Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Phong thủy phòng của gia chủ –

Phòng của gia chủ được xem như trái tim trong cơ thể con người. Nó rất được chú ý mọi thứ: - Vị trí đặt phòng - Cửa phòng - Hướng phòng - Cách bài trí - Giường ngủ. Mọi thứ phải thể hiện sự hoàn hảo về phong thủy và tính thuận tiện quán xuyến toàn g

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng của gia chủ được xem như trái tim trong cơ thể con người. Nó rất được chú ý mọi thứ:

30

– Vị trí đặt phòng
– Cửa phòng
– Hướng phòng
– Cách bài trí
– Giường ngủ.

Mọi thứ phải thể hiện sự hoàn hảo về phong thủy và tính thuận tiện quán xuyến toàn gia cư và an toàn.

1. Vị trí bố trí phòng gia chủ trong ngôi nhà cần

– Nơi đất tốt lành trong cả thửa đất; nơi đang hiện hữu “điểm bóng của trường khí tuế vận” (của nhà một tầng).

– Nơi trung tâm có thể bao quát được toàn bộ ngôi nhà nếu là nhà nhiều tầng.

– Nơi có tính an toàn cao kể cả nhà một tầng hay nhà có nhiều tầng.

2. Cửa phòng của chủ nhà cần đặt được ý nghĩa phong thủy cát tường

–    Kích thước lỗ ban ở cung phúc thọ hay sức khỏe.

–    Hình dạng cánh cửa có cạnh góc; không có dạng vòng cung; mở một cửa với một cách duy nhất.

Cửa vòng cung là dáng động không phù hợp với yêu cầu yên tĩnh của nơi nghỉ ngơi và ngủ của chủ nhân, là nơi đế lấy lại sức lực và suy nghĩ đến mọi việc của gia đình.

Cánh cửa mớ thuận chiều về phía tay phải, có một khóa chắc chắn, không dùng một cửa hai khóa.

Cửa được làm bằng vật liệu bền chắc; không làm cửa kính để đảm bảo an toàn và kín đáo.

3. Cửa sổ không mở thẳng với cửa phòng đế tránh buột khí, hoặc mở đối diện hướng khí để phản khí vào phòng.

– Ngoài cửa sổ không có cây to che chắn.

– Cửa sổ có thể mở cùng hướng khí để nạp sinh khi vào phòng khi phải đóng cửa ra vào.

– Cửa sổ có thể làm cửa kính có song sắt chắc chắn.

– Nếu trước cửa sổ có cây to (bất khả kháng) có thể treo ở cửa sổ một tua băng bằng vải đỏ.

4. Hướng phòng theo hướng chủ đạo của ngôi nhà

–    Hướng phòng có thể trùng hướng mở cứa phòng hay nhìn ra ban công theo hướng khí của chủ gia đình.

–    Hướng phòng cần được tôn trọng. Vì vậy không được có tường bị kín hướng này. Tránh mở thẳng với cửa buồng vệ sinh, phòng tắm.

5. Màu sắc tường phòng, sàn phòng và cửa phòng.

Màu sắc đóng góp vào sự yên tĩnh của người ở trong phòng. Vì vậy, màu sắc trần phòng trắng, tường bao quanh màu mơ chín nhạt hay xanh lơ nhạt hồng tránh các màu tối.

Nền phòng lát gạch, gỗ hay thâm có màu cà phê, mầu gỗ tự nhiên sẽ tạo sự ấm áp, vững chãi, tránh màu trắng, đỏ chói, đen, xanh.

6. Giường ngủ cần tuân thủ phép an toàn phong thúy cát tường:

– Giường kê chéo góc với cửa ra vào phòng.

– Giường không kê dưới xà, dầm để tránh sự hình bóng đè người.

– Giường kê cách tường các phía ít nhất 25 cm. Trừ phía đầu giường đế tránh “lỗ không”. Mục đích tạo thuận lợi cho sinh khí vận hành quanh giường ngủ.

– Giường không nên làm bằng kim khí sử dụng lâu dài. Giường kim khí thuộc khí âm, trong khi người nằm ngủ cần ấm áp của khí dương.

– Giường cần chắc chắn vững vàng, không phát ra âm thanh khi nằm, để tĩnh, để đảm bảo an toàn cho tính mạng.

– Giường có màu sắc ấm, tránh màu lạnh, buồn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy phòng của gia chủ –

Những câu nói hay nhất về hạnh phúc trong cuộc sống

Những câu nói hay nhất về hạnh phúc trong cuộc sống. Qua bài viết này các bạn sẽ đọc được những câu nói hay nhất về hạnh phúc
Những câu nói hay nhất về hạnh phúc trong cuộc sống

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những câu nói hay nhất về hạnh phúc trong cuộc sống. Qua bài viết này các bạn sẽ đọc được những câu nói hay nhất về hạnh phúc của các tác giả, nhà triết học nổi tiếng trên thế giới, những quan điểm về hạnh phúc đời sống hay nhất.

Cuộc sống của mỗi người thì ít nhiều gì cũng sẽ có hạnh phúc về vật chất cũng như tinh thần. Các bạn hãy đọc và suy ngẫm những câu nói nổi tiếng, câu nói hay về hạnh phúc trong đời sống dưới đây nhé.

Những câu nói hay nhất về hạnh phúc trong cuộc sống

1. Khi tôi ở một mình, tôi hạnh phúc.
When I am alone I am happy.
William Carlos Williams

———-

2. Người ít hiểu biết về bản chất con người tới nỗi muốn đi tìm hạnh phúc bằng cách thay đổi bất cứ thứ gì khác ngoài tâm tính của chính mình sẽ chỉ phí hoài cuộc đời trong những nỗ lực vô vọng.
He who has so little knowledge of human nature as to seek happiness by changing anything but his own disposition will waste his life in fruitless efforts.
Samuel Johnson

3. Hạnh phúc không có nghĩa là mọi việc đều hoàn hảo. Nó có nghĩa là bạn đã quyết định nhìn xa hơn những khiếm khuyết.
Being happy doesn’t mean that everything is perfect. It means that you’ve decided to look beyond the imperfections.
Khuyết danh

4. Nhiều người có ý tưởng sai lầm về điều sản sinh ra hạnh phúc đích thực. Nó không đạt được qua sự tự thỏa mãn mà qua sự trung thành với một mục đích đáng giá.
Many persons have a wrong idea of what constitutes true happiness. It is not attained through self-gratification but through fidelity to a worthy purpose.
Helen Keller

5. Không dễ để tìm hạnh phúc trong bản thân mình, và không thể tìm thấy nó ở đâu khác.
It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.
Agnes Repplier

6. Hạnh phúc là người thầy hà khắc, đặc biệt là hạnh phúc của người khác.
Happiness is a hard master, particularly other people’s happiness.
Aldous Huxley

7. Thu nhập cao là công thức tốt nhất cho hạnh phúc mà tôi từng biết.
A large income is the best recipe for happiness I ever heard of.
Jane Austen

8. Hãy kiên quyết đừng để mình trở nên nghèo túng: hãy sử dụng ít hơn bạn có. Sự nghèo túng là kẻ thù lớn đối với hạnh phúc của con người; nó phá hủy tự do, và nó khiến một vài đức hạnh trở thành không thực tế, và số còn lại cực kỳ khó khăn.
Resolve not to be poor: whatever you have, spend less. Poverty is a great enemy to human happiness; it certainly destroys liberty, and it makes some virtues impracticable, and others extremely difficult.
Samuel Johnson

9. Làm thế nào để có, để giữ, và để tìm lại hạnh phúc thực ra đối với hầu hết người đời ở mọi thời đại là động lực bí mật của tất cả những gì họ làm, và tất cả những gì họ sẵn sàng chịu đựng.
How to gain, how to keep, how to recover happiness is in fact for most men at all times the secret motive of all they do, and of all they are willing to endure.
William James

10. Hãy dừng bước để chắc chắn mọi điều bạn đang làm lúc này thực sự là điều sẽ khiến bạn hạnh phúc. Bạn không thể chỉ sống vì một vài mục tiêu nào đó trong tương lai và để nó trở thành tất cả. Bởi đó là điều một số người làm. Họ bước lên con đường và có vô số tấm biển nói, ‘Đường này. Đường đó.’ Nhưng sẽ ra sao nếu bạn tới nơi, bạn đạt được đúng những điều mình muốn, cũng như họ, chỉ có điều tất cả những gì không ổn thì vẫn không ổn. Nếu thế thì sao?
Stop and make sure that everything you are doing right now is really what makes you happy. You can’t just live for some goal in the future and have that be everything … have that be it. Because that is what some people do. They get on this road and there are all these signs saying, ‘This way. That way.’ But what if you get there, you get exactly what you wanted, like some people do, except all the things that were wrong, are still wrong. Then what?
Khuyết danh

11. Hành động có thể không mang tới hạnh phúc, nhưng không có hạnh phúc nào lại thiếu hành động.
Action may not bring happiness but there is no happiness without action.
William James

12. Sự tồn tại là cuộc mặc cả lạ lùng. Đời nợ chúng ta thì ít mà chúng ta thì nợ đời tất cả. Hạnh phúc thực sự duy nhất đến từ việc cống hiến hết bản thân vì một mục tiêu nào đó.
Existence is a strange bargain. Life owes us little; we owe it everything. The only true happiness comes from squandering ourselves for a purpose.
William Cowper

13. Anh không thể nói anh hạnh phúc nếu anh không thắng cuộc.
You cannot say that you are happy when you don’t win.
Arsene Wenger

14. Cả giàu sang lẫn sự vĩ đại đều không thể mang cho chúng ta hạnh phúc.
Neither wealth or greatness render us happy.
La Fontaine

15. Anh không bao giờ nên hướng con người về hạnh phúc, bởi hạnh phúc cũng chỉ là sự sùng bái của thị trường. Anh nên hướng con người tới sự yêu thương lẫn nhau. Dã thú giày vò con mồi cũng có thể hạnh phúc, nhưng chỉ loài người có thể yêu thương lẫn nhau, và đây là thành tựu cao nhất con người có thể mơ ước đạt tới.
One should never direct people towards happiness, because happiness too is an idol of the market-place. One should direct them towards mutual affection. A beast gnawing at its prey can be happy too, but only human beings can feel affection for each other, and this is the highest achievement they can aspire to.
Aleksandr Solzhenitsyn

16. Niềm hạnh phúc to lớn nhất của mọi cuộc đời là sự cô độc bận rộn.
The happiest of all lives is a busy solitude.
Voltaire

17. Hạnh phúc của một người là kết quả nỗ lực của chính anh ta, một khi anh ta đã biết nguyên liệu cần thiết của hạnh phúc chỉ là một ít can đảm, sự tự chối bỏ ở mức độ nhất định, tình yêu công việc, và trên hết, một lương tâm trong sạch.
One is happy as a result of one’s own efforts once one knows the necessary ingredients of happiness simple tastes, a certain degree of courage, self denial to a point, love of work, and above all, a clear conscience.
George Sand

18. Tiền bạc chưa bao giờ và sẽ không bao giờ khiến con người hạnh phúc, trong bản chất nó không có gì có thể tạo ra hạnh phúc. Một người càng có nó nhiều bao nhiêu càng muốn nó nhiều bấy nhiêu.
Money has never made man happy, nor will it, there is nothing in its nature to produce happiness. The more of it one has the more one wants.
Benjamin Franklin

19. Bạn được tha thứ cho hạnh phúc và thành công của mình chỉ khi bạn sẵn sàng hào phóng chia sẻ chúng.
You are forgiven for your happiness and your successes only if you generously consent to share them.
Albert Camus

20. Để hạnh phúc, chúng ta không được để tâm quá nhiều đến người khác.
To be happy, we must not be too concerned with others.
Albert Camus

21. Cuộc sống đồng điệu giữa những người yêu nhau là hạnh phúc lý tưởng.
Life in common among people who love each other is the ideal of happiness.
George Sand

22. Hạnh phúc của xã hội là kết thúc của sự cai trị.
The happiness of society is the end of government.
John Adams

23. Chỉ có một khát khao, khát khao hạnh phúc.
There is only one passion, the passion for happiness.
Denis Diderot

24. Những người thật sự yêu nhau không viết ra niềm hạnh phúc của mình.
Lovers who love truly do not write down their happiness.
Anatole France

25. Hạnh phúc giống như một nụ hôn… bạn phải chia sẻ nó để tận hưởng nó.
Happiness is like a kiss…you must share it to enjoy it.
Khuyết danh

26. Chiếc bàn, cái ghế, bát hoa quả và cây đàn vi ô lông; còn cần gì hơn cho hạnh phúc?
A table, a chair, a bowl of fruit and a violin; what else does a man need to be happy?
Albert Einstein

27. Bạn sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu bạn tiếp tục tìm kiếm thành phần của hạnh phúc. Bạn sẽ không bao giờ sống nếu bạn vẫn tìm kiếm ý nghĩa của cuộc đời.
You will never be happy if you continue to search for what happiness consists of. You will never live if you are looking for the meaning of life.
Albert Camus

28. Thế giới đầy những kẻ mà quan điểm về một tương lai thỏa mãn thực chất là sự quay trở lại quá khứ đầy lý tưởng.
The world is full of people whose notion of a satisfactory future is, in fact, a return to the idealised past.
Robertson Davies

29. Hạnh phúc không phụ thuộc vào điều kiện bên ngoài, thái độ tinh thần của chúng ta điều khiển nó.
Happiness doesn’t depend on any external conditions, it is governed by our mental attitude.
Dale Carnegie

30. Không ai hạnh phúc nếu không nghĩ mình hạnh phúc.
No man is happy who does not think himself so.
Publilius Syrus

31. Một nửa thế giới không thể hiểu hạnh phúc của người khác.
One half of the world cannot understand the pleasures of the other.
Jane Austen

32. Để sống, chúng ta phải tranh đấu không ngừng, chúng ta phải có lòng can đảm để hạnh phúc.
To live we must conquer incessantly, we must have the courage to be happy.
Henri Frederic Amiel

33. Hạnh phúc giống như những lâu đài trong chuyện cổ tích với cổng được rồng canh gác: chúng ta phải chiến đấu để chinh phục nó.
Happiness is like those palaces in fairy tales whose gates are guarded by dragons: we must fight in order to conquer it.
Alexandre Dumas

34. Hạnh phúc trong cuộc đời không phụ thuộc nhiều vào điều xảy ra với bạn bằng cách mà bạn đón nhận nó.
The happiness of this life depends less on what befalls you than the way in which you take it.
Elbert Hubbard

35. Hạnh phúc là khi điều bạn nghĩ, điều bạn nói và điều bạn làm hài hòa với nhau.
Happiness is when what you think, what you say, and what you do are in harmony.
Mahatma Gandhi

36. Hạnh phúc đúng là món quà của thượng đế.
Le bonheur est bien un présent divin.
Aristotle

37. Chính là một dạng màu mè học đòi về tinh thần khiến người ta nghĩ rằng mình có thể thiếu tiền mà hạnh phúc.
It is a kind of spiritual snobbery that makes people think they can be happy without money.
Albert Camus

38. Tôi không tự hào, nhưng tôi hạnh phúc; và hạnh phúc mùa lòa, tôi nghĩ vậy, còn hơn lòng tự hào.
I am not proud, but I am happy; and happiness blinds, I think, more than pride.
Alexandre Dumas

39. Hạnh phúc không phải đích đến; nó là phụ phẩm.
Happiness is not a goal; it is a by-product.
Eleanor Roosevelt

40. Tôi không biết số phận anh sẽ thế nào, nhưng tôi biết rằng những người duy nhất trong các anh sẽ thực sự hạnh phúc là những ai đã tìm được cách để phụng sự.
I don’t know what your destiny will be, but one thing I know: the only ones among you who will be really happy are those who will have sought and found how to serve.
Albert Schweitzer

41. Đôi lúc cũng cần thiết dừng chân trong cuộc hành trình theo đuổi hạnh phúc, và chỉ đơn giản là cảm thấy hạnh phúc.
Now and then it’s good to pause in our pursuit of happiness and just be happy.
Guillaume Apollinaire

42. Thực sự thì tôi cho rằng không gì thực hơn hạnh phúc và không gì hạnh phúc và ngọt ngào hơn sự thật.
Indeed in general I hold that there is nothing truer than happiness, and nothing happier and sweeter than truth.
Gottfried Wilhelm Leibniz

43. Nhưng hạnh phúc còn là gì ngoài sự hài hòa giản đơn giữa một người và cuộc sống của anh ta?
But what is happiness except the simple harmony between a man and the life he leads?
Albert Camus

44. Để giữ được niềm vui bạn phải chia sẻ nó. Hạnh phúc chào đời đã là anh em sinh đôi.
To have joy one must share it. Happiness was born a twin.
Lord Byron

45. Hạnh phúc luôn luôn được tính toán.
Le bonheur est toujours compté.
Yoram Kaniuk

46. Dù chúng ta có lang thang tới đâu, hạnh phúc cũng được tìm thấy trong phạm vi hẹp, và ở giữa những điều trong tầm với của chúng ta.
What ever our wandering our happiness will always be found within a narrow compass, and in the middle of the objects more immediately within our reach.
Edward Bulwer Lytton

47. Chỉ kẻ ngu xuẩn mới hy vọng lúc nào cũng hạnh phúc.
Only a fool expects to be happy all the time.
Robertson Davies

48. Hạnh phúc và sự phi lý là hai đứa con của cùng một mẹ đất. Chúng không thể tách rời.
Happiness and the absurd are two sons of the same earth. They are inseparable.
Albert Camus

49. Điều chúng ta gọi là hạnh phúc là điều chúng ta không biết.
What we call happiness is what we do not know.
Anatole France

50. Con đường hạnh phúc có thể là con đường quên lãng.
La route du bonheur est peut-être la route de l’oubli
Yasmina Reza

Dù thế nào đi chăng nữa, bạn hãy luôn mỉm cười với cuộc sống hiện tại của mình, hãy tin rằng thế giới này còn bao điều tốt đẹp đang chờ bạn khám phá.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu nói hay nhất về hạnh phúc trong cuộc sống

Bát tự có sao Văn Xương, đường công danh rộng mở

Sao Văn Xương trong tử vi đẩu số có vai trò quan trọng, quản công danh sự nghiệp, học hành thi cử. Người mà bát tự có sao Văn Xương thì đường danh tốt.
Bát tự có sao Văn Xương, đường công danh rộng mở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Văn Xương trong tử vi đẩu số nắm giữ vai trò quan trọng, quản chuyện công danh sự nghiệp, học hành thi cử. Người mà bát tự có sao Văn Xương thì số mệnh đoán định đường danh vô cùng tốt đẹp.


Bat tu co sao Van Xuong, duong cong danh rong mo hinh anh
 

1. Tính cách 

  Sao Văn Xương cùng sao Văn Khúc, Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt hợp xưng là 6 cát tinh. Xưng là cát tinh bởi chúng có công năng phụ tá tốt, nếu gặp cách cục chính hoặc chủ tinh miếu vượng thì như gấm thêm hoa, tăng cường phát triển. Gặp phải sao lạc hãm thì như than sưởi ấm trong ngày đông, tăng thêm sức mạnh.    6 cát tinh này là lực cản mạnh nhất của 6 hung tinh Dương, Đà, Hỏa, Linh, Không, Kiếp, có thể trung hòa tính uy hiếp, thậm chí dẫn đường để chúng hướng về phát triển tốt hơn.   Sao Văn Xương là ngôi sao khoa bảng, đứng đầu văn khôi, cần cù chăm chỉ sẽ nổi bật hơn người khác. Sao Văn Xương hoan hỉ nhất là gặp hóa khoa, nếu gặp miếu vượng lại hóa khoa thì tài về về học thuật, nghệ thuật nở rộ. Bát tự có sao Văn Xương ở các cung vị Mệnh, Tài, Quan, Thiên gặp ba sao Thái Dương, Thiên Lượng, Lộc Tồn, danh xưng là cách cục Dương Lương Xương Lộc, chủ về Tài Quan đều đẹp, tham gia thi cử nhất định có kết quả tốt. Sao Văn Xương miếu vượng là có tài hoa văn nghệ. Rơi vào lạc hãm thì tài năng không thể hiện ra ngoài, lạc hãm lại gặp hóa kị thì nghề chính không tốt, có chí mà bất lợi, thậm chí còn thất học, sinh tương tưởng bi quan buồn khổ. Gặp năm tiểu hạn mà sao Văn Xương hóa kị thì lưu ý giấy tờ công văn kẻo sơ suất sẽ đưa tới những quấy nhiễu, học sinh chú ý bài vở, thi cử kẻo kết quả không như ý. Sao Văn Xương lạc hãm gặp tứ sát tinh Dương, Đà, Hỏa, Linh thì là người khôn vặt, có tài ăn nói, có thể dùng tài nghệ để nuôi thân. Sao Văn Xương gặp sao Vũ Khúc thì văn võ song toàn.  

2. Phương pháp xác định bát tự có sao Văn Xương

  Sao Văn Xương là tứ trụ thần sát, xưng Văn Nhật quý nhân, là cát thần. Mệnh mang sao Văn Xương thì chủ nhân thông minh lanh lợi hơn người, nhạy cảm, tài hoa, đối với thi cử học hành rất có lợi, có thể gặp dữ hóa lành. Khẩu quyết để xác định bát tự có sao Văn Xương như sau:   Giáp Ất Tị Ngọ báo quân biết, Bính Tuất Thân cung Đinh Kỷ Dậu.   Canh Hợi Tân Tý Nhâm gặp Dần, Quý người thấy Mão trong mây thang.   Có nghĩa là, can ngày Giáp Ất gặp địa chi Tị Ngọ là có sao Văn Xương. Can ngày Bính gặp địa chi Tuất Thân là có sao Văn Xương. Can ngày Canh gặp địa chi Hợi, can ngày Tân gặp địa chi Tý, can ngày Nhâm gặp địa chi Dần, can ngày Quý gặp địa chi Mão là có sao Văn Xương.
Bat tu co sao Van Xuong, duong cong danh rong mo hinh anh
 
Văn Xương và Thực Thần có quan hệ mật thiết, ngày gặp địa chi Thực Thần Lộc Đường (tức Lâm Quan) là có Văn Xương. Ví dụ ngày Giáp Thực Thần là Bính, Bính lộc ở Tị, Tị là sao Văn Xương. Phương pháp tra bát tự có sao Văn Xương theo tứ trụ địa chi như sau:   Can năm can ngày Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý.   Sao Văn Xương Tị Ngọ Thân Dậu Thân Dậu Hợi Tý Dần Mão.   Sao Văn Xương trong xem tử vi chủ về quan chức, khoa bảng, là thần Lộc Tịch. Mỗi năm sao này đều có sự thay đổi về phương vị. Nếu có thể xác định phương vị Văn Xương mỗi năm và đặt thư phòng, bàn làm việc, bàn học ở đúng vị trí đó thì sẽ tăng cường vận trình sự nghiệp, học nghiệp. 
Xác định Văn Xương vị năm 2017 để sự nghiệp thành công Xác định phương vị Văn Xương tinh theo năm sinh Tìm Văn Xương vị trong 5 năm tới để nhanh đỗ đạt vinh hiển
Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bát tự có sao Văn Xương, đường công danh rộng mở

Bài trí của Rùa –

Bài trí của Rùa Rùa củng giống như rồng, đều thuộc một trong số "4 loài vật thiêng" tượng trưng cho sự trường thọ, mang lại may mắn tốt lành. Rùa hành động chậm chạp nhưng có khả năng chịu nhẫn nhục tốt. Gặp khi nguy hiểm thì thu đầu và tứ chi lại gi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài trí của Rùa

Rùa củng giống như rồng, đều thuộc một trong số “4 loài vật thiêng” tượng trưng cho sự trường thọ, mang lại may mắn tốt lành. Rùa hành động chậm chạp nhưng có khả năng chịu nhẫn nhục tốt. Gặp khi nguy hiểm thì thu đầu và tứ chi lại giấu vào trong mai. Kể địch dù dũng mãnh cũng không làm gì được nó, vì vậy cuối cùng vẫn vượt qua được khó khăn nguy hiểm. Cho nên khi gặp phải hình sát có tính đặc thù, thầy phong thuỷ thường dùng rùa để hoá giải, lây nhu khắc cương, như vậy mới phù hợp nguyên tắc “Gặp hung thì hoá chứ không nên đối đầu”, về phương diện bài trí rùa để hoá sát cần hết sức chú ý, dưới đây là một số cách bài trí rùa để hoá giải sát khí trong nhà:

kim-quy-himmag

1-    Rùa gỗ.

Nếu đặt ở trong nhà hoặc đặt ở phía bắc và phía đông thì tốt nhất nên dùng Rùa gỗ.

2-     Rủa đá.

Nếu đặt ở lan can bên ngoài nhà, hoặc đặt ở hướng Tây Nam và Tây Bắc thì tốt nhất nên dùng Rùa đá.

3-     Rùa sứ.

Nếu đặt Rùa trong bể cá hoặc đặt ở phương Bắc thì tốt nhất nên đặt Rùa sứ

4-     Rùa đồng.

Thích hợp đặt trên một vật bằng kim loại hoặc đặt ở hướng Tây và Tây bắc.

5-     Rùa sống.

Rùa sống có tác dụng hoá sát, nếu ở các góc nhọn trong nhà đặt bể thuỷ tinh hoặc bể sứ bên trong nuôi rùa có nước sạch và thức ăn, rùa Việt Nam hay rùa Braxin đều được, vừa có tác dụng trang trí vừa có tác dụng hoá giải sát khí.

Một điểm cần lưu ý phàm là những động vật dùng để hóa sát, nếu chúng bị thương thì phải thay thế ngay. Bài trí của chó và ngựa

Ngựa theo phong thuỷ học có các tác dụng sinh vượng, mã đáo thành cồng. Nhanh chân lên bước, thăng di, di dân… Bố cục phong thủy thường đặt ngựa ở hướng “dịch mã” của mệnh chú hoặc đặt ở hướng Nam và hướng Tây Bắc.

Thông thường, số lượng ngựa sử dụng 2, 3, 6, 8 và 9 là tốt nhất, trong đó 6 con là may mắn và tốt lành nhất, vì trong tiếng Hán, số “sáu” có cùng âm dọc với chữ “lộc”, tối kị sử dụng 5 con.

Nếu muốn tài vận và sự nghiệp có được hỗ trợ phát triển nhanh trong một thời gian ngắn, hãy đặt hình ngựa ở vị trí tài vị trong nhà.

Ngựa tuy có công hiệu sinh vượng nhưng khi bố trí ngựa cần chú ý với người có năm sinh thuộc “chuột”, vì chúng xung khắc nhau, người tuổi chuột không nên bài trí bằng hình ngựa hoặc treo tranh ngựa trong nhà.

Chó trong bố cục phong thuỷ không thích hợp với nhà đã dùng sư tử trấn an ở cửa. Nếu bài trí chó thì nên đặt ở vị trí gần cổng vào nhà, đầu cho hướng ra ngoài. Một điểm cần lưu ý là chó không nên đặt ở hướng Đông Nam.

Số lượng chó sử dụng để bài trí là một hoặc hai con thì sẽ có lợi nhất, bố trí hình chó cần căn cứ vào hướng và môi trường.

Nếu đặt hình chó ở hướng Bắc thì dùng chó Đen; hướng Tây dùng chó trắng; hướng Nam dùng chó vàng.

Mệnh chủ có năm sinh thuộc rồng không nên dùng tượng hình chó, người có năm sinh thuộc Mèo, Hổ, Ngựa rất thích hợp với dùng tượng hình chó.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài trí của Rùa –

Sưu tầm các bài viết về Dịch của cụ Hà Uyên

Một bài viết tầm các bài viết về Dịch của cụ Hà Uyên. Mời mọi người cùng đọc.
Sưu tầm các bài viết về Dịch của cụ Hà Uyên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết gom nhặt các bài viết của tác giả Hà Uyên về dịch số, quẻ dịch, mai hoa trên các diễn đàn lý số

Sự Thiếu Sót của quẻ Mai Hoa Năm Tháng Ngày Giờ

Vinhl, Thứ tư, 20/05/2009 | 01:35, hỏi:

Xin Chào các bạn,

Gần đây VinhL cùng với một người bạn nghiên cứu và bàn luận về quẻ Mai Hoa của Năm Tháng Ngày Giờ, qua nhiều khảo nghiệm thì khám phá ra quẻ Mai Hoa Năm Tháng Ngày Giờ chỉ sử dụng được 192 quẻ trùng một hào động.

VinhL xin giải thích như sau:

Quẻ Mai Hoa của Năm Tháng Ngày Giờ:

Dùng tổng số của Niên Chi, Tháng Âm Lịch, Ngày Âm Lịch, chia cho 8, lấy số dư làm Thượng Quái

Dùng tổng số của Niên Chi, Tháng Âm Lịch, Ngày Âm Lịch, Giờ (12 Chi), chia cho 8, lấy số dư làm Hạ Quái

Dùng tổng số lấy được khi tìm Hạ Quái chia cho 6, lấy số dư làm Hào Động.

Quẻ Mai Hoa dùng 64 trùng quái, mỗi quái có 6 hào, như vậy mỗi trùng quái có 6 quẻ một hào động. Như vậy toàn bộ có 64 x 6 = 384 quẻ một hào động.

Trong các phương pháp lấy quẻ Mai Hoa, ngoài trừ phương pháp dùng Năm Tháng Ngày Giờ, thì các phương pháp khác đều có thể lấy được bất cứ quẻ nào trong 386 quẻ một hào động.

Tại sao phương pháp dùng Năm Tháng Ngày Giờ của Mai Hoa chỉ có thể lấy được 192 quẻ một hào động mà không phải 384 quẻ?

Xin dẫn chứng như sau:

Thượng Quái = (Năm + Tháng + Ngày) – 8t, t=0,1,2,....

Hạ Quái = (Năm + Tháng + Ngày + Giờ) – 8h, h=0,1,2,...

Hào Động = (Năm + Tháng + Ngày + Giờ) – 6d, d=0,1,2,...

Từ sự tương quan giữa Hạ Quái và Hào Động ta có

Hạ Quái + 8h = Hào Động + 6d

tức là

(Hạ Quái – Hào Động) = 2 x (3d – 4h)

Vì vậy ta có

(Hạ Quái – Hào Động) / 2 = 3d – 4h

Theo công thức trên (Hạ Quái – Hào Động) / 2 phải là một số nguyên, tức (Hạ Quái – Hào Động) phải là một số chẳn. Như vậy muốn có được (Hạ Quái – Hào Động) là số chẳn thì Hạ Quái và Hào Động đều phải cùng là số chẳn hoặc số lẻ.

Từ đó ta có: Hạ Quái là số lẻ thì Hào Động là số lẻ, Hạ Quái là số chẳn thì Hào Động là số chẳn.

Nay xin liệt kê tất cả các quẻ có thể xảy ra khi dùng Năm Tháng Ngày Giờ để lấy quẻ Mai Hoa (một hào động).

Hạ Quái............ Hào Động....................... Tổng số quẻ

Càn 1................ 1, 3, 5.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Càn

Đoài 2............... 2, 4, 6.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Đoài

Ly 3.................. 1, 3, 5.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Ly

Chấn 4.............. 2, 4, 6.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Chấn

Tốn 5................ 1, 3, 5.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Tốn

Khảm 6............. 2, 4, 6.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Khảm

Cấn 7................ 1, 3, 5.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Cấn

Khôn 8.............. 2, 4, 6.............................. 8 x 3 = 24 quẻ Hạ Khôn

24 x 8 = 192 quẻ một hào động.

Như thế phương pháp lấy quẻ Mai Hoa bằng Năm Tháng Ngày Giờ không phải đã thiếu đi một nửa bộ của dịch 384 quẻ một hào động không?

Kết quả trên cho thấy dùng Năm Tháng Ngày Giờ để lấy quẻ Mai Hoa thì các bạn sẻ không bao giờ lấy được quẻ Thiên Phong Cấu động hào 4, vì Hạ Quái Tốn là số 5, thì chỉ có thể động hào 1, 3, va 5 thôi.

Thiển nghỉ theo phương pháp của ông Thiệu Khang Tiết thì ta thấy Thượng Quái không thay đổi trong 1 ngày, Hạ Quái và Hào Động thì thay đổi từng giờ, mà mỗi giờ thì Hào Động lệ thuộc vào Hạ Quái và chỉ có thể động 1 hào trong 3, thay vì 6.

Để có thể sử dụng toàn bộ 384 quẻ một hào động thì phương pháp lấy hào động không nên lệ thuộc vào Hạ Quái. Có thể chỉ lấy giờ để tính hào động hoặc lấy tổng số (Ngày + Giờ) để tìm hào động.

Thân

Vâng, xin chào VinhL

Phương pháp phân tích, chứng minh và giải quyết vấn đề của anh VinhL, thông qua ví dụ diễn giải, đã làm sáng tỏ một cách minh triết vấn đề, mà không phải ai, khi đọc sách ứng dụng nó, nhìn nhận được ra. Cảm ơn anh.

Hà Uyên chỉ thắc mắc, đối với "Hoàng cực kinh thế" và "Mai hoa dịch số", cùng một tác giả, có lẽ Thiệu Ung xây dựng một hệ thống tính toán chặt chẽ hơn. Đây có phải do lỗi Nhà xuất bản không in, hay vì một lý do nào đấy không? Vậy mà cuốn sách vẫn được phát hành.

Hà Uyên cùng trao đổi với anh VinhL, ở góc độ này, Hà Uyên đang thống kê để tìm quy luật:

- Năm-Tháng-Ngày-Giờ, xác định được "thứ tự số" theo Tiên thiên, ví dụ Ngoại quái được "thứ tự số" là 3, Nội quái được "thứ tự số" là 7, ta được quẻ Hỏa Sơn Lữ.

- Khi theo Hậu thiên, thì số 3 Ngoại quái gồm những quẻ:3, 13, 23, 33, 43, 54, 63. Số 7 Nội quái gồm những quẻ: 7, 17, 27, 37, 47, 57

- Trên nguyên lý: Dịch luôn luôn biến đổi không ngừng - Vậy thì sau quẻ Hoả Sơn Lữ, sẽ tiếp diễn đến quẻ nào? Và khi nào thì xác định được "đầu" và "cuối" (có chung có thuỷ), có đầu có cuối?

- Khi chúng ta sử dụng hệ thống Thiên can để xác định thời điểm Khởi đầu - Kết thúc, Hà Uyên vẫn đang còn lúng túng về vấn đề này, Ví dụ:

+ BÍNH TÂN HỢP: năm 1916 - 1917 là năm Bính - Đinh, cho chúng ta biết điểm khởi đầu là "Tụ", đến năm 1991 là năm Tân, cho chúng ta biết điểm kết thúc là "Tán". Thực tiễn cho chúng ta thấy Liên bang Xô viết "tụ" lại thành một khối thống nhất năm 1916 - 1917, và đến năm 1991 thì "tán". Ở đây chúng ta chỉ xét về những tinh hoa của quá khứ đã để lại cho chúng ta, mà không bàn về Chính trị. Đây là nguyên lý âm - dương, tụ tán, ẩn hiện, đến đi, chính phản,...

+ Điểm xuất phát của phương pháp, Hà Uyên vẫn từ thứ tự số Tiên thiên, nhưng khi tính thì theo Hậu thiên.

Xin cảm ơn VinhL

...

VinhL, Thứ năm, 21/05/2009 | 12:01 hỏi:

Thưa Bác Hà Uyên,

VinhL đọc thấy Sư Phụ Thiên Sứ gọi Bác là Anh, thế thì VinhL phải thành thật xin lỗi là đã xưng hô với Bác là Bạn. Theo các bài viết của Bác thì Bác đã đọc qua Hoàng Cực Kinh Thế rồi, như thế thì chắc củng biết là sau quẻ Hoả Sơn Lư thì đến quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá theo như vòng tròn 64 quái của ông Thiệu Khang Tiết. Theo Hoàng Cực Kinh Thế thì bắt đầu là quẻ Phục, đến quẻ Bác, thì trở Phục, vì một vòng tròn thì đâu có kết thúc.

Nếu Bác lập một bảng trùng quái theo Ngoại quái Nội quái, sự vận hành của các quái trong bảng này sẻ hình thành một vòng Thái Cực Càn Đoài Ly Chấn nghịch hành Tốn Khảm Cấn Khôn thuận hành.

Theo cách lấy quẻ trong Hoàng Cực Kinh Thế:

(Để phân biệt Phút Giây theo Hoàng Cực Kinh Thế, VinhL xin gọi Phút là Phân, và Giây là Miễu theo Hán Việt)

1 Nguyên = 12 Hội = 129600 năm

1 Hội = 30 Vận = 10800 năm

1 Vận = 12 Thế = 360 năm

1 Thế = 30 Phân = 30 năm

1 Năm = 12 Tháng = 129600 Phân

1 Tháng = 30 Ngày = 10800 Phân

1 Ngày = 12 Giờ = 360 Phân

1 Giờ = 30 Phân

1 Giờ = 12 Miễu

Theo quyển “Nguyên Lý Chọn Ngày Theo Lịch Can Chi” của Tiến Sỉ Hoàng Tuấn thì Hội Ngọ bắt đầu vào năm 2198 Trước Công Nguyên.

Năm 1916 có

2198 + 1916 = 4114

4114 / 360 = 11 dư 136 năm tức hiện đã ở Vận thứ 12 của Hội Ngọ

136 / 30 = 4 dư 16 năm tức hiện ở vào Thế 5 của Vận 12, Hội Ngọ

1916 đang ở Hội Ngọ, Vận 12, Thế 5, năm thứ 16

Theo Hoàng Cực Kinh Thế thì 64 quẻ trùng không dùng 4 quẻ tứ Chính Càn Khôn Khãm Ly, còn lại 60 quẻ chia cho 12 Hội, mỗi Hội được 5 quẻ. Hội Tý có 5 quẻ Địa Lôi Phục, Sơn Lôi Di, Thủy Lôi Truân, Phong Lôi Ích, Chấn Vi Lôi, vvv... Hội Ngọ có 5 quẻ Thiên Phong Cấu, Trạch Phong Đại Quá, Hỏa Phong Đỉnh, Lôi Phong Hằng, Tốn Vi Phong.

Mồi Hội có 5 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào, 5x6 = 30 Vận.

1916 ở vào Vận thứ 12 Hội Ngọ tức quẻ Trạch Phong Đại Quá Động Hào Lục biến thành quẻ Cấu.

1 Vận có 12 Thế, mồi quẻ có 6 hào, tứ 2 Thế biến 1 hào. Thế 5 biến hào tam của quẻ Cấu tức là quẻ Thiên Thủy Tụng. 1 Thế có 30 năm, 2 Thế tức 60 năm, quẻ Thiên Thủy Tụng có 6 hào vậy 10 năm động một hào.

Năm thư 16 động hào 2 của quẻ Thiên Thủy Tụng tức được quẻ Thiên Địa Bỉ.

Tóm Lại 1916 có

Vận 12 Hội Ngọ: Quẻ Trạch Phong Đại Quá biến Cấu

Thế 5: Cấu biến Thiên Thủy Tụng

Năm thứ 16: Tụng biến Bỉ

Thưa Bác Hạ Uyên đó là diễn quái theo sự hiểu biết của VinhL khi nghiên cứu Hoàng Cực Kinh Thế.

VinhL thì củng ít khi sử dụng kiến thức của mình để chiêm đoán thế sự, về mặt này rất là kém, phải nhờ Bác chỉ dạy thêm.

Nếu Bác muốn nghiên cứu sâu vào sự ứng dụng của Hoàng Cực Kinh Thế kết hợp với Tử Vi, thì Bác phải nghiên cứu đến Thiết Bản Thần Số rồi. Hiện nay VinhL củng đang tìm tòi sưu tầm sách về môn này đây.

Theo truyền thuyết, ông Thiệu Khang Tiết biết con gái mình sẻ không tài ba như mình nên lập ra Thiết Bản Thần Số để đường cùng thì có thể dùng nó để sinh sống. Vì vậy mà củng có thuyết là bí mật của Thiết Bản Thần Số chỉ truyền cho phái nử (Không biết truyền thuyết này có đúng không). Hiện nay trên thị trường mỗi môn phái mồi cách tính, không biết đâu là giả đâu là thật. Ngoài Thiết Bản Thần Số lại còn Hà Lạc Lý Số củng do ông Thiệu Khang Tiết kết hợp Bát Tự Hà Lạc với phương pháp của Thiết Bản Thần Số mà lấy các câu quyết đoán.

Nếu có chỗ nào sơ sót xin Bác cứ thẳng thắng mà chỉ giáo nhé.

Kính

Hà Uyên xin chào các Anh Chị trên diễn đàn

Hà Uyên chào VinhL

Sự đàm luận cùng bầu bạn tâm giao, bằng những ngôn ngữ hiểu nhau, có phần hơi kiêu kỳ, nó được coi như một hoạt động tinh thần tế nhị. Sự thanh đàm này, chỉ có được giữa bạn bè có cùng một nhận thức. Chữ "nhận thức" ở đây, Hà Uyên chỉ muốn nói về góc độ, khi chúng ta đọc sách Dịch Kinh, tìm hiểu về Dịch học và khi ứng dụng những kiến thức của Dịch học, vào cuộc sống thực tiễn vậy.

Thực học càng được, thì Tính càng mất đi.!

Chúng ta có thể, nên thống nhất với nhau, rằng: chúng ta đã trải qua giai đoạn "Đồng thanh tương ứng", mà hiện tại, chúng ta đang ở giai đoạn "Đồng khí tương cầu", có nghĩa là, chúng ta đang chạy maratong 42 km, không phải là đang chạy 100 mét.

Người nước lớn công nhận tên được ban là "Khang Tiết" tại đời vua Nguyên Hựu, hiện tại chúng ta đang thừa nhận tìm hiểu hệ thống học thuyết, nên gọi chính danh là: Thiệu Ung.

Chúng ta bắt đầu từ: QUY LUẬT THỜI GIAN

- Toàn thể loài người đang sử dụng thời gian: một ngày có 24 giờ, một giờ có 60 phút, một phút có 60 giây. Chúng ta tạm gọi là Dương lịch.

- Thiệu Ung khi xây dựng kết cấu cho hệ thống tính toán của mình, đã lấy "đơn vị ngày" làm đơn vị cơ sở cốt lõi, với phương pháp theo "tư duy số". Tại sao phải lưa chọn như vậy?

Khi chọn "năm" làm đơn vị để tính, thì sẽ vướng phải lịch "tiết khí", cứ 19 năm thì có 7 năm, phải tồn tại một "tháng nhuận", mâu thuẫn với nguyên tắc của "số 7", đó là 12 +7 = 19, sẽ là 19 x 360 = 3420, khi lấy đơn vị tính là "một Nguyên = một năm", thì 129600 là số không chia hết.

Khi chọn "tháng" làm đơn vị tính, thì sẽ mâu thuẫn với Nguyên lý Ngũ hành, về "Kỳ hạn biến hoá" (thời gian tới hạn) của vật chất làm đơn vị tính để tính, khi định cát - hung.

Thiệu Ung xây dựng hệ thống "tư duy số" cho cá nhân mình, Ông lấy đơn vị là "ngày" có 12 giờ, một Giờ có 30 vận, một Vận có 12 thế, một Thế có 30 Giây. Chúng ta tạm gọi là Ngày âm lịch, có nghĩa là:

- Một ngày có 129600 giây, tương đương với một Giờ có 10800 giây

- Một Giờ có 30 vận, thì một giờ có 180 phút, có nghĩa là: một Vận là 6 phút, và như vậy thì: một Thế có 30 giây

Như vậy mối quan hệ của một ngày Dương lịch là 86400 giây, so với ngày Âm lịch 129600 giây, sẽ tồn dư 129600 - 86400 = 43200 giây, tương đương với 72 phút, tương dương với 4 giờ âm lịch.

Đến đây, có thể Thiệu Ung đành phải dùng Lý học, mà không dùng "tư duy số". Tại sao lại như vậy? Vì một ngày, theo giờ phương Đông có 12 Giờ, chi phí cho thời gian bảo tồn năng lượng và tái hồi sức sống, thì loài người, chúng ta phải ngủ mất 4 Giờ, chỉ còn lại 8 giờ là thức. Do vậy, trong "Hoàng cực Kinh thế" ông đã viết: "bỏ một lấy hai, bỏ ba chọn bảy,..." (Hoàng cực kinh thế - tập 2). Có nghĩa là, trong tính toán, chia làm 3 phần, thì bỏ một phần lấy hai phần, tức là bỏ 4 lấy 8 để dụng.

Về công thức tính, chúng ta sẽ trao đổi từng phần. Theo Hà Uyên, với công thức tính toán của Thiệu Ung, thì loài người đang ở vào Tháng Bảy, ngày 12 âm lịch, giờ Mão.

Hà Uyên xin cảm ơn VinhL đã quan tâm.

....

VinhL, Thứ sáu, 22/05/2009 | 13:57

Chào Bác Hà Uyên,

Nghiên cứu lại các bài viết về 12 biến của Bác, và vấn đề tại sao Kinh Phòng khi quy nạp quẻ theo Ngũ Hành, không cho biến đến hào 6, thì VinhL suy luận là chổ quan trọng không phải là 2 quẻ động hào 6 mà là sự thiếu sót của phương pháp biến hào tiệm tiến. Nếu lấy 8 quẻ bát thuần theo phương pháp biến hào tiệm tiến thì sẻ không bao giờ biến ra được 8 quẻ Du Hồn và 8 quẻ Quy Hồn, cho nên khi biến đến hào năm thì phải quay lại biến hào 4 và kế đến là biến 3 hào dưới. Theo phương pháp biến hào tiệm tiến 6 biến sau củng chính là 6 biến đầu của quẻ đối hào, cho nên có sự lập lại. Vì vậy theo phương pháp biến hào tiệm tiến thì 8 quẻ Bát Thuần chỉ biến ra được 48 quẻ thiếu đi 16 quẻ Du Hồn và Quy Hồn.

Nếu tám quẻ thuần biến quẻ theo thứ tự quẻ đơn của Tiên Thiên Bát Quái thì sẻ biến ra đủ 64 quẻ, có lẻ vì vậy mà ông Thiệu Khang Tiết dùng phương pháp biến quẻ Tiên Thiên làm gốc, và kết hợp với cách biến hào tiệm tiến. 12 Hội thì dùng quẻ biến theo Tiên Thiên, Vận Thế thì biến theo tiệm tiến.

Về năm tháng ngày theo Nguyên Hội Vận Thế của 1916 thì theo Bác là Tháng 7 Ngày 12 Giờ Mão. Theo VinhL tính thì Hội Ngọ, Vận 12, Thế 5, Phân 16, tức là Tháng 7 Ngày 12, giờ Thìn, 16 Phút, như vậy có sai biệt 1 giờ, mong Bác giải thích cách tính của Bác để VinhL biết được chổ sai. Thành thật cám ơn.

Vài lời suy luận nếu có gì sai Bác cứ thẳng thắng chỉ điểm.

Kính

Vâng VinhL đã để lại cho Hà Uyên một nội hàm (cảm giác bên trong) thực sự phấn chấn. Sau hơn 2000 năm, người Việt nam, khi nói theo đơn vị hành chính, dân tôc Lạc Việt, khi nói theo tiến trình logic của Lịch sử, đã và đang tìm về côi nguồn của mình. Chúng ta đã đánh giá đúng về Kinh Phòng, khi ông dùng hào 1 quẻ Thuần Càn: "vật dụng", phối hợp với Ngũ hành nạp hào quẻ Dịch, thì 8 quẻ "Bát thuần", Kinh Phòng gọi là quẻ Bố - Mẹ, không tồn tại quẻ "Quỷ dịch": Du hồn và Quy hồn. Đây là một "chìa khoá" rất quan trọng đối với các môn học thuật Phương Đông. Cảm ơn, cảm ơn VinhL nhiều. Đến tại thời điểm này, theo những gì Hà Uyên được biết, Thiệu Vĩ Hoa hay những diễn đàn chính thức, chưa có những công bố về: công thức tính toán trên của Kinh Phòng. Do vậy, khi Bốc Dịch theo phương pháp của Kinh Phòng, gặp phải quẻ Quỷ Dịch, chất lượng thông tin thường gặp phải những vấn đề nghiêm trọng. Chúng ta sẽ bàn lại chủ đề này sau. Một hào của một quẻ Dịch bất kỳ, luôn luôn trải qua 12 giai đoạn tiệm tiến, theo Hà Uyên, đây là Nguyên lý cơ bản của Dịch học. Tại sao? Trải dài với thời gian hơn 5000 năm, không một ai thay đổi Quái danh, Quái tượng, ngôn ngữ của Hào từ. Một hào tiệm tiến trải qua 12 quá trình (12 quẻ dịch), nhưng ngôn ngữ của Hào 1, luôn luôn thông khí với toàn bộ các hào 1 của 11 quẻ còn lại. Đây là một "chìa khoá" cũng rất quan trọng, khi đưa ra lời giải cho những môn học thuật cao. Ví du: quẻ Sơn Lôi Di hài 1: - Hào 1 quẻ Sơn Lôi Di: "Hào Chín Đầu, người bỏ phần tốt đẹp như rùa thiêng của mình, mà nhìn ta tới trễ mép cầu ăn, có hung hiểm." - Hào 1 quẻ Sơn Trạch Tổn: "Hào Chín Đầu, hoàn thành sự nuôi dưỡng, liền mau chóng đi lên giúp người ở ngôi cao, tất không có cữu hại, nên trông trước giảm bớt tính cương cứng của bản thân" -....... Như vậy, quẻ Di có hình tượng tượng trưng là: "nuôi dưỡng", thì hào 1 quẻ Tổn tiếp lời: "hoàn thành sự nuôi dưỡng,...". Khi chúng ta thống kê toàn bộ 64 quẻ, hay 4608 sự chuyển hoá, ta sẽ thấy rất nhiều điều thú vị, đặc biệt là phương pháp tư duy "tượng số" đối với những môn học thuật cao (Tam minh). Tại một thời điểm thuộc quá khứ, khi Anh Hoàng Tuấn làm Trưởng đoàn, vào miền Nam nghiên cứu môn bấm huyệt của bà Huỳnh thị Lịch tại quận Phú Nhuận, phương pháp bấm có tên gọi: "Thập Thủ Đạo", thì Hà Uyên có trao đổi với anh Hoàng Tuấn: Hội Ngọ được tính bắt đầu từ năm 2198 Tr.CN là căn cứ vào đâu?, anh Hoàng Tuấn có trả lời rằng: lấy theo quyển: Địa Lý Ngũ quyết và quyển Địa lý mật truyền cáo tập. Về việc này, chúng ta sẽ trao đổi sau. Cảm ơn VinhL đã quan tâm.

...

VinhL, Thứ sáu, 22/05/2009 | 23:46  hỏi:

Chào Bác Hà Uyên,

Thấy Bác phấn chấn, VinhL củng phấn chấn theo. VinhL rất vui mừng có người để chia sẻ và bàn luận những khám phá trong khi nghiên cứu Dịch.

Thấy Bác nói đến học thuật cao (Tam Minh), có phải là Tam Thức theo như các sách Hán đề cập không?

Như Thái Ất, Kỳ Môn và Lục Nhâm. Thú thật VinhL củng có nghiên cứu sơ qua 3 môn này. Nếu Bác thích thú bàn thảo về 3 môn này thì VinhL củng rất vui mừng hồi ứng.

Trong các bài viết của Bác về sự thông khí, không thấy đề cập về Lục Khí (Ngũ Vận Lục Khí).

Theo sự suy luận của VinhL, nguồn gốc của các hào thế ứng trong kinh Dịch củng chính là dựa vào Lục Khí.

Tại sao hào sơ lại ứng tam, hào nhị ứng ngũ, vv..... mà không phải là sơ ứng lục hay ứng các hào khác.

Khi nạp chi cho các hào, quẻ Càn nạp Tý Dần Thìn, Ngọ Thân Tuất, Tý đối Ngo, Dần đối Thân, Thìn đối Tuất.

Theo Khách Khí của thuyết Ngũ Vận Lục Khí, các năm Tý Ngọ thì khí Dương Minh tại tuyền ứng với khí Thiếu Âm tại thiên. Năm Dần Thân, thì khí Quyết Âm tại tuyền ứng với Thiếu Dương tại Thiên., vv....

Lục Khí, Tam Âm ứng với Tam Dương, Sơ với Tam ứng nhau, Nhị với Tứ ứng nhau, và Tam với Lục ứng nhau.

Trong các sách về Dịch và Lý Số, không hiểu tại sao không có sách nào bàn đến Ngũ Vận Lục Khí, trong khi đó nó là lý thuyết vô cùng quan trọng trong môn Y học Đông Phương. Có phải bí mật của sự tương quan của Ngũ Vận Lục Khí trong Dịch và các môn lý số đã bị thất truyền??? Chỉ có môn Thái Ất là có đề cập và sự ứng dụng tới thuyết này.

Có gì thiếu sót, sai lầm mong Bác chỉ điểm.

Kính

Chào VinhL Trên diễn đàn này, chúng ta đã dùng Đạo "hối minh", thì "minh" ấy càng được sáng tỏ. VinhL và Hà Uyên khởi đầu giao lưu từ ngày 10/5/2009, bắt đầu từ Mai Hoa Dịch số, đến ngày 22/5/2009, thì VinhL đã Thấy được Bốc Dịch, do học thuyết của Kinh Phòng xây dựng nên, mà ngày hôm nay người Phương Đông đang ứng dụng nó một cách phổ biến, những căn nguyên mà VinhL đã tìm hiểu ra, sự không đồng bộ trong hệ thống tính toán của Kinh Phòng, sự thiếu chặt chẽ trong học thuyết mang tính ngiêm trọng, nó ảnh hưởng tới tính chính xác và độ tin cậy của thông tin rất nhiều. Cho phép Hà Uyên nghĩ thế này: kể từ ngày 10/5/09, cộng thêm với 196 ngày nữa, VinhL sẽ ở vào một tư thế mới. Dương khí có xu hướng đang tiệm tiến chuyển dịch vào bên trong con người của VinhL "nén chặt". Khi Dương khí co rút vào càng nhiều, càng lớn, càng mạnh, thì sự giãn nở ra càng lớn. Giới hạn giữa sự hiểu biết và không hiểu biết, là chu vi phát triển ngày càng lan rộng. Hà Uyên tin như vậy. Cũng như Hà Uyên đã trao đổi với Liêm Trinh, người thứ 5 giao lưu với Hà Uyên là anh Thiên Sứ. Vì rằng, VinhL đã quyết định đúng, khi nói Thiệu Ung dùng phương pháp biến quẻ Tiên thiên làm gốc. Có điều này, Hà Uyên cũng nghiêm túc muốn trao đổi với VinhL. Khi tiến tới một giới hạn cho phép, thì chúng ta phải đối mặt với sự hiểm nguy. Người nước lớn không bao giờ muốn dân tộc chúng ta có người tài giỏi cả đâu. Đặc biệt là những môn học thuật này. Lịch sử đã cho chúng ta biết như vậy. Đến tận ngày hôm nay, sự hiểm nguy còn lan rộng hơn. Vấn đề này hết sức nhậy cảm và tế nhị.! Thiệu Ung khi xây dựng hệ thống kết cấu cho học thuyết của mình, không thể để "thời gian" trôi tuột đi được. Do vậy, Hà Uyên đã trao đổi với VinhL giữa học thuyết tính toán của Thiệu Ung, so sánh với thời gian thực, đã ẩn giấu một "chìa khoá". Từ xưa đến nay, dù chúng ta có dùng "100 khắc", hay gọi là "miễu", thì thời gian vẫn không thay đổi. Một ngày gồm 86400 giây là đơn vị tính cơ sở, khi thêm đơn vị tính cơ sở của Thiệu Ung là 4320 (43200), thì chúng ta hiểu: tai sao Thiệu Ung dùng 129600 làm đơn vị để tính. Từ ngày 10/3/2008 khai trương diễn đàn Lyhocdongphuong, cho tới ngày hôm nay 23/5/2009, số ngày đã trải qua là 439 ngày. Chúng ta đang ở Hạ nguyên, vậy thì từ Giáp Tý sau đông chí Thượng nguyên, đến ngày hôm nay là bao nhiêu ngày? Thiệu Ung có nghĩ như vậy Không? Tại sao chúng ta lại lệ thuộc vào sự quy định khởi đầu của Hội Ngọ, vào những năm TR.CN như vậy?

....

"Trong các bài viết của Bác về sự thông khí, không thấy đề cập về Lục Khí (Ngũ Vận Lục Khí).

Theo sự suy luận của VinhL, nguồn gốc của các hào thế ứng trong kinh Dịch củng chính là dựa vào Lục Khí.

Tại sao hào sơ lại ứng tam, hào nhị ứng ngũ, vv..... mà không phải là sơ ứng lục hay ứng các hào khác."

Đất chựu Trời thì chấp thuận 5 vận (chế)

Trời chựu Đất thì chấp thuận 6 khí (tiết)

Đối ngoại thì có 4 phương, cùng với Trung tâm mà sinh ra "khí" - "động"

Đối nội thì có bởi 8 cực. Khi tĩnh thì hướng tâm, xu hướng phát triển theo "vỹ". Khi động thì ly tâm, xu hướng phát triển theo "kinh".

Cửu cung: khi số Trung tâm là số "chẵn", thì số ở 4 góc là số "lẻ". Số nhập Trung cung là số "lẻ", thì số của 4 góc là số "chẵn". Sao Thuỷ chuyển 4 độ thì trái đất chuyển 1 độ.

Năm 1999: Chính của Dương minh thuộc về kỷ của Mão - Dậu: Dương minh - Thiếu giác - Thiếu âm thanh nhiệt, thắng phục đồng, giống, chính, thương. Đinh Mão tuế hội - Đinh Dậu vận ấy là thanh nhiệt. Thiếu giác sơ chinh, thiếu cung, thái dương, thiếu vũ cuối.Chính của Dương minh chỉ năm Dương minh táo kim Tư thiên.

Kỷ Mão - 1999: vận Thổ bất cập, Khí Tư thiên là Dương minh táo kim, khí tại tuyền là Thiếu âm quân hoả. Tố vấn di biên - Thiên luật pháp: Kỷ Mão: sao Lâu, hành Kim ở phương Tây, trộm cướp Thái quá, giao thông bế tắc. Sao Kim - Hoả có ảnh hưởng nhiều tới trái đất.

Ngày 3/10/1999, Làng văn hoá các dân tộc Viết nam động thổ tại Đồng Mô - Sơn tây. Bản tính Dự báo Thời tiết năm 1999 đã được gửi từ đầu năm, ghi rõ: ngày 3/10/1999 là ngày Giông tố. Chủ khí Dương minh táo kim, gió Tây và Tây Bắc hanh khô (21/9 - 21/11). Khách khí Quyết âm phong mộc, xuân lệnh nghịch lại lưu hành. Khí gió thiên thắng. Khí hậu lạnh không lạnh được. Thực tiễn ngày 3/10/1999 đã xẩy ra giông tố.

Đây là một đóng góp mang tính thực tiễn mà Hà Uyên đã làm. Chỉ tiếc rằng, tại thời điểm đó lãnh đạo vẫn chọn ngày 3/10 làm ngày động thổ với số vốn đầu tư 70 triệu us.

...

VinhL,.. hỏi:

Chào Bác Hà Uyên,

Khi nghiên cứu Hoàng Cực Kinh Thế, thì có hai số mà được lập đi lập lại đó chính là số 12 và 30. Toàn bộ Nguyên Hội Vận Thế Niên Nguyệt Nhật Thì Phân Miễu (Giờ Phút Giây) điều dùng 12 và 30 xen kẻ lẫn nhau.

Nguyên = 12 Hội

1 Hội = 30 Vận

1 Vận = 12 Thế

1 Thế = 30 Niên

1 Niên = 12 Nguyệt

1 Nguyệt = 30 Nhật

1 Nhật = 12 Giờ

1 Giờ = 30 Phút

1 Phút = 12 Giây.

Phút và Giây đây không phải là đơn vị Phút và Giây chúng ta đang dùng hiện tại mà là đơn vị thời gian do ông Thiệu Ung phân chia theo phương pháp 12, và 30 xen kẻ.

Trong Hoàng Cực Kinh Thế có đề cặp đến Niên (Tuế) Nguyên, Nguyệt Hội, Nhật (Tinh) Vận, Thìn (Thời) Thế. Từ đó ta thấy Nguyên Hội Vận Thế Niên, Niên Nguyệt Nhật Thời Phân, tương quan với nhau vì tính ra thì đều là 12x30x12x30 = 129600. Khi coi Nhật là Nguyên, thì Bác phải chia Giờ ra thành Vận, Thế rồi đến Giây tức là Nhật, Thời, Vận, Thế, Giây, thì đơn vị Phút đã không còn tuân theo luật 12, 30 của Hoàng Cực Kinh Thế nữa.

Theo VinhL nghĩ, đễ khỏi vướng phải “tháng nhuận”, cho nên ông Thiệu Ung đã dùng Nguyệt theo Tiết Khí, tức một tháng là 2 tiết khí, tháng Tý bắt đầu ở tiết Đông Chí. Một năm lúc nào củng có 24 tiết khí, vì tiết khí căn cứ vào vòng hoàng đạo 360 độ (Sun Longtitude), mồi tiết khí là 15 độ. Luật nhuận được dùng khi tính tháng theo chu kỳ mặt trăng. Mùng 1 âm lịch thì lúc nào củng phải đúng vào ngày trăng mới (New Moon), nên có năm lại có tới 13 lần trăng mới nên phải đặt nhuận.

Cũng vì vậy khi ông Thiệu Ung đề cặp đến Tuế (Niên), 1 Niên = 12 Nguyệt x 30 Nhật = 360 Ngày, ở đây có thể hiểu là 360 độ của vòng hoàng đạo. 1 độ là 1 ngày. Như vậy muốn chính xác 100% thì chúng ta phải dùng đến công thức của Thiên Văn Học để tính ra các đơn vị Nguyệt, Nhật, Thời, vv...

VinhL có đọc qua phần Thiên Môn Địa Hộ của Bác, theo như vậy, trong Kỳ Môn Quý Nhân Đăng Thiên Môn tức là khi sao Bắc Đẩu (Khôi hay Âm Quý tức Tứ Mộ Khu Toàn Cơ Quyền, củng là Tham Cự Lộc Văn, Việt hay Dương Qúy tức Tam Quang Tiêu Dao Du củng là Liêm Vũ Phá ) ở vào khu vực Khuê Bích.

Nhân đây nhắc đến Kỳ Môn, không biết Bác có ý kiến gì về sự khác biệt giữa các môn Bát Trạch, Huyền Không Phi Tinh, Phép Tôn trong Thái Ất, và Kỳ Môn Độn Giáp. Ngoại trừ Bát Trạch, thì 3 môn kia đều bày bố Bắc Đẩu Thất Tinh theo phương pháp khác nhau.

Huyền Không thì cho sao phi vào cung trung, Kỳ Môn thì theo tiết khí và Lục Nghi mà bày bố, Thái Ất Phép Tôn không chú trọng đến tiết khí. Trong 3 môn thì chỉ có Kỳ Môn Độn Giáp là coi trọng việc Siêu Thần Tiếp Khí để lập Cục. Theo như sách của ông Thẩm Trúc Nhưng, thì nhờ mượn đọc được tác phẩm “Âm Dương Nhị Trạch Lục Nghiệm” của Trương Trọng Sơn thêm vào nhiều năm nghiên cứu mà biết được phương pháp sao nhập trung cung. So sánh giữa 2 phương pháp bày bố cửu tinh, thì VinhL thấy sao nhập trung cung thiếu sự hợp lý với các hiện tượng thiên văn. Phương pháp của Kỳ Môn thì có vẽ hợp lý hơn. Có khi nào ông Thẩm Trúc Nhưng thấy sao vào cung giữa mà cứ nghỉ đó là phương pháp, mà thật ra cửu tinh phải bày bố theo Kỳ Môn Độn Giáp lấy Cục của tiết khí mà khởi Lục Giáp theo đường lường thiên xích (Tiên Thiên Bát Quái Nạp Số Thái Huyền) mà an bày 9 sao. Không biết nếu dùng cách an sao của Kỳ Môn áp dụng vào Huyền Không có thích hợp hơn không?. Theo VinhL biết trong quyển La Kinh Thấu Giải có nói đến phương pháp ứng dụng Kỳ Môn và trùng quái để tìm 24 ngôi châu bảo thấu địa long.

Vài lời lạm bàn nếu có sai sót mong Bác chỉ điểm.

Kính

Hà Uyên chào VinhL Tại thời gian của Thiệu Ung, lịch Đại diễn vẫn đang được sử dụng. Năm 721 (CN) Tăng Nhất Hành phung chiếu, sáng tác Lịch mới được gọi là lịch Đại diễn. Thực chất sáng tác của lịch Đại diễn này, là bê y nguyên thuyết Quái khí của Mạnh Hỷ vào lịch pháp của Tăng Nhất Hành. Hà Uyên nghĩ Thiệu Ung vẫn phải sử dụng hệ thống lịch Đại diễn này. Ví dụ: Tháng Dần - hội thứ ba, hào 6 - 3 trở về trước quẻ Phong, cùng với quẻ Ký tế, Gia nhân chủ khí Vũ thuỷ. Hào 9 -4 quẻ Phong trở về sau, cùng với quẻ Cách, và quẻ Đồng nhân chủ khi Kinh trập. Do vậy, số 129600 sẽ không chia hết cho 2520. VinhL tham khảo thêm

..

THUYẾT QUÁI KHÍ CỦA TĂNG NHẤT HÀNH VỚI LỊCH ĐẠI DIỄN

Năm Khai Nguyên thứ 9 triều Đường (721 CN), Tăng Nhất Hành phụng chiếu, sáng tác Lịch mới. Nhất hành dựa vào thuật suy diễn các con số để diễn giải Lịch mới. Năm Khai Nguyên thứ 17 (729CN), Lịch mới đã được ban hành, được gọi là Lịch Đại diễn. Song, số liệu Thiên văn và phương pháp giải thích của Nhất Hành còn thiếu độ chính xác. Tại thời điểm đó, đã được kiểm tra lại, thì Lịch Đại diễn đạt độ chính xác 70% - 80%.

Ảnh hưởng từ Dịch - Hệ từ, ông nói: “Trời bắt đầu từ 1, Đất bắt đầu từ 2. Hợp hai số đầu này lại thì thành “cương – nhu”. Số cuối của Trời là 9, số cuối của Đất là 10, hợp hai số cuối lại để ghi số dư. Số giữa của Trời là 5, số giữa của đất là 6, hợp hai số giữa này để thông luật Lịch”. Hệ từ: “Trời số 5, Đất số 5, năm vị trí đều thành, và các vị trí có sự hoà hợp khác nhau, nên mới có biến hoá của Quỷ thần”. Từ đây, ông đã suy ra phép thông 3040 trong Lịch pháp đại diễn.

3040 là nhật pháp, phương pháp tính ngày, tương tương trong Lịch chia 4 cổ, và 81 trong Lịch Thái sơ. Song, trong lịch Đại diễn, tất cả ngày, tháng, và chu kỳ vận động của 5 hành tinh lớn, đều được biểu thì bằng phân số, có mẫu số chung là 3040. Ví như 3040 = 19 x 160, trong đó 19 là biểu thị 19 năm tăng thêm 7 tháng nhuận, được gọi là “Chương pháp”, các nhà làm Lịch gọi là “thông pháp” (nghĩa như chương pháp cũ).

Theo Tăng Nhất Hành, 19 của chương pháp cũ, là sự phối hợp hai số cuối (9&10) của Trời - Đất để tính. Ông cho rằng: “Phu số tượng vi vu tam, tứ, nhi chương vu thất, bát”. Nghĩa là nói: 3 và 4 là “vi”, còn 7 và 8 là “chương”.

Ông lại nói: “Tự ngũ dĩ giáng, vi ngũ hành sinh số, tự lục dĩ vãng, vi ngũ tài thành sinh số”. Sinh số là 1, 2, 3, 4, 5, thành số là 6, 7, 8, 9, 10. Tổng của sinh số là 15, tổng của thành số là 40. Khi 15 x 40 = 40 x 15 = 600. Tổng thành số nhân với tổng sinh số gọi là “tích thiên trung”, đều có tích là 600.

Tích của Thiên trung và Địa trung, nghìn có 200 (tức là 1200). Gấp 4 thành hệ số hào là 300. Đem 10 vi nhân với 2 chương, thì có tích là 3000. Đem 5 tài nhân với 8 tượng, thì được 2 vi, hoặc được tích là 40. Tích của chương nhân vi, là mẫu số của khí số. đây chính là nguồn gốc của 3040.

Nhất Hành còn sáng tạo thuận Hô - Hấp kết hợp với lịch Đại diễn, đây chính là tìm cách tiếp cận quái khí, đem 64 quẻ đối chiếu với 72 hậu, đồng thời đưa Ngũ hành vào cuộc.

Dịch vốn là “Khí”, về sau mới rõ Dịch còn nói về con người và sự vật. Chứng tỏ thuyết Quái khí của Nhất Hành là bê y nguyên thuyết Quái khí của Mạnh Hỷ.

Đầu tiên là lịch Chính Quang thời Bắc Nguỵ. Phương pháp của nó là, trước tiên suy ra 4 quẻ chính, tức là cầu ngày Đông chí là ngày quẻ Khảm vào cuộc, ngày Xuân phân là ngày quẻ Chấn tham gia, ngày Hạ chí là ngày quẻ Ly hành sự, ngày Thu phân là ngày quẻ Đoài hành sự. Sau đó, thông qua ngày Đông chí, hoặc ngày quẻ Khảm vào cuộc, để cầu quẻ Trung phu. Từ đây, tiếp tục cầu các quẻ khác.

Suy diễn 72 hậu, ví như ngày Đông chí bắt đầu nhập vào Hậu, mỗi một tiết khí tương ứng với 3 đốt hậu. Song, trng thuật hô hấp và lịch Đại diễn áp dụng, trước tiên lập một số liệu cơ bản, tức là: chuỗi 5 của thiên trung (thiên số 1, 3, 5, 7, 9), chuỗi 6 của địa trung (địa số 2, 4, 6, 8, 10), chuỗi của 3 chinh hối, (quẻ xấu). Cầu 72 hậu: “các nhân trung, tiết mệnh chi, đắc sơ hậu”. Ý nói là, căn cứ vào Trung khí và Tiết khí định được tên gọi của 3 hậu. Trước tiên từ Trung khí được: Sơ hậu, thêm chuỗi (5 ngày) của thiên trung được Thứ hậu, tiếp tục thêm, thì được Mạt hậu. “Nhân trung khí mệnh chi, đắc công quái dụng sự”, tức là quẻ Công quái bắt nguồn từ Trung khí. Luỹ tiến (tăng dần theo cấp số cộng) của địa trung, thì được quẻ tiếp theo.. Giả sử đem chuỗi 3 của “trinh hối”, cộng với quẻ Hầu, thì được đầu của 12 tiết, là quái thể ngoài vào cuộc (tức là thể trên của quẻ hầu)

...

Hà Uyên chào VinhL.

Tất cả các môn học thuật mà chúng ta đã và đang quan tâm, đều phải thông qua đơn vị "thời gian", đó là Lịch pháp. Đặt vào bối cảnh Lịch sử của các môn học thuật này khi ra đời, được truyền bá và ảnh hưởng rông rãi trong dân gian, thì vấn đề Lịch pháp, theo Hà Uyên, chiếm 50% giá trị thông tin, còn mức độ tính toán học thuật là phần còn lại cộng với kinh nghiệm bản thân của mỗi người.

Trước triều Hán, lịch pháp được dùng là “Cổ tứ phân lịch” (lịch chia bốn). Đến đời Hán, gọi là “Tứ phân lịch”. Cơ sở của lịch đời Hán là căn cứ vào sự giãn cách thời gian của mặt Trời hai lần liên tục, thông qua thời điểm Đông chí. Mãi sau này mới chọn thời điểm giãn cách hai lần liên tục của mặt Trời thông qua điểm Lập Xuân. Tức là trái Đất quay xung quanh mặt Trời một vòng, lấy điểm Lập Xuân làm mốc khởi, để tính lịch.

Như vậy, từ ngày Đông chí tới trước quẻ Khôn đợi lệnh, khi tới ngày Đông chí, một dương được sinh ra thành quẻ Phục đối ứng với tháng 11 Thiên chính Tý, tháng 12 Địa chính Sửu là quẻ Lâm, tháng Giêng Nhân chính Dần là quẻ Thái. Đối với Lịch pháp hiện nay chúng ta đang sử dụng, thì lại lấy điểm Lập xuân để khởi Lịch pháp. Hà Uyên cũng tự hình thành cho mình một loại Lịch pháp quái khí riêng, để trong quá trình tính toán áp dụng, thấy tính thực tiễn thông tin khác rất nhiều so với khi chúng ta sử dụng Lịch hiện hành.

Có thể Hà Uyên đánh giá chưa hết, nhưng rõ ràng, Kinh Phòng và Thiệu Ung đều phải sử dụng lịch Thái sơ làm kết cấu khung khi xây dựng học thuyết cho mình.

Hà Uyên chỉ muốn đặt chúng ta vào bối cảnh cách đây hàng ngàn năm, thì sự định hướng trong tư duy sẽ có những thay đổi nhất định. Vấn đề ở chỗ là đi tìm mức độ chính xác của thông tin, khi chúng ta sử dụng các môn học thuật liên thông với quy luật thời gian Lịch pháp. Công thức tính toán thì căn cứ vào Lịch pháp Quái khí, khi xác lập thông tin ngày hôm nay thì lại căn cứ theo Lịch pháp hiện hành.

VinhL tham khảo thêm.

...

VinhL đã viết

"Thưa Bác Hạ Uyên đó là diễn quái theo sự hiểu biết của VinhL khi nghiên cứu Hoàng Cực Kinh Thế."

Hà Uyên kiến thức sư phạm không có, từ trước cho tới nay, bằng sự yêu thích mang tính cá nhân của mình, vậy thôi. Sự yêu thích khởi đầu của Hà Uyên bắt đầu như sau:

---------------------------------------------------------------

G. Tý - Â.Sửu - B.Dần - Đ.Mão - M.Thìn

1 -------2 ----3 ----- 4 ------ 5 ------ ==> Sinh

---------------------------------------------------------------

KTị - C.Ngọ - T.Mùi - N.Thân - Q.Dậu

6 ---- 7 ----- 8 ---- 9 ----- 10 ------ ==> Thành

---------------------------------------------------------------

G.Tuất - A.Hợi - B.Tý - Đ.Sửu - M.Dần

11 ------ 12 ---- 13 --- 14 ---- 15 ------ ==> Sinh

----------------------------------------------------------------

K.Mão - C.Thìn - T.Tị - N.Ngọ - Q.Mùi

16 ----- 17 ----- 18 ----- 19 ----- 20 ==> Thành

----------------------------------------------------------------

G.Thân - A.Dậu - B.Tuất - Đ.Hợi - M.Tý

21 ----- 22 ------ 23 ------ 24 ----- 25 ----- ==> Sinh

----------------------------------------------------------------

K.Sửu - C.Dần - T.Mao - N.Thìn - Q.Tị

26 ----- 27 ----- 28 ---- 29 ----- 30 ------- ==> Thành

------------------------------------------------------------------

G.Ngọ - A.Mùi - B.Thân - Đ.Dậu - M.Tuất

31 ------ 32 ------ 33 ----- 34 ------ 35 -------- ==> Sinh

------------------------------------------------------------------

K.Hợi - C.Tý - T.Sửu - N.Dần - Q.Mão

36 ----- 37 ----- 38 ----- 39 ----- 40 -------- ==> Thành

-------------------------------------------------------------------

G.Thìn - A.Tị - B.Ngọ - Đ.Mùi - M.Thân

41 ---- 42 ---- 43 ----44 ----- 45 ------ ==> Sinh

--------------------------------------------------------------------

K.Dậu - C.Tuất - T.Hợi - N.Tý - Q.Sửu

46 ----- 47 ----48 ----- 49 ----- 50 ------- ==> Thành

--------------------------------------------------------------------

G.Dần - A.Mão - B.Thìn - Đ.Tị - M.Ngọ

51 ---- 52 ----- 53 ---- 54 ----- 55 ------ ==> Sinh

--------------------------------------------------------------------

K.Mùi - C.Thân - T.Dậu - N.Tuất - Q.Hợi

56 ------ 57 ---- 58 ----- 59 ---- 60 ----- = => Thành

Giáp - Kỷ phối ứng cặp số đồng đẳng 1 - 6, Ất - Canh phối ứng với cặp số đồng đẳng 2 - 7, Bính - Tân phối ứng với 3 - 8. Đinh - Nhâm phối ứng với 4 - 9, Mậu Quý phối ứng với 5 - 10

Khi ta coi 60 là một đơn vị tính, thì 60 - 3 = 57 là hệ số can chi Canh Thân, là mốc thời gian để tính trước CN và sau CN. Nhất âm nhất dương = 60 + 60 = 120 - 3 = 117. Trước Công nguyên thì trứ đi 117, sau Công nguyên thì cộng thêm với 117, thì thời gian tính sẽ chia hết cho 360 (117 hay 110 là số tính tương thông với Thái ất)

(8 x 60) - 3 = 477 - 177 = 360 ==> 129600/360 = 360

(14 x 60) - 3 = 837 - 117 = 720 ==> 129600/720 = 180

(20 x 60) - 3 = 1197 - 117 = 1080 ==> 129600/1080 = 120

(26 x 60) - 3 = 1557 - 117 = 1440 ==> 129600/1440 = 90

(32 x 60) - 3 = 1917 - 117 = 1800 ==> 129600/1800 = 72

(38 x 60) - 3 = 2277 - 117 = 2160 ==> 129600/2160 = 60

(44 x 60) - 3 = 2637 - 117 = 2520 ==> 129600/2520 = 51 dư 1080.

+ Bính Tân 3 - 8 hợp: Liên Bang Xô viết "tụ" năm 1916 can "Bính-, năm 1991 can Tân -thì "tán," đến năm Bính Dần 1984 lại xẩy ra sự cố nhà máy điện nguyên tử,....

VinhL tham khảo thêm

...

VinhL,.., hỏi:

Chào Bác Hà Uyên,

Thành thật cám ơn Bác đã cung cấp nhiều thông tin về Lịch Pháp cổ. Sách về Lịch Pháp cổ thì VinhL không có nên về vấn đề này thì mù tịt. Với kiến thức uyên bác về Lịch Pháp, không biết Bác có ý kiền gì về phương pháp Siêu Thần Tiếp Khí của Kỳ Môn trong việc tính nhuận?

Thưa Bác hai con số 57 và 117 này đúng là có liên quan đến con số 10153917 của Thái Ất.

10153917 / 60 dư 57, 10153917 / 360 dư 117. Con số 10153917 này có thể dùng để tính ra Can Chi của tứ trụ năm tháng ngày giờ bằng dương lịch không cần phải dùng đến âm lịch.

Sẳn đây Bác đề cập đến cái Hợp của Thiên Can, VinhL có một nghi vấn mong Bác có thể giải thíc cho.

Thiên Can có 10, chia 2 thì được 5 cặp, 1 với 6, 2 với 7, 3 với 8, 4 với 9, 5 với 10. Mỗi cặp đều có ngũ hành tương khắc nhưng không gọi là Xung, mà tại sao lại gọi là Hợp?

Địa Chi có 12, chia 2 thì được 6 cặp, 1 với 7, 2 với 8, 3 với 9, 4 với 10, 5 với 11, 6 với 12 tức Tý Ngọ, Sửu Mùi, vv... ngũ hành của mỗi cặp củng đều là tuơng khắc nhưng lại không được gọi là Hợp, mà tại sao lại gọi là Xung?

Thành Thật Cám Ơn Bác.

Kính

Hà Uyên chào VinhL VinhL có thể tham khảo sách: DI SẢN HAN NÔM VIỆT NAM - Thư mục đề yếu - Bổ di 1 - 2 - 3 - Quyển thượng, hạ. Tìm phần "Cổ chỉ". Chuyên đề về Mai hoa chúng ta có thể tạm dừng ở đây được không VinhL? Cảm ơn VinhL đã dành thời gian và quan tâm. Hà Uyên.

Mai Hoa Dịch Số

Minh An, on Oct 17 2009, 10:12 PM, said:

Cháu nghĩ nó là 1 mẹo hỗ trợ trong việc xác định thời gian ứng nghiệm.Cháu còn thiếu kinh nghiệm nên mong các bậc tiền bối kiểm nghiệm.

Không biến dịch thì không sinh ra cái mới, vậy thì tại sao lại tính 2 lần 1 quẻ không động?

Chào Minh An.

Một quẻ Dịch luôn có 7 hào. Hào thứ Bảy luôn ẩn, mà không được nhắc tới, được gọi là Thần tàng, hay là Quy viêm, hay được gọi là Quy tàng. Tại sao lại được cấu tạo như vậy?

Từ hào Một cho tới hào Sáu, luôn có một hào động, được gọi là hào Chủ, đồng thời với hào Bảy, là hào Quy tàng, cũng luôn luôn động. Như vậy, một quẻ Dịch sẽ có 2 động 5 tĩnh. Kinh Dịch gọi mối quan hệ này là "Hàm tam vi nhất" (5 - 2 = 3 Một Tĩnh ba Động, một chân Tĩnh, chân còn lại và hai tay Động => đạp một đội chín, đạp một đội ba,...,). Đây là nguyên lý: một tĩnh thì có ba động, hai Tĩnh thì có sáu Động, ba Tĩnh thì có chín Động,..., => bỏ một dùng ba (360 thì chỉ dùng 270) => bỏ hai dùng sáu (bố mẹ thân lùi mà sáu con tiến, hai lùi sáu tiến) => bỏ ba dùng chín (12 địa chi thì dùng 9, chỉ dùng từ Trường Sinh tới Mộ, bỏ không dùng Tuyệt, Thai, Dưỡng)

Trong 5 hào tĩnh này, dùng để phản ánh mối quan hệ với 2 hào động. Trong hai hào động này, thì một hào là Quy tàng (Thần tàng), còn một Hào động là hào làm Chủ. Hai Động một Tĩnh, Âm một Dương hai, một tối hai sáng, là để tìm hiểu về xu hướng phát triển của vạn vật trong thế giới Tự nhiên của Người xưa.

Cùng nhau học dịch

Chào Anh Chị Em

Chủ đề: "Cùng nhau học Dịch", được gợi mở khi anh Dichnhan đặt vấn đề: "Người đời học Dịch". Cũng mong Anh Chị em nhìn từ nhiều góc độ với sách Kinh Dịch, chúng ta cùng bình giải và bình luận khi học Dịch.

- Anh Dichnhan viết:

Hiện tại tôi đang soạn 2 tập tài liệu Kinh Dịch Tự Điển và Giải Mã Hào Từ nên mất rất nhiều thời gian suy nghĩ cho chúng. Nhưng may sao nhờ có chương V của Tâm Pháp nên đã bớt đi được phần nào khó khăn, giống như có chiếc la bàn chỉ hướng vậy.

Tôi vừa mới giải lại hào 1 quẻ Quải, mời Bác cùng nghiệm xét:

Sơ Cửu: “Nhanh chóng một cách xằng bậy thì sớm dừng lại, đi chẳng hơn được, gây nên lỗi.”

- Hà Uyên viết:

Quá trình nhận thức cá nhân, thường tôi phân: giải Dịch theo trường phái - hoặc giải Dịch theo "thuyết". Có nghĩa rằng, giải Dịch theo "thuyết", thường tự xây dựng một học thuyết riêng, mang tính độc lập. Đối với giải Dịch theo trường phái, thường lấy căn cứ theo Âm Dương chọn nghĩa, tam tài chọn tượng.

Hướng tư duy cá nhân tôi, đang thăm dò hướng tới kết cấu khung, trong tổng thể 384 hào, để khảo chứng tìm về nguyên nghĩa của ý nghĩa hào từ, trên nguyên tắc: phải mang tính liên tục, tính hệ thống lôgíc của hào từ, sau đó mới xét tới không gian Quái danh, sau tiếp mới xét tới thời điểm Quái vị.

Cụ thể:

1. Kinh viết: "Quải, Sơ Cửu, tráng vu tiền chỉ, vãng bất thắng vi cữu"

- Dịch: Hào Chín Đầu, mạnh ở ngón chân trước, mạo hiểm tiến lên phía trước tất không thể thủ thắng, ngược lại sẽ dẫn tới cưu hại.

2. Anh Dichnhan giải Dịch: “Nhanh chóng một cách xằng bậy thì sớm dừng lại, đi chẳng hơn được, gây nên lỗi.”

Tôi bình giải theo kết cấu khung:

1. Tính liên tục hào từ: tìm nguyên nhân: trước hào Sơ quẻ Quải, là hào Sơ quẻ Hàm

- Hàm, Sơ Lục, hàm kỳ mẫu.

- Dịch: Hào Sáu Đầu, giao cảm ở ngón chân cái.

2. Tính hệ thống: tìm xu hướng từ quẻ "đối" và quẻ "đảo", sau đó mới giải thích được tại sao lại " tráng vu tiền chỉ".

Mong anh chị em cùng tham gia bình giải khi học Dịch

Hà Uyên.

...

Khi giải Dịch theo trường phái tam tài Thiên - Địa - Nhân, trong chu kỳ 1864 - 2043, thì đối với "tài" của Thiên, chúng ta đang ngồi Hào 6 quẻ Sơn Thiên Đại súc, lời hào 6 quẻ Đại súc viết:

Hà thiên chi cù, hanh.

Tượng quẻ Sơn Thiên Đại súc

Posted Image

Hỏi rằng:

- Trước hào 6 quẻ Sơn Thiên Đại súc, là hào thứ mấy và thuộc quẻ nào đây?

- Sau hào 6 quẻ Sơn Thiên Đại súc, là hào thứ mấy và thuộc quẻ nào?

Dịch im lặng, không trả lời.

- Phải chăng, "sau" hào 6 quẻ Đại súc, là hào 1 quẻ Địa Phong Thăng. Rồi tiếp đến hào 2 quẻ Địa Sơn Khiêm.

Posted Image Posted Image Posted Image

- Phải chăng, "trước" hào 6 quẻ Sơn Thiên Đại súc, là hào 5 quẻ Thủy Thiên Nhu. Lại trước hào 5 quẻ Nhu, là hào 4 quẻ Lôi Thiên Đại tráng.

Posted Image Posted Image Posted Image

Dịch vẫn im lặng.

Vấn đề này, khi chú giải về "Kinh", thật là mông lung về tính liên tục của Hào từ. Vì đã gọi là "Kinh", thì phải là một hệ thống lôgíc chặt chẽ và hoàn chỉnh.

Có thể đây vẫn là một khoảng trống, mà Dịch Kinh chưa đề cập tới. Hay, cũng có thể đã hình thành một hệ thống phương pháp luận về: tính liên tục của hào từ, mà ta chưa biết tới. Hoặc cũng là sự tồn nghi của cá nhân tôi, con người lại đòi hỏi về "tri thiên" thật mơ hồ.

Vậy thì câu: "sổ vãng giả thuận, tri lai giả nghịch" chúng ta nên hiểu như thế nào đây.

...

VinhL, on May 27 2010, 12:08 PM, said:

Kính Bác Hà Uyên,

Thấy bác hỏi về tính liên tục của các hào, và quái, trong đầu lại nghỉ đến âm thanh.

Các lần sóng trong âm thanh và trị số của Hào là giống nhau, sau bác không tìm câu trả lời trong âm thanh. Âm thanh vút cao rồi chìm xuống, ngân nga chuyển qua các sóng, thật tự nhiên, dịch tự nhiên củng thế.

Một ý kiến thoáng qua trong đầu, nếu không hợp lý mong bác bỏ qua nhé.

Kính

Thân mến, chào VinhL

Cảm ơn VinhL đặt vấn đề, đưa ra một hướng kiến giải, tôi sẽ dành thời gian tìm hiểu sâu thêm về góc độ: "Các tần sóng âm thanh và trị số hào giống nhau".

Tôi đặt vấn đề về tính thống nhất và tuần tự liên tục của hào từ. Nguyên nhân nào đã quyết định "chí" hướng chỉ đạo "phương" hướng, mà buộc Người và vạn vật tất phải "vãng - lai", trong nguyên nghĩa của Hào từ (?). Điều gì lấy làm căn cứ, để dựa vào của Hào từ (?).

VinhL có thể gợi mở, đặt vấn đề từ nhiều góc độ, để cùng anh chị em tham gia kiến giải từng bước, tôi cũng hiểu rằng, cái trừu tượng thường gợi mở cho chúng ta một phương hướng nào đó, rồi dần hướng tới quy luật chung của sự vật.

Hà Uyên.

..

dichnhan07, on May 31 2010, 05:40 PM, said:

Tôi nghĩ những câu hỏi của Bác không quan trọng bằng việc là câu trả lời sẽ giúp giải quyết vấn đề gì? Có thể cách nghiên cứu đặt vấn đề của tôi không giống mọi người, có gì bác bỏ qua cho.

Chào anh Dichnhan

Cảm ơn anh có ý kiến về cách diễn ngữ của bài viết, tôi sẽ rút kinh nghiệm.

Tôi cũng đang nghĩ về bộ khung dàn bài, nên bắt đầu học Dịch từ đâu: nói về "Kinh" thì là những quy luật thường hằng bất biến, không thay đổi. Còn đối với "Dịch": thì sự ảnh hưởng của yếu tố Lịch sử, từ quá trình hình thành sách Dịch, các học phái chú giải, kết hợp với Học thuyết Tam Huyền của Hình nhi thượng, hoặc Học thuyết Tam giáo,...v.v...

- Ví như, chú giải về quẻ Càn, thì sách: Liệt Tử Dịch chú (NXB Thượng Hải cổ tịch - 1986), có viết:

"Thiên hữu thời, Địa hữu lợi", làm căn cứ cho điều kiện tự nhiên khách quan đối với: "Nhân hữu hòa".

Nhưng sách Dịch Vỹ chú về Dịch viết: "Bẩm sinh thụ số, ký hữu chế chi giả hĩ, diệc hữu tri chi giả hỹ, tri mệnh kỳ như nhữ hà" (Bẩm sinh thụ số, thì đã chế định rồi, cũng đã biết, biết mệnh để làm gì).

- Lại như, trong sách Chu Dịch, khi chúng ta đọc và nghiên cứu, cũng thấy sự ảnh hưởng của Nho giáo độc tôn, mà "Dịch truyện" đã định rõ rằng:

"Hình nhi thượng giả, đạo dã".

Vậy mà, đối với tôn chỉ của Đạo giáo, khẳng định đề xuất, tại "Hệ từ" viết:

"Nhất âm nhất dương chi vị đạo".

Như vậy, giữa "Dịch truyện" và "Hệ từ", ta thấy rất rõ sự ảnh hưởng bản chất "Học thuyết", của hai trường phái vào sách Dịch đã rất sâu rộng, mang theo ẩn nghĩa đặc trưng của từng Học thuyết, từng trường phái.

Mong được anh Dịchnhan luôn quan tâm, gợi mở, định hướng khi chúng ta cùng nhau học Dịch.

Hà Uyên.

...

Thi Quy là cơ sở để Dịch Kinh dựa vào mà hình thành nên sự "chu lưu". Chúng ta khảo sát về con số 49 trong sách Dịch, khi ta đã biết được 1 = 13, tiếp theo là tìm hiểu tại sao lại biết được:

1 = 49

Có nghĩa rằng: Giáp Tý = Nhâm Tý

Sự khởi nguồn nguyên nhân hình thành về TUẦN KHÔNG - Số "trùng lưu", hay là số "trùng hư".

...

Tìm hiểu mối quan hệ giữa Hệ thống 60 Can Chi với Dịch Kinh. Đây là phần kiến thức ít thấy sách vở bàn tới. Trọng tâm tìm hiểu là trường phái Tam huyền đời nhà Hán.

Nhà Đại Dịch học Trịnh Huyền đã công bố về "HÀO THẦN ĐỒ", chúng ta bắt đầu khảo chứng từ bảng LỤC THẬP TỨ QUÁI DANH sau:

乾宫八卦属金

Càn cung bát quái thuộc kim 乾为天

Càn Vi Thiên 天风姤

Thiên Phong Cấu 天山遁

Thiên Sơn Độn 天地否

Thiên Địa Bỉ 风地观

Phong Địa Quán 山地剥

Sơn Địa Bác 火地晋

Hỏa Địa Tấn 火天大有

Hỏa Thiên Dại Hữu

坎宫八卦属水

Khảm cung bát quái thuộc thủy 坎为水

Khảm Vi Thủy 水泽节

Thủy Trạch Tiết 水雷屯

Thủy Lôi Truân 水火既济

Thủy Hỏa Ký Tế 泽火革

Trạch Hỏa Cách 雷火丰

Lôi Hỏa Phong 地火明夷

Địa Hỏa Minh Di 地水师

Địa Thủy Sư

艮宫八卦属土

Cấn cung bát quái thuộc thổ 艮为山

Cấn Vi Sơn 山火贲

Sơn Hỏa Bí 山天大畜

Sơn Thiên Đại Súc 山泽损

Sơn Trạch Tổn 火泽睽 Hỏa Trạch Khuê 天 泽履

Thiên Trạch Lý 风泽中孚

Phong Trạch Trung Phu 风山渐

Phong Sơn Tiệm

震 宫八卦属木

Chấn cung bát quái thuộc mộc 震为雷

Chấn Vi Lôi 雷地豫

Lôi Địa Dự 雷 水解

Lôi Thủy Giải 雷风恒

Lôi Phong Hằng 地风升

Địa Phong Thăng 水风井

Thủy Phong Tỉnh 泽风大过

Trạch Phong Đại Quá 泽雷随

Trạch Lôi Tùy

巽宫八卦属木

Tốn cung bát quái thuộc mộc 巽为风

Tốn Vi Phong 风天小畜

Phong Thiên Tiểu Súc 风火家人

Phong Hỏa Gia Nhân 风雷益

Phong Lôi Ích 天雷无妄

Thiên Lôi Vô Vọng 火雷噬嗑

Hỏa Lôi Phệ Hạp 山雷颐

Sơn Lôi Di 山 风蛊

Sơn Phong Cổ

离宫八卦属火

Ly cung bát quái thuộc hỏa 离为火

Ly Vi Hỏa 火 山旅

Hỏa Sơn Lữ 火风鼎

Hỏa Phong Đỉnh 火水未济

Hỏa Thủy vị Tế 山水蒙

Sơn Thủy Mông 风水涣

Phong Thủy Hoán 天水讼

Thiên Thủy Tụng 天火同人

Thiên Hỏa Đồng Nhân

坤宫八卦属土

Khôn cung bát quái thuộc thổ 坤为地

Khôn Vi Địa 地雷复

Địa Lôi Phục 地泽临

Địa Trạch Lâm 地天泰

Địa Thiên Thái 雷天大壮

Lôi Thiên Đại Tráng 泽天夬

Trạch Thiên Quải 水天需

Thủy Thiên Nhu 水地比

Thủy Địa Tỉ

兑宫八卦属金

Đoái cung bát quái thuộc kim 兑为泽

Đoài Vi Trạch 泽水困

Trạch Thủy Khốn 泽地萃

Trạch Địa Tụy 泽山咸

Trạch Sơn Hàm 水山蹇

Thủy Sơn Kiển 地山谦

Địa Sơn Khiêm 雷山小过

Lôi Sơn Tiểu Quá 雷泽归妹

Lôi Trạch Quy Muội

Từ bảng LỤC THẬP TỨ QUÁI DANH, chúng ta lần lượt xắp xếp Can Chi theo hệ thống, khởi đầu từ Giáp Tý, để xác định HÀO THẦN phối hợp với 60 Can Chi:

1. Giáp Tý – hào 1

2. Ất Sửu – hào 4

3. Bính Dần – hào 6

4. Đinh Mão – hào 2

5. Mậu Thìn – hào 2

6. Kỷ Tị - hào 6

7. Canh Ngọ - hào 4

8. Tân Mùi – hào 4

9. Nhâm Thân – hào 5

10. Quý Dậu – hào 6

11. Giáp Tuất – hào 6

12. Ất Hợi – hào 5

13. Bính Tý – hào 5

14. Đinh Sửu – hào 3

15. Mậu Dần – hào 1

16. Kỷ Mão – hào 1

17. Canh Thìn – hào 3

18. Tân Tị - hào 5

19. Nhâm Ngọ - hào 4

20. Quý Mùi – hào 1

21. Giáp Thân – hào 5

22. Ất Dậu – hào 6

23. Bính Tuất – hào 4

24. Đinh Hợi – hào 4

25. Mậu Tý – hào 6

26. Kỷ Sửu – hào 2

27. Canh Dần – hào 2

28. Tân Mão – hào 6

29. Nhâm Thìn – hào 3

30. Quý Tị - hào 2

31. Giáp Ngọ - hào 4

32. Ất Mùi – hào 1

33. Bính Thân – hào 3

34. Đinh Dậu – hào 5

35. Mậu Tuất – hào 5

36. Kỷ Hợi – hào 3

37. Canh Tý – hào 1

38. Tân Sửu – hào 1

39. Nhâm Dần – hào 2

40. Quý Mão – hào 3

41. Giáp Thìn – hào 3

42. Ất Tị - hào 2

43. Bính Ngọ - hào

44. Đinh Mùi – hào 6

45. Mậu Thân – hào 4

46. Kỷ Dậu – hào 4

47. Canh Tuất – hào 6

48. Tân Hợi – hào 2

49. Nhâm Tý – hào 1

50. Quý Sửu – hào 4

51. Giáp Dần – hào 2

52. Ất Mão – hào 3

53. Bính Thìn – hào 1

54. Đinh Tị - hào 1

55. Mậu Ngọ - hào 3

56. Kỷ Mùi – hào 5

57. Canh Thân – hào 5

58. Tân Dậu – hào 3

59. Nhâm Tuất – hào 6

60. Quý Hợi – hào 5

Hoa Giáp Phối Hào

1. Can Giáp: Càn - Cấu - Độn – Bĩ – Quan – Bác - Tấn - Đại hữu

- Giáp Tý hào 1

- Giáp Tuất hào 6

- Giáp Thân hào 5

- Giáp Ngọ hào 4

- Giáp Thìn hào 3

- Giáp Dần hào 2

2. Can Ất: Khôn - Phục – Lâm – Thái - Đại tráng - Quải – Nhu - Tỷ

- Ất Sửu hào 4

- Ất Hợi hào 5

- Ất Dậu hào 6

- Ất Mùi hào 1

- Ất Tị hào 2

- Ất Mão hào 3

3. Can Bính: Cấn – Bí - Đại súc - Tổn – Khuê – Lý – Trung phu - Tiệm

- Bính Dần hào 6

- Bính Tý hào 5

- Bính Tuất hào 4

- Bính Thân hào 3

- Bính Ngọ hào 2

- Bính thìn hào 1

4. Can Đinh: Đoài - Khốn - Tụy – Hàm - Kiển – Khiêm - Tiểu quá – Q.Muội

- Đinh Mão hào 2

- Đinh Sửu hào 3

- Đinh Hợi hào 4

- Đinh Dậu hào 5

- Đinh Mùi hào 6

- Đinh Tị hào 1

5. Can Mậu: Khảm - Tiết – Truân – Ký tế - Cách – Phong – M.di

- Mậu Thìn hào 2

- Mậu Dần hào 1

- Mậu Tý hào 6

- Mậu Tuất hào 5

- Mậu Thân hào 4

- Mậu Ngọ hào 3

6. Can Kỷ: Ly - Lữ - Đỉnh - Vị tế - Mông – Hoán - Tụng - Đồng nhân.

- Kỷ Tị hào 6

- Kỷ Mão hào 1

- Kỷ Sửu hào 2

- Kỷ Hợi hào 3

- Kỷ Dậu hào 4

- Kỷ Mùi hào 5

7. Can Canh: Chấn - Dự - Giải - Hằng – Thăng - Tỉnh - Đại quá – Tùy

- Canh Ngọ hào 4

- Canh Thìn hào 3

- Canh Dần hào 2

- Canh Tý hào 1

- Canh Tuất hào 6

- Canh Thân hào 5

8. Can Tân: Tốn - Tiểu súc – Gia nhân – Ích – Vô vọng - Phệ hạp - Di - Cổ

- Tân Mùi hào 4

- Tân Tị hào 5

- Tân Mão hào 6

- Tân Sửu hào 1

- Tân Hợi hào 2

- Tân Dậu hào 3

9. Can Nhâm: Càn - Cấu - Độn – Bĩ – Quan – Bác - Tấn - Đại hữu

- Nhâm Thân hào 5

- Nhâm Ngọ hào 4

- Nhâm Thìn hào 3

- Nhâm Dần hào 2

- Nhâm Tý hào 1

- Nhâm Tuất hào 6

10. Can Quý: Khôn - Phục – Lâm – Thái - Đại tráng - Quải – Nhu - Tỷ.

- Quý Dậu hào 6

- Quý Mùi hào 1

- Quý Tị hào 2

- Quý Mão hào 3

- Quý Sửu hào 4

- Quý Hợi hào 5

VÒNG 8

....................ĐỒNG NHÂN

...........CỔ.........................TỶ

...TUỲ...............+...............QUY MUỘI

..........TIỆM.....................ĐẠI HỮU

......................MINH DI

VÒNG 8

1. Giáp Tý - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 1 (1 ~ 49)

- “Sơ Cửu, vô giao hại, phỉ cữu ; gian tắc vô cữu”.

- “Chín Đầu, chưa đi lại giao du thì chưa mắc họa, tự nhiên thì không có cữu hại, nhưng tất phải nhớ là cần cẩn thận như lúc gặp gian nan, như vậy thì mới không gặp cữu hại”.

- Tượng “Đại hữu Sơ Cửu, vô giao hại dã” – Chín Đầu nếu không giao du đi lại với ai, thì cũng không mắc phải họa hại. Thân tuy ở cuộc “đại hữu”, nếu giữ cho sự ăn ở của mình được yên ổn, không lạm “giao” với vật, thì có thể vô hại.

2. Ất Sửu - Thủy Địa Tỷ, hào 4 (2 ~ 50)

- “Lục Tứ, ngoại tỷ chi, trinh cát”.

- “Sáu Bốn, ở ngoài thân mật với đáng quân chủ, giữ vững chính bền thì được tốt lành”.

3. Bính Dần – Phong Sơn Tiệm, hào 6

- “Thượng Cửu, hồng tiệm vu lục, kỳ vũ khả dụng vi nghi, cát”.

- “Chín Trên, chim đại nhạn bay từ từ lên núi cao, lông vũ của nó có thể làm đồ trang sức đẹp tinh khiết, tốt lành”.

4. Đinh Mão – Lôi Trạch Quy muội, hào 2

- “Cửu Nhị, diểu năng thị, lợi u nhân chi trinh”.

- “Chín Hai, chột mà cố gắng nhìn được, lợi về giữ vững chính bền của bậc u tĩnh điềm đạm”.

5. Mậu Thìn - Địa Thủy Sư, hào 2

- “Cửu Nhị, tại sư, trung cát, vô cựu ; vương tam tính mệnh”.

- “Chín Hai, thống xuất quân đội, giữ đúng mức không thiên lệch sẽ được tốt lành, tất không bị cữu hại, nhà vua nhiều (ba) lần ban thưởng, giao cho trọng trách”.

6. Kỷ Tị - Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 6

- “Thượng Cửu, đồng nhân vu giao, vô hối”.

- “Chín Trên, hòa đồng với mọi người ở nơi giao ngoại xa xôi, chưa có được kẻ chí đồng cũng không hối hận”.

7. Canh Ngọ - Trạch Lôi Tùy, hào 4

- “Cửu Tứ, tùy hữu hoạch, trinh hung ; hữu phu tại đạo, dĩ minh, hà cữu!”.

- “Chín Bốn, được người theo, thu hoạch được nhiều, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm ; chỉ cần giữ lòng thành tín, hợp chính đạo, sáng suốt trong sự lập thân, như vậy thì làm sao có cữu hại được”.

8. Tân Mùi – Sơn Phong Cổ, hào 4

- “Lục Tứ, dụ phụ chi cổ, vãng kiến lận”.

- Sáu Bốn, dùng dằng không trị sự tệ loạn của cha, nếu cứ như vậy mãi thì tất sẽ hối tiếc”.

9. Nhâm Thân - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 5 (9 ~ 21)

- “Lục Ngũ, quyết phu giao như, uy như, cát”.

- “Sáu Năm, lấy đức thành tín để giao tiếp với người trên kẻ dưới, biết tỏ rõ uy nghiêm, tốt lành”.

10. Quý Dậu - Thủy Địa Tỷ, hào 6 (10 ~ 22)

- “Thượng Lục, tỷ chi vô thủ, hung”.

- “Sáu Trên, thân mật gần gũi với người mà lại không tiên phong dẫn đầu, có hung hiểm”.

11. Giáp Tuất - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 6 (11 ~ 59)

- “Thượng Cửu, tự nhiên hựu chi, cát vô bất lợi”.

- “Chín Trên, sự giúp đỡ từ trên trời rơi xuống, tốt lành, không có gì là không lợi”.

12. Ất Hợi - Thủy địa Tỷ, hào 5 (12 ~ 60)

- “Cửu Ngũ, hiển tỷ ; vương dụng tam khu, thất tiền cầm, ấp nhân bất giới, cát”.

- “Chín Năm, thân mật gần gũi một cách vô tư ; khi đấng quân vương đi săn thì bổ vậy ba mặt, lưới chỉ giăng một mặt, mặc cho các cầm thú ở phía trước đi thoát, các kẻ thuộc hạ là người trong ấp cũng chẳng phòng vệ hộ, tốt lành”.

13. Bính Tý – Phong Sơn Tiệm, hào 5

- “Cửu Ngũ, hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dựng ; chung mạc chi thắng, cát”.

- “Chín Năm, chim đại nhạn bay từ từ lên gò cao, (giống như chồng đi xa), vợ ba năm không có mang ; (nhưng vợ chồng tất sẽ được xum họp) kẻ khác cuối cùng không thể xâm phạm ngăn trở mà thủ thắng, tốt lành”.

14. Đinh Sửu – Lôi Trạch Quy muội, hào 3

- “Lục Tam, quy muội dĩ tu, phản quy dĩ đệ”.

- “Sáu Ba, người con gái sau khi lấy chồng mỏi cổ mong được thành vợ cả, nên quay về đợi thời, làm vợ lẽ”.

15. Mậu Dần - Địa Thủy Sư, hào 1

- “Sơ Lục, sư xuất dĩ luật, phủ tang hung”.

- “Sáu Đầu, quân đội khi xuất quân thì phải dùng quân luật, hiệu lệnh để ước thúc, quân kỷ không khéo tất có hung hiểm”.

16. Kỷ Mão – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 1

- “Sơ Cửu, đồng nhân vu môn, vô cữu”.

- “Chín Đầu, vừa ra khỏi cửa mà đã có thể hòa đồng ngay với người, tất vô cữu hại”.

17. Canh Thìn - Trạch Lôi Tùy, hào 3

- “Lục Tam, hệ trượng phu, thất tiểu tử ; tùy hữu cầu đắc, lợi cư trinh”.

- “Sáu Ba, quấn quýt với đấng trượng phu dương cứng, mất kẻ tiểu tử ở dưới, theo với người mà ta đã cầu tất được, lợi nếu như ở yên, giữ vững chính bền”.

18. Tân Tị - Sơn Phong Cổ, hào 5

- “Lục Ngũ, cán phụ chi cổ, dụng dự”.

- “Sáu Năm, vì uốn nắn sự tệ loạn của cha mà được tiếng khen”.

19. Nhâm Ngọ - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 4 (19 ~ 31)

- “Cửu Tứ, phỉ kỳ bàng, vô cữu”.

- “Chín Bốn, đừng để tỏ ra sự quá giầu có thì không cữu hại”.

20. Quý Mùi - Thủy Địa Tỷ, hào 1 (20 ~ 32)

- “Sơ Lục, hữu phu tỷ chi, vô cữu ; hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha, cát”.

- “Sáu Đầu, trong lòng thành tín, thân mật gần gũi với bậc quân chủ thì không gặp cữu hại ; sự thành tín của bậc quân chủ như riệu ngon đựng đầy hũ, cuối cùng khiến cho kẻ ở xa đều đến quy phục mà hưởng sự vỗ về ở tận các miền khác, tốt lành”.

21. Giáp Thân - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 5 (21 ~ 9)

- “Lục Ngũ, quyết phu giao như, uy như, cát”.

- “Sáu Năm, lấy đức thành tín để giao tiếp với người trên kẻ dưới, biết tỏ rõ uy nghiêm, tốt lành”.

22. Ất Dậu - Thủy Địa Tỷ, hào 6 (22 ~ 10)

- “Thượng Lục, tỷ chi vô thủ, hung”.

- “Sáu Trên, thân mật gần gũi với người mà lại không tiên phong dẫn đầu, có hung hiểm”.

23. Bính Tuất – Phong Sơn Tiệm, hào 4

- “Lục Tứ, hồng tiệm vu mộc, hoặc đắc kỳ dốc, vô cữu”.

- “Sáu Bốn, chim đại nhạn bay từ từ lên cây cao, may mà tìm được cành bằng đậu thoải mái, không bị cữu hại”.

24. Đinh Hợi – Lôi Trạch Quy muội, hào 4

- “Cửu Tứ, quy muội khiên kỳ, trì quy hữu thời”

- “Chín Bốn, người con gái đi lấy chồng bị lỡ thì con gái, dềnh dàng chưa lấy chồng, yên đợi thời cơ”.

25. Mậu Tý - Địa Thủy Sư, hào 6

- “Thượng Lục, đại quân hữu mệnh, khai quốc thừa gia, tiểu nhân vật dụng”.

- “Sáu Trên, thiên tử ban phát mệnh lệnh, phong thưởng cho các công thần, là chư hầu, là đại phu ; còn kẻ tiểu nhân thì không thể trọng dụng”.

26. Kỷ Sửu – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 2

- “Lục Nhị, đồng nhân vu tông, lận”.

- “Sáu Hai, hòa đồng với mọi người trong họ, có sự đáng tiếc”.

27. Canh Dần - Trạch Lôi Tùy, hào 2

- “Lục Nhị, hệ tiểu tử, thất trượng phu”.

- “Sáu Hai, quấn quýt theo kẻ tiểu tử, mất đấng trượng phu dương cứng”.

28. Tân Mão – Sơn Phong Cổ, hào 6

- “Thượng Cửu, bất sự vương hầu, cao thượng kỳ sự”

- “Chín Trên, không làm sự nghiệp của bậc vương hầu, đề cao hành vi ung dung tự tại của mình”.

29. Nhâm Thìn - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 3 (29 ~ 41)

- “Cửu Tam, công dụng hưởng vu thiên tử, tiểu nhân phất khắc”.

- “Chín Ba, bậc vương công dâng lễ cho thiên tử để tỏ lòng tôn kính, kẻ tiểu nhân không thể đảm đương được việc lớn như vậy”.

30. Quý Tị - Thủy Địa Tỷ, hào 2 (30 ~ 42)

- “Lục Nhị, tỷ chi tự nội, trinh cát”

- “Sáu Hai, từ bên trong thân mật gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền sẽ được tốt lành”.

31. Giáp Ngọ - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 4 (31 ~ 19)

- “Cửu Tứ, phỉ kỳ bàng, vô cữu”.

- “Chín Bốn, đừng để tỏ ra sự quá giầu có thì không cữu hại”.

32. Ất Mùi - Thủy Địa Tỷ, hào 1 (32 ~ 20)

- “Sơ Lục, hữu phu tỷ chi, vô cữu ; hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha, cát”.

- “Sáu Đầu, trong lòng thành tín, thân mật gần gũi với bậc quân chủ thì không gặp cữu hại ; sự thành tín của bậc quân chủ như riệu ngon đựng đầy hũ, cuối cùng khiến cho kẻ ở xa đều đến quy phục mà hưởng sự vỗ về ở tận các miền khác, tốt lành”.

33. Bính Thân – Phong Sơn Tiệm, hào 3

- “Cửu Tam, hồng tiệm vu lục, phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung ; lợi ngư khấu”.

- “Chín Ba, chin đại nhạn bay từ từ đến ngọn núi nhỏ, giống như người chồng đi xa, một đi không trở về, người vợ không giữ được trinh chính, có mang để con không nuôi, có hung hiểm ; (nếu có thể giữ chính, dụng cương, thì) lợi về sự chống trả giặc mạnh.

34. Đinh Dậu – Lôi Trạch Quy muội, hào 5

- “Lục Ngũ, Đế Ất quy muội, kỳ quân chi duệ, bất như kỳ đệ chi duệ lương ; nguyệt cơ vọng, cát”.

- “Sáu Năm, Đế Ất cho em gái về nhà chồng, y phục của người vợ chính không đẹp bằng y phục của cô vợ lẽ ; (đức hạnh rất cao, ví như) trăng đến ngày sắp tròn mà chưa đầy, tốt lành.

35. Mậu Tuất - Địa Thủy Sư, hào 5

- “Lục Ngũ, điền hữu cầm, lợi chấp ngôn, vô cữu ; trưởng tử suất sư, đệ tử dư thi, trinh hung”.

- “Sáu Năm, trong ruộng có cầm thú, lợi về sự vậy bắt, tất không có gì cữu hại ; ủy nghiệm cho bậc trưởng giả cương chính, thì có thể thống suất quân đội, còn ủy nhiệm cho bọn người trẻ tuổi không có đức thì tất phải trở xác, đại bại mà về, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm”.

36. Kỷ Hợi – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 3

- “Cửu Tam, phục nhung vu mãng, thăng kỳ cao lăng, tam tuế bất hưng”

- “Chín Ba, phục binh giữa nơi rừng rậm, thỉnh thoảng lên gò cao trông ngóng, qua ba năm cũng không dám dấy binh giao chiến”.

37. Canh Tý - Trạch Lôi Tùy, hào 1

- “Sơ Cửu, quan hữu du, trinh cát ; xuất môn giao hữu công”.

- “Chín Đầu, có quan niệm tư tưởng giữ vững chính bền, thì sẽ được tốt lành ; ra cửa kết bạn với người, tất sẽ thành công”.

38. Tân Sửu – Sơn Phong Cổ, hào 1

- “Sơ Lục, cán phụ chi cổ, hữu tử khảo, vô cữu, lệ chung cát”.

- “Sáu Đầu, uốn nắn sự tệ loạn của cha, người con có thể nối được nghiệp tổ tiên, tất không có cữu hại, tuy có thể nguy hiểm nhưng cuối cùng tất được tốt lành”.

39. Nhâm Dần - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 2 (39 ~ 51)

- “Cửu Nhị, đại xa dĩ tái, hữu du vãng, vô cữu”.

- “Chín Hai, dùng xe lớn chở của cải, đi chỗ nào cũng được, tất không cữu hại”.

40. Quý Mão - Thủy Địa Tỷ, hào 3 (40 ~ 52)

- “Lục Tam, tỷ chi phỉ nhân”.

- “Sáu Ba, thân mật gần gũi với người có hành vi không đứng đắn”.

41. Giáp Thìn - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 3 (41 ~ 29)

- “Cửu Tam, công dụng hưởng vu thiên tử, tiểu nhân phất khắc”.

- “Chín Ba, bậc vương công dâng lễ cho thiên tử để tỏ lòng tôn kính, kẻ tiểu nhân không thể đảm đương được việc lớn như vậy”.

42. Ất Tị - Thủy Địa Tỷ, hào 2 (42 ~ 30)

- “Lục Nhị, tỷ chi tự nội, trinh cát”

- “Sáu Hai, từ bên trong thân mật gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền sẽ được tốt lành”.

43. Bính Ngọ - Phong Sơn Tiệm, hào 2

- “Lục Nhị, hồng tiệm vu bàn, ẩm thực hãn hãn, cát”.

- “Sáu Hai, chim đại nhạn bay từ từ đến bên phiến đá lớn, ăn uống thảnh thơi vui vẻ, tốt lành”.

44. Đinh Mùi – Lôi Trạch Quy muội, hào 6

- “Thượng Lục, nữ thừa khuông, vô thực ; sỹ khuê dương, vô huyết, vô du lợi”.

- “Sáu Trên, người con gái tay xách giỏ tre, không có gì ở trong ; người con trai cầm dao giết dê, không thấy máu: (vợ chồng làm lễ không thành), không có gì lợi”.

45. Mậu Thân - Địa Thủy Sư, hào 4

- “Lục Tứ, sư tả thứ, vô cữu”.

- “Sáu Bốn, quân lui về, tạm giữ thế thủ thì tránh được cữu hại”.

46. Kỷ Dậu – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 4

- “Cửu Tứ, thừa kỳ dung, phất khắc công, cát”.

- “Chín Bốn, cưỡi lên tường thành rồi lại lui không dám tiến công, tốt lành”.

47. Canh Tuất - Trạch Lôi Tùy, hào 6

- “Thượng Lục, câu hệ chi, nãi tùng, duy chi ; vương dụng hưởng vu tây sơn”.

- “Sáu Trên, bắt giam, cưỡng bức phải theo, theo mà ràng chặt lấy ; đấng quân vương xuất quân thảo nghịch đặt tế lễ ở non tây”.

48. Tân Hợi - Sơn Phong Cổ, hào 2

- “Cửu Nhị, cán mẫu chi cổ, bất khả trinh”.

- “Chín Hai, uốn nắn sự tệ loạn của mẹ, khi tình thế khó tiến hành thì không thể gượng làm được, mà phải giữ vững chính bền để đợi thời”.

49. Nhâm Tý - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 1 (49 ~ 1)

- “Sơ Cửu, vô giao hại, phỉ cữu ; gian tắc vô cữu”.

- “Chín Đầu, chưa đi lại giao du thì chưa mắc họa, tự nhiên thì không có cữu hại, nhưng tất phải nhớ là cần cẩn thận như lúc gặp gian nan, như vậy thì mới không gặp cữu hại”.

50. Quý Sửu - Thủy Địa Tỷ, hào 4 (50 ~ 2)

- “Lục Tứ, ngoại tỷ chi, trinh cát”.

- “Sáu Bốn, ở ngoài thân mật gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền thì được sự tốt lành”.

51. Giáp Dần – Hỏa Thiên Đại hữu, hào 2 (51 ~ 39)

- “Cửu Nhị, đại xa dĩ tái, hữu du vãng, vô cữu”.

- “Chín Hai, dùng xe lớn chở của cải, đi chỗ nào cũng được, tất không cữu hại”.

52. Ất Mão - Thủy Địa Tỷ, hào 3 (52 ~ 40)

- “Lục Tam, tỷ chi phỉ nhân”.

- “Sáu Ba, thân mật gần gũi với người có hành vi không đứng đắn”.

53. Bính Thìn – Phong Sơn Tiệm, hào 1

- “Sơ Lục, hồng tiệm vu can ; tiểu tử lệ, hữu ngôn, vô cữu”.

- “Sáu Đầu, chim nhạn bay dần đến bên bờ nước (không được an toàn) ; giống như trẻ nhỏ gặp lúc nguy hiểm, bị trách mắng, nhưng nếu có thể tiến dần không vội thì tránh được cữu hại”.

54. Đinh Tị - Lôi Trạch Quy muội, hào 1

- “Sơ Cửu, quy muội dĩ đệ, phả năng lý, chinh cát”.

- “Chín Đầu, người con gái về nhà chồng làm vợ lẽ, chân thọt mà cố gắng đi được, tiến lên thì được tốt lành”.

55. Mậu Ngọ - Địa Thủy Sư, hào 3

- “Lục Tam, sư hoặc dư thi, hung”

- “Sáu Ba, quân chốc chốc phải chở xác về, có hung hiểm”.

56. Kỷ Mùi – Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 5

- “Cửu Ngũ, đồng nhân, tiên hào đào, nhi hậu tiếu, đại sư khắc tương ngộ”.

- “Chín Năm, hòa đồng với người, trước thì khóc lóc kêu rên, sau thì vui mừng cười reo, đánh lớn rồi báo tiệp, chí đồng rồi tương ngộ hội hợp”.

57. Canh Thân - Trạch Lôi Tùy, hào 5

- “Cửu Ngũ, phu vu gia, cát”.

- “Chín Năm, tỏ rõ lòng thành tín với kẻ thiện, tốt lành”.

58. Tân Dậu – Sơn Phong Cổ, hào 3

- “Cửu Tam, cán phụ chi cổ, tiểu hữu hối, vô đại cữu”.

- “Chín Ba, uốn nắn điều tệ loạn của cha, hơi có hối hận, nhưng không có cữu hại lớn”.

59. Nhâm Tuất - Hỏa Thiên Đại hữu, hào 6 (59 ~ 11)

- “Thượng Cửu, tự nhiên hựu chi, cát vô bất lợi”.

- “Chín Trên, sự giúp đỡ từ trên trời rơi xuống, tốt lành, không có gì là không lợi”.

60. Quý Hợi - Thủy Địa Tỷ, hào 5 (60 ~ 12)

- “Cửu Ngũ, hiển tỷ ; vương dụng tam khu, thất tiền cầm, ấp nhân bất giới, cát”.

- “Chín Năm, thân mật gần gũi một cách vô tư ; khi đấng quân vương đi săn thì bổ vậy ba mặt, lưới chỉ giăng một mặt, mặc cho các cầm thú ở phía trước đi thoát, các kẻ thuộc hạ là người trong ấp cũng chẳng phòng vệ hộ, tốt lành”.

Vòng 8, với sự khởi đầu là ngày Giáp Tý, cho chúng ta nhận thức được một hàm nghĩa rất rõ ràng: "nếu không giao du đi lại với ai, thì cũng không mắc phải họa hại".

Đạo lý hay thật!!!

...

VÒNG 7

..........................Nam

..........................TỤNG

...........DI............................NHU

...ĐẠI QUÁ...............+...............TIỂU QUÁ

........TRUNG PHU.....................TẤN

...........................MINH DI

.............................Bắc

VÒNG 6

...........................HOÁN

........PHỆ HẠP.........................QUẢI

...TỈNH.....................+.................KHIÊM

..........LÝ...................................BÁC

...........................PHONG

VÒNG 5

.............................MÔNG

......VÔ VỌNG.......................ĐẠI TRÁNG

...THĂNG.....................+...................KIỂN

........KHUÊ...................................QUAN

...........................CÁCH

VÒNG 4

...........................VỊ TẾ

........ÍCH.............................THÁI

...HẰNG.....................+...............HÀM

..........TỔN...................................BĨ

...........................KÝ TẾ

VÒNG 3

...........................ĐỈNH

........GIA NHÂN.........................LÂM

...GIẢI.....................+.................TỤY

........ĐẠI SÚC......................ĐỘN

..........................TRUÂN

VÒNG 2

...........................LỮ

........TIỂU SÚC.........................PHỤC

...DỰ.....................+....................KHỐN

..........BÍ..................................CẤU

...........................TIẾT

VÒNG 1

...........................LY

........TỐN.............................KHÔN

...CHẤN.....................+..............ĐOÀI

.........CẤN.............................CÀN

...........................KHẢM

Khảo sát ngày Giáp Tý phối hợp với Hào từ quẻ Dịch, thông qua 8 vòng

Giáp Tý

1. Ngày Giáp Tý vòng 1: Càn hào 1

- “Sơ Cửu, tiềm long vật dụng”.

- “Hào Chín Đầu, rồng lớn ẩn mình dưới nước, tạm thời chưa thi thố được tài năng”.

2. Ngày Giáp Tý vòng 2: Cấu hào 1

- “Sơ Lục, hệ vu kim nê, trinh cát ; hữu du vãng, kiến hung, luy thỉ phu trịch trục.”

- “Sáu Đầu, chặn ngay nó lại bằng cái “phanh” nhạy, cứng chắc, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; nếu vội đi lên thì tất nhiên sẽ có hung hiểm, giống như lợn cái nhảy nhót lung tung không thể ở yên.”

3. Ngày Giáp Tý vòng 3: Độn hào 1

- “Sơ lục, độn vỹ ; lệ, vật dụng hữu du vãng”

- “Hào Sáu Đầu, trốn tránh không kịp mà lại rơi vào phần đuôi, có nguy hiểm, không nên có sự đi”.

4. Ngày Giáp Tý vòng 4: Bĩ hào 1

- “Sơ Lục, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; trinh cát, hanh”.

- “Sáu Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra ; giữ vững chính bền thì được tốt lành, hanh thông”.

5. Ngày Giáp Tý vòng 5: Quán hào 1

- “Sơ Lục, đồng quán, tiểu nhân vô cữu, quân tử lận.”

- “Sáu Đầu, như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, tiểu nhân không nguy hại gì, quân tử tất có hối tiếc.”

6. Ngày Giáp Tý vòng 6: Bác hào 1

- “Sơ Lục, bác sàng dĩ túc, miệt ; trinh hung.”

- “Sáu Đầu, làm sập giường trước tiên phải đẽo từ chân, chân giường tất sẽ gãy gục, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm.”

7. Ngày Giáp Tý vòng 7: Tấn hào 1

- “Sơ Lục, tấn như tồi như, trinh cát ; võng phu, dụ vô cữu.”

- “Sáu Đầu, sự tiến thịnh khởi đầu đã bị ghìm lui chắn lại, giữ chính thì được tốt lành ; hãy tạm ung dung đợi thời thì không gặp cữu hại”.

8. Ngày Giáp Tý vòng 8: Đại hữu hào 1

- “Sơ Cửu, vô giao hại, phỉ cữu ; gian tắc vô cữu”.

- “Chín Đầu, chưa đi lại giao du thì chưa mắc họa, tự nhiên thì không có cữu hại, nhưng tất phải nhớ là cần cẩn thận như lúc gặp gian nan, như vậy thì mới không gặp cữu hại”.

Xét thấy ngày Giáp Tý thông qua 8 vòng mà sao lời Hào từ lại nói "vật dụng" khởi đầu ở Vòng 1, mà tới cùng là Vòng 8 nói "chưa đi lại giao du thì chưa mắc hoạ", lạ thật!!!.

Vậy thì, có sự liên hệ tới Độn Giáp chăng?

...

Bài số #13, chúng ta đã có ví dụ về VÒNG 8, hệ thống 60 can chi phối hợp với Hào từ của 8 quẻ thuộc Vòng 8.

Nhận xét thấy:

- Mỗi quẻ Dịch có 6 hào, ta ví dụ mỗi một Hào trong quẻ Dịch tương đương với đơn vị tính là một ngày. Như vậy, một vòng Dịch Can Chi sẽ tương đương với 60 ngày. Thuận tự hết 8 vòng, thì số ngày là: 60 x 8 = 480 ngày tương đương với 480 hào từ.

- Khi người xưa quy định sự phối hợp Thiên can với quẻ Dịch, thì can Giáp - Nhâm phối với quẻ Càn, can Ất - Quý phối với quẻ Khôn. Từ nguyên nhân này, đã nảy sinh ra số "Trùng lưu" (Lão Tử gọi là Trùng hư), cụ thể như sau:

- Số 1 ~ số 49 ==> Giáp Tý <=> Nhâm Tý

- số 2 ~ số 50 ==> Ất Sửu <=> Quý Sửu

- số 9 ~ số 21 ==> Nhâm Thân <==> Giáp Thân

- số 10 ~ số 22 ==> Quý Dậu <==> Ất Dậu

- số 11 ~ số 59 ==> Giáp Tuất <==> Nhâm Tuất

- số 12 ~ số 60 ==> Ất Hợi <==> Quý Hợi

- số 19 ~ số 31 ==> Nhâm Ngọ <==> Giáp Ngọ

- số 20 ~ số 32 ==> Quý Mùi <==> Ất Mùi

- số 21 ~ số 9 ==> Giáp Thân <==> Nhâm Thân

- số 22 ~ số 10 ==> Ất Dậu >==> Quý Dậu

- số 29 ~ số 41 ==> Nhâm Thìn <==> Giáp Thìn

- số 30 ~ số 42 ==> Quý Tị <==> Ất Tị

- số 31 ~ số 19 ==> Giáp Ngọ <==> Nhâm Ngọ

- số 32 ~ số 20 ==> Ất Mùi <==> Quý Mùi

- số 39 ~ số 51 ==> Nhâm Dần <==> Giáp Dần

- số 40 ~ số 52 ==> Quý Mão <==> Ất Mão

- số 41 ~ số 29 ==> Giáp Thìn <==> Nhâm Thìn

- số 42 ~ số 30 ==> Ất Tị <==> Quý Tị

- số 49 ~ số 1 ==> Nhâm Tý <==> Giáp Tý

- số 50 ~ số 2 ==> Quý Sửu <==> Ất Sửu

- số 51 ~ số 39 ==> Giáp Dần <==> Nhâm Dần

- số 52 ~ số 40 ==> Ất Mão <==> Quý Mão

- số 59 ~ số 11 ==> Nhâm tuất <==> Giáp Tuất

- số 60 ~ số 12 ==> Quý Hợi <==> Ất hợi

Như vậy, trong 24 ngày được gọi là "trùng lưu" này, thì số ngày thực tính mang thông tin, chỉ còn 12 ngày, vậy nên số "thông tin" thực có sẽ là 60 - 12 = 48, tương đương với một vòng Dịch Can Chi - Khi trải qua 8 vòng thì số "thông tin" là 48 x 8 = 384, tương đương với số hào của 64 quẻ Dịch.

Ta có thể đưa ra một kết luận rằng: trong quá trình thực tính, thì tổng số hào của Kinh Dịch là 480 hào, được phân làm 8 vòng, mỗi một vòng là 60 hào tương đương với 60 can chi, trong mỗi một vòng thì số "trùng lưu" sẽ là 12.

Từ đây, chúng ta nhận thức được tại sao LẠC VIỆT ĐỘN TOÁN chỉ dùng đơn vị số quẻ là 48. Nhưng bên trong số 48 này, vẫn ẩn tàng số "trùng hư", để thuận theo số chu kỳ của thời gian là 60.

480 HÀO LÀ SỐ THỰC CỦA KINH DỊCH.

...

Hệ thống 60 can chi, khi phối ứng với 384 Hào từ quẻ Dịch sẽ thuận tự trải qua 8 vòng, nhận thấy một vòng 60 ngày sẽ có 12 ngày mang "thông tin" trùng nhau, được trường phái "Tam huyền" (Tiêu Diên Thọ, Kinh Phòng, Dương Hùng) gọi là số "Trùng lưu". Ta xét tỷ lệ: 1 / 4, có nghĩa rằng: 48 ngày mang "thông tin" tỷ lệ với 12 ngày mang "thông tịn" trùng lưu (thông qua một mà biết bốn - Khổng Tử). Tỷ lệ này, được ứng dụng một cách nghiêm mật, rải khắp trong các môn thuật toán Đông Phương học.

Phép bói Cỏ thi mà sách Dịch có bàn tới, sử dụng số 49 cọng cỏ thi. Con số "49" này, xét thấy tương đương với số "1". Chúng ta đã phối ứng "Thời gian" với Hào từ Kinh Dịch, thấy rằng một "thông tin" ẩn tàng trong "can chi", ví như trong ngày Giáp Tý, thì sau 49 ngày, tới ngày Nhâm Tý thì "thông tin" quay trở lại (phản bản hoàn nguyên - quy luật Phản Tổ).

Ta đang bàn về học thuyết thuyết "Bản thể", đã nhận thấy sự khởi nguồn khi người xưa định "Tuần không", khi chúng ta tìm hiểu về học thuyết thuyết "Sinh - Thành", thì sẽ nhận thức rõ thêm tại sao người xưa quy định như vậy.

...

Một Ví dụ mà Tôi thường ứng dụng và trải nghiệm:

Can Chi ngày sinh của Tôi là ngày Ất Mùi, nếu tính theo số TỬ BÌNH hay LỤC NHÂM, thì hiện tại Tôi đang ở trong VÒNG 6.

Trước tiên, Tôi tìm hiểu ý nghĩa cấu tạo của VÒNG 6 cho ta biết về những "Sự" gì?

VÒNG 6

...........................HOÁN

........PHỆ HẠP.........................QUẢI

...TỈNH.....................+.................KHIÊM

..........LÝ...................................BÁC

...........................PHONG

- Hướng Nam, đó là sự lìa tan - Phong Thuỷ Hoán

- Hướng Bắc, đó là sự thịnh lớn - Lôi Hoả Phong

- Hướng Đông, đó là "Mạch nước ngấm không cùng" - Thuỷ Phong Tỉnh

- Hướng Tây, đó là sự khiêm tốn - Địa Sơn Khiêm

- Hướng Tây - Bắc, đang là sự bong ra từng mảng - Sơn Địa Bác

- Hướng Tây - Nam, đang có sự quyết đoán - Trạch Thiên Quải

- Hướng Đông - Nam, đang có sự cắn để hợp lại - Trạch Thiên Quải

- Hướng Đông - Bắc, đang có nhắc nhở về "sự thận trọng trong đi lại" - Thiên Trạch Lý.

Một người bạn có lời mời Tôi đi miền Nam, từ VÒNG 6 xét thấy, phía Nam đang có sự lìa tan, ứng hợp vào tháng nào đây? Chắc là tháng Nhâm Ngọ vậy. Tôi thành thật cảm ơn bạn mình, và trả lời không thể đi được.

Hướng Tây Nam đang có sự quyết đoán, lại có lưu "Lộc Tồn", tôi chiêm đoán rằng: cơ quan mà tôi đã làm việc, đang cân nhắc tiền thưởng cho một số cán bộ lão thành.

Khi tính theo số ĐỘN GIÁP thì can ngày sinh Ất Mùi của Tôi cho tôi biết những thông tin gì đây?

.........................................Tân gia Mậu

..................Kỷ gia Canh................................Đinh gia Nhâm (Đinh gia Giáp)

....Mậu / Tân...............................+.......................Ất / Bính

...................Nhâm / Đinh................................Bính / Quý

.............................................Canh / Kỷ

Như vậy, Can ngày sinh của Tôi đang nhắc nhở tôi, cho tôi biết thông tin rằng: tôi cần phải có sự khiêm tốn (Địa Sơn Khiêm) trong những ngày tới.

Không biết số Thái ất của Tôi còn nói cho tôi biết thêm những thông tin gì đây.!

...

Khảo sát vòng 2

...........................LỮ

.....TIỂU SÚC.........................PHỤC

...DỰ.....................+....................KHỐN

..........BÍ..................................CẤU

...........................TIẾT

Nhận xét thấy

- Hướng Tây -Nam cung Khôn 2, mang quẻ Địa Lôi Phục phối hợp với hướng Đông, cung Chấn 3 mang quẻ Lôi Địa Dự, hướng Tây - Nam thì: Địa ở bên ngoài mà Lôi ở bên trong ; Địa ở trên mà Lôi ở dưới ; Địa ở ngọn mà Lôi ở gốc,...v.v... Đối với hướng Đông thì vị trí Nội quái và Ngoại quái được thay đổi cho nhau (không phải là đảo - ngược quái): Lôi lại ở bên ngoài còn Địa lại ở bên trong => Lôi Địa <==> Địa Lôi (Tây Nam <==> Đông). Tương tự:

- Hướng Tây - Bắc cung Càn 6, mang quẻ Thiên Phong Cấu phối hợp với hướng Đông - Nam cung Tốn 4, mang quẻ Phong Thiên Tiểu súc => Thiên Phong <==> Phong Thiên (Đông Nam <==> Tây Bắc)

- Hướng Đông - Bắc quẻ Cấn 8, mang quẻ Sơn Hoả Bí phối hợp với hướng Nam cung Ly 9 mang quẻ Hoả Sơn Lữ => Sơn Hỏa <==> Hỏa Sơn (Đông Bắc <==> Nam)

- Hướng Bắc cung Khảm 1, mang quẻ Thuỷ Trạch Tiết phối hợp với hướng Tây cung Đoài mang quẻ Trạch Thuỷ Khốn => Thuỷ Trạch <==> Trạch Thuỷ (Bắc <==> Tây)

Nội ngoại, trong ngoài, trên dưới, trước sau, gốc ngọn, nhân quả...v.v... đều thay đổi vị trí cho nhau. Khi sự thay đổi vị trí quái như vậy, thì chúng ta nhận thức được gì đây? Phải chăng, cái "bên ngoài" của hướng Tây phản ảnh thông tin cái "bên trong" của hướng Đông - Bắc, cũng như cái "bên trong" của hướng Tây Bắc phản ánh thông tin về cái "bên ngoài" của hướng Đông Nam,...v.v...

VÒNG 3

...........................ĐỈNH

........GIA NHÂN.........................LÂM

...GIẢI.....................+.................TỤY

........ĐẠI SÚC......................ĐỘN

..........................TRUÂN

NHẬN XÉT:

- Cung Càn 6 với cung Cấn 8: trong ngoài, trên dưới, nội ngoại, thay đổi vị trí cho nhau: Thiên Sơn <=> Sơn Thiên, hướng Tây Bắc <=> Đông Bắc.

- Cung Khảm 1 với cung Chấn 3: trên dưới thay đổi vị trí cho nhau: Thuỷ Lôi <=> Lôi Thuỷ

- Cung Khôn 2 với cung Đoài 7: trên dưới thay đổi vị trí: Địa Trạch <=> Trạch Địa

- Cung Tốn 4 với cung Ly 9: Phong Hỏa <=> Hoả Phong.

VÒNG 4

...........................VỊ TẾ

........ÍCH.............................THÁI

...HẰNG.....................+...............HÀM

..........TỔN...................................BĨ

...........................KÝ TẾ

- Cung Càn 6 với cung số Khôn 2: Thiên Địa <=> Địa Thiên => Giáp Nhâm = Ất Quý >> hướng Tây Bắc và hướng Tây Nam

- Cung Đoài 7 với cung Cấn 8: Bính <=> Đinh

- Cung Khảm 1 với cung Ly 9: Mậu <=> Kỷ

- Cung Chấn 3 với cung Tốn 4: Canh <=> Tân

VÒNG 5

.............................MÔNG

......VÔ VỌNG.......................ĐẠI TRÁNG

...THĂNG.....................+...................KIỂN

........KHUÊ...................................QUAN

...........................CÁCH

- Cung Cấn 8 với cung Khảm 1: Bính <=> Mậu

- Cung Tốn 4 với cung Khôn 2: Tân <=> Ất (Quý)

- Cung Chấn 3 với cung Càn 6: Canh <=> Giáp (Nhâm)

- Cung Ly 9 với cung Đoài 7: Kỷ <=> Đinh

VÒNG 6

...........................HOÁN

........PHỆ HẠP.........................QUẢI

...TỈNH.....................+.................KHIÊM

..........LÝ...................................BÁC

...........................PHONG

- Tây Bắc cung Càn 6 phối ứng với Tây cung Đoài 7: Đinh <=> Nhâm (Giáp)

- Đông Bắc cung Cán 8 phối ứng với Tây Nam cung Khôn 2: Bính <=> Quý (Ất)

- Hướng Bắc cung Khảm 1 phối ứng với hướng Đông Nam cung Tốn 4: Mậu <=> Tân

- Hướng Đông cung Chấn 3 phối ứng với hướng Nam cung Ly 9: Canh <=> Kỷ.

VÒNG 7

..........................Nam

..........................TỤNG

...........DI............................NHU

...ĐẠI QUÁ...............+...............TIỂU QUÁ

........TRUNG PHU.....................TẤN

...........................MINH DI

.............................Bắc

- Cặp [ 9 <=> 2 ] => Ly <=> Khôn (Nam ~ Tây Nam)

- Cặp [ 7 <=> 4 ] => Đoài <=> Tốn (Tây ~ Đông Nam), (Đinh ~ Tân)

- Cặp [ 6 <=> 1 ] => Càn <=> Khảm (Tây Bắc ~ Bắc)

- Cặp [ 8 <=> 3 ] => Cấn <=> Chấn (Đông Bắc ~ Đông)

VÒNG 8

....................ĐỒNG NHÂN

...........CỔ.........................TỶ

...TUỲ...............+...............QUY MUỘI

..........TIỆM.....................ĐẠI HỮU

......................MINH DI

- Cặp 6 ~ 9 => Hỏa Thiên ~ Thiên Hỏa

- Cặp 3 ~ 7 => Trạch Lôi ~ Lôi Trạch

- Cặp 1 ~ 2 => Địa Thủy ~ Thủy Địa

- Cặp 8 ~ 4 => Phong Sơn ~ Sơn Phong

Chúng ta đã xong được một bước. Tiếp theo, ta cần phải biết được, trong 32 cặp phối hợp này, cặp nào là cặp có sự "dao động" mạnh nhất. Hệ số "dao động" này, giúp được gì cho chúng ta khi ứng dụng vào thực tiễn?

Có người, gặp hệ số "dao động" thấp mà vẫn bị họa tai, có người lại gặp hệ số "dao động" cao mà họ vẫn có khả năng vượt qua (!).

Ta tiếp tục khai phá những điều mà người xưa cho là "nghiêm mật".

...

Điều mà người xưa cho là "nghiêm mật", chính là "cái mà phải dựa vào đang dần mất đi sự ổn định".

Phàm là 10 tuổi thích chạy, 20 tuổi thích đi nhanh, 30 tuổi thích đi bộ, 40 tuổi thích sự ngồi, 50 tuổi thích sự nghỉ, 60 tuổi thích sự nằm.

Dịch - Sơn Địa Bác, tượng hào 2 nói: "Bác sàng dĩ biện, vị hữu dữ dã", có nghĩa rằng: "Đã đến lúc muốn nằm nghỉ, thì giường nằm từ cứng mạnh đang chuyển thành hư yếu".

Phải dừng lại, vì người ta không thể quên nguồn cội của mình. Thường ngày cần phải củng cố cái "gốc" để phòng sự "bác". Khi "thời gian" tích lại ngày một lớn, có nghĩa rằng tuổi ngày một tăng lên, thì "vật chất" ngày càng mất dần đi.

Cái mà ta phải dựa vào đó vậy!

...

Chúng ta tiếp tục khảo sát xem người xưa đã tổ hợp như thế nào (?), từ 48 cặp can chi mang thông tin này, làm sao có thể quy tụ về còn 12 cặp can chi, mà người xưa gọi là 12 "thần". Như vậy, sẽ hình thành 4 chu kỳ của 12 "thần".

...

Năm Canh Dần - 2010, do vậy ta bắt đầu khảo sát từ LỤC CANH

Canh Dần

1. Chu kỳ 1 - Canh Dần - Thuần Chấn, hào 2

- “Lục Nhị, chấn lai lệ; ức táng bối, tê vu cửu lăng, vật trục, thất nhật đắc.”

- “Sáu Hai, sấm sét ập tới, có nguy hiểm; mất nhiều tiền, nên lánh xa và trèo lên đỉnh đồi cao, không cần truy tìm, quá không đầy bảy ngày thì tiền mất lại tìm thấy.”

- Tượng “chấn lai lệ, thặng cương dã” – ý nói tượng hào Sáu Hai cưỡi trên hào dương cứng mà nguy.

2. Chu kỳ 2 - Canh Dần – Lôi Địa Dự, hào 2

- “Lục Nhị, giới vu thạch, bất chung nhật, trinh cát.”

- “Sáu Hai, chí vững như đá, không đợi đến hết ngày (mà biết được rằng sự vui phải có mức độ), giữ vững chính bền thì được tốt lành.”

- Tượng “Bất chung nhật trinh cát, dĩ trung chính dã” – "Không đợi ngày mà biết", vì Sáu Hai đã trung, lại chính.

3. Chu kỳ 3 - Canh Dần – Lôi Thủy Giải, hào 2

- “Cửu Nhị, điền hoạch tam hồ, đắc hoàng thỉ ; trinh cát.”

- “Chín Hai, đi săn bắt được ba con cáo, được mũi tên mầu vàng (tượng trưng cho đức trung thực) ; giữ vững chính bền thì được tốt lành.”

- Tượng “Cửu Nhị trinh cát, đắc trung đạo dã” – "Chín Hai giữ vững chính bền thì được tốt lành", nói lên được đạo ở giữa không lệch.

4. Chu kỳ 4 - Canh Dần – Lôi Phong Hằng, hào 2

- “Cửu Nhị, hối vong.”

- “Chín Hai, hối hận tiêu hết.”

- Tượng viết: “Cửu Nhị hối vong, năng cửu trung dã” – "Chín Hai hối hận tiêu hết", nói lên Chín Hai có thể giữ đạo lâu dài không thiên lệch.

5. Chu kỳ 5 - Canh Dần - Địa Phong Thăng, hào 2

- “Cửu Nhị, phu nãi lợi dụng Thược, vô cữu.”

- “Chín Hai, chỉ cần lòng giữ thành tín thì dù làm lễ “tế Thược” đơn sơ, cũng lợi về sự dâng tiến lên thần linh, không đến nỗi tội lỗi.”

- Tượng “Cửu Nhị chi phu, hữu hỷ dã.” - Đức đẹp thành tín của Chín Hai tất sẽ đem lại sự vui mừng, phúc khánh.

6. Chu kỳ 6 - Canh Dần - Thủy Phong Tỉnh, hào 2

- “Cửu Nhị, tỉnh cốc xạ phụ, ủng tệ lậu.”

- “Chín Hai, rốn giếng bị uổng dùng để bắn mấy con cá nhỏ, lúc này gầu bị thủng không có gì để múc lên.”

- Tượng “Tỉnh cốc xạ phụ, vô dữ dã.” - "Rốn giếng bị uổng dùng", nói lên Chín Hai không có ứng với trên. (Mỹ, Nga, Trung quốc)

7. Chu kỳ 7 - Canh Dần - Trạch Phong Đại quá, hào 1

- “Sơ Lục, tạ dụng bạch mao, vô cữu.”

- “Sáu Đầu, dùng cỏ tranh trắng lót (vật biếu người trên), tránh bị cữu hại.”

- Tượng “Tạ dụng bạch mao, nhu tại hạ dã.” - "Lấy cỏ tranh trắng lót vật biếu người trên", nói ý hào Sáu Đầu mềm thuận ở ngôi dưới, hành vi kính cẩn thận trọng.

8. Chu kỳ 8 - Canh Dần - Trạch Lôi Tùy, hào 2

- “Lục Nhị, hệ tiểu tử, thất trượng phu.”

- “Sáu Hai, quấn quýt theo kẻ tiểu tử, mất đấng trượng phu dương cứng.”

- Tượng “Hệ tiểu tử, phất khiêm dữ dã” - "Quấn quýt với kẻ tiểu tử", nói lên Sáu Hai không thể cùng một lúc thân hiếu với nhiều nơi.

...

Khảo sát từ LỤC CANH Dịch - Hệ từ thượng - Chương 9 - Tiết 1 viết: "Thiên nhất địa nhị. Thiên tam địa tứ. Thiên ngũ địa lục. Thiên thất địa bát. Thiên cửu địa thập." Như vậy trong hệ chu kỳ số đếm 10, thì can Canh ở vị trí thứ 7. Dịch - Hệ từ thượng - Chương 9 - Tiết 5 viết: "Nhị thiên chi sách, vạn hữu nhất thiên ngũ bách nhị thập, đương vạn vật chi số dã" (Số trong hai thiên của Kinh Dịch là 11520, tương đương với số chỉ vạn vật." Dịch viết: số 11.520 là số tương đương chỉ vạn vật (!), như một di ngôn "mật khẩu" được mật truyền trong Kinh, ta nhận thức như thế nào về lời di ngôn này? Từng bước tiếp cận, khởi đầu từ lời Dịch viết: " Vạn vật xuất hồ Chấn ". Sử dụng 3 chu kỳ: đó là chu kỳ 10, chu kỳ 12, và chu kỳ 14 làm phương tiện nhận thức về Thiên đạo (đường vận hành trời). Chu kỳ 10 được gọi là chu kỳ Thiên can, gồm thứ tự số đếm: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Chu kỳ 12 được gọi là chu kỳ Địa chi, gồm thứ tự số đếm: Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Chu kỳ 10 và 12 cho chúng ta một hệ chu kỳ số đếm 60, khởi nguyên từ Giáp phối ứng với Tí, kết thúc khi Quý phối ứng với Hợi, thường gọi là một Giáp Tí. Khi tổ hợp phối ứng với chu kỳ 14, có nghĩa là khởi nguyên đồng thời cả ba chu kỳ, thì ta được một hệ chu kỳ số đếm 420, thường được gọi là một Đại Giáp Tí (7 x 60). Một Đại Giáp Tí là một chu kỳ gồm 420 năm (ngày).

...

Khảo sát một số sách chú giảng về Dịch nói: số chỉ vạn vật tương đương với số 11520 (!)

1. Sách " Chu Dịch Đại truyện " - Nhà XB KHOA HỌC XÃ HỘI - 2006 - Lê Anh Minh dịch - chú (tr 94):

- "Thiên" = Kinh dịch có hai thiên ; thượng thiên (tức thượng kinh) có 30 quẻ ; hạ thiên (tức hạ kinh) có 34 quẻ.

- 64 quẻ cả thảy 192 hào dương và 192 hào âm. Khi bói:

- Lập được hào Dương, số que kẹp kẽ tay là 13, còn lại là 36 que. Vậy 36 x 192 = 6912.

- Lập được hào Âm, số que kẹp kẽ tay là 25, số que còn lại là 24. Vậy 24 x 192 = 4608

- Kết quả: 6912 + 4608 = 11520

- Khi nói "vạn vật", thì "vạn" là mười ngàn (nhưng đó là nói tổng quát).

- Số 11520 tương đương với con số chỉ vạn vật.

2. Sách: KINH DỊCH - ĐẠO CỦA NGƯỜI QUÂN TỬ - Nguyễn Hiến Lê - Trang 462 - CHƯƠNG IX - Tiết 5 viết:

- " Nhị thiên chi sách vạn hữu nhất thiên ngũ bách nhị thập, đương vạn vật chi số dã "

- Dịch: " Số thẻ của hai thiên (tức thiên thượng và thiên hạ trong Kinh dịch, tức số thẻ của 64 quẻ trùng - vì thiên thượng gồm 30 quẻ, thiên hạ gồm 34 quẻ) là 11.520, hợp với số của vạn vật ".

- Chu Hi giảng: Hai thiên trong Kinh dịch gồm tất cả 192 hào dương và 192 hào âm. Như tiết trên đã nói, số của quẻ Càn là 216, vậy số của mỗi hào quẻ Càn, tức mỗi hào dương là 216 / 6 = 36. Số của quẻ Khôn là 144, vậy số của mỗi hào quẻ Khôn, tức mỗi hào âm là 144 / 6 = 24.

- Tổng số 192 hào dương là 36 x 192 = 6.912 ; Tổng số 192 hào âm là 24 x 192 = 4.608 Cộng cả dương lẫn âm được 6.192 + 4.608 = 11.520

- Số 11.520 hợp với số của vạn vật là nghĩa làm sao? Chúng tôi không hiểu. Có lẽ người Trung Hoa thời đó cho rằng trong vũ trụ thời đó có khoảng một vạn mốt loài chăng?

3. Nguồn sách: Thư viện Đại học Cambridge University Library

http://www.lib.cam.a...lu/fb70306.html

TRUNG HOA ĐẠO THÁNH [ 中华 道 藏 ]

Dịch Số 7 - 8 - 9 - 6

Chúng ta có bốn con số, được quy định như sau: cặp số 7 - 8 được quy định đại diện cho "tĩnh", cặp số 9 -6 được đại diện cho "động".

Trong cặp số 7 - 8 đại diện cho cho "Tĩnh", thì số "8" là số đại diện cho Dương "Tĩnh", còn số "7" là số đại diện cho Âm "Tĩnh".

Các bước thực hiện:

- Quẻ Càn: hào một trị số là 8, hào hai trị số là 8 x 2 = 16, hào ba trị số là 16 x 2 = 32. Tổng trị số ba hào quẻ Càn là 8 + 16 + 32 = 56

- Quẻ Khôn: hào một trị số là 7, hào hai trị số là 7 x 2 = 14, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Khôn là 7 + 14 + 28 = 49

- Quẻ Chấn: hào một trị số là 8, hào hai trị số là 7 x 2 = 14, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Chấn là 8 + 14 + 28 = 50

- Quẻ Khảm: hào một có trị số là 7, hào hai trị số là 8 x 2 = 16, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Khảm là 7 + 16 + 28 = 51

- Quẻ Đoài: hào một trị số là 8, hào hai trị số là 8 x 2 = 16, hào ba trị số là 14 x 2 = 28. Tổng trị số ba hào quẻ Đoài là 8 + 16 + 28 = 52

- Quẻ Cấn: hào một trị số là 7, hào hai trị số là 7 x 2 = 14, hào ba trị số là 16 x 2 = 32. Tổng trị số ba hào quẻ Cấn là 7 + 14 + 32 = 53.

- Quẻ Ly: hào một 8, hào hai là 7 x 2 = 14, hào ba là 16 x 2 = 32. Tông trị số ba hào quẻ Ly là 8 + 14 + 32 = 54

- Quẻ Tốn: hào một là 7, hào hai là 16, hào ba là 32. Tổng trị số ba hào quẻ Tốn là 7 + 16 + 32 = 55

Bát quái tương đương với trị số quẻ được xếp như sau:

..49.....50.......51......52.....53....54....55....56.

Khôn...Chấn...Khảm...Đoài...Cấn...Ly...Tốn...Càn.

Từ đây, chúng ta thấy mối liên hệ của thuật toán "Cỏ thi", tại sao lại dùng có 49 cây Cỏ thi để thực hiện 18 lần chia, mỗi lần 3 biến thì được một hào, 18 lần thì được 6 hào của một quẻ Dịch. Từ Âm tới Dương, từ "Không" tới "Có", từ tối tới sáng, từ đêm tới ngày,..., Cũng từ đây, có thể số 50 được coi là "Đế xuất hồ Chấn"

Bây giờ, chúng ta xếp các trị số của quẻ theo mô hình được gọi là Tiên thiên như sau:

....................56....................

...........52................55..........

...54...............+.................51..

..........50.................53............

.....................49....................

Khi chúng ta đọc thứ tự số từ "không" tới "có", từ Âm tới Dương, lần lượt tăng thêm một đơn vị, bắt đầu từ số 49, thì chúng ta thấy đường đi hình chữ số 8 thật là vui mắt.

Tổng trị số của Càn-Đoài-Ly-Chấn, đều có hào một là hào dương là: 56 + 52 + 52 + 50 = 212

Tổng trị số của Tốn-Khảm-Cấn-Khôn, đều có hào một là hào âm là: 55 + 51 + 53 + 49 = 208

Như vậy, trị số của Dương và Âm có khác biệt 4 đơn vị. Không hiểu tại sao người xưa lại gọi 4 là chìa khóa của âm dương khi sinh Ngũ hành?

Nhìn vào đồ hình sắp xếp các trị số của quẻ, ta thấy những cặp số đứng liền nhau mà khác biệt 4 đơn vị gồm có: Càn và Đoài, Khôn và Cấn, Chấn và Ly, Tốn và Khảm. Có thể từ đây, mà người xưa đặt ra điều lệ: cặp Khôn-Cấn và cặp Càn-Đoài là Tây tứ trạch. Còn cặp Tốn-Khảm và Chấn-Ly là Đông tứ trạch (?) Những cặp này đều có trị số cách nhau 4 đơn vị

Tiếp tục khảo sát, tổng trị số của 8 quái là: 212 + 208 = 420. Thật lạ, như vậy Tổng trị số của tám quẻ khi "Tĩnh" lại bằng với Tổng Trị số tám quẻ Khi "Động", đều bằng 420. (?)

Lại tiếp tục khảo sát:

..49.....50.......51......52......53....54....55....56......... (khi dùng cặp số 7 - 8)

Khôn...Chấn...Khảm...Đoài...Cấn...Ly...Tốn...Càn.

..63.....60.......57......54......51.....48....45....42..........(Khi dùng cặp số 6 - 9)

Nhận thấy, từ Khôn tới Đoài số thứ tự là 4 khi "Tĩnh", thì khi "Động" có trị số cách nhau là 42 + 9 = 51. Tiếp tục từ Đoài tới Tốn, thì thứ tự khi "tĩnh" cũng cách nhau là 4, mà khi "động" cũng có trị số cách nhau là 9, cụ thể là 51 + 9 = 60.

Từ "Tĩnh" chuyển sang "động", từ Âm tới Dương, từ "Không" tới "có", thông qua 9 con số Cửu cung, chúng ta từng bước tìm hiểu về những con số của Dịch 7 - 8 - 9 - 6.

...

Có thể, những con số là sợi dây nối liền Bốc Dịch với Khoa học.

...

Chúng ta khảo sát lại với cặp số 9 - 6, được coi là cặp số đại diện cho "động"

....................CÀN.........................KHÔN..........

Hào ba.......18 x 2 = 36...............12 x 2 = 24......

Hào hai...... 9 x 2 = 18.................6 x 2 = 12.....

Hào một...............= 9..........................= 6......

- Quẻ Chấn:

hào một dương 9,

hào hai âm 6 x 2 = 12,

hào ba âm 12 x 2 = 24.

Tổng trị số ba hào quẻ Chấn là 9 + 12 + 24 = 45 (Hàm tam vi nhất)

- Quẻ Khảm:

hào một âm 6,

hào hai dương 9 x 2 = 18,

hào ba âm 12 x 2 = 24.

Tổng trị số ba hào quẻ Khảm là: 6 + 18 + 24 = 48

- Quẻ Cấn:

hào một âm trị số là 6,

hào hai âm 6 x 2 = 12,

hào ba dương 18 x 2 = 36.

Tổng 3 hào: 6 + 12 + 36 = 54.

- Quẻ Tốn:

hào một âm trị số là 6,

hào hai dương trị số là 9 x 2 = 18,

hào ba dương trị số là 18 x 2 = 36.

Tổng trị số ba hào quẻ Tốn là: 6 + 18 + 36 = 60

- Quẻ Ly:

hào một dương trị số là 9,

hào hai âm 6 x 2 = 12,

hào ba dương trị số là 18 x 2 = 36.

Tổng trị số ba hào quẻ Ly là: 9 + 12 + 36 = 57.

- Quẻ Đoài:

hào một dương trị số là 9,

hào hai dương trị số là 9 x 2 = 18,

hào ba âm trị số là 6 x 2 x 2 = 12.

Tổng trị số ba hào quẻ Đoài là: 9 + 18 + 24 = 51.

Tổng trị số 3 hào của Càn là: 9 + 18 + 36 = 63.

Tổng trị số 3 hào của Khôn: 6 + 12 + 24 = 42.

.42.......45.........48.........51......54........57.......60.........63...

Khôn....Chấn......Khảm.....Đoài....Cấn......Ly.......Tốn.......Càn..

.49.......50.........51.........52.......53.......54........55........56...

Tổng trị số tám quái khi tĩnh: 420 (cặp số 7 - 8)

Tổng trị số tám quái khi động: 420 (cặp số 6 - 9)

Âm Dương sinh Ngũ hành, có thể thông qua chìa khóa của Ngũ hành là số 4, và những con số từ 1 => 9, chúng ta nhận thức được không? Người xưa đã thực hiện tính toán như thế nào để quy tám quái về Ngũ hành?

Tại sao Càn Đoài thuộc Kim, Chấn Tốn thuộc Mộc, Ly thuộc Hỏa, Khảm thuộc Thủy, Cấn Khôn thuộc Thổ???.

Người xưa nói: phương Đông sinh Mộc, vậy phương Tây có sinh Mộc không?

...

Trước khi tìm hiểu về Âm Dương sinh Ngũ hành như thế nào? Có lẽ, chúng ta khảo sát trước về những con số Âm Dương khi sinh.

Một thuận tự dãy số, khi quan hệ với trị số của quẻ Khôn là 49 như sau:

..1......2......3......4......5......6......7......8......9..

.49....48.....47....46.....45....44.....43....42....41..

.40....39.....38....37.....36....35.....34....33....32..

.31....30.....29....28.....27....26.....25....24....23..

.22....21.....20....19.....19....17.....16....15....14

.13....12.....11....10......9......8......7......6......5

..4......3......2......1......0..............................

.................................9......8......7......6.....???

Thông qua năm lần hàng ngang, trị số giảm dần của Khôn, thì hàng dọc cho chúng ta thấy những cặp số: 1 -4, 2 - 3, 3 -2, rồi lại 1 - 4, thì trị số của quẻ Khôn từ 49 => 1 ở vị trí có số thứ tự là 4.

Tiếp tục một thuận tự dãy số, khi quan hệ với trị số của quẻ Càn là 56 như sau:

...1......2......3......4......5......6......7......8......9..

..56.....55....54....53.....52....51.....50....49....48..

....................................................................

....................................................................

....................................................................

....................................................................

..11.....10.....9......8......7......6......5.....4.......3..

...2.......1.....0................................................

Trị số của Càn là 56, nếu theo thứ tự là một, thì từ hàng dọc, trị số của Càn được khởi đầu lại là 2, là số "Chẵn", là số "Ngẫu". Vậy thì tại sao Dịch lại nói: Dương lẻ Âm chẵn, Dương cơ âm ngẫu?

...

Khảo sát Lịch sử về chiêm bốc, thì "cỏ thi" đã thay thế cho "mai rùa". Trên thực tế, ngoài ghi chép của Khổng Tử ra, không có phương pháp bói "cỏ thi" nào khác, được ghi chép lại. Tới tận đời Đường, thời gian có tới hơn hai ngàn năm. Một cuộc cách mạng đã làm thay đổi thời gian Bốc quẻ, khi thay thế Ba đồng tiền để tiến hành lắc quẻ. Theo thời gian, Bốc dịch lại sản sinh ra một cuộc cách mạng trọng đại nữa, cho tới khi xuất hiện Thiệu Ung. Ông cho rằng: "Thần sinh Số, Số sinh Tượng, Tượng sinh Khí". Được gọi là Khang Tiết Thần số. Thời Tam quốc, Vương Bật, một người thanh niên đề xướng tư tưởng trị dịch: "đắc ý quên tượng". Thì Dịch học đã chuyển từ Chiêm Bốc sang Triết học. Trường phái Nghĩa - Lý đã thay thế Dịch Số thời nhà Hán. Cho tới ngày hôm nay, Bốc Dịch cần Khoa học, hiện đang là thời mà Khoa học không cần Chiêm Bốc.

Chiết Tự Số - Chữ Quốc Ngữ

Chào Anh Chị Em trên diễn đàn.

Khi tìm hiểu những phương pháp để lập quẻ Dịch, trong MAI HOA DỊCH SỐ của ngài Thiệu Ung, có phương pháp CHIẾT TỰ SỐ. Theo sách "Bí bản trắc tự toàn thư", ngài Tự Thạch đã nổi danh thiên hạ về khoa Chiết tự. Chữ Quốc ngữ VN có thể xây dựng nên phương pháp Chiết tự này. Tham khảo từ Nguồn: Dichminh.co.cc, được xây dựng Chiết tự số như sau:

A: 3 nét ; Ă: 4 nét ; Â: 5 nét

B: 3 nét

C: 1 nét

D: 2 nét ; Đ: 3 nét

E: 4 nét ; Ê: 6 nét

G: 2 nét ;

H: 3 nét

I: 1 nét

K: 3 nét

L: 2 nét

M: 4 nét

N: 2 nét

O: 2 nét

Ô: 4 nét

Ơ: 3 nét

P: 2 nét

Q: 3 nét

R: 3 nét

S: 1 nét

T: 2 nét

U: 1 nét

Ư: 2 nét

V: 2 nét

X: 2 nét

Y: 3 nét

Sắc(/): 1 nét

Huyền (\): 1 nét

Hỏi (?): 2 nét

Ngã (~): 1 nét

Nặng (.): 1 nét

Một ví dụ về khoa Chiết tự số tương ứng với chữ Quốc ngữ: Câu thành văn như sau:

Trèo lên ngọn cây, thấy mình cao quá,

Mọi người ở dưới thấp, nên tự chán.

Cụ thể:

- "Trèo lên ngọn cây": tổ hợp Chiết tự số làm Ngoại quái

- "thấy mình cao quá": tổ hợp Chiết tự số làm Nội quái

Thực hiện:

- Chữ "Trèo": T = 2, r = 3, e = 4, 0 = 2, dấu "huyền" = 1

=> 2 + 3 + 4 + 2 + 1 = 12

- Chữ "lên": l = 2, ê = 6, n = 2

=> 2 + 6 + 2 = 10

- Chữ "ngọn": n = 2, g = 2, 0 = 2, n = 2, dấu "nặng" = 1

=> 2 + 2 + 2 + 2 + 1 = 9

- Chữ "cây": c = 1, â = 5, y = 3

=> 1 + 5 + 3 = 9

Tổ hợp câu "Trèo lên ngọn cây" = 12 + 10 + 9 + 9 = 40

40 / 8 = 5 => được quái Khôn.

- Chữ "thấy": t = 2, h = 3, â = 5, y = 3, dấu "sắc" = 1

=> 2 + 3 + 5 + 3 + 1 = 17.

- Chữ "mình": m = 4, i = 1, n = 2, h = 3, dấu "huyền" = 1

=> 4 + 1 + 2 + 3 + 1 = 11

- Chữ "cao": c = 1, a = 3, 0 = 2

=> 1 + 3 + 2 = 6

- Chữ "quá": q = 3, u = 1, a = 3, dấu "sắc" = 1

=> 3 + 1 + 3 + 1 = 8

Tổ hợp câu: "thấy mình cao quá" = 17 + 11 + 6 + 8 = 42

42 / 8 = 5 dư 2 => được quái Đoài

Câu: "Trèo lên ngọn cây, thấy mình cao quá" được quẻ ĐỊA TRẠCH LÂM.

Tiếp tục với vế đối là câu: "mọi người ở dưới thấp, nên tự chán", lại phân câu này thành 02 quái:

- Chữ "mọi": m = 4, 0 = 2, i = 1, dấu "nặng" = 1

=> 4 + 2 + 1 + 1 = 8

- Chữ "người": n = 2, g = 2, ư = 2, ơ = 3, i = 1, dấu "huyền' = 1

=> 2 + 2 + 2 + 3 + 1 + 1 = 11

- Chữ "ở": ơ = 3, dấu "hỏi" = 2

=> 3 + 2 = 5

- Chữ "dưới": d = 2, ư = 2, ơ = 3, i = 1, dấu "sắc" = 1

=> 2 + 2 + 3 + 1 + 1 = 9

- Chữ "thấp": t = 2, h = 3, â = 5, p = 2, dấu "sắc" = 1

=> 2 + 3 + 5 + 2 + 1 = 16

Tổ hợp câu: "mọi người ở dưới thấp" = 8 + 11 + 5 + 9 + 16 = 59

59 / 8 = 7 dư 3 => được quái Ly

- Chữ "nên": n = 2, ê = 6, n = 2

=> 2 + 6 + 2 = 10

- Chữ "tự": t = 2, ư = 2, dấu "nặng" = 1

=> 2 + 2 + 1 = 5

- Chữ "chán": c = 1, h = 3, a = 3, n = 2, dấu "sắc" = 1

=> 1 + 3 + 3 + 2 + 1 = 10

Tổ hợp câu: "nên tự chán" = 10 + 5 + 10 = 25

25 / 8 = 3 dư 1 => được quái Càn

Câu "mọi người ở dưới thấp, nên tự chán" được quẻ HOẢ THIÊN ĐẠI HỮU.

- Tượng hai quẻ Lâm thừa Đại hữu: theo Bốc Dịch, động hào 3, 4, 6

Posted Image Posted Image

- Theo Dịch Lâm được quẻ Lâm chi Đại hữu.

Chúng ta tham khảo thêm một phương thức lập quẻ Dịch.

Hà Uyên.

...

dichnhan07, on May 17 2010, 03:04 PM, said:

Tôi có một thắc mắc đó là tại sao không phải là an quẻ từ dưới lên mà lại an từ trên xuống, trong khi đó tên gọi lại là Lâm (dưới)-Đại Hữu (trên). Tôi thử biến lại thành Tụy (dưới)-Đồng Nhân (trên), bác thử xét xem liệu quẻ nào hợp hoàn cảnh hơn.

Kính Bác.

Anh Dichnhan

Khi ngài Tiêu Diên Thọ xây dựng kết cấu cho học thuyết của mình, Ông lấy Can Chi "ngày" làm "Bản" (gốc). Do vậy, ngài Tiêu mới lấy "Trực nhật" để minh chứng cho "Tiêu Lâm".

Hôm nay, là ngày Đinh Mão, là Can Chi ứng cho ngày "Âm", nên tôi trải nghiệm theo nguyên tắc mà ngài Tiêu Diên Thọ đã đặt ra.

Anh tham khảo thêm.

Hà Uyên.

...

Chào Thiên đồng

Cảm ơn Bạn rất nhiều từ những ý kiến mà Bạn đặt vấn đề. Tôi đang trải nghiệm, cùng luận giải thêm với Thiên Đồng sau.

Gần đây, về cá nhân, tôi đang thử nghiệm, nhưng không nói ra, về: Họ và Tên của sự Hợp khí, với điều kiện là: Âm dương đã hợp hóa => đã "sinh". Ví dụ như tên của Dương: Trần văn A, tên của Âm là Nguyễn thị B => tôi phân: Trần Văn làm Ngoại quái, còn tên là chữ A, thì đặt làm Nội quái. Đối ứng với Âm, thì Nguyễn Thị tổ hợp làm Ngoại quái, còn tên chữ là B, thì tổ hợp làm Nội quái. Tôi thử nghiệm xét thấy, có nhiều điều rất lạ khi thông tin được bộc lộ ra, từ hai quẻ Đối ứng.

Chia sẻ cùng Thiên Đồng và Anh Chị Em.

Hà Uyên.

HÀO DỊCH THÔNG KHÍ - 72 SỰ CHUYỂN HOÁ CỦA QUẺ DỊCH

SƠN LÔI DI – 72 CỤC

Di: Trinh cát ; quan di, tự cầu khẩu thực.

Dịch: “Quẻ Di tượng trương cho sự nuôi dưỡng: giữ vững chính bền thì được tốt lành. Xem xét hiện tượng nuôi dưỡng sự vật, cần biết dùng chính đạo trong việc từ tìm thức ăn nuôi mình.”

Chú thích: chứ “di” cổ văn mà nhìn ngang thì giống như cái mép, là tên gọi “cái mép”, tượng trưng trong mồm ngậm thức ăn, dưới Chấn động trên Cấn ngưng chỉ, có tượng như đang nhai thức ăn, nhai vật, khi động khi ngừng. Trời đất tạo hóa nuôi nấng muôn vật, mỗi vật được một cách nuôi riêng thì đó cũng là chính đạo mà thôi. Xem cách nuôi của người và cách họ tự tìm thức ăn cho mình, thì sự thiên ác lành giữ có thể thấy được.

Thoán viết: Di, trinh cát, dưỡng chính tắc cát dã. Quan di, quan kỳ sở dưỡng dã ; tự cầu khẩu thực, quan kỳ tự dưỡng dã. Thiên địa dưỡng vạn vật, thánh nhân dưỡng hiền dĩ cập vạn dân: di chi thời đại hỹ tai.

Dịch: “Thoán truyện nói: Nuôi dưỡng, giữ vững chính bền thì được tốt lành. Quan sát hiện tượng nuôi dưỡng sự vật, là quan sát điều kiện khách quan để có được sự nuôi dưỡng ; nên biết dùng chính đạo trong việc tự tìm thức ăn nuôi mình, tức quan sát để biết được về phương pháp chủ quan tự nuôi mình đúng đắn nhất. Trời đất nuôi dưỡng vạn vật, thánh nhân nuôi dưỡng người hiền cho tới muôn dân ; công hiệu của thời “di dưỡng” lớn vậy thay!”

Chú thích: Người quân tử cắt (miếng thịt) không ngay ngắn không ăn, huống chi là miếng ăn phi nghĩa. Bởi vậy cho nên kẻ được nuôi dưỡng phải là kẻ hiền minh, từ nuôi mình tất phải hợp lễ, đó là nghĩa “dưỡng chính” vậy. Về sự sinh và sự dưỡng của muôn vật, thì “thời” là lớn.

Tượng viết: Sơn hạ hữu Lôi, di ; quân tử dĩ thận ngôn ngữ, tiết ẩm thực.

Dịch: “Tượng truyện nói: Dưới núi vang động tiếng sấm của quẻ Chấn (dưới động trên ngưng, như miệng nhai thức ăn), tượng trưng cho sự “nuôi dưỡng”, người do vậy thận trọng nói năng để dưỡng đức, tiết chế sự ăn uống để nuôi mình.”

Chú thích: noi theo đạo “dưỡng chính” của quẻ Di, dưỡng đức và dưỡng thân rất quan trọng đối với thời “nuôi dưỡng”. Họa theo miệng mà ra, hoạn theo miệng mà vào, cho nên đối với sự nuôi dưỡng, thì phải “thận trong” và “tiết chế” vậy.

HÀO 9.1

1- Sơn Lôi Di 9.1:

- “Xả nhĩ linh quy, quan ngã đóa di, hung.”

- Dịch: “Hào Chín Đầu, người bỏ phần tốt đẹp như rùa thiêng của mình mà nhìn ta tới trễ mép cầu ăn, có hung hiểm,”

- Tượng: Hào Chín Đầu không đáng được tôn trọng. Chưa đủ nói lên sự sang giầu quý phái.

2- Sơn Trạch Tổn hào 1:

- “Sơ Cửu, dĩ sự xuyền vãng, vô cữu ; chước tổn chi.”

- Dịch: Hào Chín Đầu, hoàn thành việc tự tu dưỡng, liền mau chóng đi lên giúp người ở ngôi cao, tất không có cữu hại, nên châm chước giảm bớt chất cứng của bản thân.”

- Tượng: Hào Chín Đầu tâm chí hợp nhất với bậc tôn trưởng.

3- Sơn Thiên Đại súc hào 1:

- “Sơ Cửu, hữu lệ, lợi dĩ.”

- Dịch: “Hào Chín Đầu, có nguy hiểm, lợi về sự tạm dừng không tiến.”

- Tượng: Hào Chín Đầu không thể cứ dấn thân vào tai biến, hoạn nạn mà đi. Không gặp tai ương.

4- Hỏa Thiên Đại hữu: hào 1

- “Cửu Tứ, vô giao hại, phỉ cữu ; gian tắc vô cữu.”

- Dịch: “Hào Chín Đầu, chưa đi lại giao du thì chưa mắc họa, tự nhiên thì không có cữu hại, nhưng tất phải nhớ là cần cẩn thận như lúc gặp gian nan, như vậy thì mới không gặp tội tỗi.”

- Tượng: Hào Chín Đầu nếu không giao du đi lại với ai thì cũng không mắc phải họa hại.

5- Thuần Càn hào 1:

- “Cửu Ngũ, Tiềm long, vật dụng.”

- Dịch: “Hào Chín đầu, rồng lớn ẩn mình dưới nước, tạm thời chưa thi thố được tài năng.”

6- Trạch Thiên Quải hào 1:

- “Sơ Cửu, tráng vu tiền chỉ, vãng bất thắng vi cữu.”

- Dịch: “Hào Chín Đầu, mạnh ở ngón chân trước, mạo hiểm tiến lên phía trước tất không thể thủ thắng, ngược lại sẽ dẫn đến cữu hại.”

- Tượng: Hào Chín Đầu không thể thủ thắng mà vội tiến lên, là mời gọi sự họa hại đến.

7- Trạch Phong Đại quá hào 1:

- “Sơ Lục, tạ dụng bạch mao, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Sáu Đầu, dùng cỏ tranh trắng lót (vật biếu người trên), tránh bị cữu hại.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu mềm thuận ở ngôi dưới, hành vi kính cẩn thận trọng.

8- Trạch Sơn Hàm hào 1:

- “Sơ Lục, Hàm kỳ mẫu.”

- Dịch: “Hào Sáu Đầu, giao cảm ở ngón chân cái.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu chí hướng phát triển ra phía ngoài.”

9 Trạch Địa Tụy hào 1:

- “Sơ Lục, hữu phu bất chung, nãi loạn nãi tụy, nhược hào, nhất ác vi tiếu: vật tuất, vãng vô cữu.”

- Dịch: “Hào Sáu Đầu, nếu không giữ được đến cùng sự thành tín trong lòng, tất sẽ làm loạn mà tụ họp bừa bãi với mọi người ; nếu chuyện tình mà kêu gọi người ở trên, thì có thể chỉ một cái bắt tay với người bạn dương cứng là lại vui cười được ngay ; Không phải lo nghĩ, đi lên tất không gặp cữu hại.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu tâm chí có sự mê loạn.

10- Thủy Địa Tỷ hào 1:

- “Sơ Lục, hữu phu tỷ chi, vô vữu ; hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha, cát.”

- Dịch: “Hào Sáu Đầu, trong lòng thành tín, thân mật gần gũi với bậc quân chủ thì không gặp cữu hại ; sự thành tín của bậc quân chủ như riệu ngon đựng đầy hũ, cuối cùng khiến cho kẻ ở xa đều đến quy phục, mà hưởng được sự vỗ về ở tận các miền khác, tốt lành.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu nói hào Chín Năm ứng rộng tới các nơi khác, tất sẽ được tốt lành.

11- Thuần Khôn hào 1:

- “Sơ Lục, lý sương, kiên băng chí.”

- Dịch: “ Hào Sáu Đầu, dẫm lên sương mỏng là sẽ đón đợi băng dày.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu nói lên khí âm đã bắt đầu ngưng tụ, theo như quy luật thì băng dày sẽ đến.

12- Sơn Địa Bác hào 1:

- “Sơ Lục, bác sàng dỹ túc, miệt ; trinh hung.”

- Dịch: “Hào Sáu Đầu, làm sập giường trước tiên phải đẽo từ chân, chân giường tất sẽ gãy gục, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm.”

- Tượng: Hào Sáu Đầu trước tiên bị làm ruỗng mọt phần nền móng phía dưới.

13- Sơn Lôi Di 9.1

HÀO 6.3

1- Sơn Lôi Di 6.3:

- Lục Tam, phất di ; trinh hung, thập niên vật dụng, vô du lợi.”

- Dịch: “Hào Sáu Ba, trái với lẽ thường “nuôi dưỡng” ; giữ vững chính bền để phòng hung hiểm, mười năm dài lâu không được thi thố tài dụng, nếu thi thố tất sẽ không được lợi gì.”

- Tượng: Hào Sáu Ba đại nghịch bất đạo với chính đạo nuôi dưỡng.

2- Hỏa Lôi Phệ hạp 9.4:

- “Lục Tam, phệ tích nhục, ngộ độc ; tiểu nhân lận, vô cữu.”

- Dịch: “ Hào Sáu Ba, gia hình không thuận lợi, như cắn phải thịt khô rắn cứng, lại ngộ độc ; nhưng như vậy bất quá chỉ hơi tiếc, chứ không đến nỗi cữu hại”

- Tượng: Hào Sáu Ba cư vị không thỏa đáng, đến nỗi bị kẻ thụ hình sinh oán.

3- Thiên Lôi Vô vọng 9.5:

- “ Lục Tam, vô vọng chi tai: hoặc hệ chi ngưu, hành nhân chi đắc, ấp nhân chi tai.”

- Dịch: “Hào Sáu Ba, không làm càn mà bị tai ương: ví như có người buộc một con trâu, người đi đường dắt về làm của mình, người trong ấp bị nghi oan là bắt trộm.”

- Tượng: Hào Sáu Ba vận số đến lúc bị tai bay vạ gió, bị đổ tội oan.

4- Trạch Lôi Tùy 6.6:

- “Lục Tam, hệ trượng phu, thất tiểu tử ; tùy hữu cầu đắc, lợi cư trinh.”

- Dịch: “Hào Sáu Ba, quấn quýt với đấng trượng phu dương cứng, mất kẻ tiểu tử ở dưới, theo với người mà ta đã cầu tất được, lợi nếu như ở yên, giữ vững chính bền.”

- Tượng: Hào Sáu Ba là bỏ kẻ tiểu tử ở dưới.

5- Trạch Địa Tụy 6.1:

- “Lục Tam, tụy như ta như, vô du lợi ; vãng vô cữu, tiểu lận.”

- Dịch: “Hào Sáu Ba, (muốn) tụ hội (mà) không người, nên luôn miệng ca thán, không được lợi gì ; đi lên sẽ không có cữu hại, nhưng có sự tiếc nhỏ.”

- Tượng: Sáu Ba lòng muốn hướng lên trên thuận theo dương cứng.

6- Trạch Thủy Khốn 9.2:

- “Lục Tam, khốn vu thạch, cứ vu tật lê ; nhập vu kỳ cung, bất kiến kỳ thê, hung.”

- Dịch: “khốn ở dưới đá lớn (đá rắn khó vào), dừa vào cây tật lê (nhiều gai khó dẫm) ; dù có chạy về nhà cũng không thấy vợ, có hung hiểm.”

- Tượng: Sáu Ba lấy chất âm mềm cưỡi lên kẻ cương cường. “Về nhà không thấy vợ” đây là hiện tượng chẳng lành.

7- Trạch Phong Đại quá 9.3:

- “Cửu Tam, đống náo, hung.”

- Dịch: “hào Chín Ba, cột ỏe, hung.”

- Tượng: Chín Ba không thể thêm gì để phụ giúp.

8- Thủy Phong Tỉnh 6.4:

- “Cửu Tam, tỉnh tiết bất thực, vị ngã tâm trắc ; khả dụng cấp, vương minh tịnh thụ kỳ phúc.”

- Dịch: “Hào Chín Ba, giếng nước được nạo vét sạch sẽ mà không được múc nấu ăn, khiến ta động lòng trắc ẩn, nên mau mau múc lấy nước giếng trong này, được vị vua sáng suốt thì vua tôi sẽ chung hưởng phúc trạch.”

- Tượng: Chín Ba có hành vi chưa được hiểu, thật khiến cho người ta động lòng chắc ẩn, “nhà vua sáng suốt” là để cho vua tôi cùng hưởng phúc trạch.

9- Địa Phong Thăng 6.5:

- “Cửu Tam, thăng hư ấp.”

- Dịch: “Hào Chín Ba, lên cao dễ dàng như vào thẳng nơi thành ấp không người.”

- Tượng: Chín Ba thượng thăng sẽ không có điều gì phải nghi ngờ suy nghĩ.

10- Sơn Phong Cổ 9.6:

- “Cửu Tam, cán phụ chi cổ, tiểu hữu hối, vô đại cữu.”

- Dịch: “Hào Chín Ba, uốn nắn điều tệ loạn của cha, hơi có hối hận, nhưng không có cữu hại lớn.”

- Tượng: Chín Ba mạo hiểm đưa ra lời can gián, cuối cùng không thể có cữu hại

11- Sơn Thiên Đại súc 9.1:

- “Cửu Tam, lương mã trục, lợi gian trinh, nhật nhàn cư về, lợi hữu du vãng.”

- Dịch: “Hào Chín Ba, ngựa tốt hay rong ruổi, lợi về nhớ kỹ sự gian nan, giữ vững chính bền ; không ngừng rèn luyện kỹ năng phòng vệ của ngựa xe, lợi về có sự đi.”

- Tượng: Chín Ba hợp chí với hào Chín Trên.

12- Sơn Hỏa Bí 6.2:

- “Cửu Tam, bí như, nhu như, vĩnh trinh cát.”

- Dịch: “Hào Chín Ba, văn sức được đẹp đẽ đến nhường ấy, nhiều lần ban huệ trạch cho người, giữ vững chính bền được lâu dài sẽ được sự tốt lành.”

- Tượng: Chín Ba có thể làm được như vậy thì không bao giờ bị kẻ khác lấn nhờn.

13- Sơn Lôi Di 6.3

HÀO 6.4

1- Sơn Lôi Di 6.4:

- “Lục Tứ, điên di, cát ; hổ thị đam đam, kỳ dục trục trục, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, đảo điên mà cầu dưới nuôi dưỡng (rồi lại dùng sự nuôi dưỡng đó nuôi lại mọi người), tốt lành ; như mắt hổ nhìn đăm đăm, gấp gáp cầu xin tiếp liền không dứt, tất không có cữu hại.”

- Tượng: Sáu Bốn ở ngôi trên mà có thể tỏa rọi ánh sáng của đức đẹp xuống dưới. Lòng đầy thèm muốn. Điềm cát, đã thực hiện xong công việc.

2- Phong Lôi Ích hào 4:

- “Lục Tứ, trung hàng cáo công tòng, lợi dụng vi y thiên quốc.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, giữ điều trung, thận trọng sự hành, cung kính thăm hỏi bậc vương công tất sẽ được lời nghe, kế theo, lợi về sự dựa vào bậc quân thượng trong việc dời đô, ích dân.”

- Tượng: Sáu Bốn lấy sự tăng ích tâm chí thiên hạ để khuyên gián vương công

3- Thủy Lôi Truân hào 4:

- “Lục Tứ, thừa mã ban như, cầu hôn cấu ; vãng cát, vô bất lợi.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, cưỡi ngựa dập dừu tới, muốn cầu hôn ; đi lên tất sẽ tốt lành, không gì là không lợi.”

- Tượng: Sáu Bốn muốn cầu hôn ở phía dưới mà tiến lên, như vậy là kẻ sáng suốt hiểu biết.

4- Thủy Địa Tỷ hào 4:

- “Lục Tứ, ngoại tỷ chi, trinh cát.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, ở ngoài thân mật, gần gũi với đấng quân chủ, giữ vững chính bền thì được sự tốt lành.”

- Tượng: Sáu Bốn thuận theo bậc tôn thượng.

5- Thuần Khảm hào 4:

- “Lục Tứ, tôn tửu, quỹ nhị, dụng phẫu, nạp ước tự dũ, chung vô cữu.”

6- Thủy Phong Tỉnh hào 4:

- “Lục Tứ, tỉnh trụ, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, giếng nước đang được xây lại, tất không cữu hại.”

- Tượng: Sáu Bốn chỉ có thể sửa giếng (không thể nóng vội mà nuôi người.

7- Trạch Phong Đại quá 9.4:

- “Cửu Tứ, đống long, cát ; hữu tha, lận.”

- Dịch: “Hào Chín Bốn, cột vươn thẳng như trước, tốt lành ; nếu ứng viện với dưới, tất sinh thẹn tiếc.”

- Tượng: Chín Bốn không thể cho cột lại ỏe xuống nữa.

8- Lôi Phong Hằng hào 4

- Lục Tứ, điền vô cầm.”

- Dịch: “Hào Sáu Bốn, đi săn không được cầm thú.”

- Tượng: Sáu Bốn ở lâu không đúng chỗ của mình, săn bắn làm sao mà bắt được cầm thú?

9- Hỏa Phong Đỉnh hào 4:

- “Cửu Tứ, đỉnh chiết túc, phúc công tốc, kỳ hình ốc, hung.”

- Dịch: “Hào Chín Bốn, vạc khó lòng chựu nổi sức nặng, chân vạc gãy, cao lương mỹ vị của vương công bị đổ hết, thân vạc ướt át bẩn thửu, có hung hiểm.”

- Tượng: Chín Bốn làm sao còn tín nhiệm được nữa. Chân đỉnh bị cắt, tức là lật đổ chế độ cũ, nên tin như thế nào cho phải?

10- Hỏa Thiên Đại hữu hào 4:

- “Cửu Tứ, phỉ kỳ bàng, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Chín Bốn, đừng để tỏ ra quá sự giầu có thì không bị họa hại.”

11- Thuần Ly hào 4:

- “Cửu Tứ, đột như kỳ lai như, phần như, tử như, khí như.”

- Dịch: “Hào Chín Bốn, giống như ngọn lửa mạnh đang thiêu đốt, nhưng chỉ trong phút chốc sẽ bị tiêu tán diệt vong, bị vứt bỏ sạch trơn.”

- Tượng: hư thế của Chín Bốn sẽ làm cho nó không còn nơi phụ bám, chứa chấp. Vật đột nhiên đến, không có chỗ dung thân.

12- Hỏa Lôi Phệ hạp hào 4:

- “Cửu Tứ, phệ can tỷ, đắc kim thỉ ; lợi gian trinh, cát.”

- Dịch: “Hào Chín Bốn, gia hình không thuận lợi như cắn miếng thịt có xương khô, nhưng có khí phách cương trực như mũi tên đồng, lợi về trong gian nan giữ vững được chính bền, tốt lành.”

- Tượng: đạo trị ngục của Chín Bốn chưa phát huy được sáng lớn, không sáng sủa gì.

13- Sơn Lôi Di hào 4

HÀO 6.5

1- Sơn Lôi Di 6.5

- “Lục Ngũ, phất kinh, cư trinh cát, bất khả thiệp đại xuyên.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm (ví như bậc “quân vương” dựa vào sự kẻ trên nuôi nình để nuôi thiên hạ), trái với lẽ thường, ở yên giữ vững chính bền thìđược tốt lành, không thể vượt qua sông cả sóng lớn.”

- Tượng: Sáu Năm nên thuận theo và dựa vào người hiền lương dương cứng Chín Trên. Thuận tình đi theo cấp trên, là điềm lành do “cư trinh”.

2- Địa Lôi Phục hào 5:

- “Lục Ngũ, đôn phục, vô hối.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm, đôn hậu, dốc lòng thành trở lại, không có gì phải hối hận.”

- Tượng: Sáu Năm ở ngôi giữa không lệch, tự mình suy xét để thành được đạo phục thiện.

3- Thuần Khôn hào 5:

- “Lục Ngũ, hoàng thường, nguyên cát.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm, xiêm váy mầu vàng, hết sức tốt lành.”

- Tượng: Sáu Năm lấy đức ôn hòa nhã nhặn để giữ đạo “trung”. “Hoàng thường”, văn hóa là trung tâm.

4- Địa Thủy Sư hào 5:

- “Lục Ngũ, điền hữu cầm, lợi chấp ngôn, vô cữu, trưởng tử xuất sư, đệ tử dư thi, trinh hung.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm, trong ruộng có cầm thú, lợi về sự vây bắt, tất không có gì cữu hại ; ủy nhiệm cho bậc trưởng giả cương chính thì có thể thống xuất quân đội, còn ủy nhiệm cho bọ tuổi trẻ không có đức thì tất phải trở xác, đại bại mà về, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm.”

- Tượng: “trưởng tử xuất sư”, hoạt động của trung tâm ; “đệ tử dư thi”, là kết quẻ của việc sử dụng người không đích đáng. Lệnh ban ra không thỏa đáng.

5- Địa Phong Thăng hào 5:

- “Lục Ngũ, trinh cát, thăng giai.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm, giữ vững chính bền thì được tốt lành, giống như cứ từng bậc một mà lên cao.”

- Tượng: hết sức toại nguyện với tâm chí lên cao, ý chí thật lớn lao.

6- Lôi Phong Hằng hào 5:

- “Lục Ngũ, hằng kỳ đức, trinh ; phụ nhân cát, phu tử hung.”

- Dịch: “Hào Sáu Năm, muốn thường giữ phẩm đức mềm đẹp, nên giữ vững chính bền ; đàn bà thì được tốt lành, đàn ông tất có hung hiểm.”

- Tượng: cần suốt đời thuận tòng một bề theo một chồng ; đàn ông phải điều hành mọi việc sao cho thích hợp, nếu mềm thuận như đàn bà tất có hung hiểm. Chồng ở rể, theo vợ là hung.

7- Trạch Phong Đại quá hào 5:

- “Cửu Ngũ, khô dương sinh hoa, lão phụ đắc kỳ sỹ phu ; vô cữu vô dự.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, cây dương khô ra hoa mới, bà già lọm khọm lấy được người chồng khỏe mạnh, không bị cữu hại, cũng không được khen.”

- Tượng: “dương khô ra hoa” như vậy thì sức sống làm sao lâu bền được. “bà già lọm khọm”, tình trạng như vậy thật đáng xấu hổ.

8- Thiên Phong Cấu hào 5:

- “Cửu Ngũ, dĩ khởi bao qua, hàm chương, hữu vẫn tự nhiên.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, lấy cành lá cây khởi bao bọc che trở cây dưa hấu ở dưới ; trong lòng ngậm sự sáng đẹp, tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trên trời xuống.”

- Tượng: tâm chí Chín Năm không đi ngược mệnh trời. Hàm nghĩa 9.5 nói về hiện tượng lạ “thiên thạch từ trời rơi xuống.”

9- Thuần Càn hào 5:

- “Cửu ngũ, phi long tại thiên, lợi hiện đại nhân.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, rồng lớn bay cao trên trời, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”

10- Thiên Hỏa Đồng nhân hào 5:

- “Cửu Ngũ, đồng nhân, tiên hào đào, nhi hậu tiếu, đại sư khắc tương ngộ.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, hòa đồng với người, trước thì khóc lóc kêu rên, sau thì vui mừng cười reo, đánh lớn rồi báo tiệp, chí đồng rồi tương ngộ hội hợp.”

- Tượng: “trước thì khóc lóc kêu rên”, do Chín Năm trung chính, chân thành thẳng thắn. “Phải đến khi đại quân xuất chiến mới tương ngộ hội hợp cùng kẻ chí đồng”, là do Chín Năm cùng với kẻ địch giao chiến và đã chiến thắng.

11- Thiên Lôi Vô vọng hào 5:

- “Cửu Ngũ, vô vọng chi tật, vật dược hữu hỷ.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, không càn bậy mà bị bệnh nhẹ, không cần phải uống thuốc mà vui vì khỏi bệnh.”

- Tượng: Chín Năm không dùng thử linh tinh, không thể thử thuốc.

12- Phong Lôi Ích hào 5:

- “Cửu Ngũ, hữu phu huệ tâm, vật vấn nguyên cát: Hữu phu huệ ngã đức.”

- Dịch: “Hào Chín Năm, có lòng chân thành, tín thực ban ơn cho thiên hạ, không cong nghi ngờ gì là hết sức tốt đẹp: Người trong thiên hạ tất sẽ chân thành tín thực cảm ân huệ và nghĩ tới sự báo đáp ân đức của ta.”

- Tượng: “tín thực ban ơn cho thiên hạ”, nói lên sự hết sức tốt lành là điều không cần phải hỏi. “báo đáp ân đức của ta”, nói lên hào Chín Năm được lớn chí tổn thượng ích hạ. Cái đạt được lớn nhất là ý chí.

13- Sơn Lôi Di hào 5

HÀO 9.6

1- Sơn Lôi Di hào 6

- “Thượng Cửu, do di ; lệ cát, lợi thiệp đại xuyên.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, thiên hạ nhờ nó mà được nuôi dưỡng, biết nguy mà thận trọng thì được tốt lành, lợi về vượt qua sông cả sóng lớn.”

- Tượng: Chín Trên có phúc khánh lớn.

2- Sơn Địa Bác hào 6:

- “Thượng Cửu, thạc quẻ bất thực, quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, quẻ lớn chưa bị hái xuống ăn, người quân tử hái được nó thì có thể ruổi xe đi cứu đời, kẻ tiểu nhân hái được tất sẽ đi đến chỗ phá vạn nhà.”

- Tượng: “quân tử đắc dư”, nói lên ý trăm họ do vậy được bề trên che trở. “tiểu nhân bác lư”, nói lên kẻ tiểu nhân cuối cùng không thể tin dùng được. Cuối cùng nhà nát không thể dùng được nữa.

3- Sơn Thủy Mông hào 6:

- “Thượng Cửu, kích mông, bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, làm mạnh để mở mang sự ngu tối, không lợi về dùng cách thức quá dữ dằn, cách này chỉ nên ngừa giặc mạnh.”

- Tượng: Chín Trên có thể khiến cho ý chí trên dưới hài hòa, ứng thuận.

4- Sơn Phong Cổ hào 6:

- “Thượng Cửu, bất sự vương hầu, cao thượng kỳ sự.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, không làm sự nghiệp của bậc vương hầu, đề cao hành vi ung dung tự tại của mình.”

- Tượng: ý chí của Chín Trên đáng để noi theo. Không việc gì là không đến tay vương hầu.

5- Hỏa Phong Đỉnh hào 6:

- “Thượng Cửu, đỉnh ngọc huyễn, đại cát, vô bất lợi.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, vạc có đòn bằng ngọc, hết sức tốt lành, không gì không lợi.”

- Tượng: Chín Trên dương cứng có thể điều tiết bằng âm mềm. Cương nhu hòa hợp.

6- Thiên Phong Cấu hào 6:

- “Thượng Cửu, cấu kỳ giác, lận, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Chín Trên, gặp nơi trống vắng, lòng có hối tiếc, nhưng không gặp cưu hại.”

- Tượng: ở nơi cao cùng cực nên dẫn tới sự hối tiếc là tương ngộ mà không người. Nghèo hèn sinh ra tiếc của (từ giầu có tụt dốc xuống thành nghèo khổ).

7- Trạch Phong Đại quá hào 6:

- “Thương Lục, quá thiệp diệt đỉnh ; hung, vô cữu.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, lội nước quá sâu đến nỗi ngập cả đầu ; có hung hiểm, nhưng không có lỗi gì.”

- Tượng: cứu đời mà mất mạng, không thể coi là có lỗi. qua sông hỏng thuyền.

8- Trạch Thiên Quải hào 6:

- “Thượng Lục, vô hào, chung hữu hung.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, không phải gào khóc, cuối cùng khó tránh sự hung hiểm.

- Tượng: Với tình thế ở cao bên trên cuối cùng không thể lâu dài.

9- Trạch Hỏa Cách hào 6:

- “Thương Lục, quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện, chinh hung, cư trinh cát.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, người quân tử như được con báo đốm giúp đã làm nên sự biến cách, kẻ tiểu nhân đua nhau làm thay đổi khuynh hướng thời trước, lúc này nếu cứ tiếp tục tiến mạnh không thôi, tất có hung hiểm, ở yên giữ vững chính bền thì được tốt lành.”

- Tượng: “quân tử báo biến”, ngôn ngữ hoa mỹ bay bổng. “Đánh dấu vào mặt tiểu nhân”, thuận tòng sự niến cách của nhà vua.

10- Trạch Lôi Tùy hào 6:

- “Thương Lục, câu hệ chi, nãi tùng, duy chi; vương dụng hưởng vu tây sơn.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, bắt giam, cưỡng bức phải theo, theo mà rằng chặt lấy ; đấng quân vương xuất quân thảo nghịch đặt tế lễ ở non tây.”

- Tượng: ở ngôi trên cùng, đạo theo cùng tận, “trên” nghèo khổ.

11- Thủy Lôi Truân hào 6:

- “Thương Lục, thừa mã ban như, khấp huyết liên như.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, người cưỡi ngựa muốn cầu hôn phối (nhưng lại không có sự cảm ứng) nên thương tâm khóc đến nỗi máu mắt chảy đầm đìa.”

- Tượng: làm sao mà có thể trường cửu như vậy được.

12- Địa Lôi Phục hào 6:

- “Thượng Lục, mê phục, hung, hữu tai sảnh. Dụng hành sư, chung hữu đại bại, dĩ kỳ quốc, quân hung, chí vu thập niên bất khắc chinh.”

- Dịch: “Hào Sáu Trên, mê lạc nhầm bước không biết đường trở lại, có hung hiểm, có tai ương họa hoạn. Nếu như dùng vào việc đem binh giao chiến thì cuối cùng sẽ thảm bại ; dùng vào việc trị nước, điều hành chính sự, tất làm cho nước loạn, vua gặp hung hiểm, cho đến nhiều năm sau cũng không thể chấn hưng phát triển.”

- Tượng: Sáu Trên đi ngược với con đường của đạo quân chủ dương cứng. Ngược với đạo lý của vua.

13- Sơn Lôi Di hào 6

...

Chào VanTrungHac

- Theo Hà Uyên, 1 hào chỉ có 5 quá trình tiệm tiến chuyển hoá, Hà Uyên cũng đã trao đổi với Liêm Trinh. Khi chúng ta trao đổi với nhau, thì Hà Uyên phân tích 12 quá trình là để hiểu thêm về những nguyên lý của Kinh Dịch.

- Hai người cùng Năm-Tháng-Ngày-Giờ đến hỏi vận mệnh, thì Hà Uyên chưa có câu trả lời với VanTrungHac.

- Quẻ ứng tức thì,...Hà Uyên rất ít, thiếu kinh nghiêm.

Hà Uyên có thể cùng thảo luận với VanTrungHac về chủ đề: tại sao một cung, lại quy định 7 quẻ phải theo Ngũ hành của quẻ Bát Thuần, vì phần này Hà Uyên vẫn có nhiều chỗ lúng túng.

TIÊN THIÊN NỘI TĨNH NGOẠI ĐỘNG - HẬU THIÊN NỘI ĐỘNG NGOẠI TĨNH

TIÊN THIÊN NỘI TĨNH NGOẠI ĐỘNG

Vị trí thứ nhất là Thuần Càn, số là 99, trong và ngoài đều là số “thành”, nội tĩnh ngoại tĩnh

Vị trí thứ 2 là Trạch Thiên Quải, số là 49, trong là số “thành”, ngoài là số “sinh”, do quẻ Càn hào 6 biến. Ngoại động nội tĩnh.

Vị trí thứ 3 là Hỏa Thiên Đại hữu, số là 39, ngoài “sinh” trong “thành”, ngoaì do quẻ Càn hào 5 biến.

Vị trí thứ 4 là Lôi Thiên Đại tráng, số là 89, cả trong và ngoài đều là số “thành”, ngoài do quẻ Khôn hào 4 biến.

Vị trí thứ 5 là Phong Thiên Tiểu súc, số là 29, nội tĩnh ngoại động, ngoại động do quẻ Càn hào 4 biến.

Vị trí thứ 6 là Thủy Thiên Nhu, số là 79, nội và ngoại đều là số “thành”, ngoại do quẻ Khôn hào 5 biến.

Vị trí thứ 7 là Sơn Thiên Đại súc, số là 69, nội và ngoại đều là số “thành", ngoại do quẻ Khôn hào 6 biến.

Vị trí thứ 8 là Địa Thiên Thái, số là 19, nội “thành” ngoại “sinh”.

Vị trí thứ 9 là Thiên Trạch Lý, số là 94.

Vị trí thứ 10 là Thuần Đoài, số là 44.

Vị trí thứ 11 là Hỏa Trạch Khuê, số là 34.

Vị trí thứ 12 là Lôi Trạch Quy muội, số là 84 Vị trí thứ 13 là Phong Trạch Trung phu, số là 24.

Vị trí thứ 14 là Thủy Trạch Tiết, số là 74.

Vị trí thứ 15 là Sơn Trạch Tổn, số là 64 Vị trí thứ 16 là Địa Trạch Lâm, số là 14.

Vị trí thứ 17 là Thiên Hỏa Đồng nhân, số là 93.

Vị trí thứ 18 là Trạch Hỏa Cách, số là 43.

Vị trí thứ 19 là Thuần Ly (10 + 9), số là 33.

Vị trí thứ 20 là Lôi Hỏa Phong, số là 83.

Vị trí thứ 21 là Phong Hỏa Gia nhân, số là 23.

Vị trí thứ 22 là Thủy Hỏa Ký tế, số là 73.

Vị trí thứ 23 là Sơn Hỏa Bí, số là 63.

Vị trí thứ 24 là Địa Hỏa Minh di số là 13.

Vị trí thứ 25 là Thiên Lôi Vô vọng, số 98 Vị trí thứ 26 là Trạch Lôi Tùy, số là 48.

Vị trí thứ 27 là Hỏa Lôi Phệ hạp, số là 38.

Vị trí thứ 28 là Thuần Chấn, số là 88.

Vị trí thứ 29 là Phong Lôi Ích, số là 28 Vị trí thứ 30 là Thủy Lôi Truân, số là 78.

Vị trí thứ 31 là Sơn Lôi Di, số là 68.

Vị trí thứ 32 là Địa Lôi Phục, số là 18.

Vị trí thứ 33 là Thiên Phong Cấu, số là 92.

Vị trí thứ 34 là Trạch Phong Đại quá, số là 42.

Vị trí thứ 35 là Hỏa Phong Đỉnh, số 32.

Vị trí thứ 36 là Lôi Phong Hằng, số là 82.

Vị trí thứ 37 là Thuần Tốn, số là 22.

Vị trí thứ 38 là Thủy Phong Tỉnh, số là 72.

Vị trí thứ 39 là Sơn Phong Cổ, số là 62.

Vị trí thứ 40 là Địa Phong Thăng, số là 12.

Vị trí thứ 41 là Thiên Thủy Tụng, số là 97.

Vị trí thứ 42 là Trạch Thủy Khốn, số là 47.

Vị trí thứ 43 là Hỏa Thủy Vị tế, số là 37.

Vị trí thứ 44 là Lôi Thủy Giải, số là 82 Vị trí thứ 45 là Phong Thủy Hoán, số là 27.

Vị trí thứ 46 là Thuần Khảm, số là 77.

Vị trí thứ 47 là Sơn Thủy Mông, số là 67.

Vị trí thứ 48 là Địa Thủy Sư, số là 17.

Vị trí thứ 49 là Thiên Sơn Độn, số là 96.

Vị trí thứ 50 là Trạch Sơn Hàm, số là 46.

Vị trí thứ 51 là Hỏa Sơn Lữ, số là 36.

Vị trí thứ 52 là Lôi Sơn Tiểu quá, số là 86.

Vị trí thứ 53 là Phong Sơn Tiệm, số là 26.

Vị trí thứ 54 là Thủy Sơn Kiển, số là 76.

Vị trí thứ 55 là Thuần Cấn, số là 66.

Vị trí thứ 56 là Địa Sơn Khiêm, số là 16 Vị trí thứ 57 là Thiên Địa Bĩ, số là 91.

Vị trí thứ 58 là Trạch Địa Tụy, số là 41.

Vị trí thứ 59 là Hỏa Địa Tấn, số là 31.

Vị trí thứ 60 là Lôi Địa Dự, số là 81.

Vị trí thứ 61 là Phong Địa Quan, số là 21.

Vị trí thứ 62 là Thủy Địa Tỷ, số là 71.

Vị trí thứ 63 là Sơn Địa Bác, số là 61.

Vị trí thứ 64 là Thuần Khôn, số là 11.

HẬU THIÊN NỘI ĐỘNG NGOẠI TĨNH

1- Càn ngoại:

- Vị trí thứ nhất là Thuần Càn, số thực dụng là 99

- Vị trí thứ 9 (1 +8) là Thiên Trạch Lý, số là 94.

- Vị trí thứ 17 (9 + 8) là Thiên Hỏa Đồng nhân, số là 93.

- Vị trí thứ 25 (17 +8) là Thiên Lôi Vô vọng, sô là 98

- Vị trí thứ 33 (25 +8) là Thiên Phong Cấu, số là 92.

- Vị trí thứ 41 (33 +8) là Thiên Thủy Tụng, số là 97.

- Vị trí thứ 49 (41 + 8) là Thiên Sơn Độn, số là 96.

- Vị trí thứ 57 (49 + 8) là Thiên Địa Bĩ (bế tắc), số là 91 2- Đoài ngoại:

- Vị trí thứ 2 là Trạch Thiên Quải, số là 49,(58 + 8 = 66 – 64 = 2)

- Vị trí thứ 10 là Thuần Đoài (vui vẻ), số là 44

- Vị trí thứ 18 là Trạch Hỏa Cách (cải cách), số là 43.

- Vị trí thứ 26 là Trạch Lôi Tùy (theo), số là 48.

- Vị trí thứ 34 là Trạch Phong Đại quá (quá lớn), số là 42.

- Vị trí thứ 42 là Trạch Thủy Khốn, số là 47.

- Vị trí thứ 50 là Trạch Sơn Hàm (trai gái cảm nhau), số là 46.

- Vị trí thứ 58 là Trạch Địa Tụy (nhóm họp), số là 41. 3- Ly ngoại:

- Vị trí thứ 3 là Hỏa Thiên Đại hữu, số là 39, (59 + 8 = 67 – 64 = 3)

- Vị trí thứ 11 là Hỏa Trạch Khuê (chia lìa), số là 34.

- Vị trí thứ 19 là Thuần Ly, số là 33.

- Vị trí thứ 27 là Hỏa Lôi Phệ hạp (cắn để hợp), số là 38.

- Vị trí thứ 35 là Hỏa Phong Đỉnh, số 32.

- Vị trí thứ 43 là Hỏa Thủy Vị tế, số là 37.

- Vị trí thứ 51 là Hỏa Sơn Lữ (bỏ nhà đi tha hương), số là 36.

- Vị trí thứ 59 là Hỏa Địa Tấn (tiến lên), số là 31. 4- Chấn ngoại:

- Vị trí thứ 4 là Lôi Thiên Đại tráng, số là 89,(60 + 8 = 68 – 64 = 4)

- Vị trí thứ 12 là Lôi Trạch Quy muội (em gái về nhà chồng), số là 84.

- Vị trí thứ 20 là Lôi Hỏa Phong (thịnh, lớn) số là 83.

- Vị trí thứ 28 là Thuần Chấn, số là 88.

- Vị trí thứ 36 là Lôi Phong Hằng (lâu dài), số là 82

- Vị trí thứ 44 là Lôi Thủy Giải, số là 87.

- Vị trí thứ 52 là Lôi Sơn Tiểu quá (quá chút ít), số là 86.

- Vị trí thứ 60 là Lôi Địa Dự (vui sướng), số là 81. 5- Tốn ngoại:

- Vị trí thứ 5 là Phong Thiên Tiểu súc, số là 29 (61 + 8 = 69 – 64 = 5)

- Vị trí thứ 13 là Phong Trạch Trung phu (có đức tin trong lòng), số là 24.

- Vị trí thứ 21 là Phong Hỏa Gia nhân, số là 23.

- Vị trí thứ 29 là Phong Lôi Ích (tăng lên), số là 28. -

- Vị trí thứ 37 là Thuần Tốn, số là 22.

- Vị trí thứ 45 là Phong Thủy Hoán (chia lìa, tan tác), số là 27.

- Vị trí thứ 53 là Phong Sơn Tiệm (tiến dần), số là 26.

- Vị trí thứ 61 là Phong Địa Quan (xem xét), số là 21. 6- Khảm ngoại:

- Vị trí thứ 6 là Thủy Thiên Nhu (chờ đợi), số là 79 (62 + 8 = 70 – 64 = 6)

- Vị trí thứ 14 là Thủy Trạch Tiết (tiết chế lại), số là 74.

- Vị trí thứ 22 là Thủy Hỏa Ký tế, số là 73, nạp Mậu Thìn, hành 9 vận.

- Vị trí thứ 30 là Thủy Lôi Truân (đầy và khó khăn), số là 78.

- Vị trí thứ 38 là Thủy Phong Tỉnh, số là 72.

- Vị trí thứ 46 là Thuần Khảm, số là 77.

- Vị trí thứ 54 là Thủy Sơn Kiển, số là 76.

- Vị trí thứ 62 là Thủy Địa Tỷ, số là 71. 7- Cấn ngoại:

- Vị trí thứ 7 là Sơn Thiên Đại súc, số là 69 (63 + 8 = 71 – 64 = 7)

- Vị trí thứ 15 là Sơn Trạch Tổn, số là 64.

- Vị trí thứ 23 là Sơn Hỏa Bí (rực rỡ, sáng sủa), số là 63.

- Vị trí thứ 31 là Sơn Lôi Di (nuôi nấng), số là 68

- Vị trí thứ 39 là Sơn Phong Cổ, (đổ nát, công việc), số là 62.

- Vị trí thứ 47 là Sơn Thủy Mông (non yếu, mù mờ), số là 67.

- Vị trí thứ 55 là Thuần Cấn, số là 66 (46), Cấn nạp Bính Dần, hành 1 vận.

- Vị trí thứ 63 là Sơn Địa Bác (tiêu mòn, bóc lột), số là 61 8- Khôn ngoại:

- Vị trí thứ 8 là Địa Thiên Thái (hanh thông), số là 19.

- Vị trí thứ 16 là Địa Trạch Lâm (lớn tới), số là 14.

- Vị trí thứ 24 là Địa Hỏa Minh di số là 13.

- Vị trí thứ 32 là Địa Lôi Phục (trở lại), số là 18.

- Vị trí thứ 40 là Địa Phong Thăng, số là 12.

- Vị trí thứ 48 là Địa Thủy Sư (đám đông), số là 17.

- Vị trí thứ 56 là Địa Sơn Khiêm (nhún nhường), số là 16.

- Vị trí thứ 64 là Thuần Khôn, số là 11.

...

Thiệu Ung viết: "Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8". Theo Tiên thiên, thì quẻ Thuần Càn ở vị trí thứ 1, cộng thêm với 9 thì tới quẻ Thuần Đoài có số thứ tự là 1 + 9 = 10. Cộng thêm với 9 thì được quẻ Thuần Ly có số thứ tự là 10 + 9 = 19. Tiếp tục cộng thêm với 9 thì được quẻ Thuần Chấn có số thứ tự là 19 + 9 = 28. Cộng thêm với 9 thì được quẻ Thuần Tốn có số thứ tự là 28 + 9 = 37. Tiếp tục công thêm với 9 thì được quẻ Tập Khảm có số thứ tự là 37 + 9 = 46. Cộng thêm với 9 thì được quẻ Thuần Cấn có số thứ tự là 46 + 9 = 55. Tiếp tục cộng thêm với 9 thì được quẻ Thuần Khôn có số thứ tự là 55 + 9 = 64. Theo Hậu thiên, quẻ Thuần càn gồm: 1, 9, 17, 25, 33, 41, 49, 57 (1, 9, 7, 5, 3, 1, 9, 7). Từ số thứ tự cuối của quẻ Càn 57 + 9 = 66 ta trừ đi 64 quẻ 66 - 64 = 2. Nên quẻ thuần Đoài mang số thứ tự khởi đầu là 2. Thiệu Ung nói: Càn 1, Đoài 2. Theo Hậu thiên, quẻ Đoài gồm các số: 2, 10, 18, 26, 34, 42, 50, 58 (2, 0, 8, 6, 4, 2, 0, 8). Từ số thứ tự cuối của quẻ Đoài cộng thêm với 9, tức là 58 + 9 = 67 - 64 = 3. Do vậy 3 là số thứ tự đầu tiên của quẻ Ly. Nên nói Ly 3. Tiếp tục như vậy, nên Thiệu Ung viết: Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8. Thiên Trạch Hỏa Lôi, Phong Thủy Sơn Địa - 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8.

...

Từ hai sườn dốc - từ đó sinh ra các đối lập tạo nghĩa. Âm Dương, tự nhiên luôn tồn tại "thái quá" và "bất cập", đối lập tạo nghĩa của Âm Dương cũng theo quy luật của tự nhiên, Âm thái quá và bất cập, cũng như Dương thái quá và bất cập, hình thành bốn trạng thái: Thái âm, Thiếu dương, Thái Dương, Thiếu âm. Trong tự nhiên, đặc thù mang tính khái quát cao đó là "nước", luôn luôn giữ được sự "thăng bằng". Trời 1 ở Bắc, Đất 2 ở Nam, Trời 3 ở Đông, Đất 4 ở Tây, Trời 5 ở Trung tâm, Đất 6 ở Bắc.

...

ỨNG DỤNG TIÊN THIÊN - HẬU THIÊN

Can Chi Năm-Tháng-Ngày-Giờ nạp quẻ Dịch

Ví dụ: Năm Kỷ Sửu 2009, tháng Kỷ Tị, ngày Canh Tý, giờ Mậu Tuất.

- Năm Kỷ Sửu, nạp quẻ Hỏa thủy Vị tế, có số thứ tự là 43, có số thực dụng là 37.

- Tháng Kỷ Tị, nạp quẻ Thủy Lôi Truân, có số thứ tự là 30, có số thực dụng là 78

- Ngày Canh Tý, nạp quẻ Lôi Phong Hằng, có số thứ tự là 36, có số thực dụng là 82.

- Giờ Canh Tuất, nạp quẻ Phong Hỏa Gia nhân, có số thứ tự là 21, có số thực dụng là 23.

+ Thiên Can: Kỷ - Kỷ - Canh - Canh nạp số thực dụng là 3-7-8-2, đã hội đủ TAM QUÝ: Sinh khí - Thiên y - Diên niên (Tham Cự Vũ)

+ Địa chi: Sửu - Tị - Tý - Tuất nạp số thực dụng là 7 -8- 2- 3, cũng hội đủ Sinh khí - Diên niên - Thiên y (Tham-Cự-Vũ)

...

Ý NGHĨA CỦA SỰ KẾT HỢP

CẶP SÔ KÊT HƠP

16, 27, 38, 49 là sao Tham lang, thần là Sinh khí (hào 3 biến)

12, 34, 67, 89 là sao Liêm trinh, thần là Ngũ quỷ (hào 2 – 3 biến)

19, 28, 37, 46 là sao Vũ khúc, thần là Diên niên (3 hào đều biến)

13, 24, 68, 79 là sao Văn khúc, thần là Lục sát (hào 1 – 3 biến)

18, 29, 36, 47 là sao Lộc tồn, thần là Họa hại (hào 1 biến)

14, 23, 69, 78 là sao Cự môn, thần là Thiên y (hào 1 – 2 biến)

17, 26, 39, 48 là sao Phá quân, thần là Tuyệt mệnh (hào 2 biến)

1- Sinh khí – Tham lang: phát sinh sự quan hệ về vật chất hay tinh thần, như có tiền, có tiền để trả nợ,… hay gặp gỡ đồng nghiệp, bạn cũ, chiêu đãi, …Sức khỏe tốt, sinh tài thêm đinh. Là những điều kiện sinh sôi, nảy nở, tiến hành thuận lợi, cây côi tươi tốt, chăn nuôi phát triển,…

2- Ngũ quỷ - Liêm trinh: là 5 thứ tà khí quấy rối sự sống, quấy rối quan hệ con người với con người, thường gây ra sự bực mình, rắc rối (do bị tai nan, mất mát, kiện thưa, cãi vã, vạ miệng,…), đi họp đi công tác, công việc bận rộn. Hay bị tai nạn nếu gặp thêm Ngũ hoàng (số 5)

3- Diên niên – Vũ khúc: là chủ về sự bền vững dài lâu, sức khỏa vững vàng, trường thọ, sự may mắn trong các mối quan hệ tình cảm gia đình và xã hội có tính bất ngờ (như trúng số, hay bị tai nạn mà người thì không bị sao,…) {chỉ Chấn và Tốn kết hợp mới được trường thọ bách niên}

4- Lục sát – Văn khúc: là sự thiệt hại những gì thuộc phạm vi chủ thể có trách nhiệm chăm sóc: như con cái, gia súc, cây trái,…là sự cản trở, công việc trái với ý định ban đầu, quan hệ bị xấu đi do tác động của bên ngoài. Tâm trạng thường bất an, công việc khó có kết quả (va chạm xe cộ).

5- Họa hại - Lộc tồn: là sự thiệt hại, hao tán tài vật thuộc quyền chủ thể quản lý sử dụng. Thiệt hại về vật chất hay tinh thần (trả tiền, mất tiền, đồ đạc đang sử dụng tự nhiên bị hư hỏng, cãi vã về đồ đạc, thị phi điều tiếng,…), phải đi xa, tổn tài, dễ mắc bệnh tật.

6- Thiên y - Cự môn: là sự giải thoát những vướng mắc trong đời sống mọi mặt. Người xưa cho rằng Thiên y như là một lực âm phù đã theo sát để cứu nguy. Giả thoát khỏi sự bế tắc. Đúng lúc gay go nhất, bí nhất, nan nguy nhất thì lại có cơ hội để vượt được qua như vật chất hay tinh thần. Có lợi cho sức khỏe, ít bệnh hay nếu có bệnh thì mau khỏi. Tâm lý ổn định, đạo đức lành mạnh.

7- Tuyệt mệnh – Phá quân: sức khỏe suy giảm, sự nghiệp trở ngại, tai nan, tình cảm hay các mối quan hệ bị xấu đi, bị người trở mặt, gặp sự chia lìa, gặp khách không mời mà đến,…, nhưng những việc lớn trong đời lại thường đến vào thời điểm này, tùy theo mệnh cục của mỗi người mà gặp hung hay cát.

8- Phục vị: là khí chất sinh học theo tự nhiên, mọi việc diễn tiến bình thường, nếu gặp tốt thì sẽ tốt, nếu gặp xấu thì sẽ xấu, căn cứ phụ thuộc vào các mối quan hệ và tại thời gian, thời điểm ảnh hưởng vào lúc đó. Ví như ngày là Phục vị, mà gặp tháng hay năm là Thiên y, thì sẽ thuộc về Thiên y, còn nếu gặp năm, tháng hay giờ là Ngũ quỷ, thì sẽ là Ngũ quỷ. Tuổi Khôn Cấn hay có sự va chạm nhất về xe cộ.

...

Đất và Trời giao nhau thì thái bình (Địa Thiên Thái), Sấm (lôi) và Gió (phong) giao nhau thì lâu dài (Lôi Phong Hằng), Thủy và Hỏa giao nhau thì vượt qua (Thủy Hỏa Ký tế), Đầm (trạch) và Núi (sơn) giao nhau thì trai gái cảm nhau (Trạch Sơn Hàm). Cứ một âm một dương gọi là Đạo, là con đường của sự điều chỉnh.

Dương sinh ở Đông mà thịnh ở Nam ; Âm sinh ở Tây mà thịnh ở Bắc ; trong Dương có Âm, trong Âm có Dương, rồi Lưỡng nghi, rồi Tứ tượng, rồi Bát quái, đều là tự nhiên mà có.

Hà đồ giải thích sự sinh thành của Ngũ hành: “Thiên 1 sinh Thủy, địa 6 đã thành ; Địa 2 sinh Hỏa, Thiên 7 đã thành ; Thiên 3 sinh Mộc, Địa 8 đã thành ; Địa 4 sinh Kim, Thiên 9 đã thành ; Thiên 5 sinh Thổ, Địa 10 đã thành”.

Lạc thư: “Dọc ngang đều là 15, mà 7, 8, 9, 6 lặp lại là giảm đi. Hư 5 chia 10, mà 1 hàm 9, 2 hàm 8, 3 hàm 7, 4 hàm 6, như vậy tham ngũ tổng hợp. Đan xen không thích hợp thì không gặp số hợp của nó.

Vạn vật sinh – thành đều có số và môi trường tồn tại, sinh - tử tồn vong, đủ số thì sinh, số tăng thì trưởng, số giảm thì suy, số hết thì mất. Thịnh suy được mất tất cả đều ở số.

Thiên thời, tức là sắp xếp sử dụng thời gian Năm – Tháng – Ngày - Giờ

...

Thiệu Ung viết: “Cái gọi là cung vị Mậu là ở hai ngôi sao Khuê (Tuất) và sao Bích (Hợi). Cung vị Kỷ là ở hai sao Giác (Thìn) sao Chẩn (Tị).

Khuê Bích là thời tiết giữa Lập thu đến Lập đông. Giác Chẩn là giữa Lập xuân đến Lập hạ, vì vậy là cửa ngọc của Trời Đất.”

Ngày dài thì thời tiết ấm áp, vạn vật phát sinh, đều bắt đầu từ cung vị sao Khuê sao Bích (Tuất - Hợi). Ngày ngắn thì thời tiết giá lạnh, vạn vật thu tàng, đều bắt đầu từ cung vị sao Giác, sao Chẩn (Thìn - Tị), vì vậy mà nói rằng: tiết Xuân phân thì chủ “mở”, tiết Thu phân thì chủ “đóng”.

Từ sao Khuê – Bích đi về phương Nam, mặt Trời là đạo Dương, vì vậy gọi là Thiên môn. Từ sao Giác - Chẩn đi về phương Bắc, mặt Trời là đạo Âm, vì vậy gọi là Địa hộ.

Từ cung vị sao Khuê, sao Bích, và can Mậu thì bắt đầu ngày dần dài ra, khí Dương thịnh dần, giống như là mở cửa Trời. Đến cung vị sao Giác, sao Chẩn, can Kỷ thì ngày dần ngắn lại, khí Âm thịnh dần, khí Dương thu bế, giống như mở cửa Đất. Cho nên gọi là Thiên môn Địa hộ.

Thuyết Thiên môn Địa hộ trình bày: “do Âm xuất Dương, do Dương nhập Âm”, thể hiện quy luật thịnh suy, chuyển hoá, tiêu trưởng Âm Dương bốn mùa. Trùng âm tất dương, trùng dương tất âm. Nguyên lý này cùng ý nghĩa với “dương trưởng thì âm tiêu”, “âm tiêu thì dương trưởng”.

Cái máy của tạo hoá không thể không có sinh, cũng không thể không có chế ước. Không có sinh thì không có sự phát triển, không có chế ước thì sự phát triển cao lên mà có hại. Do vậy, trong sinh phải có chế ước, trong chế ước phải có sinh. Nếu giữa Âm Dương mất chế ước, thì sẽ phát sinh thiên thắng (mất cân đối), thậm chí quyết ly máy tạo hoá không thể nào duy trì được.

Nguyên nhân cái gì gây ra sự mất chế ước giữa Âm Dương?

Quá trình sinh mệnh của con người từ khi sinh ra, lớn lên, khoẻ mạnh, già yếu và chết, cũng là giai đoạn chuyển hoá tiêu trưởng của Âm Dương, từ Dương bắt đầu sinh, Dương thịnh dần, Dương thịnh vượng, đến Âm bắt đầu sinh, Âm thịnh dần, Âm cực thịnh.

Nguyên lý Thái cực sinh ra Âm Dương, Âm Dương hoá hợp sinh ra Ngũ hành, Ngũ hành hàm chứa vạn vật. Khí hoá vận hành, Âm Dương thăng giáng: “Thuỷ là chí âm, cho nên ở dưới ứng với vị trí cực âm. Hoả là chí dương, nên ở trên, ứng với vị trí thịnh dương. Mộc chủ thăng phát, nên ở trên, ứng với vị trí phương Đông. Kim chủ thu giáng, nên ở bên phải, ứng với phương Tây. Thổ là mẹ của số thành, nên ở giữa.

Địa khí thăng lên, Thiên khí giáng xuống, là khí của Trời Đất tác dụng hỗ tương. Sau khi thăng rồi giáng xuống, đó là tác dụng của Trời. Sau khi giáng rồi thăng, đó là tác dụng của Đất. Thiên khí giáng xuống, khí rót về mặt đất. Địa khí thăng lên, khí bay bốc ở khung trời. Cho nên, trên dưới giao nhau và hô ứng với nhau, thăng giáng lấy làm nhân quả lẫn nhau, mà phát sinh biến hoá.

Kỳ số

Nhất Lục cư hạ, Nhị Thất cư thượng, Tam Bát cư tả, Tứ Cửu cư hữu, Ngũ Thập cư trung. Phục hy tắc chi, dĩ họa Bát quái.

Số sinh từ 1 đến 5, tượng trưng sự phát sinh của vạn vật. Số thành từ 6 đến 10, tiêu biểu cho sự hình thành của sự vật. Thổ là nơi vạn vật bắt đầu sinh ra. Thổ là gốc của số sinh, cho nên số sinh và số thành đều là “5”.

Số dương của Hà đồ sinh ở “1”, cực ở “9”. Số âm sinh ở “2”, cực ở “8”. Lấy “9” làm cực của số dương, là bắt đầu của số âm.

...

Mô hình “từ trong ra” là mô hình mở, đi ngược chiều kim đồng hồ, từ phải sang trái, từ trên xuống dưới. Khác với chiều vặn đi vào, đi thuận chiều kim đồng hồ, từ trái sang phải, là mô hình đóng.

Khi xét việc đã qua phải theo trật tự thuận, đi theo các con số lớn dần, (tức là chiều từ âm đến dương). Còn khi xét việc sắp tới thì phải theo trật tự nghịch của các con số, đi theo các con số nhỏ dần.(tức là chiều từ dương sang âm)

Theo nguyên tắc cơ chế tâm truyền, mọi thông tin đều phải từ giữa phát ra, đây là thời điểm xẩy ra sự việc. Nếu lấy thời điểm này mà xét, thì việc trở về quá khứ của sự việc, là trở về những quẻ đã sinh, tức là những quẻ ta đã biết trước. Như vậy phải là những quẻ ở miền dương, tức là từ Chấn-4 đến Ly-5, đến Đoài-6, rồi đến Càn-7. Đi từ Chấn đến Càn là miền Dương, là đi theo chiều thuận của các con số 4-5-6-7 là chiều các con số lớn dần.

Khi muốn xét tương lai của sự việc đang xẩy ra thì phải theo hướng các quẻ chưa sinh, tức là những quẻ chưa biết. Như vậy phải là những quẻ ở miền âm, tức là từ Tốn-3 đến Khảm-2, rồi đến Cấn-1, và đến Khôn-0, tức là đi theo chiều ngược của các con số (chiều các con số nhỏ dần 3-2-1-0), như người kể ngược bốn mùa vậy!

Càn-7, Đoài-6, Ly-5, Chấn-4, Tốn-3, Khảm-2, Cấn-1, Khôn-0.

<-- <-- <-- <-- --> - - -> - - -> - - ->

Khi ta cho rằng Chấn-Tốn là thời điểm hiện tại của sự việc thì, muốn biết tương lai phải đi theo chiều nghịch của các con số, tức là chiều các con số giảm dần cùng với các quẻ tương ứng của chúng. Cũng có thể tìm hiểu quá khứ của sự việc để đoán biết tương lai thông qua các quẻ đối xứng, là các quẻ biến dịch hay “quẻ đối” phản của chúng, vì quy luật sinh-thành của các con số là đối xứng từng cặp một, các con số đều có hai miền đối xứng: quá khứ và tương lai so với thời điểm xẩy ra. Tìm hiểu quá khứ để biết được tương lai, đây chính là chìa khóa của Dịch.

Mặt trời mọc từ Đông sang Tây, là quy luật của tạo hóa, là từ tối đến sáng, là từ âm đến dương, từ “không” đến “có”; giai đoạn này được gọi là “ quẻ đã sinh”, đây là trật tự thuận. Ngũ hành thuận bắt đầu từ: Thổ - Thủy - Mộc - Hỏa – Kim. Giai đoạn quẻ chưa sinh bắt đầu bằng trật tự từ Tây sang Đông, từ sáng đến tối, ngũ hành ngược lại là: Kim-Hỏa-Mộc-Thủy-Thổ. Nên nói Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8 thì đều được các quẻ chưa sinh, như người kể ngược thứ tự bốn mùa vậy. Đây là thứ tự của quẻ chưa sinh.

Quy luật của tự nhiên tiến từ “không” đến “có”, cái “không” thuộc âm, cái “có” thuộc dương. Âm Dương cũng là trạng thái “đóng - mở” của tạo hóa. Tạo hóa tiến từ trạng thái “đóng” sang trạng thái “mở”, từ không đến có, từ thế giới vô hình sang thế giới hữu hình. Cái “có” đầu tiên thuộc về Dương, nó tương ứng với số 1, là số lẻ, số cơ.

Vạn vật hiện hữu quanh ta thì muôn hình vạn trạng theo từng chủng loại, theo từng loài. Tất cả, đều xuất phát từ sự “sinh-thành” và vị trí ban đầu của các con số trong không gian, cũng như quy luật biến hóa theo “tượng âm dương” của chúng.

Biến Dịch là vòng tuần hoàn lớn của Tạo hóa, Càn Khôn đóng vai trò mở đầu và kết thúc những quá trình lâu dài. Đối với đời người cũng như vạn loại sinh giới, sự biến dịch từ Càn tới Khôn, đồng nghĩa với sự kết thúc chu trình sống này, để chuyển sang một chu trình sống khác. Sự biến dịch từ Âm sang Dương hay từ Dương sang Âm, là sự biến đổi về bản thể các tượng số, luôn luôm tiệm tiến trải qua 10 giai đoạn.

Suy nghĩ về bát quái

Trải qua mấy ngàn năm, hệ Bát Quái được sắp đi xếp lại nhiều lần, trong đó lần sắp xếp của Chu Văn Vương phản ánh một sự biến đổi nhất định về chất. Bát Quái sắp xếp theo cách được coi là của Chu Văn Vương này gọi là “Hậu Thiên Bát Quái”. Đây là hình Bát Quái phổ biến nhất cho đến ngày nay.

Bài báo này nói riêng về một số điều tìm hiểu thêm về trật tự trong “Hậu Thiên Bát Quái”.

Trong sách Kinh Dịch, Nguyễn Hiến Lê cho biết hai tên “Tiên Thiên Bát Quái” và “Hậu Thiên Bát Quái” không thấy dấu hiệu xuất hiện trong Kinh Dịch, chắc là do người đời sau đặt ra, có thể là từ đời Hán. Nhưng, những “người đời sau này” căn cứ vào đâu để đặt ra hai cái tên đối chọi nhau như vậy. Hình như ngay tên gọi đó đã xác nhận một sự phân biệt rạch ròi, một bước biến đổi về chất. Nguyễn Hiến Lê cũng đưa ra một số lời giải thích, nhưng rồi chính ông lại bác bỏ cả, và thú thật là “không hiểu nổi”, và “Kinh Dịch có nhiều điều khó hiểu”... “ta phải chấp nhận vậy thôi”.

Trong một công trình hết sức nghiêm túc và rất có triển vọng, mới đây ông Nguyễn Hoàng Phương đã dùng lý thuyết dập mờ để nghiên cứu phân tích một số thuyết dự báo Trung Quốc cổ, trong đó có Bát Quái. Về Bát Quái, ông đã đưa ra một hệ phương trình có hai hệ nghiệm, và ông gán cho một hệ nghiệm là của “Tiên Thiên”, còn hệ nghiệm kia là của “Hậu Thiên” thì chưa có lời giải thích. Nhưng vì sao cái này là "Tiên Thiên", cái kia là "Hậu Thiên" thì chưa có lời giải thích. Và từ những hệ nghiệm đó tìm ngược trở lại các đặc thù của “Tiên Thiên” và “Hậu Thiên” thì chưa thấy nói đến, ngay đến cách làm việc này cũng còn bỏ ngỏ. Cho nên, chưa thể từ các hệ nghiệm đó mà nhận biết sự phân biệt về chất giữa “Tiên Thiên” và “Hậu Thiên”, thậm chí cũng chưa nêu bật được sự khác nhau về hình thức giữa hai cách sắp xếp này.

“Tiên Thiên” và “Hậu Thiên” khác nhau trước hết ở cách sắp xếp thứ tự, và đặc biệt ở nội hàm, tượng ở “Hậu Thiên” được mở rộng thêm nhiều. Mỗi cách sắp xếp là theo một tiêu chí riêng nào đó, và chính cái tiêu chí sắp xếp đó sẽ bộc lộ tư tưởng, ý đồ của sự sắp xếp. Như bài báo trước đã trình bày, “Tiên Thiên” được sắp xếp theo hệ thống cấu trúc. Cứ theo ngôn từ mà xét, từ điển Hán ngữ hiện đại cho biết “Tiên Thiên” là để chỉ “người và động vật khi còn là bào thai”. Vậy “Tiên Thiên Bát Quái” là Bát Quái thời kỳ phôi thai, còn là một “cấu trúc tự thân”, thậm chí chưa phải là một sự vật cụ thể, có sức sống. “Kinh dịch” Khi chỉ mới có Bát Quái, chưa có lời văn, thì ý nghĩa “dịch” dù có hàm súc mấy đi nữa cũng chứa đựng một nội hàm rất mờ. Khi Văn Vương viết lời văn đầu tiên cho “Kinh Dịch”, có thể ông còn được học truyền khẩu cái nội hàm mờ đó, và đã chế biến nó theo cách của ông.

Văn Vương đã sắp xếp lại Bát Quái theo những tiêu chí nào đó phù hợp với những lời giải thích “dự báo học” mà ông gán cho các quẻ. “Kinh Dịch” hình thành và ra đời dưới dạng hoàn chỉnh, cả về biểu tượng và lời văn. Bát Quái được sắp xếp lại này gọi là “Hậu Thiên Bát Quái”, tức là Bát Quái thời kỳ đã thực sự ra đời và hoạt động như “người và động vật sau khi rời khỏi thân thể mẹ và có một đời sống độc lập” (Từ điển Hán ngữ hiện đại). Vấn đề của chúng ta là dò tìm lại các tiêu chí mà ngày xưa các cụ đã dùng để sắp xếp lại thành “Bát Quái Hậu Thiên”. Gần như không có khả năng tìm được đúng các tiêu chí đã được sử dụng, chẳng qua chỉ là một cách minh họa lời phán đoán về các tiêu chí có thể đã được dùng.

Bát Quái thường được đưa ra cùng với các sơ đồ “Hà Đồ” và “Lạc Thư”, hai hình tượng được coi là hình tượng gốc gợi lên ý tưởng và biến dịch cho Bát Quái. Thực ra, mối liên quan giữa: “Hà Đồ” và “Lạc Thư” với Bát Quái tỏ ra khá mỏng manh, có tỉnh hình thức. Có thể nghĩ rằng người xưa có hứng thú đặc biệt với các “ma phương”, vĩ “Hà Đồ” và “Lạc Thư” đều thuộc loại “ma phương” theo nghĩa nào đó. “Lạc Thư” rõ ràng là một “ma phương” cấp 3 theo nghĩa tương tự như ngày nay (tổng theo dòng ngang, cột dọc và đường chéo đều bằng 15). Còn “Hà Đồ” lại là một ma phương loại khác, theo đường xoắn (tham khảo “Chu Dịch Thập Nhật Đàm”, Trung Văn, Nhà xuất bản Thượng Hải, 1946).

Posted Image

Trong Hà Đồ và Lạc Thư, số 5 đứng giữa không ứng với quẻ nào, nên thứ tự sắp xếp các quẻ của Văn Vương có thể mã hóa thành.

Posted Image

Trật tự Quẻ: Càn Khảm Cấn Chấn Tốn Ly Khôn Đoài

Mã xuôi..........1..... 2...... 3.... 4...... 6.. 7... 8...... 9..

Mã ngược...... 9..... 8...... 7.... 6...... 4...3... 2...... 1

Có thể thấy ngay rằng dù mã xuôi hay mã ngược, cách sắp xếp theo thứ tự này của Văn Vương cũng không phù hợp với trật tự các con số trong Lạc Thư hay Hà Đồ.

Ngược lại, có thể mã theo trật tự Tiên Thiên rồi theo các con số của Lạc Thư hay Hà Đồ mà đổi thành trật tự Hậu Thiên chăng?

Bảng mã sẽ là:

Posted Image

Trật tự Quẻ Càn Đoài Ly Chấn Tốn Khảm Cấn Khôn

Mã xuôi........ 1..... 2... 3.... 4.....6.... 7..... 8...... 9...

Mã ngược..... 9..... 8... 7.... 6..... 4.... 3..... 2...... 1...

Với Hà Đồ, ta cũng vẫn không thể làm cho cách sắp xếp phù hợp được. Còn với Lạc Thư, mặc dù bằng các phép chuyển vị (đổi dòng thành cột). đổi hàng, đổi cột ta có thể có 8 ma phương khác nhau, nhưng vẫn không thấy được sự phù hợp cần thiết. Vậy là với giả thiết dựa vào sự gợi ý của Lạc Thư hay Hà Đồ, ta đều chưa tìm ra được một hình ảnh có thể minh hoạ cách sắp xếp của Văn Vương. Có thể còn có những khóa mã khác nữa mà người viết bài này không biết đến. Mong rằng nó vẫn còn là một gợi ý có ích.

Tiêu chí sắp xếp thứ hai có thể nghĩ đến là tiêu chí “giá trị”. Do bói toán có nhu cầu xác định trình độ “Cát - Hung” nên mỗi quẻ có thể được gán một “giá trị” biểu thị phần cát, phần hung, và có thể có phần phi cát, phi hung. Có thể coi giá trị của một quẻ là tổng hợp (theo một nghĩa nào đó) của các giá trị của các hào tạo nên nó. Ta có thể lấy giá trị ban đầu của các hào là bằng nhau vào bằng 0,5. Và, vì theo lý thuyết Trung Quốc cổ đại, trong âm có dương và trong dương có âm, nên phép hợp ở đây có thể dùng phép cộng xác suất biến cố không độc lập (giá trị được coi như xác suất), tức là phép hợp phi bài trung (hợp (a, :lol: = a + b - ab). Cáo hào âm và dương ban đầu có giá trị 0,5 như nhau, nhưng khi trở thành thành phần một quẻ thì giá trị của nó thay đổi tuỳ theo vị trí và vai trò trong quẻ. Vị trí và vai trò này được thể hiện bằng những hệ số làm thay đổi giá trị của hào. Trong mỗi quẻ có ba hào, mà sự phân chia hệ số thay đổi phải tùy thuộc vào tính chất của hào mà thay đổi. Theo Nguyễn Hiến Lê, giá trị của hào có thể thay đổi theo các điều kiện sau đây:

- Đắc trung: hào chiếm vị trí giữa của quẻ.

- Đắc chính: hào dương chiếm vị trí lẻ, hào âm chiếm vị trí chẵn.

Có thể xét thêm hai điều kiện phụ:

- Hợp chủ: hào dương trong quẻ dương, hào âm trong quẻ âm.

- Có thế: hào ở trên được coi là thế phát triển cao hơn hào ở dưới.

Tôi đã chọn các hệ số sau đây để tính giá trị các quẻ:

- Trung: đắc trung = 0,6; không đắc trung: 0,2.

- Chính: đắc chính = 0,5; không đắc chính: 0,25.

- Chủ: hợp chủ = 0,4; không hợp chủ: 0,3

- Thế: hào trên tăng giá trị 1,5 so với hào dưới.

Với các hệ số này, tôi đã tính giá quẻ theo hai cách:

- Cách thứ nhất: kết hợp phép hợp xác suất với phép tính thông thường (với các yếu tố không phụ thuộc).

- Cách thứ hai: dùng phép hợp xác suất phổ biến và đã thu được kết quả như sau:

Posted Image

Quẻ.... Càn........ Đoài........ Ly.... Chấn...... Tổn..... Khảm... Cấn...... Khôn...

Giá tích 0.12267 -0.11725 -0.12164 0.12149 -0.12556 0.12457 0.12227 -0.11950

Giá hợp 0.99963 -0.25264 -099219 0.91971 -0.99546 0.95432 0.94987 - 0.25529

Xếp riêng các quẻ âm và dương và theo thứ tự trị tuyệt đối của “giá trị” giảm dần, ta sẽ được:

Posted Image

............Quẻ dương...................................... Quẻ âm.............................

Càn (giá tích: 0.12667; giá hợp: 0.99963.. Tốn giá tích: - 0.12556; giá hợp: - 094546

Khảm (GT:0.12457; GH: 0.95432)............. Ly (GT: - 0.12164;GH: - 0.99219)

Cấn (Giá Thành 0.12227; GH:0.94987)....... Khôn (GT: - 0.11950; GH: - 0,25529)

Chấn (GT:0.12149; GH:0.91971)............... Đoài (GT: - 0.11726; GH: - 0.25264)

Trong kết quả tính trên đây, riêng quẻ Đoài đã được điều chỉnh bằng một hệ số bộ phẩn bổ sung).

Thứ tự sắp xếp trên đây phù hợp với cách sắp xếp “Hậu Thiên Bát Quái” của Văn Vương. Như vậy, lời phán đoán trong số báo trước nói “thứ tự sắp xếp các quẻ... được làm lại theo nhu cầu bói toán”... đã được minh họa bằng cách tính giá trị các quẻ, có thể coi như “biểu thị hàm lượng cát - hung” chứa đựng trong quẻ đó. Chưa ai tìm được tư liệu đáng tin cậy nào có thể chứng minh được rằng Văn Vương đã sắp xếp lại Bát Quái theo tiêu chí gì và như thế nào. Cách suy nghĩ và tính toán như trên nhiều lắm cũng chỉ đáng coi là một ví dụ minh hoạ một cách tiếp cận vấn đề nan giải này.

Việc dùng tập mờ có giá để minh hoạ “Hậu Thiên Bát Quái” trên đây mới chỉ được thực hiện với 8 quẻ đơn, 24 hào. Tôi chưa dám đi vào 64 quẻ trùng, với 368 hào, một việc vượt quá xa khả năng rất hạn chế của mình. Xin nêu cách làm như một lời gợi ý thô thiển./.

Đỗ Nguyên Đương - Tạp chí Hán Nôm

...

Một danh xưng khi bàn về Dịch, đó là phép xem Hồng phạm, dùng hai chữ "trinh, hối". Trong đó "trinh" tức là tĩnh, còn "hối" tức là động.

Nội dung chính của sánh căn cứ theo hai nghĩa “biến dịch” và “không biến dịch” làm chuẩn mực để làm sáng tỏ lẽ động và tĩnh của nhân sự. Cho nên, sách có nói, số cơ ngẫu là 7, 8 vậy, giao trùng là 6, 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7, 8 là “không biến dịch”, hào vạch theo số 6, 9 là "biến dịch" vậy. Quẻ tuy “không biến dịch”, mà bên trong có “biến dịch”, thì có nghĩa là "hối ". Hào tuy “biến dịch”, mà trong lại có cái "không biến dịch”, thì gọi là “trinh”.

Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ có dùng. Khi thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ có xử. Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt. Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đầu cho thoát được. Đó là nghĩa lý thâm sâu vi tế mà Thánh nhân làm Dịch vậy.

...

Hàm nghĩa cơ bản của “thần” là chỉ sự biến hoá. Sự biến hoá của “thần” được khởi nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ thượng: “Không suy đoán dược âm dương được gọi là thần”. Ý nghĩa của sự biến hoá, không những biểu thị “không lường được” biến hoá của âm dương, mà còn chứng tỏ sự biến hoá của vạn vật cũng rất diệu kỳ. Thần, chính là sự biểu hiện biến hoá tới những chi tiết nhỏ nhất của vạn vật, đạt tới đỉnh tối cao của tinh thần. Đây chính là: “cùng thần tri hoá, đức chi thịnh dã” (thần biến hoá đến tận cùng, để đạt được đức tối đa). Số chẵn, số lẻ và hào tượng cương nhu, sự biến hoá kỳ diệu của nó rất khó đoán định, cũng gọi là “thần”. Khi hào tượng biến hoá, trước tiên cũng khó xác định được: hào nào là hào Lão âm (6), hào nào là hào Lão dương (9), mà gốc nguồn cũng bởi âm dương rất khó đoán định. Tính chất biến hoá khôn lường của âm dương, Kinh Dịch gọi là “đạo”, còn Hệ từ” gọi là “thần”. Nên có câu “người biết đạo của biến hoá, thì hiểu được hành vi của thần”. Trời Đất vận hành, vạn vật động – tĩnh, đều là tự tạo - tự chuyển dịch - tự hoá, để thích nghi với môi trường của tự nhiên; Nó không phụ thuộc vào sự điều khiển chủ quan của ý chí con người, mà cùng chựu sự tác động qua lại, chi phối bởi tính chất của tự nhiên. Nguyên nhân của sự biến hóa khôn lường này, cũng được gọi là “thần”.

...

Thiên nhiên, cơ chế của tạo hoá luôn thấy ở "sinh," đồng thời cũng luôn thấy ở "chế ước". Không có "sinh" thì không có sự phát triển, không có "chế ước" thì sự phát triển thái quá mất đi tính quy luật của tự nhiên mà có hại. Do vậy, trong sinh phải có chế ước, trong chế ước phải có sinh. Nếu giữa Âm Dương mất chế ước, thì sẽ phát sinh thiên thắng (mất cân đối), thậm chí quyết ly máy tạo hoá không thể nào duy trì được. Nguyên nhân cái gì gây ra sự mất chế ước giữa Âm Dương? Giai đoạn chuyển hoá tiêu trưởng của Âm Dương. Từ Dương bắt đầu sinh do Âm xuất Dương, Dương thịnh dần, Dương thịnh vượng; rồi đến Âm bắt đầu sinh do Dương nhập Âm, Âm thịnh dần, Âm cực thịnh. Địa khí thăng lên, Thiên khí giáng xuống, là khí của Trời Đất tác dụng hỗ tương. Sau khi thăng rồi giáng xuống, đó là tác dụng của Trời. Sau khi giáng rồi thăng, đó là tác dụng của Đất. Thiên khí giáng xuống, khí rót về mặt đất. Địa khí thăng lên, khí bay bốc ở khung trời. Cho nên, trên dưới giao nhau và hô ứng với nhau, thăng giáng lấy làm nhân quả lẫn nhau, mà phát sinh "biến" và "hoá".

...

Âm Dương có nguồn gốc từ động tĩnh. Thịnh suy có nghĩa là đắp đổi lẫn nhau, nuôi nhau, cái này nương tựa vào cái kia mà biến thông, nhờ biến thông nên phối hợp với Bốn mùa. Âm thắng Dương thì Tĩnh, Âm thịnh thì nhu. Dương thắng Âm thì Động, Dương thịnh thì cương. Động đúng quy luật thì việc gì cũng thắng, động sai quy luật thì việc gì cũng hỏng. Động gây họa phúc, động tạo ra hưng thịnh hay diệt vong cũng là ý nghĩa ấy. Tại Thiên thì Dương động mà Âm tĩnh, Âm sinh ở trên. Tại Địa thì Dương tĩnh mà Âm động, Dương sinh ở dưới. Thăng giáng gây nên sự biến hóa. Thăng chủ sinh, giáng chủ tiêu. Do vậy, vạn vật đều phản sinh.

...

HÒA

Vạn vật luôn luôn sống động theo những hòa điệu nhịp nhàng. Heraclitus, nhà triết học cổ Hy Lạp, cho rằng tính năng động tuần hoàn của những cặp siêu lực đối nghịch là nguyên nhân của sự sống động của vũ trụ

Triết học Đông phương cũng có niềm tin tương tự. Triết học Trung Hoa cho rằng vạn vật luôn luôn biến hóa năng động nhịp nhàng giữa hai thái cực âm dương. Triết học Phật giáo thì có đạo trung dung biểu hiện qua Bát Chánh Đạo.

Khái niệm về một vũ trụ hài hòa và sống động cũng được biểu hiện trong những triết học cận đại. Saint-Simon nhìn những lịch sử văn minh nhân loại như những xen kẻ giữa những thời kỳ “hữu cơ” và những thời kỳ “khủng hoảng”. Herbert Spencer nhìn vũ trụ như đang biến đổi theo những thời kỳ thăng trầm hợp tan. Hegel thấy lịch sử nhân loại phát triển theo hình xoắn ốc từ hợp nhất đến phân hóa rồi trở lại hợp nhất ở một mức độ cao hơn. Toynbee thấy được những thăng trầm tuần hoàn của các nền văn minh nhân loại. Sorokin thấy được sự thăng trầm tuần hoàn của những nền triết học duy vật và duy linh.

Đạo, là quá trình biến đổi liên tục của vũ trụ, trong đó vạn vật biến đổi hài hòa trật tự giữa hai thái cực âm dương. Khi dương thịnh, sự biến hóa sẽ có khuynh hướng về âm. Tương tự, khi âm thịnh, sự biến hóa sẽ có khuynh hướng về dương. Âm dương điều hòa chính là Đạo. Những thái cực âm và dương không phải là hai thái cực riêng rẻ độc lập. Trái lại, chúng là hai giới hạn của một thể thống nhất. Quá trình biến đổi của mỗi hiện tượng hay sự vật là những dao động không ngừng giữa hai thái cực đó. Quá trình của một hiện tượng hay sự vật kể cả chúng ta, dù nam giới hay nữ giới, đều có cả âm tính lẫn dương tính. Dịu dàng, trực cảm, tổng hợp, hợp tác, bảo tồn là những âm tính. Hung hăng, thuần lý, phân tích, cạnh tranh, khai thác là những dương tính. Âm tính và dương tính liên hệ mật thiết với hai loại tâm thức tương ứng trong mỗi chúng ta. Chúng bổ sung lẫn nhau, phản ảnh những tầm nhìn, lời nói, hành động của chúng ta.

Xã hội đương thời của chúng ta dường như đang ở vào thời kỳ dương thịnh, một xã hội dựa trên phát triển khoa học kỹ thuật để cạnh tranh khai thác tài nguyên thiên nhiên, làm ô nhiễm và gây hại môi trường sống. Phương pháp phân tích dường như vẫn được tận dụng so với phương pháp tổng hợp. Điều này làm xã hội mất đi sự hài hòa âm dương, do đó trì trệ sự phát triển trong nhiều lĩnh vực như giáo dục, y học, kinh tế, chính trị, quân sự, v.v.

Sự nhấn mạnh vào triết học Descartes phân chia ranh giới giữa tri thức và vật chất đã dẫn đến quan điểm trong đó vũ trụ được xem như một hệ thống cơ khí với những vật thể được xem như những bộ phận riêng rẻ. “Cái tôi” của mỗi người được dựng nên như để tượng trưng cho phần hồn của mình với đầy đủ đầu óc phán đoán suy luận. Phần xác được xem như thứ yếu. Dần dần con người quên đi cái bản chất thực sự của suy tư là, không những xuất phát từ toàn bộ con người chúng ta mà còn từ môi trường chung quanh chúng ta nữa. Từ đó, chúng ta xem cơ thể chúng ta như những chiếc máy cơ khí, và xem thiên nhiên quanh chúng ta như độc lập với chúng ta, cần được chế ngự và khai thác triệt để.

Chúng ta tin rằng tính chất cục bộ có thể hoàn toàn xác định tính chất của toàn bộ. Do đó, chúng ta xem nhẹ mối tương quan mật thiết giữa những cơ cấu xã hội như giáo dục, văn hóa, y tế, kinh tế, chính trị, quân sự. Chúng ta xem trọng phẩm lượng và xem nhẹ phẩm chất. Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học cũng tương tự, các nhà nghiên cứu dường như xem những ngành chuyên môn khác không dính dáng gì đến ngành mình đang nghiên cứu. Môn hình học vị tướng chẳng hạn, trước đây được xem như một sản phẩm thuần túy của trí tuệ, độc lập với các ngành nghiên cứu khoa học. Bây giờ họ đã thấy tầm quan trọng của hình học vị tướng được áp dụng hữu hiệu trong nhiều ngành khoa học.

Thời xưa, thiên nhiên và nhất là địa cầu được xem như một người mẹ hiền hòa nuôi dưỡng chăm sóc sự sống trên địa cầu. Cổ Hy Lạp có nữ thần Gaia tượng trưng cho mẹ địa cầu. Vào thời cận đại, dương thịnh âm suy, thiên nhiên và mẹ địa cầu bị thống trị. Nam giới chiếm ưu thế. Capra cho rằng quan điểm này được Do Thái giáo và Ky Tô giáo ủng hộ, và do đó Thượng Đế được nhân cách hóa thành một nam giới, thống trị thiên nhiên bằng những định luật nhiệm mầu với những suy lý và quyền lực tối cao. Những định luật khoa học tự nhiên được xem như phản ảnh của những định luật nhiệm mầu đó của Thượng Đế. Ngày nay, thời dương thịnh đó dường như đã đạt đến mức tối đa và đã bắt đầu suy thoái. Nhiều người không còn tin rằng Thượng Đế là một nam giới đầy phép nhiệm mầu nữa. Kaku cho rằng sở dĩ khoa học và tôn giáo khó thông cảm nhau bởi vì khoa học tin vào một “thượng đế của trật tự” trong lúc tôn giáo tin vào một “thượng đế của phép lạ”.

Dường như văn minh nhân loại đã chuyển mình hướng về sự điều hòa âm dương. Đã đến lúc phân tích cần được phối hợp với tổng hợp, cạnh tranh phối hợp với hợp tác, thuần lý phối hợp với trực cảm, khoa học phối hợp với tôn giáo, nam tính phối hợp với nữ tính, văn hóa phối hợp với sinh hóa, v.v.

Tâm Đàn.

...

Lời của Đại tượng truyện 64 quẻ Dịch luôn hướng tới HÒA.

Tâm cảm.

...

Tự nhiên vốn tĩnh, đó là gốc của Đạo. Tĩnh sinh ra động, thế rồi Động sinh ra Trời Đất, mà sinh ra muôn loài. Vạn vật đoạt Khí của Trời Đất, con Người đoạt chất của vạn vật, vạn vật đoạt Khí lực của con người. Đây có phải cái lý tương sinh, tương dưỡng, tương thành của Tam tài: Trời Đất Người. (?) Có thể, Đạo Tam tài là kết cấu tạo nên một quái Dịch, có cấu tạo ba Hào. (!) Tâm sự.

...

DỊCH HỌC HỌ HÙNG VIẾT:

Tam Tòa hay Tam Tài

Tòa trong tiếng Việt có nghĩa là đơn nguyên, Thiên Chúa tam ‘tòa’ tức Thiên chúa ba ‘ngôi’. Tòa nhà tức một khối nhà. Chu Dịch viết rất giản đơn: Dịch có thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái … có người gọi đó là Dịch, thực ra đó chỉ là phương pháp luận Dịch lý chứ không phải là Dịch học.

1 sinh 2, 2 sinh 4, 4 sinh 8 chính là định luật sóng đôi mà ta đã nói tới. Ngoài sự diễn biến theo qui luật trên Dịch học còn có một loại hình diễn biến khác.

1 → 3 → 5 → 9

thái cực → tam tài → ngũ hành → cửu trù

1 cục →3 tòa → 5 hình → 9 chỗ

Ở lưỡng ngôi ta có 2 thành phần hợp tác với nhau để sinh thành. Con người đầu đội trời, chân đạp đất như vậy con người đứng giữa, ở trung tâm đúng nghĩa chữ nhân; do mối tương quan tay ba.

Xã hội < = > Con người < = > Tự nhiên.

Một bên là tương quan: người – xã hội; bên kia là tương quan: người – tự nhiên thông qua trung tâm là con người, 2 mối tương quan này trở thành ràng buộc của nhau, chế độ xã hội phải phù hợp với mối quan hệ người – tự nhiên. Tức trình độ khoa học và công cụ kỹ thuật. Tam tài có tính mẫu mực là Thiên Nhân Địa, vẫn được dùng để tôn cao địa vị con người ngang với trời đất. Thiên là những yếu tố vô hình, địa là những yếu tố hữu hình cụ thể. Năng lượng, ánh sáng đến từ vũ trụ hợp với các nguyên liệu từ đất tạo thành cây cỏ thực vật, đến khi có sự tham gia của bàn tay khối óc con người thành ra sự kết hợp tay ba: Thiên – Nhân – Địa và nền nông nghiệp ra đời từ sự kết hợp đó. Sự ra đời của kỹ thuật trồng trọt được Dịch học đánh giá rất cao trong hào Nhị quẻ Kiền: “hiện long tại điền lợi kiến đại nhân” nếu dịch là “rồng hiện trên mặt ruộng kiến (gặp) đại nhân thì có lợi” chỉ đúng về mặt chữ còn đối với Dịch học thì coi như vô nghĩa. ý nghĩa câu trên theo kiến giải Dịch học là: “con người trở nên người lớn tức vượt qua thời người nguyên thủy khi bắt đầu biết trồng trọt, lúc chấm dứt sự phụ thuộc hoàn toàn vào giới tự nhiên cũng là lúc xuất hiện thần tính (được ví như con rồng) khiến con người vượt trên mọi sinh vật, sánh ngang cùng trời đất. Cặp từ Thiên và Địa không nhất thiết phải là trời và đất như ở trên ta đã nói đến: trời chỉ các yếu tố vô hình, đất là những gì cụ thể, có thể nắm bắt được. Thí dụ: trong công thức nổi tiếng về binh pháp: ‘thiên thời – địa lợi – nhân hòa’, thì thiên đâu có nghĩa là trời mà là thời cơ lịch sử, địa là điều kiện vật chất đang thủ giữ, còn nhân là lòng người, lòng quân và lòng dân, yếu tố quan trọng nhất. Trong Tam tòa thì Tòa Nhân luôn luôn là quan trọng nhất, có một thế giới gọi là khách quan vận động một cách mù lòa, vô hướng, vô nghĩa; tất cả những giá trị xuất phát từ thế giới ý thức, vũ trụ trở nên có “giá trị” từ khi nó được phản ánh bằng thông tin vào não con người và được chính con người ban cho phần giá trị để trở thành 1 phần của thế giới đã được định hướng.

Ở Âm mà vô Âm, Âm do đó được sinh ra. Ở Dương mà vô Dương, Dương do đó mà hình thành. Khi nói "nhất Âm nhất Dương", tuy là hai Khí, xong thường lấy cái nhất làm Đạo ở hư vô để sử lý. Theo thuộc tính riêng của vạn vật, khi ta làm một chiếc bàn gỗ, đứng ở quan điểm gỗ là "phá", nhưng đứng ở quan điểm cái bàn là "thành". Như vậy, "phá" và "thành" cũng là tương đối ở trong tình trạng biến đổi không ngừng, như Dịch đã bàn đến.

Nhất Tĩnh - Tam Động - Ngũ ứng - Cửu thông.

Có cách nào để bốc dịch chính xác hơn

Hà Uyên mới tham gia vào diễn đàn này, với những bầy tỏ của Liêm Trinh, trong quá trình nghiên cứu vì sự yêu thích cá nhân của mình, Hà Uyên xin được chia sẻ cùng Liêm Trinh.

Chắc Liêm Trinh cũng hiểu cấu tạo của quẻ Dịch có 6 hào, khi một hào (hay nhiều) động, thì đều phải trải qua 10 quá trình. Ví dụ: quẻ Trạch Sơn Hàm động hào 2:

- Ta coi quẻ Trạch Sơn Hàm là số 1, theo thứ tự đến số 2 là quẻ Quan hào 3, đến số 3 là quẻ Tỷ hào 4, đến số 4 là quẻ Khôn hào 5, đến số 5 là quẻ Bác hào 6, đến số 6 là quẻ Di hào 1, đến số 7 là quẻ Tổn hào 2, đến số 8 là quẻ Đại súc hào 3, đến số 9 là quẻ Đại hữu hào 4, đến số 10 là quẻ Càn hào 5, đến số 11 là quẻ Quải hào 6, và cuối cùng đến số 12 là quẻ Đại quá hào 1.

- Như vậy, khi độn được 1 quẻ như ví dụ trên, quá khứ đã để lại cho chúng ta: hào âm biến thành hào dương, hào dương biến thành hào âm, gieo quẻ được quẻ Hàm hào 2 được quẻ Đại quá.

- Khi ta coi quẻ Hàm là "đầu", thì quẻ Đại quá là "cuối", nhưng thực chất bên trong đã phải trải qua 10 quá trình (10 quẻ)

- Trong 10 quá trình phải trải qua này, có 2 quẻ động đến hào 6, đó là quẻ Bác theo thứ tự là số 5 và quẻ Quải theo thứ tự là 11. Vấn đề ở đây, tại sao Kinh Phòng khi quy nạp quẻ theo Ngũ hành, thì không cho biến động đến hào 6?

- Khi từ quẻ cuối cùng có số thứ tự là 12, là quẻ Đại quá, ta tiếp tục cho động hào 2 thì lại trở về quẻ ban đầu là Trạch Sơn Hàm hào 2. (1 = 13)

Như vậy, theo Liêm Trinh, thông tin được bộc lộ từ quẻ Dịch, chúng ta sẽ chon lựa điểm dừng ở đâu?

Mỗi một hào quẻ Dịch luôn chuyển hóa 12 lần, một quẻ có 6 hào, vậy một quẻ Dịch có 72 sự chuyển hoá. Do vậy 64 quẻ Kinh Dịch sẽ có 4608 sự chuyển hoá.

Mong được chia sẻ cùng Liêm Trinh, có thể chưa được sự đồng cảm, cũng mong sao Liêm Trinh góp ý thêm.

...

Cùng được bộc lộ thêm với Liêm Trinh, khi Hà Uyên có nói: 1 = 13 Tulokho có 52 quân bài (bỏ 2 fan), khi chia làm 4 thì được 4 phần, mỗi phần có 13 con bài, nếu ta coi f - q - k - a có trị số bằng 1 (f = q = k = A = 1). Chia 52 quân bài làm 2 phần bằng nhau (52/2=26). Lấy 1 phần có 26 quân bài, rút 1 quân bài xem. Xem xong, trộn đều 52 quân, thì ta vẫn tìm được con bài mà ta đã rút ra xem. Người Ấn độ nói: muốn học lập trình ở đất nước họ, thì phải hiểu văn hóa dân tộc của họ. Hà Uyên thấy có mối liên hệ giữa Kinh Dịch và 52 quân bài. Liêm Trinh có nghĩ như vậy không?

..

Vâng, chào Liêm Trinh.

Để thống nhất được với nhau về phương pháp tính toán, Hà Uyên xin được trình bầy theo quan điểm của mình, mong rằng các anh chị, cùng Liêm Trinh chia sẻ:

- Khi bốc Dịch được một quẻ, ta coi là số 1, thì quẻ số 7 luôn luôn là quẻ "đối phản".

Theo ví dụ mà Hà Uyên đã trình bầy, bốc Dịch được quẻ Trạch Sơn Hàm hào 2, thì quẻ thứ 7 là quẻ Sơn Trạch Tổn, cũng động hào 2 (Thất sát)

- Sự thông "khí" của hào động

Vẫn theo ví dụ trên, quẻ Hàm thuộc cung Đoài - Kim, động hào 2 là hào Quan quỷ - Ngọ, theo thứ tự của 12 quẻ, sẽ có quá trình tiệm tiến thông tin như sau:

1- Trạch Sơn Hàm hào 2 là Quan quỷ Ngọ.

2- Trạch Địa Tụy hào 2 là Quan quỷ Tị.

3- Thủy Địa Tỷ hào 2 là Quan quỷ Tị (Phụ mẫu)

4- Thuần Khôn hào 2 là Quan quỷ Tị (Phụ mẫu)

5- Sơn Địa Bác hào 2 là Quan quỷ Tị

6- Sơn Lôi Di hào 2 là Thê tài Dần (Huynh đệ)

7- Sơn Trạch Tổn hào 2 là Thê tài Mão (Huynh đệ)

8- Sơn Thiên Đại súc 2 là Thê tài Dần (Quan quỷ)

9- Hỏa Thiên Đại hữu hào 2 là Thê tài Dần

10- Thuần Càn hào 2 là Thê tài Dần

11- Trạch Thiên Quải hào 2 là Thê tài Dần

12- Trạch Phong Đại quá hào 2 là Tử tôn Hợi (Phụ mẫu)

Theo như quá khứ đã cho chúng ta biết, Quan quỷ động hóa Tử tôn, nhưng quẻ thứ 7 lại cho chúng ta thông tin về Thê tài. Thông qua quá trình trải nghiệm với nhiều môi trưỡng và lĩnh vực khác nhau, Hà Uyên cũng nhận thức được một số quy luật, xin được trình bầy sau.

- Sự thông "khí" của quẻ Dịch

Vẫn theo ví dụ trên, quẻ Trạch Sơn Hàm (không xét thuộc cung Đoài - Kim), động hào 2 là hào Quan quỷ - Ngọ

1- Trạch Sơn Hàm hào 2 là Quan quỷ Ngọ

2- Trạch Địa Tụy hào 3 là Huynh đệ Dậu

3- Thủy Địa Tỷ hào 4 là Tử tôn Thân

4- Thuần Khôn hào 5 là Thê tài Hợi

5- Sơn Địa Bác hào 6 là Thê tài Dần

6- Sơn Lôi Di hào 1 là Phụ mẫu Tý

7- Sơn Trạch Tổn hào 2 là Thê tài Dần

8- Sơn Thiên Đại súc hào 3 là Huynh đệ Thìn

9- Hỏa Thiên Đại Hữu hào 4 là Huynh đệ Dậu

10- Thuần Càn hào 5 là Huynh đệ Thân

11-Trạch Thiên Quải hào 6 là Huynh đệ Mùi

12- Trạch Phong Đại quá hào 1 là Thê tài Sửu

Khi ta lấy quẻ thứ 7 là quẻ Sơn Trạch Tổn làm "Trung Tâm", từ vị trí thứ 7 ta tiệm tiến thuận 7-8-9-10-11-12 và tiệm tiến nghịch 7-6-5-4-3-2-1, ta sẽ có 2 phương pháp để suy luận thông tin.

Hà Uyên xin phép sẽ cùng luận bàn sau.

...

Hà Uyên xin được trình bầy tiếp:

- Khi bốc được quẻ Dịch, ta coi là số 1 tương ứng với cung Tý, thì quẻ số 7 sẽ tương ứng với cung Ngọ. Tại thời điểm khi bốc quẻ, đồng thời ta bấm số Tử vi, sau đó ta an 12 quẻ theo thứ tự. Thì nẩy sinh rất nhiều điều kỳ lạ về thông tin. Liêm Trinh thử nghiệm cùng nhé.

- Kinh Phòng khi nạp Ngũ hành vào quẻ không cho "khí" Dịch phát triển đến hào 6. Hà Uyên sẽ trình bầy quan điểm ở một chuyên đề khác nhé.

...

- Sự thông "khí" của hào động

Vẫn theo ví dụ trên, quẻ Hàm thuộc cung Đoài - Kim, động hào 2 là hào Quan quỷ - Ngọ, theo thứ tự của 12 quẻ, sẽ có quá trình tiệm tiến thông tin như sau:

1- Trạch Sơn Hàm hào 2 là Quan quỷ Ngọ.

2- Trạch Địa Tụy hào 2 là Quan quỷ Tị.

3- Thủy Địa Tỷ hào 2 là Quan quỷ Tị (Phụ mẫu)

4- Thuần Khôn hào 2 là Quan quỷ Tị (Phụ mẫu)

5- Sơn Địa Bác hào 2 là Quan quỷ Tị

6- Sơn Lôi Di hào 2 là Thê tài Dần (Huynh đệ)

7- Sơn Trạch Tổn hào 2 là Thê tài Mão (Huynh đệ)

8- Sơn Thiên Đại súc 2 là Thê tài Dần (Quan quỷ)

9- Hỏa Thiên Đại hữu hào 2 là Thê tài Dần

10- Thuần Càn hào 2 là Thê tài Dần

11- Trạch Thiên Quải hào 2 là Thê tài Dần

12- Trạch Phong Đại quá hào 2 là Tử tôn Hợi (Phụ mẫu)

13- Trạch Sơn Hàm hào 2 là Quan quỷ

..

Hà Uyên tản mạn thêm. Khi bốc được quẻ Dịch, ta coi là số 1 tương ứng với cung Tý, thì quẻ số 7 sẽ tương ứng với cung Ngọ. Tại thời điểm khi bốc quẻ, đồng thời ta bấm số Tử vi, sau đó ta an 12 quẻ theo thứ tự 12 cung từ Tý, Sửu,..., đến cung Hợi. Như chúng ta đã biết, tổng số tối đa của môn Tử vi chỉ có 512640 bảng là số. Khi áp dụng mối quan hệ thông tin giữa Tử vi và Bốc Dịch, thì thống kê được: 512 640 x 4 608 = 2 052 245 120 So sánh với 6 tỷ người, mức độ tin cậy cần phải thống kê thêm.

...

Xin chào các Anh các Chị trên diễn đàn. Hà Uyên chào VIETHA. Quá trình nghiên cứu những gì Người xưa để lại, với sự đam mê tìm hiểu của mình mang tính cá nhân, Hà Uyên trong mục đích, không mang tính chuyên nghiệp. VIETHA có viết: "nguyên tắc trong gieo quẻ Dịch là: Tâm không động không được gieo, nếu gieo quẻ thì không chính xác". Xét về Ngôn ngữ học, tại thời điểm quyển sách được viết ra cho tới ngày hôm nay, đã để lại những "quy định" cho mỗi một người khi đọc, tiến tới thử nghiệm, rồi trải nghiệm, đều có những đắng cay riêng. Xét về mặt "thời gian", từ Tiêu Diên Thọ, Kinh Phòng, Trần Đoàn, Thiệu Ung cho tới Thiệu Vĩ Hoa, cũng chỉ có mấy con người để lại những kiến thức mà chính chúng ta đang quan tâm. Hà Uyên cũng có tìm hiểu về: thế nào là "Tâm không động"? Hà Uyên đọc, trong đó có quyển HUỲNH ĐÌNH KINH dịch từ nguyên tác tiếng Đức, cũng thấy rất nhiều vấn đề cần phải bàn về "TÂM" động và không động. Hà Uyên thấy rất lạ, một Người đàn ông quốc tịch Đức ở Thế kỷ 16, sau khi nghiên cứu về Thiệu Ung, lại thấy đồng cảm và đồng thuận về HỆ NHỊ PHÂN. Và ngày hôm nay, chính chúng ta đang được hưởng những lợi ích hết sức to lớn. Vấn đề VIETHA quan tâm là một khoảng trời rộng lớn, Hà Uyên xin phép được chia sẻ khi chúng ta cùng đồng thời có một sở thích.

...

Chào Liêm Trinh Cảm ơn Liêm Trinh đã dành thời gian cho Hà Uyên. Khi giao lưu trên diễn đàn này, Hà Uyên không hề có ý gì về "mưu lược". Hà Uyên chỉ bộc lộ quan điểm của mình: tại sao Trần Đoàn lại cấu tạo 12 cung trong môn TỬ VI, tại sao THÁI ẤT lại có cấu tạo 16 cung? Hà Uyên đã nhận thức được KINH DỊCH là gốc nguồn của các môn học thuật: 1 = 13. Tại sao Trần Đoàn trong môn TỬ VI, vòng Tứ hóa: LỘC-QUYỀN-KHOA-KỴ lại căn cứ vào Can của Năm để an sao.? Năm nay 2009 - Kỷ Sửu, Hóa kỵ an theo GIỜ, như vậy vào giờ Thân chiều nay, Hà Uyên gặp Hóa Kỵ rồi.

...

dichnhan07, on May 5 2009, 05:34 PM, said:

Bàn về Mai Hoa Dịch Số, trong lòng có thắc mắc nghi vấn điều gì đó đã có thể coi là Tâm động, giả sử có người cho rằng Tâm mình vẫn chưa thật động, chẳng lẽ lại phải đi cầu cho Tâm động thật mạnh hay sao?. Lập quẻ xong, nếu chỉ căn cứ vào quẻ đó thì e rằng phiến diện chủ quan nên cần thêm các phương pháp hỗ trợ đảm bảo, đó là Tam Yếu và Thập Ứng. Mai Hoa Dịch Số chỉ nói tới các sự việc bất thường, xem việc gần mà biết việc xa. Luận sự việc không nhiều được như lục hào hay các môn khác nhưng để trắc nghiệm một điều nghi vấn thì rất tiện lợi. Nói không luận được nhiều đó là nói về phương pháp lấy quẻ chủ động chứ không phải theo như các quẻ ví dụ trong sách Mai Hoa Dịch Số, phương pháp khác nhau do lý dùng khác nhau, điều này cần phải phân biệt rõ.

Vâng, xin chào dichnhan07.

Thú thực, Hà Uyên hầu như rất ít khi BỐC DỊCH, mà đã dành thời gian rất nhiều để tự trả lời với chính mình rằng: Tại sao (?) "Quá khứ - Hiện tại - Tương lai", khi nào thì hội tụ thành 1, có nghĩa là:

Quá khứ + Hiện tại + Tương lai = 1

Có thể, chỉ có như vậy, thì các môn Học thuận mà Quá khứ đã để lại cho chúng ta một sân chơi, mà không biết bao nhiêu Thế hệ, đều có rất nhiều Người đã dành THỜI GIAN về chủ đề này.

Khi đã và đang có số " 1 ", loài Người lại luôn luôn hướng về số " 0 "

Cảm ơn dichnhan07.

...

Liêm Trinh viết "Tôi gieo một que đơn thấy Hà uyên suất hiện ở diễn đàn vào vào đoài cung". Theo phương pháp tư duy của Thiệu Ung, thì Hà Uyên có thể tính như sau: Số người đã đăng ký tham gia diễn đàn LYHOCDONGPHUONG, tới lượt Hà Uyên là 3717. Hà Uyên lấy 3717 chia cho 64, số dư còn lại là 5. Số của Năm-Tháng-Ngày-Giờ mà Hà Uyên đăng ký tham gia lam Tổng chia cho 6 tìm hào động. - Theo Tiên thiên thì 5 là số thứ tự của quẻ Phong Thiên Tiểu súc. - Theo Hậu thiên, thì số 5 bao gồm những quẻ: theo thứ tự như sau: Tiểu súc - Tổn - Vô vọng - Đỉnh - Hoán - Thuần Cấn. Liêm Trinh thấy Hà Uyên theo phương pháp này có được không?

...

Dear Liêm Trinh. Một tâm sự! Trước khi Hà Uyên giao lưu với Liêm Trinh trên diễn đàn, số người đã đọc bài viết của Liêm Trinh là (ví dụ là:...), sau khi Hà Uyên giao lưu với Liêm Trinh, thì số người đã đã đọc bài viết này, tại thời điểm này là (ví dụ:... lượt đọc). Đây là một chủ đề mà Hà Uyên đang rất quan tâm, sẽ dành phần nhiều giời gian để tìm hiểu về chủ đề này. Trước khi TA sinh ra, đã tồn tại bao nhiêu Người? Sau khi TA sinh ra, sẽ tiếp tục tồn tại thêm bao nhiêu NGƯƠI nữa? Trước khi ÂM gặp DƯƠNG, hoặc trước khi DƯƠNG gặp ÂM, sau khi ÂM gặp DƯƠNG hay sau khi DƯƠNG gặp ÂM, điều gì sẽ đến với chúng ta? Mong Liêm Trinh đừng hiểu sai ý nghĩa của sự giao lưu giữa hai chúng ta, Hà Uyên chỉ lấy "số lượt người đã đọc" (làm Hình - Tượng) mà làm một ví dụ thôi.

...

Xin chào các anh chị trên diễn đàn. Hà Uyên chào VanTrungHac. Khi Hà Uyên giao lưu với Liêm Trinh trên diễn đàn, Liêm Trinh có nói: "...thống nhất về phương pháp tính..." Quá khứ mà "Cổ nhân" đã để lại cho mỗi người yêu thích về những môn học thuật này, đối với Hà Uyên còn nhiều trăn trở, Hà Uyên chưa dành nhiều thời gian về luận quẻ Dịch. Trước tiên mong VanTrungHac thật sự thông cảm. Hà Uyên đang tập trung vào tìm hiểu về: Nguyên lý cấu tạo các môn Học thuật mà Quá khứ đã để lại cho chúng ta. Tính chính xác? Độ tin cậy? Tại sao lại "quy định" như vậy?. Hà Uyên.

...

Chào Liêm Trinh Khi Liêm Trinh nói: "Làm thế nào để BỐC DỊCH chính xác hơn" Hà Uyên xin kể lại: Những người đi trước đã hướng dẫn cho Hà Uyên: tư duy về "tượng quẻ trước". Sau đó mới tư duy về "Lục thân". Ví dụ: khi Bốc Dịch được quẻ Trạch Sơn Hàm hào 2 được quẻ Trạch Phong Đại quá - Tư duy theo tượng quẻ Kinh Dịch: quẻ Hàm tượng trưng cho sự giao cảm. Quẻ Đại quá tượng trưng cho sự quá mức - Tư duy theo tượng quẻ Kinh Phòng, Bốc phệ chính tông, Tăng san bốc dịch: quẻ Hàm có tượng "Manh nha xuất thổ", rồi đến quẻ Đại quá có tượng: "Dạ mộng kim ngân" Cũng phải mất đến 8 tháng hay một năm sau, Hà Uyên mới thuộc được tượng của 64 quẻ, và cảm nhận được một phần nào đó về ý nghĩa của "tượng quẻ". Mặc dù tại thời điểm đó, Hà uyên trong lòng vẫn thích xác định được hào động, tìm lục thân, an Thế - Ứng, tìm dụng thần,... Bước thứ hai là: đi sâu vào phân tích 8 quẻ "bát thuần", khi Kinh Phòng đưa Ngũ hành vào nạp cho hào quẻ Dịch. Đây là bước quan trọng, mối quan hệ "mẹ - con"? từ quẻ Mẹ với 7 quẻ con? Hình thành một phương pháp tư duy cho mỗi người, thì các nước phát triển đã làm rất có hiểu quả. Phương Tây hình thành một phương pháp sư phạm chuẩn mực cho loài người. Từ cá nhân Hà Uyên, một chia sẻ kinh nghiệm, một người Hà Uyên giao lưu đầu tiên trên diễn đàn (số "1")

...

Hà Uyên trao đổi tiếp tục Mỗi chúng ta, không ai có thể làm đảo lộn được trật tự của thời gian. Từ đây, chắc rằng cũng rất ít người làm thay đổi được quá trình nhận thức của mỗi một cá nhân. Ví như, Hà Uyên không thể tự cho mình dùng kiến thức của học sinh lớp 4, mà chưa qua quá trình nhận thức của lớp 1, lớp 2. Cũng ví như, Hà Uyên và Liêm Trinh giao lưu trên diễn đàn lyhocdongphuong, được gọi là "số 1", thì đến vị trí thứ 5, Hà Uyên giao lưu với anh Thiên Sứ, số "5" được coi như vị trí "Trung tâm" của Hà - Lạc. Giả thiết như Hà Uyên có "mưu lược" như Liêm Trinh đã nói, từ cái "ngẫu nhiên" để biến thành cái "tất nhiên", thì đương nhiên đến người thứ năm Hà Uyên giao lưu, là anh Thiên Sứ. Vị trí của Trung tâm. Một đặc trưng cơ bản của BỐC DỊCH, là "dụng thần" lại do đối tượng Khách quan quy định, trên nền giao lưu của Hoàng đế Nội kinh: Hoàng đế hỏi - Kỳ Bá trả lời. Làm thế nào để bốc dịch được chính xác?, Ai là Hoàng đế, ai là kỳ bá? Ai là Âm, ai là dương? Giả thiết là Liêm Trinh chủ động giao lưu với Hà Uyên, như vậy Liêm Trinh là Dương mà Hà Uyên là Âm, nhưng thực tiễn thì Hà Uyên chủ động chào Liêm Trinh, như vậy thì Hà Uyên là âm chủ động gặp dương. Vậy thì, chưa thể dùng một mình hào động làm nguyên nhân "gốc" để xác định thông tin.

...

Tại sao lại như vậy? Khi Hoàng đế hỏi, có nghĩa rằng Hoàng đế động, tại sao lại coi là Hoàng đế động? Vì Hoàng đế có thắc mắc ở trong lòng mà chưa hiểu, như vậy là bên trong của Hoàng đế động, có thể coi như "Nội quái động" mà "Ngoại qoái tĩnh", cũng có nghĩa Hoàng đế là Dương gặp Âm vậy. Như vậy, ta có thể nói Dương động - Âm tĩnh được không?

...

Khi Hà Uyên chọn thông số ban đầu để tính, là căn cứ theo phương pháp tư duy của Thiệu Ung, lấy "số thứ tự" của Hà Uyên khi tham gia vào diễn đàn là 3717, chia cho 64 quẻ, được số 5. Lấy Năm-Tháng-Ngày-Giờ khi Hà Uyên đăng khí tham gia làm Tổng chia cho 6 tìm hào động.

- Đối với Hà Uyên, thì số 5 theo Tiên thiên là quẻ Phong Thiên Tiểu súc.

- Với diễn đàn này, thì số 5 được hiểu như thế nào đối với Hà Uyên? Vì sự giao lưu là: Liêm Trinh --> VIETHA --> dichnhan07 --> VanTrungHac --> Thiên Sứ (thực ra còn Như Thông nhưng vì Hà Uyên chưa giao lưu). Số 5 đối với Hà Uyên là anh Thiên Sứ.

Theo Nguyên lý vị trí: Vị trí trung tâm 5 - 10, thì Hà Uyên chọn giải pháp ứng xử theo "Đại cục", có nghĩa là, từ "Trung tâm", Hà Uyên tôn trọng nguyên tắc: Tìm về cội nguồn.

...

Chào Liêm Trinh

Thực tình, Hà Uyên chủ động chọn cách viết, khi chúng ta trao đổi trên diễn đàn, không phải là vì viết nhiều.

Hà Uyên trở lại với chủ đề: Có cách nào để bốc dịch chính xác hơn? Trên tinh thần: Tìm về cội nguồn.

Cội nguồn của Bốc Dịch, có thể bắt đầu từ Kinh phòng. Ông nói:"Dương thắng âm là tráng, tráng cực tắc phản ở âm".

Trong 64 quẻ của Kinh Dịch, thì có 3 quẻ nói về số 7, quan trọng hơn cả là quẻ Địa Lôi Phục. Tại sao lại nói đến số 7?

Quy luật của tự nhiên đã để lại cho người phương Đông thích ứng theo thời gian: cứ 19 năm thì có 7 năm có tháng nhuận.! Thời gian vẫn cứ tiếp tục trôi, khi chúng ta phải chấp nhận: tháng nhuận = "0", trong quá trình tính tháng nhuận cho chu kỳ 19 năm. (19 - 7 = 12, hoặc 7 + 12 = 19).

Kinh Phòng đưa ra thuyết Ngũ hành nạp vào Hào của quẻ Dịch, cũng vẫn trên nguyên lý của Kinh Dịch: số 7

Ví dụ: quẻ Thuần Càn, là quẻ Cha - Mẹ, khí Dịch bắt đầu từ hào 1

1- Thuần Càn hào 1

2- Thiên Hoả Đồng nhân hào 2

3- Thiên Lôi Vô vọng hào 3

4- Phong Lôi Ích hào 4

5- Sơn Lôi Di hào 5

6- Địa Lôi Phục hào 6

7- Thuần Khôn hào 1

Từ quẻ Thuần Càn hào 1, đến quẻ thứ 7 là quẻ Thuần Khôn, thì hào 1 là hào Dương quẻ Càn mới biến thành hào 1 là hào Âm quẻ Khôn. Tiếp tục từ quẻ Thuần Khôn khí Dịch lại bắt đầu từ hào 1:

7- Thuần Khôn hào 1

8- Địa Thuỷ Sư hào 2

9- Địa Phong Thăng hào 3

10- Lôi Phong Hằng hào 4

11- Trạch Phong Đại quá hào 5

12- Thiên Phong Cấu hào 6

13- Thuần Càn hào 1

Quẻ Thuần Càn khí Dịch bắt đầu từ hào 1, thì đến quẻ thứ 7 hào 1 dương biến thành âm, và đến quẻ thứ 12, thì "thể" của quẻ Thuần Càn trở lại ban đầu, duy nhất chỉ có hào 1 biến đổi dương thành âm. Ta có thể viết như sau:

1 -> 2 -> 3 -> 4-> 5 -> 6 -> 7 -> 8 -> 9 -> 10 -> 11 -> 12 -> 13

Như vậy: 1 = 13

Khi ta chấp nhận quẻ số 7 là quẻ "Trung tâm". Từ quẻ số 2 đến quẻ số 6 bao gồm "5" quẻ có 30 hào, tương đồng với 30 ngày từ Giáp Tý -> Giáp Thân. Từ quẻ số 8 đến quẻ số 12 cũng bao gồm "5" quẻ có 30 hào, tương đồng với 30 ngày từ Giáp Ngọ -> Giáp Dần. Mối quan hệ Lục thập hoa giáp với 60 hào này như thế nào? Vấn đề Giáp Tý bắt đầu khởi từ đâu?

Hà Uyên đang ở hào 3 quẻ Thuần Càn, khi cộng thêm với 7 thì ở hào 4 quẻ Thuần Khôn: "Thắt chặt miệng túi".

...

Liêm Trinh nói: "Đây là vấn đề hóc búa nhất và cũng cần giải quyết nhất vì nó liên quan đến đông y học cứu người. Liêm trinh đã mất không ít thời gian tìm cơ sở khoa học cho vấn đề này mà chưa tìm ra. Trong ứng dụng thực tiễn trên hệ tính toán Liêm trinh thấy hình như hệ này không nhất quán."

Như vậy, chúng ta cùng bắt tay nhau, tiến thêm một bước nữa xem xét lại từ đầu: những cống hiến của Kinh Phòng, để trả lời cho câu hỏi: có cách nào để bốc dịch được chính xác hơn?

Việc này, Liêm Trinh chủ động mở chủ đề mới, Theo Hà Uyên, chủ đề nên tập trung vào thế hệ đi trước chúng ta "một đời", tức là theo cách nói của Kinh Phòng, là quẻ Bố - Mẹ --> Càn - Khôn

...

Hà Uyên xin chào các anh chị trên diễn đàn Chào VinhL

Trước khi chúng ta trao đổi học thuật, chúng ta xem lại bối cảnh Lịch sử giai đoạn khi xuất hiện Thiệu Ung. Bắt đầu từ Khổng Tử, Ông nói: "Đồng Đồ nhi thù quy" (nghĩa cùng một dòng mẹ mà chia làm hai dòng con vậy). Tại thời điểm này, hình thành hai trường phái: phái tượng số và phái nghĩa lý. Phái Tượng số có quan hệ mật thiết với khoa học tự nhiên, còn phái Nghĩa lý lại có mối quan hệ chặt chẽ với khoa học xã hội. Trong Lịch sử, hai trường phái này, là một "thể" thống nhất của cặp mâu thuẫn. Trong Kinh Dịch có viết: "Quan vật thủ tượng" (xem vật lấy tượng). Trong Dịch truyện có viết: "Quan tượng thủ nghĩa" (xem tượng lấy nghĩa). Chiêm phệ chỉ là một bộ phận của phái Tượng số, nhưng "chiêm phệ" có vai trò quan trọng trong việc ứng dụng và lưu truyền, nó có ý nghĩa truyền bá rộng và sâu cho Kinh Dịch. Thiệu Khang Tiết là người đại diện tiêu biểu cho phái Tượng số, phương pháp "tư duy số " của Thiệu Ung, hình thành một hệ thống, mà nền tảng từ Kinh Dịch, là một đóng góp hết sức to lớn. Như chúng ta đã biết, một người đàn ông quốc tịch Đức thế kỷ 16, Ông không bàn về "tâm" động hay tĩnh, mà Ông đã đồng cảm và đồng thuận với Thiệu Ung về HỆ NHỊ PHÂN. "Số" có hai nghĩa lớn: nghĩa thứ nhất là "âm dương số", ví như số lẻ gọi là dương, số chẵn gọi là âm. Nghĩa thứ hai là "hào số", lấy thứ tự của các "hào", để nói lên mối quan hệ về ngôi vị giữa các sự vật. Đặc trưng là lấy "số" 9 làm số dương, số 6 làm số âm. Do vậy, "tượng" và "số" là nội dung cơ bản của Dịch học, đã được Thiệu Ung phát huy, phát triển lên một tầm cao mới. Đối với quy luật của "thời gian", người Phương Đông xây dựng hệ thống Can - Chi, ngày âm lịch dựa vào chu kỳ của Mặt Trăng, mà hệ quả của hệ thống này là: tháng "nhuận" = "0". Theo Hà Uyên, thì Thiệu Ung đã nghiên cứu rất sâu ở lĩnh vực này, tìm ra những quy luật sai số về "thời gian" giữa mặt Trời với mặt Trăng. Cụ thể là, cứ 19 năm, thì có 7 năm có tháng "nhuận" = "0". Điều này có ý nghĩa rất lớn khi Thiệu Ung xây dựng học thuyết cho mình. Ví dụ: một hào luôn luôn trải qua 12 quá trình (12 quẻ), còn hệ thống Can - Chi, theo Thiệu Ung: 60 x 60 x 60 x 60 = 12 960 000 là một đơn vị tính. Khi Quá khứ + Hiện tại + Tương lai = 1, thì buộc người Phương Đông phải chấp nhận "tháng nhuận", với quy luật của số "7". Thiệu Ung đã căn cứ vào đây, lấy số "7" làm vị trí "trung tâm", làm phương pháp cho tư duy của mình, khi ông tự ngôn. Do vậy, khi VinhL hỏi: Năm-Tháng-Ngày-Giờ để lấy quẻ Mai hoa, sử dụng bao nhiêu quẻ khi một hào động. Theo Hà Uyên thì có 7 quẻ, nhưng thực chất chỉ có 5 quẻ. Tại sao lại như vậy? Có lẽ, Hà Uyên phải dùng "tượng" của Dịch để trả lời: theo Nguyên lý vị trí của "trung tâm", với con số "nhị - ngũ" (2 - 5), nhiệt độ trung bình của con người là 37 độ, khi tiến thêm 5 (37 + 5 = 42), hoặc khi lùi đi 2 (37 - 2 = 35), đây là giới hạn cho sự tồn tại của con người, Hà Uyên qua quá trình trải nghiệm, thấy có tính thực tiễn, nên trao đổi với VinhL như vậy, VinhL có thể kiểm nghiệm thêm. Tại sao Càn 9 Khôn 1? Khi tư duy theo phương pháp của Thiệu Ung, Ông là người đưa ra khái niệm Tiên thiên - Hậu thiện thông qua Động - Tĩnh của âm dương chuyển hoá. Ví dụ, theo Tiên thiên, ta gọi Càn là vị trí số 1 thì cộng thêm với 9 là tới số thứ tự của Thuần Đoài. Như vậy, số "10" là một giới hạn cho sự chuyển hóa từ Càn đến Đoài. Nên Thiệu Ung lấy Tứ tượng xắp xếp như sau: - Thái dương tương ứng với cặp số 4 - 9, trong đó: Càn - 1, Đoài - 4 - Thiếu âm tương ứng với cặp số 3 - 8, trong đó: Ly - 3, Chấn - 8 - Thái âm tương ứng với cặp số 1 - 6, trong đó: Khôn - 1, Cấn - 6 - Thiếu Dương tương ứng với cặp số 2 -7, trong đó Tốn - 2, Khảm - 7 Đây là sự đối đãi giữa những con số, khi xây dựng học thuyết cho Ông. Những trao đổi trên, mang tính cá nhân, mong rằng đây là một sự tham khảo vậy.

...

Hà Uyên đính chính lại: - Thái dương tương ứng với căp số 4 - 9: trong đó Càn - 9, Đoài - 4

(Nguồn: Sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm các bài viết về Dịch của cụ Hà Uyên

Khi hết tang làm lễ trừ phục (đàm tế) như thế nào ?

Sau hai năm chọn một ngày tốt trong vòng ba tháng dư ai, để làm lễ trừ phục. Trừ phục gồm 3 lễ: 1. Lễ sửa mộ : Đắp sửa mộ thành mộ tròn.
Khi hết tang làm lễ trừ phục (đàm tế) như thế nào ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

2. Lễ đàm tế: Cất khăn tang. Huỷ đốt các thứ thuộc phần lễ tang, rước linh vị vào bàn thờ chính. Bỏ bàn thờ tang. Thu cất các bức trướng. câu đối viếng.

3. Lễ rước linh vị vào chính điện và yết cáo tổ tiên: Chép sẵn linh vị mới, phủ giấy hay vải đỏ, khi đàm tế ở bàn thờ tang xong thì đốt linh vị cũ cùng với băng đen phủ quanh khung ảnh và văn tế. Sau đó rước linh vị, bát hương và chân dung (nếu có) đưa lên bàn thờ chính, đặt ở hàng dưới. Trường hợp nhà con thứ không thờ gia tiên bậc cao hơn thì vẫn để nguyên bàn thờ như cũ, không phải chuyển bàn thờ mà chỉ cần yết cáo gia thần và yết cáo tổ ở nhà thờ tổ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khi hết tang làm lễ trừ phục (đàm tế) như thế nào ?

Trang trí giường cưới đúng phong thủy để hạnh phúc bền lâu

Khi chọn giường cưới, kê giường cưới cho phòng uyên ương, cần chú ý đến những yếu tố cơ bản về phong thủy giúp cuộc sống hôn nhân của cô dâu chú rể luôn hạnh phúc, thuận hòa.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chọn chất liệu giường cưới

Có rất nhiều đôi uyên ương khi mua giường cưới thường chọn kiểu dáng và màu sắc mà quên mất rằng, chất liệu giường cưới mới là điều quyết định đến cảm xúc và mang đến nhiều thuận lợi cho cuộc sống lứa đôi.

Dựa theo mệnh của chú rể để chọn chất liệu giường phù hợp. Tuy nhiên hiện nay, chất liệu làm giường phổ biến là gỗ, nệm cao su và kim loại. Vì vậy, bạn nên chọn chất liệu tương sinh hoặc không xung khắc với mệnh của cả cô dâu và chú rể.

Nếu cả cô dâu và chú rể đều thích giường cưới bằng gỗ, một chất liệu phổ biến để làm giường hiện nay thì có thể điều chỉnh sự cân bằng mệnh bằng cách chọn ga gối giường với màu sắc tương sinh để cuộc sống lứa đôi luôn lãng mạn, hôn nhân thêm viên mãn.


Vị trí đặt giường

Vị trí đặt giường cưới cũng là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng. Trước tiên cần phải tìm một góc yên tĩnh, có ánh sáng dịu dàng để đặt giường cưới. Tránh đặt đối diện với cửa sổ hay cửa ra vào, vừa khiến luồng khí mạnh chiếu thẳng vào giường gây bất hòa cho cuộc sống vợ chồng vừa khiến cuộc sống sinh hoạt hàng ngày không được tự nhiên.

Vị trí tốt nhất của giường cưới là nơi thông thoáng, hạn chế đặt nhiều đồ trang trí xung quanh. Nên chọn đèn chiếu sáng xung quanh với ánh sáng dịu dàng giúp đôi vợ chồng mới cưới luôn cảm thấy ấm áp và dễ chịu.


Hướng đặt giường

Đặt giường nên tránh hướng Bạch Hổ. Hướng này dễ khiến vợ chồng bất hòa. Giường cưới cũng nên đặt tiếp giáp với bức tường bằng phẳng để tượng trưng cho chỗ dựa ổn định của hôn nhân. Tránh đặt giường ở bức tường cong. Cong theo phong thủy luôn đại diện cho sự chuyển động, do đó cuộc hôn nhân dễ bị trục trặc, không mấy tốt đẹp. Nên kê giường ngủ theo hướng Thanh Long để gia đình luôn hòa thuận, gắn bó.


Lưu ý tường đầu giường cưới

Bức tường nơi đặt phần đầu giường cũng cần chú ý đến việc trang trí. Thông thường chỉ nên treo tranh ở phía đầu giường, một vài điểm nhấn từ vật dụng ở tap đầu giường hay gương trang điểm. Không nên đóng kệ hay gắn tủ phía trên đầu giường cưới khiến cô dâu chú rể luôn cảm thấy bất an và mệt mỏi khi nghỉ ngơi trên giường.


Màu sắc của giường ngủ

Nếu giường ngủ được chọn với chất liệu kim loại, bạn nên sơn toàn bộ giường với màu sắc hợp với mệnh của chú rể. Và đặc biệt nên trải kín chăn ga gối để tạo nên vẻ đẹp bắt mắt cho căn phòng. Hơn nữa, cách trải chăn ga kín giường còn giúp che bớt đi phần kim loại dễ khiến từ trường nhiễu loạn, ảnh hưởng đến sức khỏe của vợ chồng mới cưới.

Nếu chọn giường với chất liệu gỗ thông thường, bạn chỉ cần chọn ga gối có màu sắc phù hợp để tạo nên không khí ấm áp, hài hòa giúp cuộc sống vợ chồng luôn êm ấm.


Đồ trang trí

Ở trong phòng cưới, cạnh giường ngủ có thể đặt hai lọ hoa hai bên giường, hoặc đặt viên pha lê hình con giáp ở gần giường ngủ giúp vợ chồng luôn hòa thuận.


Những cấm kỵ khi kê giường ngủ

Ngoài những yếu tố cơ bản cần chú ý khi kê giường ngủ giúp căn phòng hợp phong thủy, cần chú ý đến những điều kiêng kỵ để cuộc sống vợ chồng luôn hạnh phúc:

- Giường ngủ không được đối diện với nhà vệ sinh

- Giường cưới không nên chọn gam màu tối như xanh sẫm, màu xanh lá cây đậm, đỏ đậm, màu đen... Những gam màu này thường khiến cặp vợ chồng luôn cảm thấy bức bối, khó chịu.


- Giường cưới không nên đối diện với gương khiến vợ chồng bất hòa.

- Giường cưới không nên đặt phía dưới dầm, xà khiến vợ chồng dễ bị suy nhược cơ thể, tinh thần bất ổn.

- Phía bên phải giường ngủ nên rộng hơn bên trái. Theo phong thủy, trường khí tương tác ở bên phải nhiều hơn bên trái. Nếu ngược lại là một điềm không may trong phong thủy.

- Không nên để loa lớn ở hai bên giường ngủ khiến vợ chồng dễ bị suy nhược thần kinh.

- Phía dưới giường không nên chất đầy đồ đạc, để đồ đạc lung tung lộn xộn phía dưới. Giường cưới cần thông thoáng tạo ảnh hưởng tích cực cho luồng sinh khí đi vào, mang lại nhiều điều tốt đẹp cho cuộc sống tân lang, tân nương.


Dương Tất Hoàng


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trang trí giường cưới đúng phong thủy để hạnh phúc bền lâu

Luật nhân quả: Oan nghiệt đời trước, kiếp này phải trả

Kiếp trước, vì xem nhe mạng người, giết oan người vô tội nên một vị hòa thượng nỗi đau đớn trong kiếp này. Luật nhân quả báo ứng là nghiêm minh vô tình.
Luật nhân quả: Oan nghiệt đời trước, kiếp này phải trả

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kiếp trước, vì xem nhe mạng người, giết oan người vô tội nên một vị hòa thượng nỗi đau đớn trong kiếp này. Luật nhân quả báo ứng là nghiêm minh vô tình, đối với người tu luyện cũng không ngoại lệ.


► Cùng đọc: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm

Luat nhan qua Oan nghiet doi truoc, kiep nay phai tra hinh anh
Kiếp trước làm quan giết oan người vô tội, kiếp này dù làm hòa thượng cũng phải phải chịu báo ứng.
  Chùa Quán Âm ở huyện Lâm Hải, tỉnh Triết Giang, trước kia có vị hòa thượng pháp hiệu Hàm Huy, đã hơn 40 tuổi, là người nghiêm trì giới luật.   Một hôm, hòa thượng đang đi tản bộ trên đường, ngang qua một quán bán thịt chó, chủ quán mời mua thịt chó. Do nghiệp lực chiêu cảm, làm cho vị hòa thượng bỗng dưng bị "mủi lòng" bởi mùi hương của thịt chó, đột nhiên nước miếng tuôn chảy, thèm thuồng, nghĩ tưởng đến cảm giác ngậm miếng thịt chó vào miệng thích thú vô cùng. Nhưng ngay lập tức ông xua tan ý nghĩ thèm thuồng đó và vội vàng quay trở về chùa.   Sau khi hòa thượng về chùa, bỗng toàn thân sốt nóng, trên thân dần dần mọc ra 18 cái nhọt độc, mỗi nhọt độc đều có hình giống như đầu người, gây đau đớn không thể chịu nổi. Nếu có người khác nhìn thấy nhọt độc thì đớn đau có phần giảm đi, nhưng nếu che lại không cho người khác thấy thì lập tức đau đớn thấu xương thấu tủy. Tuy đã mời thỉnh rất nhiều thầy thuốc danh tiếng, song tất cả đều bó tay, không chữa trị được.   Sau khi chịu sự hành hạ đau đớn như vậy một thời gian, hòa thượng Hàm Huy liền tự suy ngẫm, đây hẳn là do oan nghiệt ác báo từ đời trước. Ông liền quì trước hình tượng đức Như Lai, kiền thành tụng kinh Kim Cang, phát nguyện sám hối tất cả những lỗi lầm đã gây ra trong quá khứ và hiện tại.   Một buổi trưa nọ, vị hòa thượng đang thiu thiu ngủ bỗng nhiên giật mình tỉnh giấc, hoảng hốt thấy 18 cái nhọt độc cùng lúc nhô lên giống như những hình người bị chặt đầu, từ trong yết hầu lại vang ra tiếng hỏi: “Ông có biết chúng tôi không?”.   Hòa thượng đáp: “Tôi không biết”.   Lại có tiếng nói:   “Ông không biết thật sao? Vậy tôi sẽ nhắc cho ông nhớ. Vào đời nhà Kim, ông làm chức thống lãnh binh lính, chúng tôi đều là thuộc hạ dưới quyền của ông. Ông ra lệnh cho chúng tôi canh giữ cửa ra vào chỗ đóng quân.   Trong bọn chúng tôi có hai người lén xuống núi, gặp một phụ nữ đi một mình liền cưỡng hiếp. Cô ta về nói với chồng, chồng cô tức giận đến báo với ông. Song ông không chịu điều tra xem ai là người phạm tội, lại hạ lệnh xử chém hết thảy 18 người giữ cổng chúng tôi. Hai tên phạm tội cưỡng hiếp, cố nhiên đáng tội chết, nhưng chúng tôi không liên quan gì đến việc làm tội lỗi của họ, lại bị ông xử chém.   Oán thù như thế, làm sao có thể không trả? Chúng tôi theo ông đã hơn 200 năm, nhưng ông biết tin theo Phật, những đời trước đều làm thiện tích đức, nay lại xuất gia nghiêm trì giới luật, nên lúc nào cũng có thiện thần hộ pháp theo bảo vệ, chúng tôi không dám xâm phạm.   Mới đây nhìn thấy thịt chó ông khởi tâm muốn ăn, như vậy là đã phá giới, khiến thiện thần hộ pháp đều xa lánh, chúng tôi mới có cơ hội báo oán này. Nay ông lại tụng kinh cầu nguyện giải trừ oan trái, vậy chúng tôi cho ông thêm ba năm nữa, sau đó nhất định quay lại lấy mạng ông”.   Từ đó, quả nhiên nhọt độc của hòa thượng Hàm Huy không phát tác nữa. Nhưng đúng ba năm sau, chúng phát tác trở lại kịch liệt hơn lần trước, thối rữa và làm cho đau nhức không sao chịu nổi. Những cái nhọt độc oan nghiệt ấy đã hành hạ ông mãi cho đến chết. Phải chăng đây chính là luật nhân quả mà ông phải gánh chịu?

ST.
Chuyện về ĐOÁN MỆNH, xem xong giật mình Bạn có biết: 03h giờ 07 phút sáng chính là khung giờ bí ẩn của QUỶ? Nợ ĐỜI không trả, tự hóa vận HÈN

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luật nhân quả: Oan nghiệt đời trước, kiếp này phải trả

Phong thủy đối với việc kinh doanh –

Trong cuộc sống và công việc kinh doanh, nếu bạn để ý một chút đến Thuật phong thủy, mọi chuyện sẽ diễn ra suôn sẻ và tốt đẹp hơn rất nhiều. Hãy dành một chút thời gian để tìm hiểu. Bạn muốn kinh doanh của mình phát đạt hơn? Bạn cũng muốn một môi trư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ờng làm việc hài hoà giúp khích lệ và trợ giúp cả bạn lẫn những người bạn làm việc cùng? Thế còn việc sở hữu những kỹ năng suy nghĩ sáng tạo và hiệu suất hơn?

batquaimenhViet

Nếu câu trả lời của bạn là “Có” đối với một trong các câu hỏi trên, bạn có thể nên quan tâm tới việc sử dụng Thuật phong thuỷ, một nghệ thuật sắp đặt của người Trung Hoa cổ.

Rất nhiều công ty Hồng Kông ngày nay đã áp dụng thuật phong thuỷ và tận hưởng nhiều lợi ích từ đây. Rõ ràng nhất đó là tạo ra được một môi trường làm việc yên bình, thành công và sinh lời.

Thật tuyệt vời khi bước vào cuộc hành trình tới thế giới diệu kỳ của “gió và nước.” Chúng ta sẽ có thể biết cách sử dụng dòng chảy năng lượng gọi là “chi” để cải thiện bản thân và hoạt động kinh doanh.

Phong thuỷ là một triết lý đã chứng minh ích lợi trong hơn ba nghìn năm qua. Hãy sắp xếp lại bàn làm việc và tâm trí của bạn. Hãy để chân lý mênh mông của Thuật phong thuỷ mang lại sự cân bằng tốt đẹp cho cuộc sống công việc.

Thuật phong thuỷ

Phong thuỷ là nghệ thuật sắp đặt vật thể của người Trung Hoa cổ nhằm đem lại những ảnh hưởng có lợi hay bất lợi. Sự sắp đặt này được dựa trên dòng chảy năng lượng “chi” theo cấu trúc âm và dương.

Về ngữ nghĩa, theo tiếng Hồng Kông, “phong” và “thuỷ” là “gió” và “nước.” Nhờ “gió” và “nước” mà các dòng năng lượng chảy qua tự nhiên và vạn vật. Dòng chảy năng lượng này không nên gặp trở ngại và cần có sự cân bằng để loại bỏ mọi sự bất thường.

Âm và Dương là biểu tượng và niềm tin vào tự nhiên, vào sự hiện hữu của một thế giới vạn vật hài hoà. Không có gì hoàn toàn là dương hay âm; trong một vật thể luôn có ít nhất một phần nào đó của âm hay dương.

Âm là mặt đen, biểu lộ sự yếu đuối, bị động, đen tối, lạnh lẽo, mùa đông và phụ nữ. Còn dương là mặt sáng, biểu lộ sự mạnh mẽ, chủ động, sáng sủa, ấm áp, mùa hè và nam giới. Thuật phong thuỷ được dựa trên học thuyết âm dương này.

Bát quái

Đây là một trong những công cụ hiệu quả nhất trong thuật phong thuỷ để tạo ra những thay đổi tích cực. Bát quái là một biểu đồ tám cạnh thể hiện 8 điểm của la bàn.

Mỗi hướng của la bàn tập trung vào một khía cạnh khác biệt của cuộc sống, chẳng hạn hướng Đông Nam ảnh hưởng tới sức khoẻ và giàu có. Sử dụng kiến thức này có thể giúp bạn đạt được các mục tiêu trong tất cả các khía cạnh cuộc sống.

Áp dụng trong kinh doanh

Thuật phong thủy đã và đang được áp dụng rộng rãi hơn trong thế giới kinh doanh. Cách đây không lâu, khách sạn MGM nổi tiếng tại Las Vegas, Mỹ theo thuật phong thuỷ đã cho xây dựng hai con sư tử bằng đá khổng lồ để tránh kinh doanh thua lỗ. Các công ty đang ngày một quan tâm nhiều hơn tới thuật phong thuỷ và những ứng dụng của nó trong kinh doanh.

Bố trí, sắp đặt lại bàn làm việc và không gian làm việc

Theo thuật phong thuỷ, hiệu quả công việc và sự giàu có trong kinh doanh có thể được nâng cao bằng việc sắp xếp lại và thiết lập trật tự trên bàn làm việc của bạn. Những dòng năng lượng mạnh mẽ không thể tuôn chảy đều nếu có sự bừa bộn trên bàn làm việc cản trở hướng đi và làm tắc nghẽn chúng.

Hãy loại bỏ mọi thứ khỏi bàn làm việc của bạn và dọn sạch mọi sự bừa bộn xung quanh đó. Bạn chỉ đặt trở lại những vật dụng nào được sử dụng hàng ngày và giấy tờ trên bàn làm việc phải gọn gàng và được giới hạn trong những công việc cần thiết. Những vật dụng và giấy tờ khác nên được đặt ở đâu đó, trong ngăn bàn, ngăn kéo tủ, giá tài liệu…

Giờ đây bàn làm việc của bạn đã gọn gàng, hãy đặt thêm vào đó vật gì đấy đáng yêu, tích cực và giúp thăng tiến sự nghiệp. Bạn nên sử dụng bát quái để hướng dẫn cách bày trí, chẳng hạn để gia tăng sự giàu có cho kinh doanh, hãy đặt tượng giả cổ màu đỏ hay màu tía vào góc đông nam của bàn.

Định vị bàn làm việc của bạn trong phòng hay trong văn phòng

Trong thuật phong thuỷ, ví trí bàn làm việc có ảnh hưởng lớn tới hạnh phúc, thành công và sự thịnh vượng của bạn trong cuộc sống kinh doanh. Vị trí tốt nhất của bàn làm việc nên ở nơi có thể nhìn ra toàn bộ gian phòng và sau lưng là tường.

Bạn cũng nên có tầm nhìn ra cả cửa số và cửa ra vào, nhưng đừng bao giờ hướng thẳng tới cửa ra vào. Đường ra vào cửa hay cửa sổ không nên hướng trực tiếp tới lưng bạn bởi nếu thế sẽ đem lại nhiều điều xấu.

Hoa và cây cảnh

Hoa và cây cảnh sẽ mang lại nhiều nhân tố tích cực cho môi trường làm việc. Bên cạnh vẻ đẹp tự nhiên, nó còn cải thiện chất lượng không khí, hoà đồng chúng ta với thế giới tự nhiên bên ngoài và màu sắc xanh tươi sẽ khích lệ những phát triển kinh doanh và cá nhân.

Song bạn cần tránh cây xương rồng hay các loài cây có lá sắc cạnh bởi điều đó có thể dẫn tới các điều xấu. Để đem lại những điều tốt đẹp, hoa và cây cảnh cần tươi và sum suê. Nếu cây cảnh chết, hãy bỏ nó ngay và thay thế bằng một cây khác. Cũng rất tốt nếu dùng cây cảnh bằng nhựa hay bằng lụa nhưng bạn cần giữ chúng không bị bám bụi.

Nước

Nước là biểu tượng mạnh mẽ nhất trong thuật phong thuỷ. Dòng chảy năng lượng của nó rất có lợi cho sức khoẻ và sự thịnh vượng của bạn nhưng cần quan tâm kỹ lượng để giữ cho nước luôn mới và sạch.

Các đài phun nước hay tháp nước là rất tuyệt vời nhưng cần chắc chắn rằng dòng chảy của nước không bị cản trở, tù đọng hay quá nhanh. Những tháp nước nhỏ được thiết kế đặt trên bàn cũng là một lựa chọn tốt nếu không gian bị giới hạn.

Một lựa chọn khác đó là bể cá cảnh hay bể thuỷ sinh. Bạn nên nuôi cá vàng ánh bởi vì vàng ánh là một biểu tượng của người Hồng Kông cho tiền bạc và có qua đó có tác dụng thu hút tiền bạc.

Một cách tuyệt vời nữa để đưa nước vào kinh doanh đó là sử dụng bất cứ vật dụng nào minh hoạ cho nước.

Văn phòng tại nhà

Thuật phong thuỷ cũng coi trọng sự thiết yếu phải giữ cho cuộc sống cá nhân và công việc tách biệt nhau khi bạn có văn phòng làm việc tại nhà. Một lối vào riêng biệt từ bên ngoài cho văn phòng tại nhà của bạn là một lựa chọn.

Nếu không thể, bạn nên bố trí căn phòng ở gần cửa trước hay cửa sau của căn nhà. Khi phòng làm việc tại nhà là một phần của căn phòng lớn hơn, hãy chắc chắn bạn ngăn tách nó bằng một vách ngăn hay những cây cảnh lớn. Một khu vực được trải thảm cũng thích hợp để làm nỗi bật nơi làm việc.

Trần nhà trong nơi làm việc của bạn như thế nào? Một trần nhà phẳng sẽ đảm bảo các dòng chảy năng lượng tốt nhất; còn bằng không bạn nên treo chiếc chuông gió để loại bỏ những điều xấu.

Bạn còn có thể đẩy mạnh dòng chảy năng lượng cá nhân và những điềm tốt trong tương lai bằng việc ăn mặc hợp lý và chăm sóc sức khoẻ, vệ sinh và hình thức của bạn. Đừng làm việc tại nhà khi còn đang mặc bộ đồ ngủ pyjamas.

Chắc phải mất hàng năm để hiểu đầy đủ và sâu rộng về thuật Phong thuỷ. Bạn nên tham khảo tài liệu về phong thủy để tìm hiểu thêm về bí quyết thành công từ hàng nghìn năm trước đây. Cho dù bạn là một nhân viên hay nhà quản lý, có rất nhiều yếu tố tuyệt vời bạn có thể ứng dụng từ Phong thuỷ vào môi trường làm việc, công việc và sự nghiệp của mình một cách có lợi nhất.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy đối với việc kinh doanh –

Tướng mặt những quý cô có thể tùy biến số phận của chính mình

Sở hữu những nét tướng mặt dưới đây, quý cô luôn biết cách làm chủ số phận và có thể thay đổi nó theo ý muốn tùy thích của chính mình.
Tướng mặt những quý cô có thể tùy biến số phận của chính mình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Xem tướng phụ nữ có thể tùy biến số phận của bản thân mình.


1. Thiên Thương rộng

Trên khuôn mặt, Thiên Thương chính là vị trí từ tai đến đuôi lông mày. Nơi đây đại diện cho tài khố, cơ hội xuất ngoại và cung Phu thê.

Thiên Thương rộng và đầy đặn được coi là cát tướng. Phụ nữ có tướng mạo này có sức lôi cuốn mãnh liệt với người khác giới cũng như sức hút lớn về tài lộc.

Tuong mat nhung quy co co the tuy bien so phan cua chinh minh hinh anh
 
Vì thế, đi tới đâu, người này cũng dễ trở thành tâm điểm chú ý, được nhiều chàng trai có tiềm lực kinh tế vững mạnh theo đuổi, tỉ lệ lấy chồng giàu sang, hưởng vinh hoa phú quý rất cao.

Cuộc sống sau hôn nhân của họ hài hòa, viên mãn, không những được hưởng tài phúc nhà chồng mà còn được ông xã hết mực yêu thương, chiều chuộng. Lúc nào họ cũng làm chủ được số phận của mình, thậm chí có thể “tùy biến” nó theo ý muốn để hướng tới cuộc sống tốt đẹp hơn.

2. Cung Điền Trạch đầy đặn


Cung Điền Trạch nằm ở vị trí giữa lông mày và mắt. Trong 12 cung tướng mặt, cung này biểu thị của cải, tài sản, gia vận, danh vọng, đất đai của một người được thừa hưởng hoặc sở hữu.

Cung này đầy đặn, sáng sủa, không bị khuyết hãm (có vết sẹo, mụn nhọt...) được coi là phúc tướng. Nữ giới có đặc điểm này chủ động trong cuộc sống, luôn có đích phấn đấu và mục tiêu rõ ràng.

Bên cạnh đó, tài lộc của người này khá vượng, dễ được gả vào gia đình giàu sang, quyền quý, cuộc sống hôn nhân ngày càng viên mãn.

Tuong mat nhung quy co co the tuy bien so phan cua chinh minh hinh anh 2
 
3. Lông mày mảnh và cong như mảnh trăng non


Đa phần những cô nàng sở hữu tướng lông mày này thường đi kèm với dung mạo xinh đẹp, có nhiều chàng trai theo đuổi, số lấy được chồng giàu sang, hưởng cuộc sống vinh hoa, phú quý như rồng như phượng.

Hơn thế, tính cách người này nhẹ nhàng, tỉ mỉ, tính tình điềm đạm, gặp sự khéo léo giải quyết, biến hung thành cát, cuộc sống an nhiên, tự tại.

4. Mũi tròn đầy, cánh mũi nhiều thịt

Muốn biết tài vận (đường tài lộc) cũng như phu vận (đường chồng con) của một người phụ nữ, không thể không xem tướng mũi. Mũi là cung Tài Bạch, chủ về tài vận, đồng thời cũng là phu tinh, hé lộ phần nào về đường tình duyên của nữ giới.

Mũi tròn đầy, cánh mũi nhiều thịt, sống mũi khá cao là một trong những dấu hiệu cho thấy quý cô này sẽ lấy được chồng giàu sang, không phải lo gánh nặng cơm áo gạo tiền. Hơn thế, họ còn được ông xã hết mực yêu thương, sau này được hưởng phúc nhà chồng.

An Nhiên


Cạch mặt tướng đàn ông thích ăn cá gỗ
– Dưới đây là một vài đặc điểm tướng mặt đàn ông ki bo mà chị em cần tránh xa kẻo rước bực tức vào mình.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt những quý cô có thể tùy biến số phận của chính mình

Phương Pháp Tu Phúc Tích Đức cải tạo vận mệnh

Bất luận là người tu tại gia hay xuất gia, cần phải trên kính dưới hòa, nhẫn nhục điều người khác khó nhẫn được, làm những việc mà người khác khó làm được, thay người làm những việc cực nhọc, thành toàn cho người là việc tốt đẹp.
Phương Pháp Tu Phúc Tích Đức cải tạo vận mệnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi tĩnh tọa thường nghĩ đến điều lỗi của mình.  Lúc nhàn đàm đừng bàn đến điều sai trái của người. Lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, mặc, từ sáng đến tối, từ tối đến sáng, chỉ niệm Phật hiệu không gián đoạn, hoặc niệm nho nhỏ, hoặc niệm thầm.

Ngoài việc niệm Phật, đừng dấy khởi một niệm nào khác. Nếu khởi vọng niệm, phải tức thời bỏ ngay.  Thường có lòng hổ thẹn và tâm sám hối. Nếu đã tu trì, phải tự hiểu là công phu của ta hãy còn nông cạn, chẳng nên tự kiêu căng, khoa trương, chỉ nên chăm sóc việc nhà mình mà đừng nên dính vào việc nhà người. Chỉ nên nhìn đến những hình dáng tốt đẹp mà đừng để mắt tới hình dạng xấu xa bại hoại. Hãy coi mọi người là Bồ Tát, mà ta chỉ là kẻ phàm phu.

Nếu quả có thể tu hành được như những điều kể trên, thì nhất định được sinh về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới.

Cư sĩ Bùi Dư Long dịch.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phương Pháp Tu Phúc Tích Đức cải tạo vận mệnh

Chìa khóa mở cửa hạnh phúc (phần 1)

Mục đích cao nhất của cuộc sống là đạt được hạnh phúc. Vậy hạnh phúc có quá xa xôi? Hãy tìm câu trả lời trong Clip chìa khóa của hạnh phúc.
Chìa khóa mở cửa hạnh phúc (phần 1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Chia khoa mo cua hanh phuc phan 1 hinh anh
 
Con người thường cầu tiền tài, mong danh vọng, muốn tình yêu, tất cả những điều đó đều là phương tiện để đạt được mục đích cuối cùng, sống cuộc đời hạnh phúc. Nhưng thế nào là hạnh phúc? Nhiều tiền là hạnh phúc? Quyền lực là hạnh phúc? Được yêu là hạnh phúc? Phải chăng, cần tìm ra giá trị đích thực của từng giây, từng phút ta sống trên đời.

Hạnh phúc có thể nằm trên môi một đứa trẻ lên hai bi bô tập nói, nằm trên tay của bà mẹ bế đứa con đầu lòng, trên vai của người đàn ông gánh gồng gia đình, trong mắt người phụ nữ đang được ngỏ lời yêu, trong lời nói của người vừa thăng chức. Hạnh phúc ở quanh ta, ở bất cứ nơi đâu trên thế gian này. Quan trọng là mỗi người phải tự tìm ra, lan tỏa và sẻ chia nó.

Chìa khóa của hạnh phúc ở ngay trong bản thân mỗi người, trong tâm niệm và thái độ sống tích cực. Hãy bỏ qua những thứ bề ngoài, đi sâu vào tinh thần và tìm đường mở lối cho riêng mình.




► Mời bạn đọc: Những câu nói hay về tình yêu và suy ngẫm

Sưu tầm

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chìa khóa mở cửa hạnh phúc (phần 1)

Sức khỏe yếu với giấc mơ tiểu tiện –

Bệnh ngủ mê đái dầm, qua tài liệu điều tra thường hay có ở lứa tuổi nhi đồng. Thống kê cho thấy: - 3 tuổi: 34% - 5 tuổi: 10% - 8 tuổi: 4% - 12 tuổi: 3% - Trên 12 tuổi: 1% Nguyên nhân của đái dầm thường là: - Dung tích củ
Sức khỏe yếu với giấc mơ tiểu tiện –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sức khỏe yếu với giấc mơ tiểu tiện –

Những vật phẩm phong thủy trừ tà, hóa sát (P2) –

Có những vật phẩm mà ta tưởng chỉ dùng để chiêu tài, nhưng thực ra nó còn có tác dụng hóa sát 12. Chuông La Bàn Bát Quái Đây là loại chuông treo có in hình Bát Quái bên thân. Không giống với những chiếc chuông gió, chuông la bàn Bát Quái có hình dáng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có những vật phẩm mà ta tưởng chỉ dùng để chiêu tài, nhưng thực ra nó còn có tác dụng hóa sát

12. Chuông La Bàn Bát Quái

Đây là loại chuông treo có in hình Bát Quái bên thân. Không giống với những chiếc chuông gió, chuông la bàn Bát Quái có hình dáng tương tự các quả chuông ở nhà chùa với 1 hình khối trụ chụp xuống và 1 thanh giửa có gắn quả bi tròn, khi có gió lắc nó sẽ chạm vào bên trong thành chuông, làm phát tán năng lượng Bát Quái ra bên ngoài.

Công năng Hoá Sát của nó mạnh hơn hầu hết các linh thú hóa sát trong Phong Thủy , nhưng nếu là kích thước quả chuông không đủ lớn sẽ không đủ lực hoá giải Hình Sát lớn. Thông thường, bên thành quả Chuông La Bàn Bát Quái được khắc hình Quan Thế Âm Bồ Tát hoặc bài Đại Bi Chú.

13. Kim Nguyên Bảo

1341990113-nen-vang-cau-may-man1

Kim Nguyên bảo chính là các thỏi vàng mà người ta thường bày trong trang thờ Thần Tài Thổ Địa, có tác dụng chính là Sinh tài, Vượng tài. Tuy nhiên, nó còn được dùng để Hóa giải chỗ ngồi, chỗ nằm vì lý do không thể xoay trở khác được, mà phải hướng lưng, đầu ra cửa sổ.

14. Lục Đế Tiền Cổ

Là loại tiền giả cổ ngoài tròn giửa có lỗ vuông, thuộc năm triểu đại thịnh vường của nhà Thanh: Thuận Trị, Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, Gia Khánh, Đạo Quang. Nhiều nơi bày bán vật này hay có lối nói tiền cổ, và… chém đẹp, nhưng thực ra tiền cổ thật không có công năng mạnh bằng tiền thật.

Những người đó họ dùng chiêu bài” tiền cổ là loại tiền lưu hành thời đó, đã qua tay nhiều người sử dụng nên tốt, vì có Tài Khí”. Đó chỉ là cách nói bao biện, không hợp với lý của Phong Thủy, bởi chúng ta là người sống, cần là cần những năng lượng Dương tích cực, cần chi năng lượng Âm đó. Tiền càng mới càng có hiệu quả cao!! Chính vì vậy những đồng tiền này luôn được xỏ dây đỏ, dùng năng lượng Dương của màu đỏ để kích hoạt thêm tính Dương của các đồng tiền vậy.

Trong Phong Thủy, Tiền Lục Đế thường được dùng để Hóa Sát trong các trường hợp: Phản Quang Sát, Liêm Đao Sát, Bạch Hổ Sát, Thiên Trảm Sát, Xuyên Tâm Sát, Pháo Đài Sát, Khai Khẩu Sát, Cân Trời Xung Xạ Sát, Phản Cung Sát, Liêm Trinh Sát, Đỉnh Tâm Sát. Trong Phong Thủy Huyền Không thì Tiền Lục Đế thường dùng để Hóa Giải các sao Ngũ Hoàng, Nhị Hắc.

15. Minh Chú Quan Âm

Đức Quan Thế Âm thì cũng biết Ngài là bậc Đại Từ, Đại Bi chuyên cứu giúp nạn tai, cứ khổ. Còn Lục Tự Đại Minh Chú của Ngài có thể hàng yêu phục ma, giải trừ xui rủi. Cho nên cả hai kết hợp lại là vật hộ thân, giảm tai họa đến nhà, thúc đẩy tài vận và giữ bình an.

Công cụ này thường dùng cho người làm việc có tính chất giao tiếp nhiều hoặc phức tạp và thích hợp nhất với nữ giới. Do có hình tượng Quán Thế Âm nên thường mang tính giống vật trang sức đeo bên người, sẽ không có cảm giác đeo vật Phong Thủy 1 cách lộ liễu như các vật khác.

16. Kỳ Hưu (hay Tỳ Hưu)

Đây là 1 loại thú trong thời Thượng Cổ. Có 2 loại: Kỳ Hưu thì có 1 sừng chuyên Chiêu Tài, Nạp Bảo. Còn Tịch Tà thì có 2 sừng chuyên Trấn Trạch. Hình dáng bên ngoài chúng thì giống nhau cả, duy chỉ khác con 1 sừng, con kia 2 sừng. Với Kỳ Hưu thì những ai có thu nhập xốc nổi, hay kiếm tiền bằng mẹo vặt rất thích hợp đặt nó.

17. Gương Bát Quái

Gương Bát Quái có rất nhiều loại: Gương Bát Quái phẳng, gương Bát Quái lồi, gương bát Quái lõm, những loại này thường bằng gỗ và kính. Gương Bát Quái Hổ Phù, gương Bát Quái Trấn Trạch, gương Bát Quái Chuẩn Đề, gương Bát Quái Đại Đế, những loại này bằng đồng.

* Gương Bát Quái phẳng và lồi thường dùng để Hóa Giải các trường hợp Thương Sát, Hỏa Hình Sát, Đỉnh Tâm Sát, Tam Xoa Sát. Nhưng tùy trường hợp mà sử dụng loại nào (vì Hình Sát nhỏ không nên dùng gương Bát Quái lồi) và thêm những công cụ khác trên gương.

* Gương Bát Quái lõm thường dùng để Hóa Giải các trường hợp cầu thang đổ ra đường, nhà nhìn từ cửa trước thông thẳng ra cửa sau. Và gương Bát Quái lõm là loại có thể treo trong nhà.

* Gương Bát Quái Hổ Phù thường dùng để Hóa Giải Ngũ Hoàng Sát, Tam Xoa Sát, Thương sát, Đỉnh Tâm Sát, Thích Diện Sát.

* Gương Bát Quái Trấn Trạch là loại gương Bát Quái đồng, 1 mặt có in hình Bát Quái, mặt kia là 1 Phù Trấn Trạch với 2 thanh thư hùng Thất Tinh Kiếm. Ngoài các công năng Hóa Giải như gương Bát Quái thường ra, nó thường dùng cho trường hợp nhà đối diện các nhà tang lễ, trại giam, bệnh viện, nghĩa trang…nói chung là những nơi có sự chết chóc.

* Gương Bát Quái Chuẩn Đề là loại gương Bát Quái đồng, 1 mặt in hình Phật Chuẩn Đề với 18 tay cầm 18 món Vật Phẩm, mặt kia là vòng tròn Bát Quái cộng với bài chú Chuẩn Đề. Đây đúng ra là Vật Phẩm Hóa Giải của Phong Thủy Mật Tông Tây Tạng, công năng của nó rất mạnh. Ngoài những tính năng đặc biệt như gương Bát Quái Trấn Trạch ở trên, nó còn dùng cho trường hợp nhà ở mà trước đây chủ trước xài Lỗ Ban nuôi “binh”, hoặc nhà có Âm binh khuấy phá. Đây là loại gương Bát Quái đồng có thể treo trong nhà.

* Gương Bát Quái Đại Đế là loại gương Bát Quái đồng, 1 mặt có in hình Vô Cực Đại Thiên Tôn (chính là Ngọc Hoàng Đại Đế) với Phù Trấn Trạch, mặt kia in hình Bát Quái. Gương này ngoài những công năng đặc biệt bên trên của các gương kia còn có sức Hóa Giải các hình tượng Thập Tự Giá khổng lồ đối diện nhà, các nhà đối diện treo gương có hình Tử Vi Đại Đế cưỡi trên Kỳ Lân cầm gương Bát Quái chiếu sang nhà mình.

Guơng Bát Quái thường có 2 loại Tiên Thiên và Hậu Thiên. Hóa Sát dùng Tiên Thiên còn xoay chuyển hướng dùng Hậu Thiên.

18. Vận Tài Đồng Tử

Theo truyền thuyết, Vận Tài Đồng Tử chính là Thiện Tài Đồng Tử bên cạnh Quan Thế Âm Bồ Tát, chuyên biến hiện ra rất nhiều tiền bạc, của cải giúp đỡ cho người nghèo. Nên sau này người ta dùng hình tượng của Thiện Tài Đồng Tử như 1 vị Thần chuyên đem Tài Lộc đến, thành thử mới có tên Vận Tài là vậy.

Vận Tài Đồng Tử trong Phong Thủy có nhiều hình dạng khác nhau: tượng 1 đồng tử gánh 2 gánh vàng, tượng 2 đồng tử đang đẩy xe vàng (cái này có nơi còn gọi là Thôi Xa Tiến Bảo), tượng 2 đồng tử đang quay cối xay tiền, tượng đồng tử đạp trên lưng con sư tử tay cầm Hốt Như Ý… Nhưng tựu trung tất cả đều giống như nhau, với mục đích chính là Chiêu Tài Tiến Bảo.

Ngoài ra, Vận Tài Đồng Tử còn dùng trong 1 vài trường hợp Hóa Sát (thường nó đi kèm với thứ khác) như: Phản Cung Sát, Pháo Đài Sát. Đặc biệt, Vận Tài Đồng Tử rất thích hợp với nhà toàn nam giới chưa kết hôn.

19. Mã Thượng Phong Hầu

Vật phẩm này có thể là 1 bức tranh (rất hiếm), nhưng thường là tượng bằng đồng, hoặc là miếng ngọc bội. Với câu chữ hiểu theo nghĩa đen là “con khỉ cưỡi trên con ngựa” nên nó cũng mang hình dáng như vậy. Nhưng thực ra đây là cách chơi chữ của người Hoa, vì 2 chữ “Mã Thượng” (/mă shang/) đi chung với nhau được hiểu là “lập tức”; còn “Phong Hầu” chính là phong quan tấn tước (“Hầu” là 1 tước vị rất lớn ngày xưa). Do đó ghép 2 từ lại sẽ có ý nghĩa được “lập tức thăng quan”. Vật phẩm này rất thích hợp cho người làm nhân viên nhà nước.

20. Thái Sơn Thạch Cảm Đương

Đây là Vật Hóa Sát khá phổ biến trong Phong Thủy, nhất là ngoài miền Bắc. Theo truyền thuyết thì ngày xưa ở núi Thái có 1 vị đạo sĩ tên Thạch Cảm Đương, ông nhờ tài giỏi đã đánh đuổi được yêu quái chuyên quấy nhiễu các khuê nữ, nên người ta mới dùng tên ông khắc vào đá để trấn yêu, trừ tà.

Vật phẩm này thường có những dạng: 1 miếng đống khắc 5 chữ đó và thêm 1 đầu Hổ(thường thấy nhất là dạng trên gương Bát Quái đồng), 1 con Long Quy chở trên lưng tấm bia khắc 5 chữ này, 2 con Kỳ Lân ngồi trấn 2 bên bảo vệ 1 tấm bia khắc 5 chữ này( thường thấy nhất).

Ngoài việc trừ tà ma vào nhà khuấy phá, Vật Phẩm này còn được dùng để trấn Thương Sát lớn(giống như đồ vật chưng trên tủ hướng ra cửa, không phải treo Bát Quái, cho những ai ngại treo Bát Quái), Thiên Kiều Sát.

21. Cóc 3 chân và Lưu Hải Tiên Nhân

Theo truyền thuyết đây là 1 con yêu quái, được Tiên Nhân Lưu Hải thu phục và ông cũng được liệt vào trong 1 số các vị Tiên mang tài lộc đến cho dân gian. Thường thấy nhất là hình tượng cóc 3 chân dẫm lên trên các đồng tiền, cũng có loại cóc 3 chân ngồi trên 1 đế Bát Quái có tấm liễn Tài Nguyên Quảng Tấn phía trước, có loại bằng bột đá, có loại bằng đồng. Nhưng bằng đồng là hay nhất, vì khi đặt nó ở tài vị sẽ thích hơn. Bởi trong trang thờ Thần Tài Thổ Địa thường phải đầy đủ Ngũ Hành, mà cóc 3 chân bằng đồng là mang hành Kim rồi.

Lưu Hải Tiên Nhân là vị tiên thu phục cóc 3 chân. Hình tượng của ông là 1 vị tiên 1 tay cầm sợi dây trói con cóc 3 chân, mà dây này đầu kia là 1 xâu tiền. Còn 1 hình tượng khác của ông là cầm Vật Phẩm, dùng để trừ tà, nhưng sau lưng ông cũng có 1 xâu tiền hàm ý Chiêu Tài.

Cóc 3 chân và tượng Lưu Hải Tiên Nhân thường đặt ở phương tài vị trong nhà. Cóc 3 chân còn thường được đặt trong trang thờ Thần Tài Thổ Địa với mặt cóc quay vào. Ngoài ra, cóc 3 chân còn được đặt ở cá góc trong nhà (đầu quay vào). Điều này được giải thích là vì bản chất của cóc thích ở chui vào các góc, xó trong nhà nên đặt ở vị trí này với hàm ý cóc về nhà cất giấu của cải, tiền bạc.

22. Thuyền Chở Vàng

Hình tượng này cũng là ngụ ý sự kích hoạt tài lộc trong nhà. Chiếc thuyền buồm thường thấy được chất đầy thỏi vàng, trên cánh buồm viết 4 chữ Nhất Phàm Phong Thuận (1 chiếc thuyền buồm thuận gió) hay 4 chữ Tiền Trình Dĩ Cẩm (tương lai đẹp như gấm). Có thể là loại thuyền buồm bằng gỗ, có thể là loại bằng đồng. Nhưng nếu mua dạng thuyền gỗ theo kiểu thuyền buôn cổ Trung Hoa mới là chuẩn tắc.

Vật này mang hàm ý như có 1 chiếc tàu chở đầy vàng chạy vào nhà, vào nơi làm ăn của mình, đem lại lợi lộc, của cải. Khi bài trí vật phẩm này, nên để mũi thuyền quay vào nhà. Nó rất thích hợp với những người làm kinh doanh và thường được bày ở các cửa hàng, nơi buôn bán.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những vật phẩm phong thủy trừ tà, hóa sát (P2) –

Hóa giải cột điện trước cửa nhà –

Theo phong thủy, khi có cột điện trước cổng nhà, dòng khí và gió lưu chuyển vào trong nhà sẽ mang theo điện tích ion dương vào nhà (dĩ nhiên, chỉ là gọi nôm na ion + cho dễ hình dung. Cái này sẽ không đúng về mặt định nghĩa khoa học.) Điện tích ion d

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ương theo khí đi vào nhà sẽ làm cho căn nhà có không khí khô cứng, nóng bức, người sống trong nhà lúc nào cũng cảm thấy “bừng bừng dương khí”, bức rức khó chịu. Có bạn sẽ nói gió vào nhà thì làm sao mà nóng cho được, đã có gió thì phải mát chứ. Bạn hãy tưởng tượng cơn gió mang theo không khí đi vào nhà, không khí bình thường thì có độ ẩm, có ion âm, bây giờ không khí tràn ngập ion dương, cơn gió đi qua chẳng khác gì “Gió Lào” mang đầy không khí nóng bức thổi qua; lúc đó gió càng thổi thì chúng ta càng cảm thấy khó chịu, bức rức chứ chẳng thấy sảng khoái chút nào.

Dĩ nhiên, theo quan điểm Á Đông thì cái gì cân bằng cũng là số 1. Dương thịnh thì âm suy, âm thịnh thì dương suy, âm dương hài hòa thì mới hay.

dt_11720141523_anhd_4

Cách hóa giải:
Vậy là ta cần phải bổ sung ion âm để làm mềm khí, làm mát mẻ căn nhà.
Hệt như trong quảng cáo máy lạnh các bạn xem khoảng năm 2010 – 2011, các máy lạnh cao cấp nhất đều quảng bá tính năng cung cấp ion âm làm mát mẻ không khí trong nhà.

Về cách thức hóa giải thì theo phong thủy có hai cách sau:
– Trồng những cây mang nặng tính âm như trầu bà, chuối. Tuy nhiên hay nhất vẫn là chuối. Về cây chuối thì có rất nhiều chuyện lý thú, mình xin kể ở phần sau. Cây chuối sẽ giúp trung hòa không khí, che chắn bớt tác hại của dòng điện đối với cơ thể sinh học con người. Đặc biệt là phải trồng cây chuối ngoài nắng, nếu trồng trong bóng râm mát mẻ thì nhà dễ bị “chuối” luôn đó. Nếu bạn nào thấy cây chuối trồng trước nhà xấu quá, thì trồng chuối quạt, chuối kiểng cũng được.

– Xây hồ nước, hồ cá trước nhà. Vì nước mang tính âm, khi bốc hơi sẽ bổ sung độ ẩm, ion âm cho luồng khí xơ cứng đi vào nhà làm cho không khí trong nhà được tản nhiệt, mát mẻ.

Ngoài ra, cột điện ở trước nhà còn phạm phải một lỗi: cản trở lưu thông minh đường (ví dụ người, xe ra vào nhà gặp bất tiện). Cái này thì không thể hóa giải được.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải cột điện trước cửa nhà –

Phong Thủy Cho Người Mệnh Tốn

Phong Thủy Cho Người Mệnh Tốn, tìm hiểu về hướng nhà, màu sắc, con số tốt và xấu cho những người mệnh Tốn trong Phong Thủy.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong Thủy Cho Người Mệnh Tốn

Phong Thủy Cho Người Mệnh Tốn

Phương vị: Người mệnh Tốn (hành Mộc) có bốn hướng tốt là Đông Nam (Phục vị), Nam (Thiên y), Đông (Diên Niên) và Bắc (sinh khí). Và bốn hướng xấu đó là Tây Bắc (Họa hại), Đông Bắc (Tuyệt Mệnh), Tây (Lục sát), Tây Nam (Ngũ quỷ).

Hướng cửa nhà hợp với người mệnh Tốn: nên lấy tọa Tây hướng Đông (trường tồn và bền vững), tọa Tây Bắc hướng Đông Nam (bình ổn), tọa Bắc hướng Nam (sức khỏe, mau lành bệnh), hoặc tọa Nam hướng Bắc (phát triển).

Màu cửa hợp với người mệnh Tốn (Mộc): xanh da trời, xanh lục, vàng, nâu coffee, xám, xanh lam.

Chọn phòng ngủ: chọn phòng ngủ cũng như hướng đặt đầu khi ngủ ở các hướng Bắc, Nam, Đông và Đông nam. Nếu đặt ở các hướng ngược lại sẽ dễ gây mất ngủ đặc biệt là hướng Tây Nam sẽ hay bị ngủ mê.

Hướng đặt bếp: Hướng cửa bếp cũng như hướng cửa, phải quay về hướng tốt, miệng bếp tốt nhất là hướng Bắc, làm như vậy có thể khiến tinh thần sung mãn, sảng khoái tăng thêm sức sống. Nếu gia chủ đang mắc bệnh lâu năm khó chữa thì nên chọn cửa bếp ở phía Nam sẽ giúp mau lành bệnh. không nên để hướng chính là Nam (hành Hỏa) rất bất lợi. Mà nên để chếch 15 độ.

Cũng như các mạng khác khi chọn hướng nhà hướng cửa thì thường là xem cho đàn ông trụ cột gia đình và hướng bếp, hướng giường thường là xem cho người phụ nữ.

Hướng làm việc tốt cho người mệnh Tốn là quay lưng về hướng Nam mặt hướng Bắc.

Màu sắc phù hợp với người mạng tốn: hành Mộc (xanh da trời), hành Thủy (Đen, xanh lam).

Màu kỵ: hành Kim (vàng kim, trắng), hành Hỏa (đỏ, tím, cam).

Màu trung tính: hành Thổ (vàng, coffee).

Màu khai vận: màu xanh lục, xanh lam (Trong ngũ hành, Trong Mộc có mang Hỏa, Mộc sinh Hỏa là sinh khí, Mộc với Mộc là vượng khí). Do đó màu xanh lục và màu xanh lam thường được người tuổi Dần sử dụng với mong muốn mở rộng mối quan hệ ngoài xã hội và hạn chế rủi ro đến với mình.

Màu suy: Màu trắng (Kim khắc Mộc, Hỏa Khắc Kim, vì vậy trong cuộc sống bạn nên hạn chế sử dụng màu trắng).

Con số khai vận: số 2 và số 7.

Số suy: số 4 và số 9.

Con số thích hợp trong xây dựng: 1, 3, 5, 6, 8, 10, 11, 13, 15, 16, 18, 20, 20, 21, 23, 25, 26, 28, 30, 31...

Bảng xem nhanh con số và màu sắc hợp và không hợp với người mạng Tốn

Tốn (hành Mộc) Nên Không nên
Màu sắc xanh da trời, đen, xanh lam, xanh lục vàng kim, trắng, đỏ, tím, cam
Con số 2 và 7 4 và 9

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong Thủy Cho Người Mệnh Tốn

Khu Di Tích Đền Thờ Nguyễn Trãi - Côn Sơn

Khu di tích đền thờ Nguyễn Trãi - Côn Sơn là một trong 48 di tích quốc gia đặc biệt quan trọng của Việt Nam. Khu di tích này thuộc địa bàn thị xã Chí Linh
Khu Di Tích Đền Thờ Nguyễn Trãi - Côn Sơn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khu di tích đền thờ Nguyễn Trãi – Côn Sơn là một trong 48 di tích quốc gia đặc biệt quan trọng của Việt Nam. Quần thể di tích này thuộc địa bàn thị xã Chí Linh tỉnh Hải Dương.

Nơi đây gồm quần thể các di tích lịch sử liên quan đến những chiến công lẫy lừng trong ba lần quân dân thời Trần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII và trong cuộc kháng chiến 10 năm của nghĩa quân Lam Sơn chống quân Minh ở thế kỷ XV.

Đây là nơi gắn liền với thân thế, sự nghiệp của các vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo cùng với nhiều danh nhân văn hoá của dân tộc: Trần Nguyên Đán, Pháp Loa, Huyền Quang…

Một số thắng cảnh trong khu di tích Đền Thờ Nguyễn Trãi:

Chùa Côn Sơn tên chữ là “Thiên Tư Phúc Tự”, nghĩa là chùa được trời ban cho phước lành.

Tương truyền nơi đây là nơi hun gỗ làm than và đã từng diễn ra trận hỏa công hun giặc, dẹp loạn 12 sứ quân của Đinh Bộ Lĩnh ở thế kỷ X. Nên ngoài tên gọi Côn Sơn, núi còn có tên là Kỳ Lân hay núi Hun. Chùa “Thiên Tư Phúc Tự” trong dân gian quen gọi theo tên núi là chùa Côn Sơn hay còn gọi là Chùa Hun.

Chùa Côn Sơn có từ thời Trần (truyền thuyết cho rằng Chùa có từ thời Đinh), năm Khai Hựu nguyên niên (1329), được Pháp Loa tôn tạo với quy mô lớn. Dấu vết của lần trùng tu này còn hiện diện đến nay. Nguyễn Trãi từng làm Đề cử chùa Côn Sơn.

Chùa nằm dưới chân núi Côn Sơn. Mang kiến trúc theo kiểu chữ công, gồm Tiền đường, Thiêu lương, Thượng điện là nơi thờ Phật, trong đó có những tượng Phật từ thời Lê cao tới 3 mét. Tiếp đến nhà Tổ là nơi thờ các vị tổ có công tu nghiệp đối với chùa: Điều ngư Trúc Lâm Trần Nhân Tông, Thiền sư Pháp Loa và Thiền sư Huyền Quang.

Đường vào Tam quan lát gạch, chạy dài dưới hàng thông trăm năm phong trần xen lẫn những tán vải thiều xum xuê xanh thẫm. Tam quan được tôn tạo năm 1995, kiểu cổ, có 2 tầng 8 mái với các hoạ tiết hoa lá, mây tản cách điệu của nền nghệ thuật kiến trúc thời Lê. Sân chùa có 4 nhà bia.

Thiền sư Huyền Quang vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm – một thiền phái mang màu sắc dân tộc Việt Nam đã về tu ở chùa Côn Sơn. Tại Côn Sơn Huyền Quang cho lập đài Cửu phẩm liên hoa, biên tập kinh sách, làm giảng chủ thuyết pháp phát triển đạo phái không ngừng. Ngày 22 tháng giêng năm Giáp Tuất (1334) Thiền sư Huyền Quang viên tịch tại Côn Sơn. Vua Trần Minh Tông đã cấp cho ruộng để thờ và cho xây tháp tổ sau chùa, đặc phong Tự Tháp “Huyền Quang tôn giả”.

Chùa Côn Sơn
Chùa Côn Sơn

Chùa Côn Sơn xưa nay là danh lam cổ tích của đất nước, hiện còn nhiều dấu tích và cổ vật có giá trị.

Đền Kiếp Bạc: Kiếp Bạc là tên ghép của hai làng Vạn Yên (làng Kiếp) và Dược Sơn (làng Bạc). Nơi đây là thung lũng trù phú, xung quanh có dãy núi Rồng bao bọc tạo. Vào thế kỷ 13, đây là nơi đóng quân và là phủ đệ của Trần Hưng Ðạo, người anh hùng dân tộc, người chỉ huy quân sự tối cao trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông.

Ðền thờ Trần Hưng Đạo được dựng vào đầu thế kỷ 14, trên một khu đất ở trung tâm thung lũng Kiếp Bạc. Trong đền hiện còn 7 pho tượng bằng đồng: tượng Trần Hưng Ðạo, phu nhân, 2 con gái, Phạm Ngũ Lão, Nam Tào, Bắc Ðẩu và 4 bài vị thờ 4 con trai. Hàng năm, hội đền được tổ chức vào ngày mất của Trần Hưng Ðạo (ngày 20 tháng 8 âm lịch).

Đền Nguyễn Trãi khởi công xây dựng ngày 14-12-2000, trên khuôn viên đất rộng gần 10.000 mét vuông, tại chân núi Ngũ Nhạc, nằm trong khu vực Thanh Hư Động và gần nơi ngày xưa từng có đền thờ bà Trần thị Thái, thân mẫu của Nguyễn Trãi. Phía bên phải là dòng suối Côn Sơn chảy từ Bắc xuống Nam, uốn lượn từ phải qua trái, ôm lấy khu Đền.

Đền thờ chính, hai nhà Tả vu, Hữu vu, Nghi môn nội, Nghi môn Ngoại, Nhà Bia, Am hoá vàng, cầu vào cổng chính, cầu qua suối Côn Sơn theo kiểu thượng gia hạ kiều để lên Thạch Bàn, nhà từ đền, hệ thống sân vườn, đường cấp thoát nước…

Ngôi đền chính tưa lưng vào Tổ Sơn, hai bên tì vào hai dãy núi Ngũ Nhạc và Kỳ Lân là tả Thanh long và hữu Bạch hổ. Phía trước có hồ nước rộng, tiếp theo là núi Trúc Thôn đối diện với núi Phượng Hoàng. Xa xa là dãy núi An Lạc đã tạo lên thế núi lớp lớp điệp trùng.

Kiến trúc đền theo truyền thống và rất độc đáo; với một nguồn lớn kinh phí cùng với những người có tâm đức, các Nghệ nhân và những người thợ khéo tay, cần mẫn lao động hơn 2.500 ngày để có được công trình hôm nay, thoả mãn cao nhất nhu cầu du lịch gắn với lịch sử và tâm linh của các thế hệ mai sau.

Tại gian tiền tế của đền Kiếp Bạc hiện còn trưng bày 2 đoạn xương ống chân voi. Tương truyền đây là con voi chiến của Hưng Đạo Đại Vương – Trần Quốc Tuấn trong khi ra trận bị sa lầy tại cánh đồng gần tỉnh Thái Bình, mặc dù quân sỹ dốc sức làm mọi cách để cứu voi khỏi bị sa lầy nhưng vẫn không cứu nổi, Trần Hưng Đạo đành phải bỏ voi lại để tiếp tục tiến quân ra chiến trường và có chỉ gươm xuống đất thề sẽ quay lại cứu voi khi thắng trận. Thắng trận trở về đến cánh đồng nơi voi bị sa lầy nhưng con voi đã chết vì bị chìm lún xuống bùn. Tương truyền 2 ống xương chân voi hiện đang đặt tại gian tiền tế đền Kiếp Bạc là xương của con voi trung thành của Đức Thánh Hưng Đạo Đại Vương.

Đền thờ Trần Nguyên Hãn nằm trên đền thờ Nguyễn Trãi, cũng ở ven suối. Trần Nguyên Hãn là đại công thần nhà Lê và là em con cậu ruột của Nguyễn Trãi.

Đền thờ Trần Nguyên Đán nằm ở phía trên cả đền thờ Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn, gần thượng nguồn suối Côn Sơn. Trần Nguyên Đán là ông Nguyễn Trãi. Các đền này đều rất đẹp và hợp thành một quần thể mới hoàn toàn hòa hợp với quần thể chùa Côn Sơn cũ.

Năm 1385, Trần Nguyên Đán cùng vợ đưa cháu ngoại Nguyễn Trãi về sống tại Côn Sơn. Ông nuôi dậy Nguyễn Trãi trưởng thành. Tại Côn Sơn ông cùng vợ trồng rừng thông, bãi giễ và xây dựng quần thể kiến trúc trong núi. Động Thanh Hư là công trình quy mô, hoành tráng với nhiều hạng mục kiến trúc hoà với thiên nhiên, trong đó có các nơi “Nghỉ ngơi, chơi ngắm” là thẳng cảnh tiêu biểu mà từ lâu đã trở thành địa danh, di tích nổi tiếng, đi vào thi ca sử sách ở nhiều thời đại.

Năm 1390, Quan Đại Tư Đồ Trần Nguyên Đán tạ thế tại Côn Sơn. Vua Trần nhớ công đức của ông, sắc chỉ cho nhân dân lập đền, tạc tượng thờ Người tướng quốc tại Côn Sơn. Trải qua năm tháng Đền thờ xưa không còn.

Tam quan đền
Tam quan đền

Năm 2005, tỉnh Hải Dương xây dựng Đền Thanh Hư trên nền nhà cũ của Ông giữa rừng tùng bách tại Côn Sơn. Đền Thanh Hư kiến trúc theo chữ Đinh, toà Tiên bái chồng diêm cổ các hai tầng tám mái uy nghi. Đền tựa núi Ngũ Nhạc, Minh Đường hướng đông nam, hồ Côn Sơn nơi tụ phong, tụ thuỷ; núi An Lạc làm Tiền Án, dãy An Sinh thế long chầu. Trong Đền hệ thống hoành phi, câu đối, đồ thờ bài trí theo nghi thức truyền thống. Tượng Quan Đại Tư Đồ thần thái uy nghiêm, nhân từ.

Thật hiếm có nơi nào trên đất Việt Nam có một di tích vừa chung đúc và hội tụ được các giá trị to lớn về nhiều mặt: lịch sử, văn hoá, tôn giáo và thắng cảnh như Côn Sơn. Đến thăm Côn Sơn, nơi tri ân của nhiều thế hệ với các bậc tiền nhân có công đức lớn lao với đất nước, là địa danh linh thiêng trong tâm thức của du khách và để hiểu thêm về người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khu Di Tích Đền Thờ Nguyễn Trãi - Côn Sơn

Kiêng kị đối với cầu thang –

Trong kiến trúc, cầu thang giúp mang lại ánh sáng, thông gió, đối lưu không khí. Còn trong phong thủy, cầu thang là yếu tố mang lại sức khỏe, tinh thần, thể chất, giúp mọi thành viên sống cùng một nhà có tình cảm tốt đẹp, công việc hanh thông hơn. Tu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

y nhiên, những cầu thang được thiết kế đảm bảo tính thẩm mỹ theo cảm quan thông thường nhưng “xấu” trong phong thủy dễ dẫn đến nhiều bất lợi cho gia chủ. Đáng lưu ý là những mẫu cầu thang sau:

Kiêng kỵ về kiểu dáng:

– Trống cả hai bên:

Để đảm bảo tính thẩm mỹ, sự tiện dụng, họp thời và tiết kiệm vật tư, cầu thang loại này được thiết kế trống ở hai bên hông. Trong phong thủy, đây là mẫu cầu thang tạo hiệu quả xấu, dương khí bị suy thoái, người ở trên các tầng dễ mắc bệnh tim mạch.

– Hình dáng quá cong hoặc xoắn ốc:

cau-thang-theo-phong-thuy

Loại cầu thang này đảm bảo tính thẩm mỹ cao trong kiến trúc nhưng xấu về mặt phong thủy, vì dương khí bị “bẻ gãy” khi di chuyển lên cầu thang tạo hiệu ứng xấu, dễ tác động tiêu cực đến cảm xúc, thần kinh và máu huyết của gia chủ.

– Cầu thang xương cá:

Rất phổ biến và dễ nhận ra với cấu trúc hở trống ở các bậc thang, một lườn xương sống ở giữa và phía dưới bậc, tạo hình ảnh như xương cá. Cấu trúc này ngoài hệ quả suy khí còn tạo ra hiệu ứng xung – sát khí do lườn xương sống của cầu thang gây ra. Gia chủ sẽ bị ảnh hưởng xấu đến thần kinh, huyết áp, tim mạch.

– Cầu thang kiểu hang hốc:

Cấu trúc bít bùng, kín bí do hông của cầu thang không làm bằng lan can hoặc tay vịn mà được che chắn bởi tường kín, cao tạo nên hình thể như hang hốc. Mang lại âm khí nặng nề, tác động tiêu cực khiến gia chủ suy nhược thần kinh, bất ổn tâm lý.

– Cầu thang phá cách:

Cấu trúc cầu thang phá cách không có trong các kiểu mẫu với thiết kế lệch trái hay lệch phải, các bậc lớn nhỏ khác nhau đều gây ảnh hưởng xấu về phong thủy do tạp khí phát sinh. Gây bất ổn tâm lý, thần kinh hoặc gây bệnh dị ứng, viêm nhiễm cho gia chủ và những người sống cùng nhà.

Kiêng đặt gương đối diện với cầu thang

Phong thủy cho rằng, nếu trong nhà bạn có một tấm gương lớn được bố trí tại vị trí phản xạ hình ảnh của cửa và cầu thang, thì đó là một trong những nguyên nhân quan trọng gây nên sự bất đồng, cãi cọ, tranh biện thường xuyên giữa vợ chồng của chủ nhân.

Ngay từ xưa dân gian đã quan niệm, cửa tượng trưng cho miệng, cầu thang tượng trưng cho lưỡi. Vì thế, khi thiết kế cửa đối diện với cầu thang sẽ tạo ra hiện tượng “khẩu thiệt trường”, nhiều thị phi.

Nếu hình ảnh ấy đưọc một tấm gương phản xạ lại, sẽ nảy sinh hiện tượng “khẩu thiệt tương đối” (miệng lưỡi đối chọi nhau). Điều đó ám chỉ tình trạng tranh cãi giữa các thành viên trong gia đình, nhất là giữa vợ chồng sẽ thường xuyên xảy ra.

Ngoài ra, những điều nên tránh khi thiết kế cầu thang:

– Cầu thang không đi thẳng ra hướng cửa chính.

– Không có xà nhà đè lên bất cứ bộ phận nào của cầu thang.

– Cầu thang không đi từ phía sau đi lên.

– Cầu thang không hướng thẳng vào bếp, dù ở tầng nào.

– Cầu thang không đi thẳng vào cửa phòng vệ sinh.

– Cầu thang không đặt ở trung cung.

– Hạn chế cầu thang trước mặt tiền nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kị đối với cầu thang –

Ý nghĩa sao Thiên Mã - Là một quý tinh chủ sự mau lẹ

Sao Thiên Mã chỉ người đa tài, có khả năng trong nhiều lãnh vực, lại tháo vác, bén chạy, may mắn. tên thường gọi là Mã, thuộc loại quý tinh.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Thiên Mã - Là một quý tinh chủ sự mau lẹ

Ý nghĩa sao Thiên Mã - Là một quý tinh chủ sự mau lẹ

Hành: Hỏa

Loại: Quý Tinh

Đặc Tính: Di chuyển, tăng tài tiến lộc, công danh hiển đạt, hiếu động, lanh lẹ

Tên gọi tắt thường gặp:

Vị Trí Ở Các Cung của sao Thiên Mã:

Sao Thiên Mã chỉ nằm 1 trong 4 cung: Dần, Thân, Tỵ, Hợi

Miếu, Vượng: Tỵ, Dần.

Đắc địa: Thân.

Hãm địa: Hợi.

Ý Nghĩa Thiên Mã Ở Cung Mệnh:

Tính Tình: Người có tài năng, hoạt bát, mẫn tiệp, nhanh nhẹn, lanh lợi, chủ sự hoạt động, di chuyển nhiều.

Công Danh Tài Lộc:

Thiên Mã chỉ người đa tài, có khả năng trong nhiều lãnh vực, lại tháo vác, bén chạy, may mắn. Nếu là học trò thì giỏi nhiều môn, nếu là công chức thì đa năng, đa hiệu, đa nhiệm, nếu là nội trợ thì tề gia quán xuyến một mình. Vì vậy, Thiên Mã là sao rất quý cho công danh, nghề nghiệp, bất luận ngành nào, nhất là khi đắc địa ở Mệnh, Thân, Quan, tại các cung Dần và Tỵ. Thiên Mã ở Thân thì kém, ở Hợi thì xấu, vì khắc với hành Hỏa.

Phúc Thọ Tai Họa:

Thiên Mã là tứ chi, hai tay, hai chân, phương tiện di chuyển. Vì vậy, nếu Thiên Mã gặp sát tinh, tùy theo nặng nhẹ, chân tay sẽ bị tàn tật, từ trặc tay, trặc chân, phỏng tay chân cho đến mất tay chân, bất luận Thiên Mã ở cung nào.

Thiên Mã chỉ xe cộ hay phương tiện di chuyển nói chung.

Thiên Mã, Không Kiếp, Binh: Bị mất xe.

Thiên Mã, Kình, Đà: Bị tai nạn xe cộ.

Thiên Mã, Thiên Cơ: xe có máy, xe bị trục trặc máy móc.

Về súc vật, Thiên Mã chỉ gia súc (gà, vịt, heo, bò, cừu ...). Nếu Mã gặp Tang Môn hay Lưu Hà thì súc vật bị dịch chết.

Những Bộ Sao Tốt hki đi với sao Thiên Mã:

Sao Thiên Mã, Tử, Phủ đồng cung: Tài giỏi, giàu sang, phúc thọ song toàn, gặp thời vận, như tôi gặp chúa (đây là cách ngựa kéo xe cho vua chúa).

Sao Thiên Mã, Nhật Nguyệt sáng sủa: Đây gọi là cách Thư hùng mã, chủ việc gặp vận hội tốt, công danh tiến đạt suông sẻ.

Sao Thiên Mã, Lộc Tồn đồng cung hoặc Tồn hay Lộc chiếu: Gọi là chiết tiển (bẻ roi đánh ngựa) hay Lộc Mã giao trì, chủ sự hạnh thông về quan trường, tài lộc. Thường thì đây là cách thương gia đắc tài đắc lộc.

Sao Thiên Mã, Hỏa Tinh hay Linh đồng cung: Đắc địa thì chủ về quân sự, binh quyền, hiển đạt (ý nghĩa Chiến mã, ngựa lâm trận). Nếu hãm địa thì bôn ba, chật vật, có thể bị thương tích.

Sao Thiên Mã, Thiên Khốc, Điếu Khách: Gọi là Tuấn mã tức là ngựa hay gặp người cởi giỏi, ám chỉ sự thao lược, chinh chiến dũng mãnh, lập công lớn hay gặp thời vận may mắn.

Sao Thiên Mã, Sao Thiên Tướng: làm nên vinh hiển.

Sao Thiên Mã và Lưu Thiên Mã: Thăng quan tiến chức, thêm tài lộc, huy chương. Có xuất ngoại, hay đổi chỗ ở, chỗ làm.

Những Bộ Sao Xấu khi đi với sao Thiên Mã:

Thiên Mã, Thiên Hình đồng cung: Gọi là Phù Thi mã, ngựa mang xác chết, chỉ sự tai họa khủng khiếp, có thể chết thê thảm.

Thiên Mã, Tuyệt đồng cung hay hội chiếu : Gọi là Chiết Túc mã hay ngựa què, chỉ sự nguy bại, ngăn trở trong mọi công việc, gây tai họa.

Thiên Mã, Tuần Triệt: Gọi là Tử mã, ngựa chết, rất hung hãn, gây tai họa, bại hoại, chết chóc, thương tích tay chân.

Thiên Mã ở Hợi: Gọi là Mã cùng đồ, ngựa bí lối, có nghĩa như Mã Tuyệt.

Ý Nghĩa sao Thiên Mã Ở Cung Phụ Mẫu:

Cha mẹ là người có tiếng, có tài.

Sao Thiên Mã, Đà La thì cha mẹ bôn ba, vất vả, thường sống xa cách nhau hoặc xung đột, nếu không thì cha mẹ cũng hay bị vận hạn, bôn ba.

Ý Nghĩa sao Thiên Mã Ở Cung Phúc Đức:

Được hưởng phúc, nhưng phải đi xa quê hương bản quán.

Ý Nghĩa sao Thiên Mã Ở Cung Điền Trạch:

Tạo dựng nhà cửa dễ dàng, nhiều nơi chốn, càng xa quê hương càng tốt.

Ý Nghĩa sao Thiên Mã Ở Cung Quan Lộc:

Thường xuất ngoại, hay đi du lịch, làm việc lưu động hoặc làm công vụ ở ngoại quốc.

Ý Nghĩa sao Thiên Mã Ở Cung Nô Bộc:

Sao Thiên Mã ở Nô nếu gặp nhiều sao tốt thì bè bạn, người giúp việc đắc lực, gặp nhiều sao xấu như TUẦN, TRIỆT, Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ, Linh Tinh, Hỏa Tinh, thì bè bạn, người giúp việc tốt xấu lẫn lộn. Tuy vậy, vẫn có người giúp cho mình, nhưng hay gặp điều hung họa, cũng có quý nhân giúp đỡ, nhưng mình phải làm việc cật lực, và chính mình cũng giúp đỡ người khác, đi đâu cũng có bạn bè.

Ý Nghĩa sao Thiên Mã Ở Cung Thiên Di:

Thường xuất ngoại, hay đi du lịch, làm việc lưu động.

Làm công vụ ở ngoại quốc.

Ý Nghĩa sao Thiên Mã Ở Cung Tật Ách:

Giải trừ được bệnh tật, có sức khỏe, nhưng nếu có thêm các sao TUẦN, TRIỆT, Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Hình, Thiên Riêu, Linh Tinh, Hỏa Tinh phải coi chừng về tai nạn xe cộ, phi cơ, sông nước, đâm chém, mổ xẻ, hậu vận về già dễ có tai nạn khiến phải ngồi tại chỗ, tù tội, nhẹ nhất là chân tay có thương tật.

Ý Nghĩa sao Thiên Mã Ở Cung Tài Bạch:

Bôn ba mà tạo dựng được tiền bạc.

Có năng lực kiếm tiền.

Ý Nghĩa sao Thiên Mã Ở Cung Tử Tức:

Con cái có năng lực, nhưng không được ở gần cha mẹ

Ý Nghĩa sao Thiên Mã Ở Cung Phu Thê:

Vợ chồng gặp nhau ở xa quê quán.

Có thể có vợ hay chồng ngoại quốc.

Thường cưới hỏi nhau rất nhanh.

Ý Nghĩa sao Thiên Mã Ở Cung Huynh Đệ:

Anh chị em có người đi xa.

Anh chị em sống xa cách nhau, mỗi người một nơi.

Thiên Mã Khi Vào Các Hạn

Hạn có sao Thiên Mã, là hạn thành đạt.

Thiên Mã nếu gặp thêm sao TRIỆT, đề phòng có sự té ngã, là hạn thay đổi chỗ ở.

Hạn có Thiên Mã, Đà La, Thai, là hạn bôn ba, có nhiều sự thay đổi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Thiên Mã - Là một quý tinh chủ sự mau lẹ

Ý nghĩa những vết bớt trên cơ thể

Vết bớt trên cơ thể mỗi người đều tồn tại một ý nghĩa đặc biệt riêng của nó. Có những vết bớt đem lại vận rủi cho người sở hữu, nhưng cũng có những vết bớt mang đến may mắn, tài lộc. Vậy thì, vết bớt ở vị trí nào sẽ mang đến may mắn cho chúng ta đây?
Ý nghĩa những vết bớt trên cơ thể

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!

Vết bớt trên cơ thể mỗi người đều tồn tại một ý nghĩa đặc biệt riêng của nó. Có những vết bớt đem lại vận rủi cho người sở hữu, nhưng cũng có những vết bớt mang đến may mắn, tài lộc. Vậy thì, vết bớt ở vị trí nào sẽ mang đến may mắn cho chúng ta đây? Hãy cùng lịch vạn niên 365 xem thử nhé!

1. Vết bớt nằm ở mông

Nếu như khi sinh ra bạn đã có vết bớt ở mông, theo xem tướng vậy thì bạn có số mệnh phú quý, “miệng ngậm chìa khóa vàng”. Bạn luôn nhận được sự yêu quý của mọi người, làm việc gì cũng thuận lợi, là một người cả đời đều không phải lo lắng về chuyện cơm, áo, gạo, tiền.

2. Vết bớt nằm trên đường trung trực của gáy

Người có vết bớt nằm ở đường trung trực của gáy (tức đường thẳng kẻ dọc giữa gáy) chuyện tình cảm thường gặp trắc trở, dễ bị đối phương lừa dối, khổ sở. Nhưng sau nỗi đau, họ vẫn không biết sợ và lại tiếp tục mù quáng như cũ, vì thế chuyện tình cảm cứ thế vẫn mãi không thuận lợi.

3. Vết bớt nằm ở vị trí xương cụt

Theo xem bói, người có vết bớt ở vị trí này thường có học thức rộng, tài giỏi hơn người. Về nghệ thuật, cũng có tài năng thiên phú, có thể nói là "văn võ song toàn", hơn hẳn nhiều người khác. Họ hầu hết đều là người thành công, quyền cao chức trọng.

4. Vết bớt nằm ở gót chân

Người có vết bớt nằm ở gót chân, cuộc sống thường gặp nhiều trắc trở. Nếu vết bớt màu đen thì họ sẽ càng gặp vận rủi, xui xẻo liên miên.

5. Vết bớt nằm ở xương đòn

Người có vết bớt ở xương đòn thường là người ôn hòa, trong sáng, việc gì cũng lấy “dĩ hòa di quý” làm gốc, cho dù bị người khác ức hiếp, hãm hại, đều luôn duy trì thái độ “thêm một chuyện chi bằng bớt một chuyện”. Họ là một người vô cùng tốt bụng.

6. Vết bớt ở trước ngực, gần tim

Người xưa cho rằng vết bớt gần tim là vết bớt “lòng lang dạ sói”. Người có vết bớt ở vị trí này thường là người ranh ma, xảo trá, dễ dàng lật mặt, thường cho rằng bạn bè là kẻ ngốc… Nói chung, họ không phải người tốt.

7. Vết bớt nằm ở rốn

Nếu ngay giữa rốn có vết bớt thì theo nhân tướng học gọi là “vàng ẩn trong rốn”, biểu tượng cho số mệnh phú quý giàu sang. Mọi việc họ làm đều vô cùng thuận lợi, về già nhất định cũng không cần phải lo củi, gạo, dầu, muối.

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>

8. Vết bớt nằm giữa ngực và rốn

Nếu có vết bớt nằm giữa ngực và rốn, vậy thì người này thuộc dạng người có nhân duyên cực tốt: “người gặp người yêu, hoa gặp hoa nở”, bất kể đi đến đâu đều nhận được sự yêu mến và tôn trọng, đặc biệt là với người khác giới.

9. Vết bớt nằm giữa xương đòn và bả vai

Người có vết bớt ở vị trí này đối với bạn bè rất hào phóng, rộng rãi, tiêu tiền hoang phí hay nói đúng hơn là họ coi tiền như cỏ rác. Vì thế, họ không có tiền tích góp, về già dễ sa vào cảnh “nghèo rớt mồng tơi”, “không xu dính túi”. Lời khuyên chân thành dành cho những người này là cần học cách tiết kiệm, tích lũy một số tiền để phòng thân.

10. Vết bớt nằm bên trong bắp đùi

Vết bớt nằm bên trong bắp đùi biểu thị cho người có nội tâm vô cùng mạnh mẽ, kiên cường, trên phương diện công việc cũng có biểu hiện vô cùng xuất sắc. Nhưng có điều, số phận đã định phải bôn ba vất vả.

11. Vết bớt sau cánh tay

Người mà hai bên cánh tay có vết bớt, thường có quan hệ thân thích ruột rà rất kém. Họ không coi trọng tình thân, cũng không hề có chút ý niệm gì về không khí ấm áp của gia đình, thậm chí còn "vứt chồng bỏ con". Vì thế, sau này dễ rơi vào cảnh cô độc đến già, không ai chăm sóc.

12. Vết bớt ở giữa lưng

Theo tử vi trọn đời, vết bớt ở giữa lưng là vết bớt may mắn, biểu thị cho người cả đời được quý nhân giúp đỡ, gặp dữ hóa lành, về già con cháu đông vui, an nhàn hưởng phúc

>> Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé! >>


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa những vết bớt trên cơ thể

Đoán tính cách chàng qua ngón chân (2)

Sở hữu bàn chân vừa rộng ngang lại dày, vững chắc, chứng tỏ chàng là người chân thành, chất phác, làm việc luôn chân luôn tay.
Đoán tính cách chàng qua ngón chân (2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Hình dáng tổng thể của bàn chân

Nếu các ngón chân dài dần đều tính từ ngón út, tạo thành một đường cong liền mạch và gọn gàng, cho thấy chàng học tập, làm việc có phương pháp, chính xác và thực tế. Chàng luôn quan tâm đến chi tiết và đảm bảo hoàn thành những gì mình đặt ra. Trong mắt cấp trên và đồng nghiệp, chàng thực sự là một nhân viên "trong mơ". Còn đối với bạn bè, chàng luôn là một người bạn tốt, trung thành, kiên định và khoan dung trước những lỗi lầm của người khác. Đây quả là một chàng trai hiếm có khó tìm đấy!

2. Độ rộng, dài và dày của bàn chân

Sở hữu bàn chân vừa rộng ngang lại vừa dày, đầy vững chắc, chứng tỏ chàng là người chân thành, chất phác. Chàng thích cuộc sống năng động, di chuyển và làm việc luôn chân luôn tay.

Chàng luôn cảm thấy vui khi được bận rộn, nhưng có vẻ cuộc sống của chàng trai đang thiếu đi những niềm vui, những điều đơn giản mà ý nghĩa, cũng như sự bình yên đôi khi rất cần giữa cuộc sống bon chen. Là một người thân cận, tại sao bạn không chủ động đề nghị chàng nghỉ ngơi, tham gia một vài hoạt động vui chơi ngoài trời, tạm dừng công việc lại một chút để suy nghĩ và tận hưởng cuộc sống nhỉ?

feet-9213-1404985966.jpg

Còn nếu chàng có bàn chân vừa hẹp ngang lại vừa dài, có lẽ chàng hơi trẻ con, lười biếng, thích được nuông chiều và thích đùn đẩy công việc cho người khác hơn là lao động bằng chính năng lực của mình. Ngoài ra, chàng cũng có tài ăn nói, khiến nhiều người có thiện cảm và "liêu xiêu". Ưu điểm lớn nữa của chàng là óc sáng tạo và gu thẩm mỹ độc đáo, tuyệt vời, nhiều khả năng sẽ "hái ra tiền" và có cuộc sống sung túc nhờ thế mạnh này của bản thân.

3. Vòm bàn chân (độ cong của bề dày bàn chân)

Vòm bàn chân càng cong và càng cao thì chàng trai của bạn càng độc lập và tự lập trong cuộc sống. Chàng thích ở một mình, tự do với không gian riêng hơn là hòa nhập với cộng đồng nên thường bị hiểu lầm là kiêu, chảnh hay lập dị, khó hiểu. Ngoài ra, chàng trai này còn có tinh thần kiên định, bất khuất, không thích dựa dẫm vào người khác, dù gặp khó khăn gian nguy tới mức nào. Nếu thực sự quan tâm và muốn giúp chàng, bạn hãy chịu khó quan sát, tinh ý và chủ động tìm cách giúp đỡ một cách tế nhị. Bởi trong cách suy nghĩ của những chàng trai này, nhờ vả người khác chẳng khác nào thể hiện điểm yếu của bản thân. Theo triết học Trung Quốc, những người có vòm bàn chân cong và dày thường tính tự ái rất cao, nóng nảy và hơi cứng nhắc.

Còn nếu vòm bàn chân của chàng không quá dày, từ trung bình đổ xuống thì có tính cách hòa đồng, hướng ngoại. Chàng luôn muốn hòa mình với tập thể và mang tới niềm vui cho mọi người. Những chàng trai này cho rằng, mình mong muốn điều gì thì những người khác cũng mong nhận lại y như vậy.

Fon Fon

8-1404539426-362x0-7074-1404985967.jpg

Đoán tính cách chàng qua ngón chân

Những đặc điểm của ngón chân cũng có thể tiết lộ nhiều điều về tính tình của các chàng trai đấy!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán tính cách chàng qua ngón chân (2)

So đường chỉ tay Tình cảm để biết tình yêu của 2 bạn (P2)

Hai bạn có thể xòe bàn tay của mình để đối chiếu đường chỉ tay Tình cảm xem mình thuộc trường hợp nào dưới đây để biết tình yêu của mình sẽ đi đến đâu nhé.
So đường chỉ tay Tình cảm để biết tình yêu của 2 bạn (P2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Nguyên tắc xem tay: Trai tay trái, gái tay phải. Hai bạn có thể xòe bàn tay của mình để đối chiếu đường chỉ tay Tình cảm xem mình thuộc trường hợp nào dưới đây nhé.

Đối chiếu đường chỉ tay Tình cảm để biết hai bạn có phải là một cặp trời sinh (P1)
Sự tương ứng giữa hai đường chỉ tay Tình cảm của hai bạn sẽ cho biết phần nào về mức độ hạnh phúc, sự hòa hợp trong tình yêu và hôn nhân.

Kiểu 6: Cả hai đều có đường chỉ tay Tình cảm ngắn  
So duong chi tay Tinh cam de biet tinh yeu cua 2 ban P2 hinh anh goc
 
Nếu cả bạn và người ấy đều có đường chỉ tay Tình cảm ngắn, chỉ dừng lại ở gò Thổ tinh, e rằng tình đến lại đi, khó mà duy trì mối quan hệ lâu dài.   Bởi chủ nhân của tướng tay này rất mạnh mẽ, bướng bỉnh, làm việc gì cũng chỉ nhiệt tình lúc ban đầu, dễ bỏ cuộc giữa chừng. 
Kiểu 7: Cả hai đều có đường chỉ tay Tình cảm và Trí tuệ hợp làm một  
So duong chi tay Tinh cam de biet tinh yeu cua 2 ban P2 hinh anh goc 2
 
Có kiểu đường chỉ tay này, tính cách của chủ nhân cố chấp, lại có lối sống khá thực dụng, coi trọng vật chất.    Thêm nữa, người này rất có thể hành động theo 2 trạng thái cực đoan, hoặc là thắng thì làm vua, hoặc là thua thì làm giặc. Suy nghĩ quá nhiều khiến thần kinh của người này cũng dần bị lão hóa và hành động bất thường. Hai người đều có tướng tay này ở gần nhau thì chẳng thể hòa hợp được.
Kiểu 8: Nam có đường chỉ tay Tình cảm tiêu chuẩn, nữ có đường Tình cảm và Trí tuệ trùng nhau  
So duong chi tay Tinh cam de biet tinh yeu cua 2 ban P2 hinh anh goc 3
 
Nữ giới có đường chỉ tay Tình cảm trùng với đường Trí tuệ thường khá thành công trong sự nghiệp. Nhưng về mặt tình cảm lại không thuận lợi. Thậm chí, người này còn bất chấp thủ đoạn để có được người mình yêu.    Tuy nhiên, khi bên cạnh nam giới có đường chỉ tay tiêu chuẩn, họ sẽ bổ hay bù đắp tình cảm cho bạn. Nên nhìn chung, hai bạn vẫn là một cặp khá ăn ý.
Kiểu 9: Đường chỉ tay Tình cảm của nam dài, nữ trùng với đường Trí tuệ  
So duong chi tay Tinh cam de biet tinh yeu cua 2 ban P2 hinh anh goc 4
 
Đàn ông có kiểu tay này thường thông minh, lanh lợi, tuy hơi cố chấp nhưng lại giỏi kiếm tiền, dễ thành đạt trong sự nghiệp nhưng có phần hơi tham lam về vật chất.   Nữ giới có kiểu tay này khá cố chấp. Nhưng khi cặp đôi này kết hợp với nhau sẽ có sự tương hỗ nhất định, tình cảm vẫn khá hài hòa.   Kiểu 10: Đường chỉ tay Tình cảm của nam ngắn, nữ trùng đường Trí tuệ  
So duong chi tay Tinh cam de biet tinh yeu cua 2 ban P2 hinh anh goc 5
 
Nữ giới có kiểu tay này cố chấp, thiếu kiên nhẫn nhưng lại khá lý tính, giỏi giang và có sự thành đạt nhất định trong sự nghiệp.    Nam giới có đường chỉ tay Tình cảm ngắn, chỉ dừng ở gò Thổ tinh cũng bướng bỉnh, tình cảm lên xuống thất thường.   Vậy nên, khi cặp đôi này kết hợp với nhau chắc chắn sẽ nảy sinh mâu thuẫn, không bất đồng quan điểm thì cũng cãi vã vì những thói quen thường nhật.     (Hết)  
=> Bói tình yêu để biết nhân duyên của hai người

Ngân Hà
4 đường chỉ tay chính ai cũng tự xem được
Nắm bắt 4 đường chỉ tay chính, mỗi người có thể “tự bói” công danh, tình duyên, định mệnh…cho chính mình.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: So đường chỉ tay Tình cảm để biết tình yêu của 2 bạn (P2)

Trưng biểu tượng phong thủy để sự nghiệp thăng tiến không ngừng

Ngoài ý nghĩa về dòng chảy tài lộc, Thủy còn giúp khơi nguồn cảm hứng và sáng tạo trong công việc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Sử dụng biểu tượng ngựa trong phong thủy

Theo quan điểm phong thủy, ngựa mang nguồn năng lượng của thành công, hưng thịnh, danh vọng và sự tự do. Do đó, tại văn phòng làm việc, người ta thường bài trí biểu tượng ngựa ở hướng Nam, đại diện cho cung công danh, ở hướng Bắc là cung sự nghiệp trong Bát quái nhằm thúc đẩy công việc thuận buồm xuôi gió, từ đó gặt hái được nhiều thành công rực rỡ hơn.

Trung bieu tuong phong thuy de su nghiep thang tien khong ngung hinh anh
 
Ngoài ra, việc trưng biểu tượng ngựa theo cặp cũng mang lại lợi ích trong phong tình yêu, hôn nhân.

2. Trang trí yếu tố Hỏa ở hướng Nam

Hỏa là biểu tượng cho sự mạnh mẽ, hứng khởi, tràn đầy sức sống và tinh thần làm việc hăng say.

Trung bieu tuong phong thuy de su nghiep thang tien khong ngung hinh anh 2
 
Bạn có thể mang yếu tố này vào văn phòng làm việc của mình bằng cách sử dụng các đồ trang trí như nến với giá đỡ màu đỏ, lọ hoa, đèn chiếu sáng hay đồ nội thất màu đỏ… ở hướng Nam.
 
3. Trang trí yếu tố Thủy ở phía Bắc

Ngoài ý nghĩa về dòng chảy tài lộc, Thủy còn giúp khơi nguồn cảm hứng và sáng tạo trong công việc.

Trung bieu tuong phong thuy de su nghiep thang tien khong ngung hinh anh 3
 
Do vậy, bạn nên dùng các đồ trang trí mang yếu tố Thủy ở hướng Bắc bàn làm việc hay văn phòng của mình như một chiếc bình cao cổ, suối nước, chiếc gương... nhằm kích hoạt tài lộc vượng, đồng thời tạo ra những đột phá trong công việc, sự nghiệp.

4. Trưng rồng để gặt hái thành công

 
Trung bieu tuong phong thuy de su nghiep thang tien khong ngung hinh anh 4
 
Rồng là một biểu tượng phong thủy truyền thống mang ý nghĩa về sự tốt lành, đầy quyền lực và dương khí mạnh mẽ. Hình ảnh rồng phun châu nhả ngọc tượng trưng cho sự giàu có, quyền lực và mang tới những cơ hội thành công bất ngờ.

Do đó, bạn có thể trưng biểu tượng phong thủy này tại văn phòng làm việc của mình để thúc đẩy sự nghiệp một bước lên mây.

Giang Nguyễn (Theo Fengshui)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trưng biểu tượng phong thủy để sự nghiệp thăng tiến không ngừng

Mơ thấy thợ cắt tóc: Chú ý hình tượng bản thân –

Nhiệm vụ của thợ cắt tóc là “làm đẹp dung mạo khách hàng”. Sự tồn tại của họ luôn liên quan đến hình tượng cái tôi của mỗi người. Nếu mơ thấy thợ cắt tóc, bạn đừng quên một lần nhìn lại bản thân để tìm ra những mặt còn khiếm khuyết.   Ngoài ra,
Mơ thấy thợ cắt tóc: Chú ý hình tượng bản thân –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy thợ cắt tóc: Chú ý hình tượng bản thân –

Ánh sáng trong phòng ngủ –

Phòng ngủ là nơi nghỉ ngơi thư giãn, đòi hỏi phải có độ ánh sáng thích hợp. Ánh sáng trong phòng ngủ dù là trên phương diện mĩ thuật hay để đảm bảo sức khỏe đều phải đạt tiêu chuẩn dịu nhẹ và không làm hại mắt. Nếu ánh sáng trong phòng ngủ quá mạnh,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

con người sẽ dễ cáu giận bực bội. Ngược lại, nếu ánh sáng quá yếu thì dễ làm cho con người có tâm trạng u uất và mắc chứng trầm cảm.

anhsang_phongngu1

Phong thủy học nói rằng, lắp đặt đèn điện cũng có những điều cấm kị. Chẳng hạn, không nên treo đèn treo ngay trên đầu giường, càng không nên treo ở chính giữa giường. Vì nếu trên đầu có một chiếc đèn treo thì khi ngủ ánh sáng sẽ chiếu trực tiếp vào mắt. Trừ khi bạn đeo một cái che mắt trong khi ngủ, nếu không chắc chắn bạn không thể nào ngủ ngon giấc được. Không chỉ vậy, việc thường xuyên bị ánh đèn chiếu vào mắt sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến gan của bạn.

Ngoài ra, hiện nay phần lớn những chiếc giường đôi được thiết kế có một chiếc đèn ngủ kèm theo. Điều này không có gì đáng nói. Tuy nhiên, ánh sáng phát ra từ chiếc đèn ngủ ấy phải dịu nhẹ. Nếu là một chiếc đèn đơn thì nên lắp thêm một cái chụp đèn, màu của chụp đèn phải hợp với màu tường và ngũ hành của chủ nhà. Như vậy, bạn không những có thể ngủ ngon mà sức khỏe của bạn cũng được đảm bảo. Nếu một người có tinh thần luôn luôn sung mãn thì tài sản, cuả cải sẽ tự nhiên tìm đến.

Nếu đèn điện trong nhà bị hỏng thì phải lập tức sửa hoặc thay ngay một cái bóng mới, vì đèn hỏng là chuyện vô cùng xui xẻo. Bởi thế, nếu trong nhà bạn có bất kì bóng đèn nào bị hỏng thì xin bạn đừng ngại việc mà hãy bắt tay vào xử lý ngay.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ánh sáng trong phòng ngủ –

Tướng rốn nói gì về tương lai sướng khổ của bạn?

Xem tướng rốn qua hình dáng, độ nông sâu, rộng hẹp cũng biết đoán biết phần nào về trí tuệ, phúc lộc, tài vận, sức khỏe của mỗi người. Tướng rốn của bạn ra sao
Tướng rốn nói gì về tương lai sướng khổ của bạn?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Trong nhân tướng học, rốn là nơi thống lĩnh lục phủ ngũ tạng, là gốc của gân và các mạch máu trong cơ thể con người. Xem tướng rốn qua hình dáng, độ nông sâu, rộng hẹp… cũng biết đoán biết phần nào về trí tuệ, phúc lộc, tài vận, sức khỏe của mỗi người.

 

1. Tướng rốn nói lên điều gì?

  Đa phần chúng ta đều không hoặc ít quan tâm tới tướng rốn bởi cho rằng nó không có tác dụng gì cả. Nhưng theo quan điểm nhân tướng học, đây là bộ phận có mối liên quan mật thiết với cuộc đời và tương lai của mỗi người.  
Tuong ron noi gi ve tuong lai suong kho cua ban hinh anh
 
Rốn là nơi thống lĩnh lục phủ ngũ tạng, nó có kết nối nội tuyến với 12 tĩnh mạch, tứ chi, ngũ quan, da và gân. Vậy nên, từ xa xưa người hành nghề y đã biết cách chẩn đoán bệnh tật qua rốn cũng như căn cứ vào hình dáng, kích cỡ, màu sắc rốn để dự đoán về sức khỏe, tương lai sang hèn của mỗi người.   Trong nhân tướng học, rốn nắm giữ vị trí tuệ và phúc lộc của con người. Từ hình dạng, độ nông sâu, kích cỡ, chiều hướng và vị trí của rốn, người ta có thể dự đoán được người đó có trí tuệ cao thấp, phúc lộc nhiều hay không.

2. Những căn cứ cơ bản về xem tướng rốn đoán biết vận mệnh

 

a. Độ nông sâu của rốn

  Tướng rốn tốt phải sâu chứ không nông hay lồi ra ngoài. Độ sâu lý tưởng nhất của rốn là khoảng 1 đốt ngón tay.    Người có kiểu rốn sâu này thường thông minh hơn người, học hành giỏi giang, sự nghiệp phát đạt, dễ thăng quan tiến chức vì có nhiều sáng kiến trong công việc.   Ngược lại, nếu rốn nông hoặc lồi ra ngoài, chủ nhân thiếu sự may mắn, không khéo léo trong cách cư xử hay giải quyết vấn đề, dễ bị người khác mê hoặc, xúi giục hoặc làm theo người khác một cách mù quáng.
 

b. Độ dài hẹp của rốn

  Theo thuật xem tướng người tốt xấu, rốn tốt thì miệng rốn nên rộng, không nên hẹp. Những ai có phần miệng rốn rộng thì tài vận thịnh vượng, gặp nhiều thuận lợi trong cuộc sống, bất luận theo nghề gì đều có vận khí tốt, giàu sang phú quý.   Người có tướng rốn mà miệng rốn nhỏ hẹp thì người này gặp nhiều gian nan, làm việc vất vả, mất nhiều công sức nhưng không thu lại thành quả ưng ý.
Tuong ron noi gi ve tuong lai suong kho cua ban hinh anh
 

c. Độ lớn nhỏ của rốn

  Rốn to và sâu được coi là cát tướng. Chủ nhân của tướng rốn này có trí tuệ uyên thâm, học sâu hiểu rộng, có thể làm thầy thiên hạ. Trái lại, nếu rốn nhỏ và nông thì cuộc đời vất vả, khổ cực, nhiều thăng trầm. Người có rốn nhỏ và hơi lồi lên, cuộc sống không những nghèo khó, túng thiếu mà sức khỏe còn yếu kém.   Ngoài ra, phụ nữ có rốn quá nhỏ đến mức gần như không thấy gì, khả năng mang thai kém. Nam giới có hình dạng rốn này sẽ thiếu chí khí và tính kiên nhẫn khi làm bất cứ việc gì. Nhìn chung, dù là nam hay nữ, nếu rốn có hình dạng này đều có sức sống yếu đuối, cuộc đời nhiều thăng trầm.  

d. Chiều hướng của rốn

  Những ai có rốn sâu, to và hướng lên trên thuộc về cát tướng, làm việc gì  cũng có quý nhân giúp đỡ, cuộc sống như ý.   Ngược lại, người có rốn hướng xuống phía dưới, cả đời sẽ khốn khó, vất vả. Người này không nên làm kinh doanh, chỉ nên làm những ngành liên quan đến kỹ thuật để tránh gặp thất bại dẫn đến phá sản.

e. Vị trí rốn

  Khi xem vị trí rốn tức là xem rốn ở thiên về phần bụng trên hay bụng dưới. Nếu như rốn nằm thiên về phía bụng trên, chủ nhân có cuộc sống nhàn hạ, không lo cái ăn cái mặc. Chỉ cần người này nỗ lực làm việc ắt gặt hái thành công dễ dàng.   Trái lại, với người có rốn ở vị trí phần bụng dưới và thấp hơn, tài vận kém sắc, lại không giỏi quản lý tài chính, thường gặp khó khăn trong cuộc sống. Người này nên tập thói quen tích lũy của cải để cuộc sống đỡ vất vả hơn.

f. Hình dáng rốn

  Trong nhân tướng học, rốn có dạng hình tròn hoặc vuông là cát tướng. Người có kiểu rốn này thường giàu lòng nhân hậu, được nhiều quý nhân phù trợ, dễ gặt hái thành công.    Nếu có hình dáng rốn xiêu vẹo, thì cuộc sống gặp nhiều trở ngại. Tuy nhiên, nếu cải thiện tâm lý, cư xử hòa nhã, khiêm nhường thì có thể giảm những điều bất lợi và xui xẻo cho mình. Bạn cũng có thể đoán "chuyện ấy" của chàng qua rốn đó nhé!   

3. Trắc nghiệm tướng rốn đoán tính cách và vận mệnh 

  Hãy xem tướng rốn của bạn thuộc loại nào dưới đây để hiểu thêm về tính cách, con người của chính mình nhé.

Tuong ron noi gi ve tuong lai suong kho cua ban hinh anh
 

Kiểu 1: Yếu, Yểu tướng, nghèo hèn, tâm tính đổi thay, người không lập trường.
 
Kiểu 2: Khỏe mạnh, cuộc sông thuận buồm xuôi gió, ít khi khốn khó, đôn hậu, sống có tình người.
 
Kiểu 3: Người có hiểu biết, có phúc phận thiếu quyết đoán và lòng tự tôn không cao, dễ nghe theo lời khuyên của đối phương. Riêng phụ nữ lại có tính xấu là dễ chen ngang vào cuộc sống lứa đôi của người khác.
 
Kiểu 4: Mang mệnh đào hoa, sống rất mưu mẹo, lắm chiêu trò.
 
Kiểu 5 Khỏe, giàu có, quý phái.
 
Kiểu 6: Có nhân duyên và năng lực biểu đạt rất tốt. Nếu không phải là nghệ sĩ, bạn cũng là chuyên gia trong một lĩnh vực nào đó.

Xem thêm: Xem rốn đoán cuộc đời hung cát chuẩn không cần chỉnh.
 
Lichngaytot.com
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng rốn nói gì về tương lai sướng khổ của bạn?

Tử vi Nhâm ngọ Phân tích nạp âm lục thập hoa giáp

Trong tử vi Nhâm Ngọ là ngựa chinh chiến, cá tính cương cường nóng nảy, tâm tính lương thiện, có phong thái của bậc quân tử, không có hành vi của kẻ tiểu nhân.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

NHÂM NGỌ: DƯƠNG LIỄU MỘC

Trong tử vi Nhâm Ngọ là ngựa chinh chiến, cá tính cương cường nóng nảy, tâm tính lương thiện, có phong thái của bậc quân tử, không có hành vi của kẻ tiểu nhân.

Dương liễu Mộc thướt tha dịu dàng ở sườn đê, mềm mại ỏ trong vườn, lá liễu mảnh mai, cành liễu buông rủ.

Mộc nhu hòa, cành nhỏ mềm. Mộc có thể sinh Hỏa, nhưng Hỏa nhiều là tượng thiêu rụi. Tuy Kim sinh vượng cũng không thể làm thương hại, đắc Kim chủ về quý.

 

Thủy, Thổ thịnh cũng chủ về quý, duy kỵ Giáp Ngọ Sa trung Kim. Vì có thể làm thương hại Mộc này.

Trong tử vi Nhâm Ngọ Mộc tự tử, hồn bay mà thần khí linh tú. Người bẩm thụ được nó có đức sáng vượt trội, là người nhân nghĩa, dũng mãnh, lập được công trạng, chủ về trường thọ.

Mộc này ưa Bính Thìn, Đinh Tỵ Sa trung Thổ. Không ưa Canh Ngọ, Tân Mùi Lộ bàng Thổ. Nếu như có Đinh Hợi ốc thượng Thổ, Đinh Nhâm hợp hóa là tượng cát lợi.

Thủy gặp Giáp Thân, Ất Dậu Tỉnh tuyền Thủy; Nhâm Thìn, Quý Tỵ Trường lưu Thủy; Giáp Dần, Ất Mão Đại khê Thủy, Đinh Sửu Giản hạ Thủy đều cát lợi, sẽ có thành tựu.

Mộc này tự có Hỏa, cho nên không nên lại gặp Hỏa khác, phạm phải chủ về thương hại đến tuổi thọ.Vì vậy, ngũ trụ không ưa gặp Bính Ngọ, Đinh Mùi, chủ về đại hung, e khó tránh họa hỏa hoạn.

Gặp Đinh Mão Lư trung Hỏa chủ cát lợi. Bởi vì Đinh lộc tại Ngọ, Nhâm quý tại Mão. Nếu như gặp Kỷ Sửu Tích lịch Hỏa, lại có Bính Thìn, Đinh Tỵ Sa trung Thổ làm nền tảng, chủ về sang quý.

Kỵ gặp Tý xung, phạm phải chủ về con cái duyên bạc, cả đời không yên ôn.

Gặp Kim không tốt, duy Canh Tuất, Tân Hợi Thoa xuyến Kim; Nhâm Dần, Quý Mão Kim bạc Kim trợ giúp có thể thành công.

Ưa gặp Canh Dần, Tân Mão Tùng bách Mộc, chủ phú quý, trước nghèo sau giàu, hơn nữa chủ về sang quý, có thành tựu, mệnh tốt.

Cũng ưa Quý Sửu Tang đố Mộc làm núi, làm chỗ dựa thành rừng, chủ cát lợi. Không ưa có Canh Thân, Tân Dậu Thạch lựu Mộc, chủ nghèo hèn, phú quý không được dài lâu. Trong tác phẩm Thuật Đăng hạ lại nhấn mạnh: “Trước tiên phải xem ngũ trụ, sau mối kết hôn” là chỉ ý này vậy. Nếu lấy người có ngũ trụ không tốt e rằng gia đạo suy bại, muôn sự trắc trở.

Nếu như gặp Canh Thân, Tân Dậu Thạch lựu Mộc thì sinh vào mùa xuân và mùa hạ là quý cách, Không luận là nghèo hèn, gọi là Hoa hồng liễu lục cách.

Sinh vào 3 tháng mùa xuân, thời trụ đắc Kim, ví dụ như Tân Hợi Thoa xuyến Kim, At Sửu Hải trung Kim, Quý Mão Kim bạc Kim, Tân Tỵ Bạch lạp Kim, chủ cát lợi, gọi là Dương liễu đà Kim cách.

Nhâm Ngọ không vong tại Thân, Dậu, Địa chi của các trụ khác không ưa gặp Thân, Dậu. Nếu như nhật trụ gặp Thân, Dậu, chủ về bạn đời mất trước. Thai trụ gặp Thân, Dậu, là người ngu muội, cả đời phiêu dạt, cuối cùng tay trắng vẫn hoàn trắng tay.

Nhâm quý tại Mão, Địa chi của các trụ khác gặp Mão, chủ cát lợi.

Nhâm lộc tại Hợi, cát lợi nhưng trong cát ẩn tàng hung họa. Vì người sinh năm Ngọ có Hợi phạm Kiếp sát. Nếu như tọa nhật trụ, bạn đòi mất trước. Nếu như tọa thời trụ, không được con cái hiếu thuận phụng dưỡng, chủ về con cháu nghèo khô, ngu dốt.

Nếu như gặp 2 Hợi, cả đòi nghèo khổ, là người cố chấp bảo thủ, làm việc không đến nơi đến chốn.

Bạn đời không nên lấy người sinh năm Mậu, Kỷ. Nên tìm người sinh năm Bính, Đinh.

Địa chi của các trụ khác có Ngọ, là người cố chấp bảo thủ, tầm nhìn nông cạn,  vợ chồng duyên bạc.

Nhật chi có Tuất, chủ về khắc chết 2 hoặc trên 2 bạn đời.

Nhật chi có Tuất, nên theo tôn giáo.

Gặp năm Ngọ, năm Tý, phạm Phục ngâm, Phản ngâm, trong nhà không yên. Nếu như không thương hại đến bản thân cũng thương hại đến người nhà.

Nhật chi có Thìn, chủ về phá tướng.

Ngọ mã tại Thân, khi đi máy bay nên mua bảo hiểm du lịch.

Địa chi của các trụ khác có Dần, mã bị hình bị xung, cả đời vất vả, bỏ mạng nơi  đất khách.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi Nhâm ngọ Phân tích nạp âm lục thập hoa giáp

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd