không mang đến, chết không mang đi
Ra đời hai tay trắng. Lìa đời trắng hai tay
Sao mãi nhặt cho đầy. Túi đời như mây bay”


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thời gian càng dài, lòng người càng nhạt

Sửa lỗi vị trí nhà vệ sinh, đón xuân bình an

Theo phong thủy, nhà vệ sinh có vai trò quan trọng. Sau đây là một số lỗi sai vị trí nhà vệ sinh thường thấy trong căn nhà Việt.
Sửa lỗi vị trí nhà vệ sinh, đón xuân bình an

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong thủy, nhà vệ sinh có vai trò quan trọng, đòi hỏi sự chú ý của gia chủ. Chỉ cần phạm lỗi phong thủy nhà vệ sinh sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, sự nghiệp. Sau đây là một số lỗi sai vị trí nhà vệ sinh thường thấy trong căn nhà Việt.


Sua loi vi tri nha ve sinh, don xuan binh an hinh anh
 
1. Phòng vệ sinh nằm giữa nhà

Trung tâm của ngôi nhà cũng giống như trái tim của con người, rất quan trọng. Dương trạch kỵ nhất là phòng vệ sinh nằm giữa nhà vì khí ô uế có thể lan tỏa tứ phương. Người sống tại căn nhà này liên tục mắc bệnh, đặc biệt là cao huyết áo, bệnh tim và đường tiêu hóa.    Khi phạm lỗi phong thủy nhà vệ sinh này, gia chủ nên treo rèm trước cửa nhà vệ sinh cùng xâu Ngũ Đế, Lục Đế, Thập đế. Ngoài ra, trong nhà vệ sinh nên đặt lọ muối tinh, không cần đậy nắp và giữ gìn vệ sinh thật tốt.
 
Phụ nữ đến kỳ kinh nguyệt có được đi chùa lễ Phật?
Về tâm linh, nhiều người cho rằng khi đến ngày kinh nguyệt không được đi chùa lễ Phật. Những làm thế nào nếu muốn lễ chùa đầu xuân mà lại

2. Phòng vệ sinh nằm tại vị trí Văn Xương hoặc Tài vị
  Nếu phòng vệ sinh nằm tại vị trí Văn Xương hay Tài vị, sẽ làm ô uế Văn Xương, gây bất lợi cho tài vận. Điều này khiến cho thành tích học tập của trẻ nhỏ giảm sút, sự nghiệp của gia chủ trắc trở thăng trầm.   Để cải thiện lỗi phong thủy này, trước cửa phòng vệ sinh nên treo rèm và xâu Ngũ Đế, Lục Đế, Thập Đế để hóa giải. Bên cạnh đó, nên bố trí vị trí Văn Xương (Văn Xương bản mệnh và Văn Xương lưu niên) và Tài vị khác.
 
Sua loi vi tri nha ve sinh, don xuan binh an hinh anh 2
 
3. Phòng vệ sinh đặt cạnh phòng thờ   Khu vực thờ cúng là nơi trang nghiêm, thanh tịnh, là nơi tưởng nhớ đến ông bà tổ tiên. Vì thế, khi đặt nhà vệ sinh theo phong thủy, gia chủ cần phải tránh khu vực này bởi nhà vệ sinh là nơi có âm khí và xú khí nặng, dễ khiến "chư thần thoái vị", gia chủ dễ trúng gió, đau lưng, gặp ác mộng.   Cách giải quyết tốt nhất khi gặp trường hợp này là thay đổi vị trí nhà vệ sinh hoặc phòng thờ, đồng thời treo xâu Ngũ Đế, Lục Đế, Thập Đế.
Chi Nguyễn


Xem Clip nhận biết Ý nghĩa thờ cúng tổ tiên


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sửa lỗi vị trí nhà vệ sinh, đón xuân bình an

Trước sau Tết Đoan Ngọ, con giáp này niềm vui tới tấp

Bạn có biết trước và sau Tết Đoan Ngọ, trong 12 con giáp, ai là người được Thần May mắn ghé thăm, gặp nhiều chuyện mừng vui bất ngờ hay không?
Trước sau Tết Đoan Ngọ, con giáp này niềm vui tới tấp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn có biết trước và sau Tết Đoan Ngọ, trong 12 con giáp, ai là người được Thần May mắn mỉm cười, gặp nhiều chuyện mừng vui bất ngờ hay không? Cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu xem con giáp nào là người nằm trong danh sách này nhé.   Tết Đoan Ngọ 2017 rơi vào cuối tháng 5 dương lịch, tiết trời nắng nóng oi bức, rất có hại cho sức khỏe. Chẳng thế mà người Việt Nam có tục “giết sâu bọ” vào ngày này để trừ độc đuổi tà, giữ cho tinh thần sảng khoái, sức khỏe dồi dào, vận may kéo tới.   Vậy vào dịp này, trước và sau Tết Đoan Ngọ, những con giáp nào may mắn gặp nhiều chuyện vui mừng, sự nghiệp thăng tiến, lộc lá đầy nhà. Cùng xem bói tử vi để biết được bí mật này nhé.

Truoc sau Tet Doan Ngo, con giap nay niem vui toi tap hinh anh
 

Tuổi Dậu

  Người sinh năm Dậu tư chất hơn người, vừa phóng khoáng lại phú quý cao sang. Họ hiếm khi so đo với người, luôn giữ cho mình mối quan hệ hữu hảo với những người xung quanh. Tính tình thoải mái nên họ sống rất được lòng người, đi đâu cũng được quý mến và giúp đỡ rất nhiều. Đó là điểm mạnh và cũng là điều khiến bạn may mắn hơn rất nhiều người.   Hoạt ngôn, người tuổi Dậu dễ dàng khuấy động không khí, khiến người khác cảm thấy vui vẻ khi nói chuyện với mình. Bạn là người khá biết cách kết nối, tạo cho mình nhiều mối quan hệ xã giao tốt cho cuộc sống và công việc, hãy chân thành đối đãi với mọi người, đừng chỉ vì lợi ích mà ép mình cười nói.
Bạn đã biết cách Cúng Tết Đoan Ngọ thế nào để sự nghiệp, công danh, tình duyên vượng phát hay chưa?
 
Trước và sau Tết Đoan Ngọ, người tuổi Dậu được Tài Tinh chiếu mệnh, tài vận vượng phát, tiền bạc ùn ùn kéo tới. Cơ hội kiếm tiền trong tầm tay, chỉ cần bản mệnh để tâm chú ý và nhanh nhẹn nắm bắt thời cơ thì không lo chuyện cơm ăn áo mặc, cuộc sống cũng an ổn, sung túc hơn gấp nhiều lần. Cơ hội hiếm có chỉ tới một lần, đừng bỏ lỡ kẻo hối hận muộn màng nhé.
 

Truoc sau Tet Doan Ngo, con giap nay niem vui toi tap hinh anh 2
 

Tuổi Dần

  Những chú Hổ dũng mãnh thường khiến người khác hơi e ngại vì dáng vẻ oai hùng lẫm liệt của mình. Bạn có thể nhìn bề ngoài và nghĩ rằng họ là người khá nghiêm túc và ghê gớm, nhưng trên thực tế thì con giáp này là người có nhân duyên rất tốt. Họ biết cách nắm bắt suy nghĩ của người đối diện và xoay chuyển chủ đề cuộc nói chuyện theo hướng có lợi nhất cho mình.    Người tuổi Dần làm điều đó rất khéo léo và tinh tế, bạn sẽ chỉ thấy rằng họ là người hoạt ngôn và tinh tế trong cách nói chuyện, chứ không hề nhận ra mình đang bị dẫn dắt theo suy nghĩ của họ. Chẳng thế mà người ta luôn nói con giáp này là người rất giỏi trong chuyện thuyết phục người khác, khiến người đó đồng ý và làm theo ý của mình mà không rơi một giọt mồ hôi.

Chú ý dành riêng cho 12 con giáp trước Tết Đoan Ngọ, đừng quên nhé.
  Trước và sau Tết Đoan Ngọ, người tuổi Dần có quý nhân tương trợ, dù là trong công việc hay bước đường sự nghiệp thì cũng đều được nâng đỡ, gặp chuyện không lành cũng may mắn thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc. Hoạn lộ thênh thang, tài lộc dồi dào, vạn sự như ý, thuận buồm xuôi gió. 
 

Truoc sau Tet Doan Ngo, con giap nay niem vui toi tap hinh anh 3
 

Tuổi Ngọ

  Năm nay vận thế của người tuổi Ngọ không tồi, tiền đầy túi mà tình thì đầy tim. Tình cảm lứa đôi thắm thiết, vững bền theo năm tháng khiến con giáp này có niềm tin vững chắc nơi hậu phương, sẵn sàng xông pha nơi tiền phương, phấn đấu hết mình trong công việc vì tương lai tươi sáng của hai người.   Trước và sau Tết Đoan Ngọ, người tuổi Ngọ có thể nhân cơ hội này để thể hiện năng lực của mình nhiều hơn. Bạn vốn dĩ đã làm khá tốt và được cấp trên để mắt tới vì khả năng làm việc xuất sắc của mình. Hãy cố gắng phát huy bản thân nhiều hơn nữa, giữ phong độ ổn định chứ không bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố xung quanh.   Trong quan hệ với đồng nghiệp, “dĩ hòa vi quý” là điều nên ghi nhớ. Thẳng thắn không phải lúc nào cũng tốt, nhất là khi lời nói thẳng nói thật của bạn có thể làm tổn thương người khác, chi phối cảm xúc của họ. Mạnh mẽ là điều không phải ai cũng làm được, bạn có được điều đó là nhờ ý chí, hãy truyền cảm hứng cho những người xung quanh để cuộc sống nơi công sở không còn căng thẳng và bí bách vì cạnh tranh không lành mạnh nữa nhé.   An An    Ăn gì ngày giết sâu bọ trong ngày Tết Đoan Ngọ Phương pháp phong thủy khai vận, tăng may trong tiết Đoan Ngọ
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trước sau Tết Đoan Ngọ, con giáp này niềm vui tới tấp

Hóa giải hướng giường ngủ xấu –

Giấc ngủ có ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ của con người, chính vì vậy phong thuỷ của giường ngủ cũng rất được quan tâm. Khi đặt giường ngủ có rất nhiều điều kiêng kỵ cần phải né tránh. Đầu giường không nên để xà ngang ép đỉnh. Đầu giường có xà ngang

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Giấc ngủ có ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ của con người, chính vì vậy phong thuỷ của giường ngủ cũng rất được quan tâm. Khi đặt giường ngủ có rất nhiều điều kiêng kỵ cần phải né tránh.

534

Đầu giường không nên để xà ngang ép đỉnh.

Đầu giường có xà ngang ép đỉnh gọi là “huyền trâm sát” sẽ không có lợi cho sức khoẻ của gia chủ. Có ba biện pháp hoá giải như sau:

Tránh: Đây là biện pháp tốt nhất bằng cách xê dịch đầu giường để tránh xà ngang, làm như vậy đã hóa giải được vị trí không gian ở đầu giường. Ngoài ra, ở đầu giường có thể đặt tủ, giá sách hay giá để dụng cụ để lấp vào, như vậy tránh cho đầu giường không trống trải hơn nữa có thể tiết kiệm được không gian.

Che: Nếu diện tích căn phòng nhỏ hẹp hoặc vì nguyên nhân nào khác mà không “tránh” được thì có thể dùng phương pháp che bằng cách dùng tấm trần giả để che xà ngang. Làm như vậy sẽ bớt được áp lực về tâm lý.

Ngăn: Nếu sử dụng biện pháp che mà gia chủ vẫn không an tâm thì có thể đổi giường thành giường hai tầng, tầng trên để chăn đệm còn tầng dưới để ngủ. Làm như vậy, chăn đệm ở tầng trên sẽ thay thế cho người chịu đựng những thiệt hại do xà ngang ép xuống.

Đầu giường không nên để đối diện với cửa phòng:

Xét về Phong thuỷ học, đầu giường đối diện với cửa phòng là không tốt lành, bởi vì hiện tượng này sẽ dẫn tới sự suy sụp về sức khỏe và công danh của gia chủ.

Trong trường này gia chủ nên xê dịch giường ngủ, không để giường ngủ và cửa phòng thành một đường thẳng. Nếu giường ngủ không thể xê dịch được thì hãy xoay lại để ngủ cũng là một cách hóa giải.

Đầu giường không nên kê quá sát vào cửa sổ.

Nếu đầu giường kê quá sát vào cửa sổ thì sẽ không tốt. Không xét về Phong thủy học chỉ nói về môi trường sống, đầu giường kê sát vào cửa sổ khi nắng ánh mặt trời chiếu thẳng vào đầu giường, khi mưa nước mưa thẩm thấu qua cửa sổ sẽ ảnh hưởng đến giấc ngủ của gia chủ. Để đảm bảo sức khỏe và gia cư an toàn, không nên kê đầu giường vào sát cửa sổ.

Đầu giường không nên chiếu thẳng vào gương.

Trong Phong thủy, gương dùng để ngăn sát, tác dụng phản xạ trở lại sát khí xông thẳng vào cho nên (dù không phải là gương bát quái hay gương cửa) cũng không nên để chiếu trực tiếp vào giường ngủ.

Nếu để gương chiếu trực tiếp vào đầu giường thường sẽ bị giật mình ảnh hưởng nghiêm trọng đến giấc ngủ dẫn tới hiện tượng mất ngủ, đau tim, tinh thần phân tán. Tốt nhất, nên treo gương ở phía trong cánh tủ quần áo để không làm ảnh hưởng đến sức khoẻ.
.
Đầu giường không nên kê sát nhà xí.

Đầu giường không nên kê sát vào nhà xí vì nhà xí là nơi không sạch sẽ. Phương pháp hoá giải tốt nhất là kê đầu giường ra chỗ khác, không để đầu giường chiếu thẳng vào cửa phòng nhà xí.

Đầu giường không nên chiếu thẳng vào bếp đun.

Trước phòng ngủ có bếp đun rất không có lợi cho sức khỏe vì lửa bếp cháy rừng rực, khói mỡ khi xào nấu xông vào rất không tốt với sức khỏe của con người, có thể sẽ sinh ra các chứng bệnh đau tim…

Giường ngủ kiêng kê sát vào bếp đun.

Bếp đun là nơi sinh hỏa nấu thức ăn, rất nóng bức vì thế mặc dù có tường, vách ngăn cách thì đầu giường cũng không nên kê sát vào bếp đun. Tốt nhất nên kê giường ra một chỗ khác của phòng ngủ, làm như thế có thể hóa giải được nhiều tai nạn và bệnh tật.

Không nên để “lộ không” nơi đầu giường.

Đầu giường không nên “lộ không” điều đó có nghĩa là đầu giường không kê sát vào tường, không có chỗ dựa, không có chỗ che chở, vì thế hung nhiều cát ít. Nếu đầu giường không kê sát vào tường được thì cuối giường nên kê sát vào tường, còn nếu không có thể đặt kệ tủ sát đầu giường cạnh vách tường cũng là một cách hóa giải.

Giường ngủ kiêng chiếu thẳng vào ống khói.

Phong thuỷ học cho rằng “ống khói làm cho chủ giường khó sinh nở”, vì thế giường ngủ không nên chiếu thẳng vào ống khói. Nếu xảy ra trường hợp trên thì phải kê giường ngủ ra chỗ khác để khi ngủ trên giường không nhìn thấy ống khói. Ngoài ra có thể dùng rèm để che cửa sổ để tránh nhìn thấy ống khói là được.

Giường ngủ kiêng cầu thang ép đỉnh.

Giường ngủ đặt ở dưới chân cầu thang mặc dù là cầu thang ở bên ngoài phòng cũng không nên. Không xét về Phong thủy học, chỉ riêng tiếng bước chân đi lên xuống cầu thang cũng làm cho mất ngủ gây bất an.
Theo Cẩm nang kiến trúc

15 điều nên tránh khi thiết kế phòng ngủ
Một phần ba cuộc đời của con người là giấc ngủ. Vậy nên phòng ngủ cũng là một nơi quan trọng trong ngôi nhà và đó chính là lý do con người ngày càng chú ý đầu tư thiết kế cho phòng ngủ. Theo quan niệm của người Trung Hoa, khi thiết kế phòng ngủ nên tránh 15 điều sau:

– Phòng ngủ không nên đặt trực tiếp phía trên các phòng bếp hoặc toilet.

– Cửa phòng ngủ không nên đối diện với cầu thang, toilet hoặc bếp.

– Không nên đặt những cây cảnh nhỏ, bể cá hoặc những tranh phong cảnh có cảnh hồ, ao, sông ngòi trong phòng ngủ vì những vật thể đó sẽ khuấy động không gian yên tĩnh mang tính “âm” của phòng ngủ.

– Tránh đặt giường ngủ ngay dưới xà nhà vì sẽ tạo cảm giác bất an cho người ngủ.

– Tránh đặt những vật dụng hoặc kiến trúc có dạng mũi tên chĩa vào phòng ngủ.

– Không nên đặt gương đối diện với giường ngủ bất kể là từ hướng nào.

– Không đặt những cửa sổ dạng tròn trong phòng ngủ.

– Không nên có cửa sổ trần.

– Sàn phòng ngủ phải bằng hoặc cao hơn sàn toilet.

– Phòng ngủ nên có ít góc cạnh.

– Tránh tạo hình phòng ngủ theo dạng có góc nhọn hoặc dạng tròn.

– Không nên đặt giường ngủ ở phía bức tường có cửa ra vào.

– Không nên có cửa sổ nhìn ra một ống khói.

– Không nên di chuyển giường ngủ dành cho đôi vợ chồng khi người vợ đang có mang.

– Không nên ghép hai giường làm một mà nên mua nguyên một chiếc giường khổ lớn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải hướng giường ngủ xấu –

Xem tướng lòng bàn chân đoán hôn nhân –

Xem tướng. Đường Hôn Nhân với Định Mệnh mà tách nhau ở giữa lòng bàn chân, đây là người nhẫn nại, biết đối nhân xử thế nhưng tình duyên lại ít gặp may mắn. Đường Hôn Nhân nối với đường Định Mệnh (hình 1): Chủ nhân là người có cuộc sống hôn nhân hạnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tướng. Đường Hôn Nhân với Định Mệnh mà tách nhau ở giữa lòng bàn chân, đây là người nhẫn nại, biết đối nhân xử thế nhưng tình duyên lại ít gặp may mắn.

Đường Hôn Nhân nối với đường Định Mệnh (hình 1): Chủ nhân là người có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc, gia đình êm ấm. Nếu đường này không có nhiều đường chỉ phức tạp mà lại rõ nét, kéo dài thì dù là nam hay nữ đều may mắn gặp được tình yêu ngọt ngào và xây dựng được gia đình hạnh phúc.

image_27998_dsc029541

– Đường Hôn Nhân không nối với đường Định Mệnh mà tách nhau lơ lửng ở giữa lòng bàn chân (hình 2): Chủ nhân dễ bị ảnh hưởng bởi người khác. Họ là người nhẫn nại, biết đối nhân xử thế nhưng tình duyên lại ít gặp may mắn.
– Đường Hôn Nhân mờ, không nối liền với đường Định Mệnh (hình 3): Người này chịu ảnh hưởng bởi vận thế xấu trong quá khứ nên gặp nhiều khó khăn ở cuộc sống hiện tại. Họ năng nổ, nhiệt tình trong công việc, chịu được thử thách, tuy nhiên thành công đến với họ không trọn vẹn. Người này cần phải thay đổi cách sống và cách suy nghĩ để có thể gặp nhiều may mắn hơn.
– Đường Hôn Nhân bị đứt đoạn ở nhiều chỗ (hình 4): Đây là người có phong cách nghệ sĩ, yêu sự lãng mạn, bay bổng, thích tìm tòi và khám phá những điều mới lạ, không thích gò bó trong một khuôn khổ nhất định. Do đó họ kết hôn muộn, chuyện tình cảm cũng không bền lâu. Một số người có đường chỉ này lại có tính vụ lợi trong tình cảm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng lòng bàn chân đoán hôn nhân –

Phong thủy chọn màu sắc trong cuộc sống –

Màu đỏ đậm, xanh nước biển hay trắng tinh khôi sẽ phù hợp với phòng khách nhà bạn? Phòng ngủ nên và không nên chọn màu nào? Nếu biết cách chọn màu sắc phong thủy đúng cách, cuộc sống của bạn sẽ đạt được những chuyển biến tích cực một cách rõ rệt. Pho

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Màu đỏ đậm, xanh nước biển hay trắng tinh khôi sẽ phù hợp với phòng khách nhà bạn? Phòng ngủ nên và không nên chọn màu nào?

Nếu biết cách chọn màu sắc phong thủy đúng cách, cuộc sống của bạn sẽ đạt được những chuyển biến tích cực một cách rõ rệt. Phong thủy đưa màu sắc lên một bậc cao hơn cách chúng ta nghĩ, tiếp thêm năng lượng giúp môi trường sống xung quanh được hòa hợp và cân bằng hơn.

Nội dung

  • 1 Ý nghĩa của phong thủy màu sắc
    • 1.1 Màu Đỏ – Đam mê, can đảm, lãng mạn
    • 1.2 Màu Vàng – Ánh sáng, tươi tốt, hạnh phúc
    • 1.3 Màu Xanh – Bình tĩnh, yên lặng, hòa bình
    • 1.4 Màu Xanh lá – tăng trưởng, sức khỏe, sinh động
    • 1.5 Màu Cam – Hòa đồng, cởi mở, lạc quan
    • 1.6 Màu Tím – trung thành, bí ẩn, sang trọng
    • 1.7 Màu Hồng – Dịu dàng, mềm mại, yêu thương
    • 1.8 Màu Xám – Rõ ràng, tách biệt, trung tính
    • 1.9 Màu Đen – không xác định, không giới hạn, thu hút
    • 1.10 Màu Trắng – Ngây thơ, trong trẻo, khởi đầu mới
    • 1.11 Màu Nâu – Sức mạnh, vững chắc, ổn định

Ý nghĩa của phong thủy màu sắc

Màu Đỏ – Đam mê, can đảm, lãng mạn

Màu đỏ là màu phong thủy mạnh nhất của nhân tố Lửa. Màu đỏ rực rỡ mang đến cho ngôi nhà của bạn niềm vui, nhiệt huyết và cả sự lãng mạn.

my-life-in-red-by-santia-9127-1404199856

Theo văn hóa của phương Đông, màu đỏ đại diện cho may mắn, hạnh phúc và do đó, được sử dụng chính trong các đám cưới. Trong khi đó, theo văn hóa phương Tây, màu đỏ lại là thiên sứ của tình yêu và sự lãng mạn, lòng can đảm và cả đam mê mãnh liệt.

Màu Vàng – Ánh sáng, tươi tốt, hạnh phúc

Màu vàng, màu của ánh nắng và niềm vui, chắc chắn chúng sẽ giúp ngôi nhà của bạn trở nên bừng sáng. Màu vàng cũng tạo cảm giác ấm áp, giúp thu hút những nguồn năng lượng tốt nếu được sử dụng ở nhà bếp, phòng khách hay phòng riêng.

Nếu muốn trang trí nhà bằng màu vàng, bạn thật sự có rất nhiều sự lựa chọn: từ màu hoa vàng rực rỡ đến màu vàng chanh.

Màu Xanh – Bình tĩnh, yên lặng, hòa bình

Màu xanh luôn được ví là màu kỳ diệu trong phong thủy và mang đến rất nhiều sự lựa chọn: từ màu xanh da trời sáng trong đến màu thẫm hơn của đại dương.

2-6595-1404199856

Để tăng năng lượng cho môi trường sống của bạn, tốt nhất hãy sử dụng màu xanh cho những khu vực bát quái trong nhà: hướng Đông (sức khỏe), hướng Đông Nam (tiền bạc), và hướng Bắc (nghề nghiệp).

Màu Xanh lá – tăng trưởng, sức khỏe, sinh động

Xanh lá trong phong thủy được ví là màu của sự cải tiến, nguồn năng lượng mới và sự tái tạo. Màu xanh lá được tin rằng sẽ mang đến sức khỏe tốt bởi nó giúp cân bằng cơ thể thông qua các sức mạnh đến từ thiên nhiên.

Nếu sử dụng màu xanh lá, bạn được khuyên nên kết hợp nhiều tông màu khác nhau để có thể tối đa hóa ảnh hưởng tích cực của nó.

Màu Cam – Hòa đồng, cởi mở, lạc quan

Nếu bạn cảm thấy màu đỏ khó dùng trong trang trí nhà cửa vì chúng quá rực rỡ, thì bạn hãy lựa chọn màu cam thay thế.

Màu cam trong phong thủy được đánh giá khá “hòa đồng” vì luôn mang đến nguồn năng lượng tốt cho các cuộc trò chuyện cũng như tạo ra nhiều giây phút đáng nhớ trong gia đình. Ngoài ra, màu cam còn nhắc chúng ta về những giấc mơ và niềm đam mê cháy bỏng thuở thiếu thời.

Màu Tím – trung thành, bí ẩn, sang trọng

Các chuyên gia phong thủy khuyên bạn sử dụng màu tím một cách có tiết chế. Bởi màu tím khá rực rỡ và nóng, tốt nhất nên dùng màu tím cho các chi tiết trang trí, như gối hoặc tranh ảnh nghệ thuật, hơn là để sơn tường.

Nơi tuyệt vời nhất để bạn có thể thoái mái sử dụng màu tím chính là phòng nghỉ hoặc phòng thiền.

Màu Hồng – Dịu dàng, mềm mại, yêu thương

Màu hồng ở trên toàn thế giới đều tượng trưng cho tình yêu và do đó, nó có tác dụng làm dịu năng lượng tuyệt vời hoặc khiến cho hành động của tất cả mọi người trở nên từ tốn hơn rất nhiều.

Vintage-pink-bedroom-color-6373-1404199856

Tin vui là bạn có thể sử dụng màu sắc đang yêu này ở hầu như mọi nơi – từ phòng ngủ đến nơi giặt đồ.

Màu Xám – Rõ ràng, tách biệt, trung tính

Quan điểm của mọi người về màu xám thường theo hai hướng trái ngược rõ ràng: nhàm chán và tinh tế. Nhưng dù bạn nghĩ gì thì màu xám chắc chắn cũng sẽ mang đến nhiều nguồn năng lượng tuyệt vời khi được sử dụng theo cách khôn ngoan.

Các hướng phong thủy phù hợp với màu này chính là: hướng Tây (sáng tạo), hướng Tây Bắc (nhận được giúp đỡ) và hướng Bắc (nghề nghiệp).

Màu Đen – không xác định, không giới hạn, thu hút

Mang sắc thái của màn đêm, của tầng nước sâu thẳm và của vũ trụ bí ẩn, màu đen mang đến sức mạnh cũng như nét đặc biệt cho bất kỳ nơi nào.

Thật ra, việc sử dụng màu đen không đơn giản như mọi người thường nghĩ mà thường đi kèm khá nhiều quy tắc (ví dụ: không sử dụng màu đen cho phòng trẻ em hay trên trần nhà phòng ngủ).

Màu Trắng – Ngây thơ, trong trẻo, khởi đầu mới

Màu trắng trong phong thủy tượng trưng cho sự trong trắng, ngây thơ, có khả năng kết hợp và xuất hiện ở trong tất cả các màu khác. Do đó, nếu ở trong một nơi chỉ toàn màu trắng, bạn sẽ dễ bị thu hút và cảm thấy hoàn toàn thoải mái.

white-walls-living-dining-9746-1404199857

Màu Nâu – Sức mạnh, vững chắc, ổn định

Màu nâu là lựa chọn khá phổ biến trong trang trí nhà cửa những năm gần đây. Nó mang năng lượng nuôi dưỡng và thường đi cùng với những thứ tuyệt vời: thanh choccolate, cà phê và gỗ.

Những vùng phong thủy phù hợp nhất với màu nâu chính là: hướng Đông (sức khỏe), hướng Đông Nam (tiền bạc) và hướng Nam (danh vọng).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy chọn màu sắc trong cuộc sống –

Nằm mơ thấy mất xe máy là điềm gì? –

Bị mất xe hay mất những vật giá trị khác là một việc khá đáng tiếc và không ai mong muốn. Tuy nhiên, khi ngủ bạn lại thấy chiếc xe yêu quý của mình bị trộm lấy mất. Điều này khiến bạn vô cùng hoang mang và không biết là điềm báo gì. Bài viết này sẽ g
Nằm mơ thấy mất xe máy là điềm gì? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy mất xe máy là điềm gì? –

Tổng quan tài vận tháng 1 của 12 con giáp

Tổng quan tài vận tháng 1 của 12 con giáp như sau, cùng theo dõi nhé!
Tổng quan tài vận tháng 1 của 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tài vận tháng 1 của người tuổi Ngọ ở mức bình ổn, không đột phá dư dả nhưng cũng không áp lực về tiền bạc.


Tài vận tuổi Tý

Chỉ số tài vận: ★★★★
Phương vị cát tường: Chính Đông

Bước sang tháng 1, chính tài của người tuổi Tý bình ổn, thứ tài có phần “nhỉnh hơn”. Nếu muốn vay vốn ngân hàng hoặc vay mượn bạn bè để đầu tư, người cầm tinh con Chuột cần phải hết sức thận trọng, tránh nhắm mắt làm liều gây tổn hao tài sản.

Tài vận tuổi Sửu

Chỉ số tài vận: ★★★★
Phương vị cát tường: Chính Bắc

Chính tài trong tháng 1 của người tuổi Sửu dồi dào, thứ tài khá nhưng cần biết bỏ chút tiền “đầu tư” cho công to việc lớn.

Ví dụ, mời đối tác, bạn bè đi ăn, nhằm mở rộng và thắt chặt mối quan hệ. Tự mua cho mình những món đồ yêu thích hoặc các món ăn bổ dưỡng nhằm nâng cao sức khỏe và tinh thần.

Tài vận tuổi Dần

Chỉ số tài vận: ★★★
Phương vị cát tường: Chính Đông

Tổng quan tài vận tháng 1 của 12 con giáp cho biết, các khoản thu chi của người tuổi Dần đã bình ổn trở lại. Tuy nhiên, đây không phải là thời điểm lí tưởng để đầu tư cổ phiếu, chứng khoán hay những hạng mục có tính mạo hiểm cao. Tốt nhất vẫn cần tích lũy, dồn vốn cho việc lớn sau này.

Tong quan tai van thang 1 cua 12 con giap hinh anh
 
Tài vận tuổi Mão

Chỉ số tài vận: ★★★
Phương vị cát tường: Chính Tây

Chính và thứ tài của người tuổi Mão ở mức trung bình. Bạn cần có kế hoạch chi tiêu hợp lí, hạn chế khoản chi không cần thiết mới có thể duy trì được mức sống như hiện tại.

Tài vận tuổi Thìn

Chỉ số tài vận: ★★★★
Phương vị cát tường: Chính Bắc

Tình hình tài chính của người tuổi Thìn chuyển biến tích cực trong tháng 1. Chính tài tuy vượng nhưng cần đề phòng kẻ tiểu nhân quấy phá. Thứ tài ở mức trung bình.

Tài vận tuổi Tỵ

Chỉ số tài vận: ★★★
Phương vị cát tường: Chính Đông

Dù các khoản thu nhập đều có dấu hiệu tăng, nhưng những khoản chi cũng khá nhiều, nếu không có kế hoạch chi tiêu hợp lí, e rằng bạn sẽ sớm “viêm màng túi”.

Tài vận tuổi Ngọ

Chỉ số tài vận: ★★★
Phương vị cát tường: Chính Tây

Tài vận tháng 1 của người tuổi Ngọ ở mức bình ổn, không đột phá dư dả nhưng cũng không áp lực về tiền bạc. Lưu ý, trong tháng, không nên tiến hành những hạng mục đầu tư tài chính, tránh hiện tượng phá tài.

Tong quan tai van thang 1 cua 12 con giap hinh anh
 
Tài vận tuổi Mùi


Chỉ số tài vận: ★★★★
Phương vị cát tường: Chính Bắc

Tài vận của người tuổi Mùi đã dần tăng trở lại, thu nhập khả quan. Nhưng nếu có bạn bè ngỏ ý vay mượn số tiền lớn để làm ăn, đầu tư, bạn nên tìm cách từ chối khéo léo, tránh tình trạng tiền bạc “một đi không trở lại”.

Tài vận tuổi Thân

Chỉ số tài vận: ★★★★★
Phương vị cát tường: Chính Bắc

Tài vận tháng 1 của người tuổi Thân khá vượng, dù là chính hay thứ tài đều dồi dào. Ví tiền của bạn hết rồi lại có. Tuy nhiên, vẫn cần chi tiêu tiết kiệm, lấy tích lũy làm trọng, tránh vung tay quá trán sẽ bị phá tài.

Tài vận tuổi Dậu

Chỉ số tài vận: ★★★★
Phương vị cát tường: Chính Tây

Dù gánh nặng vật chất đã vơi đi phần nào nhờ nguồn chính tài vượng. Nhưng xảy ra quá nhiều sự việc bất ngờ khiến người tuổi Dậu phải chi tiêu nhiều, tình hình tài chính có phần bị ảnh hưởng.

Tuy nhiên, tới giữa tháng tài vận cực hanh thông, bạn có thể mạnh dạn đầu tư hoặc mở rộng phạm vi kinh doanh, ắt sẽ thu về lợi nhuận tốt.

Những con giáp có ví tiền “dày cộm” trong tháng 1
Trong tháng cuối cùng của năm Ất Mùi, tài vận của người cầm tinh con Rồng khởi sắc mạnh, lại có Tài tinh chiếu mệnh nên liên tiếp gặp may tiền bạc, hứa hẹn một
Tài vận tuổi Tuất


Chỉ số tài vận: ★★★★★
Phương vị cát tường: Đông Nam

Chính tài của người tuổi Tuất khởi sắc mạnh, ví tiền căng tràn khiến không ít người phải tỏ ý ngưỡng mộ. Tuy nhiên, phải cẩn thận đường thứ tài, kị tham gia kiểu đầu tư mù quáng hay mang tính chất đỏ đen. Đề phòng kẻ tiểu nhân lừa gạt khiến tiền mất tật mang.

Tài vận tuổi Hợi


Chỉ số tài vận: ★★★★
Phương vị cát tường: Tây Bắc

Tài vận trong tháng 1 của người tuổi Hợi trung bình, tuy không quá dư dả nhưng cũng thoải mái trong chi tiêu. Lưu ý, cần tránh manh động đầu tư khoản vốn lớn khi chưa tìm hiểu rõ các nguồn thông tin, kẻo sẽ “ném tiền qua cửa sổ”.

► Xem Lịch vạn niên, lịch vạn sự chuẩn nhất tại Lichngaytot.com

Ngân Hà (Theo Sohu)
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tổng quan tài vận tháng 1 của 12 con giáp

Lễ Đền Bà Chúa Kho

Lễ Đền Bà Chúa Kho. Khách thập phương đổ về đền Bà chúa Kho (Bắc Ninh) để vay tiền làm ăn, cầu tài, cầu lộc, trong đó đa phần là giới thương nhân, tiểu thương. Tham khảo bài viết để biết văn khấn lễ đền Bà Chúa Kho.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Ý nghĩa:

Vào những ngày đầu xuân, khách thập phương từ mọi miền đất nước đổ về đền Bà chúa Kho (Bắc Ninh) để vay tiền làm ăn, cầu tài, cầu lộc, trong đó đa phần là giới thương nhân, tiểu thương. Họ quan niệm “đầu năm đi vay, cuối năm đi trả”, muốn nhờ vía của Bà để ăn nên, làm ra, kinh doanh phát đạt.

2. Sắm lễ:

Theo phong tục cổ truyền khi đến Đình, Đền, Miếu, Phủ nên có lễ vật có thể to, nhỏ, nhiều, ít, sang, mọn tuỳ tâm. Mặc dù ở những nơi này thờ Thánh, Thần, Mẫu nhưng người ta vẫn có thể sắm các lễ chay như hương hoa quả, oản,… để dâng cũng được.

- Lễ Chay: Gồm hương hoa, trà, quả, phẩm oản… dùng để lễ ban Phật, Bồ Tát (nếu có).
Lễ chay cũng dùng để dâng ban Thánh Mẫu.

- Lễ Mặn: Nếu Quý vị có quan điểm phải dùng mặn thì chúng tôi khuyên mua đồ chay hình tướng gà, lợn, giò, chả.

- Lễ đồ sống: Tuyệt đối không dùng các đồ lễ sống gồm trứng, gạo, muối hoặc thịt tại các ban quan Ngũ Hổ, Bạch xà, Thanh xà đặt ở hạ ban Công Đồng Tứ phủ.

- Cỗ sơn trang: Gồm những đồ đặc sản chay Việt Nam: Không được dùng cua, ốc, lươn, ớt, chanh quả… Nếu có gạo nếp cẩm nấu xôi chè thì cũng thuộc vào lễ này.

- Lễ ban thờ cô, thờ cậu: Thường gồm oản, quả, hương hoa, gương, lược… Nghĩa là những đồ chơi mà người ta thường làm cho trẻ nhỏ. Nhưng lễ vật này cầu kỳ, nhỏ, đẹp và được bao trong những túi nhỏ xinh xắn, đẹp mắt.
- Lễ thần Thành Hoàng, Thư điền: Phải dùng chay mới có phúc và những lời cầu nguyện được linh ứng.

3. Hạ lễ

Sau khi kết thúc khấn, lễ ở các ban thờ, thì trong khi đợi hết một tuần nhang có thể viếng thăm phong cảnh nơi thừa tự, thờ tự.

Khi thắp hết một tuần nhang có thể thắp thêm một tuần nhang nữa. Thắp nhang xong, vái 3 vái trước mỗi ban thờ rồi hạ sớ đem ra nơi hoá vàng để hoá.

Hoá sớ xong mới hạ lễ dâng cúng khác. Khi hạ lễ thì hạ từ ban ngoài cùng vào đến ban chính. Riêng các đồ lễ ở bàn thờ Cô, thờ Cậu như gương, lược… thì để nguyên trên bàn thờ hoặc giả nơi đặt bàn thờ này có nơi để riêng thì nên gom vào đó mà không đem về.

4. Văn khấn:

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)

- Con xin kính lạy Tam giới Thiên chúa cập nhất thiết Thánh chúng.

- Con xin kính lạy Tam phủ cộng đồng, Tứ phủ vạn linh.

- Con xin kính lạy Thiên tiên Thánh mẫu, Địa thiên Thánh mẫu, Thủy tiên thánh mẫu.

- Con xin kính lạy Đức Chúa kho Thánh mẫu hiển hoá anh linh.

- Con xin kính lạy Đương niên hành khiển chí đức Tôn thần.

- Con xin kính lạy Đường cảnh Thành Hoàng Bản Thổ đại vương.


- Con xin kính lạy Ngũ hổ thần tướng, Thanh bạch xà Thần linh

Hương tử con là:....................Ngụ tại:........

Ngày hôm nay là ngày.................................

Con sắm sửa kim ngân, hương hoa, lễ vật chí thiết một lòng thành tâm dâng lễ, sám hối cầu xin phù hộ cho hương tử con được: gia quyến bình an, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, bách sự cầu được như ý.
Hương tử con lễ bạc tâm thành, cúi đầu thành tâm kính lễ Chúa Kho Thánh mẫu, cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ Đền Bà Chúa Kho

Cách bố trí phòng sách –

Cùng với sự phát triển của thời đại, điều kiện trau dồi văn hóa tri thức của con người không ngừng được nâng cao, cơ hội đọc sách và tự học ở nhà ngày một nhiều hơn. Vì thế, khi thiết kế và xây dựng nhà cửa, người ta đã quan tâm nhiều hơn đến việc d

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

phong-thuy-nha-o-6

ành một vị trí riêng cho phòng đọc sách cũng như góc học tập. Dưới đây là một vài phương pháp sắp xếp phòng đọc.

Trong một phòng đọc chuyên dụng, ngoài bàn làm việc và giá sách, còn có thể bày các vật dụng với các chức năng khác nhau phục vụ mục đích nghỉ ngơi, hay giải trí. Khi bài trí, trước hết hãy đặt bàn làm việc của bạn cạnh cửa sổ, nơi có nhiều ánh sáng. Đa phần mọi người đều viết bằng tay phải, vì thế khi bạn ngồi đọc sách hay viết chữ bên bàn làm việc, ánh sáng tự nhiên bên ngoài hay ánh sáng đèn đỉện cần phải được đảm bảo chiếu theo hướng từ phía trên bên trái xuống mặt bàn. Điều đó đồng nghĩa với vị trí cửa sổ phải nằm ở bên trái phía trước bàn làm việc, đèn học cũng phải đặt ở góc bên trái của bàn làm việc. Ngoài ra, nguồn ánh sáng phát ra từ đèn học không được chiếu trực tiếp mà phải chiếu theo hướng phản xạ gián tiếp để tránh gây chói mắt và làm hư tổn thị giác. Còn một cách sắp xếp thứ hai, đó là đặt bàn làm việc ngay sát dưới bức tường có cửa sổ. Cách này cũng giúp bạn có được nguồn ánh sáng lí tưởng như mong muốn. Trong trường hợp cửa số của phòng đối diện hoặc hơi chếch so với cửa ra vào phòng, cách này còn có tác dụng giảm bớt tác động của những hoạt động diễn ra bên ngoài phòng hay chỗ cửa ra vào đối với người đang làm việc trong phòng, giúp cho ngưòi đó có thể tập trung tinh thần làm việc hoặc học tập. Các cách sắp xếp bàn làm việc trên có thể đáp ứng nhu cầu ngày một cao của mọi người về môi trường cũng như điều kiện học tập và làm việc. Tuy nhiên, có một điểm cần lưu ý, nếu bạn đặt bàn làm việc ngay sát cửa sổ thì cách tốt nhất là treo một tấm rèm cửa sổ. Ban ngày khi đọc sách hay viết chữ, đặc biệt là lúc mặt trời đứng bóng, tấm rèm cửa sổ sẽ rất có ích trong việc chắn ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp vào mắt bạn, nhờ đó, thị giác của bạn sẽ được bảo vệ an toàn.

Nếu ở góc phòng hay sát bức tường còn lại có bày một tủ sách, cạnh tủ sách lại đặt một chiếc ghế mềm hay một bộ sopha thì sẽ rất tiện cho bạn ngồi đọc sách hoặc nghỉ ngơi, thư giãn bất cứ khi nào bạn thấy mệt mỏi do học hành hay làm việc quá căng thẳng. Bên cạnh ghế  mềm hay ghế  sopha luôn có một nguồn ánh sáng nhất định, đó có thể là một chiếc đèn cây hoặc một chiếc đèn treo tưòng, miễn sao có thể cung cấp đủ ánh sáng cần thiết cho việc đọc sách.

Những căn phòng chỉ rộng có 8m2 vẫn có thể bố trí thành một thư phòng chuyên dụng nho nhỏ. Ngoài một dãy tủ sách kê sát tưòng, có thể kê một chiếc bàn làm việc kiểu chữ L ngay phía dưới cửa sổ. Ưu điểm của cách bài trí này không những tiết kiệm được diện tích phòng mà vẫn có đủ không gian cho việc học tập và làm việc. Nếu kê thêm vào đó một chiếc ghế mềm thì môi trường học tập cuả bạn sẽ thoải mái dễ chịu hơn nữa. Ngoài ra, ngày nay máy tính ngày càng trở nên phổ biến, nó là một công cụ học tập và làm việc hữu ích không thể thiếu trong mỗi gia đình. Vì thế, một chiếc bàn hình chữ L cũng rất tiện cho việc lắp đặt một chiếc máy vi tính.

Khi bố trí phòng đọc, bạn không thể không quan tâm đến yếu tố thính giác và thị giác. Bởi thế, cần thiết phải để lại khoảng trống trên giá sách dành cho vài chậu cây cảnh nho nhỏ vói hương thơm dịu nhẹ, hoặc dán vài bức tranh phong cảnh mang đậm phong cách đồng quê ngay cạnh bàn làm việc. Đương nhiên, bạn cũng có thể treo những thứ đồ chơi hay đồ thủ công mĩ nghệ tùy theo đặc tính công việc và sở thích riêng của mình. Góc riêng của bạn sẽ trở nên rất có cá tính và gần gũi hơn. Tuy nhiên, cũng không nên bày quá nhiều đồ thủ công mĩ nghệ, nếu không chúng sẽ làm bạn bị mất tập trung. Ngoài ra, những quyển sách được bài trí một cách khéo léo và có tính nghệ thuật cũng có hiệu quả làm đẹp cao. Đối với các gia đình trí thức thì càng nên chú ý nhiều hơn trong việc sắp xếp và bài trí phòng đọc sách để tạo một môi trường học tập và làm việc lí tưởng nhất.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách bố trí phòng sách –

Yếu lĩnh chọn mua và trang trí cửa sổ và rèm cửa sổ –

Để có được một ngôi nhà ở thích hợp với mình thì chất liệu của cửa sổ và rèm che cửa sổ đòi hỏi phải thoả mãn những yêu cầu nhất định. Dưới đây là một số ý kiến tham khảo: (1) Cách giám định chât lượng lắp đặt cửa sổ hợp kim nhôm 1- Cửa sổ làm bằ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để có được một ngôi nhà ở thích hợp với mình thì chất liệu của cửa sổ và rèm che cửa sổ đòi hỏi phải thoả mãn những yêu cầu nhất định. Dưới đây là một số ý kiến tham khảo:

75503

(1)   Cách giám định chât lượng lắp đặt cửa sổ hợp kim nhôm

1-   Cửa sổ làm bằng hợp kim nhôm được lắp đặt tốt là khi đóng cửa phải kín khít đều. Độ sai lệch giữa cánh cửa và khung cửa hoặc đường riềm không vượt quá 2mm, cửa mở trơn, thuận.

2-   Kiểm tra xem đường ray trượt bên dưới của cửa kéo có được lắp đặt phẳng và chắc chắn không, chú ý không được có hiện tượng lồi lõm, đẩy nhẹ thây cửa trượt trên ray trơn, thuận là được.

3-   Khung đứng và khung ngang cửa sổ hợp kim nhôm ở ban công phải được lắp ghép chắc chắn và được cố định trên khung bảo vệ ban công và nóc ban công, thường dùng đinh bắn hoặc đinh bu-lông để cố định khung cửa vào tường xi măng, khi cố định nên dùng thép góc được sơn để gia cố. Không được cố định cửa trên gạch, cũng không được dùng các miếng gỗ chèn vào cửa thay cho đinh. Toàn bộ các khe tiếp giáp giữa đường ray trượt và bệ cửa trên dưới phải dùng xi măng cát trát kín, đề phòng nước nưa ngấm vào nhà.

4-   Độ dầy vách nhôm làm mặt cánh cửa sổ hợp kim nhôm không nên nhổ hơn 1,4mm, độ dầy vách khung cánh cửa không nhỏ hơn 2mm. Độ dầy vách khung gắn vào tường không nhỏ hơn l,5mm.

(2)    Cách giám định chất lượng lắp đặt cửa sổ gỗ

–      Kết cấu cửa phải chắc chắn, phẳng, không có hiện tượng cong, vênh.

–    Độ dầy khung cánh cửa 50mm, cánh cửa nên dùng mộng để ghép các bộ phận với nhau. Khi lắp khung cửa, cánh cửa, mộng v.v… phải ăn khớp nhau và nên dùng thêm keo gắn kết cho chắc chắn hơn. Đường tiếp giáp giữa khung cửa với tường phải kín.

–     Đường cắt khung cửa phải thuận và thẳng, bề mặt phải phẳng. Đóng mở cửa linh hoạt, không có hiện tượng nghiêng lệch.

–    Cửa sổ dùng sơn bề mặt phải phẳng, bóng sáng, không có dấu vết, màu sắc đều, không bị mất sơn.

(3)    Cách chọn mua rèm cửa phổ thông

–     Phát huy đầy đủ chức năng của rèm cửa. Nếu là rèm cửa dùng cho cửa sổ phòng sách tốt nhất chọn loại mỏng, như vậy sẽ làm cho phòng sáng dịu, không bị tối; dùng cho phòng ngủ chọn loại rèm dầy hơn một chút, giảm cường độ ánh sáng trong phòng, tạo không gian yên tĩnh và tương đối kín đáo. Mùa đông rèm cửa nhiều lớp sẽ tạo thành các lớp không khí có tác dụng ngăn cản đối lưu không khí nóng và không khí lạnh vào phòng, nâng nhiệt độ trong nhà lên; mùa hè dùng rèm cửa kiểu bán treo, mành trúc hoặc mành ngọc sẽ có hiệu quả thông gió rất tốt.

–    Cân nhắc màu sắc rèm cửa sổ. Rèm cửa số phòng khách nên chọn loại màu đậm, phòng ngủ chọn màu nhạt tao nhã. Màu sắc rèm cửa sổ nên đậm hơn màu tường một chút, ví dụ như tường màu vàng nhạt thì dùng rèm màu lá, tường màu xanh da trời nhạt thì dùng rèm màu trà v.v…

–     Chọn chất liệu rèm cửa sổ. Đa số các gia đình thường chỉ treo rèm một lớp, không cần quá dầy, cần có độ sáng nhất định, nhưng cũng không được quá mỏng nhằm tránh khí trong nhà bật đèn từ ngoài có thể nhìn thấy rõ các hoạt động bên trong nhà.

(4)    Cách treo rèm cửa

–    Cách cố định phần trên: cố định bộ phận trên của rèm vào khung cửa sổ, từ giữa vén rèm treo sang hai bên, như vậy nhìn thật mộc mạc mà trang nhã.

–    Cách kéo sang ngang. Treo rèm trên một thanh ngang để có thể kéo qua lại theo chiều ngang, rèm treo như vậy sử dụng sẽ linh hoạt mà không ảnh hưởng đến ưu diểm lấy ánh sáng của cửa sổ.

–    Cách nâng lên hạ xuống theo chiều thẳng đứng: Kiểu treo này thường dùng cho rèm trúc, rèm bạch diệp nhựa hoặc rèm kim loại bạch diệp, cách treo này có đặc điểm là lấy và che được ánh sáng từ nhiều góc độ.

(5)   Cách giám định chất lượng lắp đặt hộp rèm cửa sổ

–    Độ cao bề mặt hộp rèm cửa sổ thường là 140mm; khi lắp đặt với đường ray đôi, độ rộng tịnh bên trong hộp là 180mm, khi lắp đặt đường ray đơn, độ rộng tịnh bên trong hộp là 140mm.

–    Độ dài của hộp rèm loại rèm 2 cánh nên kéo sang 2 bên theo độ rộng của động cửa, độ dài kéo sang mỗi bên không quá 180mm.

–    Ngoại quan hộp rèm phải sáng và sạch, lắp ráp khít kín. Sau khi lắp xong, hộp bám chắc vào tường không có khe hở, phẳng và thẳng, mép dưới cân đối, độ cao hai dầu chênh lệch không đến 2mm.

–    Hộp rèm cứa sổ được sơn, bề mặt ngoài phải sáng nhẵn, phẳng, không có dấu vết, màu sắc phải đều, không bị mất sơn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Yếu lĩnh chọn mua và trang trí cửa sổ và rèm cửa sổ –

Tướng đàn ông qua râu –

Râu cũng là hoa lá của cội cây. “Đàn ông không râu kém uy, đàn bà không vú lấy gì nuôi con”. Râu rậm quá thường bị ganh ghét, nếu làm quan có thể bị giáng chức, mất chức. Người đàn ông mắt sâu râu rậm, kết hợp với làn da màu xanh xám hoặc vàng bệch đ
Tướng đàn ông qua râu –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng đàn ông qua râu –

Tạp ghi về khoa Tử Vi: Sao Đào Hoa

Bài viết của tác giả Phong Nguyễn phân tích rõ về sao Đào Hoa, kể cả 4 ví trí đứng của nó. Đây là bài viết rất hay và thú vị.
Tạp ghi về khoa Tử Vi: Sao Đào Hoa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của tác giả Phong Nguyễn

Mỗi khi coi Tử-vi cho ai mà thấy sao Đào Hoa cư Mạng là tôi nhớ tới một mẫu chuyện vừa sai lầm, vừa vui, vừa ấm ức. Khi tôi mới biết võ vẽ về Tử-vi, một lần có một cô khá kiều diễm nhờ tôi coi lá số của cô ta ra sao. Cô ta đưa cho tôi lá số do chính cô ta lập lấy, nhưng không biết giải đoán, vì mới chỉ học cách lập thành. Tôi hãy còn nhớ rõ mạng của cô cư Dần có Vũ Tướng đồng cung hội Long Phượng, Xương Khúc, Riêu, Y, Thái Tuế, Mộc Dục lại có thêm Đào Hoa tọa thủ tại cung Mạng. Sau khi đoán trúng là cô ta hợp về ngành Y khoa hoặc Dược khoa và được "người đẹp " khen đúng ( cô ta đã đậu bằng Dược) thì tôi lại bị cô ta chê hết mức khi tôi đoán là cô ta lãng mạng, đa tình. Cô ta quả quyết là từ khi trở thành một thiếu nữ đến lúc nhờ tôi coi số, không bao giờ cô nghĩ đến chuyện yêu đương, chứ chưa nói tới có mối tình nào và cô chỉ chuyên chú học hành cho đến khi thành Dược sĩ. Tôi lấy làm lạ và nghĩ là cô ta giấu diếm, vì thấy hình dáng kiều diễm và hơi cao của cô rất ứng vào các sao Vũ-Tướng ngộ Đào Hoa, nhất là Vũ-Tướng hợp với Mạng Thủy thì tại sao lại không ứng về tính nết. Tôi cũng hiểu rằng Vũ-Tướng là hai sao đứng đắn thì Đào-Hoa cũng chẳng có ảnh hưởng gì mạnh, nhưng tôi nghĩ rằng Đào Riêu Mộc chiếu Mệnh lại thêm Xương Khúc thì dù sao cũng phải lãng mạng một chút chứ. Do đó tuy nghi ngờ về sự phủ nhận của cô ta nhưng tôi cũng vẫn cố tìm ra lý do về phương diện Tử-vi. Trong khi tôi đang suy nghĩ thì cô ta hỏi tôi:

- Đào Hoa cư Dần là hoa nở ban mai có sương đọng nên tốt lắm phải không? Vì có ông thầy nói với tôi như vậy.

Lúc bấy giờ tôi mới giật nẩy mình chợt nhớ là Đào-Hoa có bao giờ cư Dần đâu (vì sao này chỉ có ở 4 vị trí là Tý, Ngọ, Mão, Dậu) và tự trách mình sao sơ xuất và kém cỏi như vậy. Tôi cũng tức luôn cả ông thày nào đó đã đoán hấp tấp, chẳng chịu kiểm soát lại các sao. Số sui có sự an sao lộn là vì cô ta mới học lập thành nên đã lầm cung Dần với cung Mão và cô ta còn đổ thừa là tại hai cung đó gần nhau quá.

Bây giờ tôi xin trở lại một chút lá số trên khi đã biết Đào Hoa an tại Mão thay vì tại Dần. Kể ra hồi đó tôi cũng còn non nớt thật, vì đâu có cần phải Đào Hoa tại Mệnh mới kiều diễm vì Vũ Tướng hội Khôi Việt (tôi quên không nêu 2 sao này ở đoạn trên) cũng đủ "hoa nhường nguyệt thẹn" rồi. Theo kinh nghiệm của riêng tôi nhất là khi Vũ Tướng là các chính tinh hợp mệnh. Và khi không có sao Đào-Hoa tại Mệnh nữa thì đương nhiên các sao Mộc, Riêu, Xương Khúc mất phe đảng "lẳng lơ" mà chỉ còn ứng vào việc học Dược khoa. (Tôi cũng cần mở ngoặc nói thêm là không phải cứ có bộ sao như trên là học Dược khoa hay Y khoa mà chỉ có thể nói là có khuynh hướng về ngành đó mà thôi, vì Tử-vi đâu có thể có những công thức chính xác quá như vậy. Điều này ông Ân Quang cũng có nêu ra trong KHHB rồi. Do đó, cô ta đứng đắn và học chăm là đúng, vì Vũ Khúc chủ cô đơn, Thiên Tướng chủ tư cách, thông minh, quân tử lại thêm các sao Xương Khúc, Long Phượng, còn sao Đào Hoa chạy sang cung Phụ-mẫu. Ngoài ra, tôi cũng cần nói thêm là khi sau này chuyển sang cung Phụ-Mẫu (có Thái Dương tọa thủ chủ về cha) thì thật là ứng, vì cô ta có cho biết là ông thân sinh có hai vợ.

Vì bị lầm lẫn chua cay như trên, nên từ đó mỗi lần coi Tử vi tôi luôn luôn ghi nhớ tới những vị trí giới hạn của một số sao (vì cũng có nhiều sao thay đổi vị trí suốt cả 12 cung), chứ không riêng gì sao Đào Hoa, và thường thường tôi thích tự lập lá số hơn là căn cứ vào lá số đã có sẵn của người khác nhờ coi, vì chỉ sợ không phải do người thành thạo lập ra.

Vậy các bạn mới tập coi Tử-vi nên thận trọng về điểm này, tuy rất sơ đẳng nhưng nếu lầm lẫn một chút thì đoán trật nhiều. Và cũng vì "hận" sao này cho nên mỗi khi có dịp thảo luận hoặc học hỏi về Tử-vi tôi thường hay mổ xẻ sao "đa tình " này. Do đó tôi cũng chưa chấm dứt bài này về sao Đào-Hoa mà còn nêu thêm một ít kinh nghiệm do một "cây tử vi" đã trao cho kẻ viết bài này về sao nói trên. Còn vấn đề đúng hay sai để các bạn xét đoán.

Vị này có nêu câu hỏi sau, với tôi trước khi "tán" về sao Đào Hoa:

-Trong 4 vị trí (Tý, Ngọ, Mão, Dậu) của sao Đào Hoa, anh thấy sao này ở cung nào tốt nhất?

- Tôi trả lời liền là "ở Mão hay nhất" (không phải ở Dần đâu nghe!). Vì thường ai cũng biết là "hoa nở ban mai tươi đẹp". Thế mà vị đó lại mỉm cười một cách hóm hỉnh và nói rằng theo kinh nghiệm của ông, thì Đào-Hoa ở Ngọ hay hơn cả. Tôi cứ ngẩn người ra và chẳng hiểu tại sao mà vị đó lại ngược đời như vậy.

Dưới đây là ý nghĩa sao Đào-Hoa ở 4 vị trí, do vị đó nêu ra để tiện việc so sánh (tôi xin nói thêm là đây chỉ nói riêng về sao Đào-Hoa nên sự ứng nghiệm chỉ tương đối, vì còn phải chế hóa với các sao khác hoặc yếu tố khác):

1- Đào Hoa cư Dậu

Có thể nói Đào Hoa nếu cư cung Đoài (Dậu) thì xấu nhất, vì Đào Hoa thuộc Mộc, cư cung Kim tức là cung khắc sao. Hơn nữa giờ Dậu là lúc bắt đầu tối, ai còn thấy vẻ đẹp của Hoa (vì Đào Hoa tượng trưng cho hoa, tình ái, đàn bà con gái... ) và cũng vào giờ này là giờ tạm gọi là lúc gái đi ăn sương bắt đầu hoạt động. Điểm xấu nữa là cung Kim không có gì gọi là nước để nuôi dưỡng hoa, nên hoa phải mau héo. Do những điểm này, nếu ai, bất luận nam hay nữ có cách này thường phải chịu những mối tình đau thương, dù yêu nhau tha thiết vì hay bị tan vỡ, hoặc có những mối tình bất chính, loạn luân. Nếu chẳng may gặp người mạng Hỏa (tức là Đào Hoa sinh mạng) thực là xấu xa hơn nữa, khổ hơn nữa vì cuộc đời luôn luôn xảy ra như vậy. Để tóm tắt điểm xấu xa của cách này, vị đó nói một câu thật chí lý là người mà "đất chẳng dung" (vị đó ví cung là đất đứng của sao) thì làm sao mà sài nổi.

2- Đào Hoa cư Tý

Ở vào cung Tý (thủy) thì Hoa được nuôi dưỡng nên tươi mát, lâu héo. Ngoài ra, giờ Tý là lúc nửa đêm, chẳng phải là giờ hợp lý cho các cuộc ăn chơi mà chỉ là giờ đang ngủ. Vì thế ai có trường hợp này thường có nhiều mối tình đẹp, lâu dài, nhưng hơi khó (nghĩa là cũng có thể thực hiện được, sau khi bị trắc trở một hai lần) đi tới hôn nhân, vì đêm khuya sao làm lễ thành hôn được, chỉ "lả lướt" với nhau là thuận lợi. Như vậy, tuy hay mà còn gì đau khổ cho bằng yêu nhau tha thiết mà không lấy được nhau, càng nhiều mối tình càng tan nát con tim thêm. Tuy nhiên ai có cách này thường chung tình. Đó cũng là một điểm tốt về khía cạnh thực tế.

3- Đào Hoa cư Mão

Nếu ở cung Mão (cũng là cung Chấn tượng trưng cho Sấm) thuộc Mộc, tức là sao và cung tương hòa, và giờ Mão là giờ sáng sớm hoa có sương ban mai đọng nên cũng tươi mát nhưng khi mặt trời mọc là khô dần và héo đi. Ngoài ra hoa nở lúc có sấm thì cứ bị rung hoài, dễ bi tan tác. Do đó ai có trường hợp này thường được những mối tình tuy đẹp nhưng ngắn ngủi (không dài bằng nơi cư Tý được) và lại hay bị người ngoài cuộc đố kị ganh ghét, phá đám. Như vậy kể ra cũng không hay lắm.

4- Đào Hoa cư Ngọ

Cung Ngọ thuộc Hỏa, nhất là vào giữa trưa, mà Mộc (Đào Hoa) lại sinh cung nên Hỏa càng vượng càng làm hoa màu héo. Vì vậy bất luận Nam hay Nữ ở vào trường hợp này thường hay được người khác phái mê say, chạy theo mình, chiều chuộng mình, nhưng mình lại không thích kéo dài cuộc tình lâu dài mà chỉ ưa vui chơi trong khoảnh khắc (ban trưa còn gì là thơ mộng nữa, vì quá oi bức!)

Như vậy trên thực tế những người có thái độ đó dễ bị liệt vào loại sở khanh, bạc tình, nhưng đối với đương sự thì lại thơi thới hãnh diện vì có nhiều người yêu, không đau khổ về tình, vì có quan trọng hóa tình ái đâu. Vậy cái "hay" của Đào-Hoa cư Ngọ có tính cách chủ quan, ích kỷ. Tuy nhiên, tôi nghiệm thấy những người có cách này tuy có thể nói là bạc tình khi còn độc thân, nhưng sau khi kết hôn vẫn là người lo toan cho gia đình, miễn là đừng có sao Tham Lang đồng cung (nếu có Riêu lại càng hay, đừng sợ cách "Đào Riêu", theo phú vì chính cụ Hoàng Hạc có khen Riêu ở cung Ngọ như sen mọc trong bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn).

Đến đây, tôi xin chấm dứt mục "Đào Hoa" và để các bạn phán đoán theo ý riêng của mình, vì về tình ái mỗi người có một quan niệm riêng (nhưng ĐÀO HOA cư Dậu nhất định là xấu rồi, các bạn dù có ngông cũng không nên ham cách này). Và tôi cũng xin nhắc lại một lần nữa là các điều giải đoán trên chỉ đúng tương đối, vì còn nhiều yếu tố khác chế hóa. Ngoài ra, vì những điều này chỉ là ý kiến riêng của cá nhân chứ không do sách xưa (hoặc có thể vị này đã đọc được ở sách nào chăng) nên tôi mong ước được quý bạn bốn phương nghiên cứu về Tử-vi cho biết những nhận xét của mình, nếu có để cho mục này thêm linh động, hoành tráng thêm.

KHHB số 27


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tạp ghi về khoa Tử Vi: Sao Đào Hoa

Sao Đế Vượng

Hành: Kim Loại: Phúc Tinh, Quý Tinh Đặc Tính: Thịnh vượng, gia tăng tài lộc, con cái Phụ Tinh. Sao thứ 5 trong 12 sao thuộc vòng s...
Sao Đế Vượng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: KimLoại: Phúc Tinh, Quý TinhĐặc Tính: Thịnh vượng, gia tăng tài lộc, con cái
Phụ Tinh. Sao thứ 5 trong 12 sao thuộc vòng sao Trường Sinh theo thứ tự: Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.

Ý Nghĩa Đế Vượng Ở Cung Mệnh
Tính Tình
Người uy nghi, đường bệ, tính tình quảng đại, từ thiện, bác ái, có tài lãnh đạo, có óc lãnh tụ.
Công Danh Tài Lộc Phúc Thọ

  • Gia tăng phúc thọ, chủ sự thịnh đạt, phong phú.
  • Giải trừ bệnh tật, tai họa.
  • Tăng tiến công danh, quyền thế, tiền bạc.
  • Lợi ích cho sự sinh nở, nhiều con, sinh mau.
Đế Vượng là sao tốt, làm tăng tiến công danh, tiền bạc, nhà cửa, quyền lực, sống lâu, tăng tuổi thọ. Sao Đế Vượng còn là một trong những Cát tinh toàn diện, đi đôi với sao nào tốt đẹp làm rực rỡ thêm đặc tính của sao đó.
Những Bộ Sao Tốt
  • Tử, Đế Vượng đồng cung: Có tài lãnh đạo, có óc lãnh tụ, có khả năng làm lãnh tụ, thủ lĩnh.
  • Tử, Đế Vượng, Tràng Sinh: Người có tinh thần hết sức quảng đại, quang minh, quân tử, thuộc chính phái.
Ý Nghĩa Đế Vượng Ở Cung Phụ Mẫu
  • Cha mẹ khá giả, giàu có.
Ý Nghĩa Đế Vượng Ở Cung Phúc Đức
  • Được hưởng phúc, sống lâu, có danh vọng.
Ý Nghĩa Đế Vượng Ở Cung Điền Trạch
  • Gia tăng số lượng nhà cửa, phát tài, có của cải.
Ý Nghĩa Đế Vượng Ở Cung Quan Lộc
  • Lợi ích cho việc tăng tiến công danh, quyền thế.
  • Đế Vượng, Hóa Quyền, là số có quyền chức lớn.
  • Đế Vượng, Hóa Khoa, là số lập nên sự nghiệp văn chương lớn, sản xuất nhiều tác phẩm văn học có giá trị.
  • Đế Vượng, Thiên Khôi, Thiên Việt, Văn Xương, Văn Khúc, Quốc Ấn, Thái Âm, Thái Dương sáng đẹp thì nhất định là bậc thiên tài về văn học ở hệ cấp quốc tế.
Ý Nghĩa Đế Vượng Ở Cung Thiên Di
  • Ra ngoài có oai phong, gặp quý nhân, ít tai nạn.
Ý Nghĩa Đế Vượng Ở Cung Tật Ách
  • Giải trừ được tai nạn, bệnh tật.
  • Nhưng nếu gặp sao xấu như Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp, TUẦN, TRIỆT, Linh Tinh, Hỏa Tinh, thì hay đau bệnh, đau lưng, về già có nguy cơ nằm tại chỗ.
Ý Nghĩa Đế Vượng Ở Cung Tài Bạch
  • Đế Vượng, Hóa Lộc: Phát tài, có của, điền sản dồi dào.
  • Đế Vượng, Tả Hữu, Âm, Dương, Thìn, Tuất: Triệu phú.
Ý Nghĩa Đế Vượng Ở Cung Tử Tức
  • Đế Vượng, Tràng Sinh: Đông con, có hào con.
  • Nếu thêm cát tinh: Con đông, hiển đạt.
Ý Nghĩa Đế Vượng Ở Cung Phu Thê
  • Vợ chồng hòa thuận, có tài.
Ý Nghĩa Đế Vượng Ở Cung Huynh Đệ
  • Anh chị em đông người, thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau.
  • Đế Vượng, Trường Sinh, anh chị em đông mà sung túc.
  • Đế Vượng, Thai đắc địa, có đông anh chị em, hãm địa thì chỉ có một người.
  • Đế Vượng gặp các sao Thai, Thiên Tướng, sao Tuyệt, Phục Binh, là số có anh chị em dị bào, hoặc anh chị em nuôi, đỡ đầu, có người đạt được công danh, quan chức, danh vọng, khá giả.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Đế Vượng

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Tướng đàn ông miệng nhỏ –

Theo nhân tướng học thì hình dáng miệng cũng là 1 phần quan trọng phản ánh sự nghiệp của chủ nhân. Người có miệng nhỏ thường khá yếu đuối, nhút nhát, lệ thuộc, đa cảm, đặc biệt là nữ giới. Cả nam lẫn nữ có miệng nhỏ, môi mỏng thường có khuynh hướng t
Tướng đàn ông miệng nhỏ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng đàn ông miệng nhỏ –

Chuyện Phật chỉ ra điều tốt và điều ác

Câu chuyện Phật giáo về điều tốt và điều ác dưới đây sẽ giúp bạn hiểu hơn về những mối quan hệ nên có trong đời.
Chuyện Phật chỉ ra điều tốt và điều ác

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cha ông ta có câu “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”, Phật cũng dạy cách trở thành người tốt là phải gần người tốt.


► Cùng đọc những câu nói hay về cuộc sống và suy ngẫm

Chuyen Phat chi ra dieu tot va dieu ac hinh anh
 
Phật và A - nan - đà đến tới phiên chợ nọ và đến trước một cửa hàng bán cá. Ðức Phật nói với A-nan-đà: 
  "A Nan, ngươi đi đến cửa hàng cá, chạm vào một con cá đi".    A - nan - đà làm theo lời Phật.   "A Nan, ngươi ngửi thấy mùi gì trên bàn tay?”. Phật hỏi.   "Thưa Đức Phật! Mùi hôi thối, rất khó chịu". A – nan - đà trả lời.   Đức Phật nói: "Này A Nan, nếu ngươi gần gũi với cái ác, điều  xấu, giao tiếp với bạn bè không tốt, thì ngươi sẽ trở thành một người xấu xa có tiếng".   Đức Phật lại đưa A – nan - đà đến một cửa hàng hương liệu và bảo: "A Nan, người đi chạm vào một gói hương liệu đi".   A - nan - đà làm theo lời Phật.   Đức Phật hỏi: "A Nam, ngươi hãy ngửi bàn tay của ngươi xem có mùi gì?".   "Đức Phật, bàn tay của con tỏa ra hương thơm tinh tế". A – nan - đà trả lời.   "A Nan, nếu những người gần gũi với ngươi đều là người tốt, thì ngươi ắt sẽ  thành người tốt. Ngươi nên tiếp xúc nhiều hơn với Xá Lợi Phật, Mục Kiền Liên". Phật nói.

Infographic: 9 giới hạn làm người
Khái niệm làm người có nhiều định nghĩa đơn giản mà chúng ta vô tình bỏ qua, thay vào đó là cứ mải mê kiếm tìm những định nghĩa quá cao siêu.
Câu chuyện Phật giáo về điều tốt và điều ác trên đây thực ra không khó để hiểu, bài học đơn giản nhưng sâu sắc và thiết thực với mỗi chúng ta. Chơi với người xấu thì thành người xấu, gần gũi người tốt thì học được đức tính tốt.   Cái ác có tác động lây lan từ người này sang người khác, điều tốt cũng vậy. Nếu tất cả đều chọn việc thiện để làm, chọn bạn tốt để chơi thì những người xung quanh sẽ dần dần học hỏi lẫn nhau, chỉ dẫn nhau làm điều tương tự.   Không chỉ là Phật dạy cách chọn bạn mà còn dạy cách làm người, biết phân biệt tốt xấu, biết bài trừ, xa lánh cái ác và gần gũi cái thiện. Hơn thế nữa, chính bản thân mỗi người phải trở thành tấm gương tốt, trở thành “gói hương liệu” trên đời, để giúp người xung quanh hướng thiện, giúp xã hội trở nên tốt đẹp hơn.

Ngô Yến (Theo Ebaifo)
Xem Clip Những ca khúc hay về Quan Thế Âm Bồ Tát

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chuyện Phật chỉ ra điều tốt và điều ác

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd