Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Hướng kê giường của nhà bạn đã chuẩn phong thủy chưa?

Giấc ngủ chiếm khá nhiều trong quỹ thời gian sống của một đời người. Hướng kê giường chuẩn phong thủy góp phần giúp gia chủ thêm khỏe mạnh.
Hướng kê giường của nhà bạn đã chuẩn phong thủy chưa?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Giấc ngủ chiếm 1/3 trong quỹ thời gian sống của một đời người. Việc kê giường chuẩn phong thủy góp phần giúp gia chủ thêm khỏe mạnh, may mắn về tài lộc, sự nghiệp. 

  Giường ngủ là nơi để nghỉ ngơi, cần đặt ở vị trí thích hợp với phương vị của người sử dụng. Có như vậy, chủ nhân mới thực sự thoải mái về tinh thần, ngủ ngon và sâu giấc, đảm bảo sức khỏe để phấn đấu cho sự nghiệp, tài lộc.    Có nhiều yếu tố để chọn ra vị trí kê giường phù hợp với từng bản mệnh. Dưới đây bạn có thể tham khảo về yếu tố hướng kê giường ngủ.
1. Đầu giường ở hướng Bắc   Hướng Bắc chính là hướng Huyền Vũ, đại diện cho sự yên tĩnh. Kê đầu giường ở phương vị này giúp chủ nhân dễ dàng ngủ sâu hơn, các phương diện khác trong cuộc sống cũng bình ổn hơn.
Huong ke giuong cua nha ban da chuan phong thuy chua hinh anh
 
2. Đầu giường ở hướng Đông Bắc   Trong phong thủy phòng ngủ, hướng Đông Bắc quy tụ nguồn năng lượng mạnh, có ảnh hưởng nhất định tới chất lượng giấc ngủ, nhất là những giấc mơ. Hướng kê giường này sẽ giúp bạn khi ngủ bạn dễ gặp ác mộng, hoặc cảm thấy áp lực, căng thẳng trong giấc mơ.   3. Đầu giường ở hướng Đông   Hướng Đông chính là Thanh Long, đại diện cho tài năng, năng lực nghề nghiệp, lý tưởng và khả năng biến lý tưởng trở thành hiện thực.    Nếu bạn muốn tìm kiếm sự phát triển và sức sống mới, đây chính là phương vị lý tưởng. Ngoài ra, hướng này còn biểu trưng cho kiến thức, sự bảo vệ và năng động, rất hợp với người trẻ tuổi.
Huong ke giuong cua nha ban da chuan phong thuy chua hinh anh 2
 
4. Đầu giường ở hướng Đông Nam   Phương vị này có thể kích hoạt sự phát triển và sức sống mạnh mẽ. Kê đầu giường ở hướng Đông Nam sẽ giúp khả năng sáng tạo của bạn được nâng cao.    Muốn nhanh có con, chú ý phòng ngủ Cải thiện tình cảm vợ chồng nhờ sử dụng phong thủy màn ngủ Bí quyết phong thủy phòng ngủ giữ gìn hạnh phúc gia đình
5. Đầu giường ở hướng Nam
  Hướng Nam là phương vị Chu Tước, đại diện cho sự may mắn, danh tiếng, niềm hy vọng. Nơi ngủ lại cần sự tĩnh lặng. Vì thế, nếu kê giường ở hướng này, dễ gây ra bất hòa giữa các thành viên trong gia đình.    6. Đầu giường ở hướng Tây Nam   Kê giường ở phương vị này có thể khiến chủ nhân nảy sinh tâm lý cẩn trọng, làm gì cũng lưỡng lự, thiếu quyết đoán.   
Huong ke giuong cua nha ban da chuan phong thuy chua hinh anh 3
 
7. Đầu giường ở hướng Tây   Bạch Hổ ở hướng Tây, đại diện cho sự cạnh tranh, năng lượng, cơn nóng giận, sự cố ngoài ý muốn, khả năng tiềm ẩn…   Nếu công việc, sự nghiệp của bạn chưa ổn định, nên tránh kê giườg ở hướng này, vì có thể ảnh hưởng tới nguồn thu nhập. Nhưng nếu công ăn việc làm ổn định, đây cũng được coi là giải pháp tốt.
8. Đầu giường ở hướng Tây Bắc   Phương vị này có mối quan hệ với năng lực lãnh đạo, quản lý. Kê giường ở hướng Tây Bắc có thể hỗ trợ ngủ ngon hơn, nhưng những giấc mơ càng dài và sâu hơn.    Hoàng Lam
Bật mí những bí mật phong thủy nhà vệ sinh cực quan trọng
Phong thủy nhà vệ sinh chớ nên coi thường vì dù chỉ chiếm diện tích nhỏ nhưng nó có ảnh hưởng khá lớn tới phong thủy nhà ở. Hãy chú trọng tới từng chi tiết để

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng kê giường của nhà bạn đã chuẩn phong thủy chưa?

Đặc tính của sao Hóa Lộc - Tài lộc và phúc đức

Người có sao Hóa Lộc thủ Mệnh rất tinh tế trong việc ẩm thực, biết nhiều món ăn lạ, biết các thứ rượu ngon, có thể biết cả việc nấu nướng, biến chế sành điệu.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặc tính của sao Hóa Lộc - Tài lộc và phúc đức

Đặc tính của sao Hóa Lộc - Tài lộc và phúc đức

Tìm hiểu về đặc tính của sao Hóa Lộc trong Tử Vi

Tên sao Âm dương - ngũ hành Hóa Chưởng quản Chủ Khảo bị
Hóa lộc Âm thổ Tài lộc Phúc đức Tài lộc, thọ, duyên phận Mở rộng là sức lưu thông, hiển lộ là tài

Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Hóa Lộc là âm thổ, hóa khí là tài lộc, chưởng quản phúc đức, chủ về tài lộc, lại còn chủ về duyên phận, Hóa Lộc còn có hàm nghĩa mở rộng sức lưu thông, hiển lộ làm tiền tài, có thể cụ thể hóa tài phú.

Các tài tinh chính như Vũ Khúc, Thái Âm, Lộc Tồn, Thiên Phủ cùng với các tài tinh thứ như Liêm Trinh, Thiên Tướng, Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Cô Thần mà không gặp Hóa Kỵ thì có lợi mà không có hại đối với tiền tài. Khi gặp Hóa Lộc thì tiền tài sẽ liên tục không dứt, hơn nữa còn dễ kiếm được tiền. Nhưng các tài tinh thứ mà gặp Hóa Kị (đồng cung hoặc ở đối cung tương xung), chủ về một đời tiền của lúc có lúc không, lên xuống thất thường, các mối quan hệ giao tế không tốt, phiền não vất vả. Cần phải xem trạng thái cát hung của các sao đồng cung và các cung vị tam phương tứ chính mới có thể đoán định được việc kiếm tiền có dễ dàng hay không. Tài tinh Hóa Lộc không gặp Hóa Kị, Địa Không, Địa Kiếp, lại nhập cung mệnh, thân, tài, quan, điền trạch thì nguồn tiền cực thịnh vượng. Tài tinh Hóa Lộc nhập các cung tử tức, phụ mẫu, tật ách, nô bộc, huynh đệ, chủ về hưởng thụ, hơn nữa còn có hiện tượng đào hoa.

Sao Hóa Lộc nhập miếu tại hai cung Dần, Thân đắc địa tại cung Tị, Hợi; không đắc địa tại bốn cung mộ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi; lạc hãm tại bốn cung Tị, Hợi, Mão, Dậu.

Sao Hóa Lộc sợ vào bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi; tuy hóa cát cũng không có tác dụng gì lớn, nhưng bốn cung mộ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi cũng là bốn cái kho, nên tiền tài có được sẽ giữ được. Hóa lộc vào bốn cung hãm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, cho dù cung mệnh đóng tại Thân, Tài, Quan, Điền, cũng không thể phát được. Sao Hóa Lộc rất sợ gặp sao Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kị xung phá, là biến thành điềm hung, nên đề phòng cảnh khó khăn không đủ chi.

Sao Hóa Lộc thủ tại các cung Mệnh, Thân, Quan Lộc, tại bốn cung Mã Dần, Thân, Tị, Hợi lại gặp lại gặp hai sao hóa là Hóa Khoa và Hóa Quyền (nếu ba sao hóa cùng ở cung mệnh thì sức mạnh mẽ sẽ kém hơn ở các cung tam vị hợp hội chiếu, nhưng vận thuở nhỏ khá thuận lợi), nếu không bị sát tinh xung phá, thì vận làm quan rất tốt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc tính của sao Hóa Lộc - Tài lộc và phúc đức

Bao nhiêu tuổi thì tính là kết hôn muộn?

Một bài viết tìm hiểu về việc kết hôn khi bao nhiêu tuổi là kết hôn muộn. Mời các bạn cùng đọc.
Bao nhiêu tuổi thì tính là kết hôn muộn?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thông thường người luận đoán mệnh thấy cung Phu Thê không tốt thì khuyên người ta nên kết hôn muộn, nhưng rốt cuộc thế nào mới tính là kết hôn muộn? Tại sao cần phải kết hôn muộn? Thực tế ra, một lá có liên quan đến việc thêm một tuổi thì tâm trí càng trưởng thành hơn, hai là đại vận này không nên thì đợi đến đại vận sau.

Ngoài ra, lấy cục số và hành hạn để nói, có 5 tình huống có thể luận kết hôn sớm hay muộn, phàm là kết hôn trước khi đại vận thứ 2 kết thúc là thuộc nhóm kết hôn sớm, sau khi đại vận thứ 3 kết thúc mà vẫn chưa kết hôn là thuộc nhóm kết hôn muộn.

Thủy nhị cục: Kết hôn lúc ở đại vận 12~21 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn sớm; kết hôn lúc ở đại vận 22-31 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn bình thường; kết hôn sau 31 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn muộn.

Mộc tam cục: Kết hôn lúc ở đại vận 13~22 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn sớm; kết hôn lúc ở đại vận 23-32 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn bình thường; kết hôn sau 32 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn muộn.

Kim tứ cục: Kết hôn lúc ở đại vận 14~23 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn sớm; kết hôn lúc ở đại vận 24-33 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn bình thường; kết hôn sau 33 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn muộn.

Thổ ngũ cục: Kết hôn lúc ở đại vận 15~24 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn sớm; kết hôn lúc ở đại vận 25-34 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn bình thường; kết hôn sau 34 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn muộn.

Hỏa lục cục: Kết hôn lúc ở đại vận 16~25 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn sớm; kết hôn lúc ở đại vận 26-35 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn bình thường; kết hôn sau 35 tuổi, là thuộc nhóm kết hôn muộn.

Kết hôn sớm do tổ hợp cung Phu Thê không tốt, nguyên nhân là vì có nhiều bại cục, do tuổi trẻ chưa có kinh nghiệm sống nên dễ có phán đoán và quyết định sai lầm. Bất luận cục số nào, đều cần phải cso tâm trí khá trưởng thành, hiểu biết trách nhiệm và nghĩa vụ trong hôn nhân, đồng thời phải biết cách kinh doanh hôn nhân như thế nào, rồi mang chúng vào đời sống hôn nhân một cách thích hợp, những điều kiện này thường đều ở trong khoảng thời gian của đại vận thứ 3. Nhưng cũng có trường hợp vốn thuộc cách cục kết hôn sớm, mà hôn nhân vẫn hạnh phúc mĩ mãn, cho nên còn phải xem thái độ điều chỉnh sao cho thích hợp với cuộc sống hôn nhân và phương pháp kinh doanh hôn nhân của song phương, mới là điểm quan trọng.

(Trích trong cuốn: Trung Châu Tử Vi - Tứ Hóa Phái của tác giả Nguyễn Anh Vũ biên soạn)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bao nhiêu tuổi thì tính là kết hôn muộn?

Xem tướng miệng biết họa phúc cuộc đời

Nhân tướng học cho rằng xem tướng miệng có thể biết được họa phúc cuộc đời. Miệng là cánh cửa của ngôn ngữ, họa hay phúc, giàu hay nghèo đều nằm ở đây
Xem tướng miệng biết họa phúc cuộc đời

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các nhà Nhân tướng học cho rằng tướng miệng của một con người có thể cho ta biết phúc họa cuộc đời họ. Miệng chính là cánh cửa của ngôn ngữ, là chìa khóa của những chuyện thị phi. Khi nói chuyện, tức là chúng ta đang mở cánh cửa ngôn ngữ ra, lúc đó thì những chuyện đúng sai không thể không tồn tại.

Miệng là cánh cửa của ngôn ngữ, là công cụ để ăn uống, là then chốt của vạn vật tạo hóa và cũng là cửa sổ của trái tim. Thưởng phạt là do miệng nói ra, đúng sai cũng lại là ở miệng. Chính trực đôn hậu, không nói năng bừa bãi gọi là khẩu đức. Kẻ lắm lòi, đặt điều phỉ báng người khác gọi là khẩu tặc

– Miệng vuông vắn, to rộng, có góc cạnh, báo hiệu là người trường thọ mà cao quý. Hình dáng miệng giông như chiếc cung là tướng cách của người phú quý. Miệng rộng, dày, báo hiệu là người giàu có, phúc đức. Miệng thẳng mà không lệch, dày mà không mỏng là tướng của người không sợ thiếu thốn về mặt cơm áo gạo tiền. Miệng vuông hình chữ “tứ”, báo hiệu là tướng người giàu có.

– Tướng miệng nhọn lại cong, lệch lại mỏng là tướng của kẻ hàn tiện. Miệng không nói mà tự mở, lại có hình dáng giông như miệng con ngựa là dấu hiệu của người nghèo khổ đói khát.Miệng nhọn như miệng chuột là tướng hay đố kỵ, gièm pha, phi báng người khác. Miệng chúm lại giông như tư thế đang thổi lửa là tướng của kẻ cô độc. Miệng giông như miệng chó thường là mệnh bần cùng, hạ tiện. Miệng có nếp nhăn dọc thì có số ăn không được no.

– Sắc môi tím đen là người khốn khổ, vất vả. Môi trên to, xem tướng là người hay nói xấu người khác. Môi dưới dài là tướng cách của người tiêu tài tốn của.

– Răng lộ ra ngoài là tướng của người không có trí tuệ, đoản thọ. Trên miệng có nốt ruồi đen, báo hiệu là người giàu có, cuộc sống đề huề. Môi có màu đỏ nhạt là tướng người không sợ thiếu ăn. Miệng nhọn giống chiếc móc câu, báo hiệu là người bần cùng. Miệng to có thê nhét vừa nắm tay là tướng cách của người làm quan tướng. Miệng mềm mại, đầy đặn là người giàu tài lộc.

– Môi là thành quách của miệng, lưỡi là lưỡi dao của miệng.Thành quách phải dày, dao phải sắc, dày tức là không có vết lõm, sắc tức là không dễ cùn, đây chính là tướng quý của môi và lưỡi. Lưỡi phải đỏ mà không được xuất hiện màu den, đỏ nhạt mà không được trắng. Lưỡi đỏ tươi như màu máu thì có số làm quan, được hưởng lộc. Lưỡi dài chấm tới mũi là tướng của bậc công hầu. Trên lưỡi có đường vân dài, cũng là báo hiệu của người được phong công hầu. Trên lưỡi có nhiều đường vân là tướng của người giàu có. Xem bói mà lưỡi lớn miệng nhỏ là người có số bần hàn lại đoản mệnh.

– Lưỡi nhỏ mà ngắn là kẻ bần hàn lại hạ tiện. Lưỡi có sắc tía, xám đen người có số bần hàn, hay gặp chuyện nguy nan. Lưỡi thè ra giống lưỡi rắn là tướng của kẻ độc ác, đoản thọ. Thế của lưỡi phải sâu dài, hình dáng phải vuông thẳng, sắc phải đỏ, phát âm phải vang dội, khẩu đức phải đoan chính, môi phải tròn và dày mới là tướng miệng đẹp.

Nhân tướng học nói rằng miệng là cánh cửa của cơ thể con người, trên thông với Nhân trung, dưới là huyệt Thừa tương, hai bên trái phải là 2 bộ vị Tỉnh táo và Tế trù. Miệng trong Ngũ nhạc gọi là Hằng sơn, trong ngũ phương gọi là phương Bắc, trong ngũ tạng thì ứng với tim, thông suốt Thủy Hỏa, còn được gọi là cửa xuất nạp, lại là nơi cư trú của sao Thủy, là cơ quan nhận thức ăn nuôi dưỡng toàn bộ cơ thể. là cơ quan nói chuyện giao tiếp và cũng là mấu chốt của chuyện thị phi. Biển lớn nhận nước đố ra từ trăm ngàn con sông khác nhau, còn miệng thì ăn hàng trăm loại thực phẩm đế nuôi dưỡng cơ thể con người.

1. Xem tướng miệng cao quý phải có những đặc điểm sau

Các góc cạnh của miệng rõ ràng, khi ngậm lại miệng phải nhỏ, khi mở miệng thì phải rộng, môi trên và môi dưới có đường nét góc cạnh rõ ràng, khẩu hình giống chiếc cung; tức là phải có hình dáng giống như đang ngậm nước, miệng vuông như hình chữ “tứ”, thêm sắc miệng đỏ giống như ngậm chu sa. Người nào có tướng miệng như vậy tất sẽ là quý nhân.

– Dù có đầy đủ những điều kiện nói trên nhưng môi lại mỏng thì cũng không phải là tướng quý. Người môi mỏng đại đa số là người thích ca hát, tụ tập chốn đông người.

– Xem tướng miệng nhọn, chúm lại như đang thổi lửa là tướng của kẻ nghèo khó. Miệng như miệng chuột, báo hiệu là người hay đố kỵ, gièm pha phỉ báng người khác. môi trên môi dưới tương xứng với nhau là người văn hay chữ tốt.

– Phụ nữ nếu như hai môi khép lại mà răng vẫn lộ ra ngoài, báo hiệu sinh nở khó khăn. Môi dưới to chờm môi trên là tướng hại chồng. Môi trên nhô ra chòm xuống môi dưới là tướng kẻ xảo trá. Phụ nữ mang thai nếu trên mặt có sắc xanh kéo dài từ khóe miệng trái vào miệng, báo hiệu sẽ sinh con trai; nêu có sắc đỏ từ khóe miệng phải vào miệng, báo hiệu sinh con gái. Xung quanh miệng có sắc đen, dự báo thai phụ và thai nhi khó bảo toàn tính mạng. Khóe miệng trễ xuống, nếu là phụ nữ thì là tướng hạ tiện lại bi đát, không làm thiếp thì cũng là mệnh tì nữ.

– Miệng như ngậm chu sa là tướng phú quý. Khi cười lộ răng, đa số là người không lịch sự. Miệng nhọn mà không có góc cạnh là tướng người vất vả. Môi thô, dày, sắc tía, nếu là nữ thì là tướng không chồng, nói chuyện không rành mạch, báo hiệu là kẻ thiếu tín nghĩa, khó có thể sông tương trợ, hòa thuận với hàng xóm.

2. Tướng miệng mà dày, hồng nhuận là quý

Miệng mang lại họa phúc cho con người, đồng thời cũng mang tới cả cái lợi và cái hại. Miệng là nguồn gốc của họa phúc mà họa phúc lại là điều căn bản của lợi hại. Do vậy, lợi hại hay họa phúc đều là do con người tự tạo nên, vì thế nói năng không được tùy tiện. Thuật Nhân tướng học viết: Khi những lời lẽ không hay mà đã được nói ra thì sẽ mang đến tai họa.

Người trung hậu ít nói, sẽ tránh được việc phải nghe những lời thô tục. Người có cát tướng là người không nói nhiều. Nếu như cẩn thận, ít nói thì sẽ tránh được nhiều chuyện không hay. Người ăn nói ngông cuồng, thích phỉ báng người khác sẽ gặp nhiều tai họa. Cái gọi là phỉ báng nhiều lời chính là có những lời nói xấu sau lưng người khác. Người này sẽ gặp nhiều chuyện tai ương gây hại tới chính bản thân mình.

– Đầu quân vào hàng tướng nếu là người có miệng rộng có thể nắm quyền hành. Họ có thể thu được quyền hành về tay mình.

– Môi phải dày dặn, nói năng phải đứng đắn, nghiêm túc, giọng nói phải thanh thoát rõ ràng, sắc môi phải sáng nhuận. Môi quý là môi dày dặn, nói chuyện hay là ở chỗ đứng đắn, nghiêm túc, giọng nói quý ở chỗ âm hưởng vang xa, sắc môi quý ở chỗ sáng nhuận.

– Ngưòi có môi trên và môi dưới có nhiều đường vân đan xen vào nhau, báo hiệu là con cháu đầy nhà. Người có viền môi rõ nét là tướng của người nhân ái tín nghĩa.

– Người có sắc môi đỏ tươi như máu trong nhà dư dả tiền bạc, người có miệng chúm lại như kén tằm đại đa số là người bần hàn. Môi đỏ tươi như màu máu, xem bói là người vô cùng giàu có.

– Người có miệng giống như ngậm đan báo hiệu là người giàu tài nghệ, người có miệng giống như đang thổi lửa là tướng của kẻ bần hàn. Trong sách tướng xưa có viết: Nếu môi như đang ngậm đan phần đa là thiên về nghệ thuật, miệng như đang thổi lửa tất sẽ là tướng cô đơn.

Khi ngậm 2 môi lại thì miệng phải nhỏ, mở ra thì miệng phải rộng. Miệng không được mím chặt lại.

3. Xem bói dáng miệng mà vuông thẳng là quý

– Khi ăn, nếu giống như kiểu ăn tham lam của loài chó, hoặc giống như loài ngựa gặm cỏ lúc đói hoặc ăn như chuột đều là tướng của kẻ hạ tiện.

– Miệng không cân xứng có nghĩa là 2 môi trên dưới không cân xứng vói nhau. Nếu 2 môi không khít nhau sẽ không hiển thị rõ khóe miệng. Người như vậy khi nói chuyện rất kiêu ngạo, tự cao tự đại, là hung đồ thiếu tín nghĩa.

– Người thiếu thông minh lại đoản mệnh thường môi trên chòm lên môi dưới. Nếu môi cong cũng là tưóng của người không có trí tuệ.

– Xem tướng miệng xuất hiện màu xanh đen sẽ có tai họa xảy ra, xuất hiện màu vàng trắng là điểm báo bệnh tật liên miên. Nếu tướng miệng xuất hiện màu xanh đen, báo hiệu sắp có tai họa ập tới. Nếu miệng xuất hiện sắc vàng trắng là điềm báo sắp bị bệnh nặng.

– Hai bên mép có nếp nhăn thô chủ là người hung ác, cuộc đời gặp nhiều tai hoa lao tù. Nếu bên ngoài đường Pháp lệnh có nếp nếp nhiều tai hoa lao tù. Nếu bên ngoài đường Pháp lệnh có nêp nêp nhăn nhỏ, bên ngoài nếp nhăn nhỏ này có nếp nhăn thẳng nữa, những nếp nhăn này cắt ngang đường Pháp lệnh, báo hiệu người đó có cuộc sống đói khổ, bần cùng.

(theo Tử vi số mệnh)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng miệng biết họa phúc cuộc đời

Sao Thiên Đức

Hành: Thổ Loại: Thiện tinh Đặc Tính: Phúc hậu, từ thiện, nhân đạo, có đức hạnh, giải trừ được bệnh tật, tai nạn nhỏ
Sao Thiên Đức

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: ThổLoại: Thiện tinhĐặc Tính: Phúc hậu, từ thiện, nhân đạo, có đức hạnh, giải trừ được bệnh tật, tai nạn nhỏ

Ý Nghĩa Thiên Đức Ở Cung Mệnh
Tính Tình

  • Ôn hòa, nhân hậu, đức hạnh, đẹp nết.
  • Từ bi, từ thiện hay giúp đỡ, làm phúc.
Phúc Thọ Tai Họa
Sao Thiên Đức có thể giải trừ được những bệnh tật nhỏ và tai họa nhỏ, mang lại một số may mắn, hỷ sự. Do đó, sao này giống như các sao Thiên Giải, Địa Giải, Giải Thần, Thiên Quan, Thiên Phúc, Thiếu Âm, Thiếu Dương, Quang Quý, Tả Hữu, Sinh, Vượng. Sự kết hợp càng nhiều giải tinh càng làm tăng hiệu lực cứu giải.
Ý Nghĩa Thiên Đức Ở Cung Phụ Mẫu
  • Cha mẹ nhân hậu, từ thiện, có nghề khéo.
Ý Nghĩa Thiên Đức Ở Cung Phúc Đức
  • Thiên Đức, Nguyệt Đức đồng cung thì họ hàng phúc hậu, mồ mã thuận vị.
Ý Nghĩa Thiên Đức Ở Cung Điền Trạch
  • Đi đâu cũng có người giúp đỡ về nhà cửa, nơi ăn chốn ở.
Ý Nghĩa Thiên Đức Ở Cung Quan Lộc
  • Công danh hay gặp may, có lương tâm nghề nghiệp.
Ý Nghĩa Thiên Đức Ở Cung Nô Bộc
  • Bè bạn, người làm, người giúp việc, nhân hậu.
Ý Nghĩa Thiên Đức Ở Cung Thiên Di
  • Ra ngoài khiêm tốn, hay gặp quý nhân.
Ý Nghĩa Thiên Đức Ở Cung Tật Ách
  • Giải trừ được tai nạn, bệnh tật nhỏ.
Ý Nghĩa Thiên Đức Ở Cung Tài Bạch
  • Kiếm tiền chính đáng, có lòng từ thiện.
  • Được giúp đỡ hoặc gặp may về tiền bạc.
Ý Nghĩa Thiên Đức Ở Cung Tử Tức
  • Con cái hòa thuận, hiếu thảo.
  • Thiên Đồng, Nguyệt Đức: Vợ chồng có con sớm.
Ý Nghĩa Thiên Đức Ở Cung Phu Thê
  • Người hôn phối có nhan sắc, đứng đắn.
  • Có Thiên Đức, Nguyệt Đức, Đào Hoa thì vợ chồng tốt đôi, tương đắc.
Ý Nghĩa Thiên Đức Ở Cung Huynh Đệ
  • Anh chị em hòa thuận.
Thiên Đức Khi Vào Các Hạn
  • Thiên Đức, Đào, Hồng: Gặp giai nhân giúp đỡ nên tình duyên (có phụ nữ làm mai mối được vợ chồng).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thiên Đức

Sự tích và phong tục Tết Đoan Ngọ

Tết Đoan Ngọ, hay còn gọi là tết Đoan Dương rơi vào ngày mồng 5 tháng năm âm lịch. Có rất nhiều phong tục trong ngày tết Đoan Ngọ như: giết sâu bọ; nhuộm móng chân, móng tay; tắm lá

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ca dao ta có câu:

Tháng tư đong đậu nấu chè.

An tết Đoan ngọ trở về tháng năm.

Chứng tỏ rằng Tết Đoan Ngọ là một tết cũng được chú ý của người Việt Nam ta xưa, tuy rằng tục lệ ăn tết này ta đã bắt chước Tàu, cũng như nhiều tiết lễ khác.

Vậy Tết Đoan Ngọ là tết gì ? Và ta ăn Tết Đoan Ngọ vào ngày nào tháng Năm ?

tết đoan ngọ

Đoan Ngọ là gì ?

Theo sách Phong Thổ ký thì Tết Đoan Ngọ còn gọi là Tết Đoan Dương.

Đoan nghĩa là mở đầu, Ngọ là giữa trưa, Đoan Ngọ là bắt đầu lúc giữa trưa; còn Dương là mặt trời, là khí dương Đoan Dương nghĩa là bắt đầu lúc khí dương đang thịnh.

Tết Đoan Ngọ ăn vào ngày mồng 5 tháng 5 âm lịch.

Sở dĩ Tết này được gọi là Tết Đoan Ngọ, chính tvì tháng năm là tháng bắt đầu nắng to, khi dương đang thịnh như mặt trời vào lúc giữa trưa.

Theo địa bàn thì phương Nam là chính Ngọ, mà Ngọ là ngôi dương, cho nên tết này là Tết Đoan Dương. Vả chăng tháng năm cũng lại là tháng Ngọ trong một năm.

Người Trung Hoa còn gọi Tết Đoan Ngọ là Tết Trùng Ngũ hay Đoan ngũ nữa.

Theo sách “Tuế thời lạp ký” thì Trùng Ngũ là hai số 5 gặp nhau, mồng 5 tháng Năm. Ngoài ra xưa kia ở kinh kỳ, người ta gọi ngày mồng 1 tháng năm là Đoan Nhất, ngày mồng 2 là Đoan Nhị, ngày mồng 3 là Đoan Tam, ngày mồng 4 là Đoan Tứ và ngày mồng 5 là Đoan Ngũ.

SỰ TÍCH TẾT ĐOAN NGỌ.

Thực ra ban đầu, ngày Đoan Ngọ chì là ngày người dân cúng lễ để đánh dấu một thời tiết mới, mừng sự trong sáng quang đãng. Hơn nữa giữa tiết hạ này oi bức, bệnh tật thương hay có, nên người ta cúng vái để cầu được bình yên, tránh đựợc mọi bệnh thời khí.

Nhưng về sau để cho ngày nay có một ý nghĩa, người ta liền lấy ngày đó làm ngày kỷ niệm Khuất Nguyên và các ông thầy thuốc cũng nhân dịp này kỷ niệm hai chàng Nguyễn Triệu và Lưu Thần vào núi Thiên Thai tìm thuốc.

SỰ TÍCH KHUẤT NGUYÊN.

Khuất Nguyên, họ Tam Lư làm chức Tả Đồ nước Sở dưới Triều vau Hoài Vương vào thời Thất Quốc bên Tầu ( 307 – 246 tr . Tây Lịch), có tài và liêm chính. Mỗi khi vào Triều bàn bạc quốc sự, ông đều bị vua Hoài Vương bài bác vì những nịnh thần xúi giục.

Về sau ông bị nhà vua truất bỏ. Để tự tả nỗi oán than ông viết bài thơ “ Ly Tao”.

Khi vua Sở Hoài Vương sang Tần, ông hết lời can ngăn nhưng Hoài Vương không nghe, rồi bị chết ở đất Tần. Vua Tương Vương kế nghiệp vua Hoài Vương không những không chịu nghe lời ông lại còn bắt ông đi đày.

Ông làm bài thơ “ Hoài Sa” rồi đá vào mình nhảy xuống sông Mịch La tự vận. Hôm đó là ngày mồng 5 tháng Năm.

Được tin đó là vua rất hối hận và thương tiếc sức dân làm cỗ ra tận bờ tận bờ sông cúng ông và ném cỗ xuống sông ông hưởng, nhưng cỗ bị cá tôm ăn hết. Ong báo mộng cho nhà vua hay, và xin với nhà vua nếu nghị tình thương ông thì khi ném cỗ xuống cho ông phải lấy lá bọc lại, buộc bằng chỉ ngũ sắc, cá tôm sẽ không ăn được.

Theo lời báo mộng của ông, vua ra lệnh cho nhân dân làm theo.

Từ đó vào ngày mồng 5 tháng Năm bên Tàu, dân chúng làm cỗ cúng linh đình trên các bờ sông rồi lấy lá bọc lại, buộc ngũ sắc ném xuống dòng nước để làm kỷniệm ông Khuất Nguyên.

Riêng tại sông Mịch La, người nước Sở mở hội rất vui, ngoài việc cúng lễ Khuất Nguyên còn tổ chức các cuộc đua thuyền, tượng trưng cho ý muốn vớt thây Khuất Nguyên.

SỰ TÍCH LƯU THẦN VÀ NGUYÊN TRIỆU.

Lưu Thần và Nguyễn Triệu là hai người đời nhà Hán, nhân ngày Tết Đoan Dương cùng rủ nhau vào núi hái thuốc, gặp hai nữ kết duyên. Sau thời gian nữa năm sống nơi tiên cảnh với vợ tiên, hai người nhớ nhà đòi về. Giữ lại không được, hai tiên nữ đưa tiễn chồng về. Trở về làng, Lưu, Nguyễn thấy phong cảnh đã khác xưa, nữa năm trên cõi tiên là mấy trăm năm ở dưới cõi trần. Hai chàng bèn đi tìm trở lại cõi tiên, nhưng không thấy nữa. Hai chàng rũ nhau vào trong rừng rồi không thấy trở về.

Nhiều nhà thơ đã ngâm vịnh rất nhiều về sự tích đầy thi vị của hai chàng, và riêng thi sĩ Tản Đà đã có một tập chèo “ Thiên Thai” kiệt tác.

Dưới đây là đọan hai nàng tiên tiễn biệt Lưu, Nguyễn về:

Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai.

Suối tiễn oanh đưa những ngậm ngùi!

Nữa năm tiên cảnh

Một bước trần ai.

Ước cũ duyên thừa có thế thôi!

Đá mòn rêu nhạt,

Nước chảy hoa trôi,

Cái hạt bay lên vút tận trời!

Trời đất từ đây xa cách mãi,

Cửa động,

Đầu non,

Đường lối cũ,

Nghìn năm thở thẩn bóng trăng chơi.

LỄ BÁI TRONG NGÀY ĐOAN NGỌ

Có tiết lễ, phải có cúng bái. Cũng như các tết khác, ta cũng ăn Tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ.

Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; tại các thôn xóm có cúng tại miếu. Ở nhà, các tư nhân sữa lễ cúng ông bà ông vải và cúng Thổ Công. Trong lễ tại miền Bắc về dịp này thế nào cũng có trái dưa hấu vì lúc này đang mùa. Cỗ cúng xong thì ăn, không ai mang đỗ xuống sông như tục bên Tầu, và ta cũng không cúng Khuất Nguyên tuy là ngày kỷ niệm Khuất Nguyên.

Riêng tại gia đình các đông y sĩ có sữa lễ cúng Thánh sư, ngoài lễ cúng tổ tiên và Thổ Công.

Hoa quả là những thứ không thể thiếu trong ngày Tết Đoan Ngọ

TỤC LỄ NGÀY ĐOAN NGỌ

Ngoài việc cúng lễ trong ngày Tết Đoan Ngọ, xưa và cả nay ở một vài địa phương, người Việt ta có nhiều tục lệ được mọi người cùng theo. Những tục lệ có khi ta bắt chước theo người Trung Hoa, có khi chính là tục lệ riêng của nước ta:

  • Tục giết sâu bọ,
  • Tục nhuộm móng chân móng tay,
  • Tục đeo bùa tui bùa túi,
  • Tục tắm nước lá mùi,
  • Tục khảo cây lấy quả,
  • Tục hái thuốc vào giờ Ngọ,
  • Tục treo ngãi cứu để trừ tà,
  • Tục đi siêu.

Tết mồng 5 tháng Năm, còn được ta gọi là Tết Giết sâu bọ, vì trong ngày hôm ấy ta có tục giết sâu bọ. Thoe quan niệm của ta xưa, trong người, nhất là trong bộ phận tiêu hóa, thường có sâu bọ. Sâu bọ này nếu không bị trừ đi sẽ sinh sản ngày càng nhiều và gây tại hại cho người, nhưng giết sâu bọ không phải là một chuyện dễ dàng và không phải là bất cứ lúc nào cũng giết chúng cũng được. Quanh năm chúng ẩn sâu trong bụng, duy chỉ có ngày mồng 5 tháng Năml là chúng ngoi lên. Nhân dịp chúng ngoi lên, người ta cần giết chúng.

Giết sâu bọ bằng gì.?

Chính bằng những thức ăn, nhất là bằng rượu nếp và hoa quả.

Sáng sớm ngày mồng 5 tháng Năm, ngay khi thức dậy, súc miệng xong là phải giết sâu bọ ngay. Ở miền Bắc, trong dịp này mỗi người ăn ít nhất một bát cơm rượu nếp, sau đ1o ăn một bát thạch, rồi đến ăn các trái cây như mận, muỗm, sấu, đào, roi ( mận) vv …

Đối với trẻ con, người ta bôi chúng một ít thần sa, chu sa vào hai bên thái dương và vào bụng. Có khi người ta hòa với nước cho chúng uống. Người ta cắt nghĩa sự giết sâu bọ nhu sau:

Sáng hôm mồng 5 tháng năm, bọn sâu bọ ở bụng dưới ngoi lên bụng trên. An rượu nếp vào cho chúng say, sau đó những trái cây làm cho chúng chết. Mỗi trái cây đều là một vị thuốc giết sâu bọ. Trong đông y, Thuốc Nam cũng như thyốc Bắc, các vị thuốc phần lớn đều lấy ở loài thảo mộc, các trái là kết tinh của loài thảo mộc xho nên có tính chất giết được sâu bọ.

Ngoài trái cây, người ta còn có cho trẻ con bôi hoặc uống thần sa, chu sa, vì người ta tin rằng, lúc sâu bọ bị trái cây giết có sự phản ứng gây sự bất an cho trẻ con nên dùng thần sa, chu sa để trấn an trước. Đó là tục lệ và ý kiến người xưa!

Ngày nay, hàng năm khi mồng 5 tháng Năm tới, ngoài việc cúng bái, vẫn còn người giết sâu bọ, vẫn ăn cơm rượu nếp ( cơm rượu) vào buổi sáng và vẫn dùng trái cây như xưa.

Ở Việt Nam, ít người biết chuyện Khuất Nguyên, mà chỉ coi mùng 5 tháng 5 là "Tết giết sâu bọ" - vì trong giai đoạn chuyển mùa, chuyển tiết, dịch bệnh dễ phát sinh. Người ta quan niệm, trong ngày này, các loài sâu bọ đều hoảng hốt, trốn chạy vì nhà ai cũng có bữa cỗ "giết sâu bọ" vào sáng sớm, với hoa quả đầu mùa. Đào mịn lông tơ, mận đủ mùi chua ngọt, chuối ta mập mạp, dưa hấu bổ dọc thành những chiếc thuyền rồng sơn son mịn cát lóng lánh như lân tinh, dứa còn nguyên cái mũ miện xanh rờn óng bạc, nhưng cái lòng nó vàng tươi khêu gợi. Và đương nhiên không thể thiếu món rượu nếp.

Thành lệ, cứ đến sáng sớm ngày mồng 5, người ta cho trẻ ăn hoa quả, rượu nếp, trứng luộc, kê, bánh đa, mận, muỗm, dưa hấu, uống nước dừa... bôi hồng hoàng vào thóp đầu, vào ngực, vào rốn để giết sâu bọ. Người lớn thì uống rượu hòa ít tam thần đơn hoặc bôi phẩm hồng vào thóp đầu, vào ngực, vào rốn để trừ trùng.

Trẻ em giết sâu bọ xong khi còn ngồi trên giường, rồi rửa mặt mũi, chân tay xong bắt đầu nhuộm móng tay móng chân, đeo chỉ ngũ sắc. Em gái đến độ tuổi xâu lỗ tai cũng chọn ngày này mà xâu.

Nhiều người mua bùa chỉ đeo cho trẻ con. Bùa kết bằng chỉ ngũ sắc, kết theo hình hoa sen, quả đào, quả ớt... Lại may áo lụa mang đến các cửa chùa, cửa tĩnh in dấu vẽ bùa rồi mặc cho trẻ, có ý trừ ma tà cho khỏi quấy.

Giữa trưa hôm ấy thì làm cỗ cúng gia tiên, rồi đi hái lá mồng năm. Tục hái thuốc mồng 5 cũng bắt đầu từ giờ Ngọ, đó là giờ có Dương khí tốt nhất trong cả năm, lá cây cỏ thu hái được trong giờ đó có tác dụng chữa bệnh tốt, nhất là các chứng ngoại cảm, các chứng âm hư. Người ta hái bất kỳ loại lá gì có sẵn trong vườn, trong vùng, miễn sao đủ trăm loại, nhiều ít không kể, nhất là lá ích mẫu, lá cối xay, lá vối, ngải cứu, sả, tử tô, kinh giới, lá tre, lá bưởi, cam, chanh, quýt, mít, muỗm, hành, tỏi, gừng, chè, ổi, trầu không, sài đất, sống đời, bồ công anh, sen, vông, lạc tiên, nhọ nồi... đem về ủ rồi phơi khô, để sau đem nấu uống cho rằng uống thế thì lành.

Lại có nhiều người đi lấy lá ngải cứu, năm nào thì kết hình con thú nǎm ấy như năm Tý thì kết con chuột, năm Sửu kết con trâu, năm Dần kết con hổ... treo ở giữa cửa, để trừ ma quỷ và về sau ai có bệnh đau bụng thì dùng làm thuốc sắc uống.

Xem thêm: Văn khấn tết Đoan ngọ mùng 5 tháng 5 âm


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự tích và phong tục Tết Đoan Ngọ

Làm thế nào để mở rộng và sử dụng hết không gian phong sách –

Dù phỏng sách hay khu làm việc, ở đâu cũng đều có những thứ đồ đạc không thể thu gọn hết được. Các loại giấy tờ tồn tích lại ngày càng nhiều, sọt đựng cũng đầy rồi mà trên bàn vẫn còn bừa bộn. Giá sách tuy đã đầy nhưng không gian nửa trên mỗi tầng vẫ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

n còn khoảng trống, cần được tận dụng hết. Bàn có ngăn kéo nhưng ngăn kéo không đủ dùng, đế những thứ thường dùng chỗ khác khi cần đến lại khó tìm ra, bàn không có ngăn kéo tuy thuận tiện hơn cho sử dụng nhưng với việc thu nạp đồ dùng lại sinh ra vấn đề. vấn đề thu nạp đồ trong phòng sách không chỉ chú ý những đồ dùng cùng loại mà còn phải suy nghĩ đến tính tiện dụng và mức độ sử dụng không gian. Để sử dụng hết không gian phòng sách, dưới đây có hai ý kiến tham khảo.

phong khong cua so 5

(1) Treo giỏ mây

Nếu như trong nhà đã có một tủ sách lớn, sau khi chúng ta đã để sách đầy rồi sẽ tiếp tục sử dụng chỗ còn trống giữa các tấm ngăn vào để sách. Đây tuy là một trong những cách sử dụng không gian, nhưng sẽ bất tiện khi lấy sách dùng. Phương pháp sứ dụng giỏ mây treo hoàn toàn có thể tránh được những phiền phức đó. Treo hai chiếc móc ở hai đầu bên trong giá sách, cố định tay cầm của giỏ lên trên, xếp sách vào trong giỏ, chúng sẽ tạo thành hình rất đẹp mắt.

(2) Sử dụng giá treo quần áo treo kẹp văn thư màu

Có một chiếc tủ chuyên dụng sẽ làm cho văn phòng gọn gàng hơn rất nhiều, nhưng nhiều tài liệu văn bản cần phải kẹp, xếp lại để thuận tiện khi tìm kiếm. Kẹp văn thư màu có thể mang lại thuận tiện và mỹ quan cho phòng sách của bạn, làm vui lòng người khi sử dụng nó. Kép tài liệu, văn bán vào kẹp rồi treo lên giá, dán lên mỗi kẹp tem phân loại tài liệu rồi treo chúng vào tủ, đây là một trong những mẹo nhỏ lợi dụng không gian trống trong tủ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Làm thế nào để mở rộng và sử dụng hết không gian phong sách –

Bát tự mang đào hoa - cả đời hấp dẫn người khác phái

Bát tự mang đào hoa là số của người được kẻ khác hâm mộ, nhân duyên tốt đẹp, hôn nhân như ý.
Bát tự mang đào hoa - cả đời hấp dẫn người khác phái

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bát tự mang đào hoa là số của người được kẻ khác hâm mộ, nhân duyên tốt đẹp, hôn nhân như ý. 


Bat tu mang dao hoa - ca doi hap dan nguoi khac phai hinh anh
 
Người có mệnh số đào hoa thì dung nhan xinh đẹp, anh tuấn, gặp gỡ nhiều lương duyên, tình cảm thuận lợi, hôn nhân tốt đẹp. Tuy nhiên, mặt tiêu cực của mệnh này, là có thể phát tác thành háo sắc, không chung thủy, đa tình lẳng lơ, đời sống tình ái phức tạp.
 
Mệnh số ấy được quyết định bởi bát tự mang đào hoa. Sinh ra có phải người ngậm hoa đào trong miệng hay không, xem ngày sinh, tháng sinh, năm sinh là biết ngay.
 
Nếu năm sinh hoặc ngày sinh ở Dần – Ngọ - Tuất mà Mão tọa mệnh thì là số đào hoa.
 
Nếu năm sinh hoặc ngày sinh ở Thân – Tý – Thìn mà Dậu tọa mệnh thì là số đào hoa.
 
Nếu năm sinh hoặc ngày sinh ở Hợi – Mão mà Tý tọa mệnh thì là số đào hoa.
 
Nấy năm sinh hoặc ngày sinh ở Tỵ - Dậu mà Ngọ tọa mệnh thì là số đào hoa.
 
Người có số đào hoa, thông thường, dễ dàng hấp dẫn người khác phái, có thể khiến đối phương cảm thấy hứng thú với mình dù chỉ gặp gỡ đôi lần. Nhưng cần chú ý, bởi hoa tâm nhiều dễ sinh ra dục vọng, đời sống tình cảm gặp nhiều rắc rối, phải chú ý giữ mình, không nên quá sa đà. 
 
Người mà dung mạo bình thường nhưng số đào hoa thì có nét duyên ngầm. Chú ý thói phong lưu, sử dụng sức hấp dẫn để lừa dối người khác phái, không thật thà trong tình cảm. 
 
Bên cạnh vấn đề tình cảm, người có bát tự mang đào hoa còn là người có năng khiếu nghệ thuật, đa tài đa nghệ. Nếu biết tận dụng thì đào hoa không chỉ mang đến cho chủ nhân mối lương duyên tốt đẹp, hôn nhân hạnh phúc mà còn phú cho tài năng phát triển thành sự nghiệp, có thành tựu.
Trần Hồng (d1xz)
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bát tự mang đào hoa - cả đời hấp dẫn người khác phái

Tính cách, vận mệnh người tuổi Sửu mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ

Cùng chung một con giáp, nhưng vận mệnh người tuổi Sửu mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ khác nhau như thế nào? Tính cách họ có gì khác biệt?
Tính cách, vận mệnh người tuổi Sửu mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đứng thứ hai trong hàng 12 con giáp, tuổi Sửu được biết đến bởi đức tính chăm chỉ, cần cù, không ngại khó ngại khổ, luôn vượt mọi gian nan để tiến tới thành công. Cùng chung một con giáp nhưng người tuổi Sửu mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ có tính cách và vận mệnh khá khác nhau. Hãy cùng khám phá nhé.  
Tính cách, vận mệnh người tuổi Tý mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ


Mỗi người đều có vận mệnh riêng, chẳng ai giống ai. Những con giáp khác nhau sẽ có vận mệnh khác nhau. Đặc biệt, khi xét riêng về từng mệnh ngũ hành thì sự khác biệt này càng trở nên rõ ràng hơn.

 

Bạn đã biết về tính cách hay vận mệnh người tuổi Sửu theo ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ hay chưa? Nếu chưa, hãy cùng Lịch ngày tốt khám phá bí mật này nhé.

 

Ngũ hành của người tuổi Sửu theo năm sinh được chia ra như sau:

 

Người sinh năm Ất Sửu ngũ hành thuộc Kim (1925, 1985)

Người sinh năm Đinh Sửu ngũ hành thuộc Thủy (1937, 1997)

Người sinh năm Kỷ Sửu ngũ hành thuộc Hỏa (1949, 2009)

Người sinh năm Tân Sửu ngũ hành thuộc Thổ (1961, 2021)

Người sinh năm Quý Sửu ngũ hành thuộc Mộc (1913, 1973)

Bạn cũng có thể tham khảo thêm Bảng tra mệnh theo năm sinh cho tất cả các tuổi trên ## nhé.
 
Để xem nội dung được nhanh hơn, bạn có thể click vào Mục lục dưới đây.

          Mục lục

  1. Tuổi Sửu mệnh Mộc
  2. Tuổi Sửu mệnh Thủy
  3. Tuổi Sửu mệnh Kim
  4. Tuổi Sửu mệnh Thổ
  5. Tuổi Sửu mệnh Hỏa

 
 

Tinh cach, van menh nguoi tuoi Suu menh Kim, Moc, Thuy, Hoa, Tho hinh anh
 

 

1. Tuổi Sửu mệnh Mộc

 

Theo tử vi trọn đời 12 con giáp, những người thuộc nhóm này tính tình lanh lợi, hoạt bát. Họ có chính kiến riêng, cũng có dũng khí đứng ra bảo vệ quan điểm của mình. Họ không bao giờ khoanh tay đứng nhìn kẻ yếu bị hiếp đáp, cũng vô tư giúp đỡ bạn bè chẳng cần tới báo đáp.

 

Tuy nhiên, tính cách người tuổi Sửu nhóm này lại có phần hơi cứng nhắc, thẳng thắn quá nên rất dễ đắc tội với người. Đây cũng có thể coi là nhược điểm lớn nhất của người tuổi Sửu mệnh Mộc. Họ quan niệm “Cây ngay không sợ chết đứng” và sống đúng với bản chất của mình, làm những gì mình cho là đúng.

 

Người này nên tránh tranh cãi, mâu thuẫn với người yêu chỉ vì những chuyện nhỏ nhặt hàng ngày, bởi điều đó sẽ nhanh chóng làm cho tình cảm hai người trở nên phai nhạt. Với người đã kết hôn, không nên mắng mỏ, cãi cọ với con cái của mình, hãy trân trọng hạnh phúc mà mình đang có, bảo vệ tổ ấm gia đình, cùng các thành viên trong gia đình gia tăng tình cảm hơn nữa.

 

Người tuổi Sửu mệnh Mộc tuyệt đối không nên vì chuyện tiền bạc mà nảy sinh tranh chấp với người khác. Nên chú ý ghi nhớ những điều sau:
 

  1. Chớ mắc thói cờ bạc đỏ đen
  2. Chớ dễ dàng cho người khác vay tiền
  3. Mua sắm nên chọn đồ thực dụng

 

Vận mệnh người tuổi Sửu mệnh Mộc khá tốt, được quý nhân đi theo phù trợ. Mỗi khi gặp chuyện khó khăn hay đến giờ phút quan trọng, họ thường may mắn được người giúp đỡ, hỗ trợ và ủng hộ nhiệt tình. Đây là điều đáng quý mà không phải ai cũng có được. Tuy nhiên, không nên quá ỷ lại mà phải luôn nỗ lực hết sức mình thì mới có thể đạt được thành công đáng quý.

 
 

Tinh cach, van menh nguoi tuoi Suu menh Kim, Moc, Thuy, Hoa, Tho hinh anh
 

 

2. Tuổi Sửu mệnh Thủy

 

Những người sinh năm Sửu ngũ hành thuộc Thủy có đặc trưng là rất nỗ lực làm việc, cũng chẳng nề hà gian khó mà luôn hướng tới mục tiêu đã định. Họ đặc biệt không thích ồn ào, không thích gây chuyện thị phi. Gặp người yếu đuối, họ sẵn sàng giúp đỡ hết mình chứ tuyệt nhiên không có ý định hiếp đáp.

 

Người này có tinh thần hiệp nghĩa hiếm có, luôn đứng về phía lẽ phải. Họ không run sợ trước cường quyền, không khoanh tay bó gối đứng nhìn kẻ xấu, chẳng nhắm mắt làm ngơ khi thấy người nguy nan.

 

Người tuổi Sửu mệnh Thủy có tố chất lãnh đạo, cũng có chủ kiến riêng. Họ không dễ gì khâm phục người khác, nhưng nếu gặp người khiến họ tâm phục khẩu phục thì sẽ chẳng ngại ngần mà tán thưởng.

 

Người này nếu muốn hợp tác làm ăn thì tốt nhất nên chọn những người sinh năm Tý hoặc năm Tị. Hai con giáp này cũng là đối tượng thích hợp để nên duyên vợ chồng với người tuổi Sửu mệnh Thủy. Làm được như vậy thì hôn nhân hạnh phúc mà sự nghiệp cũng sẽ gặt hái được những thành công rực rỡ.

 
Mời bạn đọc thêm Tuổi Sửu hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân để tìm được cho mình một nửa như ý nhé.
 

Về mặt tình cảm, người tuổi Sửu mệnh Thủy khá đào hoa. Họ sớm tìm được người lý tưởng và nhanh chóng đi đến hôn nhân. Có điều, người này không nên gây mâu thuẫn với bạn bè hay gây chuyện thị phi. Làm vậy sẽ khiến kẻ tiểu nhân lợi dụng thời cơ hãm hại, đem tới không ít phiền phức.

 

Những người này nên trân trọng mối quan hệ bạn bè, bởi họ thường nhờ sự giúp đỡ của bạn bè mà có được cơ hội phát tài. Người thì giới thiệu thêm công việc, người thì góp vốn hợp tác kinh doanh. Nên chăm chỉ làm ăn, dựa vào chính sức mình, đừng trông chờ vào chuyện tiền bạc từ trên trời rơi xuống, vì trong vận mệnh người tuổi Sửu mệnh Thủy hiếm khi gặp được những chuyện như vậy.

 
 

Tinh cach, van menh nguoi tuoi Suu menh Kim, Moc, Thuy, Hoa, Tho hinh anh
 

 

3. Tuổi Sửu mệnh Kim

 

Người tuổi Sửu mệnh Kim tính cách sôi nổi nhiệt tình, cuộc sống của họ cũng luôn bận rộn với rất nhiều màu sắc. Họ có nhân duyên vô cùng tốt, được rất nhiều người quý mến và giúp đỡ tận tình.

 

Thời trẻ, họ may mắn được sống cảnh sung túc. Tuổi trung niên, mọi thứ đều ổn định, từ sự nghiệp tới gia đình đều không có gì phải lo lắng nhiều. Người này có tuổi già an nhàn hưởng phúc lộc trời ban.

 
Bạn đã biết Giờ sinh hưởng trọn phúc khí của 12 con giáp chưa?
 

Trong vận mệnh người tuổi Sửu mệnh Kim, có thể một đôi lần gặp phải tai nạn bất ngờ ngoài ý muốn song thương tật đều không quá nghiêm trọng. Khi tiếp xúc với người khác giới, nên đặc biệt cẩn trọng. Nam giới nên tránh kết thân với phụ nữ đã có gia đình, nữ giới cũng không nên bầu bạn với đàn ông có vợ để không vướng phải nguy cơ trở thành người thứ ba.

 

Nếu đã kết hôn, nên xử lý tốt các vấn đề tình cảm, tránh dây dưa không rõ ràng. Vợ chồng nên tôn trọng mà nhường nhịn lẫn nhau, nếu không hôn nhân rất dễ xảy ra rạn nứt.

 

Người tuổi Sửu mệnh Kim thường không giữ được tiền. Họ không có kế hoạch tài chính cụ thể, vì thế dù có kiếm được tiền nhưng lại chẳng tiết kiệm được bao nhiêu. Khi có tiền trong tay, nên mua những thứ thực dụng, có giá trị để giữ được tiền.

 
 

Tinh cach, van menh nguoi tuoi Suu menh Kim, Moc, Thuy, Hoa, Tho hinh anh
 

 

4. Tuổi Sửu mệnh Thổ

 

Người này trời sinh thông minh, cũng rất giỏi tính toán, lên kết hoạch. Hành sự quyết đoán, dứt khoát, dám nghĩ dám làm. Họ không bao giờ làm những chuyện khiến mình chịu thiệt thòi.

 

Người tuổi Sửu mệnh Thổ có lòng dũng cảm, đôi khi ưa mạo hiểm, lòng tự tin cũng vô cùng lớn. Vì mục tiêu đã chọn, họ sẽ không màng tới bất cứ điều gì mà quyết tâm giành lấy bằng được. Người này cũng rất ưa sĩ diện, thích thể hiện. Đứng giữa đám đông, họ sẽ cố gắng để trở nên nổi bật và nắm quyền lãnh đạo.

 

Bản chất họ là người trung thực, hợp tác làm ăn với người không bao giờ nghĩ đến chuyện lọc lừa, cũng không giành lấy phần lợi về mình. Đây là đối tác kinh doanh tốt mà mọi người nên hợp tác kinh doanh làm việc cùng. Bạn cũng có thể xem thêm Tuổi Sửu nên hợp tác làm ăn với tuổi nào để tìm cho mình bạn làm ăn tốt.

 

Vận mệnh người  tuổi Sửu mệnh Thổ đã định rằng phần lớn đều tới tuổi trung niên mới có thể nghỉ ngơi hưởng phúc. Thời trẻ họ phải bôn ba khắp chốn, bận rộn mà khổ cực.

 

Người này luôn hướng về tình yêu. Dù đã yêu bao nhiêu lần thì họ vẫn giữ cho mình trái tim thuần khiết, luôn hào hứng với tình cảm . Bản thân người này cũng rất hấp dẫn với người khác giới. Có điều, phải luôn ghi nhớ rằng đừng quá si mê mù quáng khi yêu, nếu không sẽ phải chịu nhiều chuyện buồn phiền.

 

Vận tài lộc của người tuổi Sửu mệnh Thổ khá tốt, thuận lợi trên con đường kiếm tiền. Song họ thường có khá nhiều khoản phải chi tiêu nên dù vất vả kiếm tiền nhưng cũng chỉ đủ để bù đắp cho những khoản chi tiêu kia. Nên lên kế hoạch tài chính rõ ràng để giảm thiểu những mối chi tiêu không cần thiết.

 
 

Tinh cach, van menh nguoi tuoi Suu menh Kim, Moc, Thuy, Hoa, Tho hinh anh
 

 

5. Tuổi Sửu mệnh Hỏa

 

Người tuổi Sửu mệnh Hỏa có phần khá ích kỉ, tầm nhìn không được xa, tính tình không quá phóng khoáng. Họ luôn đặt lợi ích lên hàng đầu mà ít quan tâm đến chuyện lễ nghĩa, cũng khó kết giao bạn hữu thân thiết với người khác.

 

Xem bói tử vi, người này thời trẻ phải chịu khá nhiều vất vả, tốt nhất nên học lấy cho mình một nghề, đặc biệt là nghề thiên về nghệ thuật, sáng tạo thì càng có lợi. Cũng có thể làm các việc liên quan đến thiết kế, có khả năng giành được những thành công đáng mừng.

 

Người tuổi Sửu mệnh Hỏa thông minh lanh lợi, song lại dễ dao động, bị ảnh hưởng, lôi kéo bởi các yếu tố bên ngoài. Chính vì thế họ không được kiên định, tư tưởng sớm bị lung lay, không có chính kiến riêng.

 

Điều này cũng được thể hiện trên phương diện tình cảm. Họ kém quyết đoán và có mối quan hệ không ổn định bền vững, dễ lâm vào bước ly hôn. Chỉ có người tuổi Tý mệnh Thủy mới có thể khắc chế điều này và giữ được mối quan hệ lâu dài với họ.

 

Những người thuộc nhóm này thường có yêu cầu khá cao đối với nửa kia của mình. Họ thuộc mẫu người yêu đương nồng cháy, rơi vào lưới tình nhanh chóng mà cũng nguội lạnh trong chớp mắt. Nên kết giao với người có tính cách vui vẻ lạc quan để có mối quan hệ yêu đương được lâu dài.

 

Đây là người rất biết cách tiết kiệm, giỏi tính toán chi tiêu. Đường tài lộc của trong vận mệnh người tuổi Sửu mệnh Hỏa bình ổn, thu chi đạt mức cân bằng. Ngoài thu nhập ổn định từ công việc chính, họ cũng có thể thu được những nguồn lợi vượt khỏi dự kiến.

 
Hy Vũ

Tính cách người tuổi Sửu nhóm máu O: Thông minh phóng khoáng, chính trực thiện lương Xem tình duyên năm 2017 của người tuổi Sửu
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính cách, vận mệnh người tuổi Sửu mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ

Tụng kinh Vu Lan - trọn phận làm con, trọn đạo làm người

Tháng 7 âm lịch có ngày lễ Vu Lan, trong ngày này, tụng lên bài kinh Vu Lan, tưởng nhớ công đức cha mẹ và tự nhắc nhở bản thân về đạo làm con.
Tụng kinh Vu Lan - trọn phận làm con, trọn đạo làm người

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tháng 7 âm lịch không chỉ có ngày xá tội vong nhân, có ngày mở quỷ môn cho những linh hồn đã khuất được một lần trở về dương gian mà còn có lễ Vu Lan báo hiếu, lễ của những người con hướng về đấng sinh thành. Trong ngày này, tụng lên bài kinh Vu Lan, tưởng nhớ công đức cha mẹ và tự nhắc nhở bản thân về đạo làm con.

Tung kinh Vu Lan - tron phan lam con, tron dao lam nguoi
 

1. Sự tích Vu Lan báo hiếu

  Ngày Vu Lan báo hiếu 15/7 âm lịch hàng năm là ngày con cái hướng về cha mẹ. Ngày mà những ai còn có mẹ vui sướng cài lên ngực áo bồng hồng đỏ thắm còn những ai mẹ đã qua đời sẽ gắn lên áo mình bông hồng trắng thanh thuần. Đây là ngày lễ có ý nghĩa nhân văn, nhân đạo của Phật giáo, không chỉ là nghi thức tâm linh mà còn là nghi thức tinh thần.   Sự tích Vu Lan báo hiếu được ghi lại trong kinh Vu Lan. Theo đó Mục Kiền Liên là đại đệ tử của Đức Phật, trải qua quá trình tu tập mà được lên cõi Niết Bàn. Nhớ tới người mẹ sinh thành dưỡng dục mình, ông dùng phép thần thông soi tỏ sáu cõi để tìm mẹ thì thấy bà vì tích nhiều ác nghiệp nên đang ở cõi ngạ quỷ, phải chịu muôn vàn khổ cực, đói kém.   Trong lòng thương cảm, Mục Kiền Liên mang cơm tới cho mẹ ăn nhưng cơm vừa đưa vào miệng thì biến thành lửa nóng, không sao ăn được. Ông đành quay trở về cầu xin Đức Phật chỉ cách cứu mẹ. Đức Phật nói rằng chỉ có cách hợp lực chư tăng 10 phương mới có thể cứu mẹ của Mục Kiền Liên cùng những người khác được siêu độ, thoát chốn ngạ quỷ.   Vì thế vào ngày Rằm tháng 7 âm lịch, Mục Kiền Liên bày lễ cúng các vị Hiền Thánh tăng, thỉnh các vị chúng tăng tới cùng chú nguyện cho mẹ và những người khổ hạnh khác. Từ đó mẹ của ông mới được siêu thoát, không còn chịu khổ cực nữa.   Xuất phát từ tích này mà ngày rằm tháng 7 âm lịch trở thành ngày Vu Lan báo hiếu, con cái bày lễ cúng, tụng kinh Vu Lan báo hiếu cầu siêu độ cho cha mẹ 7 đời trước của mình và cầu phúc cho cha mẹ trong hiện tại. 
Xem thêm bài viết Lễ Vu Lan: Con cái báo hiếu cha mẹ thế nào cho đúng?
 

2. Ý nghĩa của kinh Vu Lan


kinh vu lan bao hieu
 
Bài kinh thuộc Đại thừa, trong đó ghi lại sự tích ngày lễ Vu Lan và lời khuyên của Đức Phật với con cái. Con cái dù giàu có hay nghèo khổ đều có thể thể hiện lòng hiếu thảo của mình với cha mẹ trong kiếp này và cha mẹ của 7 đời trước bẳng cách bày lễ cúng vào Rằm tháng 7 âm lịch.    Tụng bài kinh Vu Lan để thành tâm tưởng nhớ công đức cha mẹ và cầu nguyện cho cha mẹ được siêu độ. Nếu chúng ta cúng dường đầy đủ để tập hợp đủ sức mạnh chú nguyện thì người còn sống hưởng phúc , tăng tuổi thọ còn cha mẹ quá cố thì được tăng thiện nghiệp, đang ở cõi súc sinh, ngạ quỷ thì sẽ siêu thoát, tái sinh vào những kiếp thuận cảnh. 
 
Bài kinh hàm chứa những ý nghĩa cao diệu, nhân văn và đại từ bi theo đúng tinh thần Phật giáo. Tuy nội dung không hề đề cập tới tha lực nhưng chính bản thân nội dung đã toát lên ý nghĩa tự giác giác tha, tự lực giải thoát. Đó chính là con cái tích phúc hộ cha mẹ, là cảnh giới cao nhất của lòng hiếu thuận và sự giải thoát.   Con người sống trên đời đều có nghiệp, nghiệp ấy do mình tự tạo ra và cũng do mình tự gánh lấy. Cha mẹ tạo nghiệp, cha mẹ gánh nhưng phận làm con cái không phân biệt cha mẹ tốt hay cha mẹ xấu, đều một lòng muốn cho đấng sinh thành được hưởng những điều tốt đẹp nhất. 
Xem thêm bài viết Nên làm gì trong ngày Vu Lan báo hiếu?
 
Bài kinh Vu Lan báo hiếu gửi gắm tâm tư, nguyện vọng được gánh đỡ nghiệp của cha mẹ, nguyện vì cha mẹ mà cầu khẩn sự hợp lực của chúng tăng, độ nguyện cho siêu thoát. Không chỉ cha mẹ trong kiếp này mà còn là cha mẹ trong 7 kiếp trước, bất cứ ai cũng có thể có duyên từng là cha mẹ ta.   Ngày lễ thể hiện sự hiếu đạo cùng tình thương vô điều kiện giữa chúng sinh. Khi bản thân có định lực, có lòng từ bi và tuệ lực lớn lao, có tâm muốn hoàn thành đạo hiếu và muốn phát thiện tâm tới tất thảy chúng sinh thì có thể khơi dậy khả năng tự giác ngộ của người mà ta muốn cứu giúp, từ đó cởi bỏ ác nghiệp.   Thế nên, mỗi năm hãy tụng lên bài kinh báo hiếu ít nhất một lần vào ngày lễ Vu Lan, để tấm lòng hướng mẹ hướng cha, trọn phận làm con, trọn đạo làm người. 
Câu chuyện cảm động phía sau ngày lễ Vu Lan Nên làm gì trong ngày Vu Lan báo hiếu? Rằm Tháng 7 kể chuyện Lễ Vu Lan của Phật giáo
Tâm Lan

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tụng kinh Vu Lan - trọn phận làm con, trọn đạo làm người

Những câu nói vui vẻ hài hước nhất về cuộc sống

Những câu nói vui vẻ hài hước nhất về cuộc sống. Trong cuộc sống khi giao tiếp, bạn hãy tạo cho người khác những tiếng cười vui nhộn sảng khoái
Những câu nói vui vẻ hài hước nhất về cuộc sống

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những câu nói vui vẻ hài hước nhất về cuộc sống. Trong cuộc sống khi giao tiếp các bạn tạo cho người khác những tiếng cười vui nhộn sảng khoái sẽ là một yếu tố khá quan trọng để tạo mối quan hệ với mọi người trong xã hội.

Xemboituong.com xin gửi đến các bạn những câu slogan vui vẻ thông dụng hiện nay trong giới trẻ. Hi vọng sẽ đem lại tiếng cười cho các bạn.

Những câu nói vui vẻ hài hước nhất về cuộc sống

1.Thật dễ dàng để quen với một người xa lạ
Nhưng lại khó khăn biết mấy để xa lạ với một người đã từng thân quen.

——-

2.Người thông minh mỗi ngày có rất nhiều việc để làm. Người ngu mỗi ngày chỉ có 3 việc để làm:
+ Ăn.
+ Ngủ.
+ Chơi.

——-

3.TỰ KỶ là gì???
là tự mình sống hết thế kỷ.

——–

4.Lúc bé cứ nghĩ cởi truồng là đi tắm
Lớn lên mới biết không chỉ đi tắm mới cởi truồng.

5.Ế khỏe ế đẹp ế văn minh
Ai chê anh ế anh khinh cả phường
Ế cao ế quý ế dễ thương
Ai chê anh ế anh tương vớ mồm.

6.Tình yêu đến rồi đi nhưng bệnh tật, con cái và nợ lần sẽ ở lại…

7.Nếu bạn không biết nói dối thì bạn sẽ
không bao giờ biết khi nào người khác nói dối bạn.

8.Đời ngắn!
Nên đừng lãng phí thời gian với những người
không có thời gian dành cho bạn.

9.Ở bên anh,em bình yên đến lạ
Xa anh, em thấy lạ nhưng cũng khá bình yên.

10.Tận cùng của sự ngu dốt
là đối xử quá tốt với nhiều người.

11.Ân tình bạc bẽo nuôi tôi lớn
Sóng gió cuộc đời dạy tôi khôn
Không khóc dù gặp bao cay đắng.
Bất chấp đau thương vẫn lạnh lùng.

12.Thích là phải nhích cho tới đích

Một khi không nhích thì mất tích không cần giải thích.

13.Con tàu sẽ rất an toàn khi neo đậu trong bến cảng.
Nhưng người ta đóng tầu không phải vì mục đích đó.

14.Con gái:
– Hễ mũi xấu thì mắt đẹp
– Mắt mũi xấu thì miệng đẹp
– Da xâu thì tóc đẹp
– Mặt xấu thì dáng đẹp
– Người xấu thì tâm hồn đẹp

Bằng cách này hay cách khác, đã là con gái là họ cứ phải đẹp.

15.Ông trời thật bất công:
– Tạo ra con gái để là khổ con trai.
– Nhưng tạo ta con trai để làm con gái vui.

16.Lúc bé cứ nghĩ chỉ có thuốc là đắng..
Giờ lớn lên mới biết có những thứ còn đắng hơn cả thuốc.

17.Nếu bạn không chấp nhận tính xấu của một người thì đừng cố yêu người đó. Là con người chẳng ai hoàn hảo.

18.Kẻ ngu thường tỏ ra nguy hiểm
Kẻ nguy hiểm thường tỏ ra ngu.

19.Giận là đem lỗi lầm của người khác trừng phạt bản thân mình.

20.Vạn lần nói yêu cũng không bằng một câu nói cần!
Ngàn câu nói cần cũng không bằng một lần quan tâm…

21.Sự thật là điều quý giá nhất mà chúng ta có.
Hãy tiết kiệm nó.

22.Khi đàn ông im lặng là họ đang suy nghĩ
Khi đàn bà im lặng là họ đang suy diễn.

23.Ở Mỹ:
Tắt đèn: Bảo vệ môi trường.
Ở Pháp:
Tắt đèn: Thắp sáng tương lai.
Ở Việt Nam:
Tắt đèn: Gia tăng dân số.

24.Nếu ngày ấy không đi về phía em, không gặp em
-Giờ này anh đã giàu.

25.Phụ nữ như những con đường,
đường càng cong càng nguy hiểm!

26.Gặp gỡ là mây tụ, ly biệt là may tan,
đều sẽ không ảnh hưởng đến vẻ đẹp của bầu trời.

27.Đừng buồn vì bạn xấu mà hãy tự tin rằng bạn có một vẻ đẹp tiềm ẩn và càng tìm càng ẩn

28.Chấp nhận nợ dai, không xù ai cả.

29.Có 2 hành động mà chỉ say người ta mới thoải mái thể hiện
một cách tự nhiên, công khai, và trung thực nhất.Đó là:
TỎ TÌNH

30.Đời là thế:
– Thật thà là chết.
– Ngốc nghếch là tiêu.
– Kiêu là bị oánh.
– Cứ nói ít, lạnh lùng, khùng hùng là dễ sống.

31.Khi niền tin ở mức độ cao nhất thì thất vọng sẽ kéo bạn
xuống thấp hơn cả cái đáy thất nhất.

32.Càng lớn lên rồi mới hiểu, để rèn giữa ý chí của một
con người, luôn cần có một ai đó nhẫn tâm và lạnh lùng với họ.

33.Phụ nữ thường hay nói:
“Đàn ông các anh ai cũng như nhau cả!”

Vậy tại sao họ lại mất khá nhiều thời gian
để chọn lấy một người đàn ông?

34.Hứa hẹn chính là lời một tên lừa đảo thường nói
với một kẻ ngu ngốc.

35.Đôi khi hạnh phúc không phải là được một người yêu
mà là có một người khiến mình yên đến quên đi tất cả.
Đó là hạnh phúc và đó cũng là đau lòng…

36.Có một cách sỉ nhục đàn ông đó là
đừng đếm xỉa tới người phụ nữ (vợ,bạn gái) đi cùng anh ta…

37.Không có hạn phúc nguyên chất dành cho người lớn
Chỉ có hạnh phúc được thỏa hiệp.
Chính vì thế mà rất nhiều người vẫn luôn từ chối lớn lên!

38.Ái tình một chứng bệnh gồm có 3 giai đoạn:
– Khao khát…
– Chiếm đoạt…
– Chán chường…

39.Người đời thường hay nói đến những
thói xấu của người đàn bà
Nhưng…
Không ai có thể sống xa con người ấy.

40.Mọi người rồi sẽ quên đi điều bạn nói
Họ cũng sẽ quên đi việc bạn làm.
Nhưng họ sẽ không quên những gì bạn làm họ cảm nhận.

41.Có người có thể đem ác ý giấu trong lời khen.
Cũng có người có thể đem nỗi lòng cất giấu trong…
tiếng mắng mỏ.

42.Xinh đẹp chỉ khiến người đàn ông dừng chân,
thông minh mới có thể khiến người đàn ông ở lại bên mình.

43.Trí tuệ con người trưởng thành trong tĩnh lặng,
còn tính cách trưởng thành tròn bão táp.

44.Vẻ đẹp bên ngoài khiến người ta sững sờ khi gặp mặt.
vẻ đẹp bên trong khiến người ta ngơ ngác lúc chia tay.

45.Nếu anh thắng, anh không cần giải thích.
Nếu anh thua, chẳng ai nghe anh giải thích.
-Hitler-

46.Điều quan trọng trong tình yêu không phải là
chàng trai hay cô gái có hoàn hảo hay không
mà là…
họ hoàn hảo trong mắt nhau
Vậy là đủ.

47.Trêu gái là một nghệ thuật
Người trêu gái là một nghệ sỹ
Bị gái tát khi trêu chỉ là tai nạn nghề nghiệp.

48.Muốn thành công thì phải biết giữ bí mật
cho nên “ném đã phải biết giấu tay”

49.Cỗ nào chẳng có thịt gà
Đàn ông không có đàn bà mất vui.

50.Điều buồn nhất của kẻ phản bội là…
nó không đến từ kẻ thù của chúng ta!

51.Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương.
Nhưng cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện.

52.Làm con gái thật tuyệt,một trong số đó là…
Không phải nhập ngũ…

53.Đi uống cafe một mình không có nghĩa là cô đơn,mà đơn giản
chỉ là bạn biết tận hưởng hạnh phúc cuộc sống một cách độc lập.

54.Con gái cũng như một cuốn sách
Đừng mong đọc một ngày là hiểu hết được.

55.Lúc bé cứ tưởng không có não là chết…
Lớn lên mới biết…
Nhiều người “không có não” mà vẫn sống được.

56.Sợ lắm con người luôn tươi cười…
nhưng 9/10 là giả tạo.

57.Có người nghe có mỗi bài hát, không phải vì nó hay.
mà đơn giản, nó gắn liền với kỷ niệm nào đó.

58.Yêu là đơn giản nhưng căn bản là giữ được bao lâu.

59.Con gái thường nói cần một sự quan tâm, nhưng để ý mà xem,
Ai càng lạnh lùng và vô tâm thì họ lại càng yêu,…
để rồi quên đi những tình yêu nồng nhiệt và chân thành nhất.

60.Thật thà thì mất lòng
Thật lòng thì mất hết.

61.Có một số ký ức định sẵn là không thể nào xóa đi.
Cũng như có một số người, không thể nào thay thế được

62. Khoảng cách …
là điều duy nhất có thể làm 2 nửa con tim lạc nhịp nhau mãi mãi.

63. Ngày ruồi tháng muỗi năm bọ chét
Đêm nằm sốt rét nhớ người yêu.

Sau khi thưởng thức kho hình ảnh chữ có những câu nói hài hước trên đây, nếu bạn cảm thấy vui thì nhớ thường xuyên truy cập vào ## để xem những câu nói hay khác bạn nhé.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu nói vui vẻ hài hước nhất về cuộc sống

Nhanh tay chọn cửa phòng làm việc tăng tài

Cửa văn phòng hợp phong thủy không chỉ giúp chúng ta an tâm làm việc mà còn mang lại nhiều may mắn, thành công trong sự nghiệp. Hãy chọn cửa phòng làm việc
Nhanh tay chọn cửa phòng làm việc tăng tài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cửa văn phòng hợp phong thủy không chỉ giúp chúng ta an tâm làm việc mà còn mang lại nhiều may mắn, thành công trong sự nghiệp. Hãy chọn cửa phòng làm việc tăng tài cho mình nhé!


► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh

Nhanh tay chon cua phong lam viec tang tai hinh anh
 
Chọn cửa văn phòng hợp phong thủy tức là chọn hướng văn phòng đẹp, hợp với bản mệnh. Cửa càng to càng cát tường, hướng càng đẹp càng phát tài. Trước cửa phải có minh đường thoáng đãng, chủ tài lợi bay vào. 
 
Đại môn mở ở bên trái, phương vị Thanh Long là tốt nhất, sinh nhiều thịnh vượng, đại cát đại lợi. Bên trái văn phòng có mặt tiền thông thoáng, xuất nhập linh hoạt thì lại càng may mắn, hanh thông.
 
Văn phòng nhất thiết không được bố trí tà môn (cửa xấu). Cửa đối diện bếp, ống khói là kiêng kị trong phong thủy văn phòng, chủ suy khí, làm ô nhiễm môi trường làm việc, chỉ xấu không tốt, chủ nhân liên tiếp gặp bất lợi, sức khỏe giảm sút.
 
Cửa văn phòng hợp phong thủy nhất là hướng vào bên trong, để kiểm soát tình hình nội bộ công ty và cách xa bên ngoài, tránh bị những tác nhân xung quanh ảnh hưởng. Phòng lãnh đạo có kết nối với các phòng của nhân viên sẽ dễ dàng tạo mối liên kết, đoàn kết công ty, đồng thời trực tiếp quản lý được thực tế công việc. Phòng làm việc xa cửa chính, tránh được nhòm ngó, thị phi.
 
Cửa văn phòng đẹp còn phải phù hợp với ngành nghề kinh doanh. Ví dụ, những ngành thuộc ngũ hành Hỏa như nhà hàng ăn uống, đồ điện tử, máy tính, nhiếp ảnh,… nên chọn cửa văn phòng tọa Bắc hướng Nam, tọa Đông hướng Tây, tọa Đông Nam hướng Tây Bắc. Ngọc Bích (Theo d1xz)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhanh tay chọn cửa phòng làm việc tăng tài

Hướng dẫn xem tử vi cho người mới bắt đầu (phần 2)

Bài viết đưa ra những khái niệm cơ bản nhất để những người mới bắt đầu có thể làm quen và hiểu thêm cách xem tử vi cho mình.
Hướng dẫn xem tử vi cho người mới bắt đầu (phần 2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem lá số tử vi để biết vận mệnh của mình là điều ai cũng muốn, nhưng sự phức tạp, khó hiểu lại là trở ngại. Bài viết đưa ra những khái niệm cơ bản nhất của tử vi để những người mới bắt đầu có thể làm quen và hiểu thêm.


► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình


Huong dan xem tu vi cho nguoi moi bat dau (phan 2) hinh anh
 
Độ sáng của các sao

Hướng dẫn xem tử vi độ sáng của các sao: Miếu: sáng nhất, là cát tinh sẽ cực cát, là hung tinh sẽ thể hiện mặt tốt.
 
Vượng: độ sáng kém hơn miếu, là cát tinh sẽ đại cát, là hung tinh sẽ trừ bỏ được hung khí, có thể sẽ hiện điềm tốt.
 
Đắc địa: độ sáng kém hơn vượng, là cát tinh vẫn là cát, là hung tinh sẽ không hung.
 
Lợi ích: vẫn là sao sáng, là cát tinh vẫn cát, là hung tinh sẽ có chút ít vẻ hung.
 
Bình hòa: độ sáng yếu, là cát tinh sẽ có chút ít cát, là hung tinh sẽ bắt đầu hung.
 
Không đắc địa: độ sáng mờ, là cát tinh sẽ không có sức, là hung tinh sẽ khá hung.
 
Hãm: độ sáng rất mờ, là cát tinh sẽ thể hiện mặt trái hoặc vô dụng, là hung tinh sẽ cực hung.
 
Bản cung (bản phương)

Hướng dẫn xem tử vi: Bản cung tức cung chủ sự, hay còn gọi là bản phương. Trong 12 cung khi xem lá số tử vi, mỗi cung chủ về một sự việc khác nhau. Nếu xem vận mệnh cả đời thì lấy cung Mệnh làm bản cung, xem về sự nghiệp thì lấy cung Quan Lộc làm bản cung,… Ngoài ra các cung đại hạn, tiểu hạn, lưu niên đều được coi là bản cung khi xem về đại hạn, tiểu hạn, lưu niên.
 
Cung đối (cung đối diện)

Là cung nằm ở vị trí đối diện với bản cung, tầm quan trọng chỉ đứng sau bản cung, có ảnh hưởng không nhỏ đến bản cung khi xem lá số tử vi.
 
Tam phương tứ chính

Tam phương là những cung có quan hệ tam hợp Địa chi với bản cung. Các chi tam hợp gồm: Dần, Ngọ, Tuất; Tỵ, Dậu, Sửu; Thân, Tí, Thìn; Hợi, Mão, Mùi.
 
Ví dụ: cung Mệnh tại Dần thì cung tam phương với bản cung là Ngọ, Tuất.
 
Tứ chính là cung Tam phương cộng thêm cung đối.
 
Hiệp trợ và ức hiếp

Cát tinh nhập cung tam hợp mà hội chiếu gọi là hiệp trợ.
 
Hung tinh nhập cung tam hợp mà hội chiếu gọi là ức hiếp.
 
Lân cung (cung kế bên)

Hai cung liền kề hai bên bản cung được gọi là lân cung. Tuy mức ảnh hưởng không bằng Tam phương, Tứ chính nhưng đối với một số cặp sao vẫn có tác dụng tốt xấu khá quan trọng.
 
Phò trợ và kìm kẹp -  Tọa và Cứ -  Chầu và Xung

Nếu hai cát tinh rơi vào hai cung kề bên gọi là phò trợ ngược lại là kìm kẹp.
 
Cát tinh nhập bản cung gọi là Tọa. Hung tinh nhập bản cung gọi là Cứ.
 
Cát tinh nằm cung đối diện là Chầu. Hung tinh nằm cung đối diện là Xung.

Thiên La, Địa Võng

Hướng dẫn xem tử vi: Trong một lá số tử vi, cung Thìn là Thiên La, cung Tuất là Địa Võng, chủ về nguy khốn, khó khăn. Hai cung Thìn, Tuất còn được gọi chung là Khôi Cương, Thìn là Thiên Cương, Tuất làm Hà Khôi, là nơi âm dương tuyệt diệt.
ST
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng dẫn xem tử vi cho người mới bắt đầu (phần 2)

Xem tử vi tháng Hai của người tuổi Thìn

Tử vi tháng Hai của người tuổi Thìn phạm vào Lục Hại, không nên cưỡng lại số phận dễ hại tới cha mẹ, người thân.
Xem tử vi tháng Hai của người tuổi Thìn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Tử vi tháng Hai của người tuổi Thìn phạm vào Lục Hại, không nên cưỡng lại số phận dễ hại tới cha mẹ, người thân. Lục Hại xuất hiện thì Thiên Đồ hung tinh cũng xuất hiện, vậy nên bản mệnh phải đề cao cảnh giác gấp nhiều lần.


Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Thin hinh anh goc
 
Bước vào tháng Tân Mão, người tuổi Thìn gặp vận tương hại với Nguyệt Lệnh, Thổ khí quá vượng nên cần lưu ý nhiều tới mặt sức khỏe. Những bệnh tiềm tàng như cao huyết áp, lượng đường trong máu tăng cao… Trong công việc bạn dễ trở nên chuyên quyền, áp chế đồng nghiệp xung quanh. Không chịu lắng nghe lời hòa giải dễ dàng xảy ra xô xát với đồng nghiệp.

Lời khuyên: Nếu có điều kiện, bạn nên dùng đồ phong thủy may mắn cát tường để hưng thịnh vận trình, phối hợp với vị Bồ Tát, Chư Phật tọa mệnh để cầu bình an, gia trạch, sự nghiệp thuận lợi. Ngoài ra, tránh đem cảm xúc tức tối trong công việc về nhà, bạn sẽ làm tổn thương tình cảm vốn rất ổn định của mình và người thương yêu.

Tử vi tháng Hai của người tuổi Thìn phạm vào Lục Hại, không nên cưỡng lại số phận dễ hại tới cha mẹ, người thân. Lục Hại xuất hiện thì Thiên Đồ hung tinh cũng xuất hiện, vậy nên bản mệnh phải đề cao cảnh giác gấp nhiều lần. Nên thường xuyên đi kiểm tra sức khỏe, tránh các hoạt động nguy hiểm như leo núi, đi chơi xa…

BIỂU ĐỒ TỬ VI THÁNG 2


Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Thin hinh anh goc 2
 
CÔNG VIỆC


Công việc gặp tình trạng cạnh tranh kịch liệt, người kinh doanh vướng vào thị phi với khách hàng, cần phải chú ý khả năng linh động, biến thiên vạn hóa của chính mình. Với người lãnh đạo tuổi Thìn phải thường xuyên nhắc nhở cấp dưới, tránh để sai lầm từ người khác gây họa cho mình. Giữa tháng, bạn nên xem xét kỹ phần phân công nhiệm vụ làm việc, tránh xuất hiện dấu hiệu đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Nên lưu ý khả năng giao tiếp truyền tải vấn đề của chính mình trong công việc chung.

TÀI LỘC

Lưu ý Bạch Hổ xuất hiện, tiền tài tích góp, đầu tư đều xuất hiện nguy cơ mất mát. Đồng thời tính khí nóng vội khiến bản mệnh hấp tấp trong việc tìm cách bù đắp chỗ tài lộc thiếu hụt, nên cảm giác kiếm tiền vất vả hơn. Những hãy yên tâm quan hệ Nguyệt Lệnh Tân Kim khắc Thái Tuế Bính Hỏa sẽ đem lại nhiều cơ hội về tiền bạc. Tốt nhất bạn nên tập trung vào công việc chính của mình, cuối tháng mong rằng sẽ khả quan hơn.

Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Thin hinh anh goc 3
 
TÌNH CẢM


Xem tử vi thấy, chuyện tình cảm vợ chồng tương đối hài hòa, tâm tình thư thái, cảm xúc cũng thăng hoa. Đây là khoảng thời gian tốt nhất để vợ chồng tuổi Thìn thêm con thêm cháu, lấy hỷ sự xung Lục Hại. Người độc thân được hưởng thụ một khoảng thời gian rất tốt đẹp, quan hệ xã hội ổn thỏa đem tới nhiều nhân duyên mỹ mãn. Bạn có thể yên tâm nhận lời mời hẹn hò hoặc gặp gỡ bạn bè gia tăng vận đào hoa. Cuối tháng là thời gian đẹp nhất để chuyển nhà hoặc cầu hôn.

SỨC KHỎE

Tình trạng sức khỏe người tuổi Thìn khá tốt trong tháng Tân Mão. Dù đôi khi bạn bị áp lực công việc quấy nhiễu nhưng tinh thần và sức lực vẫn rất dồi dào. Người tuổi Thìn còn trẻ nên hạn chế các hoạt động mạnh về chân tay bởi Bạch Hổ tinh đem tới nhiều xui rủi, tai nạn hay va chạm nhỏ.

Nhìn chung, người tuổi Thìn bước vào tháng Tân Mão không còn may mắn như đầu năm. Bạn nên chú ý nhiều mặt của cuộc sống, tạm thời thu mình chờ cơ hội mới. Tình trạng cạnh tranh xuất hiện nhiều mặt cuộc sống, đặc biệt lưu ý mặt tài lộc thất thoát, người đời lừa gạt. Chuyện tình cảm ổn định hơn, người độc thân và đã kết hôn đều có cơ hội đổi mới.

Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Thin hinh anh goc 4
 


Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi tháng Hai của người tuổi Thìn

Coi tướng tay của người kết hôn muộn

Người có ngón tay cái mềm và có thể uốn cong gập ra sau thường gặp trắc trở về tình duyên, càng kết hôn muộn thì càng hạnh phúc.
Coi tướng tay của người kết hôn muộn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Lịch ngày tốt gửi tới bạn đọc công cụ xem tướng và xem bói tử vi để biết tính cách, số mệnh của mình

1. Ngón tay cái mềm, có thể uốn cong gập ra sau
 
Người có ngón tay cái mềm và có thể uốn cong gập ra sau thường có đời sống tình cảm phong phú, vui buồn lẫn lộn và có xu hướng bi lụy trong tình yêu.
 
Khi yêu, người này chỉ chăm chăm canh chừng xem đối phương có toàn tâm toàn ý chăm sóc mình hay lừa dối không. Điều đó tạo áp lực cho nửa kia, lâu dần sẽ sinh ra tâm lí nhàm chán và muốn đường ai nấy đi.
 
Do đó, đường tình duyên của người có tướng tay này khá trắc trở và càng kết hôn muộn thì càng hạnh phúc.
 
2. Đầu ngón út quá mềm yếu, vô lực
 
Vận thế tình duyên của người này không tốt, hay gặp phải người bạc tình nên tinh thần bị tổn thương nặng nề. Người lại lại khá chân thành, không có tầm nhìn xa trông rộng nên không thể kháng cự lại những cám dỗ hoặc lời đường mật của đối phương, cuối cùng bị lừa gạt cả tình cảm và tiền bạc.
 
Sau nhiều lần thất bại, người này nảy sinh tâm lí hoài nghi, không tin tưởng vào tình yêu. Do đó, rất khó để mở lòng với người mới. Chuyện hôn nhân vì thế mà dang dở, hạnh phúc tới muộn màng.

Coi tuong tay cua nguoi ket hon muon hinh anh
Đường Trí tuệ ngắn (hình 1) và đường Tình cảm song song (hình 2)

3. Đường Trí tuệ quá ngắn (hình 1)
 
Thông thường, người có đường chỉ tay Trí tuệ quá ngắn sống thiên về tình cảm, thậm chí yêu đương một cách mù quáng. Cộng thêm tính tình thuần nhất không đề phòng người khác nên họ dễ bị lợi dụng hoặc bị đối phương phản bội sau lưng. 
 
Đường tình duyên của người này lận đận, trải qua không ít mối tình nhưng đều không đi đến kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên, nếu mạnh mẽ và chủ động hơn trong tình cảm, người này sẽ tìm thấy ý trung nhân phù hợp.

4. Đường Tình cảm phân thành 2 nhánh song song (hình 2)
 
Người có đường chỉ tay tình cảm phân 2 nhánh song song rất coi trọng tình cảm, khá dễ dãi với những yêu cầu của người khác. Người này thiếu khả năng nhìn thấu bản chất sự việc hoặc tha thứ một cách dễ dàng khiến đối phương ỷ lại hoặc phản bội sau lưng.

Tuy nhiên, nếu kết hôn muộn và gặp được người yêu thương chân thành, cuộc sống hôn nhân gia đình của người này khá viên mãn.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Coi tướng tay của người kết hôn muộn

Ai có bàn tay tung hoành ngang dọc, bất khả chiến bại

Ai có bàn tay tung hoành ngang dọc, bất khả chiến bại .Hãy xem bói chỉ tay để nhận biết xem bạn cỏ phải là người có tướng tay tung hoành như vậy không.
Ai có bàn tay tung hoành ngang dọc, bất khả chiến bại

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chức tước quan trường cũng là chính là tung hoành ngay dọc. Mặc dù không nhìn  rõ hình bóng của dao kiếm, nhưng khó tránh khỏi ân oán giang hồ, việc có một bàn  tay tuyệt đẹp hộ thân thì có thể thoát khỏi cảnh bất lợi. Hãy xem bói chỉ tay để nhận biết xem bạn cỏ phải là người có tướng tay tung hoành như vậy không.

1. Đường Vận mệnh như cột chống trời

Đường Vận mệnh như cột chống trời, nghĩa là chỉ hình dáng hoàn chỉnh không đứt đoạn, đường Vận mệnh thẳng và rõ ràng, báo hiệu đây là người có ý chí siêu phàm, có đủ dũng khí tiến về phía trước, không e sợ bất cứ gian nan hiểm trỏ nào.

Do không bao giờ chịu đứng sau người khác, nên rất cỏ khả năng tự mình lập nên sự nghiệp.

2. Đường Công danh rõ ràng

Đường Công danh rõ ràng, là đường chỉ thẳng ỏ dưới chân ngón vô danh, biểu thị là người nhiệt tình, vui vẻ, tính tình lạc quan, có tài giao tiếp nhất định, ở bên ngoài có thể kết giao được với rất nhiều người có cùng chung chí hướng, có tác dụng lớn trong việc thúc đẩy con đường sự nghiệp bản thân.

ban-tay-ngang-doc-2

Mặc dù trong sự nghiệp gặp phải bất cứ khó khăn cản trở nào thì đéu có thể chủ đông khắc phục.

3. Đoạn cuối đường Trí tuệ cong vểnh lên trên

Đường Trí tuệ có đuôi vểnh lên trên, tức là chỉ phần đuôi của đường Trí tuệ cong hướng lên phía trên, cho thấy là người có trí tuệ cao. mọi việc đều có thể tính toán tỉ mỉ, để có thể đạt được lợi ích thực tế. Nhưng họ thường vì sự nghiệp mà trong lòng luôn cảm thấy nặng nề, bỏ qua những suy nghĩ vể nhân tình thê thái, thậm chí có thế để xảy ra những chanh chấp về phương diện quan hệ giữa con người trong xã hội, vì vậy cần chú ý thay đổi.

Tư duy lý tính, làm việc chăm chỉ, nhưng quan hệ giao tiếp xã hội kém.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ai có bàn tay tung hoành ngang dọc, bất khả chiến bại

Chùa Xuân Trung - Nam Định

Chùa Xuân Trung là nơi sinh hoạt văn hoá tôn giáo để mọi người hướng lòng mình về cõi tâm linh phù hợp với tín ngưỡng dân gian, thực hiện chân thiện mỹ
Chùa Xuân Trung - Nam Định

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Xuân Trung có tên chữ là Linh Quang tự (chùa Linh Quang). Chùa tọa lạc tại xã Xuân Bắc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Chùa được khởi dựng vào năm 1720 thời vua Lê Dụ Tông. Người có công lao đầu tiên trong việc xây dựng chùa là ông Đào Công Canh, quê làng Nguyệt Giám xã Minh Tân huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình.

Ngôi chùa ban đầu có quy mô kiến trúc nhỏ bé, mái lợp bổi, tường bao quanh đắp đất. Năm 1785, chùa Xuân Trung mới chính thức được xây dựng một cách khang trang. Đến đời vua Gia Long năm thứ 2 (1803), chùa đã có một quy mô bề thế, lớn trên 80 gian lớn nhỏ.

Trên khánh đá vào đời vua Tự Đức năm thứ 33 (1880), hiện treo tại gác khánh đã ca ngợi cảnh đẹp của chùa có khắc:

Chùa Linh Quang nằm ở thôn Trung, xã Trà Lũ, huyện Giao Thủy, phủ Xuân Trường là một thắng cảnh đẹp trong vùng, là nơi muôn màu tụ hội.

Chùa Xuân Trung ngoài thờ Phật còn thờ Thiền sư thời Lý là Nguyễn Minh Không (1076-1141). Thiền sư quê ở Đàm Xá (Điềm Xá) thuộc đất Tràng An, tên thật là Nguyễn Chí Thành. Thuở nhỏ làm nghề đơm đó, sau ngài xuất gia đi tu ở chùa Quốc Thanh, lấy hiệu là Minh Không.

Nguyễn Minh Không là người có trình độ học vấn uyên thâm nổi tiếng về pháp thuật, có xu hướng tu mật giáo: “Có phép lạ bay trên không, đi trên mặt nước, hàng long phục hổ”.

Truyền thuyết kể rằng: “Vua Lý Thần Tông mắc bệnh lạ, tâm thần rối loạn, mình mẩy loang lổ, miệng luôn gầm rú như một mãnh hổ. Các vị danh y đều bó tay, Quốc mẫu, Hoàng hậu đều lo sợ. Nghe tiếng tăm của Thiền sư Không Lộ, Quốc mẫu đích thân mời ngài về cung chữa bệnh. Thiền sư dùng pháp thuật chữa khỏi bệnh cho vua. Vua phong ngài làm Quốc sư và ban nhiều bổng lộc.”

Công trình kiến trúc chùa Xuân Trung hiện nay được xây dựng theo kiểu “nội chữ đinh, ngoại chữ quốc”, mặt quay về hướng tây trên một diện tích 6125m2. Tổng thể công trình gồm nhiều hạng mục, quy mô đồ sộ, bề thế còn bảo lưu được nhiều nét kiến trúc nghệ thuật thời hậu Lê thế kỷ XVII – XVIII.

Phía trước chùa là hệ thống tam quan xây kiểu chồng diêm hai tầng bốn mái, lợp ngói nam. Hai bên tam quan còn có gác chuông và gác khánh, được xây theo kiểu “cổng làng” với các đao góc uốn cong mềm mại.

Sau tam quan, qua một sân rộng lát gạch đỏ sạch sẽ là đến chùa chính. Công trình làm kiểu chữ đinh gồm bái đường 5 gian dài 13m, rộng 8,70m, tam bảo 5 gian dài 12m, rộng 5,30m. Bộ khung của công trình được làm bằng gỗ lim theo kiểu “giá chiêng” với các cấu kiện: câu đầu, quá giang, xà nách, bẩy tiền, bẩy hậu đều gia công theo dạng tròn. Đây là nét đặc biệt trong kiến trúc của thời Hậu Lê thế kỷ XVII – XVIII còn bảo lưu được tại di tích.

Bên cạnh chùa chính còn có đền thờ Thiền sư Nguyễn Minh Không, phủ thờ thánh Mẫu Liễu Hạnh, phía sau là nhà tổ và bao quanh là hệ thống nhà khách, tăng phòng… Tất cả đã tạo thành một tổng thể khép kín hoàn chỉnh đã làm tăng thêm giá trị kiến trúc nghệ thuật cho khu di tích.

Chùa Xuân Trung là nơi sinh hoạt văn hóa tôn giáo để mọi người hướng lòng mình về cõi tâm linh phù hợp với tín ngưỡng dân gian, thực hiện chân thiện mỹ, góp phần xây dựng cuộc sống văn hóa cộng đồng nơi đây.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Xuân Trung - Nam Định

Ghi chép các bài viết hay về Tử Vi trên các diễn đàn

Một bài viết ghi chép lại các bài viết hay trên các diễn đàn lý số. Mời các bạn đọc cùng tham khảo
Ghi chép các bài viết hay về Tử Vi trên các diễn đàn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết ghi chép lại một số bài và topic hay trên các diễn đàn lý số để nghiên cứu.

Về việc ngũ hành trong Tử Vi

Chép lại bài viết trong thread diễn đàn của tác giả VDTT

Mỗi chúng ta có một loại cơ duyên, cũng có một loại nợ nào đó. Vì vậy người học Tử Vi đã tin một lối xem nào đó thì rất khó bỏ. Nhưng tối thiểu thời nay vấn đề truyền thông đã đạt mức toàn cầu, chúng ta mau chóng cập nhật được những gì xảy ra hoặc đã xảy ra ở nơi khác, nhờ đó dễ tránh được các vết xe đổ của người khác.

Khoa học từng có những bước dzích dzắc, trước đi từ A đến B, sau lai thấy A đúng phải lùi lại A, nên tôi không dám khẳng định thuyết nào đúng thuyết nào sai, nhưng thiết nghĩ chúng ta nên biết đại khái diễn trình hưng suy của ngũ hành trong Tử Vi ở Đài Loan trong thời trăm hoa đua nở. Bởi không có gi đáng tiếc bằng bỏ bao nhiêu công lao mà chỉ đi vào vết xe đổ của ngưòi xưa.

Năm 1985 ông Sở Hoàng (Đài Loan) ra quyển "Tử Vi Hỉ Kị thần đại đột phá" bảo rằng ngũ hành đóng vai trò chủ yếu trong Tử Vi. Điểm chính là ông dựa vào lý vượng tướng hưu tù tuyệt mà luận sự cường nhược của chính tinh.

Cùng trong khoảng thời gian từ đầu đến giữa thập niên 80 có ông Phương Vô Kị mở trường dạy Tử Vi,có phổ biến 7 tập giáo tài ra ngoài thị trường, trong đó có 4 tập cực kỳ đồ sộ (nghe đâu mỗi tập đồ sộ này đều dày trên 500, 600 trang). Tiếc là tôi chỉ mua được hai tập bề dày bình thường (dưới 200 trang) nên không rõ toàn thể lý thuyết của ông Phương Vô Kị, tuy nhiên cũng thấy ông áp dụng lý ngũ hành vượng tướng hưu tù tuyệt để luận sự cường nhược của các chính tinh.

Hai vị này là những nhân vật nổi tiếng một thời,nhưng mau chóng chìm vào quên lãng để nhường chỗ cho một trào lưu khác mà đại biểu nổi bật đầu tiên là ông Liễu Vô cư sĩ.

Khiông Sở Hoàng ra sách Tử Vi Hỉ Kị thần đại đột phá ông Liễu Vô cư sĩ đã thành danh từ khá lâu trong làng Tử Bình (sách ra từ năm1980). Điểm này quan trọng vì nó cho ta biết là ông Liễu Vô cư sĩ hết sức quen thuộc với lý ngũ hành hỉ kị của khoa Tử Bình.

Xin tự trích một phần tôi đã viết đăng báo ngày xưa về nhân vật độc đáo này:

"Từ cách lập luận trong các bài viết cũng như dựa theo thư mục các sách đã xuất bản đầu thập niên 1990 ta biết ông Liễu Vô Cư Sĩ lập danh là chuyên gia Tử Bình, với hai quyển sách “Hiện đại nhân đích bát tự” (bát tự của người hiện đại) và “Bát tự đích thế giới” (thế giới của khoa bát tự) in năm 1980. Soạn giả chưa được đọc hai quyển này, nhưng nghe nói trong đó ông kịch liệt đả phá cách xem bát tự của người xưa. Thì ra, ngay với hai quyển sách đầu tay, dấu hiệu cách mạng (hay “phá hoại”, tùy người nhận định) của ông đã tỏ lộ ra rồi.

...

Vì một tình cờ của lịch sử, thập niên 1980 chính là lúc mà khoa Tử Vi vào giai đoạn sôi bỏng của phong trào “trăm hoa đua nở” kéo dài hai thập niên ở Đài Loan cũng như Hồng Kông. Có lẽ vì coi Tử Vi là một cuộc cách mạng so với khoa bát tự như ông giải thích sau này trong quyển “Đẩu số nghi nan 100 vấn đáp - hiện đại thiên”, Liễu Vô cư sĩ hăng hái tham gia phong trào này, và trở thành một tên tuổi lớn. Tính đến năm 1993 ông đã cho ra đời 11 tựa sách tử vi, tổng cộng 22 quyển. (Các sách ông ra sau này thì soạn giả không nắm vững, mong được các vị khác bổ túc.)

Dựa trên thành tích mà đoán thì khúc quanh lớn nhất trong sự nghiệp mệnh lý của ông phải kể là năm 1992. Năm ấy, ngoài việc tái bản hai quyển sách bát tự kể trên, ông còn xuất bản quyển “Tử Bình chân thuyên hiện đại bình chú” và hai quyển tiên đoán tình hình chính trị, tuyển cử ở Đài Loan bằng mệnh lý. Nhưng thành công rực rỡ nhất của ông năm này là quyển ‘Tử Vi luận mệnh bất cầu nhân’ (Luận mệnh bằng tử vi không cần nhờ người khác). Giữa lúc sách Tử Vi mới được in như rừng, sách này của ông bán chạy ngoài sức tưởng tượng, chỉ sau 20 ngày đã tái bản.

Nhờ tính hiện tượng của sách “Tử Vi luận mệnh bất cầu nhân” mà cách xem Tử Vi khá ngược đời của ông Liễu Vô cư sĩ trở thành kiến thức phổ thông ở Đài Loan cũng như Hồng Kông, lần hồi được vài người khác trong giới trí thức tin theo và viết sách xiển dương, đưa ông lên vị trí của một nhà lập thuyết có chỗ đứng vững chắc trong lịch sử hiện đại của khoa Tử Vi.

Về căn bản Tử Vi, ông xuất phát từ phái Tử Vân. Chủ trương chính của phái này là phải khảo sát mọi ngành huyền học bằng nhãn quan khoa học. Mặc dù sau này chọn một con đường khác, ông Liễu Vô cư sĩ vẫn tiếp tục xiển dương chủ trương trọng khoa học của phái Tử Vân. Thỉnh thoảng ông vẫn nhắc lại những quan điểm của ông Tử Vân (mà ông gọi là “Tử Vân tiên sinh” tức “thầy Tử Vân”) một cách trân trọng, mặc dù trong đó có một số quan điểm mà ông không còn đồng ý nữa.

Với cái nhìn khoa học và thực tế, ông Liễu Vô cư sĩ chủ trương thực nghiệm là tiêu chuẩn tối hậu. Hiển nhiên quan điểm của ông khác hẳn người xưa. Có lẽ vì thế mà lắm khi ông phê bình người xưa, kể cả đạo sĩ Trần Đoàn tức nhân vật được tin là tổ sư của khoa Tử Vi, rất gay gắt. Đặc điểm này có thể thấy rõ trong “Đẩu số tuyên vi hiện đại bình chú” (2 quyển) và “Đẩu số nghi nan 100 vấn đáp” (2 quyển, có tên “cổ điển thiên” và “hiện đại thiên”).

Cuối cùng, như đã nói ở một bài trước, một điểm độc đáo nữa của ông Liễu Vô cư sĩ là ông rất trọng nhân tài mới, ngay cả khi nhân tài ấy có chủ trương ngược lại ông. Nên không có gì đáng ngạc nhiên rằng, mặc dù luận đề lớn của ông là Tử Vi không dính líu gì đến ngũ hành, một người được ông quý trọng và nâng đỡ lại là ông Sở Hoàng, tác giả quyển “Tử Vi hỉ kị thần đại đột phá” với luận đề cho rằng ngũ hành là nền tảng quan trọng nhất của khoa Tử Vi.

Năm 1984, tức là một năm trước khi sách"Tử Vi Hỉ Kị thần đại đột phá" (coi ngũ hành là yếu tố quyết định trong Tử Vi) của ông Sở Hoàng ra đời, ông LIễu Vô đã ra sách Tử Vi rồi và tạo ngay được tiếng vang. Tiếng vang này dẫn đến bộ Hiện Đại Tử Vi gồm 7 tập bắt đầu phát hành trong khoảng thời gian 1985-1986. Tập sách này đã giúp LIễu Vô cư sĩ tiến lên vị trí hàng đầu trong làng Tử Vi, đồng thời tạo ra huyền thoại Tử Vân. Cần nói rõ là lúc ấy ông Tử Vân chưa ra sách nhưng được ông Liễu Vô nhắc tới với những huyền thoại người thật việc thật "xem số như thần", trong đó có chuyện ông Tử Vân xem số cho một số những chuyên gia khoa học toàn cỡ tiến sĩ, thạc sĩ du học Mỹ Anh về, không tin Tử Vi. Theo lời kể của ông LIễu Vô cư sĩ thì ông Tử Vân dùng Tử Vi để xem phong thủy đoán mọi sự đúng vanh vách khiến các chuyên gia này phải buộc lòng khẩu phục (tâm phục hay không thì không biết).

Vài năm sau, vẫn trong thập niên 1980, ông Tử Vân bắt đầu ra sách. Mức độ thành công của ông thì không cần nhắc lại, nhưng có thể thấy rằng làng Tử Vi Đài Loan chỉ trong vòng vài năm đã có biến chuyển to lớn. Lực lượng song đôi của hai ông Liễu Vô cư sĩ - Tử Vân và những người liên hệ đến họ như tiến sĩ Hứa Hưng Trí, ông Tuệ Canh v.v... mạnh như cuồng phong bão tố, khiến tất cả những nhân vật một thời phong quang như Chính Huyền Sơn Nhân, Phan Tử Ngư, Thẩm Bình Sơn, Sở Hoàng, Phương Vô Kị vân vân mau chóng trở thành quá khứ.

Và rồi khi ông Liễu Vô cư sĩ tuyên bố phải loại bỏ ngũ hành ra khỏi Tử Vi thì ông và thầy cũ của ông (Tử Vân) biến thành hai lực lượng chính yếu của Tử Vi Đài Loan. Tình hình cứ kéo dài như thế cho đến hết thời trăm hoa đua nở.

Tại sao hai ông LIễu Vô cư sĩ và Tử Vân lại thành công như vậy? Mỗi người sẽ có ý kiến riêng của họ. Riêng tôi cho rằng họ có ưu điểm to lớn là có thực chứng. Ông Tử Vân dù không nhìn nhận có lẽ đã xem trên 5000 lá số người thật việc thật. Nếu những gì Liễu Vô cư sĩ thuật lại trong Hiện Đại Tử Vi và những gì ông Tử Vân tự thuật trong các sách của ông không phải là bịa đặt thì ông Tử Vân bị các nhân tài trẻ cũng như già, tin cũng như không tin Tử Vi, thách thức rất nhiều lần, và mọi lần ông đều chứng tỏđược khả năng đoán mệnhđúng ngoài mức tưởng tượng của những người thách đố ông, đồng thời vẫn giữ sự khiêm cung với họ.

Ông Liễu Vô cư sĩ thì có hẳn một văn phòng xem số, sách Tử Vi của ông không đoán mài mại hoặc đoán những chuyện không ai kiểm chứng được, mà ông dám đoán trước tương lai của các nhân vật chính trị đương thời. Và trên mặt học thuật thì ông rất thẳng thừng, không ngần ngại đối đầu với những người muốn thách đố ông.

Theo những gì có thể kiểm chứng được trên Hiện Đại Tử Vi và những lời đồn đãi về sau (không kiểm chứng được) thì những thành quả của ông đã khiến đại cao thủ Thiết Bảng Đạo Nhân (được coi là cùng cỡ với cụ Hà Mậu Tùng, thầy của ông Tử Vân) phải chú ý và thiết lập liên hệ. (Cứ theo thư mục xem thấy trên mạngthì về sau ông Liễu Vô cư sĩ có ra sách phối hợp Tử Vi và thiết bảng thần số, phải chăng là đã được chân truyền của Thiết Bảng đạo nhân?)

Đã biết thành tích của ông Liễu Vô cư sĩ như vậy, ta có dám nói rằng ông đòi loại bỏ ngũ hành ra khỏi Tử Vi là vì ông không hiểu ngũ hành, hoặc không hiểu Tử Vi hay không?

Tôi xưa nay (giờ vẫn thế) vốn bất đồng với chủ trương loại ngũ hành ra khỏi khoa Tử Vi của ông Liễu Vô cư sĩ, nhưng tôi vẫn sợ cái học của ông như thường. Chẳng bao giờ dám chê bai. Ấy bởi vì sau mấy mươi năm nghiên cứu từ kỹ thuật, khoa học đến huyền học, tôi cuối cùng đã hiểu rằng đời này không chỉ có trắng và đen, đúng và sai, mà còn có những trường hợp trong đúng có sai, trong sai có đúng, tưởng đúng mà sai, tưởng sai mà đúng v.v... Cho nên bất cứ cái gì mà những người có trình độ bỏ nhiều công khó mới tìm ra, dù tôi cho là sai đi nữa tôi cũng không vội vàng bác bỏ ngay. Biết đâu, ngày mai tôi lại thấy cái sai ấy đúng.

Tôi hy vọng những người thuộc các thế hệ sau tôi cũng làm như thế.

Như trở lại chuyện hiện tại, thấy có người bảo phải tận dụng ngũ hành thì xem Tử Vi mới đúng, mình kiểm lại thấy có vẻ như vậy thì đừng quên rằng:

1- Từ xưa đến nay luôn luôn có người chủ trương như vậy, nên đây chẳng phải là một chủ trương mới lạchưa ai biết.

Riêng cách so nạp âm năm sinh với các trụ để luận mệnh thì trên kệ tôi có quyển sách "Trung Hoa nạp âm dự trắc học" của một tác giả Hồng Kông. Thì ra so nạp âm năm sinh với các trụ để luận mệnh là một cách luận bát tự thời xưa. Xem các thí dụ thì thấy thuyết phục lắm, nhưng tự nhiên tôi giật mình hỏi lại: Vậy tại sao cách xem này đã bị người ta đào thải để nhường chỗ cho khoa Tử Bình như chúng ta biết trong hiện tại (hoàn toàn không dùng nạp âm nữa)?

Vì anh HoTuVu trưng ra các lá số tổng thống rồi so sánh nạp âm năm sinh với tháng sinh, tôi nghĩ anh nên suy ngẫm về vấn đề này.

2- Người không chủ trương coi trọng ngũ hành trong Tử Vi chẳng phải là những ngưòi không biết gì về ngũ hành hoặc về Tử Vi. Trái lại, trong những người không chủ trương như vậy chẳng thiếu gì các tay cao thủ, như ông Liễu Vô cư sĩ chỉ là một thí dụ gần đây.

Vậy thì ai đúng ai sai, theo ai bỏ ai đây?

Cuối cùng, tôi nghĩ, đáp án vẫn là mỗi người chúng ta vẫn phải quyết định một con đường cho chính mình. Xem ra chỉ có cách đó mà thôi!

Nhận xét về Lưu Tứ Hóa ở Đại Vận của VDTT

Kính Gởi Anh VDTT:

Trong bài viết giải lá số cho "binhan" sinh ngày 13/5/mậu thân vào giờ ngọ AL, dương nữ, anh có viết:

"Hạn sang Mỹ ứng hợp vì cung Can của đại hạn (14-23 ở cung Hợi) là Quý có lưu Quyền ở cung Thiên di của đại hạn(cung Tỵ)".

Do đó để tìm Can của cung Đại Hạn có phải là làm như sau không:

Người này sinh năm Mậu Thân, như thế khởi từ Cung Dần là Giáp, rồi Ất, Bính....đến cung Hợi là Quý.

Mà Can Quý thì có Hóa Lộc đi với Phá Quân, Hóa Quyền đi với Cự Môn, Hóa khoa đi với Thái Âm, Hóa Kỵ đi với Tham Lang.

Như vậy trong Đại hạn (14-23) này cung Di của Đại hạn an tại Tỵ có Cự Môn thủ đã được hưởng lưu Hóa Quyền.

Thưa Anh VDTT, không biết những điều tôi vừa viết ra có đúng như thế không ạ?

Và nếu đúng như ý của Anh, thì xin cho được đặt vài câu hỏi như sau:

Để tính Đại hạn cho chi tiết thì phải:

1. Tìm Can cho Cung Đại Hạn?

2. Rồi tìm bộ sao Tứ Hóa cho Đại Hạn?

Thưa Anh, Xin Anh có thể giải thích giúp cho tôi về sự quan trọng của Bộ Tứ Hóa này được không ạ, trong cuộc đời, cũng như trong các vận hạn (Đại cũng như Tiểu Hạn.)

Nhắc đến cuộc đời thì mình có nên tìm Bộ Tứ Hóa cho các Cung Mệnh và Cung Thân không ạ theo như nguyên tắc ở trên?

Và cũng xin Anh cho biết về Lưu Triệt trong các đại vận có ảnh hưởng như thế nào trong cách giải lá số?

Xin Chân Thành Cảm Ơn Anh.

...

Kính anh/chị thienhi,

Lưu tứ hóa là một cách xem ít người biết, nhưng chẳng phải là không ai xử dụng trong làng tử vi VN. Bằng cớ là năm 1990 tôi đã gặp một ông thầy VN xem theo cách này.

Ở ĐL, HK thì lưu tứ Hóa là cách xem tiêu chuẩn.

Mười hai cung trên lá số đại biểu một năm, đồng thời ứng với cả đời nguời. Mỗi cung trên lá số đại biểu một tháng, đồng thời ứng với một đại hạn. Do đó muốn tính lưu đại hạn tứ hóa thì tính ra can mỗi cung (coi như một tháng), hạn đến đâu lấy can cung đó mà tính lưu tứ hóa.

Sao lưu bay đầy trời. Tôi nghĩ phải nghiên cứu có hệ thống mới xác định đuợc sao nào quan trọng, sao nào không. Tôi hiện chỉ dám xác quyết lưu tứ Hóa hiển nhiên quan trọng; ấy bởi vì tứ Hóa là cái nền của Tử Vi. (Nếu không có chính tinh và Tứ Hóa thì Tử Vi chẳng có giá trị gì cả so với khoa tứ trụ.)

Lưu Triệt Tuần tôi chưa thấy ứng nghiệm, chẳng dám có ý kiến. Có người còn an lưu Xương, lưu Khúc v.v... nữa.

Về cách xem lưu tứ hóa, có hai trừơng phái chính:

1. Mệnh vận phân ly: Bỏ sao tứ Hóa nguyên thủy không tính. Đến mỗi hạn xem sao lưu Hóa ở đâu rồi tính. Đại khái Lộc tốt, Kỵ xấu; Quyền Khoa tùy trứong hợp. Có một chi phái giản lược bỏ luôn Quyền Khoa khi xem hạn.

2. Mệnh vận tương phùng: Xem cả tứ Hóa nguyên thủy và lưu tứ Hóa (uy lực bằng nhau trong hạn).

Phái thứ nhất khá mạnh ở Đài Loan khi tôi rời nơi này (tháng 12, 2001).

Tôi theo phái thứ hai.

Vài dòng chia sẻ.

...

Kính Anh VDTT,

Xin cám ơn Anh đã mau chóng giải đáp cho tôi. Trong tinh thần nghiên cứu học hỏi, tôi xin được hỏi anh một vấn đề nữa cũng liên quan đến bộ sao Tứ Hóa.

Như thế trong 1 lá số tử vi, ngoài bộ sao Tứ Hóa Nguyên Thuỷ, ta con phải ghi thêm:

1. Bộ TỰ HÓA

2. Bộ Lưu Tứ Hóa theo Đại vận

3. Bộ Lưu Tứ Hóa theo Tiểu vận

Ngoài ra không kể bộ Lưu Tứ Hóa cho Cung An Mệnh, và Bộ lưu Tú Hóa Cho Cung An Thân mà tôi đã hỏi Anh, nhưng không thấy Anh cho ý kiến.

Anh nghĩ sao về Lưu Lộc Tồn cho cung an Đại vận? 1 sao cho biết là ta sẽ được hưởng, hay không được hưởng khi vào đại vận.

Xin cám ơn anh.

...

Anh/chi thienhi than,

Ở ĐL có người xem không những hóa Mệnh, hóa Thân, còn 12 cung hóa (phụ mẫu hóa, nô bộc hóa v.v...).

Nói chung đây là phái "Huyền không tứ hóa" của ông Chính Huyền Sơn Nhân (tác giả bộ "Thiên Địa Nhân Tử Vi đẩu số" gồm 12 quyển phát hành đầu thập niên 1980's).

Có những tác giả ra những tập sách dày cộm (có người vài ba tập), chỉ bàn về tứ Hóa.

Theo tôi, tất cả đều là mò mẫm. Ta không nên vội áp dụng.

Hiện nay tôi chỉ đang cố chứng nghiệm:

- Tự hóa + hóa nguyên thủy trong việc xem số tòan thể cuộc đời.

- Đại hạn hóa + hóa nguyên thủy khi xem đại hạn.

- Tiểu hạn hóa + hóa nguyên thủy khi xem lưu niên/tiểu hạn.

Đã thấy điên đầu lắm rồi. Vẫn chưa dám nói là đã xác định được nền tảng khoa học của các cách này. Chỉ tạm thời xử dụng rồi tính sau.

Vài dòng chia sẻ.

T.B. Lưu Lộc Tồn, Khôi Việt, Kình Đà v.v... cho đại vận cũng là một cách quen thuộc ở Á Châu. Theo lý luận của tôi, cái nền của tử vi là chính tinh và tứ hóa, tất cả các sao còn lại chỉ thêm vào cho bài tóan tử vi dễ tính mà thôi. Bởi vậy chưa biết phút cuối cùng kết quả sẽ ra sao, nhưng tôi chỉ muốn bắt đầu bằng cái đơn giản nhất, tức là tứ hóa.

Quan hệ ngũ hành Mệnh Cục trung Tử Vi

(Bài viết của Atmao75)

Ngũ hành Mệnh: Chính là ngũ hành nạp âm của năm sinh

Ngũ hành Cục: là ngũ hành nạp âm của cung an mệnh.

Ngũ hành nạp âm là một phát kiến lý thú của phương Đông. Nó đã kết hợp ngũ hành thiên can (được coi như khí – biểu trưng cho vật chất, không gian) với địa chi (biểu trưng cho thời gian).

Quay lại quan hệ Mệnh-Cục:

Mệnh là ngũ hành nạp âm của năm sinh nên nếu không xét tính âm dương thì hai năm chung một ngũ hành mệnh.

Ngũ hành cục là ngũ hành nạp âm của cung an mệnh, do vậy nó liên quan chặt chẽ hơn với một cá nhân được sinh ra do liên quan đến thiên can năm sinh, địa chi năm sinh, tháng sinh và giờ sinh.

Bây giờ xét đến quan hệ ngũ hành Mệnh và ngũ hành Cục:

Ta có thể nói rằng Cục đại diện cho tính cá nhân nhiều hơn Mệnh (do được cá biệt hóa bằng năm sinh (thiên can, địa chi), tháng sinh (1-12) và giờ sinh. Vậy trong mối quan hệ Cục Mệnh thì cái gì là môi trường cho cái gì hình thành và phát triển từ đó sẽ dẫn đến quy luật sinh khắc tốt xấu giữa hai thực thể này.

Có nhiều sách nói đến quan hệ ngũ hành Cục – Mệnh, nhưng tóm lại đều dẫn ra hai kết luận trái ngược nhau như sau:

1. Cục sinh Mệnh thì tốt nhất, từ đó suy ra các trường hợp sinh, khắc Cục-Mệnh khác. Cơ sở của kết luận này là cho rằng Cung mệnh là môi trường cho Mệnh phát triển, do đó phải sinh cho Mệnh mới tốt. Còn được Mệnh sinh thì mệnh không được bồi bổ, do đó bị hao tán. Kết luận này dựa trên việc coi trọng năm sinh là yếu tố chính trong số mệnh.

2. Mệnh sinh Cục thì tốt nhất. Cơ sở của kết luận này là cho rằng Cục được xác định bằng những yếu tố mang tính cá biệt cho từng đối tượng được xét số mệnh nên phải được Mệnh là ngũ hành nạp âm sủa năm sinh sinh cho là tốt nhất.

Vậy kết luận nào là hợp lý?????

..

Bây giờ xét quan hệ Mệnh, Cục, Sao thủ mệnh

- Truyền thống thì cho rằng Mệnh đại diện cho đương số nên Mệnh sinh Cục thì tốt, từ đó triển khai ra.

- Sau đó xét đến quan hệ Mệnh và Sao thủ mệnh (cao cấp hơn nữa là sao Bản mệnh, nghĩa là đương số ăn vào sao này, sao này quyết định tính cách, vận hạn, phúc phần của đương số).

- Tuy vậy, điều này cho ta nhiều nghi vấn. Việc xét Mệnh (theo ngũ hành nạp âm năm sinh) thì rất khó để cá biệt hóa giữa người này với người kia, nghĩa là rất nhiều người sinh cùng một năm - có chung Mệnh. Nếu ta xét Cục thì tính cá biệt sẽ cao hơn (5 cục cho một Mệnh).

- Xét quan hệ Mệnh Cục Sao Thủ mệnh, nếu lấy mô hình Thiên-Địa-Nhân của người xưa thì Mệnh ứng với Thiên mang tính bao quát, toàn thể chung cho nhiều người (mọi người đều sống trong vũ trụ và có chung một vũ trụ - Thiên), mô hình tương ứng trong Tử vi chính là Mệnh (nhiều người chung một Mệnh).

- Khi xét đến Cục, là ngũ hành nạp âm của cung an Mệnh. Nếu xét sự tương ứng với vũ trụ thì cung an mệnh chính là Trái đất, nơi mọi người sinh sống. Nếu dùng mô hình Thiên-Địa-Nhân ta có thể coi Cục tương ứng với Địa.

- Phần còn lại là Nhân chính là sao thủ Mệnh.

Khi đã chấp nhận mô hình Thiên-Địa-Nhân ~ Mệnh-Cục-Sao thủ mệnh thì sẽ có một số kết luận sau dựa trên thuyết Âm dương-Ngũ hành:

- Quan hệ tương sinh là tốt. Tốt nhất là Thiên sinh Địa, Địa sinh Nhân. Đúng theo quy luật tự nhiên

- Quan hệ hòa (cùng hành) cũng tốt. Không hỗ trợ cũng không hại nhau. Đây là trường hợp ổn định nhất, dễ đạt trung dung.

- Trường hợp khắc thì Thiên khắc Địa, Địa khắc nhân là tệ nhất.

Nếu mô hình này đúng thì cho thấy rằng nếu mệnh tương sinh với Cục và chính tinh thì cá nhân có thiên thời, địa lợi, do đó thuận lợi cho mọi việc. Ngược lại, bị khắc thì phải Nhân định thắng Thiên (chẳng ai nói nhân định thắng Địa cả. Muốn thắng Địa chắc phải nghiên cứu Phong thủy.) Do vậy những ai có cá tính mạnh mẽ (sao thủ mệnh sát tinh, hãm càng tốt) thường lại hay muốn nhân định thắng thiên.

..

Hoàn toàn đúng! Thuyết tvn cũng có quan điểm tương tự. Đối với cá nhân con người,tức đ/s thì Thiên mệnh (nạp âm ), biểu hiện qua hai vòng Lộc Tồn và Thái Tuế là Tài Thiên. Cục, biểu hiên qua Vòng Tràng sinh là Tài Địa. Chính tinh thủ mệnh,biểu hiện qua vòng Chính tinh là Tài Nhân.

Mô hình tam tài này là tổng quát và đúng đắn nhất!

Vậy mỗi con người về thể xác và tinh thần có thể coi như có tam tài,tam LỚP.

Và tương quan giữa các Tài các Lớp không đơn giản như thế này:

Mỗi cá nhân con người là sự đồng điệu của tam tài,tam lớp!

Khi hoàn cảnh bên ngoài phát sinh sinh hay cùng ngũ hành với Tài Thiên của ta thì ta nói đắc Thiên thời,với Tài Địa của ta thì ta có Địa Lợi,với Tài nhân của ta thì ta có Nhân Hòa.Và ngược lại.

vài dòng chia sẻ.

tvn

Việc hãm của chính tinh là rất cần thiết trong trường hợp Mệnh khắc sao thủ mệnh. Điều này cho thấy cá nhân dám đứng lên chống lại số phận (còn nếu chính tinh đắc địa thì thuận lợi rồi, đâu còn động lực để đấu tranh với ngoại cảnh). Tuy nhiên mấy ai nhân định thắng thiên đây? Người thắng sẽ làm quan to (thành công rực rỡ)

Mệnh tọa cường cung, tế sát chế hóa chi lý

(Bài viết Whitebear, Atmao75, ThienA)

Câu này hiểu rốt ráo như thế nào?

Mệnh đóng vào cường cung là cường theo ngũ hành địa chi cung viên hay cường theo ngũ hành cục?

Nếu mệnh không đóng cường cung thì có cần xem kỹ lẽ chế hóa không?

Quả là nan giải!

..

Câu hỏi rất hay. Cũng vừa hay, tôi cũng có quan tâm và đang thực hiện việc bình chú lại các câu phú quan trọng trong toàn thư.

1-Trước hết, việc đầu tiên chúng ta phải đặt ra, đó là mối quan hệ của Cục, Tinh Đẩu và Mệnh. Các đối tượng này, dựa trên quan hệ Mệnh Cục phân ly hay Mệnh cục kết hợp, mỗi cái đưa tới một trường phái tử vi nam phái khác nhau.

2-Trên quan điểm kết hợp phi hóa bắc phái và phép hội sao nam phái trên nền lưu cục, tôi cho rằng câu phú trên đúng nhưng chưa đầy đủ, theo nghĩa nên bổ sung thành

Mệnh tọa cường cung, tế sát chế hóa phi tinh chi lý

Tức là, đối với cường cung, phải khảo sát cả tương tác phi tinh lẫn tương tác tinh đẩu một cách cẩn thận.

Lý do, khi một đối tượng tổng quát (bao gồm mệnh) ngụ tại một cường cung đủ mạnh, thì tương tác của nó đối với các đối tượng khác sẽ rất nhạy cảm. Chính vì thế, một sát tinh không được chế hóa, hoặc một phi tinh định hướng cách cục sai hướng, sẽ đưa tới sự sai khác về kết quả rất lớn.

3-Cường nhược của Tứ hóa, theo lý thuyết chính huyền sơn nhân, dựa trên nền tảng của cục.

...

Trên topic Cục, báo HoaAn có nói Tọa là vị trí của Đế tọa, như vậy Mệnh Tọa Cường cung có thể hiểu là phải xét Mệnh, Cung có sao Tử Vi và Các cường cung như Phúc, Tài, Quan...???

..

Hay.

Đúng là tọa, còn có thể được hiểu là đế tọa.

Và thực sự, sử dụng ngôi tử vi định cường nhược cho tài nhân thông qua phi hóa bắc phái cũng hoàn toàn không sai.

..

Tuy nhiên cũng có người hiểu rằng, khi xem vấn đề gì cần định cung trọng điểm (cũng có thể gọi là cường cung) sau đó là dùng vế thứ 2.

Cách hiểu 1: Mệnh, Tọa, Cường cung hoặc Cách hiểu 2: Tìm cung trọng điểm!

Không hiểu thực sự ý tác giả là gì?

..

Tinh Lâm miếu vượng, tái quan sinh khắc chi cơ.

Vậy thử hỏi "tinh lâm nhàn hãm" thì quan cái gì?

Sinh khắc chi cơ ở đây là sinh khắc ntn? Sinh khắc ngũ hành địa chi cung? Ngũ hành cục cung? Ngũ hành năm sinh theo chi? Ngũ hành cục?

...

- Tinh lâm miếu vượng, tái quan sinh khắc chi cơ.

Đắc hãm tinh đẩu-->ngũ hành

Mệnh tọa cường cung, tế sát chế hóa chi lý.

ngũ hành--->Đắc hãm+ tính lý tinh đẩu

Vậy đây là tương tác của lý thuyết cung khí và lý thuyết cách cục.

..

- Tinh lâm miếu vượng, tái quan sinh khắc chi cơ.

Mệnh tọa cường cung, tế sát chế hóa chi lý.

Nếu tách hai câu này ra, thì còn có thể hiểu lầm cường cung là cung trọng điểm; Hay tọa là đế tọa. Nhưng khi hai câu đi cạnh nhau, thì ý nghĩa của nó trở nên rất rõ ràng.

...

Khi mệnh là cường cung, thì cung nhị hợp sẽ là nhược cung và ngược lại. Cường hay nhược chẳng phải do Đế tọa hay tinh đẩu.

Sát khí đi cùng cường cung mới thực sát. Sát tinh đi cùng nhược cung như nước động trên mặt, họa đến chóng qua, hư nhiều hơn thực.

Họa lớn là sát khí nằm cường cung. Cải cách kiểu không kiếp đóng cường cung sẽ triệt để và quyết liệt vì đi tận gốc rễ. Không kiếp hay sát khí đi cùng nhược cung, cách mạng từ ngoại vào nội, nhiều khi chỉ động tới da thịt, không tới cốt tủy.

Tương tự với cách dụng hóa khí, hóa khí cường cung như đi tận tủy cốt, hóa khí nhược cung nhiều khi hời hợt, giả cách.

Chính vì mất gốc cường nhược nên tử vi dễ kiểu 50/50 khi cân họa phúc.

...

Có những ghi chú hiện hiện giữa lá số tử vi, chẳng qua hậu học không thèm dùng tới thôi bạn ah, trong đó cường cung/ nhược cung là 1 trong các số đó

Đả thông được mảng này sẽ phân tách rõ địa bàn, nhị hợp ( nhị hợp địa bàn và nhị hợp tinh đẩu), và nguyên lý thăng giáng của khá nhiều tinh đẩu.

..

Cái này dùng xem tiểu hạn 1 năm thấy ngay tinh đẩu tương tác thật giả, nên mỗi lá số có cả trăm sự kiện tinh tế để xem, mỗi sự kiện tách thành 2 lớp nữa.

Còn về lý thuyết thì chứng minh không khó, vì các nguyên lý rời rạc đã có, nhưng không được khái quát hóa cho cả chuỗi hệ thống nên không thể nhận ra. Tôi chỉ nhận ra hệ thống này vài năm trước khi xem tiểu vận, nhị hợp, hóa khí đả thông nhị hợp tinh đẩu khi xem vận.

Ví như Nhờ kỹ thuật đơn giản này, ta biết năm nay Bính Liêm kỵ và Thiên đồng hóa lộc, khi nào cây thối tại ngọn, hay gieo hạt phân tán tận gốc. Cái này quyết định cơ hội thành bại, xu hướng tìm kiếm cơ hội phát triển, hay củng cố hệ thống từ đâu.

Thường chỉ ứng dụng nhiều cho quản trị cá nhân, hay hệ thống do cá nhân quản trị, không thích thú lắm để bói toán

..

Có vẻ như ThienA đang dùng Dịch lâm của Tiêu Diên Thọ đời Hán vào luận tam hợp- tam hội trong xem hạn tử vi.

Tam bàn thiên địa nhân

(Bài viết Brian, tigerstock68)

Xem niên hạn có nhiều trường phái xem lưu cung khác nhau, nhưng thông thường là kết hợp cả ba cung lưu niên và các lưu cung tương ứng

Nhiều tác giả chỉ xét Tiểu hạn, còn tất cả các cung khác cố định, trong khi nhiều tác giả khác sử dụng các phép lưu cung sau:

1-Lưu Niên Đại Vận, được coi là lưu mệnh, và sau đó lưu thêm tất cả các cung còn lại, bởi Tiến Sĩ Vuivui, còn gọi là Nhân Bàn. Theo đó, đây là cung nói về "kết quả của năm đó".

2- An theo Tiểu Hạn được coi là Lưu Mệnh, và qua đó an Lưu Phụ, Lưu Thê.. còn được gọi là Thiên Bàn. Có thể nói, đây là nghiên cứu con người, là diễn tiến cho bản thân. (Tuy nhiên, rất nhiều học giả phản đối cách xem lưu cung theo cách an tiểu hạn, dù rằng chính cung tiểu hạn vẫn được áp dụng.)

3-Cung An Lưu Thái Tuế, được coi là lưu mệnh, sau đó an ra các lưu cung khác. Người ta còn gọi là Địa Bàn vì cung cố định. Điển hình nhất của trường phái này là phái Tử Vân của Đài Loan. Có thể nói, đây là nghiên cứu cách trời đất ưu đãi ta, xem những biến chuyển cực đoan của vận mệnh, vì thái tuế có nghĩa là trời.

Kết hợp các trường phái lưu cung thì:

Thiên bàn - Lưu Niên Đại Vận > kết quả năm

Nhân bàn - Lưu Tiểu Hạn > diễn tiến năm

Địa bàn - Lưu Thái tuế > thời thế ( trời đất ưu đãi )

..

Nếu việc kết hợp ba cách xem niên vận ( vận 1 năm ) ứng với nghiệm lý thực tế:

Địa bàn ( Cung Lưu Thái tuế ): thời thế, hoàn cảnh

Nhân bàn ( Cung Tiểu hạn ): diễn biến vận hạn ( ứng xử bản thân )

Thiên bàn ( Cung Lưu Đại vận): ứng kết quả

Thì ý nghĩa Thiên bàn - Địa bàn - Nhân bàn ( an theo lá số nguyên thủy cũng tương tự)

1. Thiên bàn ( lá số nguyên thủy ): cho biết sơ bộ cuộc đời

2. Địa bàn ( Cung mệnh An tại Thân ): cho biết thời thế, hoàn cảnh

3. Nhân bàn ( Cung mệnh An tại Phúc ): diễn biến, ứng xử của đương số

...

Trang 98 Tử vi đấu số toàn thư- Tập 1 ( Nhà xuất bản Thời đại ) viết

“Thiên Bàn: Là sơ đồ sao Tử vi được sắp xếp căn cứ vào ngũ hành nạp âm của cung an Mệnh, đây chính là loại lá số chủ yếu trong mệnh lý Tử vi Đẩu số, thể hiện các thông tin về tính cách, dung mạo, sự nghiệp, tài vận, hôn nhân, phú quý, họa phúc, yểu thọ trong một đời người cùng các điềm triệu tiên thiên về lục thân như cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái.

Nhân bàn: Đây là sơ đồ động thái về sự biến hóa của các vận hạn như đại hạn, tiểu hạn, lưu niên, lưu nguyệt, lưu nhật. Nhân bàn phản ánh các thăng trầm trong các giai đoạn của đời người.

Địa bàn: Là sơ đồ bố cục sao căn cứ vào ngũ hành nạp âm của cung Thân. Địa bàn thể hiện các thông tin mang tính tiên thiên, đồng thời phản ánh được về căn khí tính tình ngầm ẩn của con người. Ví dụ một số người có được địa vị xã hội cao, nhưng lại có những hành vi bất lương đê tiện, đó là do họ có cung mệnh thiên bàn tốt nhưng cung mệnh địa bàn lại xấu “

Như vậy:

Thiên bàn: Lá số nguyên thủy

Nhân bàn: Lá số lưu vận

Địa bàn:: Lá số cung mệnh an tại cung thân

...

Ls Thiên bàn của trung châu nó chính là cái lá số của các bạn đang có

Nhưng phái này có thêm địa bàn và nhân bàn. Vậy đầu tiên ta hãy tìm hiểu và bàn luận xem 2 cái lsnày nó nói lên cái gì đã.

Địa bàn tổng cộng có 14 chính diệu. Về cách an, toàn bộ giống như Thiên bàn, trong đó thì phép an sao Tử Vi có khác.

Tử vi của "Thiên bàn" là lấy thiên can của Năm sinh và ngũ hành Dần thủ, để tìm Nạp âm của cung mệnh, rồi lấy Nạp âm ngũ hành để tra Cục số., thì xác định được cung vị của Tử Vi.

Tử Vi của "Địa bàn" cũng vậy, ta lấy thiên can của Năm sinh, và ngũ hành Dần thủ, nhưng không phải để tìm ngũ hành nạp âm của cung Mệnh, mà là tìm ngũ hành Nạp âm của cung Thân. Do đó "Địa bàn" lấy cung Thân làm chủ. Sau đó tra được nạp âm của cung Thân, chiếu theo phương pháp của "Thiên bàn", căn cứ ngũ hành Cục số, để tìm cung vị Tử vi.

Sau khi đã biết "Địa bàn", ta rất dễ xem xét được căn nguyên của thiên tính và bản chất Tiên thiên của mệnh tạo. Nhờ vậy, ta sẽ hiểu tại sao rất nhiều người có địa vị cao quý trong xã hội, nhưng họ lại có những hành vi nhỏ mọn rất là hạ lưu. Đây là vì các sao của cung mệnh tại "Địa bàn" rất tốt, nhưng các sao của cung mệnh ở "Thiên bàn" tiên thiên lại không cao quý cho lắm.

Trái lại, có rất nhiều người nghèo nàn, hoặc không được hưởng một sự giáo dục tốt, nhưng họ lại có tư tưởng rất thanh cao, và hành vi rất đáng khâm phục. Đây là do các sao ở cung mệnh ở "Thiên bàn" phần nhiều là sao xấu, nhưng ở "Địa bàn" lại có nhiều sao rất tốt cung hội chiếu.

Các sao của "Địa bàn" cũng vậy, cần phải chú ý xem chúng nhập miếu hay lạc hãm, sinh vương hay tử mộ, để phân biệt sự cao thấp của chúng.

Lục tiên sinh chủ trương dùng "địa bàn" để tìm "căn nguyên tiên thiên". Đây là điểm rất đáng chú ý, không phải là phát biểu của một người hiểu biết nửa vời. Nhưng dùng "địa bàn" để tính "giao thế thời" thì Lục tiên sinh hoàn toàn không có nhắc đến.

Theo Vương Đình Chi, thì mỗi giờ sinh của một người có thể chia thành "tam bàn" Thiên - Địa - Nhân. Điều này, cần phải căn cứ vào Tổ đức để phân biệt, chứ không nhất định giới hạn trong "giao thế thời".

Liên quan đến phương pháp an sao ở "địa bàn" và "nhân bàn", điều mà xưa nay vẫn được coi là "bí truyền", thực ra rất là đơn giản.

Trước tiên, cứ theo phương pháp an sao của mệnh bàn, mệnh bàn này tức là "Thiên bàn", rồi lấy cung Thân của "thiên bàn" đổi thành cung mệnh, dùng can chi của cung Thân để định Cục và Ngũ hành, an Tử vi và Thiên phủ, như vậy là được thêm một bàn khác, gọi là "địa bàn".

Nếu không dùng cung Thân, thì lấy cung Phúc Đức của "thiên bàn" đổi thành cung mệnh, rồi dùng can chi của cung Phúc Đức để định cục ngũ hành, sau đó an Tử vi và Thiên phủ, như vậy là được thêm một mệnh bàn khác nữa, gọi là "nhân bàn", nói một cách chính xác thì đay là "nhân bàn của địa bàn".

Nếu cung Mệnh và cung Thân đồng cung, thì "thiên bàn" và "địa bàn" hoàn toàn giống nhau. Nếu cung Thân và cung Phúc đức đồng cung, thì "địa bàn" và "nhân bàn của địa bàn" hoàn toàn giống nhau.

Chú ý phân biệt, "Thiên bàn" - "Địa bàn" - "Nhân bàn", chỉ có cung Mệnh là khác cung độ, trong đó 14 chính diệu được bài bố khác nhau, còn các sao khác ở các cung viên đều không thay đổi.

Cục

(Bài viết của anh Whitebear)

Trong cấu trúc của tử vi đẩu số, cục là khái niệm đóng vai trò trung tâm. Trong nền tảng của lãnh vực, nó là cơ sở để nghiên cứu cấu trúc cách an sao và hình thành lá số tử vi, số của cục có thể coi là việc hiện thực hóa khí tiên thiên trong nền tảng hậu thiên. Từ đó, ta có thể đưa đến lý thuyết về vòng trường sinh.

Xét bản chất, thì cục và Mệnh là hai yếu tố chả có liên quan gì đến nhau. Khi ta xét tương tác giữa Cục và Mệnh, thì cái gì sẽ quyết định độ số của cách cục, cái gì sẽ quyết định tính khả dụng của cách cục?

Chính vì vậy, do không hiểu bản chất vấn đề rất nhiều người đã phạm phải sai lầm khi thực hiện lối nghiên cứu xôi thịt và chuồn chuồn điểm nước, châu chấu đá cột tre, đó là mang cục so với mệnh, rồi phân độ số xem cục khắc hay sinh mệnh.... rồi tự hỏi tại sao nó không ứng.

Nền tảng hình thành của Tứ Trụ là Ngũ Hành Đơn, nhưng Nền Tảng của Tử Vi lại rất gần với Ngũ Hành cổ, cụ thể hơn là Ngọc chiếu định chân kinh.

Cùng một cách cục Tử Vi Tý Ngọ, nhưng nó sẽ ứng với các loại cục khác nhau, như Giản Hạ Thủy, Phích Lịch Hỏa, Bích Thượng Thổ, Tang Đố Mộc, Hải Trung Kim. Và đây là các yếu tố rất quan trọng để luận mệnh.

Cùng là một cái vỏ, nhưng ruột sẽ rất rất khác nhau. Cùng thì anh tinh nhập miếu, nhưng người thì hùng dũng hiên ngang, người thì kéo lê mã tấu kiếm cơm nơi bến xe.

Địa chi sẽ quyết định miếu hãm, nhưng tương tác ngũ hành nạp âm mới thực sự là vai chính diễn ra của trò chơi. Tiếc rằng người ta cứ nhìn thấy mặc quần áo vest thì khán là nhà giàu, cứ thấy mặc quần xà lỏn rồi khán là nhà nghèo, rồi băn khoăn không hiểu vì sao vớ phải chàng sở khanh.

...

Một vấn đề thứ hai, sẽ giải quyết ra sao với các lá số có cùng Tử Vi, nhưng khác tứ trụ. Hiển nhiên là, tử vi được xây dựng dựa trên SỐ ngày âm lịch, còn Tứ trụ được dựa trên CAN CHI ngày. Vì vậy, sẽ có 2 lá số tử vi khác nhau 60 năm, nhưng số phận hoàn toàn khác nhau.

Ngoài ra một khía cạnh quan trọng, đó là khi khảo sát lá số tử vi bằng các kỹ thuật của Lý Thuyết Tử Vân, thì các sao ngày được một số người không biết bỏ qua. Ngoài ra, có một số chuyện sinh ra khi các cặp sao Quang Quý Thai Tọa trùng nhau, mặc dù tứ trụ khác xa nhau. Chúng ta dễ thấy, có một nền tảng rất lớn nằm sau những vấn đề này.

Cách giải quyết vấn đề nằm ở một số kĩ thuật bí mật của tử vi, để khán Can Chi Ngày và các tương tác giữa chúng. Các kĩ thuật này được lan truyền trong nhiều hệ phái khác nhau, nhưng không được ghi chép vào các sách vở tử vi lan tràn trước năm 1975.

Các tương tác nạp âm của 4 trụ và cục, sẽ đóng vai trò nền tảng của tử vi.

Ngay trong VDTTL, cũng có thể thấy ông có xét tương tác giữa 4 trụ, cụ thể hơn là trong vòng 2 trang đầu tiên của phần luận giải lá số. Tuy nhiên, mọi thứ bị cắt ngắn đến mức tối thiểu, và bị bỏ qua bởi đai đa số tử vi gia.

Quan sát kĩ trong những gì diễn ra ở tử vi công cộng, theo nghĩa ai cũng có thể truy cập được nếu biết internet, và biết đọc sách bán ngoài chợ, ta có thể nhận thấy dấu vết và hình dáng của các kĩ thuật này phảng phất đâu đây trong các bài luận tử vi của các cao thủ.

1-Bác Indochine với khẳng định, trước 30 tuổi xem mệnh, sau 30 tuổi xem cục. Đây là một hệ quả nhỏ, và một mẩu trực tiếp của một bức tranh lớn.

2-Đã từ vài năm, bác TBGG đã nắm được một phần lớn của kĩ thuật này, áp dụng với tháng sinh.

3-Alex cũng đã có nhận thức về tương tác này, khi nhấn mạnh về độ số khi cùng/khác tính âm dương của mệnh và năm sinh, bản chất là tương tác về tính âm dương của NH mệnh và cục.

4-Trong các kĩ thuật của một số lộ phái, người ta sử dụng CỤC để luận tính cách. Ví dụ, thủy cực vương thì sẽ chủ trí.....

5-Còn nhiều nữa, tôi tạm thời đói quá, đi chơi, uống bia, nghe nhạc và uống sữa.

...

Khi nghiên cứu về việc khán vận hạn ở mức độ hạn ngày, dễ thấy nền tảng đó xuất hiện một cách dễ dàng, khác hoàn toàn với việc nghiên cứu vận tháng và vận năm.

Theo tôi được biết, nhiều người đã tiếp cận đến việc giới thiệu các kỹ thuật của Lục Hào và Lục Nhâm Đại Độn vào trong tử vi đẩu số. Trong đó, mang ra diễn trên diễn đàn thì đã xuất hiện một số người dụng nó trên nền của Tử Vi Bắc Phái Phi Tinh. Một số người khác thì có sử dụng tính thần sát để luận khán. Có một số người cũng đã biết dụng đến tương tác ngũ hành đơn để luận đoán. Nhưng tất cả đều dấu chiêu, có điều tôi nhận thấy rất rõ nét.

Ở mức độ tiên thiên, cụ thể hơn là bổ sung cho kỹ thuật của Tiên Thiên tứ hóa phi tinh kỳ phổ, thì Tiên Tông Phái cũng sử dụng chúng để định độ số cho tứ hóa. Nên các cách cục kiểu nghịch thủy kị, tuyệt mệnh kị... sẽ hoàn toàn khác xa nhau về kết quả, dù là cùng một hình phú cũng như tương tác phi cung.

Một tháng có ba mươi ngày. Không mất tính tổng quát, giả sử ngày 1 là ngày giáp Tý, nên ngày 11 là Giáp Tuất, ngày 1 tháng sau, nếu tháng có 30 ngày thì sẽ là Giáp Ngọ. Vậy sau 2 tháng, vị chi tuần giáp sẽ quay trở lại.

Đối với các tháng thiếu, gồm 29 ngày chẳng hạn, thì các sai số sẽ được add up lại, và hình thành nên sự vận hành của tuần giáp trên 12 cung. Vì vậy, một yếu tố khác sẽ cần phải đặt ra để correct các sai số này, bổ sung vào Lưu mùng một.

Cũng sẽ là một thiếu sót rất rất nếu quên không đề cập tới các kỹ thuật của Bảo Lộc Phái. Thay vì việc nghiên cứu lý thuyết khí của tinh đẩu và lý thuyết cung khí, họ sử dụng trực tiếp vị trí Thiên Lộc của Can của ngày sinh để luận đoán, đồng thời Nạp lục thân vào trong lá số.

Nhìn bề ngoài, nó hoàn toàn tương tự với việc Nạp lục thân vào lá số dựa trên nền tảng ngũ hành nạp âm Mệnh mà bác Indochine đã từng tương tự. Tuy nhiên, vì đây là một phái bí truyền không dạy ra ngoài, nên tôi không có một chút kiến văn nào sâu hơn về kĩ thuật của họ.

Nói chém gió vậy thôi, nhưng tôi đã quên hết tử vi, không có bất cứ khả năng gì trong việc luận lá số, và không có khả năng để trả lời mọi thắc mắc. Lâu lắm rồi, tôi không xem lá số nào.

Nên có gì sai sót, mong các bạn chỉ giáo cho tôi, tôi xin được lắng nghe ý kiến. Mọi người trao đổi học thuật, còn tôi xin được ngồi yên xem xét

...

Thái tuế nhập quái phái, nói rằng, khi ta khảo sát sự tương tác giữa hai lá số, ta có thể nhập địa chi của một người A vào lá số của người B kia để coi như cung mệnh ẩn, và dụng thiên can của A để an tứ hóa lên lá số của B để hiểu tương tác giữa hai lá số.

Tùy vào ngộ tính và mức độ lãnh hội, mà ta có các biến cách khác nhau. Người ta có thể dễ dàng kết hợp lý thuyết phi yến quỳnh lâm vào thái tuế nhập quái, đồng thời sử dụng trong phi vận tử vi đẩu số

Một trong những analog của nó, là lý thuyết lưu cung, khi ta biến thời gian trở thành không gian thông qua biến đổi poincare'. Những cái này là tầm thường, mọi người có thể đọc qua các bài viết về lý thuyết Tử Vân do bác VDTT đề cập, và tùy duyên mà nắm.

Hình ảnh

Tuy nhiên, một trong những biến cách thú vị nhất của kỹ thuật này, đó là sử dụng CỤC để khán hôn nhân có tốt hay không. Đây là một kĩ thuật đã biết tới từ lâu trong sách vở.

Cục vì là cơ sở để an 14 chính tinh, nên là cơ sở chung cho cả Bắc Phái lẫn Nam Phái Tử Vi Đẩu Số. Tuy nhiên, vì cơ sở luận đoán của hai phái khác nhau, nên cách sử dụng CỤC cũng khác xa nhau.

Đối với Tử Vi Nam Phái, bỏ đi những thành phần râu ria không kiểm chứng được, thì quay đi quay lại chỉ có xoay quanh các thứ:

  • 1- Lý thuyết về Thập Nhị Huyền Đồ, tức là 144 cách cục, và các suy rộng của chúng, ví dụ như Tử Vi Tinh Quyết của Mr Chi. Đây có thể coi là nền tảng cơ bản của Nam Phái, nhưng chỉ là nghiên cứu về vỏ ngoài của bộ chính tinh, tức là Hình Phú của chính tinh.
  • 2-Lý thuyết về tính Nam và Bắc đẩu của tinh đẩu, và các chế hóa ngũ hành. Đây là cơ sở cơ bản của phép Hội sao của Nam phái.
  • 3-Lý Thuyết về Cung Khí, nói về khí của cách cục. Theo tôi, đây là đỉnh cao của Nam Phái, là cái dấu nghề của các môn phái và là chủ đề xuyên suốt topic này.
  • 4-Lý thuyết về cách cục, đây là cái toàn tạp thư, được lan truyền trong dân gian, gồm hàng ngàn hàng vạn câu phú, được viết bởi đủ mọi thành phần xã hội, giang hồ thuật sĩ. Đại đa số nó không hề có cơ sở khoa học, chỉ có cơ sở nghiệm lý (trên vài trường hợp rồi chém) nên được coi là cục gân gà ai ai cũng phải nhá và ai ai cũng ghét. Bỏ không đọc thì chả biết khán cách nào, còn cả đời mà học thì chỉ tốn thời gian, mà thành tựu không chắc đã có bao nhiêu. Có thể coi nó là vỏ của cách cục

Nhiều người dành vài chục năm cuộc đời chỉ có luyện đi luyện lại đống phú, mà kĩ thuật thu được chả được bao nhiêu, xem tính cách chung chung hoặc tương lai 30 năm sau thì rất giỏi, nhưng cứ hỏi hạn quá khứ sắc nét hoặc hạn có kiểm chứng được thì lại ú ớ rồi lảng sạch.

Tử Vi Nam Phái, dù đi kiểu gì đi nữa, vẫn cứ quay về nền tảng là phép hội sao để ứng dụng bốn luận điểm trên. Nguyên lý cơ bản của phép hội sao thì chắc là ai ai cũng biết, nằm ngay trong Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư, gọi là Tứ Yếu Thập Dụ Bát Pháp. Ta có thể thấy, dựa vào việc cục của cung mà đưa tới các kết quả khác nhau về phép hội sao.

Tuy nhiên, vì mức độ lãnh ngộ có hạn, nên nhiều người tự sáng tác, sinh ra các học thuyết quái dị, xa rời nguyên lý kiểu như mệnh VCD thì xem cung thiên di, cung di là đối thủ..... Những trường hợp đó, tôi xin miễn bàn ở đây, vì chắc chắn sẽ có nhiều người ở đây phật ý.

Ngược trở lại, cơ sở của Tử Vi Bắc Phái Phi Tinh lại hoàn toàn không dựa trên phép hội sao. Kỹ thuật của nó dựa trên ba khái niệm.

  • Điểm: "Tử vi đấu sổ 12 cung vị: các cung, ngũ hành, tinh diệu ở cung tọa mệnh gọi là "Điểm",
  • Tuyến: lưỡng nghi (Âm Dương) tức là "Tuyến",
  • Diện: tam phương, tứ chính, tứ hóa tức là "Diện".

Theo "Điểm Tuyến Diện" mà xét biến hóa sẽ hé mở mệnh bàn diễn biến vô cùng vô tận,.. chính là "Vô tự thiên thư" (sách trời không chữ)! "

Nói thì nhiều, nhưng đây là cách tôi hiểu về lãnh vực này, trong đó phép lưu cung, phi vận... có thể coi là các phép quay trong không gian ba chiều.

Câu hỏi: Cục sẽ nắm vai trò gì trong vấn đề này. Có phải nó sẽ quy định hình dáng của các đối tượng hình học hay không, chắc mọi người đều đã đoán ra.

...

Như đã đề cập, bản chất của lý thuyết phi vận tử vi đẩu số, đó là phép quay trên không gian 12 chiều và tương tác tứ hóa giữa các vùng không gian khác nhau. Tùy vào cách các bạn tiếp cận mà có các kiến giải khác nhau, ví dụ như tôi, tôi hiểu lý thuyết giống hệt lý thuyết M và lý thuyết dây.

Cùng một kĩ thuật, cụ thể hơn là phép quay, khi áp dụng vào các trường hợp khác nhau, sẽ sinh ra:

  1. -áp dụng cho phạm trù Địa, người ta gọi là Thái Tuế Nhập Quái.
  2. -áp dụng cho phạm trù Nhân, tức là cung chức, người ta gọi là kỹ thuật mượn cung.
  3. -Áp dụng cho phạm trù Thiên, người ta gọi là phi vận tử vi đẩu số.

Vậy cục sẽ đóng vai trò gì ở đây? Tôi hiểu, tương tác tứ hóa giống như là các graviton được trao đổi trên các M-brane, và cục-hiểu theo nghĩa nào đó chính là đo độ cường nhược của chúng.

Hình ảnh

Ví dụ, lấy vợ, dùng thái tuế nhập quái biết là vợ hại mình. Nhưng, hại tới mức nào, cãi cọ hay chửi, hay túm tóc lên gối tát tới tấp, ấy lại là chuyện khác.

Tất nhiên, các chuyên gia cao thủ tử vi nghiên cứu theo trường phái chuồn chuồn điểm nước, ném đá ao bèo sẽ không quan tâm tới chuyện này. Bỏ cục và vòng trường sinh đi cho nhẹ lá số, xe máy bỏ hết phanh, thắng, đèn pha, cốp, bảo hiểm xe, túi khí... đi chạy cho nó nhanh, bán bớt áo cứu hộ, phao đi để có tiền uống rượu cho sướng, còn ai chết đuối là có số.

Lý thuyết Cung Trọng Điểm

Cung vị trọng điểm tức là cung vị quan trọng nhất. Điều này nghĩa là, khi suy đoán một sự kiện nào đó, chúng ta sẽ phát hiện trong số một vài cung vị liên quan đến nhau, sau khi nhập vào một số điều kiện/dữ kiện đã biết, luôn có một cung có ảnh hưởng mạnh nhất. Trong trường hợp này, chúng ta không cần thiết phải chú ý đều tới tất cả các cung vị (bản mệnh, đại hạn, lưu niên) mà chỉ cần chú ý tới “cung trọng điểm” là được. Sau khi tìm được cung trọng điểm, chúng ta chỉ cần chú ý tới các đặc tính của nhóm sao trong cung đó, kết hợp với việc xem xét tác động của vận hạn, tứ hóa đối với cung vị này là có thể suy luận chiều hướng phát triển của nó về sau. Nhưng dự kiện cần thiết phải nhập vào, bao gồm:

  1. năm tháng xảy ra sự kiện hoặc năm tháng xảy ra biến động, năm tháng kết thúc sự kiện.
  2. năm sinh của người liên quan (cung vị nhập quái).
  3. ngày tháng xảy ra những sự kiện đặc biệt.

Dưới đây chúng tôi xin nêu 3 ví dụ để tiện suy ngẫm.

Ví dụ 1: Giả sử người A, ở đại hạn Canh Tý (năm Giáp Tuất) được tuyển vào công ty hiện đang làm việc, nay thấy không hài lòng lắm với công việc, muốn tìm một công việc khác và muốn biết: có cơ hội đổi việc không? con duyên phận với công ty cũ hay không?

Từ các dữ liệu người A đã cung cấp ở trên:

  1. đại hạn Canh Tý năm Giáp Tuất vào công ty
  2. lưu niên Bính Tý công việc không thuận lợi,

Sau khi vận dụng vào lá số, chúng ta có thể thấy, cung trọng điểm của sự việc này là cung Thìn. Lý do như sau:

1. Đại hạn Canh Tý, bước vào cung sự nghiệp tiên thiên, cung đại hạn sự nghiệp tại Thìn, có can Canh Vũ khúc hóa quyền để cát hóa.

2. Lưu niên Giáp Tuất vào làm công ty hiện thời, can Giáp tạo thành Liêm Trinh Hóa Lộc, Vũ Khúc Hóa Khoa, cùng nhập cung Thìn.

Giải thích: Ngoài 4 hóa tinh (lộc, quyền, khoa, kị) trên lá số tiên thiên, thiên can của đại hạn và lưu niên cũng tạo ra tứ hóa của riêng nó. Vào năm Giáp Tuất, lưu niên tứ hóa của can Giáp chính là Liêm trinh hóa lộc, Phá quân hóa quyền, Vũ khúc hóa khoa, Thái Dương hóa kị).

3. Năm vào công ty cũng vừa vặn là cung đối (đối xứng?) với cung đại hạn về sự nghiệp, Thìn.

Giải thích: Năm vào công ty là năm Giáp Tuất, lưu niên ở cung Tuất (lấy các cung địa chi để xem), Tuất và Thìn là hai cung có quan hệ đối xứng, sức ảnh hưởng sẽ lớn hơn).

4. Lưu niên Bính Tý bước vào cung vị đại hạn, sự nghiệp lưu niên cũng ở cung Thìn.

5. Công việc không thuận lợi, về lý phải do ảnh hưởng của hóa kị, lưu niên Bính Tý chính là lúc có Liêm Trinh hóa kị thủ tọa cung Thìn.

Sau khi nhập các dữ kiện như trên, chúng ta có thể thấy rõ ràng, cung Thìn là cung trọng điểm đối với công việc hiện tại của người A. Nếu chúng ta xem xét tính chất của các sao chính tinh phụ tinh (nguyên văn: tam phương tứ chính) tại cung Thìn cũng như những biến đổi theo lưu niên trong tuơng lai tại cung này thì có thể luận ra người A có duyên phận như thế nào đối với công việc hiện nay. Khi tim ra được cung trọng điểm, chúng ta sẽ không còn phải phân vân: rốt cuộc nên suy đoán dựa trên cung sự nghiệp tiên thiên (quan lộc?), cung đại hạn sự nghiệp tiên thiên, hay cung sự nghiệp lưu niên. Ba cung này ngộ nhỡ không thống nhất thì có phải sẽ khiến chùng ta hao tổn tâm trí vô ích?

Ví dụ 2: Người B muốn hỏi về chuyện tình cảm trong tương lai với bạn gái hiện thời. B cho biết, hai người quen nhau năm kia (Ất Hợi), bạn gái sinh năm 57 (>1968, tức Mậu Thân). Từ các dữ liệu B cung cấp:

  1. Hai người quen nhau năm Ất Hợi.
  2. Bạn gái sinh năm Mậu Thân, nhập vào lá số của B, chúng ta sẽ tìm ra được cung trọng điểm đối với chuyện tình cảm này là cung Thân.

Lý do như sau:

  1. Hiện nay là đại hạn Canh Tuất, can Canh Thái Dương hóa lộc do Tý hội nhập đại hạn phu thê cung Thân, khiến nó được cát hóa (trở nên tốt lành).
  2. Năm kia (Ất Hợi) quen nhau, can Ất Thiên cơ hóa lộc cũng do cung Dần hội nhập cung Thân.
  3. Bạn gái sinh năm Mậu Thân, đem nhập vào lá số, thủ tọa cung Thân của lá số.
  4. Vào đại hạn khi quen nhau cũng như năm quen nhau, thiên can hóa lộc ảnh hưởng mạnh nhất là cung phu thê của đại hạn còn cung phu thê tiên thiên cũng như lưu niên đều không có biểu hiện rõ ràng. Thêm vào đó, cung vị nhập quái của bạn gái cũng là cung Thân. Vì thế, chúng ta nên chọn cung Thân là cung trọng điểm để đi sâu phân tích.

Chọn được cung trọng điểm là cung Thân rồi mà trong quá trình luận giải về tình cảm giữa hai người, chúng ta không lấy cung Thân làm chỗ dựa để phán đoán, lại dựa vào cung phu thê tiên thiên của lá số, hoặc cung phu thê lưu niên thì kết quả e rằng kết quả sẽ sai lệch ngàn dặm. (Bởi vì, năm Ất Hợi, cung phu thê lưu niên tại Dậu, đại hạn Thiên đồng hóa kị cũng như lưu niên Thái âm hóa kị song kị giáp (giáp nhau?), cung phu thê tiên thiên tại Tuất, có đại hạn Thiên đồng hóa kị thủ tọa cũng như tiên thiên Cự môn hóa kị hội ngộ, lưu niên Thái âm hóa kị ảnh hưởng liên tục.. Trong cảnh cung phu thê tiên thiên và lưu niên đều bị ảnh hưởng của Kị, rất khó xảy ra chuyện người B có thể kết được bạn gái.)

Ví dụ 3: Người C vào năm 83 Dân quốc, tức là năm giáp tuất, đặt mua một căn phòng trả góp. Căn phòng này năm đó khởi công năm Bính Tý thì hoàn thành. Người C muốn biết căn phòng này tương lai có tăng giá hay không. Theo những tư liệu người C đã cung cấp ở trên:

  1. Năm 1983, giáp tuất mua nhà.
  2. Căn nhà này năm đó khởi công,
  3. Bính Tý Lưu Niên hoàn thiện.

Từ các dữ kiện này có thể thấy, cung trọng điểm đối với căn phòng này có thể định tại cung mùi với lý do như sau:

  1. Lưu niên giáp tuất cũng như đại hạn giáp thìn, với giáp can thì phá quân hóa quyền, và Tiên Thiên Tử Vi hóa quyền, hình thành hiện tượng song quyền giáp với Vận Hạn điền trạch thì sẽ tự phát sinh tham vọng mua bán bất động sản.
  2. Lưu niên giáp tuất, Can giáp làm thái dương hóa kị, cũng do cung Mão tam hợp với cung Mùi. Sự dẫn động của hóa Kị cũng có thể giải thích cho hiện tượng khởi công. Năm này cũng gặp Lưu Kình Dương.
  3. Lưu niên bính tí, can Bính làm thiên đồng hóa lộc làm đại hạn điền trạch cung Mùi hóa cát (hoàn thành công trình).
  4. Đại Hạn điền trạch cung Mùi vào năm mua nhà trả góp và năm hoàn thành công trình nói chung đều gặp lộc quyền làm cát hóa. Năm bắt đầu khởi công thì cũng có sát tinh hóa kị dẫn động. Vì thế chúng ta nên lấy cung mùi làm cung trọng điểm cho sự việc mua bán nhà cửa này.

Từ suy luận trên có thể thấy, nếu mà sự kiện này không phải là do cung trọng điểm, BỞI VÌ CUNG ĐIỀN TRẠCH TIÊN THIÊN Ở TẠI MÃO, ĐẠI HẠN ĐIỀN TRẠCH Ở TẠI CUNG MÙI, NHỮNG CUNG NÀY TẠI CÁC NĂM TIẾP THEO ĐỀU SẼ PHÁT SINH NHỮNG BIẾN ĐỔI CÓ TÍNH CHẤT KHÁC NHAU.

Từ ba ví dụ trên đây có thể thấy rất rõ giả sử... kỳ thực cung trọng điểm là một phhương pháp suy luận rỏ ràng và đơn giản nhất. Ngoài cái việc chúng ta tránh được việc giải đoán một cách rối rắm

(chú thích, năm n dân quốc tương ứng với năm n+12 theo lịch thông thường)

Từ 3 ví dụ trên đây, có thể thấy rõ, biết vận dụng “cung trọng điểm” là phương pháp suy luận đơn giản và sáng sủa nhất. Nếu không có cung trọng điểm, ngoài việc làm nhiễu mạch tư duy, cũng sẽ thường xuyên gặp cảnh “húc đầu vào đá”. Chỉ cần tìm được cung trọng điểm ở đâu, kết quả ta cần suy đoán, nếu không trúng cũng không quá sai lệch! Trong những phần suy đoán dưới đây, chúng tôi sẽ thử phân tích cách tìm cung trọng điểm.

MUỐN BỎ KHÔNG ĐƯỢC: CHUYỆN TÌNH CẢM CỦA CÔ KHA.

Mấy ngày trước, đồng nghiệp bảo tôi, cô ấy có một người bạn là cô Kha. Cô Kha từng nhờ tôi coi số tuy nhiên khi đó tôi mới chỉ viết một số nét cơ bản về vận hạn sắp tới của cô ấy, giảng cũng sơ lược, nên cô ấy muốn hẹn tôi một dịp nào đó gặp mặt trực tiếp. Cô Kha đang gặp một số khó khăn trong công việc và tình cảm nên mong tôi giúp đỡ, thảo gỡ một số nghi vấn, giải tỏa tâm lý.

Dưới sự sắp xếp của bạn đồng nghiệp, ba người chúng tôi hẹn gặp nhau tại một nhà hàng cà phê sau giờ làm việc ngày thứ bảy. Trong hương thơm của cà phê và tiếng nhạc êm ái, chúng tôi nói chuyện gần ba giờ đồng hồ. Những vấn đề có thể hỏi, cô Kha đều đã hỏi hết. Ngay cả những vấn đề bình thường rất khó mở miệng, cô Kha – con người vốn có tác phong “hào phóng”- hầu như cũng không bỏ qua. Trong quá trình đoán số, cô Kha cũng để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc về tác phong hành xử và cuộc đời của mình.

Khi luận lá số này, chúng tôi thấy cung trọng điểm- cung mệnh chiếm vai trò quan trọng, tổ hợp cách cục của nó cũng rất đặc biệt nên nêu ra để cùng bàn luận.

Ngay sau khi lập xong lá số của cô Kha, tâm lý của chúng tôi đều có phần chùng xuống, cuộc sống của cô ấy dường như rất nhiều màu sắc: tổ hợp cung mệnh có tính “biến hóa”, nếu chúng ta xét thêm cả sự biến hóa của vận hạn thì càng thấy rõ.

Nghe đồng nghiệp nói, cô Kha hiện nay quan tâm hai vấn đề là tình cảm và sự nghiệp nên tôi bắt đầu xem từ vấn đề tình cảm. Sau khi xem một lát, tôi nói với cô Kha: “chuyện tình cảm của cô hẳn là rất phong phú, phức tạp!”

“Cách cục trong lá số tiên thiên là cách cục “đào hoa phạm chủ” Tử Tham hội Thiên hỷ điển hình. Hiện nay, đại hạn ở Kỉ Sửu, can Kỷ Vũ khúc hóa lộc tại đại hạn cung phu thê, Tham lang hóa quyền tại cung mệnh tiên thiên, vận hạn cung phu thê và cung mệnh tiên thiên tại phương tam hợp, lại chịu sự ảnh hưởng của quyền lộc thì chuyện tình cảm rất khó suôn sẻ, đơn thuần.”

“Đúng thế! Mấy năm nay chuyện tình cảm của tôi đúng thực là như vậy. Tôi yêu hết anh này đến anh khác, thấy hợp thì đến, không hợp lại đi. Tuy đã yêu rất nhiều người, cuộc sống sống động muôn màu nhưng tôi không hề có cảm giác an toàn, nghĩa là vẫn chưa tìm được ai thật sự tri kỷ”, cô Kha trả lời tôi.

“Những người cô yêu đại đa số sinh năm bao nhiêu?”

“Trước đây tôi từng đi lại với mấy anh sinh năm 56, 58 dân quốc. Gần đây, tôi yêu một anh sinh năm 52, một anh sinh năm 54 dân quốc.”

Khi nhập các dữ kiện này vào lá số, tôi hỏi cô Kha, có phải cô ấy đã chia tay với người sinh năm 52 rồi không? Dường như cô ấy có duyên hơn đối với người sinh năm 54?

Người sinh năm 52, nếu nhập vào cung mệnh tiên thiên trên lá số của cô, cung vị nhập quái này sẽ cùng với cung phu thê theo vận hạn của cô tạo thành phương tam hợp. Như vậy, ngoài việc xuất hiện hiện tượng tác động lẫn nhau/kéo theo? của quyền lộc tạo ra cách cục hay người gặp gỡ, quen biết như đã nói trên đây, vận hạn hóa kị cũng khiến cho cung Tỵ và cung Hợi rơi vào cách cục xấu Xương Tham Khúc Tham. Người sinh năm 52, can Quý, Tham lang hóa kị cũng vừa khéo tọa thủ cung Mão đồng thời hội nhập cung Hợi, năm Bính Tý lại chịu ảnh hưởng của Liêm trinh hóa kị, e rằng dữ nhiều lành ít, tình cảm dễ đi vào hồi kết.

Người sinh năm 54, cung bát quái tại Tỵ. Cung vị này cùng với cung mệnh và cung phu thê trên lá số của cô Kha tạo thành phương tam hợp. Tương tự, cũng có lộc tinh Vũ Khúc cát hóa. Điểm khác biệt so với người sinh năm 52 là, cung Tỵ có Thiên tướng tọa thủ, tam phương không hình thành cách cục xấu. Do đó, cô Kha và người này chắc là có duyên với nhau hơn.

“Đúng thế, tình hiện hiện nay đúng là như vậy. Tôi với người sinh năm 52 chắc là khó có cơ hội gặp lại. Còn người sinh năm 54 hiện đang sống chung với tôi.” “Ngoài người hiện tôi đang sống chung, sắp tới có thể quen thêm bạn trai nào khác không? Tại sao ngoài người sinh năm 54, chuyện tình cảm với những người khác đều không đi đến đâu? Rốt cuộc tôi có cơ hội gặp được người tôi thực sự yêu thương không?” cô Kha hỏi.

“Như tôi vừa nói, đại hạn Kỷ Sửu cũng tức là trước 34 tuổi, cuộc sống tình cảm của cô không thể nào dứt (có kết quả?). Do vậy với những người đã gặp trước đây, đều đổ vỡ. Có thể thấy, cung vị nhập quái của những người này đều trùng hợp rơi vào phương tam hợp với cung mệnh tiên thiên, chịu ảnh hưởng của cách cục Xương Tham Khúc Tham nên không thể bền lâu. Giả sử hôm nay cô gặp một người sinh năm 53 hoặc 57, tôi tin rằng người đó sẽ đối với cô rất tốt, quan hệ của hai người cũng sẽ không tệ. Tình cảm mà! Có thể nâng niu thì hãy nâng niu, duyên phận vốn là đến không dễ, nếu không nắm lấy, sau này hối hận cũng không kịp. Người bạn hiện nay đối với cô cũng không tệ, tại sao phải nghĩ ngợi nhiều như vậy? Hơn nữa, phân tâm hai lòng đối với cô cũng không tốt đâu”.

“Nhiều khi tôi cũng cảm thấy mình trăng hoa quá! Có phải do tôi có số đào hoa nên mới như vậy hay không?”. Tôi sống với bạn trai hiện nay, kỳ thực không phải là có tình cảm gì cả, chỉ đơn thuận là như cầu sinh lý! Từ lá số, có thể luận ra vần đề “dục vọng” không?”, cô Kha nói với tôi quan điểm của cô ấy về tình cảm một cách rất thoải mái. (Cung Mệnh Thân có Kình dương, thông thường đều có tính hỏi gì thì hỏi đến cùng.)

CUNG VỊ TRỌNG ĐIỂM

Đào hoa có thể sinh ra hay không, điều này có thể phân tích từ cung Mệnh tiên thiên.

Trong cung Mệnh tiên thiên, có mấy tổ hợp, mấy tổ hợp này gặp nhau sẽ làm phát sinh một số hiện tượng dưới đây, tạo ra những biểu hiện trong tác phong làm việc của đương số:

1. Tử vi tọa mệnh nhưng không hội tả phù hữu bật, làm việc gì cũng khó tránh khỏi cảnh cô độc một mình. Thêm vào đó có Dương Đà đến quấy nhiễu, vậy ai tác động thế nào, đương số cũng vẫn theo ý mình mà làm.

2. Cách cục Sát Phá Lang hội sát tinh làm gia tăng tính hay thay đổi ở đương số, cuộc sống càng khả giả(?), càng phù hợp với lý tưởng của cô ấy. Điều này cũng giải thích tại sao đương số không hài lòng với hiện trạng.

3. Tử Tham gia thêm Thiên Hỷ là cách cục Đào hoa phạm chủ, cách cục này sau khi chịu ảnh hưởng bởi lộc, quyền của vận hạn, ngay cả khi đại hạn cung Sửu không phải là cách cục của Đào hoa, vẫn sinh ra hiện tượng đào hoa. Nếu lại thêm có Kình Đà hội hợp, cảnh “dã đào hoa (đào hoa dại)” là không thể tránh khỏi. Do vậy, trong chuyện tình cảm, đương số cũng cần biết tiết chế, nếu không sẽ không tốt.

4. Do cách cục Xương Tham Khúc Tham, cuộc sống tình cảm hiện tại của đương số sẽ có nhiều biến động. Nói một cách trực tiếp là việc kì quái đến mấy, cô ấy cũng có thể làm. Trong đại hạn hiện nay, can Kỷ Văn khúc hóa kỵ ảnh hưởng tới cách cục này, khiến cho tính biến động càng rõ nét.

5. Tham lang hóa quyền trong vận hạn và Vũ khúc hóa quyền tiên thiên càng ảnh hưởng mạnh tới cung mệnh có Đào hoa, đồng thời hội với (?) cung phu thê của đại hạn, ít nhiều cũng làm tăng mong muốn chiếm hữu đối với người khác giới của đương số. Nếu mang tổ hợp quyền tinh và kị tinh kết hợp với tính cường vượng của chủ tinh để suy xét, càng thấy rõ tình hình này.

Nếu kết hợp 5 điểm nêu trên để luận giải sẽ thấy khá phù hợp với tình hình thực tế hiện nay của đương số. Thực ra, những cách cục này không phải hoàn toàn xấu, không có điểm nào tốt, do đó tốt hay xấu cần phải xem đương số hành động như thế nào. Nếu đương số biết lợi dụng những tính chất này vào công việc, ví dụ làm một số việc liên quan đến mỹ thuật, nghệ thuật, phục trang v.v. rất có thể sẽ đạt được thành tựu hơn công việc hiện tại, có cơ hội thăng tiến. Đương số là nữ giới, cuộc sống tình cảm quá “phong phú” cũng không tốt: trên lá số đã tiềm ẩn một số tính chất như vậy, nếu bất cẩn không lưu ý, người phải chịu thiệt hại sẽ chính là cô ấy.

Còn về vấn đề “dục vọng” mà cô Kha hỏi, tôi chưa từng nghiên cứu qua nên không thể luận ra điều gì từ lá số của cô ấy. Huống hồ, tìm hiểu điều này, thực ra cũng không có ý nghĩa gì nên..

Còn về vấn đề “dục vọng” mà cô hỏi, tôi chưa từng nghiên cứu qua nên không thể luận ra điều gì từ lá số của cô. Huống hồ, tìm hiểu điều này, thực ra cũng không có ý nghĩa gì nên câu hỏi này tôi tạm không trả lời. Điều đáng quan tâm, theo tôi là làm thế nào để “xu cát tị hung” (thêm cái tốt, bớt cái xấu), làm thế nào để lợi dụng những điểm trên lá số để phát triển tiềm năng của mình”.

“Nói thế mà được! Trước đây không phải anh đã bảo, từ lá số có thể nhìn được những điều này? Sao giờ anh lại không nghiên cứu nữa? Anh cứ nói đi mà! Nói ra thì có làm sao? Người ta đã hỏi, anh còn ngại gì chứ?”, đồng nghiệp của tôi ngồi bên cạnh, thúc bách tôi phải nói.

“Cung tử tức là cung đại diện cho ham muốn tình dục, cung tật ách là cung đại diện cho khả năng tình dục. Cung tử tức tiên thiên của cô là Thái dương hóa lộc tọa thủ tại cung Tý. Thái dương của người sinh giờ Mão chính là hiện tượng “ánh nắng sớm đợi mọc”, cung Tý tam phương lại có hai sao Hỏa, Linh làm tăng thêm sức mạnh của Thái dương. Cho nên.....”

“Đại hạn, cung tử tức tại Tuất. Cung Tuất có Vũ khúc hóa quyền tiên thiên và Tham lang hóa quyền của đại hạn (nhập cung Dậu), tức là giáp song quyền. Điều này có thể giải thích cho sự hưng vượng về ham muốn tình dục của đương số.”

“Nếu tiếp tục xem xét đại hạn tiếp theo, đại hạn đi vào vị trí cung tử tức tiên thiên, sẽ xuất hiện hiện tượng giống như trên. Cung tử tức của đại hạn tại Dậu, có Tham lang hóa lộc của vận hạn làm cát hóa, như vậy tôi nghĩ rằng tuổi đương số càng cao, hứng thú tình dục e rằng càng mãnh liệt”.

Cô Kha và đồng nghiệp nghe xong những lời giải đoán “thoải mái” của tôi đều không nhịn được, cười lớn nói: thế thì biến thành “hoa si” (kẻ ham mê sắc dục) hay sao?

Sau khi đã hỏi rất nhiều câu nên hỏi và không nên hỏi, cô Kha hỏi một câu có liên quan tới công việc của cô ấy. Cô nói, năm kia (Ất Hợi), cô vào làm việc cho công ty hiện tại, không rõ có nên tiếp tục công việc này hay không? Nếu đổi việc khác, trong tương lai nên làm việc trong ngành nghề gì thì tốt nhất?

Nếu xét dựa trên dữ kiện là năm vào công ty, cung Mão và cung Hợi là hai cung có ảnh hưởng lớn nhất đến sự nghiệp. Hai cung vị này, ngoài việc có tiên thiên Vũ khúc hóa quyền, đại hạn Vũ khúc hóa lộc, Tham lang hóa quyền và lưu niên Lộc tồn dẫn động, còn là cung mệnh của lưu niên và cung sự nghiệp (quan lộc?) của lưu niên.

Hai cung vị này vào năm Bính Tý, sau khi có Liêm trinh hóa kị dẫn động (sau khi có ảnh hưởng của Liêm trinh hóa kị?), sợ rằng đã ngầm ẩn hung cơ (việc xấu/ cơ hội xấu), muộn nhất chắc đến năm Đinh Sửu.

Về tính chất công việc, đương số có tử vi tọa mệnh, tuy không có tả phù hữu bật hội chiếu nhưng tính chất công việc vẫn thuộc loại “đa nguyên”: có thể làm việc trong nhiều ngành nghề, không chê ngành nào. Nếu lại phối hợp với cách “Xương Tham, Khúc Tham” thì càng rõ ràng. Nhưng tôi vẫn khuyên giống như đã nói ở trên: đối với đương số, nếu có thể chuyển tính chất “đào hoa” trong cung mệnh vào nghề nghiệp, chú trọng đến những sở trường này (Kình Dương, Đà La hội nhập), chắc rằng sẽ có nhiều thành tựu.

Chúng tôi kết thúc 3 giờ đồng hồ đoán mệnh. Tuy tôi vẫn chưa đưa được đáp án nào cụ thể, rõ ràng cho cuộc sống tình cảm thăng trầm của cô Kha nhưng dựa vào thiên tính lạc quan của cô ấy, tôi tin cô ấy sẽ nhanh chóng tìm được một người bạn đời lý tưởng. Một lần nữa, tôi muốn gửi lời chúc phúc tới cô.

HÀNH TRÌNH CÔ ĐỘC: CUỘC HÀNH TRÌNH SANG ĐẠI LỤC CỦA HỌC TRƯỞNG (SƯ HUYNH).

Chủ nhân của lá số này là sư huynh, đồng thời là đồng nghiệp của tôi. Khi tôi mới vào công ty, anh ấy đã giúp tôi rất nhiều. Trong công việc, chúng tôi luôn cùng vai sát cánh, trong đời tư, chúng tôi là bạn bè tốt, chia sẻ mọi việc.

Còn nhớ, năm tôi mới vào công ty (Dân quốc thứ 82), tôi đã từng xem giúp lá số của sư huynh, đoán rằng vào năm Dân quốc 83, anh ấy sẽ có bước phát triển tốt.

Còn nhớ, năm tôi mới vào công ty (Dân quốc thứ 82), tôi đã từng xem giúp lá số của sư huynh, đoán rằng vào năm Dân quốc 83, anh ấy sẽ có bước phát triển tốt, cần chuẩn bị thực lực để đến khi gặp thời cơ có thể phát huy. Đầu năm sau, sư huynh quả nhiên được thăng chức, được điều đến một xí nghiệp có liên quan, giữ chức trưởng phòng tài vụ (tài vụ trưởng). Chế độ đãi ngộ tuy không tốt hơn rõ rệt nhưng là bàn đạp để thăng tiến. Làm công việc này chưa đầy một năm, sư huynh được cử đi công tác ở đại lục. Công ty ở đại lục mới bắt đầu gây dựng, mọi chế độ đều đang trong quá trình xây dựng, tất nhiên công việc rất vất vả nhưng lương bổng nhiều hơn gấp đôi so với công việc cũ.

(Hết trang 53/118)

Những công nhân viên chức được cử sang đại lục, càng có cơ hội nắm nhiều quyền lợi cho mình, tích lũy càng nhiều kinh nghiệm. Chỉ cần công tác đủ hai năm ở đại lục, khi quay lại công ty mẹ, đều có thể được thăng chức. Đây là lợi thế mà những nhân viên ở lại Đài Loan không thể có được.

Do có nhiều lợi ích như vậy nên các nhân viên ở công ty đều muốn giành lấy cơ hội đi đại lục. Nhân viên trong công ty quá đông, trong cảnh “người nhiều cháo ít” như vậy, sư huynh của tôi có thể được cấp trên đề bạt, khởi hành đi đại lục một cách thuận lợi, tôi nghĩ không hẳn chỉ vì biểu hiện trong công việc của anh ấy tốt mà còn vì anh hơn người ta một chút cơ duyên.

Vào khoảng mấy ngày giáp Tết âm lịch năm 85, tôi nhận được điện thoại của sư huynh, ngoài việc hàn huyên tâm sự, sư huynh cũng tiết lộ, lần này về nghỉ tết, anh ấy muốn tranh thủ lại thăm tôi, nhờ tôi xem giúp cho anh ấy vận hạn lưu niên Bính Tý. Cũng bởi vì gần đây công việc của anh ấy không thuận lợi lắm, anh cảm thấy không đáng phải vất vả như vậy nên muốn xem thử vận thế sắp tới thế nào. Khi đó đúng dịp quyết toán cuối năm, công việc của chúng tôi đều rất bận nên chúng tôi không nói nhiều qua điện thoại, chỉ hẹn cuối năm gặp nhau sẽ đàm đạo.

Tôi nhớ rằng, trong lần thứ hai luận giải lá số cho sư huynh, tôi có nói với anh ấy, anh ấy đang gặp một số khúc mắc trong quan hệ, mặc dù cụ thể là gì tôi chưa biết rõ. Qua sự kiểm chứng của sư huynh, quả thật anh ấy đang gặp khó khăn trong quan hệ với cấp trên ở đại lục. Đây cũng là vấn đề khiến anh ấy lo phiền nhất hiện nay. Nhiều lúc, anh ấy cũng đã định từ chức nhưng nghĩ đến việc đã đổ sức làm việc 5, 6 năm, anh ấy lại không cam tâm từ bỏ. Nghe xong những lời bất bình của sư huynh, tôi hỏi thêm anh ấy một số thông tin liên quan và từ đó có một số suy luận như sau:

Sư huynh vào công ty năm Canh Ngọ, năm đó 27 tuổi, đại hạn tại Bính Tý.

Đại hạn Bính Tý là cách cục Sát Phá Lang chủ, cách cục này nếu có kị sát tinh dẫn động (ảnh hưởng?) mới xuất hiện khuynh hướng “động”, ngược lại nếu gặp cát tinh thì sẽ chuyển hướng phát triển bình ổn, không có biến động lớn (Tuy có Liêm Trinh hóa kị ở đại hạn nhưng may mắn là không hình thành hung cách (cách cục xấu), nên không có khả năng phát sinh điều dữ. Tuy nhiên, do sự tác động của Liêm Trinh hóa kị, vận thế bình ổn, thuận lợi trước đây sẽ này sinh một chút dao động khiến đương số có ý muốn thay đổi).

Đại hạn tọa quyền hội lộc và đại hạn hóa kỵ tự nhiên (tự nhiên nhi nhiên) sẽ khiến đương số kiên trì hơn người khác trong công việc (?).

Lưu niên Canh Ngọ, chuyển sang cung Thiên Di của đại hạn, can Canh khiến Thái dương hóa lộc và Thiên đồng hóa lộc ở đại hạn, song lộc giáp cung sự nghiệp của lưu niên. Khi lưu niên đến cung vị cường vượng đồng thời cung sự nghiệp lưu niên hình thành cát hóa, tìm được một công việc tốt là chuyện không khó khăn gì (tuy nhiên, năm đầu tiên vào công ty, cũng sẽ vất vả một chút, lưu niên chuyển đến vị trí đại hạn Liêm trinh hóa kị, cung sự nghiệp lưu niên cũng ở cách “ủy khuất” của song kị giáp (gặp hai hóa kị?). Bởi vậy, đương số có thể bình an qua một năm là do ảnh hưởng của cách cục cường vượng tạo ra bởi tam phương chính tứ ở cung Ngọ).

Giáp Tuất lưu niên, khi xưa tôi đoán giải là năm này sẽ có bước tiến tốt trong công việc, lí do như sau:

1. Giáp Tuất lưu niên, chính là rơi vào cung sự nghiệp (Canh Ngọ niên) của năm vào công ty, lực tác động tương hỗ tự nhiên sẽ mạnh.

2. Lưu niên bước vào cung vị cường vượng, năng lực tự nhiên và vận thế đều tốt.

3. Lưu niên thiên can Giáp khiến lưu niên tam phương hình thành cách cục “tam kì gia hội” (三奇加會) 。

4. Thiên can của lưu niên và tiên thiên tương đồng, vì vậy năm này sẽ có tứ lộc cát hội, đồng thời tạo ra những cách cục tốt như Tử Phủ tương hội Tả Hữu, Hỏa Tham...

Đại khái chính vào thời điểm giữa năm Giáp Tuất, sư huynh được cất nhắc và cử sang công ty có liên quan phụ trách tài vụ. Công việc này tuy chức cao nhưng trách nhiệm cũng lớn. Dù sao cũng là một bàn đạp để thăng tiến.

Lưu niên Ất Hợi, sư huynh được công ty cử đi công tác tại Quảng Châu, đại lục, đảm nhiệm chức giám đốc phụ trách tài chính, cả chức vị và lương bổng đều thăng tiến vượt bậc.

(hết trang 55/118).

Lưu niên Ất Hợi, Lộc tồn và Thiên cơ hóa lộc giáp cung sự nghiệp tiên thiên, Thiên cơ hóa lộc và Thái dương hóa lộc can Canh trong năm vào công ty giáp đại hạn cung mệnh. Do sự cường vượng của bản mệnh và đại hạn, đương số sẽ có cơ hội thăng chức.

Nhưng năm này không phải là năm chỉ cát mà không có hung. Lưu niên khi đó rơi vào cung vị yếu thế bị kị sát xung (xung chiếu?) đồng thời hội hung cách (cách cục xấu). Do vậy tôi cho rằng, năm này là năm đương số phải làm việc vất vả, hao tâm tổn trí hơn nhiều so với mấy năm trước đó.

Năm tiếp theo (Bính Tý), sư huynh từ đại lục quay lại Đài Loan nghỉ phép, vừa về đến Đài Loan, liền gọi điện thoại tìm tôi, nói rằng lại muốn tìm tôi xem số giúp. Những vấn đề cần hỏi, anh ấy cũng không nói rõ, chỉ nói là sẽ tìm thời gian đến tìm tôi tại công ty, khi nào gặp mặt sẽ nói cụ thể.

Trong ngăn bàn của tôi tình cờ lại có lá số của sư huynh nên tranh thủ khi anh ấy chưa tới, tôi xem qua lá số của anh. Xưa nay tôi vẫn luôn như vậy, trước khi gặp đương số, thường tranh thủ xem qua lá số của họ, ghi lại những điểm quan trọng, một là để tiết kiệm thời gian khi gặp mặt, hai là tôi nghĩ khi đó tư duy thường rành mạch, chưa bị nhiễu loạn bởi các thông tin. Những điểm tôi ghi lại khi đó là:

(1) công việc: năm Bính Tý cần chú ý, nếu kết giao với người sinh năm 41, dễ có vấn đề trong quan hệ giữa hai người. Nếu qua năm sau thì lại không có vấn đề gì nữa.

(2) hôn nhân: năm 87 dân quốc, dễ có duyên phận quen biết người sinh năm năm 53, 57 dân quốc.

Một ngày sau hôm nói điện thoại, sư huynh của tôi đến công ty giải quyết công việc rồi qua tìm tôi. Sau khi tôi vừa cầm lá số đã lập ra, anh ấy liền hỏi ngay: “Anh cảm thấy tôi tìm việc thì thế nào? Có vấn đề gì không?”.

Sau khi xem xét lại lá số lần nữa, tôi bảo anh, năm nay anh cần chú ý vấn đề quan hệ, cần cẩn thận trong quan hệ với cấp trên và đồng nghiệp. Bởi vì cung Thiên di có hóa kị đồng thời hình thành hung cách mà cung Thiên di chính là đại diện cho những việc này. Còn công việc thì chắc là không có vấn đề gì lớn.

Sư huynh nghe xong lời luận giải của tôi, lập tức trả lời: “Chuẩn! Không sai, hiện nay anh đang bất hòa với cấp trên đây. Hắn ta việc gì cũng soi mói, làm khó dễ, anh chịu hết nổi rồi”.

Nghe xong những lời sư huynh phàn nàn về cấp trên, tôi lại chú mục vào lá số, xem một lúc rồi bảo anh: “nếu mà cấp trên của anh là người sinh năm 41, thì anh cần cẩn thận đấy”.Sư huynh lập tức đáp lời tôi bằng một giọng vừa ngạc nhiên và kinh hoàng: “đúng đấy, cấp trên của tôi đúng là sinh năm 41. Sao mà trùng hợp thế nhỉ?”. Tôi bảo: “Vậy sau khi anh quay lại đại lục, anh cần phải chú ý xử lý mâu thuẫn giữa hai người nhé. Nếu không, làm việc mà không vui vẻ với nhau, đến mức phải bỏ việc thì lợi bất cập hại. Có nhiều việc trùng hợp như vậy đấy, gặp rồi thì chịu vậy thôi, biết sớm như thế thì anh có thể chuẩn bị tâm thái cho mình. Qua năm nay thì mọi việc sẽ ổn cả, làm thế nào là do anh.” Cuối cùng, tôi khuyên sư huynh như vậy.

Tiếp theo, chúng tôi cùng nhau xem xét, tại sao năm Bính Tý, sư huynh lại gặp khó khăn trong quan hệ.

1. Lưu niên Bính Tý rơi vào cung đối với cung Ngọ. Cung Ngọ này là năm đương số vào công ty (Canh Ngọ). Nói một cách khác, cung vị năm nay là “cung Thiên di” của năm vào công ty. Khi lưu niên chạy đến một cung vị có ít nhiều liên quan đến cung Thiên di của việc vào công ty (nguyên văn: 當流年走到這個與公司遷移不無關係 宮位時), nếu năm nay phát sinh vấn đề trong quan hệ với cấp trên, lực tác động tương hỗ giữa các cung vị này đương nhiên sẽ không phải là nhỏ.

2. Lưu niên Bính Tý chạy đến cung Mệnh của đại hạn, tứ hóa và đại hạn giống nhau, Bính Tý Liêm trinh hóa kị vừa khéo ở vận hạn này, cùng với cung Thiên di của lưu niên và lưu niên Kinh dương tọa thủ cung Ngọ, khiến cho vận hạn thiên di hình thành hung cách “hình nhân giáp ấn” (刑囚夾印 )

3. Cung Thiên di của đại hạn và lưu niên này tuy là cách cục lớn (Tử Tướng triêu đàn, đồng thời hội Tả Hữu, thêm Lộc Quyền Khoa), về lý, quan hệ giao tế, thậm chí là quan hệ với cấp trên sẽ phát triển theo hướng tốt, chính diện nhưng do bị Liêm trinh hóa kị phá nên những hung cách “hình nhân giáp ấn”, “Linh Xương Đà Vũ’, “Vũ khúc, Hỏa tinh” đều ẩn chứa nhiều mối họa.

4. Cung Thiên di của lưu niên và đại hạn đã hình thành hung cách. Nếu hung cách này bị dẫn động bởi việc tiếp xúc với cấp trên hoặc cấp dưới, hoặc tọa nhập vào cung vị không thực sự tốt thì trong quan hệ của đương số ở đời thực tất nhiên sẽ nảy sinh những điều không như ý.

Chú thích:

(1) Khi cung Thiên di tốt, cung vị nhập quái của những người liên quan cũng tốt: do quan hệ tương hỗ tốt, quan hệ của đương số và những người đó cũng sẽ là quan hệ tương trợ, giúp đỡ nhau.

(2) Khi cung Thiên di tốt, cung vị nhập quái của những người liên quan không tốt: đương số sẽ cảm thấy làm việc với người này vất vả, nhiều ý kiến này nọ, nhưng nhìn chung cũng sẽ không có hiện tượng xấu.

(3) Khi cung Thiên di không tốt, cung vị nhập quái của những người liên quan tốt: trong môi trường khó khăn, đương số vẫn sẽ tìm được bạn tốt.

(4) Khi cung Thiên di không tốt, cung vị nhập quái của những người liên quan cũng không tốt: đương số không chỉ gặp khó khăn trong việc tìm bạn, tìm người phù trợ mà càng tiếp xúc lâu xung đột giữa đôi bên sẽ càng lớn.

Dựa vào lý do gì tôi cho rằng cấp trên của sư huynh có lẽ là người sinh năm 41, khiến hai người nảy sinh xung đột trong công việc? Nguyên nhân kì thực rất đơn giản, như sau:

1. Tất cả những hiện tượng bất hòa với cấp trên trong lưu niên và đại hạn Bính Tý, chưa vội để ý tới năm sinh của “nhập quái”, thì theo như đã nói ở trên, chúng ta có thể xác định cung Ngọ là một vị trí hung (xấu) để cho những hiện tượng như vậy xảy ra. (?)

(Hết trang 57/118)

2. Nếu chúng ta nhập vào lá số dữ kiện năm sinh của cấp trên, thiên can hóa kị của ông ấy chắc sẽ cùng cung đối với cung Ngọ tạo ra hiện tượng xấu. Chỉ có như vậy, giữa hai người mới có thể có hiện tượng xung khắc, bất hòa, phù hợp với tình hình thực thế của đương số.

3. Năm sinh có thể tạo ra quan hệ tương tác mạnh nhất nên xuất hiện tại cung vị tam hợp phương của lưu niên hoặc vận hạn. Nếu như vậy thì những năm sinh có khả năng cao nhất phải là những năm nhập quái tại cung Tý (năm 49 dân quốc), cung Thân (năm 45), cung Ngọ (năm 43) và cung Thìn (năm 41).

4. Tổng hợp 3 điểm nêu trên, tôi thấy năm sinh 41 dân quốc (năm Nhâm Thìn) là có khả năng cao nhất vì:

(1) Can Nhâm trong năm sinh 41 dân quốc có Vũ khúc hóa kị xung với cung Ngọ.

(2) Người sinh năm Nhâm Thìn nhập cung Thìn trên lá số (của đương số?). Cung này vừa là cung Thiên di của lá số tiên thiên, vừa là cung quan lộc của vận hạn. Như thế tác động của nó tới quan hệ của đương số và cấp trên trọng vận hạn này cũng sẽ khá mạnh.

(3) Người sinh năm Nhâm Thìn nhập cung Thìn, đối xứng với cung mệnh tiên thiên của đương số. Can Nhâm Vũ khúc hóa kị tại Tuất. Nếu thêm yếu tố Đà La trong lưu niên của người sinh năm Nhâm vào lá số thì sẽ khiến cung Mệnh tiên thiên của đương số tạo thành hung cách Linh Xương La Vũ. Hung tính này sẽ khiến đương số và người sinh năm Nhâm khó duy trì quan hệ hòa hợp.

(4) Cung Thìn có cách cục Xương Tham Khúc Tham, một khi lại gặp sao Hóa kị thì vị cấp trên này sẽ thường có những hành vi, mệnh lệnh và chính sách mà cấp dưới không ngờ tới được.

(5) Giả thiết vị cấp trên này nhập quái ở cung Thìn. Như thế, Tham lang trong cung mệnh (Thìn) của ông ta sẽ vừa khéo kết hợp với Văn xương trong cung mệnh tiên thiên của đương số (Tuất) tạo thành cách cục Xương Tham. Ý nghĩa của cách cục này cũng là: nếu hai người kết hợp trong công việc sẽ dễ phát sinh mâu thuẫn.

(6) Cung thiên di của vận hạn là hung cách, cung nhập quái của chủ quản cũng tạo ra cách xấu “Linh Xương La Vũ”. Hai cung có ý nghĩa quan trọng nhất trong mối quan hệ giữa đương số và cấp trên đều rơi vào thế xấu, tất nhiên mối quan hệ này sẽ nảy sinh vấn đề.

Sang đại lục để phát triển sự nghiệp, hi vọng có thể tích lũy nhiều kinh nghiệm, phát huy sở trường, không ngờ lại gặp phải một vị chủ quản khắc tinh, khiến cho mình bị bó buộc chân tay, không có đất dụng võ... Cần làm gì để đối phó với những việc sẽ phát sinh trong tương lai, có thể qua năm Bính Tý một cách yên ổn hay không là những vấn đề hiện nay sư huynh đang mong mỏi được biết. Lá số có nói lên điều gì? Nên luận giải chúng như thế nào? Dưới đây người viết xin nêu ra một số thiển ý như sau:

(Hết trang 58)

CUNG VỊ TRỌNG ĐIỂM

Xét cả quá trình từ khi sư huynh vào công ty đến lúc phát sinh mẫu thuận với cấp trên như hiện nay, sau khi nhập thêm dữ liệu là các năm sinh có liên quan, có thể thấy, hai cung vị có sức dẫn động mạnh nhất là cung Ngọ và cung Tuất. Do vậy, để phán đoán các bước phát triển tiếp theo trong công việc hiện nay của đương số, tôi cho rằng, cung Ngọ và cung Tuất chính là hai cung vị trọng điểm để suy ngẫm.

1. Cung Ngọ:

(1) Cung Ngọ là cung đương số vào công ty (Canh Ngọ).

(2) Cung Ngọ là cung thiên di của đại hạn Bính Tý. Cung thiên di đại diện cho duyên phận của đương số với công ty. Nếu cung thiên di cường vượng, đồng thời cùng với mệnh cung của vận hạn hình thành những cách tốt, chính diện thì tất nhiên đương số sẽ tận tâm tận lực với công ty. Nhưng nếu cung thiên di yếu hiểm đồng thời cùng với cung mệnh tạo thành hung cách, e rằng phải thắp hương niệm Phật mới có thể có được một kết cục tốt đẹp!

(3) Lưu niên Giáp Tuất, đương số được điều đến xí nghiệp có liên quan, Can Giáp của năm này khiến cho cung Ngọ, vốn có nhiều cách tốt lại một lần nữa tạo thành cách tốt “Tam kì gia hội”. Trong năm mà cung Ngọ - đại diện cho công ty- ở vào thế tốt như vậy, tất nhiên sẽ có những bước tiến tốt.

(4) Lưu niên Bính Tý, can Bính lại khiến cung Ngọ hình thành hung cách. Do đó phát sinh việc bất hòa với cấp trên.

(5) Ngọ cung là tam hợp phương với cung Mệnh của lưu niên, đại vận và tiên thiên, sức ảnh hưởng của nó đương nhiên không nên bỏ qua.

2- Cung Tuất:

(1) Cung Tuất là cung mệnh, thân tiên thiên.

(2) Cung Tuất là cung sự nghiệp lưu niên của năm vào công ty.

(3) Trong năm vào công ty (Canh Ngọ), cung Tuất được Thiên đồng hóa lộc của can Bính đại hạn và Thái Dương hóa lộc của can Canh lưu niên đến giáp, phù.

(4) Lưu niên giáp Tuất, đương số được điều đến xí nghiệp khác, cũng khiến cho cung Tuất hình thành đại cách cục “Quân thần khánh hội” do tam lộc hội kết hợp với tam kỳ gia hội. (?)

(5) Lưu niên Bính Tý, đương số và cấp trên nảy sinh bất hòa, lúc này cung Tuất cũng hình thành các hung cách như “Linh Xương La Vũ’, “Hình nhân giáp ấn”...

(Hết trang 59/118).

(6) Vị cấp trên sinh năm Nhâm Thìn cũng ứng với cung đối với cung Tuất. Thiên can Vũ khúc hóa kị và lưu niên Đà la của vị cấp trên cũng khiến cung Tuất sinh hiện tượng xấu (hung tượng).

Dưới đây, chúng ta cùng xem xét sự biến hóa của tứ hóa trong những lưu niên tiếp theo của cung Ngọ và cung Tuất, dựa vào cách cục của nó và sự dẫn động của tứ hóa để suy luận ra kết quả.

1. Tam phương tứ chính của cung Ngọ và cung Tuất có rất nhiều cách cục. Về các cách tốt, có các cách sau: tam phương có đại cách cục “Quân thần khánh hội” Tử Phủ Tướng hội Tả Hữu Xương Khúc, “Song Lộc giao trì”, Hỏa Tham, Linh Tham, Lộc Quyền Khoa- “Tam kỳ gia hội”. Về hung cách, tuy tàng ẩn có các cách cục Linh Xương La Vũ, “Hình nhân giáp ấn”, Xương Tham, Khúc Tham v.v. nhưng cân chú ý, nếu như không có các sát tinh và hóa kị đặc thù dẫn động, những “hung cách có tính tàng ẩn” này trái lại sẽ có tính chất kiên trì, bền gan (百折不撓), càng lay chuyển càng mạnh (愈挫愈勇)。Cũng chính vì ảnh hưởng của những hung cách này, sư huynh mới dám một mình đi đến nơi đất khách quê người để lập làm việc (những chi nhánh mới xây dựng ở đại lục, ngoài mấy vị lãnh đạo là người Đài, công nhân viên đều là người bản địa.)

2. Năm Ất Hợi, được cử sang đại lục, năm này tuy lưu niên Kình dương và Đà la có ảnh hưởng không tốt tới cung Ngọ và cung Tuất. May thay, tam phương của Ngọ và Tuất lại có các cách cục cường vượng. Thêm vào đó, lưu niên cũng không chạy đến cung vị tam hợp phương, Ất Ngọ Thái âm hóa kị cũng không gây sóng gây gió nên không tạo ra những ảnh hưởng quá bất lợi.

3. Năm Bính Tý, can Bính lưu niên Kinh dương và Đà la khó có khả năng liên tục tạo ra yếu tố xấu nhưng Liêm trinh hóa kị lại dẫn động hung cách, rơi vào các cung vị tam hợp phương (??) nên đương số sẽ từ bỏ công việc này hay không, năm nay sẽ có quyết định. Nhưng theo tôi, có lẽ đương số nên tiếp tục làm công việc này, bởi vì:

(1) Nếu xét những lưu niên tiếp theo- Đinh Sửu, Mậu Dần, Mão, Canh Thìn- hóa kị trong những thiên can này sẽ không dẫn động (ảnh hưởng xấu?) đến hai cung Ngọ, Tuất. Điều này cung có nghĩa là, hung tính cũng chỉ ở hai năm Ất Hợi và Bính Tý mà thôi. Khả năng xảy ra sự dẫn động liên tục của các yếu tố xấu (hung tượng) thấp.

(2) Cung Ngọ và Tuất bản chất vẫn là những cung vị có các tổ hợp mạnh (cường vượng), tự nhiên nhi nhiên sẽ có thể chịu được sự tác động của một số yếu tố xấu.

(3) Nếu xét thêm dữ kiện: can Canh của năm vào công ty (Canh Ngọ) có Thái Dương hóa lộc, sẽ thấy lưu niên Bính Tý, cung vị xấu nhất vẫn có song lộc Thái Dương và Thiên Đồng đến phù trợ.

(4) Nếu xét thêm các dự kiện: bất hòa với cấp trên, năm sinh của cấp trên, sẽ thấy người sinh năm 41 dân quốc vào can Nhâm có Vũ khúc hóa kị tạo ra yếu tố xấu ở hai cung Ngọ, Tuất nhưng bù lại, lại có Thiên lương hóa lộc và Lộc tồn của lưu niên Bính Tý cùng phù trợ cung Ngọ.

(5) Tuy vào can Bính, Liêm trinh hóa kị ảnh hưởng xấu tới cung mệnh của đại hạn và cung phúc đức tiên thiên, khiến đương số tổn hao tâm lực nhưng nếu chúng ta nhập vào lá số hai sao Thiên Khôi và Thiên Việt của vị thủ trưởng sinh năm 41, sẽ thấy Khôi Việt giáp với cung sự nghiệp của vận hạn và cung thiên di tiên thiên. Do đó không thể phủ nhận, vị thủ trưởng hiện nay cũng không phải là người cạn tàu ráo máng, hành xử vô tình.

(Hết trang 60/118).

(6) Thiên di Hóa kị của lưu niên và đại hạn Bính Tý, cung sự nghiệp không có Hóa lộc, đương số cũng không dễ dàng tìm được công việc bên ngoài mà công việc hiện nay đã làm gần 7 năm trời. Vậy tôi tin rằng đương số, người vốn suy nghĩ cặn kẽ do Xương Khúc tọa mệnh và có năng lực phán đoán của Hỏa Tham, Linh Tham chắc sẽ biết kìm nén bản thân.

Các nhân viên làm việc ở lục địa vốn luôn vất vả và cô đơn, mức sống ở lục địa lại thấp hơn ở Đài Loan... những gì sư huynh phải chịu đựng, đám người ngồi tại văn phòng công ty ở Đài Bắc như chúng tôi đúng là khó lòng thấu hiểu hết. Tuy nhiên được cắt cử sang đại lục tức là năng lực của mình đã được nhìn nhận, dù trước mắt công việc có chút áp lực nhưng cũng không nên từ bỏ, nếu sẽ bị thiệt hại, không chỉ là về tiền bạc. Cuối cùng, tôi muốn dùng khẩu hiệu của công ty để nói với sư huynh: “có vất vả mới có thể cầu tiến”.

VẤN ĐỀ CỦA THẦY: MỘT BỨC THƯ CỦA ĐỘC GIẢ TỪ HONGKONG

Xuất bản sách tử vi, ngoài việc có thêm nguồn nhuận bút ít ỏi, việc khiến tôi vui nhất chính là có thể kết giao với nhiều người ham thích tử vi từ khắp nơi.

THỜI VẬN KHÔNG ĐỦ: THIÊN LÝ MÃ NAN QUÁ BÁ LẠC

TÌNH THÂM DUYÊN CẠN: MỐI TÌNH ĐẦU CỦA ÔNG THÁI

Quyển 2: Phép nhập quái

1. Người

2. Vật

ĐOÁN SỐ MẠN ĐÀM: CÁCH VẬN DỤNG PHÉP NHẬP QUÁI

KẺ VÔ ƠN: ÔNG TRƯƠNG BỎ NHÀ BỎ CON

PHONG THỦY NƠI Ở: TỪ LÁ SỐ XEM MÔI TRƯỜNG CHỖ Ở

Tử vi đẩu số hỉ kỵ thần đại đột phá Sở Hoàng

CHƯƠNG 3 MỆNH CHỦ TINH LUẬN

Như thế nào gọi là mệnh chủ? Mệnh chủ là căn cứ mệnh cung đóng tại địa bàn nào mà suy ra.

Địa chi:

Địa bàn===...tý....../ Sửu –hợi/Dần-tuất/Mão-dậu./Thìn-thân/Tỵ -mùi/Ngọ

Sao MC===Tham lang/Cự môn./Lộc tồn./Văn khúc/Liêm trinh/Vũ khúc/Phá quân

Mệnh chủ là nội dung đặc thù của đẩu số học, nó xét nhân mệnh,hướng âm trạch, dương trạch,bất kể thư tịch cổ hay mới gần đây đều lược bỏ, không đề cập, chỉ có bảng trên.

Theo phép hỷ kỵ gia truyền của bút giả, mệnh chủ là cánh cửa, căn cứ tính chất mênh chủ,rất dễ dàng suy ra ngũ hành hỷ kỵ thần của mệnh.

Thật đáng tiếc, đáng tiếc. Ngàn năm sau sự ứng dung mệnh chủ do ko ai công khai mà phép đoán mệnh như trên, thường cần phối hợp với bát tự

Bút giả gần đây được đồng đạo khích lệ công khai bí pháp với độc giả.

Dưới đây,bút giả cùng độc giả đàm luận ý nghĩa và ứng dụng mệnh chủ:

1. Tham lang: ở đây là tham lang, mệnh chủ tham lang và mệnh lý cũng là tham lang,ý nghĩa đại kỳ dị, khác xa, ko đồng nhất.

Tham lang là mệnh chủ có ý nghĩa biểu thị cục số mệnh cung đại cát đai lợi, vậy ý nghĩa của đại biểu ngũ hành tham lang là sinh khí.

Ở hỷ kỵ pháp trên thời sinh khí tham lang, lấy bỏ ngũ hành cường nhược ứng với ngũ hành cục số làm trọng.

Ví dụ: nữ sỹ 24 năm tháng 2 ngày 10 giờ mão

mệnh cung tại mậu tý đắc thiên đồng thủy,thái âm hóa kỵ, linh hỏa tinh tại nhâm ngọ cung vcd

Ngũ hành cục của bản mệnh là hỏa lục cục, mệnh cung địa bàn tại Tý đắc tham lang sinh khí, cho nên mệnh này ứng với hỏa là trọng, lại giả thử mệnh là tháng 2 sinh, bởi vì có thể nói người hỏa tháng 2 tọa tý cung, tức thủy cung có thủy tinh, bởi vậy mệnh này ứng với thổ là hỷ, thổ chế thủy, do đó kết luận thổ là hỷ thần, lại còn nếu mệnh chủ với hỏa lục cục, thì hỏa là dụng thần, kỵ thần là thủy và mộc.

Đấy là vận dụng giản lược hỷ kỵ đẩu số pháp.

Ý nghĩa mệnh chủ trên đẩu số, đó là nguyên nhân sâu từ phong thủy học.

Trong phong thủy học, hướng cát hung hoàn toàn theo cửu tinh mà định

Thế nào gọi là cửu tinh? cửu tinh đó là căn cứ hà đồ lạc thư như sau:khảm 1, khôn 2, chấn 3, tốn 4, trung cung 5,càn 6,đoài 7, cấn 8, ly 9.

4 9 2

3 5 7

8 1 6

Đấy là đồ hình cơ bản của cửu tinh,sau đó độn số tinh của mỗi năm vào trung cung, vận chuyền thứ tự theo đồ hình.

Do phong thủy học trên định nghĩa tham lang như sau:nếu bản mệnh năm là quái tốn,tham lang sinh khí biểu thị hào thượng bất đồng, hào trung, hạ bất biến, như vậy tất thành quái khảm. Khảm thuộc bắc,hướng bắc tất được tham lang sinh khí.

Cả ba hào biến tất được chấn quái, tức vũ khúc diên niên thượng cát.

Hai hào trung hạ bất đồng, hào thượng ko biến tất được ly quái, tức cự môn thiên y trung cát.

Lại cả 3 hào ko biến tất được tốn quái, tức phụ bật, phục vị tiểu cát.

Ngược lại thượng trung hào bất đồng, hạ hào ko biến thời được quái khôn, tức liêm trinh ngũ quỷ đại hung.

Hào dưới bất đồng, hào thượng trung ko biến tất được càn quái lộc tồn họa hại

Nếu như hai hào trên dưới bất đồng, hào giữa ko biên, tất được đoài quái, văn khúc lục sát cũng hung

Phong thủy học hoàn toàn căn cứ vào can chi năm để định hướng cát hung, mục đích cần vượng, tức khả năng tìm hỷ kỵ thần, định hướng cát hung,mà không phối hợp tháng ngày giờ tổng luận bát tự ngũ hành cường nhược.

Rất ảo diệu do số cửu tinh định hướng cát hung, thường tổng luận bát tự cũng định hướng cát hung tương đồng, với lỷ lệ trên 80%.

Bởi vì độc giả ứng dụng phép hỷ kỵ trước đây, tất trước hết có lời giải đối với cửu tinh hay hướng cát hung, sau đó tài năng tự vận dụng như đối với hỷ kỵ pháp.

Đồng thời cũng nên căn cứ phép này kiểm tra ngũ hành hỷ kỵ thần có chính xác hay không theo hỷ kỵ pháp.

Cho nên, tổng luận phong thủy học, ý nghĩa tham lang,vũ khúc liêm trinh …..là ứng dụng mệnh chủ tham lang, vũ khúc, liêm trinh ….

1.mệnh chủ đắc tham lang, ko quản ngũ hành cục số, đắc thủy nhị cục hay mộc tam cục hay hỏa lục cục,bởi hỷ kỵ pháp trên ứng với ngũ hành cục số làm trọng.

2.mệnh chủ đắc vũ khúc là thượng cát, cùng với tham lang tương đồng

3.mệnh chủ đắc cự môn là cát, cùng với tham lang tương đồng.

4.mệnh chủ đắc lộc tồn, ko ứng với ngũ hành cục số.

5.mệnh chủ đắc văn khúc, cũng ko ứng với ngũ hành cục, giống như lộc tồn

6.mệnh chủ đắc liêm trinh, giống như lộc tồn 1 dạng ko ứng với ngũ hành cục làm trọng

cuối cùng, bút giả chủ yếu thuyết minh ngũ hành cục số, mệnh chủ đắc hung như liêm trinh,lộc tồn,văn khúc, vì sao ko lấy ngũ hành cục là trọng, mà lấy sao chính tinh trong cung làm trọng?

Trước bút giả đã nói ý nghĩa mệnh chủ, cách thiết lập mệnh chủ, nếu mệnh chủ đắc hung, thì đương nhiên ngũ hành cục số ko là ngũ hành hỷ thần.

(tvn lược dịch)

...

Đệ tứ chương: tử bình suy mệnh thuật ngũ hành thủ xả đích nguyên tắc

A. Hành Mộc:

1. Hành Mộc của tháng Giêng: Khí của tháng Giêng, mùa Xuân mới bắt đầu nên khí hàn lạnh vẫn còn, phải dùng Hỏa (lửa) để sưởi ấm khí Thủy (nước), để dưỡng căn cơ của Mộc non; có thể dùng Thổ nhưng không được quá nhiều, Kỵ nhất bị Kim làm tổn thường mầm non của Mộc.

2. Mộc của tháng Hai: Khí của tháng Hai, khí lạnh bắt đầu diệu bớt nên có Hỏa là quý, thứ đến là Thủy, hoặc có thể dùng Thổ để điều tiết, Kỵ Kim khắc mầm non của Mộc.

3. Mộc của tháng Ba: Khí của tháng Ba, Dương khí bắt đầu nóng nên cần phải có Thủy, nhưng Thủy, Hỏa cần phải dung hòa thích nghi. Nếu Mệnh trong lá số thiếu khí Hỏa, thì Hỉ Kim (mừng gặp được Kim); trên nguyên tắc Kỵ gặp Kim quá mạnh.

4. Mộc của tháng Tư: Khí của tháng Tư, khí Hỏa bắt đầu vượng mà khí Mộc bắt đầu suy, nên Hỉ Thủy nhuận căn (mừng gặp Thủy để tưới nhuần gốc mộc), kỵ gặp nhiều Hỏa, nhưng bất hỉ táo Thổ (gặp đất khô không hay), nếu Thổ ướt thì vô hại. Mừng gặp được Kim để tạo thành nguồn nước (vì Kim sinh Thủy).

5. Mộc của tháng Năm: Khí của tháng Năm, khí Hỏa cực thịnh gốc khô lá già, rất cần nhiều Thủy để dưỡng gốc (Mộc). Kỵ Hỏa vượng ví như tự thiêu mình, Thổ ít thì được, Thổ nhiều biến thành tai họa. Mừng gặp được Kim để tạo thành nguồn nước, nên Mộc của tháng Năm phải nghiêng về điều Hậu (điều tiết khí hậu).

6. Mộc của tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Hỏa khí tuy suy nhưng khí nóng còn vượng, song Kim khí bắt đầu thịnh. Tiết (Tiểu Thử) của tháng Sáu Hoả (nhiệt), Thổ (khô) vẫn còn táo, nhiệt, Hỉ gặp Kim, Thủy (mừng gặp Kim, Thủy) để tưới nhuần đất (Thổ).

7. Mộc của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Hỏa khí còn rất ít, Kim thì đang vượng nhưng Mộc đã trưởng thành, phải dùng Dương Kim để gọt đẽo thành khí dụng. Tuy nhiên, Kỵ Kim quá mạnh, trường hợp nầy Hỉ gặp Hỏa (mừng gặp Hỏa để chế bớt Kim), nhưng tốt nhất gặp được Mộc để phụ Hỏa, Kỵ Thủy diệt Hỏa.

8. Mộc của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Âm Kim cực vượng, Hỏa khí đã chết, Kim vượng thì Mộc đã Suy, Hỉ Hỏa lại gặp Mộc, vì khí hậu bắt đầu hàn (lạnh) tối qúy có Hỏa điều thân (Mộc); nếu Mộc mà gặp Thủy sinh thì thành cường vượng (vì Kim sinh Thủy để Thủy sinh Mộc), Thủy, Mộc nhiều thì Hỉ Kim (mừng gặp Kim để chế bớt Mộc).

9. Mộc của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Hỏa khí đã nhập Mộ, Kim khí đến hồi suy, hàn (lạnh) nhiệt thì điều hòa thích nghi. Mộc của tháng chín đã tiêu tàn, khí Mộc lại yếu nên thích Hỉ Thủy sinh trợ, mà gặp thêm Mộc. Nếu Thủy sinh trợ đúng lúc, thì khả dĩ lấy Hỏa. Tối Kỵ Thổ Tinh khắc Thủy, lại Kỵ Kim quá mạnh.

10. Mộc của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Hỏa khí đã Tuyệt, Thủy khí Lâm Quan, Kim khí thì Bệnh, Mộc khí Tràng Sinh, nên Mộc cần nhất gặp Hỏa, và lấy Thổ ngăn Thủy là thượng sách.

11. Mộc của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Hỏa khí nhập Thai, Thủy khí thì Đế Vượng, Kim khí đã Tử, Mộc khí thì Mộc Dục, nên Hỉ gặp Hỏa, thứ đến là Kim, Thủy vượng thì Mộc bị úng, Hỉ gặp Thổ để ngăn Thủy.

12. Mộc của tháng Mười Hai (ở cung Sửu): Khí của tháng Mười Hai, khí hậu rất hàn (lạnh), Mộc khí nhập Quan Đới, Kim khí nhập Mộ, Thủy và Thổ cực vượng, nên nhất định phải có Hỏa để giải tỏa hàn băng, thứ đến là Hỉ Kim, hoặc gặp Mộc cũng nên.

B. Hành Hỏa:

1. Hỏa của tháng Giêng: Khí của tháng Giêng, Mộc khí Lâm Quan, Hỏa khí Tràng Sinh, Thủy khí đã Bệnh, Hỏa rất mừng (HỈ) gặp Thủy, Mộc rất mừng (HỈ) gặp Kim để tiết khí. Hỉ (mừng) Mộc gặp Thủy trợ giúp nhưng không được qúa vượng.

2. Hỏa của tháng Hai: Khí của tháng Hai, Mộc khí Đế Vượng, Hỏa khí Mộc Dục, Thủy khí đã Tử, Hỉ Thủy (mừng gặp được Thủy), lại thích (Hỉ) Kim sinh Thủy để. Nhưng không thích Thủy quá mạnh, khắc Hỏa.

3. Hỏa của tháng Ba: Khí của tháng, Ba Mộc khí đã Suy, Hỏa khí Quan Đới, Thủy khí nhập Mộ, nên lấy Thủy để dùng (dụng Thần), nếu Thổ nhiều thì Hỉ Mộc để chế bớt hay tiết giảm, Hỏa mạnh thì Hỉ (mừng gặp) Kim, Thủy.

4. Hỏa của tháng Tư: Khí của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Mộc khí đã Bệnh, nên Hỉ Thủy để tránh tự thiêu đốt lấy mình, nếu gặp Mộc tương trợ thì sinh nguy (vì Hỏa sẽ trở nên quá vượng), nếu không có Thủy mà gặp Thổ thì Thổ sẽ trở thành quá khô nên vô ích, nếu lại gặp thêm Mộc tương trợ thì càng nguy.

5. Hỏa của tháng Năm: Khí của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Mộc khí đã Tử, Kim khí thì Mộc Dục, Hỏa của tháng Năm cực vượng, tối Hỉ gặp Kim, Thủy, nếu gặp Thổ ngăn Thủy, thì Kỵ Mộc tương trợ Hỏa.

6. Hỏa tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Hỏa khí đã Suy, Mộc khí vào Mộ, Kim khí thì Quan Đới, Thủy khí ở Dưỡng, tháng Sáu vẫn còn nóng nên cũng Hỉ (mừng gặp) Thủy để đắc dụng, thứ đến là Kim (vì Kim sinh Thủy), Kỵ gặp Thổ mà không có Thủy, tệ nhất là gặp Hỏa và Thổ vì Hỏa và Thổ quá nóng quá khô.

7. Hỏa tháng Bảy: khí của tháng Bảy, Kim khí Lâm Quan, Hỏa khí Bệnh, Thủy khí Tràng Sinh, Mộc khí đã Tuyệt, nên Hỏa khí của tháng Bảy đã thối dần, Hỉ (mừng gặp) Mộc trợ giúp, Kỵ gặp Thủy khắc sẽ thành tai họa, nếu Thổ quá nhiều sẽ thoát khí Hỏa, còn Kim quá nhiều sẽ mất thế của Hỏa (vì Kim sinh Thủy khắc Hỏa), nếu gặp được Hỏa thì có lợi.

8. Hỏa tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Hỏa khí đã Tử, Thủy khí thì Mộc Dục, Mộc khí vào Thai, nên Hỏa khí của tháng Tám đã gần tàn, được Mộc sinh Hỏa là cực sáng, Kỵ Thổ nhiều và Thủy khắc thì thế (khí thế) của Hỏa sẽ lâm nguy!

9. Hỏa của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Thủy khí Quan Đới, Hỏa khí nhập Mộ, Kim khí đã Suy, Mộc khí vào Dưỡng, Hỏa khí của tháng Chín đã tàn, tối Kỵ gặp Thổ, Hỉ Mộc khắc Thổ trợ Hỏa, Hỉ gặp lại Hỏa.

10. Hỏa của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Thủy khí Lâm Quan, Hỏa khí đã Tuyệt, Kim khí thì Bệnh, Mộc khí đã Tràng Sinh, Hỏa khí của tháng Mười đã tuyệt tích, Hỉ Mộc Sinh vì được cứu, Kỵ gặp Thủy khắc là tai ương, gặp Hỏa thì lợi, hoặc gặp Thổ chế Thủy thì vinh.

11. Hỏa của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Hỏa khí vào Thai, Thủy khí Đế Vượng, Mộc khí Mộc Dục, nên Hỏa của tháng Mười Một cũng tuyệt tích, Hỉ gặp Mộc, Hỏa, Kỵ gặp Kim, Thủy.

12. Hỏa của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, Hỏa khí vào Dưỡng, Thủy khí đã Suy, Thổ là hàn Thổ hay Thổ ướt, Mộc khí thì Quan Đới, nên Hỏa của tháng Mười Hai Thiên hàn Địa lạnh, Hỏa thế cực yếu, Hỉ Mộc, Hỏa trợ, Thổ nhiều thì bất Hỉ, Kỵ Kim, Thủy.

C. HÀNH THỔ:

1. Thổ của tháng Giêng: Khí của tháng Giêng, Hỏa khí Tràng Sinh, Mộc khí Lâm Quan, Kim khí vào Bệnh, nên Thổ của tháng Giêng Thổ hàn (khí lạnh) đang giảm, khí thế cô hư, vô dụng, Hỉ Hỏa sinh phù, Kỵ Mộc khắc chế thái quá, Kỵ Thủy tràn lan, Hỉ Thổ phù trợ. Được Kim chế Mộc là cát tường, nếu Kim đa (nhiều) thì khí Thổ bị Bệnh.

2. Thổ của tháng Hai: Khí Thổ của tháng Hai, Hỏa khí Mộc Dục, Mộc khí Đế Vượng, Kim khí vào Tử, nên Thổ của tháng Hai khí thế vẫn cô hư, vô dụng, Hỉ Hỏa sinh phù, gặp Thổ tỷ trợ là tốt, gặp Mộc nhiều thì Hỉ Kim chế Mộc.

3. Thổ của tháng Ba: Khí Thổ của tháng Ba, quý Thổ đương Lệnh (vượng), Hỏa khí Quan Đới, Mộc khí vào Suy, Thủy khí thì nhập, Hỉ Hỏa sinh phù, nếu quý Thổ quá vượng lại Kỵ gặp Mộc chế Thổ, vì Thổ Trọng thì Mộc bị gãy, nên Thổ vượng thì cần Kim để hoá, Hỏa thái Vượng thì Hỉ Thủy chế Hỏa.

4. Thổ của tháng Tư: Khí Thổ của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Kim khí Tràng Sinh, nên Thổ của Nhật, Nguyệt, tối Kỵ Thổ táo (khô), được Thủy nhuận tưới là tốt (Hỉ Thủy), Mộc trợ Hỏa thì viêm (quá nóng) dù Thủy khắc cũng vô hiệu, nên lấy Kim để sinh Thủy chế Mộc là tốt.

5. Thổ của tháng Năm: Khí Thổ của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Kim khí Mộc Dục, Thủy khí vào Thai, nên Thổ của tháng Năm Hỏa, Thổ qúa nóng quá khô, Hỉ Thủy và Kim sinh trợ, Kỵ Mộc trợ Hỏa thương thân (Mộc khắc Thổ, và Mộc sinh Hỏa thì Thổ trở thành táo khô), lại Kỵ Hỏa, Thổ khô táo.

6. Thổ của tháng Sáu: Khí Thổ của tháng Sáu, Hỏa khí đã Suy nhưng vẫn còn nóng, Thủy khí vào Dưỡng, Kim khí Quan Đới, nên Thổ của tháng Sáu khí thế vẫn còn táo khô, vẫn Kỵ Hỏa trợ thành táo khô, Hỉ Thủy và Kim sinh trợ.

7. Thổ của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Kim khí Lâm Quan, Hỏa khí vào Bệnh, Thủy khí thì Tràng Sinh, nên Thổ của tháng Bảy, Thổ suy Kim vượng, Kỵ nhiều Kim sẽ cướp mất khí của Thổ (vì Thổ bị tiết khí), Hỉ Hỏa phù Thổ và chế Kim, được Thổ tỷ trợ là cực tốt, nếu Mộc nhiều vẫn Hỉ Kim chế Mộc.

8. Thổ của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Thủy khí Mộc Dục, Hỏa khí vào Tử, vẫn là Thổ Suy, Kim vượng, nếu hàn (lạnh) khí trở thịnh lại càng Hỉ Hóa chế Kim và sinh Thổ, Hỉ Thổ tỷ trợ. (hỷ thủy nhuận thổ,kỵ hỏa táo nhiệt)

9. Thổ của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Kim khí vào Suy, Thủy khí Quan Đới, Hỏa khí nhập Mộ nhưng Thổ vượng đắc Lệnh, Kỵ gặp Hỏa để sinh Thổ, phải lấy Giáp Mộc để tiết khí Thổ, lại Hỉ Thủy tưới nhuận Thổ.

10. Thổ của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Thủy Khí Lâm Quan, Kim khí vào Bệnh, Hỏa khí đã Tuyệt, nên Thổ của tháng Mười ngoài thì lạnh ở trong thì ấm, Hỉ Hỏa làm ấm Thổ, Mộc nhiều trợ Hỏa thì vô hại, gặp Thổ tỷ trợ là tốt.

11. Thổ của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một rất lạnh, Thủy khí Đế Vượng, Kim khí đã Tử, Hỉ Hỏa làm ấm Thổ, nếu Thủy thái quá thì lấy Thổ khắc Thủy, Thổ quá vượng thì lấy Mộc tiết Thổ và trợ Hỏa, lại kỵ Kim sinh Thủy.

12. Thổ của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, trời lạnh đất cống, tối Hỉ Hỏa làm ấm thổ, Thổ nhiều thì Hỉ Mộc tiết khí Thổ và gặp Hỏa. Kỵ Thổ tỷ trợ, tuy nhiên, nếu chỉ gặp Thủy mà không có Hỏa và không có Mộc thì Hỉ Thổ chế Thủy.

D. HÀNH KIM:

1. Hành Kim của tháng Giêng: Khí Kim của tháng Giêng, Mộc khí Lâm Quan, Hỏa khí Tràng Sinh, Kim khí đã Tuyệt, nên Kim của tháng Giêng tánh nhu mà thể nhược (yếu), khí hàn (lạnh) chưa hết, nên lấy Hỏa sưởi ấm Kim là thượng sách, nhưng sợ Thổ nhiều sẽ vùi lấp Kim, Thủy thịnh tất tăng hàn (lạnh) và lại đoạt mất khí Kim, còn Mộc vượng thì Kim bị tổn khí, Kim bị mẽ, gãy. Nếu được Kim tỷ trợ phụ giúp là tốt.

2. Hành Kim của tháng Hai: Khí Kim của tháng Hai, Mộc khí Đế Vượng, Hỏa khí Mộc Dục, Kim khí vào Thai, Thủy khí đã Bệnh, nên Kim của tháng Hai vẫn suy nhược, Kỵ Thổ lấp Kim không thể sinh Kim, vẫn Hỉ Hỏa để cướp khí của Mộc và được Kim phù trợ. 3. Hành Kim của tháng Ba: Khí của tháng Ba, Quý Thổ đang nắm lệnh (vượng), Hỏa khí Quan Đới, Mộc khí đã Bệnh, Kim khí vào Dưỡng, nên Kim khí của tháng Ba cũng Kỵ Thổ qúa trọng vì có thể lấp mất Kim, nên Hỉ dùng Mộc để chế Thổ, và Hỏa để sưởi ấm Kim.

4. Hành Kim của tháng Tư: Khí của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Mộc khí đã Suy, Kim khí Tràng Sinh, nên Kim của tháng Tư hình, chất chưa hoàn bị, khí thể vẫn còn nhu nhược, vì Kim mới Tràng Sinh nên không sợ Hỏa, và Hỉ Thủy tưới nhuận, nhưng Kỵ Mộc trợ Hỏa tổn thương Kim, gặp Kim phù trợ thì lại mạnh thêm, gặp Thổ mỏng thì tốt, nếu Thổ hậu (dày, sâu) thì lấp mất ánh sáng của Kim.

5. Hành Kim của tháng Năm: Khí của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Kim khí Mộc Dục, Mộc khí đã Tử, nên Kim của tháng Năm tính chất vẫn còn mềm, Kỵ Hỏa qúa mạnh, Hỉ Thủy chế Hỏa để bảo tồn thân (Kim), tối Kỵ Thổ chế Thủy, Hỉ Kim tỷ trợ.

6. Hành Kim của tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Hỏa khí vào Suy, Kim khí Quan Đới, Mộc khí nhập Mộ, Qúy Thổ đang nắm lệnh, nên Kim của tháng Sáu Kỵ Thổ táo, nhiệt, Hỉ Thủy nhuận Thổ để sinh Kim, bất Hỉ Thổ táo sinh Kim vì Thổ trọng sẽ lấp mất Kim, cũng Hỉ Kim tỷ trợ để sinh Thủy.

7. Hành Kim của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Hỏa khí đã Bệnh, Kim khí Lâm Quan, Mộc khí đã Tuyệt, nên Kim của tháng Bảy khí vượng mà lại cứng, bén, cần Hỏa trui rèn để thành khí cụ, nếu không Hỏa mà có Thủy thì Kim thanh Thủy tú (tối Hỉ), còn được nhiều Thổ tu bôi thì Kim bị vẩn đục, không tốt, nếu gặp Kim trợ thì trở thành quá cương sẽ gãy.

8. Hành Kim của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Thủy khí Mộc Dục, Hỏa Khí đã Tử, nên Kim của tháng Tám đương lệnh cực vượng, Kỵ Kim tỷ trợ, Hỉ Thủy tiết khí Kim, Hỏa lại luyện Kim, Mộc lại trợ Hỏa cũng nên.

9. Hành Kim của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Thổ lệnh đương quyền, Kim khí nhập Suy, Thủy khí Quan Đới, nên Kim của tháng Chín Kỵ gặp Thổ vì có thể Thổ nhiều quá sẽ lấp mất Kim, Hỉ Mộc tiết khí Thổ, lại Hỉ Thủy tiết khí Kim, tối Kỵ gặp Thổ, và Kỵ Hỏa sinh Thổ.

10. Hành Kim của tháng Mười: Khí của tháng Mười, khí hậu biến hàn (lạnh), Kim khí vào Bệnh, Thủy khí Lâm Quan, nên Kim của tháng Mười nếu Thủy thịnh thì Kim sẽ bị chìm, Hỉ Thổ chế Thủy, Hỏa lại sưởi ấm Kim và trợ Thổ, cũng Hỉ Kim tỷ trợ.

11. Hành Kim của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Thủy khí Đế Vượng, Kim khí đã Tử, nên Kim của tháng Mười Một ở vào mùa Đông hàn, bất Hỉ Thủy hàn, Hỉ Hỏa sưởi ấm Kim, nên dùng Mộc tiết khí Thủy và trợ Hỏa để sưởi ấm Kim, nếu Thủy quá vượng thì cần Thổ để ngăn Thủy.

12. Hành Kim của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, thiên hàn địa cống, Thổ lệnh lại đương quyền, Thổ ướt nhiều và dày, Thủy khí nhập Suy, Kim khí vào Mộ, nên Kim của tháng Mười Hai có thể bị Thổ ượt nhận chìm, Hỉ Hỏa giải lạnh và sưởi ấm Kim, Hỉ Mộc tiết khí Thổ và trợ Hỏa, Kỵ Kim hàn thủy lạnh.

E. HÀNH THỦY

1. Hành Thủy của tháng giêng: Khí Thủy của tháng Giêng, Mộc khí Lâm Quan, Thủy khí đã Bệnh, khí hàn lạnh vẫn còn, chưa hết, nên Thủy của tháng Giêng Hỉ Kim sinh phù, nhưng không thích Kim nhiều quá, nếu Thủy vượng thì cần Mộc mới huy nạp được thế, và cũng cần Hỏa để sưởi ấm Thủy, Hỉ Thổ chế Thủy vượng.

2. Hành Thủy của tháng Hai: Khí của tháng Hai, Mộc khí Đế Vượng, Thủy khí đã Tử, nên Thủy của tháng Hai, rất Hỉ gặp Kim để sinh Thủy và khắc chế Mộc, nếu Thủy vượng nên có Thổ để ngăn Thủy.

3. Hành Thủy của tháng Ba: Khí Thủy của tháng Ba, Thổ lệnh đương quyền, Mộc khí đã Suy, Thủy khí nhập Mộ, nên Thủy của tháng Ba hình thể khô dần, Hỉ Mộc tiết Thổ, và Kim là nguồn sinh, khí hậu vẫn còn hơi lạnh, Hỉ Hỏa sưởi ấm Thủy, lấy Mộc làm dụng thần, nếu Thủy ít thì cũng Hỉ Thủy đến tỷ trợ, Kim trợ sinh Thủy.

4. Hành Thủy của tháng Tư: Khí của tháng Tư, Hỏa khí Lâm Quan, Thủy khí đã Tuyệt, Kim khí Tràng Sinh, nên Thủy của tháng Tư đã gần Tuyệt, Hỉ Thủy tỷ trợ, và Kim lại trợ Thủy.

5. Hành Thủy của tháng Năm: Khí của tháng Năm, Hỏa khí Đế Vượng, Thủy khí vào Thai, Kim khí Mộc Dục, nên Thủy của tháng Năm Kỵ nhập táo, nhiệt chi hương, Hỉ Thủy tỷ trợ, và Kim là nguồn sinh.

6. Hành Thủy của tháng Sáu: Khí của tháng Sáu, Thổ lệnh đương quyền, Hỏa khí đã Suy, Kim khí Quan Đới, Thủy khí nhập Thai, nên Thủy của tháng Sáu Kỵ Thổ trọng ngăn Thủy, và Hỏa trợ Thổ táo, nhiệt, Hỉ Thủy tỷ trợ và Kim là nguồn sinh, Mộc đến tiết Thổ.

7. Hành Thủy của tháng Bảy: Khí của tháng Bảy, Kim khí Lâm Quan, Thủy khí Tràng Sinh, Hỏa khí nhập Bệnh, nên Thủy của tháng Bảy Kim vượng Thủy tướng, trong ngoài thông suốt, được Kim trợ Thủy thì thanh khiết, nếu gặp Thổ vượng thì Thủy bị vẩn đục, nếu Thủy đa Hỉ Mộc để tiết khí, cũng Hỉ Thổ để ngăn nước, và gặp được Hỏa.

8. Hành Thủy của tháng Tám: Khí của tháng Tám, Kim khí Đế Vượng, Thủy khí Mộc Dục, Hỏa khí vào Tử, nên Thủy của tháng Tám thế của Thủy bắt đầu vượng, Hỉ Mộc tiết thế của Thủy, Hỉ Hỏa khắc Kim hộ Mộc, đồng thời sưởi ấm Kim và Thủy.

9. Hành Thủy của tháng Chín: Khí của tháng Chín, Thổ lệnh đương quyền, Kim khí vào Suy, Thủy khí Quan Đới, nên Thủy của tháng Chín tuy Quan Dới nhưng, Qúy Thu Thổ vượng ngăn Thủy, nên Hỉ Mộc tiết Thổ, Kim lại sinh Thủy.

10. Hành Thủy của tháng Mười: Khí của tháng Mười, Thủy khí Lâm Quan, Kim khí vào Bệnh, khí hậu biến hàn (lạnh), nên Thủy của tháng Mười thế Thủy cực thịnh, Hỉ Hỏa để sưởi ấm, Mộc tiết kỳ thế, nếu Thủy vượng thì nhờ Thổ để ngăn Thủy.

11. Hành Thủy của tháng Mười Một: Khí của tháng Mười Một, Thủy khí Đế Vượng, Kim khí đã Tử, khí hậu cực hàn, nên Thủy của tháng Mười Một Thủy khí cường hàn (lạnh), Hỉ Hỏa sưởi ấm Thủy, Mộc tiết kỳ thế.

12. Hành Thủy của tháng Mười Hai: Khí của tháng Mười Hai, thiên hàn địa cống, Thủy khí đã Tuyệt, Thổ lệnh đương quyền, Mộc khí Quan Đới, nên Thủy của tháng Mười Hai vì Thổ trọng và lạnh (cống), Hỉ Hỏa sưởi ấm Thổ, Mộc lại tiết Thổ, nếu lấy Kim thì cũng cần Hỏa sưởi ấm Kim để sinh Thủy.

chú ý: trên đây là nguyên tắc chung của phép hỷ kỵ TB, được tác giả căn cứ để tính hỷ kỵ đối với Cục, Chính Tinh theo lệnh Tháng trong phép Hỷ kỵ của mình.

Bản dịch của TKQ, xin trân trọng cám ơn.

...

Dưới đây là các ví dụ trong các chương 5,6,7,8,9. Qua các ví dụ này ta hiểu phép hỷ kỵ đại đột phá của tác giả.

Ví dụ 1, nam mệnh ngày 3 tháng 11 năm 1953,giờ sửu.

Hỷ kỵ pháp yếu như sau:

1/ Mệnh cung,thân cung là hợi và sửu,đều thuộc Bắc phương cung,thủy khí

2/ Mệnh chủ đắc cự môn, cho nên lấy cục thủy làm trọng.Vì vậy giả thiết Can Ngày là Thủy.

3/ Mệnh cung chính tinh thái dương thuộc hỏa, đà la thuộc kim,linh tinh thuộc hỏa,hai hung tinh.

4/ Vì giả thiết Can ngày là thủy,lại sinh tháng 11,tức thủy của tháng 11.Vậy mệnh bàn đắc kim thủy âm hàn,nên Hỷ hỏa sưởi ấm, Hỷ mộc tiết thủy (độc giả tham khảo chương 4,thủy của tháng 11)

5/ Hỷ thần là mộc hỏa, đương nhiên kỵ thần là kim thủy

Sự thực:

22 tuổi, giáp dần niên kết hôn, 23 tuổi ất mão niên sinh con gái

24-27 tuổi hành mộc hỏa hỷ thần niên, công việc kiến trúc phát tài.

29 tuổi tân dậu niên, bị bạn bè nợ 100 vạn đồng, không đòi được. ( dịch giả chú: ứng câu: kim thủy niên là kỵ thần niên!)

p/s số thứ tự các ví dụ là do tvn ghi

Ví dụ 2, nam mệnh, ngày 18 tháng 1 năm 1945 al, giờ thân.

Sự thực: 22 tuổi học viện tốt nghiệp, 27 tuổi tân hợi niên kết hôn.

Giáp dần, ất mão lưỡng niên đại phát tài lợi.

Hỷ kỵ pháp yếu:

1. mệnh cung tọa ngọ, thân cung tọa tuất, tam hợp dần ngọ tuất hỏa cục, hỏa khí vượng.

2.mệnh chủ đắc phá quân tuyệt mệnh, nên lấy chính tinh thủ mệnh làm trọng. Chính tinh thủ mệnh thiên cơ mộc tinh, cho nên giả thiết Can ngày là Mộc, mộc của tháng 1. Khí tháng 1,mộc khí lâm quan, thủy khí nhập bệnh, hỏa vượng, cho nên hỷ thủy sinh mộc, hỷ mộc tỷ trợ.

Ví dụ 3, nữ mệnh, ngày 10, tháng 1, năm 1951 al, giờ tý

Sự thực:tình cảm tỏa chiết, 24 tuổi, giáp dần niên,tháng 5 al,uống thuốc độc tự sát, ko chồng, con

Hỷ kỵ pháp yếu:

1.Mệnh, thân cung đều tọa dần cung,mộc hỏa cường.

2.mệnh chủ đắc lộc tồn,cho nên ko lấy cục mộc làm trọng.

3.Chính tinh thủ mệnh thiên đồng thuộc thủy. Giả thiết can ngày là thủy,thủy của tháng 1,mệnh bàn mộc hỏa cường vượng, cung nội vô kim tinh, mệnh bàn ko có kim khí, cho nên hỷ Kim, hỷ thủy trợ.( đương nhiên kỵ Mộc!)

Ví dụ 4, nam mệnh,ngày 3,tháng 3 al,năm canh thìn, giờ hợi.

Sự thực: tốt nghiệp đại học, nhà 5 ace, công việc chuyên máy tính điện tử,thê hiền,con cái 1 trai, 2 gái.

42 tuổi, tân dậu niên, tháng 7,8 liên tiếp phát sinh họa: điện giật, khởi động xe gây nổ, cháy dẫn đến tố tụng.

Hỷ kỵ pháp yếu

1,mệnh tọa tỵ cung, thân tọa mão cung, mộc hỏa lưỡng khí.

2.mệnh chủ đắc vũ khúc, kim tứ cục là trọng. Gỉa thiết can ngày là Kim, kim của tháng. Tuy nhiên cung nội ko có kim tinh, mà có tham liêm mộc hỏa tinh. Vậy toàn thể cung mệnh là mộc hỏa khí,cho nên luận theo mộc hỏa, hỷ mộc hỏa kỵ kim thủy.

Ví dụ 5: Nữ mệnh,ngày 1 tháng 11 al, canh dần, giờ mùi.

Sự thực: trước 22 tuổi gia đình nghèo khổ.Cao thương tốt nghiệp, 9 ace.

29 tuổi, mậu ngọ niên bị bạn trốn nợ mất 17 vạn đồng.Cùng năm hôn nhân bất thành, bạn trai bỏ đi.

Hỷ kỵ pháp yếu

1 mệnh tọa tỵ cung, thân tọa mùi cung, nam phương hội thuộc hỏa, cục nội hỏa vượng.

2.mệnh chủ đắc vũ khúc, nên giả thiết can ngày là kim, kim của tháng 11. Cung mệnh kiến thiên phủ thổ tinh, hỷ thủy tẩy kim.Cung nội ko có kim tinh, hỷ kim tới tỷ trợ. Cho nên bản mệnh ứng kim thủy là hỷ, kỵ thổ cùng hỏa nhiều gây táo nhiệt.

Ví dụ 6: Nam mệnh, ngày 21 tháng 9 al,năm nhâm thân 1932, giờ hợi

Sự thực: đại học tốt nghiệp, 23 tuổi giáp ngọ niên kết hôn,sinh 3 trai.

43-45 tuổi làm về kiến trúc, kỷ mùi niên doanh lợi Ngàn vạn đồng.

49 tuổi, canh thân niên nghề kiến trúc bất lợi, thất thoát 900 vạn đồng.

50 tuổi,tân dậu niên, tuyên bố phá sản.

Hỷ kỵ pháp yếu:

1.mệnh tọa hợi cung, thân tọa dậu cung, kim thủy lưỡng vượng.

2. mệnh chủ đắc cự môn, cho nên lấy kim làm trọng.Cung nội kiến thiên đồng thủy,lộc tồn thổ. Vì có thổ tinh, đối cung đại cát tinh hóa lộc khả khắc thủy,cho nên ko theo kim thủy cách, mà ứng cách hỷ hỏa đến sinh thổ,hỷ mộc đến tiết thủy thế. (đương nhiên kỵ Kim )

Ví dụ 7 Nữ mệnh, ngày 4 tháng 10 al, năm 1940, giờ hợi.

Sự thực: 32 tuổi, tân hợi niên, bệnh tử cung phải mổ,có sinh ko có con.

Hỷ kỵ pháp yếu:

1,mệnh cung tọa tý, thân cung tọa tuất, mệnh bàn thủy thổ khí lưỡng vượng.

2,mệnh chủ đắc tham lang sinh khí,nên lấy hỏa cục làm trọng. Giả thiết can ngày là hỏa, hỏa của tháng 10.

3.mệnh cung đắc vũ khúc kim tinh cùng hóa quyền mộc tinh,lại đắc thiên phủ thổ tinh đều tọa thủy cung, hai khí thủy thổ lưỡng vượng, cho nên hỷ hỏa, hỷ mộc tới sinh trợ, kỵ kim thủy

Tôi xin tạm dừng ở đây,thiết nghĩ các bạn đã rõ nội dung của phép Hỷ kỵ này qua các ví dụ trên.

Các bạn dựa theo phép hỷ kỵ này thử nghiệm lý trên ls của mình xem sao. Tôi cho rằng, độ chính xác của phép này khá cao.

Nghe gì về "manh phái" (phái thầy mù)?

Nguyên tác (bạch thoại): Đoàn Kiến Nghiệp

Dịch: VDTT

“Hệ thống manh phái không dùng một số công cụ của mệnh lý truyền thống, lại phế bỏ nhật chủ vượng suy và dụng thần, cách cục bản lai cũng không dùng. Đương nhiên, nói phế bỏ thì không chính xác lắm, vì trong hệ thống manh phái, không có những quan niệm nhật chủ vượng suy và dụng thần, đó là đặc điểm lớn nhất của phái này.

“Vậy manh phái làm sao xem mệnh? Đầu tiên phải khẳng định rằng manh phái có khẩu quyết; nhưng những khẩu quyết này không phải là chìa khóa vạn năng, bởi vì thầy Hác có rất nhiều sư huynh đệ, cùng học những thứ giống nhau, nhưng các sư huynh đệ ấy không đoán chuẩn bằng thầy Hác. Học với thầy Hác một thời gian tôi mới biết, rất nhiều thứ trong mệnh lý là do thầy tự phân tích ra, còn khẩu quyết chỉ là một số khái niệm cơ bản; phần hơn là dựa vào “ngộ tính” của thầy. Cái mà hệ thống này giảng là “ngộ tính”. Ở đây (dgc: Ý nói trong sách “Manh phái mệnh lý: Tu đính bản”) chỉ giảng một số lý luận căn bản và phương pháp, những gì thâm sâu hơn ở tầng sau đòi hỏi “ngộ tính” của chúng ta, mỗi người tự mình lần hồi hiểu ra thôi.

“Nhưng tại sao không tìm dụng thần, không xét nhật chủ suy vượng mà có thể đoán được mệnh? Điểm này liên hệ đến vấn đề cơ bản của mệnh lý. Bản chất của mệnh lý là gì? Bản chất của mệnh lý là biểu thuật đời sống. Cái lý đằng sau mệnh lý và đời sống của chúng ta như nhau, là cái bóng thu nhỏ rồi lại hiện ra của đời sống chúng ta. Nhật chủ vượng suy chẳng thuyết minh được gì, cũng chẳng đại biểu năng lực của mệnh chủ lớn nhỏ hoặc thân thể tốt xấu, càng không thể giải thích quỹ tích mệnh vận của mệnh chủ, chẳng có ý nghĩa thực tế nào cả. Đơn thuần tìm kiếm dụng thần và kị thần khiến sự lý giải của chúng ta đối với mệnh lý trở thành phiến diện và cứng ngắc. Mất đi khả năng nắm bắt cái mặt phong phú nhiều sắc thái của mệnh vận. Bởi vì đời sống vốn phức tạp và biến hóa, không có bạn bè vĩnh viễn, không có kẻ địch vĩnh viễn; sao lại có thể tưởng tượng một hai dụng thần bầu bạn chúng ta đến hết cả đời?”

(dgc: Đến đây là hết phần so sánh manh phái với cách xem Tử Bình truyền thống. Kế tiếp là phần giới thiệu các kỹ thuật xem số của manh phái).

“Hệ thống manh phái cho rằng mệnh lý diễn tả đời sống. Thế mệnh lý diễn tả đời sống bằng gì? Lại nữa, nó diễn tả đời sống như thế nào? Chúng ta cần hiểu một số công cụ mà các vị thầy mù (dgc: dịch nghĩa từ “manh sư”) xử dụng để diễn tả đời sống. Vì thầy mù đa số dạy theo lối khẩu thụ tâm truyền (dgc: Người trước nói, người sau nghe mà lĩnh ý), không để lại văn tự thành hệ thống, thành ra chúng ta phải sáng tạo ra một số khái niệm trước đây chưa có để tìm hiểu hệ thống này.

“Một: Khái niệm ‘chủ khách’

(dgc: Có lẽ trong ý hướng cải cách ông Nghiệp muốn tránh hai từ cũ “chủ khách”, nên trong nguyên tác Hán tự ông viết “tân chủ” cho mới mẻ. Dịch đúng thứ tự mà khỏi sợ hiểu lầm thì chỉ có “khách chủ”, nhưng vì người Việt quen “chủ khách” hơn nên mạn phép dịch như thế để khỏi vô tình tạo ra những lấn cấn ngôn từ không cần thiết. Xin lỗi ông Nghiệp vậy.)

“Khái niệm này trong manh phái có ý nghĩa đặc biệt. Chủ khách cho chúng ta biết cái gì là ta, cái gì là người khác. Rất nhiều thuật đoán mệnh của Trung quốc có luận ‘chủ khách’. Trong lục hào thì hào thế là chủ, hào ứng là khách. Hào trong quẻ là chủ, ngày tháng và hào biến là khách. Phong thủy, kỳ môn, lục nhâm, mai hoa dịch số v.v… thảy đều luận ‘chủ khách’, khác nhau chẳng qua là họ có thể gọi khái niệm là ‘chủ khách’, ‘thể dụng’, ‘thiên địa nhân’ v.v… nhưng đều cốt diễn tả cái quan hệ ‘chủ thể tự ta’ và ‘khách thể ngoại vật’. Kỳ thật đời sống chúng ta cũng như thế, những quan hệ phát sinh giữa chúng ta và thế giới bên ngoài cấu tạo thành mệnh vận của chúng ta.

“Chủ khách là một khái niệm có tính tầng thứ. Mọi người đều biết nhật chủ là ta, những can chi khác là người khác, là những thực thể mà ta đối diện, là ‘khách’. Nhưng mỗi một can chi cũng có ý nghĩa riêng. Dưới nhật chủ đại biểu người hôn phối, tháng đại biểu cha mẹ, anh chị em, năm đại biểu ông bà, giờ đại biểu con cháu, đều là những thực thể mà ta đối diện. Hiểu bấy nhiêu rồi, thì có thể phân tầng thứ: Trụ ngày là ta và vợ hoặc chồng ta, đại biểu gia đình của ta. Gia đình của ta cũng đối diện những gì ở ngoài, có gia đình của cha mẹ, có gia đình của con cháu, có gia đình của anh, của chị, của em v.v… Như vậy trụ ngày là chủ, các trụ khác là khách. Rồi ta và con cháu ta là gia đình ta, đối diện với những gì ở ngoài; như vậy trụ ngày và trụ giờ là chủ, trụ năm và trụ tháng là khách. Rồi toàn thể bát tự là đại gia tộc của ta, đại vận và lưu niên là ngoại lai, từ bên ngoài đến tác dụng vào bát tự, sinh ra ảnh hưởng trên bát tự. Như vậy, bát tự là chủ, đại vận lưu niên là khách.

“Đó là khái niệm chủ khách.

“Tỷ như nói quý vị muốn làm quan hay là muốn có tiền thì xem tài, quan ở vị trí nào trong bát tự. Như quả tài, quan ở vị chủ thì là tài, quan của ta. Còn như tài, quan ở vị khách thì là tài, quan của người khác. Định vị như vậy xong rồi lại xem chủ và khách quan hệ thế nào, thông qua những tác dụng quan hệ mà luận xem tài, quan có quan liên đến ta không, có thể trở thành của ta không. Như thế quý vị thấy rõ, việc luận bát tự và nhật chủ vượng hoặc suy kỳ thật chẳng có liên hệ trọng đại nào cả. Chỉ có trong quan hệ chủ và khách, tức là sự giao vãng của cá nhân trong xã hội, mới thể hiện cái năng lực lớn hoặc nhỏ cũng như phú quý bần tiện.

“Chủ ----------------Khách

“Nhật chủ---------Các can chi khác

“Trụ ngày---------Trụ năm, tháng, giờ

“Trụ ngày,giờ----Trụ năm, tháng

“Tứ trụ-------------Đại vận và lưu niên

Mộ khố phải mở

(Đoàn Kiến Nghiệp)

Tài Quan lâm mộ, hỷ hình xung. Có 3 cách xung mộ, thứ nhất là trực tiếp xung mộ, cách thứ hai là xung thần của mộ, cách thứ ba là xung mở thiên mộ.

1) Càn tạo: Bính Ngọ-Tân Sửu-Kỷ Mão-Tân Mùi

Đại vận: Nhâm Dần/Quí Mão/Giáp Thìn/Ất Tị/Bính Ngọ/Đinh Mùi/Mậu Thân

Mệnh này là của một ông quan to mà Hác tiên sinh lúc còn sống có xem qua. Sinh năm 1906. Đoán ông ta vận Giáp Thìn đi tù 10 năm, vận Bính Ngọ, Đinh Mùi làm quan rất to, Mậu Thân bị nạn.

Nguyên cục Sửu Mùi xung mở kho Sát, Sát tinh có kho nên có công, do đó có thể làm quan to. Đại vận Giáp Thìn phản cục, cho nên đi làm Cách mạng mà bị Quốc dân Đảng bắt bỏ tù 10 năm. Sau giải phóng nhậm nhiều chức lớn trong đó có chức Thị trưởng thành phố Thiên Tân, đến vận Mậu Thìn lại thành phản cục, trải qua 10 năm Cách mạng Văn hóa.

2) Khôn tạo: Mậu Thân-Giáp Dần-Kỷ Mùi-Tân Mùi

Ngày Kỷ Mùi thì mộ không mở, may nhờ có Dần Thân xung, xung thần của mộ (Mộc), cái này gọi là "ở bên cạnh mà mở kho". Mộ khố hữu dụng cho nên có thể phát nhờ kinh thương, tài sản mấy chục triệu Tệ.

Hỏi: Thương Quan gặp Quan sao không có họa?

Đáp: Thương Quan gặp Quan tại tân (khách) vị, tức là người khác có tai họa, do người khác bị họa mà làm cho cô ta dễ phát tài.

Trên thực tế quả đúng như thế.

3) Càn tạo: Tân Hợi-Ất Mùi-Kỷ Mùi-Quí Dậu

Đại vận: Giáp Ngọ/Quí Tị/Nhâm Thìn/Tân Mão/Canh Dần

Địa chi mộ khố không mở, thấu Tân Ất tương xung là thiên can mở kho. Người này vận Nhâm thì phát, vô tiền hơn trăm triệu Tệ. Nhưng vận Thìn vừa hợp Dậu, lại mộ Mùi (Durobi chú: Ý của ĐKN là Mùi nhập mộ vào Thìn, vì Thìn là khố của Thủy và Thổ), kho Mùi không mở, bắt đầu mất tiền. Trong 5 năm mà tài sản cả trăm triệu bay biến mất. Hiện chuyển sang đại vận Tân Mão, bắt đầu khởi sắc trở lại.

Người này làm bất động sản, trong vận Thìn của anh ta lại chính là lúc ngành bất động sản ở TQ đang ngon ăn ấy thế mà bị thua lỗ! Đúng là mệnh trời khó cưỡng.

* Mộ khố đã mở rồi thì sợ bị mộ lần nữa, ví dụ 1 và 3 đã đề cập. Mộ khố chưa mở mà lại bị mộ thì có một ví dụ sau:

Càn tạo: Quí Mão-Kỷ Mùi-Tân Mùi-Quí Tị

Mùi là kho Tài, nguyên cục không mở, vào vận Thìn của đại vận Bính Thìn, làm Công vụ viên nhà nước rất oách! Vừa qua vận Thìn một cái thì chìm luôn, phải đợi đến vận Sửu mới lên lại được.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ghi chép các bài viết hay về Tử Vi trên các diễn đàn

Bát Quái Trận trong Tử Vi

Khi xem Tử Vi, người giải đoán thường chỉ giải các bộ sao trong lá số, mệnh cục, các hành của các ngôi sao, các đại tiểu hạn,…Ngoài ra, còn một yếu tố nữa mà không thể thiếu sót khi giải đoán Tử Vi là Phi Cung Bát Trạch, Phi Cung Bát Tự và cung Sanh. 12 cung số trên lá số Tử Vi thật ra là dàn theo “Bát quái trận đồ”. Vi vậy, các cung trên tử vi đều mang một “quẻ” tương ứng với các quẻ nằm trên Bát Quái. Ví dụ: Cung Tý trong Tử Vi là quẻ Khảm (tượng trưng là phía Bắc) tương ứng với quẻ Khảm trên Bát Quái cũng chỉ hướng Bắc.
Bát Quái Trận trong Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Vì lý do trên, 2 lá số Tử Vi cùng ngày, tháng, vá giờ sinh NHƯNG khác phi cung Bát Trạch và Bát Tự sẽ dẫn đến sự khác biệt nhiều (vì phi cung bát trạch và bát tự sẽ biến đổi theo năm, và giới tính Nam/Nữ. Ví dụ: tuổi Mậu Thìn (Nam) – năm 1928 thì bát trạch rơi vào cung Ly, nhưng tuổi Mậu Thìn (Nam) – năm 1988 thì bát trạch lại rơi vào cung Chấn).

Ví dụ:
Lá số của 2 người nữ có ngày tháng năm và giờ sinh Âm Lịch giống nhau, nhưng năm sinh Dương Lịch lại khác nhau Giáp Dần (1914) và Giáp Dần (1974):

- Đối với người nữ sinh năm 1914: cung sanh rơi vào cung Cấn, phi cung bát trạch và bát tự rơi vào cung KHẢM tức tại cung Tý trên lá số Tử Vi (nữ thì phi cung bát trạch và bát tự tính như nhau, nhưng nam thì bát trạch và bát tự khác nhau).
- Đối với người nữ sinh năm 1974: cung sanh rơi cũng vào cung Cấn (cung Sanh không đổi theo năm dương lịch), phi cung bát trạch và bát tự lúc này lại rơi vào cung ĐOÀI tức tại cung Dậu trên lá số Tử Vi.
* Đây mình không giải đoán 2 lá số này, mà chỉ chú trọng vào các cung Sanh, Bát Trạch và Bát Tự:
+ Cung Sanh:
- Nữ Giáp Dần (1914): cung Sanh rơi vào cung Cấn tại Dần có Cự Nhật ngộ Hóa Kị, Lộc Tồn: người này sinh ra có tiền bạc đầy đủ, giữ gìn tiền của tốt và cuộc sống liên quan đến vấn đề tài chính nhiều.
- Nữ Giáp Dần (1974): giải đoán giống trên.

+ Phi Cung Bát Trạch và Bát Tự:

- Nữ 1914: phi cung bát trạch và bát tự của người này rơi vào quẻ Khảm tại Tý có Đồng Âm sáng nhưng lại ngộ Tuần, Riêu,…Đầu tiên là phi cung bát trạch trước: bát trạch dùng để xem nhiều việc liên quan đến phong thủy, nhà cửa và tình duyên: vậy chứng tỏ rằng phần lớn cuộc đời của cô này liên quan nhiều đến việc ra ngoài giao tiếp với xã hội: ra ngoài hay gặp chuyện bực mình, buồn khổ vì tình duyên, có tiếng nhưng không có miếng,…Kế đến là bát tự, phi cung bát tự chì dùng để xem về đời sống lứa đôi, đây chứng tỏ là đường tình duyên của cô này bạc bẽo vì Đồng Âm sáng mà lại ngộ Tuần, Riêu, và đời sống vợ chồng của cô bị chi phối nhiều bởi dư luận xã hội (Đây mình chỉ giải phi cung bát trạch và bát tự, vẫn chưa kết hợp với cung Phu trên Tử Vi có Cơ Lương miếu địa).

- Nữ 1974: phi cung bát trạch rơi vào cung Điền. Đây tạo nên sự khác biệt rõ rệt giữa 2 người phụ nữ này. Cô sinh năm 1974 này phi cung bát trạch rơi vào cung Dậu tức cung Điền Trạch trên Tử Vi khiến cho cô này đầu tiên là tính cách mạnh mẽ hơn là cô trước và đời của cô này phần lớn là liên quan đến điền sản, cung Điền của cô cũng khá vì có SPLT gặp Tam Hóa Liên Châu, điều này còn chứng tỏ rằng cô này là người quán xuyến nhà cửa rất tốt, trong ngoài đều do một tay cô lo. 2 lá số đều có cung Thiên Di giống nhau tức Đồng Âm ngộ Tuần: nhưng đối với cô thứ 2 (sn 1974) thì vì Phi Cung Bát Trạch của cô có cách SPLT nên tạo ra tính cách vượt gian khó rất tốt khiến cho cô ra ngoài lại có uy với xã hội, mặc dù có gặp khó khăn. Bên cạnh đó, phi cung bát tự của cô thứ 2 cũng rơi vào cung Điền, điều này chứng tỏ khi cô lập gia đình thì đời sống vợ chồng của cô ảnh hưởng nhiều bởi ngôi nhà mà 2 vợ chồng đang ở; ví dụ như là đời sống vợ chồng của cô này sẽ “suông sẻ” hơn là cô đầu tiên vì dù gì cung Điền tại đây cũng có Quang Quý, Thiên Phúc và Long Đức, và nhiều người có nhà cửa cao đẹp sẽ hỏi cưới cô, chồng của cô này nể vợ trong nhà.

Ngoài ra, còn có thể lấy một ví dụ khác như 2 đứa bé (1 nam, 1 nữ) cùng được sinh vào một ngày, giờ, tháng, năm sinh nhưng phi cung bát trạch và bát tự của 2 bé này khác nhau thì sẽ dẫn đến việc lá số Tử Vi của 2 bé khác nhau. Phi Cung Bát Trạch quan trọng hơn là Bát Tự, vì bát trạch bao gồm nhiều khía cạnh hơn…Khi giải đoán cung mệnh của đương số, bát trạch cũng chi phối một số điểm trong đó ví dụ như tính cách và ngoại hình của người đó (tùy trường hợp cụ thể khác nhau).

Ví dụ: 2 bé sinh vào 1982 (Nhâm Tuất), cung Sanh của cả 2 đều rơi vào cung Đoài.
Bé Nam: Bát Trạch là quẻ Ly, Bát Tự là quẻ Càn.
Bé Nữ  : Bát Trạch và Bát Tự đều là quẻ Càn.

Các cung phi trên sẽ dẫn đến việc giải đoán lá số của 2 bé này khác nhau rõ rệt.
Điều quan trọng nhất vẫn là phải giải đoán các bộ sao, mệnh, thân, phúc, đại tiểu hạn,…trên lá số Tử Vi. Nhưng cũng không thể thiếu sót cung Sanh, bát trạch và bát tự như là phần bỏ sung thêm cho sự chính xác. Nói chung, là phải kết hợp tất cả các cách để giải đoán một lá số Tử Vi.


Chính vì vậy mà khi xét lá tử vi, cũng cần quan tâm đến Bát tự của đương số. Trong hai trường hợp trên, Bát tự tương đối giống nhau, chỉ có nhật can khác nhau, tiếp theo là can giờ sinh cũng sẽ khác nhau. 2 yếu tố này sẽ dẫn đến những khác biệt trong “đường đi” của mỗi mệnh số.Kết hợp với những biến cố xảy ra trong đời của mỗi đương số (được nghiệm lý trong quá trình giao tiếp) thì sẽ phân tách ra được nét khác biệt cơ bản của 2 số mệnh, mặc dù lúc này 2 lá tử vi giống nhau hoàn toàn.


Cách tính cung KÝ NGŨ TRUNG:
Cung là từ tám quẻ: Càn, Khảm, Cấn, Chấn … mà ra. Mỗi người đều có 3 cung: Cung Sanh, Cung Phi Bát Trạch và Cung Phi Bát Tự, thêm cung Tử nữa (khi chết mới tính) là bốn cung cả thảy. 1.CUNG SANH (CUNG KÝ): Cung Sanh chỉ dùng để coi về số mạng mà thôi, không dùng về việc cưới gả, tạo tác vân vân … nếu dùng trong việc cưới gả, tạo tác là sai, gây hại cho người. CÁCH TÌM CUNG SANH: Muốn tìm Cung Sanh phải thuộc mấy câu sau đây: Nhứt Khảm
Nhì Khôn
Tam Chấn
Tứ Tốn
Ngũ Trung
Lục Càn
Thất Đoài
Bát Cấn
Cữu Ly
Giáp Tý tầm Lợi (Chấn), Giáp Tuất Càn
Giáp Thân Khôn thượng, Giáp Dần Gian (Cấn)
Giáp Ngọ Ly cung hoàn Mã thượng
Giáp Thìn Tốn thượng định kỳ chân.
Ký Ngũ Trung
Bính Dần ký Khảm, Ất Tỵ Đoài
Canh Thân Khôn thượng toán vô sai
Đinh Hợi, Kỷ Hợi đồng ký Cấn
Nhược ư Nhâm Ngọ thị Ly bài

Thí dụ: Tìm Cung Sanh cho 3 tuổi sau đây coi cung gì? (Năm nay là năm 1987): 60 tuổi, Mậu Thìn (sanh năm 1928); tuổi Nhâm Ngọ, 46 tuổi (sanh năm 1942), và tuổi Giáp Ngọ, 34 tuổi (sanh năm 1954). Muốn tính Cung Sanh cho tuổi nào, ta phải tìm vòng con giáp của tuổi đó. Muốn tìm vòng con giáp, ta bấm tay lên cung của tuổi đó, theo chiều nghịch, hô mỗi cung mỗi chữ: Giáp, Ất, Bính … cho đến chữ Thiên can của tuổi ấy, hễ nó nằm ở cung nào là vòng con giáp ở cung đó.

Như tuổi Mậu Thìn, năm nay (1987), 60 tuổi ở trên, ta bấm tay vào cung Thìn, theo chiều nghịch, hô: Giáp tại Thìn, Ất tại Mẹo, Bính tại Dần, Đinh tại Sửu, rồi Mậu tại Tý, ta thấy tuổi Mậu Thìn thuộc con nhà Giáp Tý. Vậy, “Giáp Tý tầm lợi”, theo chiều thuận, ta hô: Tam Chấn tại Tý, Tứ Tốn tại Sửu, Ngũ Trung tại Dần, Lục Càn tại Mẹo, Thất Đoài tại Thìn. Vậy Cung Sanh của tuổi Mậu Thìn là cung Đoài.

Tìm Cung Sanh của tuổi Nhâm Ngọ 46 tuổi (sanh năm 1942). Ta cũng y như trước mà tìm vòng con giáp: tuổi Nhâm Ngọ thuộc vòng Giáp Tuất. Như ta đã biết: “Giáp Tuất Càn”. Giờ ta bấm tay lên cung Tuất, hô: Lục Càn tại Tuất, Thất Đoài tại Hợi, Bát Cấn tại Tý, Cữu Ly tại Sửu, Nhất Khảm tại Dần, Nhì Khôn tại Mẹo, Tam Chấn tại Thìn, Tứ Tốn tại Tỵ, Ngũ Trung tại Ngọ. Vậy: tuổi Nhâm Ngọ này thuộc cung Ngũ Trung, ta coi trở lại bài “Ký Ngũ Trung” thấy có câu “Nhược ư Nhâm Ngọ thị Ly bài”, nghĩa là : Nếu tuổi Nhâm Ngọ mà tính nhằm Ngũ Trung ấy là cung Ly. Vậy, tuổi Nhâm Ngọ 46 tuổi này Cung Sanh là Cung Ly. Còn tuổi Giáp Ngọ, 34 tuổi (sanh năm 1954) thì khỏi tính vì ta biết ngay tuổi đó là cung Ly rồi. Bởi trong bài “Tầm Cung Sanh” có câu “Giáp Ngọ Ly Cung hoàn mả thượng”, nghĩa là: tuổi Giáp Ngọ thuộc Cung Ly nó ở ngay trên cung Ngọ.
2. CUNG PHI BÁT TRẠCH: Cung Phi Bát Trạch là cung Chánh dùng để coi về việc tạo tác và hôn nhơn vân vân … nếu không biết về Cung Phi Bát Trạch này thì không coi về phương hướng nhà cửa, mồ mả hay coi về hôn nhơn cưới gã gì được, nên nó rất quan trọng. Người không biết, dùng lầm Cung Sanh ở trước thì hỏng bét cả.

Cung Phi khác với Cung Sanh, Cung Sanh nó không chạy, hễ cùng một tuổi với nhau thì đàn ông cung gì là đàn bà cung đó, nghĩa là dầu đàn ông hay đàn bà, hễ là cùng một tuổi thì đồng một cung như nhau. Cung Phi trái lại, cùng là một tuổi mà đàn ông cung khác đàn bà cung khác, nên gọi nó là Phi. Phi là chạy, chạy khác đi không giống nhau.
11. CUNG PHI BÁT TỰ: Phần Phi cung Bát Tự này chỉ dùng về việc hôn nhơn thôi, đây là cung phụ, khi chọn về hôn nhơn thấy cung này được kiết, xem lại cung Bát trạch ở truớc cũng được kiết đó là Đại kiết, còn hai bên đều hung ấy là Đại hung, phải tránh. Một bên hung một bên kiết, đó là bán hung bán kiết, nên suy tính cho thật kỹ sẽ dùng, lý bất thập toàn, ta không nên quá câu chấp. Chỗ đồng và chỗ chẳng đồng giữa Bát trạch và Bát tự: a)CHỖ ĐỒNG: -Bát trạch dùng: Nhứt Khảm, Nhì Khôn … Bát tự cũng vẫn dùng y như vậy. -Bát trạch: cung của phụ nữ giống y như bên Bát tự. Nghĩa là cung của phụ nữ bên Bát trạch và bên Bát tự vẫn là một cung không thay đổi. b)CHỖ CHẲNG ĐỒNG: -Cung phi Bát trạch dùng cả hôn nhơn và tạo tác, còn Cung Phi Bát tự chỉ dùng về hôn nhơn. -Về phần đàn ông, cung Phi Bát tự khác với cung Phi Bát trạch. -Về 64 cung biến của Bát trạch và Bát tự khác nhau, nên hai bên có hai bài riêng, đừng lầm đem bài này dùng bấm cho cung kia là sai cả. Ở sau, ta sẽ nói đến bài bấm 64 cung biến của Phi cung Bát tự này. —o0o—

CÁCH TÌM PHI CUNG BÁT TỰ

Như trên ta đã biết cung Phi Bát trạch và Bát tự của Nữ mạng vẫn là một thì cách tính cũng vẫn là một. Vậy ta cứ theo các cách tính cung Phi Bát trạch mà tính cung Phi Bát tự của Nữ mạng, rối từ cung Phi của Nữ mạng mà suy ra cung Phi Bát tự của Nam mạng theo bảng đối ứng lập thành sẳn dưới đây.

Hễ: Nữ 1 thì Nam 2, Nữ 2 thì Nam 1, cộng 1 với 2 lại thành 3. Số 3 là con số căn bản. Rồi hễ: Nữ 3 thì Nam 9, Nữ 4 thì Nam 8, Nữ 5 thì Nam 7, Nữ 6 thì Nam 6, Nữ 7 thì Nam 5, Nữ 8 thì Nam 4, Nữ 9 thì Nam 3. Giờ ta đem cộng từng cặp một của 7 cung Nam Nữ này lại thì thành ra số 12.

Vậy con số 3 và con số 12 là con số căn bản để tính ra cung số Nam Nữ Bát tự lữ tài. Hễ biết cung Nam mạng thì tìm ra cung Nữ mạng, biết cung Nữ mạng thì tìm ra cung Nam mạng. Hễ dưới 3 thì trừ cho 3, còn trên 3 thì trừ cho 12 thì ra cung số của Nam hoặc của Nữ.

Xin tóm lược để dễ thấy:
Nữ 1 2 3 4 5 6 7 8 9
Nam 2 1 9 8 7 6 5 4 3

Khi các bạn theo cách tính cung Phi Bát trạch ở truớc mà tìm ra cung Phi Bát tự của bên Nữ rồi, theo số cung của bên Nữ ở trên mà dò ra số cung của bên Nam ở dưới.

Xin nhắc lại số cung nên đọc: 1: Nhứt Khảm, 2: Nhì Khôn, 3: Tam Chẩn, 4: Tứ Tốn, 5: Ngũ Trung, 6: Lục Càn, 7: Thất Đoài, 8: Bát Cấn, 9: Cửu Ly.

Tài liệu sưu tầm

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bát Quái Trận trong Tử Vi

Sao Phượng Các

Hành: Thổ Loại: Đài Các tinh Đặc Tính: Công danh, vinh hiển lâu dài Tên gọi tắt thường gặp: Phượng
Sao Phượng Các

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phụ tinh. Thuộc bộ sao đôi Long Trì và Phượng Các. Gọi tắt là bộ sao Long Phượng. Một trong 4 sao của bộ Tứ Linh là Long Trì, Phượng Các, Bạch Hổ, Hoa Cái. Gọi tắt là Long Phượng Hổ Cái.

Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Phượng Các ở Mệnh thì nhan sắc rất đẹp, da mặt hồng hào, thanh tú, nhất là đối với phụ nữ.
Tính Tình

  • Thông minh, có chất văn.
  • Ôn hòa, nhân hậu, điềm đạm, cởi mở.
  • Đoan trang trong nết hạnh.
Công Danh Tài Lộc
  • Thi đỗ cao, có khoa giáp lớn, nhất là ở Mão Dậu.
  • Làm tăng thêm tài lộc, điền sản (Long Trì chỉ nhà cửa, ao hồ).
  • May mắn trong hôn nhân (dễ yêu, dễõ cưới, vợ chồng tương đắc).
  • May mắn cả trong việc sinh nở (dễ sanh, sinh dễ nuôi).
Với các nghĩa trên, Phượng Các là sao tương đối vẹn toàn về nhiều mặt nhan sắc, tính hạnh, tài lộc, gia đạo.
Ý Nghĩa Phượng Các Và Các Sao Khác
  • Phượng Các, Thai Phụ: Thăng quan, thi đỗ.
  • Phượng Các, Riêu, Hỷ hay Phi: Đắc thời, có hỷ sự đến nhanh chóng về tình duyên, thi cử, quan lộ.
  • Phượng Các, Thiên Lương: Nữ mệnh có chồng danh giá, hiền.
  • Phượng Các, Xương Khúc, Khôi Việt, Tả Hữu: Đây là bộ sao "hiền thần", chuyên phò tá cho Tử Phủ. Cách này giúp đắc quan mau lẹ, cao quý.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Phụ Mẫu
  • Cha mẹ danh giá hoặc có điền sản.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Phúc Đức
  • Phú quý.
  • Dòng họ khá giả.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Điền Trạch
  • Phượng Các, Mộ: Có nhà đất rộng rãi, có di sản.
  • Phượng Các, Thai, Bát Tọa: Có nhà lầu cao sang, nhà có ao hồ.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Quan Lộc
  • Gia tăng sự thuận lợi về việc cầu công danh, chức vụ, thi cử, bằng khen.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Nô Bộc
  • Bè bạn là người có danh chức, đắc lực.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Thiên Di
  • Ra ngoài hay gặp quý nhân, được người mến chuộng.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Tật Ách
  • Chủ đau bệnh về lỗ tai, thận.
  • Phượng Các nếu gặp với các sao Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ, nếu không thì đời hay bị vu oan, giá họa, nói xấu, dèm pha, oán trách, nhà cửa hay bị mối mọt, đồ đạc mau hư, tầm thường.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Tài Bạch
  • Gia tăng sự tốt đẹp về mưu cầu tài lộc, tiền bạc hoặc được thừa hưởng di sản, địa ốc, tiền trợ cấp, tiền hưu bổng và chính mình cũng chu cấp cho người khác, làm việc từ thiện.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Tử Tức
  • Dễ sinh con, sinh con đẹp, dễ nuôi.
  • Sinh quý tử, thông minh, tuấn dật.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Phu Thê
  • Vợ chồng đẹp đôi, tương đắc, việc cưới xin dễ dàng.
Phượng Các Khi Vào Các Hạn
  • Phượng Các, Riêu, Hỷ: Có dạm hỏi, đưa đến hôn nhân.
  • Phượng Các, Cáo, Ấn: Thi đỗ.
  • Phượng Các , Thiên Mã: Có dời nhà cửa.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Phượng Các

Khiêm tốn là vốn quý của con người

Con người cần có đức khiêm tốn, bởi bầu trời tuy rộng nhưng còn có bầu trời lớn hơn, sinh mệnh có giới hạn nhưng tri thức thì vô hạn, lấy khiêm tốn làm vốn
Khiêm tốn là vốn quý của con người

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Con người cần có đức khiêm tốn, bởi bầu trời tuy rộng lớn nhưng còn có bầu trời lớn hơn, sinh mệnh có giới hạn nhưng tri thức thì vô hạn. Vì vậy mà làm người cần lấy khiêm tốn làm vốn quý cho bản thân, không nên có chút học vấn đã dương dương tự đắc.

Trên thế gian này, có những người có chút học vấn nhưng đã vội vàng kiêu ngạo, luôn tự cho mình là nhất. Các Giác giả chân chính, càng tu luyện đến cảnh giới cao thâm, họ càng nhìn thấy những thiếu sót của bản thân mình, càng thấy mình vô cùng nhỏ bé.

Sự nhận thức về kết cấu vũ trụ của Phật Thích Ca Mâu Ni chính là “Kỳ đại vô ngoại, kỳ tiểu vô nội” (lớn đến vô cùng, nhỏ đến vô tận). Kỳ thực, năng lực bản thân và sự tu dưỡng tâm linh của con người thế gian, cũng giống như kết cấu của vũ trụ. Người giỏi còn có người giỏi hơn, bầu trời tuy rộng lớn nhưng còn có bầu trời lớn hơn, sinh mệnh có giới hạn nhưng tri thức thì vô hạn.

Vào thời xưa, có một vị đệ tử đi theo một vị danh sư để học nghề. Ba năm sau tay nghề của vị đệ tử đã có tiến triển vượt bậc. Vị đệ tử cho rằng tay nghề bản thân đã đạt đến kỹ thuật tối cao. Đủ để cho anh có thể tự đi làm một mình, liền chuẩn bị quần áo và từ biệt sư phụ.

Biết được sự việc đó, sư phụ đến hỏi vị đệ tử: “Con có chắc là con đã học được hết rồi không? Không cần học lên trình độ cao hơn sao?”

Vị đệ tử chỉ tay vào đầu nói: “Đầu con đã được lấp đầy rồi, không thể nhét thêm được nữa”.

“Vậy sao?”, vị sư phụ nói, và lấy ra một cái bát để trên bàn. Sau đó yêu cầu vị đệ tử chất đầy đá lên, cho đến khi nó cao lên nhìn giống như hình dáng của một quả núi nhỏ. Khi đó sư phụ hỏi: “Con thấy cái bát này đã đầy chưa?”

Vị đệ tử trả lời: “Đã đầy rồi ạ”.

Vị sư phụ liền lấy một nắm cát thả vào khe của những viên đá, sau đó sư phụ lại hỏi: “Vậy bây giờ thì sao, đã đầy chưa?”

Vị đệ tử nghĩ ngợi một chút rồi nói: “Đầy rồi ạ”.

Sư phụ liền lấy tàn nhang ở trên bàn rắc lên trên đỉnh, đến khi có vẻ như không thể rắc thêm được nữa, sư phụ lại hỏi: “Con thấy nó thực sự đã đầy chưa?”

Đệ tử trả lời: “Lần này thực sự là đầy rồi ạ”.

Sư phụ nghe xong không nói câu nào, chỉ lấy ấm trà trên bàn từ từ đổ nước vào trong bát mà không tràn ra một giọt nào. Đồ đệ nhìn thấy thế cuối cùng cũng hiểu ra, lập tức quỳ xuống nhận lỗi với sư phụ. Một lần nữa thành tâm thành ý xin sư phụ nhận anh làm đệ tử.

Danh họa Leonardo da Vinci từng nói:

“Kiến thức ít ỏi khiến người ta kiêu ngạo, kiến thức phong phú khiến người ta khiêm tốn. Do đó những bông lúa lép thường kiêu ngạo mà chĩa thẳng đầu lên trời, còn những bông lúa chắc hạt thường cúi đầu xuống đất”.

Chỉ có ai khiêm tốn học hành, không bao giờ biết tự mãn, thì mới có thể bước đến đỉnh cao của sự nghiệp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khiêm tốn là vốn quý của con người

Những kiến thức cơ bản về địa chi trong tử vi (phần 1)

Địa chi là khái niệm tử vi được nhiều ngươi quan tâm cũng như sử dụng. ## cung cấp cho một số kiến thức cơ bản về địa chi để bạn đọc tham khảo.
Những kiến thức cơ bản về địa chi trong tử vi (phần 1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cùng với thiên can, địa chi là khái niệm tử vi được nhiều ngườii quan tâm cũng như sử dụng trong đời sống hàng ngày. ## cung cấp cho một số kiến thức cơ bản về địa chi theo phong thủy để bạn đọc tham khảo, hiểu rõ hơn về lĩnh vực này.


Nhung kien thuc co ban ve dia chi trong tu vi phan 1 hinh anh
 
Cơ sở hình thành Thiên Can Địa Chi
Những kiến thức cơ bản về địa chi trong tử vi bao gồm tất cả các phương diện xung, hình, hại hợp và ngũ hành. Thông qua đó có thể dễ dàng hơn trong việc xem tử vi, thậm chí là xem phong thủy.

1. 12 địa chi là Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất Hợi.
  2. Địa chi thuộc ngũ hành dương là Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất tức dương chi; địa chi thuộc ngũ hành âm là Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi tức âm chi.   3. Ngũ hành ứng với địa chi: Dần, Mão - Mộc, Tỵ, Ngọ - Hỏa, Thân, Dậu – Kim, Hợi, Tý – Thủy, Sửu, Thìn – Thổ, Mùi – Tuất – Thổ.   4. Phương vị ứng với địa chi: Mão – phương Đông, Thìn, Tỵ - phương Đông Nam, Ngọ - phương Nam, Mùi, Thân – phương Tây Nam, Dậu – phương Tây, Tuất, Hợi – phương Tây Bắc, Tý – phương Bắc, Sửu, Dần – phương Đông Bắc.   5. Mùa ứng với địa chi: Dần, Mão, Thìn – mùa xuân, Tỵ, Ngọ, Mùi – mùa hạ, Thân Dậu, Tuất – mùa thu, Hợi, Tý, Sửu – mùa đông.   Mệnh Đào hoa mang đến may mắn trong hôn nhân
6. Địa chi tương sinh: Dần, Mão - Mộc sinh Tỵ, Ngọ - Hỏa, Tỵ,  Ngọ - Hỏa sinh Tuất, Sửu - Thổ, Thìn, Sửu – Thổ sinh Thân, Dậu – Kim, Mùi, Tuất – Thổ có khi sinh Thân, Dậu – Kim có khi không, Thân, Dậu – Kim sinh Hợi, Tý – Thủy, Hợi – Tý – Thủy sinh Dần, Mão – Mộc.
 
7. Địa chi tương khắc: Dần, Mão – Mộc khắc Thìn, Tuất, Sửu, Mùi – Thổ, Mùi, Tuất – Thổ khắc Hợi, Tý – Thủy, Thìn, Sửu – Thổ có khi khắc Hợi, Tý – Thủy có khi không, Hợi, Tý – Thủy khắc Tỵ, Ngọ - Hỏa, Tỵ, Ngọ - Hỏa khắc Thân, Dậu – Kim, Thân, Dậu – Kim khắc Dần, Mão – Mộc.
8. Địa chi hợp hội: 
  Lục hợp: Tý Sửu hợp hóa Thổ, Dần Hợi hợp hóa Mộc, Mão Tuất hợp hóa Hỏa, Thìn Dậu hợp hóa Kim, Ngọ Mùi hợp hóa Hỏa hoặc Thổ.   Tam hợp cục: Dần Ngọ Tuất, Thân Tý Thìn, Tỵ Dậu Sửu, Hợi Mão Mùi.   Tam hội cục: Dần Mão Thìn – Mộc cục, Tỵ Ngọ Mùi – Hỏa cục, Thân Dậu Tuất – Kim cục, Hợi Tý Sửu – Thủy cục.   Bán hợp cục: Dần Ngọ, Ngọ Tuất – Hỏa cục; Thân Tý, Tý Thìn – Thủy cục; Tỵ Dậu, Dậu Sửu – Kim cục; Hợi Mão, Mão Mùi – Mộc cục.   Bán hội cục: Dần Mão, Mão Thìn – Mộc cục; Tị Ngọ, Ngọ Mùi – Hỏa cục; Thân Dậu, Dậu Tuất – Kim cục; Hợi Tý, Tý Sửu – Thủy cục.
Những kiến thức cơ bản về địa chi trong tử vi (phần 2)
Địa chi có ứng dụng nhiều trong xem tử vi, đặc biệt là tử vi đời sống. Nhưng, nhiều người chưa hiểu đầy đủ, dẫn tới trường hợp xem xét phiến diện, thiếu sót.

Vận dụng phong thủy vào tử vi Lục xung hàng chi Xem về hình xung hóa hợp của can chi (P3)
=> Mời các bạn xem thêm Tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh

Thái Vân

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những kiến thức cơ bản về địa chi trong tử vi (phần 1)

Xem tướng đặc điểm của người trường thọ –

Xem tướng. Ngừoi có sống mũi đầy đặn, nhân trung sâu và rộng, răng chắc chắn, tiếng nói rõ ràng, vang dội… là người trường thọ. Xem tướng. Những dấu hiệu sau đây cũng liên quan khá mật thiết tới việc giải đoán thọ mạng: - Đối với người đã đứng tuổi v
Xem tướng đặc điểm của người trường thọ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng đặc điểm của người trường thọ –

Nằm mơ thấy sóng thần là điềm gì –

Sóng thần là một đợt sóng lớn, được tạo ra khi có thể tích lớn nước của đại dương bị chuyển dịch một cách nhanh chóng trên một quy mô lớn. Có nhiều nguyên nhân gây ra hiện tượng sóng thần. Động đất hay những sự chuyển dịch lớn của lớp địa chất bên tr
Nằm mơ thấy sóng thần là điềm gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy sóng thần là điềm gì –

Xem tướng mông, tướng rốn và nhũ hoa của phụ nữ –

Rún sâu là giàu có, rún phải ngửa lên mới thật là giàu sang. Rún gần phía trên là trí giả, rún nắm dưới đì là kẻ hạ tiện ngu si. Xem rún Sách nói rún cần phải sâu, rún sâu là giàu có, nhứt là rún phải ngửa lên mới thật là giàu sang. Rún gần phía trên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Rún sâu là giàu có, rún phải ngửa lên mới thật là giàu sang. Rún gần phía trên là trí giả, rún nắm dưới đì là kẻ hạ tiện ngu si.

quynh-thu-3-200x300

Xem rún

Sách nói rún cần phải sâu, rún sâu là giàu có, nhứt là rún phải ngửa lên mới thật là giàu sang. Rún gần phía trên là trí giả, rún nắm dưới đì là kẻ hạ tiện ngu si.

Rún sâu có phước có lộc, rún cạn chịu nạn chịu nghèo. Rún rộng vành lớn lỗ là danh tiếng lẫy lừng. Rún nhỏ mà bọc hẹp là đau khổ.

Rún cần trên nhỏ dưới lớn, đại kỵ trên lớn dưới nhỏ. Đàn ông lồi rún là nghèo mà thọ vấn. Đàn bà lồi rún là ngu đần và ương ngạnh.

Phần xem cho phụ nữ :

Xem rún và mông

Rún và mông rất quan hệ đến cả cuộc đời. Mông của đàn bà là nền tảng của đời người. Đàn bà thiếu mông thì lúc thanh xuân bạc phước về đường tình, mà của cải ruộng vườn cũng tiêu tan.

Khi trở về già hoặc trung niên mà mỏng lép thì chồng con chết, hoặc ly tán cô độc đến già, ốm mà thiếu thịt bàn toạ thì mọi việc đều thất bại. Mập mà thiếu thịt mông thì cũng cô độc bần hàn, chỉ có cách đi làm thuê mướn.

“Ngực lép mông beo chịu nghèo suốt kiếp”. Đàn bà ngục lép mông beo, lưng cong lại càng hung ác, và cả ghen nữa.

Phụ nữ mà lỗ rún cạn hẹp bàn mông nhọn vêu ra, eo lưng teo nhỏ, thì rất xấu, nếu nhan sắc tướng diện không đẹp thì chỉ ở mướn làm thuê, còn như khá hơn nhan sắc dễ coi. Hoặc có nhiều tướng tốt khác chế hoá bù trừ thì đến làm hầu thiếp, vợ lẽ là cùng.

Nhược bằng lỗ rún trắng bệch thì thật là cô độc đến trọn đời.

Vì vậy phụ nữ bất kỳ beo gầy mập ốm, đều phải cần có mông lớn eo lớn, lỗ rún sâu là tốt. Lỗ rún mà có ít sợi lông, nhứt định sanh con quí tử.

Bạn có thể xem thêm bài tổng hợp: ” xem tướng số online, xem tử vi tướng số ” để tìm hiểu nhiều hơn về các kiểu xem tướng cho con người

Xem nhũ hoa

Nhũ hoa của phụ nữ là căn bản của hậu duệ, tức là cái nguồn gốc để lưu lại đời đời về sau. Nhũ hoa toàn diện cần rộng lớn, tròn trịa, chắc chắn, không nên xẹp lép, nhão xệ và móp méo. Quầng nhũ hoa cần phải đen, hoặc đỏ, rất kỵ trắng bệch xanh sậm.

Đầu nhũ hoa phải lộ ra khỏi toàn diện và nhô lên trên thì dễ nuôi con. Đầu xệ gục xuống như gãy, nuôi con hơi khó, tuy nói khó song vẫn có thể nuôi được, hơn là những người có bộ nhũ hoa dù lớn, cứng chắc đến đâu mà quầng sắc trắng bệch lại không có núm, hoặc cái núm cở đầu chiếc đủa thì nhất định không thể có con.

Tệ hơn nữa là như thế mà quanh quầng nhũ hoa lại mọc khối lông, thì sức dâm đảng đến quá mức độ, có khi phải ngã luôn xuống vũng bùn lầy.

Đầu nhũ hoa tròn cứng, sanh con học giỏi làm nên, đầu nhũ hoa hơi có dạng vuông cũng sanh con quí, nhũ hoa trắng xẹp, đầu nhũ hoa không có núm, không thể sanh nuôi con được, đầu nhũ hoa nứt nẻ hoặc có nhiều tia như có gai, cũng không nuôi con được mà lại dâm đảng không biết chán.

Tóm lại nhũ hoa lớn, quầng đen, núm lộ và nhô lên thì sanh và nuôi con rất tốt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng mông, tướng rốn và nhũ hoa của phụ nữ –

Tuyệt chiêu giúp 12 con giáp thoát ế - Phong thủy phòng ngủ - Xem Tử Vi

Tuyệt chiêu giúp 12 con giáp thoát ế, Phong thủy phòng ngủ, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Tuyệt chiêu giúp 12 con giáp thoát ế, tu vi Tuyệt chiêu giúp 12 con giáp thoát ế, tu vi Phong thủy phòng ngủ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuyệt chiêu giúp 12 con giáp thoát ế

Tuyệt chiêu giúp 12 con giáp thoát ế .Duyên phận vốn là do trời định, nhưng khi mọi người xung quanh gấp rút chuyện hẹn hò cưới xin, các cô nàng còn “ế” cũng sẽ cảm thấy nóng lòng suốt ruột. 12 con giáp nữ sẽ phải làm sao để thoát kiếp độc thân đây. Các cô nàng tuổi Dần, Ngọ, Tuất:   Vốn trời sinh khá hướng nội, các con giáp này không mấy có vận “đào hoa” nên mãi vẫn chưa gặp được người trong mộng. Năm nay chính là cơ hội rất tốt để “hoa đào” nở rộ và bắt đầu một chuyện tình cảm mới mẻ, lãng mạn. Chỉ cần các cô gái chịu thay đổi bản thân, chủ động hơn một chút để tạo thêm cơ hội gặp gỡ giao lưu cho các chàng trai thì số phận ắt sẽ thay đổi. Về mặt phong thủy, nếu có thể kê đầu giường hướng về phía Đông, duyên phận ắt sẽ tới.   12-con-giap-nu-nen-lam-gi-de-thoat-e-1 Các cô nàng tuổi Hợi, Mão, Mùi:   Xem bói những cô nàng tuổi này thường “ế” là do không nắm bắt đúng cơ hội, nên hãy biết chọn lựa và chớp lấy thời cơ mới không bỏ lỡ “bạch mã hoàng tử”. Hoa đào đã có nhưng cũng cần tưới nước, chăm bón giống như tình yêu cũng phải biết chăm sóc, quan tâm. Tình yêu của các con giáp nữ này sẽ đến để không còn phải vò võ cô đơn nữa. Phòng ngủ quay về hướng chính bắc, trước cửa sổ để một bình cá vàng sẽ thuận lợi hơn cho duyên số rất nhiều.   Các cô nàng tuổi Tỵ, Dậu, Sửu:   Những năm gần đây chuyện tình duyên của các cô nàng tuổi này không hề tốt. Chỉ vì nóng vội lại gặp sai người khiến đổ bể mọi việc. Nếu có thể bình tĩnh chọn lựa và suy xét mọi việc, họ có thể sẽ có được một người phù hợp. Để tăng thêm cơ duyên đôi lứa, trong phong thủy phòng ngủ bạn có thể chọn một căn phòng hướng về phía Nam hoặc thấy non thấy nước để giảm bớt sự âu sầu trong lòng. Đừng vội vàng, lo lắng bởi cơ duyên vốn là do trời định.   12-con-giap-nu-nen-lam-gi-de-thoat-e-2 Các cô nàng tuổi Thân, Tý, Thìn:   Ba cô gái này tính cách tốt, lại mạnh mẽ, nhẫn nại, biết chịu thương chịu khó. Thế nhưng sao lại trở thành “gái ế”? Đó chính là điển hình của “trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, người hiền tài bị ghen ghét nên mới cô đơn lẻ bóng. Nếu biết buông bỏ, hi sinh một vài thứ như cơ hội, sự nghiệp xa vời, chuyện buôn bán bận rộn thì các con giáp này có thể sẽ tìm được hạnh phúc. Tốt nhất hãy chọn một căn phòng mở cửa hướng Đông để đón nhận ánh mặt trời và những điều mới mẻ. Trước khi “chân mệnh thiên tử” đến có thể sức khỏe các cô nàng sẽ có vấn đề. Nhưng cũng không cần lo lắng quá, những chuyện muộn phiền sẽ qua và vận may rồi cũng đến.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuyệt chiêu giúp 12 con giáp thoát ế - Phong thủy phòng ngủ - Xem Tử Vi

Xem bói tuổi kết hôn thế nào cho đúng? - Xem bói - Xem Tử Vi

Xem bói tuổi kết hôn thế nào cho đúng?, Xem bói, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Xem bói tuổi kết hôn thế nào cho đúng?, tu vi Xem bói tuổi kết hôn thế nào cho đúng?, tu vi Xem bói

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem bói tuổi kết hôn thế nào cho đúng?

Nữ sinh năm 1987 Đinh Mão phi cung khôn và nam sinh năm 1979 Kỷ Mùi phi cung chấn. Nhiều người cho rằng, hai tuổi này không hợp nhau vì phi cung khôn phối với phi cung chấn sẽ ra cung Tuyệt mệnh. Tuy nhiên, đây là cách hiểu chưa chính xác.

Bạn đọc Nguyễn Phương Dung (Trần Quốc Toản, Hà Nội) chia sẻ, cô sinh năm 1987, bạn trai sinh năm 1979. Mẹ bạn trai bảo cô và anh ấy không thể lấy nhau vì hai tuổi kết hợp với nhau rơi vào cung Tuyệt mệnh. Cô hỏi: Liệu có đúng hai người không hợp tuổi nhau không?

Theo chuyên gia phong thủy Phạm Cương, Công ty Cổ phần Nhà Xuân, nữ sinh năm 1987 Đinh Mão phi cung khôn và nam xem boi sinh năm 1979 Kỷ Mùi phi cung chấn. Nhiều người cho rằng, hai tuổi này không hợp nhau vì phi cung khôn phối với phi cung chấn sẽ ra cung Tuyệt mệnh. Tuy nhiên, đây là cách hiểu chưa chính xác.

Bởi cách tính phi cung chỉ dùng để chỉ sự tương tác giữa người và ngôi nhà, không dùng để xem tuổi kết hôn. Thay vào đó, khi xem xét tuổi kết hôn, theo quan điểm của Nhà Xuân, nên quan tâm tới mối tương quan giữa thiên can, địa chi, nạp âm của vợ chồng.

Bạn tuổi Mão, xét về địa chi rất hợp với chồng tuổi Mùi vì nằm trong cách cục Tam hợp Hợi – Mão – Mùi. Nạp âm bản mệnh cùng hành lại tương hòa, về thiên can: Đinh hỏa vợ sinh Kỷ thổ chồng cũng tốt. Vậy cơ bản tương quan trên là tốt. Vì vậy, bạn không nên quá lo lắng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tuổi kết hôn thế nào cho đúng? - Xem bói - Xem Tử Vi

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd