Mơ thấy thuê mướn và cho người làm thôi việc: Rơi vào cảnh khó khăn hay không lo lắng –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Vị trí đầu bảng không ai khác chính là người tuổi Mùi. Dẫn sát nút là người tuổi Sửu…
Nội dung
Vốn vui vẻ, thẳng thắn lại lạc quan nên người tuổi Mùi thường chọn cách đối diện với mọi chuyện một cách trực diện và quang minh lỗi lạc, không chút hồ đồ. Ấy vậy mà trong chuyện tình cảm lại trái ngược.
Vì quá đắm chìm trong cảm giác hạnh phúc của tình yêu, con giáp này không còn tỉnh táo để suy nghĩ những chuyện khác, lúc nào cũng trong tình trạng “tâm hồn treo ngược cành cây”, mơ hồ, không thực tế.

Một khi đã “nằm gọn” trong lưới tình, sự lý trí và khả năng tư duy sáng suốt của người tuổi Mùi bỗng nhiên “bốc hơi”. Họ điên đảo, thậm chí trở nên mù quáng.
Điều này không nên chút nào, tuổi Mùi cần tỉnh táo và điềm tĩnh hơn trong việc kiểm soát cảm xúc của mình trong chuyện tình cảm nhé, tránh làm tổn thương chính mình khi tình yêu có dấu hiệu rạn nứt.
Bản tính ôn hòa và điềm tĩnh giúp người tuổi Sửu suy xét thấu đáo và chu toàn mọi việc trước khi đưa ra quyết định quan trọng nào đó, tình yêu cũng không ngoại lệ. Họ mong muốn có được những trải nghiệm thú vị trong mối tình lâu bền nên thường “kén cá chọn canh”, cân nhắc kỹ lưỡng tiêu chuẩn chọn người yêu.

Vì suy nghĩ quá nhiều, lại có phần kỳ vọng, thậm chí là tham vọng về đối phương nên người tuổi này lúc nào cũng tự tạo áp lực cho bản thân, điên đảo về chuyện tình cảm, cách chọn lựa đối tượng phù hợp.
Những suy tính này cứ bủa vây lấy họ mọi lúc mọi nơi, chi phối nhiều đến chuyện học hành và các hoạt động khác của cuộc sống. Tốt nhất là khi đã tìm thấy mục tiêu phù hợp, người tuổi Sửu cần chớp lấy thời cơ mà tăng tốc chinh phục tình cảm đối phương, thà hành động nhanh gọn còn hơn cứ ngồi đó suy nghĩ vẩn vơ để rồi phải nói lời hối tiếc.
Con giáp này có tính ham vui bẩm sinh, thích cuộc sống tự do bay nhảy và biến hóa đầy màu sắc. Chuyện tình yêu dường như cũng bị “nhiễm” tính cách này của họ. Vậy nên, những mối tình kiểu sét đánh hay ngắn ngủi thường xảy tới với người tuổi này.

Bề ngoài có vẻ như người tuổi Ngọ khá vô tư, không quan trọng hóa chuyện tình cảm, nhưng thực chất ẩn sâu trong đáy lòng là tâm trạng lo lắng, bất an vì sợ bị tổn thương.
Họ muốn yêu nhưng lại sợ bị tổn thương vì không có đủ dũng khí để vượt qua mọi trở ngại, vậy nên trong họ tồn tại nhiều mâu thuẫn đối lập về chuyện tình cảm. Trong họ như đang giằng xé, điên đảo những suy nghĩ không nhất quán, để rồi không dám thừa nhận tình cảm và bỏ lỡ những cơ hội hiếm có.
| ► Tra cứu Lịch âm dương, Lịch vạn niên nhanh chóng và chuẩn xác nhất tại Lichngaytot.com |
![]() |
![]() |
![]() |
4 điều Phật chỉ lối để xóa bỏ phiền muộn![]() |
![]() |
![]() |
| ► ## gửi đến bạn đọc công cụ xem ngày tốt xấu theo Lịch âm dương để thuận lợi công việc |
![]() |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Người tuổi Tuất và tuổi Sửu khó hợp tác. Họ khác nhau về tính cách và quan điểm nên không thể hợp tác kinh doanh.
Người tuổi Tuất và tuổi Dần có thể hợp tác trong bất cứ lĩnh vực nào. Họ thu được khá nhiều kết quả tốt đẹp trong kinh doanh. Tuy nhiên, họ lại không thể phân chia rạch ròi lợi nhuận của đôi bên.
Người tuổi Tuất và tuổi Mão hợp tác rất lý tưởng. Mèo thông minh, chó trung thành, hợp tác sẽ thu lại nhiều hiệu quả.
Người tuổi Tuất và tuổi Thìn khó hợp tác lâu bền. Người tuổi Tuất có thể làm tổn thương người tuổi Thìn nên việc hợp tác không mấy vui vẻ.
Người tuổi Tuất và tuổi Tỵ hợp tác dễ đạt nhiều thành công. Tuy nhiên, họ không nên kỳ vọng quá cao. Hợp tác đôi bên thu được nhiều lợi nhuận nhưng đôi khi vẫn gặp phải trở ngại nhỏ.
|
| (Ảnh chỉ mang tính chất minh họa) |
Người tuổi Tuất và tuổi Ngọ hợp tác khá vui vẻ. Họ quan tâm đến lợi ích thiết thực, cùng nỗ lực phấn đấu vì công ty.
Người tuổi Tuất và tuổi Mùi không dễ hợp tác vì hai bên thường bất đồng quan điểm.
Người tuổi Tuất và tuổi Thân có thể hợp tác. Tuy nhiên, họ không tin tưởng lẫn nhau và giữa hai người thường xảy ra xung đột nhỏ khi phân chia lợi nhuận.
Người tuổi Tuất và tuổi Dậu hợp tác không mấy vui vẻ. Người tuổi Dậu luôn có tâm lý đề phòng. Dù chung sức kinh doanh, cùng mục đích thu lợi nhuận nhưng hai bên chưa thực sự nhiệt tình trong quan hệ hợp tác.
Người tuổi Tuất và tuổi Tuất không nên hợp tác. Hai bên đều thiếu sự nhạy bén trong kinh doanh. Kết quả kinh doanh sẽ không cao.
Người tuổi Tuất và tuổi Hợi có thể hợp tác nhưng không mấy vui vẻ. Chó quá cứng rắn trong công việc khiến lợn cảm thấy không thoải mái.
(Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp)
Lộc Tồn
Thuộc tính ngũ hành của sao Lộc tồn là âm thổ, là ngôi sao thứ ba trong chòm Bắc Đẩu, hóa khí là phú và quý chủ về lộc và thọ, có khả năng giải trừ tai ách, chế hóa Sát tinh. Tất cả các sao tại 12 cung lá số đều ưa thích đồng cung hoặc gia hội với Lộc tồn, gặp cát tinh sẽ thêm cát, gặp hung tinh sẽ giải hung, đặc biệt thích hợp với cung Mệnh, Thân, Tài, Điền, Di, vì Lộc tồn ở đây sẽ phát huy được khả năng một cách hiệu quả.
Lộc tồn còn có tên là sao Thiên lộc, trong lá số Lộc tồn không rơi vào Thìn Tuất Sửu Mùi, và luôn nằm giữa hai sát tinh Kình dương và Đà la, nên chủ về cô độc, dễ gặp rắc rối thường bị tảy chay nên dễ bị cô lập và vất vả. Do không bao giờ nằm đồng cung với hai sát tinh Kình dương và Đà la, bởi vậy không bị khống chế bởi Thiên la và Địa võng, nhưng khi gặp Lộc tồn vẫn nên hành sự thận trọng, không vì cuộc đời ít bị biến động mà gặp dịp may suôn sẻ. Đại hạn, tiểu hạn hay lưu niên gặp Lộc tồn, sẽ khiến cho các điều kiện vốn bất lợi lại trở nên tốt đẹp, đem lại khả năng hồi phục hoặc đổi mới.
Nếu Lộc tồn đứng một mình tại cung Mệnh, chủ về tính cách cực kỳ bảo thủ, không thích giao tiếp, chỉ chăm chăm bảo vệ bản thân, nên khó tránh khỏi cô độc. Hơn nữa, lại bị hai Sát tinh Kình Đà kèm hai bên, nên tuy chủ về giầu có, nhưng vẫn khó tránh khỏi gian nan vất vả, sau khi giầu có lại dễ rước điều tiếng thị phi.
Sao Lộc tồn thích nằm đồng cung, hoặc hội chiếu với các Cát tinh. Nếu nằm đồng cung với Tử vi hoặc Thiên phủ, Thiên tướng, Thiên đồng, Thiên lương, Vũ khúc, Thái dương, Thái âm, có thể tăng cường độ sáng cho đối phương, nên chủ về phú quý. Nếu tại cung vị tam phương có Xương Khúc hội chiếu, sẽ trở thành người giầu có sang trọng, có học thức.
Sao Lộc tồn kị rơi vào cung không vong, gặp Địa không, Tiệt không là tối kỵ, thứ đến là Tuần không. Lộc tồn không ưa nằm đồng cung với Hóa Kị trấn mệnh, vì khi Lộc tồn trấn mệnh, ở hai cung bên cạnh chắc chắn sẽ có hai sao Kình dương và Đà la kìm kẹp, tạo thành cách Kình Đà giáp mệnh, là cục phá bại chủ về cô độc bần hàn, muôn sự bất lợi, vận hạn gặp phải sẽ có nhiều hung hại.
Lộc tồn đóng tại cung Mệnh cung Thân, không chỉ gặp Hóa Kị đồng cung mới hung, mà tại cung tam phương tứ chính nếu có 4 sát tinh Hỏa Linh Không Kiếp hoặc Hóa Kị xung phá, cũng chủ về trong cát có hung, nên đừng quá chú trọng đến vẻ tốt đẹp bề ngoài, mà cần lưu ý đến những nguy cơ tiềm ẩn phía sau nó, thường là sống nhờ kỹ nghệ, tay nghề khéo léo. Lộc tồn hay Hóa Lộc trấn mệnh, nếu gặp Địa không Địa kiếp là cách Lưỡng trùng Hoa cái (hai tầng lọng hoa), chủ về cao ngạo, cô độc, bần hàn, thường có duyên với đường tu hành.
Thiên Mã
Thuộc tính ngũ hành của sao Thiên mã là dương hỏa, là cát tinh trong chòm Trung Thiên Đẩu, hóa khí là dịch mã, là sao chưởng quản lộc, chủ về thiên động (dịch chuyển).
Trong 12 cung của lá số, sao Thiên mã chỉ rơi vào 4 cung Dần Thân Tị Hợi, bởi vậy 4 cung này còn được gọi là 4 cung Mã. Cũng bởi vì 4 cung này chính là cung vị của sao Trưởng sinh trong 12 sao thuộc cục ngũ hành, nên 4 cung Dần Thân Tị Hợi còn được gọi là 4 cung Sinh.
Do bản thân sao Thiên mã có hóa khí là Dịch Mã, chủ về di động, nên đây là sao mang tính cơ động giầu sức sống bẩm sinh, vốn rất giầu tiềm năng và có sức sống mạnh mẽ, nên có sự trợ giúp cực kỳ cơ động về danh lợi.
Thiên mã là một sao mang tính động, có câu Động thì cát lợi. Tĩnh thì vô công, do đó sao Thiên mã càng vất vả bôn ba, thu hoạch lại càng lớn, nên tượng trưng cho tiền tài vất vả. Nếu gặp các cát tinh Lộc tồn, Tử vi, Thiên phủ, Thái dương, Thái âm, Vũ khúc cùng sao Thất sát Tham lang miếu vượng, sẽ giúp cho Thiên mã phát huy được sở trường, chuyển động không ngừng nghỉ, phát đạt tại quê người để áo gấm về quê, chỉ có điều cần phải vất vả lao lực.
Thiên mã tốt nhất là nhập vào cung Phu thê, là nam mệnh sẽ được vợ giúp, nếu nằm đồng cung hoặc gia hội với các tài tinh như Lộc tồn, sẽ nhờ vợ mà trở nên giầu có. Mệnh nữ sẽ được hiển quý vì chồng, bản thân cũng có vận giúp chồng.
![]() |
![]() |
![]() |
Nhà không thể thiếu khu vệ sinh (tách biệt ngôi nhà) hay phòng vệ sinh khép kín trong ngôi nhà. Vì vậy cần hết sức quan tâm do phòng vệ sinh là nơi sinh ra sát khí nhiều nhất.
Những yêu cầu về phong thủy đối với phòng vệ sinh gồm:

1. Nhà vệ sinh tách biệt với ngôi nhà là tốt nhất và nếu có điều kiện như vậy thì cần chú ý:
– Cách càng xa nhà ở càng tốt.
– Bố trí ở phía sau ngôi nhà.
– Không bố trí nơi đầu gió thường xuyên thổi về phía ngôi nhà ở.
2. Phòng vệ sinh trong ngôi nhà hiện đại ở đô thị hay nông thôn cần lưu ý về:
– Bố trí ở điếm đất xấu; phương xấu (nếu là ở các tầng).
– Không bố trí trên các trục cơ bản: Bắc – Nam hay Đông – Tây, Đông Bắc – Tây Nam, Tây Bắc – Đông Nam.
– Không bố trí ở nơi sao “sinh thìn” của gia đình đang đóng.
– Không bố trí buồng vệ sinh ở phương Đông Bắc vì phương Đông Bắc có nhà vệ sinh là điều cấm kị. Ở các ngôi nhà tầng, phòng vệ sinh cần tránh hướng Bắc.
3. Cửa nhà vệ sinh hay phòng vệ sinh cần tránh trực diện với cửa ngôi nhà hay cứa các phòng và miệng cầu thang.
4. Phòng vệ sinh không bố trí ở khu vực giữa nhà hoặc thẳng hướng giữa nhà (các nhà tầng).
5. Buồng vệ sinh cần có lỗ thông thải uế khí. Lỗ thông thoát cần bố trí ở phía tưởng sau của buồng vệ sinh.
6. Nhà vệ sinh hay buồng vệ sinh nên trang trí toàn màu tráng như: sơn tường, trần, gạch lát nền.
7. Nền cửa phòng nhà vệ sinh không được cao hơn so với các nơi xung quanh.
8. Ánh sáng đủ mạnh (khí dương) để uy hiếp sát khí và tăng cường sự vận hành thải uế khí ra khỏi buồng, khói nhà.
![]() |
| Nên chọn bộ bàn ghế hoàn chỉnh, cân đối về kích thước và màu sắc |
Hãy nghĩ khác đi, bởi con người ta luôn vì lợi ích trước mắt mà quên đi cái lâu dài, vì được mất của bản thân mà không quan tâm tới tập thể. Chỉ bằng cách dung hòa lợi ích giữa mọi người, mới có thể giải quyết được rất nhiều vấn đề tưởng như không thể.
Trong Thế chiến II, chiếc dù của không quân Mỹ có tỉ lệ đạt tiêu chuẩn 99,9%. Từ tỉ lệ này có thể nói, cứ 1000 binh lính nhảy dù thì sẽ một người tử vong bởi 1 chiếc dù không đạt tiêu chuẩn. Vậy nên, quân đội đã yêu cầu xưởng gia công bằng mọi cách phải làm cho tỉ lệ này đạt tới tiêu chuẩn 100% mới được.
Người phụ trách xưởng nói rằng họ đã cố gắng hết sức, tỷ lệ 99,9% là vượt giới hạn rồi, trừ phi xuất hiện kỳ tích.
Lúc này, quân đội chợt nghĩ khác đi, thay đổi quy trình kiểm tra, mỗi lần trước khi giao hàng thì tùy ý chọn ra một vài cái trong đó để cho người phụ trách xưởng nhảy dù trước. Từ đó, kỳ tích xuất hiện, tỉ lệ đạt chuẩn của dù đã lên được 100%.
Sau khi châu Úc trở thành thuộc địa của Anh, vì nơi đây còn hoang vắng, chưa được khai phá, nên chính phủ đã khuyến khích người dân Anh di cư đến châu Úc.
Lúc đó, châu Úc rất lạc hậu, không có ai muốn đi. Chính phủ Anh quốc đã nghĩ ra một biện pháp đó là đưa tội phạm đến châu Úc. Điều này vừa giải phóng cho nhà giam, vừa tạo ra nguồn lao động ở châu Úc; hơn nữa, còn giúp họ loại bỏ những người xấu, nước Anh sẽ trở nên tốt đẹp hơn.
Bởi vậy, chính phủ Anh quốc đã thuê các hãng thuyền tư nhân chuyên chở những phạm nhân đến Úc, và dựa vào số người lên thuyền mà trả tiền. Chuyên chở nhiều thì kiếm được nhiều tiền.
Tuy nhiên, chính phủ nhanh chóng nhận ra giải pháp này thực sự rất tai hại. Cách thức trả tiền như vậy khiến tỉ lệ tử vong của tội phạm rất cao, bình quân vượt quá 10%; đặc biệt có chiếc thuyền, tỉ lệ tử vong nghiêm trọng, lên đến 37%.
Những quan chức chính phủ vắt hết óc để nghĩ ra cách giảm tỉ lệ tử vong xuống trong quá trình vận chuyển, bao gồm cả việc phái nhân viên lên thuyền giám sát, hạn chế số người lên thuyền… Nhưng tình hình cũng không giảm xuống bao nhiêu.
Cuối cùng, họ đã nghĩa khác đi, tìm ra được một phương pháp tối ưu, có thể nói là “một lần vất vả suốt đời nhàn nhã”. Họ chỉ cần thay đổi phương thức trả tiền một chút, tức là: “Không căn cứ số người lên thuyền để trả tiền mà là căn cứ theo số người sống sót rời thuyền để trả tiền”. Vì thế, chủ tàu chỉ có thể làm mọi cách để đưa tội phạm còn sống sót đến được châu Úc, thì mới kiếm được tiền chuyên chở.
Chính sách vừa mới ra thì tỉ lệ tội phạm tử vong giảm xuống còn khoảng chừng 1%. Về sau, chủ tàu vì muốn tăng cao tỉ lệ sống sót còn bố trí cả bác sĩ trên thuyền.
Có 7 người ở cùng một chỗ, mỗi ngày được phát cho một thùng cháo lớn. Thế nhưng cháo mỗi ngày đều không đủ cho tất cả. Lúc đầu, họ bốc thăm để chọn ai là người phân chia cháo, mỗi ngày luân phiên nhau. Kết quả, mỗi tuần họ chỉ có một ngày ăn no bụng, bởi vì người nào phân cháo thì sẽ lấy phần nhiều cho mình, ăn no bụng mình trước.
Về sau, chọn ra một người có đạo đức tốt để phân chia cháo nhưng vấn đề vẫn không giải quyết được. Người nắm hết quyền hành trong tay, lại không có sự ước chế, tất sẽ sinh ra mục nát. Mọi người bắt đầu nghĩ cách để nịnh nọt người đó, câu kết với nhau, khiến cho cả nhóm đó bẩn thỉu xấu xa.
Cuối cùng, họ nghĩ khác đi: Cũng là thay phiên nhau phân chia cháo, nhưng người phân chia cháo phải đợi những người khác lấy hết phần của họ trước, sau cùng thì người đó lấy chén cháo còn lại. Vì không để mình là người ăn ít nhất nên mỗi người đều tận lực chia bình quân, cho dù không đều, cũng tự mình chịu mà thôi.
Nhờ vậy, mọi người giữ được không khí vui vẻ hòa ái, ngày tháng trôi qua càng ngày càng tốt hơn.
Có một tín đồ Cơ Đốc giáo sau khi qua đời đã thỉnh cầu Thượng đế, xin Người đưa ông ta đi thăm địa ngục và thiên đường, nhìn xem rốt cuộc có gì khác nhau.
Đến địa ngục, người này nhìn thấy một bàn ăn rất lớn, bày đầy món ngon vật lạ, nghĩ thầm: “Cuộc sống dưới địa ngục cũng không tệ nhỉ!” Đến giờ dùng cơm, chỉ thấy một đám người gầy như que củi, thoi thóp ngồi vây xung quanh nồi thịt hương thơm tỏa bốn phía. Thế nhưng, chỉ vì cái thìa cầm trong tay quá dài, họ thi nhau đưa miếng thịt vào miệng mình, mà không ăn được, vừa thèm, vừa đói lại vừa xót xa.
Thượng đế nói: “Đây là địa ngục”.
Họ lại đi vào một căn phòng khác, tại đây cũng giống như địa ngục kia, hương thơm của đồ ăn tỏa khắp nơi, người ở đây cũng cầm trong tay cái thìa cực lớn. Thế nhưng mọi người nơi đây mặt mày hồng hào, tinh thần thoải mái. Vốn dĩ, mỗi người họ đều đút miếng thịt vào miệng đối phương, thế nên ai cũng được ăn.
Thượng đế nói: “Đây là thiên đường”.
Người khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, có thể sinh ra văn hóa khác nhau và kết quả cũng khác nhau.
Những điều này, chính là sức mạnh của sự chế ước.
Một xã hội tốt có thể khiến tư tưởng xấu xa của người ta được ước chế; một xã hội xấu xa sẽ khiến những tư tưởng tốt đẹp của người ta lụi tàn. Chỉ bằng cách dung hòa lợi ích giữa mọi người, mới có thể giải quyết được rất nhiều vấn đề tưởng chừng như không thể.
phản ứng với ánh sáng, tạo nên những vệt sáng lấp lánh, tạo hiệu ứng mắt cọp, cho nên có tên gọi là đá mắt hổ (cọp). Từ trường của nó rất lớn và mạnh mẽ, phù hợp với nam giới.
Đá mắt hổ (cọp) có vẻ đẹp thu hút nhờ ánh vàng óng ánh, vân sáng rực rỡ khi đặt chúng ngoài ánh sáng mặt trời hoặc dưới ánh đèn huỳnh quang (nhờ các chất gây hiệu ứng ánh sáng).
Công dụng:
1. Những người luôn có rất nhiều dự định, nhưng lại không thực hiện được, hãy đeo các trang sức làm từ đá phong thuỷ mắt hổ, nó sẽ kích thích lòng tin, dũng khí, nâng cao năng lực hành động.
2. Những người khí huyết hư nhược, những người thiếu dũng khí, hãy luôn nắm đá phong thuỷ mắt hổ trong tay, kết hợp với thở sâu, có thể tăng cường sức sống và sức mạnh của cơ bắp.

3. Khi làm việc gặp khó khăn, khó lòng kiên trì, chỉ muốn bỏ cuộc, hãy nắm đá phong thuỷ mắt hổ ở tay trái, kết hợp thở sâu, sẽ có được những phán đoán và hành động quả quyết, chính xác.
4. Những người trí nhớ kém, khả năng tính toán kém, thường không chú ý tới tình hình hiện thực, hay quên, hãy nên đeo đá phong thuỷ mắt hổ ở vùng thần kinh thái dương, như vậy, sẽ tăng cường năng lượng của luân xa thái dương.
5. Những người cá tính nhu nhược, nhát gan, không dám đối mặt với thực tế, hãy thường xuyên xoa đá phong thuỷ mắt hổ vào vùng thần kinh thái dương, kết hợp với thở sâu, có thể làm cho trường khí của thân thể được tăng cường, sẽ tự tin, dũng cảm, chấp nhận khó khăn thử thách.
6. Những người hay ốm vặt, thân thể bị suy nhược, hãy cầm mỗi tay một viên đá phong thuỷ mắt hổ tương đối to rồi đi dạo, chạy, vận động… , cho đến khi ra mồ hôi thì dừng lại, cứ mỗi tuần làm từ hai đến bốn lần như thế, thì sẽ cải thiện được sức khoẻ.

7. Những người bị suy yếu dạ dày và đường ruột, nên cầm quả cầu đá phong thuỷ mắt hổ đưa vào vùng bụng, làm cho chức năng của các bộ phận vùng bụng khoẻ lên, khả năng ngồi thiền tốt lên, khi ngồi xem ti vi, ngồi nói chuyện với bạn bè và người nhà, cũng đều nên ôm viên cầu đó trong lòng.
8. Khi làm việc tại văn phòng, có thể đặt trên bàn đá phong thuỷ mắt hổ hình cầu, hình thỏi, hình kim tự tháp hoặc các vật điêu khắc, như vậy sẽ làm cho tinh thần được tập trung, ổn định, hoàn thành công việc một cách đầy đủ, chu đáo.
9. Trong một tập thể, có người nào đó do không biết phải làm việc như thế nào, phải cống hiến như thế nào, từ đó sinh ra lơ là, thờ ơ, hãy ñeå người đó đeo đá phong thuỷ mắt hổ, như vậy thì sẽ hiểu rõ được góc độ và vai trò của mình để hoà nhập với tập thể, đồng thời tập thể cũng kết hợp động viên, người đó sẽ thễ hiện được vai trò của mình.
10. Cầm đá phong thuỷ mắt hổ hình cầu, hình kim tự tháp mà tụng kinh, niệm thần chú, sẽ tăng cường sức mạnh của kinh văn và lời chú.

11. Những người yếu bóng vía, không dám đi đêm, hãy đeo đá phong thuỷ mắt hổ để tăng cường trạng thái tinh thần, dũng khí, và cũng để trừ tà.
12. Đem đá phong thuỷ mắt hổ mài thành viên tròn, như thế mới nhìn thấy rõ những “con mắt” này. Nhớ xoay nó dưới ánh sang, bạn sẽ thấy chúng lấp lánh.
13. Gặp những người nhát gan, sức khoẻ yếu, người làm việc không tới nơi tới chốn, hãy đeo vòng tay làm bằng đá phong thuỷ mắt hổ vào tay người đó, lập tức sẽ trở nên hoạt bát hơn. Người phụ nữ sức khoẻ yếu sẽ trở nên khoẻ mạnh hơn.
Tý, Sửu, Tị và Mùi là 4 con giáp vô cùng may mắn vì sở hữu một cơ thể khỏe mạnh, ít khi phải lo lắng về bệnh tật và sức khỏe, từ đó dễ dàng gặt hái được nhiều thành công trong sự nghiệp cũng như trong cuộc sống.
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
Muốn tính năm âm lịch có tháng nhuận hay không, ta lấy năm dương lịch chia cho 19, nếu chia hết hoặc cho các số dư 0, 3, 6, 9, 11, 14, 17 thì năm đó sẽ có tháng nhuận.
Lịch tính thời gian theo mặt trăng gọi là âm lịch. Tháng mặt trăng trung bình có 29,5 ngày. Một năm âm lịch có 354 ngày, ngắn hơn năm dương lịch 11 ngày. Cứ 3 năm lại ngắn hơn 33 ngày (hơn 1 tháng).

Để âm lịch vừa chỉ được tuần trăng, vừa không sai lệch nhiều với thời tiết 4 mùa, cứ 3 năm âm lịch người ta phải cho thêm một tháng nhuận để năm âm lịch và dương lịch không sai nhau nhiều. Tuy nhiên, như vậy vẫn chưa đủ, năm âm lịch vẫn chậm hơn so với năm dương lịch. Người ta khắc phục tình trạng trên bằng cách cứ 19 năm lại có một lần cách 2 năm thêm một tháng nhuận.
Trong 19 năm dương lịch có 228 tháng dương lịch, tương ứng với 235 tháng âm lịch, thừa 7 tháng so với năm dương lịch, gọi là 7 tháng nhuận. Bảy tháng trước đó được quy ước vào các năm thứ 3, 6, 9 hoặc 8, 11, 14, 17, 19 của chu kỳ 19 năm.
Với năm âm lịch, muốn tính năm nhuận chỉ việc lấy năm dương lịch tương ứng với năm âm lịch chia cho 19, nếu số dư là một trong các số: 0, 3, 6, 9 hoặc 11, 14, 17 thì năm âm lịch đó có tháng nhuận.
Ví dụ:Năm nhuận chỉ là một thủ pháp của các nhà làm lịch nhằm làm cho năm âm lịch và dương lịch không sai lệch nhau nhiều, không có hàm ý gì về thời tiết, khí hậu.
Chọn hướng phong thủy nhà hơp. với hàng xóm để tạo được hòa khí và sự may mắn cho mọi người, trong đó có phần của chính bạn.
Vận dụng phong thủy nhà không chỉ là chọn hướng làm việc, nghỉ ngơi thích hợp nhất cho các thành viên của gia đình mà còn là nhiều quy tắc khác nên thực hiện trong mối quan hệ với khách khứa, hàng xóm để tạo được hòa khí và sự may mắn cho mọi người, trong đó có phần của chính bạn.
Sắp xếp vị trí ngồi của khách

Nếu bạn muốn tổ chức 1 bữa ăn tối thành công về mặt giao tiếp xã hội thì cần áp dụng 1 số cách theo phong thủy để đảm bảo mọi người đều được chuyện trò vui vẻ với nhau. Nếu có thể, bạn nên sắp xếp theo hướng phù hợp với cá tính của mỗi người (hoặc hướng tốt nhất theo Quái số của họ). Như vậy, không những các vị khách được thoải mái trò chuyện với nhau, mà còn thể hiện sự tôn trọng khách của chủ nhà.
Nên xếp chỗ cho những người khác phái ngồi cạnh nhau để tạo sự cân bằng về âm dương và bố trí những người thân của mình ở những vị trí thuận tiện để luôn sẵn sàng giúp đỡ khách khi cần thiết.
Khi tổ chức những bữa tiệc tiếp đãi bạn bè, chọn bàn tròn là phù hợp nhất. Tuy nhiên, nếu không có bàn tròn thì chọn bàn hình chữ nhật vẫn tốt hơn bàn hình chữ T hoặc L. Ngoài ra, nếu số lượng khách nhiều hơn số ghế có sẵn thì tốt nhất bạn nên tổ chức tiệc buffet.

Ảnh hưởng của dao kéo trong các mối quan hệ
Trên bàn làm việc, không nên để mũi nhọn của kéo chĩa thẳng về phía bạn hoặc đồng nghiệp. Mũi kéo được xem như mũi tên độc tình cờ chĩa thẳng vào người và chuyển năng lượng thù nghịch về phía bạn. Mũi dao, lưỡi khoan, tua vít, búa… cũng mang ý nghĩa tương tự. Vì vậy, bạn nên lưu ý xem các vật dụng này có hiện diện ở quanh nhà, trong phòng hay không để cất chúng cẩn thận.
Khi bạn chĩa 1 vật thể bén nhọn mang năng lượng thù nghịch vào 1 người khác, rất có thể bạn đã tạo ra 1 sự xung khắc, đối nghịch vô hình với người đó. Trong phong thủy, điều này rất kiêng kỵ và có thể hủy hoại mối quan hệ tốt đẹp giữa bạn với người khác. Vì vậy, tuyệt đối không tặng bất cứ vật gì có hình dạng bén nhọn, sắc cạnh cho người khác vì chúng có thể tạo ra hậu quả xấu.
Nếu vô tình bạn nhận được 1 vật tương tự như hộp đồ nghề, dao găm hoặc cái mở nút chai hình xoắn, lưỡi kiếm, đầu lâu, cung tên… thì hãy gửi ngay cho người tặng 1 đồng tiền hoặc 1 tờ giấy bạc nhằm hóa giải năng lượng xấu do món quà đó mang lại. Điều này ngụ ý rằng, chính bản thân bạn mua món quà đó và giúp bạn tránh khỏi những ảnh hưởng của năng lượng xấu. Dù bạn có thể tin hoặc không tin điều đó nhưng bạn vẫn nên tránh những vật bén nhọn, tốt nhất là đặt chúng vào đúng chỗ, cất cẩn thận, đặc biệt tránh để chúng ở những vị trí có ảnh hưởng xấu đến bạn và người khác.
Bố trí chỗ ngồi
Khi bố trí chỗ ngồi cho khách, bạn nên chú ý 1 số điều quan trọng sau:
– Không xếp chỗ ngồi vào góc bàn của hình vuông hoặc hình chữ nhật.
– Không xếp chỗ ngồi đối diện trực tiếp với cửa toilet.
– Không xếp chỗ ngồi đối diện trực tiếp với cửa đi vào phòng ăn.
– Không xếp chỗ ngồi trực tiếp bên dưới xà nhà.
– Không xếp chỗ ngồi đối diện trực tiếp với góc tường hoặc cột nhô ra.
Tạo những mối quan hệ tốt đẹp với hàng xóm

Nhằm duy trì và phát triển tình cảm thân thiện với những người hàng xóm, tốt nhất bạn nên khiến không gian nhà mình không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sống của họ, mà còn mang lại lợi ích cho họ. Muốn vậy, bạn phải bảo đảm môi trường sống của mình tràn đầy khí lành mạnh và có ảnh hưởng tốt đẹp cho láng giềng. Đồng thời, tránh những ảnh hưởng xấu mà kiến trúc hay cách bài trí ngôi nhà của bạn có thể gây ra cho họ.
Những ảnh hưởng xấu của căn nhà có thể tạo ra từ mũi nhọn của chóp mái nhà, xà nhà dôi ra, góc cạnh của ngôi nhà… nếu chúng chĩa thẳng đến mặt tiền nhà của người khác. Khi bạn sử dụng gương Bát quái cũng cần cẩn thận chú ý vì nó là 1 biểu tượng rất mạnh và có thể gây tổn thương cho người khác.
Cổng và hàng rào theo dạng tròn sẽ không tạo ra những mũi tên chĩa vào nhà hàng xóm
Khi căn nhà của bạn bị ảnh hưởng xấu từ bên ngoài mà bạn không thể treo gương bát quái vì không muốn ảnh hưởng đến nhà hàng xóm thì tốt nhất là sử dụng chuông gió hoặc trồng cây để ngăn cản những tác hại đó. Bằng cách này, bạn đã góp phần tạo ra năng lượng tốt đẹp cho cuộc sống của những người xung quanh, đồng thời duy trì mối quan hệ hàng xóm luôn tốt.
Ngoài ra, có thể lắp đặt những ngọn đèn trước cổng nhà để tạo ra năng lượng tốt lành cho hàng xóm. Đây là hành động thể hiện sự hòa hiếu và giao lưu mật thiết giữa bạn với những người láng giềng. Nếu nhà bạn có hàng rào ngăn cách với nhà bên cạnh thì hãy bảo đảm những kiểu thiết kế của hàng rào không gây ảnh hưởng đến nhà họ.
Bảo vệ góc may mắn của các thành viên trong gia đình
Góc Tây Bắc do cung Càn ngự trị chính là nguyên nhân đem lại những điều may mắn hay bất hạnh cho các thành viên sống trong nhà. Vì vậy, góc này trong bất cứ ngôi nhà nào đều phải được bảo vệ cẩn thận.
Góc Càn không được xác định theo hướng của cửa chính, mà phải xác định theo hướng Tây Bắc của la bàn. Khi đã xác định chính xác, bạn nên treo chuông gió gồm 8 ống kim loại rỗng ở góc này để thu hút những điều tốt đẹp, may mắn đến với cuộc sống của bạn. Bằng cách này, bạn cũng có thể cung cấp năng lượng cho vận may của người cha trong gia đình.
Không nên để đèn sáng ở góc Tây Bắc của ngôi nhà, vì như vậy sẽ thu hút những bất hạnh, những rủi ro vào nhà. Ngoài ra, sự hiện hữu của Hỏa tại hướng Tây Bắc cũng rất có hại. Vì vậy, bạn không nên lắp đặt đèn chiếu sáng hoặc đèn chùm ở đây.
Một người làm khoa học chân chính chỉ nên đưa ý kiến phản biện sau khi đã đọc kỹ quan điểm đối lập, cân nhắc chính xác những bằng chứng họ đề ra xem chỗ nào mình đồng ý, chỗ nào không đồng ý, rồi chính mình phải trưng cho được những chứng cứ ngược lại để làm sáng tỏ vấn đề, không nên nói chung chung, nói theo cảm tính. Cho rằng Kinh Dịch là của Trung Quốc hay của Việt Nam là quyền của mỗi người, nhưng muốn bảo vệ niềm tin này phải dựa vào chứng lý.
Người Trung Hoa nói về nguồn gốc Kinh Dịch dựa trên những chứng lý nào ?
1/ Trước hết họ cho Phục Hy nhìn những hình đồ trên con long mã vẽ nên bát quái. Đây là chuyện hoang đường chỉ hợp với những người mê tín, ưa sự huyền hoặc, thế mà cũng được vô số người tin như thật. Nhưng Phục Hy dù là nhân vật huyền thoại vẫn không phải là thủy tổ chính thống của người Hoa hạ.
Phục Hy là tổ của một tộc trong đại chủng Bách Việt phía Nam Trung Quốc, người Hoa mượn làm tổ của mình. Tư Mã Thiên không đồng ý nên đặt Hoàng Đế ở đầu Sử ký. Vậy nếu Phục Hy có làm ra Bát quái cũng không thể nói là của Trung nguyên. Thừa nhận Phục Hy chế ra Kinh Dịch là người Hoa đã nhận Kinh Dịch là của dân Bách Việt, vậy sao cứ nói mãi Kinh Dịch của Trung Hoa và gọi đó là niềm tin chính thống. Hoàng Tông Viêm (16161 0 1686) người ở cuối đời nhà Minh, đầu đời nhà Thanh đã cực lực phủ nhận vai trò của Phục Hy trong Kinh Dịch, sao người Việt Nam vẫn cứ tin! 2/ Sau Phục Hy, người Hoa tin là Văn Vương khi bị Trụ Vương cầm tù ở Dữu Lý đã nâng cấp 8 quẻ thành 64 quẻ và viết quái từ hào từ Kinh Dịch. Người đưa ra thuyết này Tư Mã Thiên, sử gia hàng đầu và uy tín của Trung Quốc. Chính vì Tư Mã Thiên có uy tín nên người ta đã theo đó mà tin không cần kiểm chứng.
Từ Văn Vương đến Tư Mã Thiên cách nhau hơn nghìn năm trung gian có Khổng Tử cách mổi ông chừng 500 năm. Khổng Tử rất tôn sùng Văn Vương, thế mà chưa bao giờ nói với Văn Vương soạn Kinh Dịch. Ở đầu quyền Sử ký, lương tri Tư Mã Thiên còn ray rứt nên chỉ đưa ra giải thuyết “có lẽ Văn Vương diễn Dịch”, nhưng gần cuối sách thì lại xác định hẳn là Văn Vương diễn Dịch, và nhiều người hùa theo đó mà tin.
Kinh Thi là sách đại tụng Văn Vương, kể rất nhiều công tích của văn Vương nhưng không hề đả động đến Kinh Dịch. Các con Văn Vương như Võ Vương, Chu Công dùng bói toán để cúng lễ Văn Vương nhưng chưa bao giờ nói Văn Vương bói Dịch chứ đừng nói đền chuyện Văn Vương soạn dịch.
Chính nhóm Ngô Bá Côn đã xác định điều này: “Từ thời cận đại đến nay, cách nhìn nhận này đã bị các học giả phủ nhận” (Dịch học, Nxb Văn hóa – Thông Tin, Hà Nội, 2003, tr.90). Sách Tả truyện dẫn nhiều câu chuyện bói Dịch nhưng không hề nói Văn Vương soạn Dịch. Các nhà Dịch học Trung Quốc đầu thế kỷ XX đã có người muốn dứt bỏ Văn Vương khỏi vương quốc Kinh Dịch, nhưng có một số người nhiễu sự ưa chuyện huyễn hoặc cứ cố níu kéo Văn Vương, nhất là một số Dịch học người Việt.
3/ Sau khi loại bỏ Phục Hy và Văn Vương, một số nhà Dịch học Trung Quốc lại cho rằng Kinh Dịch có nguồn gốc từ các nhà Vu Hịch là các quan coi việc bói toán (Có Hiệt Cương, Lý Kính Trì), Kinh Dịch có các từ phán đoán giống các từ bói toán: cát, hung, hối lận, cữu, vô cữu, nhiều lời hào trùng hợp với lời bói, nhưng quan điểm này không mấy thuyết phục vì hai cơ cấu Dịch và bói khác nhau, bốc từ là những câu hỏi sẵn đưa ra để hỏi về một vấn đề mà người hỏi thắc mắc, câu trả lời là nhận hoặc phủ nhận, có hay không, còn hào từ phải tùy thuộc vị trí của hào, bản chất của hào, thời của quẻ.
4/ Phát hiện mới nhất là quan điểm của Trương Chính Lương khi cho rằng nguồn gốc của quẻ Dịch đến từ quẻ số khắc trên Giáp Cốt Văn và Kim Văn. Nhóm Chu Bá Côn cũng đã có ý kiến về vấn đề này “Song dùng các chữ số trong phép bói cỏ như 1,5,6,7,8 … không đủ chứng cứ để chứng minh tại sao trong Kinh Dịch lại chỉ có 8 kinh quái và 64 biiệt quái” (Dịch học, tr.63).
Sau cùng nhóm Chu Bá Côn kết luận: “Tóm lại, đối với việc tìm hiểu nguồn gốc của quái, hào, tượng tuy đã có một số ý kiến có ảnh hưởng nhất định trong mấy năm gần đây, nhưng những điều được đề cập tới đầu không ngoài loại tượng và số, vẫn chưa thể nói là đã có một đáp án được gọi là công nhận. Có lẽ trong tương lai gần, theo đà phát hiện tư liệu ngày càng nhiều, chúng ta sẽ có được một đáp án xác đáng.” (Dịch học, tr.63). Còn Vương Ngọc Đức thì bi quan hơn: “Cuộc tranh luận kéo dài hai ngàn năm vẫn không có câu giải đáp chính xác. Nếu vẫn theo phương thức tư duy của các học giả thời xưa, thì hai ngàn năm nữa vẫn chưa làm rõ được vấn đề". (Bí ẩn của Bát Quái – Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội. 1996, tr.27).
Như vậy, đối với vấn nạn nguồn gốc Kinh Dịch, các học giả Trung Quốc đành chịu “bó tay” không truy vấn được. Vậy thì người Việt Nam hà cớ gì cứ đi theo họ để xác nhận một điều họ đã phủ nhận, cứ trân trọng mãi cái họ đã ném đi.
Vậy để xác định Kinh Dịch có nguồn gốc từ Việt Nam, chúng ta có những chứng cứ gì ?
Năm 1970, Giáo sư Kim Định đã tuyên bố “Kinh Dịch là của Việt Nam” trong tác phẩm Dịch Kinh linh thế, tiếp sau đã có nhiều người mạnh dạn đề xuất những chứng cứ như Nguyễn Xuân Quang, Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Trần Quang Bình, Hà Văn Thùy, Nguyễn Quang Nhật, Nguyễn Việt Nho, Trúc Lâm …
Riêng cá nhân tôi từ năm 1999, đến nay, tôi đã trình với công luận những chứng cứ khả dĩ chứng minh được Kinh Dịch là di sản của tổ tiên Việt Nam qua mấy điểm sau:
Căn cứ vào những hoa văn trên đồ gốm Phùng Nguyên và đồ đồng Đông Sơn thì Việt tộc đã ghi khắc những quẻ Dịch trước Trung Quốc và sớm hơn chứng liệu của Trung Quốc (xin xem Phát hiện Kinh Dịch thời đại Hùng Vương – Thanhnienonline).
Chứng liệu của Việt tộc trực tiếp từ tượng quẻ không phải qua suy luận từ số đến tượng như Trung Quốc. Có đầy đủ 8 quẻ đơn và một số quẻ kép trên đồ đồng Đông Sơn. Những quẻ này có thể đọc thành văn bản phản ánh tư tưởng quốc gia Văn Lang (Sứ giả Văn Lang – Anviettoancau.net).
Quẻ Dịch trên đồ Phùng Nguyên và Đông Sơn chứng tỏ hào dương vạch liền và hào âm vạch đứt của Trung Quốc là biến thể của hào dương vạch liền và hào âm vạch chấm của Việt Nam, Trung Quốc đã nối những chấm âm lại thành vạch đứt để vạch cho nhanh (cải biên) (Chiếc gậy thần – dạng thức nguyên thủy của hào âm dương – thanhnienonline).
Các từ Dịch/Diệc, Hào, Càn, Khôn, Cấn, Chấn, Khảm, Ly, Tốn, Đoài chỉ là từ ký âm tiếng Việt (Bàn về tên gọi tám quẻ cơ bản của Kinh Dịch – Dunglac.net).
Quan trọng nhất theo tiêu chuẩn tam tài của Trung Quốc chỉ sử dụng Tiên Thiên đồ, Hậu Thiên đồ mà không có Trung Thiên Đồ, một đồ cốt yếu đã được tổ tiên Việt Tộc sử dụng đễ viết quái, hào từ Kinh Dịch. Đồ này được tổ tiên Việt tộc giấu trong truyền thuyết, trên trống đồng, nên có thể khẳng định Trung Quốc không thể nào là người khai sinh Kinh Dịch cũng như phân bố vị trí các quẻ. (Trung Quốc đã công bố hơn 4000 Dịch đồ nhưng không có đồ nào phù hợp với Trung Thiên Đồ) (Kinh Dịch di sản sáng tạo của Việt Nam – Thanhnienonline)
Truyền thuyết Việt Nam một phần là những câu chuyện liên hệ với Kinh Dịch, như chuyện Con Rồng cháu tiên là chuyện của Trung thiên Đồ, chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh là chuyển kể lại từ những lời hảo quẻ Mông, người Trung Hoa chỉ cần thay đổi bộ thủy trong hai chữ “chất cốc” là đổi câu chuyện nói về lũ lụt thành chuyện dạy trẻ mông muội là xóa được gốc tích của Kinh. Truyền thuyết được lưu giữ chính là để báo tồn Kinh Dịch (Các bài trên Anviettoancau.net – cùng tác giả).
Trong một bài báo ngắn, chúng tôi không thể trình bày hết mọi chứng cứ nhưng thiết tưởng bấy nhiêu đó cũng đủ để hy vọng các bậc đại thức giả Việt Nam nên xét lại vấn đề, cân nhắc phân minh trả lại sự công bằng cho tổ tiên. Thái độ thờ ơ của quí vị chỉ làm tăng thêm nỗi đắng cay chua xót của liệt tổ ở chốn u linh. Xin hãy chung tay làm sáng tỏ huyền án này.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thùy Dung (##)
Nhiều khi người ta cứ mải miết đi tìm thứ gọi là hạnh phúc, nhưng lại không nhận ra rằng hạnh phúc thật sự rất giản đơn, không phải điều gì quá cao siêu huyền bí, chỉ là chưa có cơ hội để nhận ra thôi…
Hạnh phúc nhiều lúc thật giản đơn, chỉ là chưa có cơ hội để nhận ra nó
Có một phú ông vô cùng giàu có. Hễ thứ gì có thể dùng tiền mua được là ông mua về để hưởng thụ. Tuy nhiên, bản thân ông lại cảm thấy không vui, không hề hạnh phúc.

Một hôm, ông ta nảy ra một ý tưởng kỳ quặc, đó là đem tất cả những đồ vật quý giá, vàng bạc, châu báu cho vào một cái bao lớn rồi đi chu du khắp nơi. Ông ta tuyên bố chỉ cần ai có thể nói cho ông làm thế nào để hạnh phúc thì ông sẽ tặng cả bao của cải cho người đó.
Ông ta đi đến đâu cũng tìm và hỏi, rồi đến một ngôi làng có một người nông dân nói với ông rằng nên đi gặp một vị Đại sư, nếu như Đại sư cũng không có cách nào thì dù có đi khắp chân trời góc bể cũng không ai có thể giúp ông được.
Cuối cùng cũng tìm gặp được vị Đại sư đang ngồi thiền, ông ta vui mừng khôn xiết nói với Đại sư: “Tôi chỉ có một mục đích, tài sản cả đời tôi đều ở trong cái bao này. Chỉ cần ngài nói cho tôi cách nào để được hạnh phúc thì cái bao này sẽ là của ngài“.
Lúc ấy trời đã tối, màn đêm sắp buông xuống, vị Đại sư nhân lúc ấy liền tóm lấy cái túi chạy đi. Phú ông sợ quá, vừa khóc vừa gọi đuổi theo: “Tôi bị lừa rồi, tâm huyết của cả đời tôi"
Sau đó vị Đại sư quay lại và trả cái bao lại cho phú ông. Phú ông vui mừng ôm nó vào lòng mà nói: “Tốt quá rồi!”. Vị Đại sư điềm tĩnh đứng trước mặt ông ta hỏi: “Ông cảm thấy thế nào? Có hạnh phúc không?”
“Hạnh phúc! Tôi cảm thấy mình quá hạnh phúc rồi!“.
Lúc này, vị Đại sư cười và nói: “Thực ra, đó không phải là phương pháp gì đặc biệt, chỉ là con người đối với tất cả những thứ mình có đều cho rằng sự tồn tại của nó là đương nhiên cho nên không cảm thấy hạnh phúc, cái mà ông thiếu chính là một cơ hội mất đi. Ông đã biết thứ mình đang có quan trọng thế nào chưa? Bây giờ ông có còn muốn đem tặng nó cho tôi nữa không?“.
Liệu bạn có phát hiện ra rằng, khi mất đi hoặc thiếu thứ gì đó bạn sẽ luôn nhớ về nó, nhưng khi có được rồi thì lại dễ dàng coi nhẹ, thậm chí vứt nó vào một xó? Vì vậy, hãy luôn trân trọng những gì mình có được để sau này không phải hối tiếc.
Tuệ Tâm, sưu tầm
Hóa kỵ (Thủy)
***
1. Ý nghĩa cơ thể:
2. Ý nghĩa bệnh lý:
3. Ý nghĩa tính tình:
4. Ý nghĩa của hóa kỵ và một số sao khác:
a. Những cách tốt:
- Kỵ ở Tý Hợi có Khoa hội chiếu: người khôn ngoan, cẩn thận từ lời nói đến việc làm, được nhiều người kính trọng.
- Kỵ ở Tý có Khoa Lương hội chiếu: nếu có thêm cát tinh sáng sủa hội họp thì người có đức độ, danh vọng được quân dân quý mến, hậu thuẫn. Đây có thể là một nhà hiền triết, nhân sĩ, dân biểu, nghị sĩ hữu danh.
- Kỵ đồng cung với Liêm, Tham ở Tỵ Hợi: Hóa Kỵ chế khắc được sự bất lành, hóa giải nhiều hung họa do Liêm Tham Tỵ Hợi gây nên. Tuy đây không phải là cách tốt nhưng cũng khá giả, ít lo ngại về bệnh tật, tai nạn.
b. Những cách xấu:
- Kỵ Cự hay Kỵ Đào (Hồng) hay Kỵ Tham đồng cung: rất dễ bị thủy tai (chết hụt, chết đuối) hay bị bắt bớ, giam cầm. Riêng nữ Mệnh gặp bộ sao này bị tai nạn trinh tiết, thất tiết, bất chính hoặc hôn nhân trắc trở, có thể không chồng hay phải lo buồn về gia đạo.
- Kỵ gặp Xương, Khúc, Khôi, Việt: học hành trắc trở, thi trượt hay vất vả, dù có đỗ cũng không thành danh. Trong quan trường hay bị gièm pha, ly gián.
- Kỵ, Riêu, Đà ở liền cung: họa vô đơn chí
- Kỵ, Phục, Tuế: có sự thù hằn, cạnh tranh, kiện tụng, lo lắng vì sợ bị mưu hại, trả thù
- Kỵ, sát tinh đắc địa: danh tài hoạnh phát nhưng hoạnh phá, suốt đời lưu lạc. Nếu sát tinh hãm địa thì nguy cơ càng tăng, nghèo khổ, tai họa khủng khiếp, giảm thọ.
5. Ý nghĩa của hóa kỵ ở các cung:
a. ở Bào:
b. ở Phu Thê:
- Kỵ, Phục: vợ chồng bất hòa, khi ở khi đi. Lúc lấy nhau, hôn nhân bị cản trở. Khi đồng cư thì hay nói xấu nhau, có thể mưu hại nhau hoặc bị người chia rẽ.
c. ở Tử:
d. ở Tài:
e. ở Nô:
i. ở Điền:
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
bàn ăn hay bếp nấu, bạn có thể chọn các biện pháp hóa giải được nói đến ở phần sau.

Đồ đạc và đồ đùng trong ngôi nhà cũng có thể tạo ra mũi tên bí mật. Nếu bạn từng bị thâm tím cẳng chân do va vào góc nhọn của bàn uống nước bằng kim loại hay kính, thì bạn đẵ gặp sát khí.
Những vật khác cần chú ý
– Kệ hay tủ có cạnh sắc nhọn
– Rèm cửa sổ kiểu kéo (dạng dọc và ngang), trừ phi chúng được kéo khít hay kéo lên; viền của rèm giống như hàng lưỡi dao bắn khí “sắc bén” vào vật ở phía trước.
Hãy đặc biệt chú ý những vật ở gần nơi bạn làm việc hay ăn ngủ. Ví dụ, nếu bạn khó ngủ hay thường bị đau đầu khi thức dậy buổi sáng, hãy xem tủ sách, bàn trang điểm hay bàn đầu giường có cạnh hay góc chỉa vào đầu bạn khi ngủ không.
| ► Cùng xem những tiết lộ thú vị về 12 cung hoàng đạo tình yêu |
![]() |
![]() |
Trong tình yêu sự chen ngang của người thứ ba làm bạn rất mệt mỏi và là nguyên nhân khiến cho mối tình cũng như cuộc hôn nhân của bạn tan vỡ. Tuy nhiên mọi thứ đều có thể hóa giải nếu bạn biết cách. Sau đây chúng tôi sẽ hướng dẫn các bạn cách hóa giải nguy cơ có tình địch theo phong thủy. Nếu bạn là con trai, hãy để lộ vầng trán của mình; còn nếu bạn là con gái hãy mặc trang phục màu hồng hoặc thoa một chút son hồng… Củ thể ra sao các bạn hãy tìm hiểu trong bài viết dưới đây để biết cách hóa giải nguy cơ có tình địch của mình nhé! Bởi đây là một kiến thức mà tất cả chúng ta đều cần biết.
Nội dung
Khi phát hiện ra nguy cơ có tình địch, trước tiên bạn phải bình tĩnh, không được vội vàng và xem lại bát tự của hai người. Có thể bạn sẽ phát hiện ra năm nay rất kỵ với tuổi của bạn hoặc người yêu, vận khí không được tốt nên xảy ra một số biến động cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên chỉ cần vượt qua được mấy tháng xấu trong năm, mọi chuyện sẽ tốt lên thôi.
Cách này đồng nghĩa với việc bạn đã dùng dao cắm vào cành đào, mượn nó để loại trừ sự đào hoa (hoa đào tượng trưng cho sự đào hoa). Hoặc cành đào đó sẽ đánh bại tình định của bạn, đưa người ấy trở về bên bạn.

Trong phong thuỷ, tình yêu chính là sự giao thoa về khí giữa hai người khác giới. Trán của con người là cửa vào của khí. Nếu bạn để tóc che mất trán, có nghĩa bạn từ chối sự giao thoa khí với đối phương. Vì thế, nếu muốn toả ra hơi thở của tình yêu, đầu tiên bạn phải để lộ trán của mình. Muốn giữ lại người mình yêu, đánh bại tình địch, tốt nhất bạn nên để tóc ngắn, không được che mất trán.
Việc nắm bắt được thời cơ cũng rất quan trọng. Theo phong thuỷ, 17-19 h là thời gian thích hợp nhất để tỏ tình. Trong phong thuỷ, khoảng thời gian này được gọi là giờ “đoái”, tượng trưng cho tình yêu. Ngoài ra, nó còn mang ý nghĩa vui vẻ, chờ đợi. Nếu qua mất giờ đẹp, đặc biệt là qua 23 h thì bản chất của tình yêu sẽ có những thay đổi to lớn. Từ 23 h đến 1 h sáng hôm sau là giờ “khảm”, là thời gian chức năng sinh lý dồi dào. Tỏ tình trong thời điểm này sẽ khiến tình yêu biến thành mối quan hệ của dục vọng. Vì thế bạn cần hết sức lưu ý.
Không biết mọi người có để ý đến không nhưng có rất nhiều cô gái cứ nhìn thấy màu hồng là vui mừng khôn xiết, thậm chí còn có thể toả ra sức hấp dẫn vô hình. Màu sắc có rất nhiều tác dụng không thể bỏ qua, trong đó màu hồng phấn (gần giống màu của hoa đào) là màu tăng thêm sức hấp dẫn cho người con gái. Ở Trung Quốc, hoa đào tượng trưng cho tình yêu. Mùa xuân hoa đào nở, và cũng là mùa đẹp nhất để phát triển tình cảm. Vì thế, khi bạn có tình địch, hãy mặc những trang phục màu hồng hoặc thoa một chút son hồng… Điều này sẽ khiến cho bạn trai của bạn tăng thêm sự yêu thích đối với bạn. Tóm lại, hãy tận dụng những sắc hồng trong trang phục hay khi trang điểm để làm lu mờ cô nàng tình địch đáng ghét kia.
Bạn nên mua một đôi ngọc bội long phượng may mắn, đây là thứ các cặp đôi thường dùng. Ngọc bội màu trắng tượng trưng cho sự thuần khiết và bền chặt của tình yêu. Hai bạn mỗi người đeo một nửa. Nó sẽ phù hộ cho cả hai mãi mãi thương yêu nhau. Đeo miếng ngọc bội này hàng ngày có thể đánh bại tình địch, khiến người bạn yêu quay về bên bạn.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
1. Người Trung Quốc, cụ thể là các tướng thuật gia như Ma-Y tiên sinh, ngài Trương Phương Bình, ngài Thông Diễn, ngài Trương Tuấn Công, ngài Viên Thiên Cương v.v… thì lấy các sao, hành tinh, mặt trăng, mặt trời để đặt cho các kiểu mặt. Và từ đó suy ra nhân tính dựa trên tính chất của các tinh tú đó. Ví dụ ta có:

2. Kiểu mặt to tròn, đó là mặt kiểu Thái Dương – Mặt trời. Tướng mặt Thái Dương sáng ngời, mọi thứ trên khuôn mặt chỉnh chu đầy đặn là mặt của bậc vương giả, công khanh.
3. Mặt tròn vành vạnh. Đó là kiểu mặt Thái Âm – trăng. Tướng mặt Thái Âm sáng bóng, thanh tú các giác quan, nhạc, gò hài hòa là mặt của bậc thánh hiền, phúc hậu, nhân từ.
4. Kiểu mặt trái xoan, đó là kiểu mặt Kim tinh. Tướng mặt Kim tinh thanh thoát, tươi tắn mọi bộ phận trên khuôn mặt đầy đặn, tươi nhuận. Đó là mặt của các mỹ nhân, vương hậu phúc lộc đủ đầy.
5. Kiểu mặt vuông vắn, to – mặt vuông chữ Điền. Đó là kiểu mặt Thổ tinh.
Tướng mặt Thổ tinh thì đầu, mặt vuông vức cổ tròn, to khỏe, da đậm màu. Đấy là kiểu mặt bậc tướng lĩnh, dữ tợn, cương quyết, mạnh mẽ. Kiểu mặt của tranh đấu, can đảm, gan dạ, con nhà võ.
6. Kiểu mặt xương gầy. Đây là kiểu mặt của Hỏa tinh.
Tướng mặt Hoả tinh chữ nhật, gân xương, sắc tía. Mọi thứ
hài hòa đầy đủ sáng sủa, tướng hoạt bát, trí tuệ phát triển, nhanh hiểu biết, có học thức, nóng nảy, tự lực cao.
7. Kiểu mặt bầu bĩnh. Đây là kiểu mặt Mộc tinh. Tướng mặt Mộc tinh đầy đặn, các thứ cao đầy sắc khí xanh nhạt. Đây là khuôn mặt học giả, trí tuệ phong phú, ít hoạt động thể lực, nhân cách đàng hoàng, trầm tĩnh, tâm đức, chừng mực.
8. Kiểu mặt lưỡi cày. Đó là kiểu mặt Thủy tinh. Tướng mặt Thủy tinh sắc đậm, đen, cằm nhọn nhô, mắt lạnh sắc. Đây là khuôn mặt của mưu thần, tư vấn tốt, trí tuệ thông đạt, mưu mô, thủ đoạn.
9. Kiểu mặt choắt, mặt dơi. Đó là kiểu mặt Âm tinh. Tướng kiểu mặt Âm tinh bé hẹp vuốt nhọn cằm nhọn mắt lô” sắc sám xỉn hoặc nhợt nhạt. Đây là kiểu mặt nghèo hèn, láu lỉnh, háu hớt, yểu (khó thọ).
Chùa Phổ Minh – Công trình kiến trúc cổ kính mà hùng vĩ mở đầu kiến trúc Phật giáo thời Trần. Các công trình kiến trúc và chạm khắc ở đây còn giữ được dấu ấn của thời Trần. Chùa tọa lạc ở thôn Tức Mạc, xã Lộc Vượng, ngoại thành Nam Định.
Chùa Phổ Minh có tên thường gọi là Chùa Tháp. Chùa cách thành phố Nam Định khoảng 5km về phía Bắc. Chùa nằm giữa một vùng đồng lúa chiêm trũng 700 năm qua vẫn hiên ngang, sừng sững. Đây là một trong những dấu tích còn lại của một thời Hào khí Đông A – nhà Trần.
Lịch Sử: Tương truyền, Chùa được Vua Trần Thái Tông cho dựng vào năm 1262 ở phía Tây cung Trùng Quang phủ Thiên Trường. Nhưng các bản văn khắc trên bia ghi chép lại chùa có từ thời Lý, được mở rộng với qui mô lớn vào thời Trần. Trải qua nhiều lần tu bổ nhưng chùa vẫn giữ được nhiều dấu tích nghệ thuật đời Trần.
Kiến Trúc: Cụm kiến trúc chính của chùa bao gồm 9 gian tiền đường gắn với thiêu hương 3 gian, thượng điện 3 gian. Qua sân hẹp, dãy ngang 11 gian kết hợp với hành lang mỗi bên 11 gian tạo thành quần thể “Nội Công Ngoại Quốc”.
Các công trình kiến trúc và chạm khắc trong chùa còn giữ được dấu ấn của thời Trần và thời Mạc như bộ cánh cửa bằng gỗ lim chạm rồng ở nhà bái đường, tháp Phổ Minh, đôi sấu ở tam quan, rồng ở thành bậc tiền đường, tháp và tượng Bà chúa Mạc…
Trước đây, chùa có một chiếc vạc lớn bằng đồng đặt ở sân trước được coi là một trong bốn bảo khí quốc gia (vạc Phổ Minh, tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, tượng Quỳnh Lâm).
Tháp Phổ Minh chính là điểm độc đáo của chùa. Tháp gồm 14 tầng, cao 21,2m, mặt quay hướng Nam, mặt bằng được bố cục vuông, cạnh đáy của đế dài 5,21m, cửa các tầng ở 4 phía được trổ theo lối cuốn tò vò.
Tháp Phổ Minh là một công trình hỗn hợp giữa gạch và đá. Bệ và tầng dưới của tháp được xây bằng loại đá xanh mịn vừa đẹp vừa có sức nặng, làm tăng độ bền cho móng nền. Các tầng trên đều được xây bằng gạch nung mỏng, nhẹ, rất tiện lợi cho việc xây lắp. Kết cấu của tháp ở các tầng đá chủ yếu dựa vào các mộng và keo vữa kết dính.
Dạng kiến trúc của tháp là dạng trung gian giữa loại tháp hoa sen (phần trên) và tháp tu-di-tọa (phần đế). Không thuộc vào loại cao lớn, nhưng do bề ngang hẹp, nên tháp Phổ Minh có dáng cao, thanh mảnh, gợi cảm giác siêu thoát linh thiêng. Nhất là khi đứng dưới chân tháp nhìn ngược lên, các rìa mái cứ nối nhau tầng tầng lớp lớp, lên mãi không trung dễ gây sự choáng ngợp trước cảnh Phật. Tháp là một trong những nơi thờ xá-lợi Trần Nhân Tông.
Trong chùa có bày tượng Trần Nhân Tông nhập Niết Ban (tượng nằm); tượng Trúc Lâm tam tổ dưới bóng trúc; một số tượng Phật đẹp lộng lẫy. Chuông lớn của chùa có khắc bản văn “Phổ Minh đỉnh tự” đúc năm 1796.
Chùa đã được trùng tu nhiều lần, lần đại tu mới nhất là các năm 1994-1995. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.
Những công trình kiến trúc, nét chạm khắc hoa văn ở ngôi chùa Phổ Minh linh thiêng đều chứa đựng những thông điệp của riêng nó. Chúng khơi gợi trí tò mò khám phá cho những ai một lần đến tham quan ngôi chùa.