Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Xem tướng đoán tài năng qua đường chỉ tay Thái Dương –

Xem tướng. Người có đường Thái Dương dài sẽ có cuộc sống giàu có và luôn gặp may mắn. Cuộc đời của họ khá suôn sẻ, dễ thành công trong sự nghiệp. Đường Thái Dương thể hiện sự may mắn, thành công, tài năng và tiền bạc trong cuộc sống mỗi người. Hiếm k
Xem tướng đoán tài năng qua đường chỉ tay Thái Dương –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng đoán tài năng qua đường chỉ tay Thái Dương –

Nghệ thuật treo tranh hợp phong thủy

Tại không gian lớn như phòng khách, nếu treo một bức tranh có kích thước lớn một chút thì có thể khiến cho không gian được mở rộng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu tranh trang trí và không gian phòng được phối hợp một cách khéo léo, phù hợp vói cảm thụ tâm lý và thị giác của con người thì có thể khiến cho căn phòng tăng thêm bầu không hhí tốt lành, khiến cho tâm lý những người trong gia đình cảm nhận được sự thoải mái và hạnh phúc. Nếu tranh treo trang trí khiến cho cảm thụ tâm lý và cảm thụ thị giác của người ở phát sinh xung đột thì sẽ tạo ra ảnh hưởng tiêu cực, phá võ sự cân bằng của căn phòng, thậm chí có thể gây ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình.

treo-tranh-trang-tri

1.Treo tranh trang trí phải phối hợp hài hòa với kết cấu không gian

Tại không gian lớn như phòng khách, nếu treo một bức tranh có kích thước lớn một chút thì có thể khiến cho không gian được mở rộng. Cũng có thể dùng hình thức đối xứng bằng cách treo 2-4 bức tranh nằm ngang theo hình chữ “—” (Nhất), cũng có thể treo song song 4 bức để biểu thị một vượng khí. Gian phòng nhỏ hơn như phòng ngủ thì có thể treo một bức tranh hơi nhỏ một chút để khiến cho bức tranh và không gian có sự phối hợp hài hòa với nhau. Cũng có thể sử dụng hình thức phi đối xứng, treo một vài bức tranh cao thấp so le nhau theo hình tam giác hoặc hình thoi để tăng cường sự sống động cho không gian.
Cho dù là bố cục theo hình thức đối xứng hay không đối xứng cũng không thể cùng treo những bức tranh có phong cách hoàn toàn khác nhau. Ví dụ như, đem treo một bức tranh sơn thủy Trung Quốc với một bức tranh hội họa phương Tây liền với nhau thì sẽ mất mỹ quan. Đặc biệt, trong cùng một không gian không nên treo quá nhiều tranh vì sẽ khiến cho không gian căn phòng trở nên mất cân đối, phá vỡ linh khí của cả căn phòng.

2. Treo tranh trang trí phải phối hợp hài hòa với nội thất

Tranh treo trang trí với nội thất trong căn phòng phải tạo thành một chỉnh thể thống nhất. Lựa chọn tranh trang trí có màu sắc hòa hợp, chủ thể không xung đột mới có thể cùng với nội thất và phong cách trang trí trong căn phòng hình thành sự hô ứng mang lại hiệu quả thẩm mỹ. Các loại tranh trang trí phổ biến là: Tranh khảm nạm, tranh chụp, tranh thảm thêu, tranh đồng, tranh pha lê, tranh trúc, tranh gốm sứ, tranh ngọc thạch, tranh rút sợi, tranh cắt giấy, tranh khắc gỗ, tranh kết thừng, tranh sơn mài... Trong số đó tranh khảm nạm, tranh pha lê có màu sắc tươi sáng, rực rỡ, dễ thể hiện được sức sống tươi mới và tình cảm nồng nhiệt, thích hợp bài trí trong gia đình trẻ. Tranh thảm thêu, tranh trúc, tranh kết thừng là những loại tranh theo phong cách cổ xưa đoan trang, giàu ý vị, thấm đẫm không khí nghệ thuật, thích hợp với nội thất có màu sắc tương đối nhạt. Tranh chụp có đầy đủ sự tươi sáng, tầng thứ rõ ràng, đặc biệt là những bức tranh chụp cỡ lớn thích hợp để làm nền cho nội thất trong gian phòng, có thể tăng cường cảm quan thời đại cho gia đình.

3. Treo tranh trang trí phải kết hợp hài hòa với nguồn sáng

Nếu treo một bức tranh trong thời gian dài dưới ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp thì trải qua thời gian chất liệu và màu sắc của bức tranh sẽ bị hư tổn làm giảm linh khí của bức tranh. Một bức tranh treo trên tường phải có nguồn ánh sáng chiếu rọi vừa phải mới có thể thể hiện được linh khí của bức tranh. Do vậy, tranh trang trí nên phối hợp sử dụng hợp lý nguồn sáng gián tiếp và nguồn ánh sáng trực tiếp. Nguồn sáng gián tiếp chủ yếu chỉ các bóng đèn điện và màu sắc có độ nóng thấp, ánh sáng trắng như đèn huỳnh quang, đèn PL, đèn tiết kiệm điện năng... Nguồn ánh sáng trực tiếp chỉ đèn chân không. Nguồn ánh sáng gián tiếp độ thiên về màu trắng, xanh lam; nguồn ánh sáng trực tiếp thiên về màu vàng, màu hồng. Khi chúng cùng chiếu sáng thì trở thành màu sắc hài hòa, tạo ra cảm giác ánh sáng dễ chịu, có thể biểu hiện được một cách trung thực đường nét trong bức tranh.

4. Treo tranh trang trí phải trong tầm nhìn

Phạm vi mọi người thường nhìn thấy là chỉ trong khoảng tầm nhìn thông thường của con người. Thích hợp nhất là nên treo trên tường có độ cao cách mặt đất từ 1.5 - 2m. Nếu tranh treo quá thấp sẽ không có lợi đối với việc bảo quản và thưởng thức tranh, nếu treo quá cao sẽ bất tiện cho người thưởng thức, đồng thời nhìn bức tranh sẽ bị biến hình gây ảnh hưởng đến hiệu quả thưởng thức.
Khung của bức tranh trang trí lớn tốt nhất là nên tạo một góc hẹp 15 - 30° so vói tường, khiến cho bức tranh hơi nghiêng xuống đất. Nếu là bức tranh đặt trên tủ tương đối thấp so vói tầm nhìn bình thường thì nên đặt tranh hơi ngửa lên trên, như vậy sẽ khiến cho mọi người có thể thưởng thức được bức tranh một cách hoàn chỉnh.

5. Khung tranh trang trí nên kết hợp hài hòa với chủ đề bức tranh

Khung tranh có thể làm tăng thêm vẻ đẹp cho bức tranh, chính là “hoa đỏ trên thảm lá xanh”. Khung có hình dạng và loại hình khác nhau có thể mang lại những hiệu ứng thẩm mỹ khác nhau. Khung hình vuông thể hiện vẻ đẹp đối xứng. Khi dùng khung hình vuông, mỗi bên phải để thừa lại một khoảng trống để tránh khiến cho chủ đề bức tranh bị khung vây hãm quá chặt.

Khung hình chữ nhật thể hiện khí thế khoáng đạt. Đem một cặp hoặc hai bức trở lên có khổ nhỏ đặt trong một khung lớn hình chữ nhật khiến cho người thưởng thức có cảm giác trong sáng, giản dị. Có thể sắp đặt theo bố cục ngang hoặc theo bố cục đứng nhưng nên để lại một khoảng trống xung quanh làm nổi bật hình tượng của mỗi bức tranh.
Khung hình thô thể hiện một khái khái mạnh mẽ. Đặt bức tranh vào trong một chiếc khung thô có thể khiến cho bức tranh thêm vẻ mạnh mẽ, ngụ ý trong bức tranh sẽ càng sâu sắc hơn.

Song khung (một bức tranh hai khung) có tác dụng kích thích trí tưởng tượng của mỗi người, biểu đạt một không gian có chiều sâu. Song khung chính là bên ngoài khung lại có một khung nữa, hai khung có thể đều là hình vuông, cũng có thể có hình dạng khác nhau. Tranh song khung tạo ra cảm quan không gian rất mạnh, có thể phát huy được óc tưởng tượng của người thưởng thức.
Tranh không khung thể hiện sự nhẹ nhàng, thanh thoát, không bị bó buộc. Tranh chỉ có phần hình ảnh không có khung trông rất đơn giản, nhẹ nhàng. Tranh không khung nên chú ý bốn bên phải có thể hiện khung hình, nếu không thì bức tường phía sau sẽ biến thành chiếc khung khổng lồ làm giảm hiệu quả thẩm mỹ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nghệ thuật treo tranh hợp phong thủy

Lễ hội diễn ra trong ngày 12 tháng 4 âm lịch - Hội Chùa Tà Và

Vào ngày 12 tháng 4 âm lịch có diễn ra lễ hội đó là Hội Chùa Tà Và ở Lạng Sơn được tổ chức long trọng tại xã Chi Lăng, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ hội diễn ra trong ngày 12 tháng 4 âm lịch - Hội Chùa Tà Và

Lễ hội diễn ra trong ngày 12 tháng 4 âm lịch - Hội Chùa Tà Và

Hội Chùa Tà Và ở Lạng Sơn

Thời gian: tổ chức vào ngày 12 tới ngày 15 tháng 4 âm lịch.

Địa điểm: xã Chi Lăng, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn đức Phật, Thần Nông, Quan Công và Lưu Bị.

Nội dung: Hội chùa có lễ dâng hương cùng các Thánh Thần, cúng Phật. Đặc biệt, còn có lễ cầu mùa, với ý nghĩa cầu nguyện mưa thuận gió hòa; tổ chức cả chơi cờ người.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ hội diễn ra trong ngày 12 tháng 4 âm lịch - Hội Chùa Tà Và

Tướng mặt người nghèo khó

Tướng nghèo túng là tướng người làm cho tiền của trong nhà hao tán, làm việc gì cũng đều thất bại

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tướng nghèo túng: Tướng người làm cho tiền của trong nhà hao tán

mat-u-am

Nếu trán nhọn chủ làm việc gì cũng đều thất bại, cả đời nghèo túng.

Nếu xương thô xấu, trên mặt giống như có một lớp bụi, da mặt đen, khi bước đi người đung đưa, người như vậy sự nghiệp phần lớn là thất bại.

Nếu mũi gãy khúc thì người đó có thể sẽ làm hao tán tiền của, gia tài.

Tướng nghèo khó: Mặt đầy buồn thương, khí sắc u ám

Nếu khuôn mặt lúc nào cũng như đang có việc lo phiền thì đây là người khổ sở bần cùng.

Nếu khuôn mặt lộ vẻ lo lắng thì người đó nghèo khổ.

Nếu lưng gầy đó là mệnh khốn khổ.

Nếu mũi to lộ thì không giữ được tiền của.

Nếu khí sắc tù đọng, cuộc đời gặp nhiều gian truân.

Nếu như thần khí không ổn định thì đa phần khốn khó.

Tướng thất bại: Tướng thất bại, sự nghiệp đi xuống

Người có hình tướng sau: Trên trán có nếp nhăn đứt đoạn, mắt miệng đều nghiêng lệch, lưng gầy nhọn, khí sắc mờ tối, da mặt đen như tro than, thành quách trên tai không rõ ràng, lỗ mũi lộ rõ. Răng không ngay ngắn, Ấn đường có nếp nhăn, 2 tai đen đều là điềm báo cuộc đời gặp nhiều thất bại, lắm lo âu.

Tướng trán: Trán có đường vân, vất vả khổ cực

Trán có đường vân, khi còn nhỏ vất vả khổ sở, không có đủ cơm ăn áo mặc. Lấy vợ, sinh con muộn, hoặc là có người cả đời cô đơn. Người mũi to, lòng dạ thiện lương, làm việc gì cũng suy tính kỹ. Người trán cao lộ xương, sống lâu, ít đau ốm nhưng lại khắc hại vợ con.

Trên Ấn đường có đường vân dương thì phá gia: Nhà cửa phá tán. Phía trên Ấn đường có đường vân chủ thích cầm đao búa, hay gây chuyện rắc rối, sống xa gia đình quê hương.

Người mà mũi nhọn, lỗ mũi lộ, phá tán nhà cửa, không tránh được tai họa giáng xuống.

Mắt thâm không có thần thì cả đời bần hàn. Mặc dù bôn ba vất vả, nhưng cơm áo cũng khó đầy đủ, có khi phải sống xa vợ con.

Bộ vị Ngư vỹ nghiêng lệch, đó là tiểu nhân, khắc hại vợ con, tiền của trong nhà phá tán.

Da mặt khô không tươi sáng, chủ phá tán tiền của trong nhà, cả đời nghèo khổ.

Da mặt mỏng, căng như mặt trống, người như thế không sống lâu, cả đời vất vả cũng không giàu.

Nếu khí sắc trên mặt mờ tối như than bụi có thể sẽ phải bỏ mạng nơi phương xa.

Tướng ngu đần, lười biếng

Người mà thần trí mờ tối thường là người ngu dốt.

Nếu xương mặt to ngang, đó là người ngu ngốc.

Nếu sắc da ở phía trước tai đen tối thì đó là người lười biếng. Nếu lông mày thô dày đó là kẻ lười nhác, ỷ lại.

Nếu khi thở có mùi hôi thì đó là một người ngu đần.

Tướng hay thay đổi: Là người có tướng mạo không ổn định

Người mà có các hình tướng sau thì số mệnh long đong, vất vả: Mũi gãy khúc, Sơn căn không có thịt, khuôn mặt không hài hòa, Tam đình không cân đối. Đặc biệt là thân dài cổ dài, đầu, miệng, cằm đều nhọn, trán không có góc cạnh, mắt không có thần, mũi dài mà gãy khúc, vành tai mỏng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt người nghèo khó

Kĩ năng vượt qua thất bại

Trong cuộc sống, không phải lúc nào chúng ta cũng gặp được thành công như mong đợi. có những cố gắng, nỗ lực tưởng chừng được đền đáp xứng đáng nhưng cuối cùng đó lại là thất bại thảm thương và bạn chỉ biết thở dài đầy ngao ngán. Bạn có biết rằng “thất bại không phải là vấp ngã mà cứ nằm lỳ sau khi ngã”.
Kĩ  năng vượt qua thất bại

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong cuộc sống, không phải lúc nào chúng ta cũng gặp được thành công như mong đợi. có những cố gắng, nỗ lực tưởng chừng được đền đáp xứng đáng nhưng cuối cùng đó lại là thất bại thảm thương và bạn chỉ biết thở dài đầy ngao ngán. Bạn có biết rằng “thất bại không phải là vấp ngã mà cứ nằm lỳ sau khi ngã”

Có người từng rất sợ đối mặt với thất bại, bởi trong mắt người khác họ là người đầy triển vọng, tiềm năng. Họ không dám đối mặt với những khó khăn lớn lao bởi họ sợ mình sẽ thất bại – và khi đó, hình ảnh lung linh của họ sẽ không còn. Nuôi dưỡng hình ảnh thủy tinh rực rỡ, chói sáng bạn nghĩ mình mình hoàn hảo ư? Bạn có biết rằng, thủy tinh không chịu được những cú va đập mạnh, và vì thế nó mãi mãi chỉ là vật trang trí mà thôi.

Bạn có sợ thất bại không?

Bất kỳ ai trong chúng ta đều sợ khi gặp thất bại, có người học được cách chấp nhận để đi qua nó một cách dễ dàng. Có người lại gục ngã bởi chính những thất bại do mình gây nên. Người xưa nói rằng: nhân trách do kỷ: khi gặp bất cứ chuyện gì không may xảy đến với chúng ta, ngoại trừ tai nạn bất ngờ, còn những việc khác đều do mình gây nên. Vì vậy, khi thất bại hãy trách bản thân mình, nhưng đừng dằn vặt bởi bạn cần thoát ra khỏi ám ảnh tội lỗi để rút ra những bài học riêng cho mình.
Nếu sợ thất bại, bạn đừng bao giờ bắt tay vào làm một việc gì đó. Lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, không sớm thì muộn bạn sẽ gây ra sai lầm và thất bại là điều không thể tránh khỏi. Vậy nên, khi đã quyết tâm làm một việc gì đó, hãy chấp nhận thất bại, chấp nhận nó như một sự thật hiển nhiên để không quá đặt nặng kết quả cuối cùng. Như việc thi đại học: ai cũng sợ thi rớt. Thế nhưng nếu bạn đi thi với tâm thế cố gắng hết sức mình và mang tâm lý sẵn sàng đón nhận kết quả xấu nhất thì cảm giác sẽ nhẹ nhàng hơn rất nhiều. Bạn sẽ làm bài tốt, và nếu bạn không đậu được ngôi trường đại học như mình mơ ước, đó là do năng lực của bạn chưa đủ.
Bạn sẽ thanh thản nhẹ nhàng chọn con đường khác cho mình. Như thế bạn mới thoát khỏi áp lực thành công. Khi đó, bạn sẽ làm tất cả để không hối hận, dù nó có thất bại đi chăng nữa. Quan trọng không phải là thành quả cuối cùng mà bạn đã làm gì để có được thành quả đó.

>>>Xem NGÀY TỐT trong năm mới 2016!!!

>>>Xem XÔNG ĐẤT trong năm mới 2016!!!

Khi thất bại bạn sẽ làm gì?

Khi thất bại, mỗi chúng ta sẽ có cách đối diện khác nhau và vì thế chúng ta cũng vượt qua thất bại theo cách riêng của mình. Nhưng dù bạn có sử dụng cách nào đi chăng nữa, đừng bao giờ đổ trách nhiệm lên cho người khác. Nếu.không dám đối diện với những điều.mình đã làm thì bạn chẳng bao giờ rút được những bài học giá trị cho
bản thân. Và vì thế, thất bại nối.tiếp thất bại mà thôi. Hãy biết nhìn vào thực tế và gánh lấy trách nhiệm do mình gây nên, từ đó học cách khắc phục nó trong những lần sau. Bạn sẽ vượt qua thất bại một cách nhanh chóng khi bạn biết nhìn nhận lỗi lầm của chính mình và dũng cảm khắc phục
hậu quả, làm lại từ đầu. Đừng quy trách nhiệm cho những người không liên quan, bạn nhé. Học cách đi qua thất bại Sau thất bại là một bước trưởng thành dài vì thế bạn cần bước qua nó, để đi tiếp con đường bạn phải đi. Đừng quỵ ngã, cũng đừng đổ vỡ niềm tin vào chính mình. Bất kỳ ai cũng co lúc gặp thất bại, bởi không phải cứ nỗ lực là đạt được thành công. Ngoài những yếu tố cần như kinh nghiệm, kiến thức, kỹ năng, thời cơ thì còn cần đến một chút may mắn để có được thành công như mong đợi. Đôi khi chúng ta đã tính toán kỹ càng những kế hoạch của mình và chắc mẩm là 99% là sẽ thành công, song cuối cùng lại đổ vỡ một cách thảm hại! 1% không phải là nhiều song đôi khi nó lại quyết định kết quả cuối cùng. Trên thế giới có rất nhiều thất bại theo kiểu này, và điều cốt lõi quyết định sự thành công sau đó chính là những gì họ đã làm 99% ở kế.hoạch ban đầu và nỗ lực bước tiếp trên con đường mà họ đã chọn. Thất bại là điều không ai muốn, nhưng dù cố tránh mà không tránh được thì bạn hãy chấp nhận nó. Mỉm cười xem đó là học phí để bước vào đời một cách vững vàng hơn, lạc quan hơn. Bởi thất bại sẽ dạy ta được rất nhiều điều mà khi thành công chưa chắc chúng ta đã.học được. Hãy xem đó là cơ hội để bạn học hỏi thêm kinh nghiệm cho.cuộc sống của mình, đừng để thất bại đó ám ảnh bạn, khiến bạn nhụt chí và sẵn sàng từ bỏ mọi thứ. Hãy mạnh mẽ lên, bạn sẽ làm nên thành công từ những thất bại của chính mình !".

 Kĩ năng vượt qua thất bại

1: Chấp nhận lỗi lầm

*Dũng cảm đối diện sai lầm của bản thân.

Thành công luôn luôn đi cùng với khó khăn, sẽ không một cuộc đời nào chỉ toàn sóng yên biển lặng hay chỉ toàn những kết quả tốt đẹp mĩ mãn. Thất bại xảy đến để cân bằng cuộc sống của bạn, là cơ hội để bạn phát triển bản thân toàn diện hơn. Hãy chấp nhận rằng mọi sự trên đời này không lúc nào cũng đi theo con đường mà bạn muốn, sẽ có lúc trầm cũng sẽ có lúc thăng hoa.

Hãy nhìn nhận thất bại như một chỉ dẫn soi đường cho bạn, giúp bạn giác ngộ thành công.

Đừng quá cầu toàn, hãy học cách kiểm soát nó. Khi bạn chỉ muốn mọi thứ thật hoàn hảo, bạn sẽ trở nên cay nghiệt với “thất bại” và kết quả là bạn bị yếu thế trước mọi lỗi lầm của bản thân và rất khó khăn để chấp nhận thất bại của mình.

2: Tập trung vào những điều thực sự quan trọng

*Hãy luôn nhắc nhở bản thân rằng bạn đã thực sự rất cố gắng rồi. 

Không tin tưởng ở bản thân chính là trung tâm hình thành nên nỗi sợ thất bại, dần dần dẫn tới sự yếu kém của chính mình. Hãy nhớ rằng không ai là hoàn hảo cả, tất cả mọi người đều sẽ phạm sai lầm ở những thời điểm khác nhau của cuộc sống. Sư khác biệt thực sự giữa những người có thể vượt qua thất bại để thành công và những người không thể đối mặt với khó khăn đó chính là cách mà họ nhìn nhận, xử lý thất bại và tác động của nó đến cuộc sống của họ.

*Giữ bình tĩnh.

Dù bạn có cảm thấy thế nào mỗi khi vấp ngã đi chăng nữa thì cũng đừng đánh mất bình tĩnh của mình. Nếu bạn đang thực sự thất vọng và tức giận, hãy cố gắng kiểm soát những cảm xúc đó để tạo động lực cho mình và bắt đầu một lần nữa.

Không nên xả giận lên người khác. Đó thực sự là một tính cách rất không tốt, thậm chí bạn còn có thể làm tổn thương đến người khác nữa. Những lúc này, bạn có thể chạy bộ, bơi, hoặc đấm bốc để giảm căng thẳng, áp lực bên trong mình, đồng thời bạn còn có thêm thời gian và không gian để suy nghĩ lại. Không nhất thiết phải là những hoạt động trên, chỉ cần làm một cái gì đó khiến bạn thật tập trung và cần nhiều năng lượng để tự đánh lạc hướng bản thân.

Nỗi đau không thể chữa lành chỉ qua một đêm được, bạn cần phải dành thời gian quan tâm chăm sóc thì nó mới nhanh khỏi và không để lại di chứng gì. Vậy nên, đừng vội vã nhé, bạn cần có thời gian, thậm chí là rất nhiều để có thể tự đứng lên sau khi té ngã.

3: Tránh tuyệt đối so sánh bản thân với người khác

*Đừng để ý người khác nhìn vào bạn thế nào.

Mọi chuyện, dù là gì đi nữa, rồi sẽ trôi vào dĩ vãng theo thời gian mà thôi. Ngày hôm nay, họ có thể chỉ trích thất bại của bạn, cười vào bạn nhưng rồi ngày mai họ sẽ lại quên ngay vì mải mê lo lắng cho thất bại của chính họ.

Một điều nữa, hãy coi thất bại như là công cụ tăng sức mạnh sự quyết tâm ở nơi bạn cũng như sự dũng cảm đối với mặt với mọi thử thách cũng như những lời chỉ trích, phê bình. Đây là mộ thái độ rất tích cực có thể giúp bạn “chống” lại tất cả.

*Định nghĩa “Thất bại”.

Nếu bạn định nghĩa nó bằng sự nghiệp hoặc những thành công bạn đã đạt được thì đó là một sai lầm hoàn toàn. Không đạt được những điều trên như bạn mong muốn không có nghĩa đó là thất bại. Chính bạn khi tự so sánh mình với những người khác, với những thành công của người khác mới chính là sự thất bại. Thất bại trong suy nghĩ.

Hãy thực tế hơn. Đúng vậy, bạn cần phải có một sự nghiệp, một công việc để chi trả cho cuộc sống của mình. Tuy nhiên, bạn cũng cần phải phân biệt rõ ràng giữa cuộc sống và công việc. Hãy để cho mình được hưởng thụ cuộc sống, vì nếu mãi chỉ chìm đắm trong công việc, bạn sẽ liên tục gặp “thất bại” theo định nghĩa của bạn.

>>>Đã có TỬ VI 2016 – Xem ngay !!!

>>>Đã có LỊCH VẠN NIÊN 2016 – Xem ngay !!!

4: Từ thất bại đến thành công

*Bỏ hết những suy nghĩ tiêu cực.

Hãy tin rằng bạn sẽ hồi phục được, dù vết thương có đau đến mấy vì thực tế là sức sống của con người vô cùng mãnh liệt, điều quan trọng là bạn phải nhận thức được điều đó. Sau mỗi lần vấp ngã, những gì bạn gặt hái được chính là kinh nghiệm, là kiến thức, là hiểu biết – sự không ngoan mà ai cũng muốn có được. Hãy thoát ra khỏi cái vỏ bọc của chính mình, gặp gỡ, tiếp xúc, vui vẻ với những người đã và đang luôn quan tâm đến bạn chứ không phải chỉ ủ rủ 1 mình, đổ lỗi cho cuộc sống, cho bản thân và cho một ai đó.

Hãy hình dung thất bại như một bước đệm, nó mềm nhưng khó giữ thăng bằng, bạn có thể bị té lần đầu nhưng bạn sẽ học được cách đứng vững rồi lấy đó làm điểm trụ mà bật xa hơn. Hãy coi đó như một món quà, một bài học rằng bạn không được lặp lại lỗi lầm đó một lần nữa.

Sự khiêm tốn, một trong những điều mà chúng ta sẽ gặt hái được sau thất bại. Quá nhiều thành công đôi khi có thể dẫn chúng ta đi lạc lối và làm cho chúng ta có một cảm giác tùy tiện rằng mình sẽ không bao giờ thất bại và rằng mình hơn hẳn những người khác khác, hay nói ngắn gọn là “tự cao, tự đại”.

*Thay vì lo lắng, hãy cười thật tươi.

Dù bạn có bị gì đi nữa thì mặt trời vẫn mọc mỗi ngày. Tất nhiên mọi thứ sẽ rất khó khăn, đau khổ lúc đầu nhưng liệu lo lắng có giúp được gì cho bạn hay không? Hãy nghĩ lại thử xem kết quả của một quãng thời gian dài cho những dằn vặt, lo toan, … của mình lúc trước là như thế nào, bạn sẽ thấy chẳng có gì khác biệt hơn ngoài việc sức khỏe bạn ngày càng đi xuống trầm trọng và còn khiến mọi người xung quanh lo lắng cho mình. Mặc kệ nó đi, hãy cười thật tươi và cứ nghĩ rằng “Ồ, hóa ra mình cũng đã từng làm điều ngu ngốc đó! Ha ha!”, cách này sẽ giúp quá trình hồi phục của bạn nhanh hơn rất nhiều.

*Bài học đến từ thất bại. 

Dù bạn đã không thành công, nhưng điều đó không có nghĩa là bạn trắng tay. Thât bại sẽ cho bạn nhiều hơn là thành công, đó là những bài học quý giá, những kinh nghiệm thực tế, những chỉ dẫn giúp bạn đi đúng hướng hơn…

Thất bại còn có thể giúp bạn khám phá bản thân, điều gì mà bạn làm tốt nhất. Đó là một dấu hiệu cho thấy bạn đã sẵn sàng lao vào và khám phá những tài năng mới hay những góc cạnh khác của bản thân mà trước giờ bạn chưa hề biết đến, vươn xa hơn những gì bạn đã từng biết.

Thất bại là mẹ Thành công. Phải mất rất nhiều thời gian, công sức và phải thật kiên nhẫn bạn mới có thể làm chủ chính mình và đạt được thành công. Điều này đồng nghĩa bạn sẽ phải trải qua rất nhiều lần thất bại mới có thể trường thành hơn. Đó là lý do tại sao mà người ta gọi Thất bại là mẹ của Thành công.

Thất bại dạy cho bạn về ý chí, sự kiên trì, tự giác, và giá trị của mọi việc. Một trong những dấu hiệu cho thấy có sự hãi thất bại trong bạn đó là mất tập trung. Khi bạn để cho sự phân tâm này làm loạn cuộc sống của bạn, chính bạn đang tiếp tay cho tiềm năng thất bại trở thành hiện thực. Sự mất tập trung chính là một thất bại theo đúng nghĩa của nó – thất bại trong việc dành thời gian để tiếp tục cố gắng, tiếp tục hướng tới hoàn thiện những điều mà bạn đã và đang làm.

*Gữ mình luôn ở hiện tại.

Nỗi sợ thất bại là một sự phóng chiếu tới tương lai của lo lắng và là sự phụ thuộc vào những gì đã xảy ra trong quá khứ. Nếu bạn đang mắc kẹt trong kiểu tư duy này, bạn đang để cuộc sống của mình “cuốn theo chiều gió”. Bằng cách nhận thức rằng, bạn đang ở hiện tại, sẽ thức tỉnh khả năng sáng tạo và trí thông minh của bạn. Thất bại trong quá khứ sẽ là những bài học căn bản để bạn học hỏi, hiểu biết hơn trong hiện tại.

Đối diện sự sợ hãi. Nỗi sợ sẽ cứ kéo bạn xuống càng ngày càng sâu nếu bạn cứ tiếp tục sợ nó như vậy. Hãy đón nhận nó không chút lo lắng và học cách kiểm soát nó hoàn toàn. Nếu bạn không thể làm chủ được nhưng điều này thì chắc chắn thất bại sẽ liên tục đến với bạn mà bạn hoàn toàn không hiểu lý do. Mặc dù lý do là chính bạn.

*Cho phép thất bại có mục đích.

Đây là chính là một trong những lời khuyên của Steve Pavlina, tức là hãy làm những gì mà bạn biết rằng mình sẽ thất bại nhưng không gây hại đến ai hoặc không để di chứng lâu dài. Ông cho rằng để con người phát triển hơn thì phải thử thách bản thân học hỏi hoặc làm điều gì đó mà họ không có tài năng hoặc chưa từng thử qua. Bằng cách này, ông tin rằng con người sẽ trưởng thành hơn, tốt hơn mỗi ngày vì họ đã được học cách giải quyết thất bại, làm thế nào để tìm ra vấn đề then chốt, khám phá và khai thác được những mặt khác của bản thân …

*Tập trung vào việc cố gắng lại một lần nữa.

Dale Carnegie đã từng nói rằng đó là điều cần thiết để “phát triển thành công từ thất bại. Sự nản lòng và thất bại là hai trong số những nền tảng chắc chắn nhất để thành công”. Nguồn gốc của mọi sự thành công với đại đa số người chính là tính kiên trì, bền bỉ.

Đừng nhầm lẫn thiếu kiên trì với một mục tiêu mà bạn không có khả năng đạt được. Dù cho bạn đã cố gắng làm giống người khác nhưng bạn vẫn thất bại, đó là điều không nên, điều quan trọng là bạn phải rút ra được bài học cho chính mình từ sau mỗi thất bại và từ đó tìm được con đường thành công của riêng mình.

*Phát triển.

Có câu nói nổi tiếng rằng, “chúng ta không chỉ phát triển vì chính chúng ta mà chúng ta phát triển vì mong muốn đóng góp cho xã hội, cống hiến cả bản thân cho sự phát triển chung của xã hội. Hãy chia sẻ những kinh nghiệm mà bạn học hỏi được cho những người khác, cũng như là cùng nhau tìm cách vượt qua sự thất bại, tiến tới một kết quả tốt đẹp hơn và đầy ý nghĩa. Điều này giúp mọi người trở nên hiểu biết hơn và chấp nhận về vai trò của sự thất bại trong xã hội theo định hướng tích cực.

*Bỏ qua sự nhàm chán và sống vui vẻ.

Thất bại chính là một “gia vị” của thành công, thiếu nó chúng ta sẽ không cảm nhận được đầy đủ mùi vị của thành công thực sự là như thế nào. Hãy thử tưởng tượng xem cuốc sống sẽ nhàm chán đến mức nào nếu chúng ta chẳng có mục tiêu gì hoặc chẳng có điều gì để hướng đến nữa.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kĩ năng vượt qua thất bại

ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH TỐI KỴ TRONG PHONG THỦY VÀ CÁCH HÓA GIẢI

Địa hình xấu trong phong thủy, và cách hóa giải

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khu dân cư kỵ địa hình tam giác. (Địa hình này dễ khiến người trung niên mắc bệnh). Cách hóa giải địa hình này: Cần trồng nhiều cây cỏ ở góc nhọn.

Địa hình khu dân cư kỵ trái rộng, phải hẹp (Ngụ ý trước giàu sau nghèo). Hóa giải bằng cách : Nên trổ một lối đi ở tường sau và cửa cần để rộng.

Địa hình xấu tỏng phong thủy

Khu dân cư kỵ trước rộng sau hẹp : Gặp phải loại địa hình này trước giàu sau nghèo. Nếu gặp phải nên hóa giải bằng cách xây một bức tường hình vong cung để tụ hợp tài khí.

Khu dân cư kỵ trước thấp sau cao. Đường tài lộc bị cản trở, vận khí không thông, lớn bé không có tôn ti trật tự. Nên : đặt kính ngửa lên ở mái trên của tòa nhà để phản xạ anh sáng, lấn át sự tối tăn do địa thế quá thấp.

Khu dân cư bị hai con đường kẹp vào giữa. Vận mệnh bị thất tán. Nên chọn nơi khác để định cư. Khi lựa chọn một nơi để định cư, thì nên chú ý đến việc xem hướng nhà và chọn ngày tốt nhập trạch để đón được nhiều cát lợi, vượng khí vào nhà, hóa giái các kỵ khí.

Khu dân cư kỵ bị những tòa cao ốc xung quanh dồn vào giữa. Cát khí không lan tỏa tới, mà hung khí tích tụ, tù hãm. Người ở đó tinh thần sa sút, vận khí bế tắc, khốn đốn, cần đặt bể nước trên tầng cao nhất để đón những luồng không khí cát lợi may mắn từ bốn phương.

Khu dân cư kỵ nằm sâu trong hẻm cụt, tiền đồ bị cản trở, tương lai túng bí, phương hướng mịt mờ, cần mở rộng thêm hẻm, làm cho cửa chính và hẻm chia tách ra

Khu dân cư kỵ tường bao bọc quá cao, người ở khốn đốn, tinh thần sa sút. Nên hạ thấp độ cao của tường.

Khu dân cư kỵ cổng chính mở về hướng Tây. Hướng Tây hành Kim, là hướng Bạch hổ, cửa mở về hướng này, chủ tất bị hình thương, tình cảm lục thân cũng hình khắc chia ly. Gặp trường hợp này nên thay đổi phương hướng, có thể tham khảo việc chọn hướng cổng theo phong thủy sân vườn. Nếu không thể thì làm cho tường bao thông thoáng, và mở một cửa khác theo hướng Nam – Bắc.

Trước nhà kỵ có con đường hình chữ Y, đó là thế đất gọng kìm lửa, rất hung. Phải trồng nhiều cây xanh và thảm cỏ ở ngã ba đường, đồng thời xây một bức tường trang trí mới hóa giải được những rủi ro.

Tổng hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH TỐI KỴ TRONG PHONG THỦY VÀ CÁCH HÓA GIẢI

Màu sắc nội thất hợp với người mệnh Thổ

Theo quan niệm phong thủy, người mệnh Thổ hợp với không gian nội thất mộc mạc, đơn giản và được bài trí gọn gàng, tự nhiên.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi bắt đầu khám phá hay sử dụng không gian, màu sắc có nhiều tác động trực tiếp tới thị giác. Trong nhà ở, việc chọn lựa màu sắc thường dựa trên nhiều yếu tố và tiêu chuẩn nhưng điều quan trọng nhất là phải phù hợp với tính cách, cảm xúc và sở thích của người dùng. Đặc biệt, đối với người Á Đông, còn tính toán màu sắc ngôi nhà dựa trên quy luật Ngũ hành tương khắc, tương sinh theo quan niệm phong thủy.

màu sắc nội thất 
Chủ nhà mệnh Thổ trên 40 tuổi nên sử dụng khhông gian nội thất này

Theo phong thủy, màu sắc sẽ hình thành nên những trường năng lượng tác động tới môi trường nhà ở và các thành viên trong gia đình. Vì thế, chọn màu sắc phù hợp có thể giúp hài hòa, cân bằng nguồn năng lượng âm dương, phát huy điều tốt và hạn chế những bất lợi từ môi trường tới cuộc sống con người.

Hành Thổ tượng trưng cho trái đất, có tính cân bằng và trung tâm. Hành Thổ cũng là biểu tượng, nguồn gốc của việc nuôi dưỡng, ươm trồng và phát triển, giúp hướng tới nguồn cội, vững chải của sự sống. Vì thế, năng lượng từ hành Thổ mang sự vững chải, người có mệnh Thổ thường có tính cách điềm đạm, ôn hòa, sâu sắc và thận trọng. Sự kiên nhẫn, thủy chung, bền bỉ và trung thành cũng là những tính cách nổi bật của người mệnh Thổ.

trang trí nhà 
Gia chủ mệnh Thổ nên chọn màu bản mệnh như cam đất, nâu, nâu đất
hoặc màu tím, đỏ, hồng của mệnh hỏa

Theo đó, gia chủ mệnh Thổ nên lựa chọn màu sắc căn nhà như sau:

- Chọn màu tím, hồng, đỏ của mệnh Hỏa vì Hỏa sinh Thổ (theo nguyên tắc tương sinh với bản mệnh).

- Chọn màu bản mệnh của Thổ gồm cam đất, nâu, nâu đất.

- Không nên sử dụng màu xanh lá của mệnh Mộc bởi Mộc khắc Thổ (theo nguyên tắc tương khắc với bản mệnh).

trang trí nhà theo phong thủy 
Không nên sử dụng màu xanh lá của mệnh Mộc vì Mộc khắc Thổ

Ngoài việc lựa chọn màu sắc, gia chủ mệnh Thổ nên chú ý tới phong cách thiết kế của căn nhà và vật liệu sử dụng trong nhà. Phong cách thiết kế thô mộc, truyền thống hoặc thô mộc hiện đại (modern brutalism, modern rustic) phù hợp hơn cả. Các gam màu trung tính nóng như nâu nhạt, cam nhạt, xám nâu, vàng nhạt, vừa được người Việt Nam ưa chuộng vừa ăn ý với không gian theo mệnh Thổ. Chúng được dùng khá nhiều trên các sàn, mảng tường, trần, gắn với sự mộc mạc, ấm cúng và mang đến cảm giác sạch sẽ. Đặc biệt, màu nâu đậm chỉ nên nhấn vào một vài vị trí nhỏ như ghế sofa, một mảng tường đặc biệt, gối, thảm, bộ bàn ghế ăn hoặc các vật dụng trang trí.

màu sắc nhà đẹp 

Người mệnh Thổ hợp với không gian nội thất dành cho thường khá mộc mạc, đơn giản, ít phá cách, không cầu kỳ và được bài trí gọn gàng, ngăn nắp, tự nhiên. Không gian hướng tới sự thoải mái, tiện nghi và tiện dụng cho người dùng, ưu tiên yếu tố công năng. Vật liệu đá, đất, gạch, sỏi, bê tông, sành sứ thường phù hợp với không gian này, chất mộc mạc có khả năng kết nối ngôi nhà với môi trường thiên nhiên.

(Theo Vnexpress)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Màu sắc nội thất hợp với người mệnh Thổ

Noo Phước Thịnh - chàng trai Nhân Mã không tuổi

Mặt trời Nhân Mã vui tươi, phóng khoáng kết hợp hoàn hảo với mặt trăng Bạch Dương năng động và nhiệt tình để tạo ra một Noo Phước Thịnh luôn tràn đầy sức sống.
Noo Phước Thịnh - chàng trai Nhân Mã không tuổi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mặt trời Nhân Mã vui tươi, phóng khoáng đã có một sự kết hợp hoàn hảo với mặt trăng Bạch Dương năng động và nhiệt tình để tạo ra một Noo Phước Thịnh luôn tràn đầy sức sống.


► ## cập nhật thông tin Tử vi hàng ngày, Mật ngữ 12 chòm sao mới nhất gửi tới bạn đọc

Không chỉ mang vẻ bề ngoài của một "nam thần" mà Noo Phước Thịnh còn khiến các fan phải đổ gục vì giọng hát đầy sức sống của anh. Trong gần 10 năm hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật, Noo Phước Thịnh đã gặt hái được vô số thành công và có lượng fan hâm mộ khổng lồ.
 
Mặc dù đã gần 30 tuổi, nhưng gương mặt của anh chàng lúc nào cũng baby dễ thương, cộng thêm tính cách hồn nhiên, đáng yêu khiến anh nghiễm nhiên trở thành soái cả của các cô gái.
Noo Phuoc Thinh - chang trai Nhan Ma khong tuoi hinh anh
Noo Phước Thịnh luôn tạo được sự cuốn hút trước đám đông

Chàng huấn luyện viên đẹp trai củaThe Voice Kids có sinh nhật vào ngày 18 tháng 12. Mặt trời Nhân Mã đã mang đến cho anh khiếu hài hước cũng như sự đáng yêu, trẻ trung tự nhiên mà không cần gò ép. Thêm mặt trăng Bạch Dương cũng là cung tượng trưng cho những đứa trẻ hồn nhiên nên không có gì ngạc nhiên trước vẻ ngoài không tuổi của Phước Thịnh.
 
Sự kết hợp giữa mặt trời Nhân Mã vui tươi, phóng khoáng, cùng mặt trăng Bạch Dương năng động, nhiệt tình đã giúp Noo Phước Thịnh luôn tràn đầy sức sống và luôn đi tiên phong trong mọi trào lưu. Từ thời trang cho đến âm nhạc anh đều cập nhật những trào lưu mới rất nhanh. Đó cũng chính là cách anh có thể chinh phục được khán giả trẻ tuổi. Chẳng thế mà anh chàng điển trai này đã sở hữu cho mình lượng fan khổng lồ không thua kém bất cứ ca sĩ nào.
Noo Phuoc Thinh - chang trai Nhan Ma khong tuoi hinh anh
Noo Phước Thịnh lúc nào cũng vui tươi, nhí nhảnh
Sự đáng yêu và thân thiện của Noo Phước Thịnh càng được kiểm chứng và thể hiện rõ ràng nhất qua chương trình The Voice Kids 2016. Không chỉ các fan hâm mộ mà các em nhỏ cũng bị mua chuộc bởi sự dễ thương vô bờ bến của giọng ca Cause i love you. Những cái liếc mắt, chu môi, nũng nịu của anh khiến trái tim tất cả mọi người đều mềm lòng.
 
Sở dĩ Noo Phước Thịnh có được trẻ trung duyên dáng đáng yêu như vậy vì các hành tinh trên bản đồ sao của anh rơi vào Nhân Mã và Bạch Dương rất nhiều.  Anh có mặt trời Nhân Mã, mặt trăng Bạch Dương, sao Kim Nhân Mã, sao Hỏa Bạch Dương. Hai cung hoàng đạo này lại vốn nổi tiếng với sự đáng yêu, hồn nhiên không ai bằng.
 
Không chỉ ở trong các chương trình thực tế, ngoài đời thật Noo Phước Thịnh cũng rất thân thiện với mọi người. Anh kết bạn ở khắp mọi nơi. Trên trang Facebook cá nhân anh thoải mái chia sẻ hàng loạt khoảnh khắc đời thường từ làm mặt xấu, đến mới ngủ dậy, đầu tóc bù xù.
Noo Phuoc Thinh - chang trai Nhan Ma khong tuoi hinh anh
Noo có mối quan hệ thân thiết với đồng nghiệp

Yếu tố Lửa tràn ngập trong người khiến Noo luôn có một nguồn năng lượng dồi dào, chàng trai Nhân Mã Noo Phước Thịnh sẽ rất dễ bén duyên với các cô nàng cung Khí (Song Tử, Bảo Bình, Thiên Bình) và cung Lửa (Sư Tử, Bạch Dương, Nhân Mã) do có nhiều điểm tương đồng và dễ hòa trộn vào với nhau. Đây cũng là những mẫu hình lý tưởng để mang tới cho Noo những cuộc tình sôi động, nồng cháy.
 
Sao Kim Nhân Mã mang tới cho anh vẻ hào hoa thiên bẩm, vốn không cần làm gì nhiều, chỉ cần cười thôi là đã biết bao nhiêu con tim bị đốn gục rồi.
 
Tuy nhiên, do nét tính cách nhiều Lửa, nên dường như Noo lại luôn bị cuốn hút bởi các cung hoàng đạo mang những nguyên tố còn thiếu như Đất (Kim Ngưu, Xử Nữ, Ma Kết) và Nước (Cự Giải, Bọ Cạp, Song Ngư). Đây sẽ là cửa ải khá khó khăn cho anh chàng đào hoa này đây vì vốn điểm tương đồng đã ít, độ thấu hiểu nhau lại càng khó hơn.   Nhân Mã, Bạch Dương rất đáng yêu nhưng cũng là những cung ham chơi, không kiên trì, ít kỉ luật. May mắn cho Noo Phước Thịnh anh có sao Thủy thuộc Ma Kết nên đã giúp anh có được sự nghiêm túc, kỉ luật trong công việc. Sao Thủy chủ về tư duy, trí tuệ, nhận thức và ăn nói. Khi sao Thủy rơi vào Ma Kết sẽ giúp cho Noo Phước Thịnh có suy nghĩ chính chắn, khả năng ăn nói đĩnh đạc và nghiêm túc trong công việc. Chính vì vậy chàng trai này gặt hái được rất nhiều thành công trên con đường ca hát bằng chính tài năng và thực lực của mình.
Noo Phuoc Thinh - chang trai Nhan Ma khong tuoi hinh anh
Tuy nhiên, trong công việc, anh chàng sẽ là người nghiêm túc và cẩn thận
Mỗi khi làm việc khác hẳn với vẻ đáng yêu thông thường, Noo Phước Thịnh trở thành chàng trai rất khó tính. Anh trau chuốt, cầu kỳ trong âm nhạc và các sản phẩm nghệ thuật của mình.
 
Mặt trăng Bạch Dương giúp Noo Phước Thịnh sở hữu tính cách nói là làm, làm bằng được và càng thử thách khó anh càng muốn chinh phục. Người ta không chỉ thấy Noo hát nhạc trẻ thu hút không kém bất cứ một ca sĩ nào mà còn biết đến Noo với những ca khúc cách mạng, quê hương giàu cảm xúc.
 
Nhiều MV ca nhạc nhận lượng người xem khủng, những bản hit được giới trẻ ngêu ngao khắp nơi, anh còn hai năm liên tiếp nhận giải nam ca sỹ được yêu thích nhất do HTV Awards trao tặng cũng là sự vinh danh xứng đáng cho những nỗ lực không ngừng của chàng trai này.
 
Nam thần Nhân Mã Noo Phước Thịnh chắc chắn sẽ còn tiến xa trong sự nghiệp. Bởi ở anh hội tụ cả tài năng, nhan sắc và sự nghiêm túc trong công việc.

ST.
4 chòm sao nữ nghiện mua sắm khét tiếng vòng tròn hoàng đạo Chỉ điểm cách 12 chòm sao tiêu tiền tiết lộ giàu nghèo 4 chòm sao nữ xinh đẹp thách thức thời gian
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Noo Phước Thịnh - chàng trai Nhân Mã không tuổi

Kết duyên cho người tuổi Hợi với người tuổi Mão, tuổi Mùi

Nếu như người tuổi Hợi ồn ào và khá hung hăng thì Mão lại lặng lẽ và kiên gan. Hợi tận dụng sức mạnh và khả năng chịu đựng của mình,
Kết duyên cho người tuổi Hợi với người tuổi Mão, tuổi Mùi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sức hấp dẫn trong tình yêu giữa người tuổi Hợi và tuổi Mão

Nếu như Hợi ồn ào và khá hung hăng thì Mão lại lặng lẽ và kiên gan. Hợi tận dụng sức mạnh và khả năng chịu đựng của mình, trong khi Mão sử dụng trí thông minh bẩm sinh để suy nghĩ cẩn thận và xuyên suốt vấn đề.

(Hình minh họa)

Cả 2 đều có cùng suy nghĩ và mục tiêu, tuy nhiên cách thức để đạt mục tiêu ở họ thì khác biệt. Chính những đặc điểm này khiến ngay từ đầu cả 2 đã có thiện cảm với nhau. Khi được kết hợp, họ biết bổ sung cho nhau, trân trọng tài năng và sống hòa thuận cùng nhau. Đây là sự phối hợp rất ăn ý, vì khi Mão đứng đằng sau điều khiển mọi việc, thì Hợi vẫn sẵn lòng với vai trò của mình.

Hợi thuộc hành Thủy, Mão thuộc hành Mộc. Thủy sinh Mộc. Trong trường hợp này, Hợi được xem là niềm may mắn lớn và là tài lộc của Mão. Điều này mang đến nhiều lợi ích cho mối quan hệ.

Sức hấp dẫn trong tình yêu giữa người tuổi Hợi và tuổi Mùi

Mùi và Hợi được cho là một trong những cặp tương xứng nhất trong tử vi. Như một lẽ tự nhiên, khi kết hợp, người tuổi Hợi và tuổi Mùi luôn dành cho nhau sự quan tâm chân thành và lòng nhẫn nại. Bản tính nhạy cảm của Mùi tìm được sự an ủi ở Hợi – người rất giàu tình cảm và biết sẻ chia. Cả 2 đều biết tận hưởng những niềm vui giản dị trong cuộc sống. Họ không bị lôi cuốn bởi những cám dỗ bên ngoài, do đó chung thủy trở thành điểm nổi bật trong mối quan hệ này.

Không chỉ hòa hợp trong đời sống tình cảm, họ còn phối hợp rất ăn ý trong công việc và biết hoạch định cho cuộc sống tương lai. Hợi thán phục tính dịu dàng và tài sắp đặt xuất sắc của Mùi. Cả 2 đều có những khát khao lành mạnh và giàu lòng quảng đại.

Mùi thuộc hành Thổ, Hợi thuộc hành Thủy. Thổ kiểm soát Thủy. Vì vậy, ở đây Mùi sẽ chiếm ưu thế hơn Hợi. Sự hòa hợp tự nhiên của họ khiến mối quan hệ trở nên lắng dịu. Hợi hung hăng sẽ nhượng bộ dễ dàng trước Mùi tế nhị và khôn khéo.

(Theo Phong thủy trong tình yêu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kết duyên cho người tuổi Hợi với người tuổi Mão, tuổi Mùi

Tướng phụ nữ qua nhũ hoa –

Bạn thắc mắc nhũ hoa của phụ nữ nói lên điều gì? Chúng ta cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây để biết thêm tướng nhũ hoa của phụ nữ nhé! Tướng nhũ hoa của phụ nữ có ý nghĩa Nhũ hoa của phụ nữ là gì? Nhũ hoa của phụ nữ là căn bản của hậu duệ, tức là
Tướng phụ nữ qua nhũ hoa –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng phụ nữ qua nhũ hoa –

Các bước cơ bản trong trang trí phòng ngủ –

(1) Chia khu Thông thường, phòng ngủ được chia ra các khu gồm hoạt động, khu ngủ, khu để đồ đạc, khu trang điểm, khu trưng bày, khu học tập. Do phòng ngủ thuộc không gian riêng tư cá nhân nên nguyên tắc khi chia khu tổng thể phải dựa vào nhu cầu của

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(1) Chia khu

Thông thường, phòng ngủ được chia ra các khu gồm hoạt động, khu ngủ, khu để đồ đạc, khu trang điểm, khu trưng bày, khu học tập.
Do phòng ngủ thuộc không gian riêng tư cá nhân nên nguyên tắc khi chia khu tổng thể phải dựa vào nhu cầu của cá nhân và độ rộng hẹp của phòng. Phòng ngủ nhỏ thì chọn đồ dùng cho không gian nhỏ, như vậy mới có thể chia được nhiều khu hơn trong phòng. Chẳng hạn sử dụng kiểu giường gấp có thể tiết kiệm được không gian cho hoạt động.
Nếu phòng ngủ đã có các khu độc lập rồi thì không cần thiết phải thiết kế lại, nếu có khu đọc sách thì có thể ghép chung với khu học tập và phòng làm việc. Nếu đã có phòng đệm phục vụ lúc ngủ dậy thì không cần thiết phải bố trí khu hoạt động nữa.

2e0a09542e1.jpg.jpg

(2) Bố cục chỉnh thể

Giai đoạn này cần tập trung thiết kế phong cách chỉnh thể và bố trí kết cấu cho đồ dùng trong phòng, xác định rõ phong cách trang trí để tiếp tục cho bước trang trí tiếp theo.
Dựa vào chức năng cơ bản của phòng ngủ, giường và tủ quần áo là những thứ không thể thiếu, khi thiết kế phải xác định được kiểu giường, ví dụ như kiểu giường đơn hay kiểu giường đôi. Ngoài ra các dụng cụ khác như tủ đầu giường, tủ sách, bàn ghế, bàn trang điểm và bàn đặt máy tính v.v… có thể quyết định dựa theo tình hình thực tế.

(3) Thiết kế đường dây điện và dụng cụ chiếu sáng

– Đường dây điện. Đường dây thường phải có là dây điện nguồn, dây điện chiếu sáng, dây cho máy điều hoà, dây cho tivi, dây điện thoại, dây cho máy tính.
Trên tủ đầu giường đặt ổ cắm chờ thì nên dùng loại 5 lỗ có công tắc là phù hựp nhất vì có thể giảm phiền hà cho việc sử dụng công tắc đèn đầu giường. Còn phải có ổ cắm cho đây điện thoại, nếu là tủ đầu giường đôi thì phía trên tủ một bên đặt ổ cắm điện, một bên đặt ổ cắm điện thoại.
Trên bàn trang điểm đặt ổ chờ cho nguồn điện máy thông gió, ngoài ra phải xem xét đến đèn phản xạ trên gương trang điểm, nên bên cạnh hộp dây diện lắp thêm một công tắc.
Trên bàn viết hoặc bàn máy tính cũng nên bố trí ổ cắm cho tivi, máy tính, điện thoại.
Đèn chiếu sáng có thể dùng loại một đầu hoặc đèn trần, có thể dùng công tắc đơn, nếu là đòn nhiều đầu thì phải lắp thêm bộ điều khiển để điều chỉnh ánh sáng theo nhu cầu sử dụng. Nên sử dụng hai công tắc điều khiển, một lắp bên ngoài cửa phòng, một lắp trên tủ đầu giường hoặc bên cạnh giường để tiện cho sử dụng.

Trên tủ tivi bố trí ổ cắm chờ (loại 5 lỗ), có đầu dây cho tivi, đầu dây cho máy tính.
Quá trình trang trí các không gian nếu không thế xác định được toàn bộ thiết bị điện cần thiết thì hãy lắp thêm ổ cắm nguồn dự phòng, như vậy sẽ nâng cao tính tiện dụng và linh hoạt cho phòng ngủ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các bước cơ bản trong trang trí phòng ngủ –

Kết hợp giữa hướng cửa và thảm lót nền nhà –

Nếu biết kết hợp hài hòa giữa hướng cửa và thảm lót nền nhà thì gia đình đã hưng thịnh càng thêm hưng thịnh. Trước cửa nhà đặt một tấm thảm lót nền, về mặt phong thủy sẽ có những ảnh hưởng nhất định. Những ảnh hưởng đó xuất phát từ màu sắc khác nhau

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

large

của thảm lót nền. Trong tám phương hướng của cửa, mỗi hướng chỉ kết hợp với một tấm thảm với một màu sắc riêng. Cụ thể như sau:

–    Cửa hướng về phía Đông và phía Đông Bắc kết hợp với thảm màu đen.

–    Cửa hướng về phía Nam và phía Đông Nam kết hợp với thảm màu xanh.

–    Cửa hướng về phía Tây và phía Tây Nam kết hợp vói thảm màu vàng.

–    Cửa hướng về phía Bắc và phía Tây Bắc kết hợp với thảm màu trắng sữa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kết hợp giữa hướng cửa và thảm lót nền nhà –

Bảng vợ chồng tương sinh tương khắc của người tuổi Sửu

Nam tuổi Sửu kết hợp với nữ tuổi Mão tuy không phải mối nhân duyên tốt, nhưng cả hai có thể cùng chung sống, bởi nữ giới là người kiên nhẫn, dễ thích nghi với mọi hoàn cảnh.
Bảng vợ chồng tương sinh tương khắc của người tuổi Sửu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

bang-vo-chong-tuong-sinh-tuong-khac-cua-nguoi-tuoi-suu
Sửu - Tý Sửu - Sửu Sửu - Dần Sửu - Mão
Sửu - Thìn Sửu - Tỵ Sửu - Ngọ Sửu - Mùi
Sửu - Thân Sửu - Dậu Sửu - Tuất Sửu - Hợi

Maruko (theo QQ)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảng vợ chồng tương sinh tương khắc của người tuổi Sửu

Những điều lưu ý khi luận lá số Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi

Tại đây dễ gặp các cách giáp hay. Đăc biệt giáp XƯƠNG KHÚC trong trường hợp nầy có câu: “XƯƠNG KHÚC giáp trì nam Mệnh quí nhi thả hiển”. Thực chất đây là bộ ÂM LƯƠNG gia thêm THÁI DƯƠNG hình thành tại đây bộ NHẬT NGUYỆT
Những điều lưu ý khi luận lá số Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

NHẬN XÉT:

Tại đây dễ gặp các cách giáp hay. Đăc biệt giáp XƯƠNG KHÚC trong trường hợp nầy có câu: “XƯƠNG KHÚC giáp trì nam Mệnh quí nhi thả hiển”. Thực chất đây là bộ ÂM LƯƠNG gia thêm THÁI DƯƠNG hình thành tại đây bộ NHẬT NGUYỆT. NHẬT NGUYỆT tại Sửu ví như buổi bình minh Âm dần tàng, Dương bắt đầu sáng. Tại Mùi dương sắp tàn âm sắp vượng. Trong nầy có chứa đựng cách DƯƠNG LƯƠNG nhưng LƯƠNG ở đây không may mắn lắm. Nhưng Dương Lương tại Sửu vẫn còn hy vọng đẹp. Nhưng nói chung tùy thuộc Hung, Cát tinh kết luận mà thôi.
Bộ NHẬT NGUYỆT khi xấu là ÂM DƯƠNG điên đảo, ÂM DƯƠNG điên đảo là sao? Là phụ nữ có khi lấn quyền nam giới.

 LUẬN ĐOÁN CÁC CHI TIẾT SAU


BÌNH MINH và HOÀNG HÔN:
ÂM DƯƠNG tại Sửu.
Hình ảnh. Đây là nơi giao hòa của Âm và Dương tại Sửu thiên về âm tàn, dương sắp thịnh, buổi bình minh đang đến hoặc sắp đến, lợi cho DƯƠNG hơn là ÂM. Tức là lợi cho nam hơn là nữ. Lợi cho hành bản MỆNH thiên về Hỏa như Thổ, Mộc. Vì THÁI DƯƠNG thuộc hành Hỏa. Lợi cho sự công khai hơn âm thầm. Lợi cho công việc thiên về ban ngày hơn ban đêm…
ÂM ƯƠNG tại Mùi. 
Là cảnh chiều tà, là hoàng hôn buông xuống. Dương tàn Âm sắp thịnh hứa hẹn một đêm dài, đêm vui hay đêm buồn tùy từng trường hợp hợp ta mới biết được. Lợi Âm hơn Dương, lợi nữ hơn nam, lợi cho hành Thủy hoặc tương sinh như Kim, Thổ. Vì THÁI ÂM thuộc hành thủy. Lợi cho sự âm thầm hơn là công khai. Lợi cho công việc thiên về ban đêm hơn ban ngày…
ÂM DƯƠNG HÒA HỢP.
Đây là cảnh Âm Dương giao hòa của trời và trăng, của ngày và đêm, của trai và gái nếu như không có Hung Kỵ Hình tinh cảnh ‘bình minh’ báo hiệu một ngày lành (THIÊN LƯƠNG) và ‘hoàng hôn’ báo hiệu một đêm an vui bắt đầu. Chúng ta thường chúc nhau một ngày may mắn là đây. (Dương Lương: một ngày may mắn, một ngày tốt lành).


NGÀY VÀ ĐÊM:
Vất vả từ sáng sớm đến nửa đêm, một nắng hai sương. Buôn bán cả ngày lẩn đêm
Ngày chẳng yên đêm chẳng vui... tuỳ thuộc hung cát tinh để quyết đoán.
Tốt là ngày đêm yên vui. Xấu là khổ, buồn, cực cả ngày lẫn đêm. Đêm còn nghe tiếng khóc.
Có người công việc làm ban ngày đêm về nghĩ ngơi. Có người công việc khi đêm xuống, nhưng cũng có người đi từ khi (hoặc làm từ khi) còn sơm tinh mơ và trở về hoặc thôi làm khi đêm đã xuống. Thấy được cái cảnh một nắng 2 sương (sương mai và sương đêm). Nhưng cũng có thể là niềm vui như có nhiều thu nhập lớn, đáng buồn có người vất vả thì nhiều hưởng chẳng bao nhiêu.
Bộ ÂM DƯƠNG cho thấy cái cảnh suốt ngày, suốt đêm có thể là cảnh đầu tắt mặt tối (nắng trên đầu đã tắt, mặt tối sầm lại) cảnh suốt ngày ăn chơi đàn đúm, cờ bạc rượu chè, cảnh các chiến binh phải suốt ngày canh gác chiến đấu…. tùy hình ảnh ta nhìn thấy sao ta được quyền mô tả vậy. Nó học hành viết lách suốt đêm ngày, đó là hình ảnh đẹp.


NGÀY và THÁNG:
* Ngày tháng trôi qua, vui buồn, vinh nhục… Đây là yếu tố giúp ta đoán được thời gian. Thái Âm còn chủ tháng, THÁI DƯƠNG chủ ngày . Nếu có THÁI TUẾ chủ năm ta có bộ tam Thái. Từ những yếu tố nầy trình độ cao hơn ta có thể đoán được bao nhiêu năm tháng hạnh phúc hay tai họa, đau ốm bao nhiêu lâu thì khỏi… Chỉ cần bạn nhớ cho ngày và tháng là tốt rồi. Như: Những ngày tháng qua đi khi ta còn ngồi lại… Ngày và Đêm là những đề tài muôn thuở được khai thác nhiều, như thương như tiếc những ngày tháng trôi qua mà chẳng làm được chuyện gì có ích cho gia đình hay xã hội. Để khi cái chết cận kề thấy tiếc nuối.
Chính những người có bộ Âm Dương (không phân biệt Âm Dương Sửu Mùi, Âm Dương Tỵ Dậu, Âm Dương Thìn Tuất, Âm Dương Mão Hợi) dễ cảm xúc về ngày tháng, về đêm và ngày, về cái vất vả của ngày, cái buồn vương về đêm. Như: Thương ai về ngõ tối. Sương rơi ướt đôi môi. Thương ai buồn kiếp người. Lạnh lùng ánh sao rơi. Thương ai về ngõ tối. Bao nhiêu lá rơi rơi. Thương ai cười không nói. Ngập ngừng lá hôn vai.
Buồn kiếp người: Tang Kiếp. Lạnh lùng ánh sao rơi (LINH TINH khi xấu là vì sao rụng, là chiếc lá rơi rơi). Cười không nói là THIÊN LƯƠNG nông cạn, nói cũng chẳng ích gì thâm sâu để làm chi. Kẻ bán người mua thế đủ rồi. Đó là hình ảnh buồn do TCS vẽ ra trong đầu, hoặc chính là hình ảnh thấy trong vô thức lá số TỬ VI của ông ta. THÁI ÂM + TANG KIẾP+ LINH. Người đàn bà của TCS. Và thương ai là bộ HÀ TƯỚNG QUÂN nằm ở đó.
Khi ta dùng đến ngày… tháng … năm … tức là lúc ta có việc quan trọng mới dùng đến ngày tháng năm. Ví dụ ngày…tháng… năm Kỷ Dậu. Em ơi! Từ mặt trận P.T. anh viết vội thư này gởi về em… Từ đây nếu hỏa khí (Hỏa Linh Kình Đà) là những ngày khói lửa chiến tranh, nếu hòa bình là những ngày vất vả vì lịnh lạc khẩn cấp không phải những ngày tháng êm đềm luôn luôn có chuyện khẩn… Nếu có KHÔNG KIẾP là ngày tháng Không May… Tùy theo cái ta nhìn thấy mô tả nó một cách trung thực khi ta có dữ liệu sơ sở. Nếu không lấy gì mô tả, có chăng là nói bậy tùy hứng mà thôi, may nhờ rủi chịu, đúng sai không biết.


NGÀY LÀNH THÁNG TỐT
Âm Dương ngộ Lương là ngày lành tháng tốt (yếu tố này áp dụng cho tất cả cách ÂM DƯƠNG có LƯƠNG) nhưng ở vị trí này THIÊN LƯƠNG không may mắn lắm (đừng hiểu lầm là lạc hãm, hóa là bất lương. Lương cần đi với Phúc là phúc duyên, đi với cơ là cơ duyên. Hạnh Phúc đâu phải chỉ cơm ăn áo mặc cần có tiếng nói trẻ con THIÊN ĐỒNG, cần có căn nhà THIÊN CƠ cơ ngơi… như vậy phải hiểu không may mắn lắm là như vậy… Bộ ÂM DƯƠNG LƯƠNG chưa hoàn chỉnh. Ý Bửu Đình nói là như vậy đấy. Nếu bất lương hay không thì có các sao KHÔNG KIẾP KỴ HÌNH nó nói. Nói một cách dễ hiểu nhất.
Chính tinh là chủ từ, bàng tinh là túc từ. Tôi muốn là THAM LANG, tôi muốn ăn roi là THAM HÌNH, Tôi muốn yêu thương là TƯỚNG QUÂN, Tôi muốn phục vụ cho Bửu Đình. THAM PHỤC BINH + Bửu Đình. Quá dễ phải không. Phục vụ cho cái xấu + KHÔNG KIẾP vào. Đúng không? Bởi thế người viết đã từng viết những lá số đến 50 trang vở học trò là bình thường. Cứ tặng Đình một sổ carnet một cây bút là thấy khổ rồi, sẽ chết vì chấm TỬ VI. Đâu phải lá số nào cũng dễ nói, né qua tránh lại thiếu trung thực.
Ngày lành tháng tốt là một yếu tố quan trọng trong xây dựng gia đình, nhà cửa… và sinh ra đời được bộ NHẬT NGUYỆT như Sửu Mùi và các cách NHẬT NGUYỆT khác có THIÊN LƯƠNG mà không có Sát Tinh Kỵ Hình được xem như là sinh vào ngày lành tháng tốt. Từ đó có ngày Sinh Nhật, cao hơn là Đản Sinh của Phật, Giáng Sinh của Chúa. Nếu ta sinh vào những tháng ngày khói lửa mặc dù không có cách đó tại MỆNH. Sau nầy có dịp chúng ta sẽ nếm khói lửa thời chiến, khói lửa thời bình, khói lửa ngay chính trong căn nhà chúng ta. Chứ đừng nói rằng, làm gì có chiến tranh trong khi cả thế giới nói chung đang hòa bình. Chiến tranh ngay trong nhà của bạn. Với những ngày không yên đêm không vui, đó là nhẹ nhàng. Ngày hồi hộp đêm lo sợ, chết đi còn sướng hơn. Đôi khi sự thật rất cay đắng. Tốt nhất tự đoán số cho mình là hay nhất. Từ đó, nên TRIỆT đi, xóa đi những hình khắc bắt bẻ, những đòi hỏi thái quá, những ghen tị những cái mình không thể có. Mà người thân mình cũng không thể thỏa mãn cho mình được. Hiểu biết TỬ VI coi như đã đi tu rồi, mĩm cười với HÓA KỴ, vẫy tay với KÌNH DƯƠNG, sẵn sàng vui với ĐÀ LA một đoạn, HỎA TINH ta chọn nhiệt tình, LINH TINH ta chọn sáng suốt, KHÔNG KIẾP ta lấy sợ nạn mà không làm chứ đừng không ngờ gặp nạn. Như vậy là cải số với trời chứ không cãi cọ với người.
TỬ VI Ứng Dụng đem lại cho bạn niềm an vui với số phận. Và Số (THIÊN CƠ) một nơi Phận (TỬ VI) một ngã, số phận gặp nhau là số phận đã an bài. Việc làm hôm nay là việc làm trong định số của người viết. Một người có ngôi TỬ VI TẤU THƯ tại MỆNH hạn tại CƠ ĐỒNG BINH TƯỚNG.


NAM NỮ, ĐÀN ÔNG, ĐÀN BÀ, TRAI GÁI:
Đây là vị trí cả nam lẩn nữ giao hội với nhau với THIÊN LƯƠNG là phơi bày. Quan trọng là phơi bày cái gì? Phơi bày tâm sự. Đó là hình ảnh bên anh đọc sách bên nàng quay tơ, bên sông em giặt lụa trên cầu anh đứng trông, hay bên hiên anh thơ thẩn trong song em lặng nhìn… và sau đó THIÊN LƯƠNG phơi bày tâm sự, cũng từ đó lại chọn ngày lành tháng tốt để anh đến nhà em, để trình bày (chứ không phơi bày nhé) nếu như không có bọn KỴ ĐÀ cản mũi… cứ thế khi nên vợ nên chồng phơi bày cái gì sau đó chắc bạn thừa hiểu, có điều đáng nói là Đình không bày nhưng bạn lại làm rất tốt, cái Đình bày cho lại phản đối?
Nhưng vậy cách ÂM DƯƠNG LƯƠNG có hàm ý dâm tính ở bên trong, tùy dâm tinh tụ tập nhiều hay ít để luận đoán.


GÁI TRAI và LƯƠNG THỰC, LƯƠNG TIỀN.
Khi nên vợ nên chồng vấn đề cái ăn trở nên bức thiết. Tại đây ta chỉ có lương thực chứ chưa phải là cách Đồng Lương là lương tiền (từ ruộng đồng sinh ra lương thực chuyển qua lương tiền) Vì thế bị đánh giá là kém hay như đã giải thích ở trên. Cho nên dẫu sao có THIÊN LƯƠNG là may mắn rồi. Nếu như không có nó thì sao?


GÁI TRAI và một mái nhà.
Tại đây ta chỉ thấy đôi trai gái và một mái nhà đó là THIÊN LƯƠNG (chủ nóc nhà) THÁI ÂM chủ thềm trong, THÁI DƯƠNG chủ thềm ngoài. Nóc và thềm thôi chư đâu phải là cơ ngơi như THIÊN CƠ vì thế khiếm khuyết về nhà cửa chưa hoàn chỉnh nhưng có THIÊN LƯƠNG này cũng có bóng mát cuộc đời, dù là không cao sang.


TIẾNG ĐỘNG DẬY LÊN. ÂM THANH DẬY LÊN:
THÁI ÂM chủ tiếng động. THÁI DƯƠNG chủ dậy lên, phát lên. Tiếng động phát ra có thể lời văn hay ý tốt, là tiếng nhạc tiếng đàn, lời ca tiếng hát nếu đi với XƯƠNG KHÚC và bây giờ nếu bạn còn thắc không khi có người nói: “ÂM DƯƠNG hữu XƯƠNG KHÚC nhi đắc lực” chỉ câu này thôi là hay biết bao nhiêu. Ngần ấy thôi là thấy có công danh, có nghề nghiệp có niềm vui. Vậy thì bộ ÂM DƯƠNG rất cần gặp THANH LONG chủ tiếng nói, hoặc HỒNG LOAN ‘la to’ tiếng nói vui mừng đi với HỈ HỒNG ĐÀO nhưng có thể lời than, tiếng khóc, chưởi rủa, bôi nhọ khi đi với thị phi tinh, sầu tinh… từ đó hướng luận đoán nhiều vô số kể.
Âm Dương Lương là tiếng động phát lên bày tỏ ra, phơi bày ra. Chúng ta chưa biết rõ họ dùng tiếng động đó để làm gì, tín hiệu vui hay cầu cứu SOS. Nếu là tiếng nói. Ồ nói năng có văn hóa nhỉ, nghe được đấy. Là nhờ bởi XƯƠNG KHÚC. Nghe vui tai là đi với ĐÀO HỒNG HỈ, nghe như trăm oán nghìn sầu là đi với TANG KHỐC ĐƯỜNG LA. Sao mà nghe vô văn hóa, chưởi bới… Nhìn sao nói vậy, nghe sao viết vậy.


MỘT SAO CHỦ ẨN, MỘT SAO CHỦ HIỆN, HIDE và SHOW:
Nào chúng ta vào Tools nhấn Foder Option muốn ẩn thư mục nào ta chon hide. Đúng chưa. Biết rồi khổ lắm. Hà hà…
Ẩn là THÁI ÂM tên thiệt của y là ‘âm thầm thái quá’ và THÁI DƯƠNG là ‘công khai thái quá’. Khi cần ẩn là ẩn khi cần hiện là hiện, biến hóa vô lường. Khi ta có 2 yếu tố nầy khi vui ta hiện khi buồn ta bay. Khi nguy biến phải thoát ngay. Nếu không gặp chuyện đắng cay vô cùng.
Thoắt ẩn, thoắt hiện là bộ sao nầy. Như trong vi tính có chức năng ‘Hide’. Tốt là khi cần ẩn thì ẩn, khi cần hiện lại hiện ra. Xấu là khi cần ẩn lại hiện, khi cần hiện ra lại ẩn. Nhận xét chung vừa ẩn, vừa hiện là một yếu tố rất hay. Ví dụ: Như cô ca sĩ hát xong lui vào sân khấu (chẳng lê đứng hát hoài), như một chiến binh khi cần phục kích phải ẩn núp kín đáo, khi cần xung phong lại hiện ra (khiến địch quân khiếp vía, nếu núp nữa coi cũng kỳ).
Và đến đây bạn thấy đó không phải vô cớ Bửu Đình lại phân biệt nhóm sao ẩn hiện. Vì từ đó chúng ta đến THÁI ÂM đôi khi là sao tốt đẹp nhưng thật ra nó không lợi cho ta là bao nhiêu, trong khi ta ưa dương, ưa lộ, ưa phơi, ưa khoe. 
Vậy thì THÁI ÂM thuộc nhóm ẩn như TỬ VI THIÊN PHỦ ĐÀ TUẦN. 
THÁI DƯƠNG thuộc nhóm lộ THIÊN LƯƠNG TRIỆT KÌNH. Và xem tiếp càng về sau càng hấp dẫn lôi cuốn không chán phèo. Có thế mới là kỳ lạ.


BÓNG TỐI và̀ ÁNH SÁNG. ĐEN TỐI, MỜ ÁM và RÕ RÀNG, SÁNG SỦA:
Kẻ trong bóng tối, người ngoài ánh sáng là đây. Khi cần thì khuất vào bóng tối, khi cần xuất hiện ra ngoài ánh sáng. Cũng như khi cần tắt đèn, khi cần mở đèn. Khi có 2 yếu tố nầy cũng có thể rất nguy hiểm vì có thể làm những chuyện mờ ám, vì thế nó luôn luôn nhị hợp với một sao thủ đoạn là VŨ KHÚC. Đọc tiếp phần dưới ta sẽ rõ hơn.


ÂM THẦM VÀ CÔNG KHAI:
THÁI ÂM chủ âm thầm, lén lút, mờ ám 
THÁI DƯƠNG chủ công khai, hợp pháp, minh bạch rõ ràng
Ví dụ: Về mặt công khai đó là công ty bay (công ty hoá chất, vận tải, cửa hàng ăn uống...) nhưng dằng sau đó âm thầm mua bán (vận chuyển, trao đổi...) ma tuý (vũ khí, tiền giả...). Hoặc là nơi chứa chấp (cung cấp...) bọn khủng bô ́(gián điệp, đĩ điếm..).
Đây là bộ sao mang 2 bộ mặt khác nhau. Một bộ mặt hợp pháp, công khai một bộ mặt xã hội đen, buôn lậu, thế lực chống đối hoặc âm thầm, lén lút, mờ ám làm chuyện bất chính. Xung đột mâu thuẩn một bên mờ ám, lén lút, âm thầm và một bên công khai rõ ràng minh bạch như mặt trời với mặt trăng, như ban ngày không thể gặp ban đêm.
Nhưng dẫu sao xét cho cùng, đây cũng là một yếu tố rất hay. Có những cái ta cần âm thầm, có những cái ta cần công khai. Cái quan trọng là âm thầm cái gì? Công khai cái chi?. Đối với người, ta có thể âm thầm thương nhưng công khai la mắng, trong kinh doanh ta cũng có những cái âm thầm ngay nhân viên cũng không được tiết lộ, còn hàng hóa tất nhiên cần được công khai rồi. Trong Quân Sự, Chính Trị yếu tố nầy càng mạnh mẽ, trong âm thầm làm một đường, nhưng công khai làm một nẻo...
Đây là bộ sao phù hợp với một số người, nhưng bất bình cho một số khác. Điển hình là những người thuần dương (THÁI DƯƠNG) như THÁI DƯƠNG tại Tí Ngọ Dần Thân.
Kết luận là kết quả của Sát tinh có hay không? ĐÀO KỴ KIẾP có hay không? Có tạo ra tai họa cho người không?
Tôi âm thầm học tập nghiên cứu. Nay công khai tuyên bố là:…con vi khuẩn D35 có thể chữa bịnh cho người lãnh cảm.
Con âm thầm theo dõi người ấy lâu lắm rồi. Cô ấy là người rất tốt. Nay con công khai đến đây xin phép …
Công khai đưa người cửa trước, âm thầm rước người cửa sau…
Vầy thì cái âm thầm thuộc dạng âm mưu sợ gì? Sợ bại lộ.
Bây giờ giải thích với bạn rằng: Bộ NHẬT NGUYỆT rất khoái bộ TANG HƯ KHÁCH và rất kỵ TRIỆT đáo đầu.
Âm thầm và công khai tốt xấu tùy mục đích.
Âm thầm để một mai dương lên, vươn lên là đặc tính của bộ sao nầy. Một người có bộ Âm Dương tối tăm về già cuộc đời càng sáng sủa. Thuở trẻ thường hay chịu cảnh tối tăm.


TAI và MẮT. NHỮNG ĐIỀU TRÔNG THẤY.
Các sách TỬ VI thường cho là Bộ ÂM DƯƠNG là đôi mắt, điều nầy không có gì bàn cãi. Có chăng là THÁI ÂM còn đãm nhiệm sự nghe. THÁI DƯƠNG đảm nhiệm sự thấy. 5 ngũ quan là : Tai mắt mũi miệng và tay chân. Tay chân ta có THIÊN MÃ đúng rồi, CỰ MÔN là cái miệng ăn nói. Cái mũi, trời ơi! Cái mũi là cái nghệ sỹ… chưa bao giờ đề cập hoặc đề cập một cách kín đáo khó nhận biết. Nào là: Anh nhớ mắt môi em mĩm cười… má em gầy, vai em gầy guộc từng sợi nhỏ (là cái chi?), dài tay em mấy thuở mắt xanh sao. Có ai nhớ cái mũi đâu mà nữ giới đi sửa mũi làm gì tốn tiền vậy chứ. Nhưng Vua Tự Đức viết:
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng.
Xếp tà y lại để dành hơi.
Và cũng chỉ nói cái mũi của mình thôi. Người có văn hóa đập phá cũng có văn hóa. Qua Trần Thiện Thanh là: Gương xưa còn đó nhưng bóng người nào thấy đâu. Áo xưa còn đó nhưng mùi hương phai nhạt rồi… trong ‘Từ đó em buồn’
Và cái mũi là ngôi sao THAM LANG. Đập phá để ngửi (xin cám ơn vua Tự Đức)
* Là thấy tận mắt, là nghe tận tai. Những điều ấy đem đi tố cáo với người khác trở thành 'tai mắt' cho người, có khi là cho địch, có lúc lại đem loan truyền… Cũng có khi không thấy tận mắt, chẳng nghe tận tai nhưng quả quyết là tai nghe mắt thấy.
* Là tai nghe chuyện vui, mắt thấy chuyện mừng. Tai nghe những cái hay, mắt thấy những cái đẹp…
* Cũng là tai nghe mắt thấy những chuyện chướng tai gai mắt, những chuyện không muốn nghe phải nghe, những chuyện không muốn thấy phải nhìn.
* Cũng là tai nghe mắt thấy nhưng tai nghe không tiếp thu, mắt thấy mà không hiểu. Tốt là nghe một hiểu mười, thấy một cái hiểu nhiều cái.
* Có tai như điếc, có mắt như mù, có cũng như không. 
* Tốt là tai thính, mắt sáng. Xấu là tai điếc mắt mù. Có cả bộ môn cho Khoa Tai Mắt Múi Họng.
Theo Nguyễn Du bộ ÂM DƯƠNG là những điều trông thấy.
"Trải qua một cuộc bể dâu. Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. "
Lần nữa ta lại thấy giá trị của câu: Âm Dương hữu XƯƠNG KHÚC nhi đắc lực. Được nghe được xem và được nói về văn học nghệ thuật. 
(So sánh với cái dò xét theo dõi đáng sợ của Liêm Trinh, cái quan sát của THẤT SÁT, xem xét của THIÊN TƯỚNG và THÁI DƯƠNG dương mắt ngó nhưng một hôm THÁI DƯƠNG dương mắt ngó xong rồi cãi nhưng nó không nằm tại đây).


SỐNG DỞ CHẾT DỞ, DỞ SỐNG DỞ CHẾT, ÂM DƯƠNG bàng hoàng:
* Khi xấu bộ sao nầy rơi vào trạng thái dở sống dở chết. Âm chẳng ra người âm, dương chẳng ra người dương, sống cuộc đời thực vật. Cũng như mọi bộ sao khác
Bộ ÂM DƯƠNG cư Sửu cần gặp và kị gặp
CẦN GẶP:
TAM MINH(ĐÀO HỒNG HỈ) xem mục “Tiếng động dậy lên”
“Mệnh cư ĐÀO, HỈ hướng TỬ, DƯƠNG (THÁI DƯƠNG) phú quí khả kì. 
Thân hữu HỒNG, ĐÀO, THAI TOẠ nhi công danh khả tất”
Tức MỆNH có TỬ VI hay THÁI DƯƠNG đi với ĐÀO Vui, Hỉ Mừng phú quý lạ kỳ (Dĩ nhiên không gặp thêm Hung tinh). Thân có 4 sao ĐÀO HỒNG THAI TỌA tất có công danh (ngồi cao la lớn không có công danh sao được)
XƯƠNG KHÚC: mới đắc lực, phú quí vinh hoa. Phú viết: ÂM DƯƠNG hữu XƯƠNG KHÚC nhi đắc lực.” hoặc Phú quý vinh hoa. Cũng như bộ TỬ PHỦ cần Tả Hữu bộ sao hành động cần người giúp đỡ. Bộ ÂM DƯƠNG đa phương tiện (Multidial) cần đi với bộ Nghệ Thuật XƯƠNG KHÚC .
BÁT TOẠ: Xuất nhập nơi quyền quí. Hợp cách.
“BÁT TOẠ hướng THÁI DƯƠNG thị tụng ư cung cấm’. Hình ảnh người đàn ông ngồi trên đài cao. Đặc biệt sao THÁI DƯƠNG rất ái mộ sao nầy.
KHOA LỘC: “NHẬT NGUYỆT KHOA LỘC Sửu cung định thị công danh. QUÍ ÂN, THAI TOẠ, KHÔI HỒNG. văn tài nguỵ lý xuất xử thành công”. Đi với KHOA LỘC tất thị có công danh (ở đây không thể có đủ bộ 3 sao KHOA QUYỀN LỘC 
TUẦN KHÔNG: “NHẬT NGUYỆT Sửu Mùi ái ngộ TUẦN KHÔNG. QUÍ ÂN XƯƠNG KHÚC ngoại triều văn tất thượng cách đường quan xuất chính”. Vì Tuần chủ tập trung vào, thu hút vào, nhân vật quan trọng vì văn tài XƯƠNG KHÚC, và bộ QUÍ ÂN chủ ân thưởng vẽ vang. Để giải thích câu phú này cả một loạt tiểu mục để minh chứng. Nếu Âm Dương đắc cách là tiếng nói của một nhân vật quan trọng có văn tài rất vẽ vang, tập trung (tuần) mà nghe.
LỘC TỒN: “THÁI ÂM, VŨ KHÚC, LỘC TỒN đồng. TẢ HỮU tương phùng phú quí ông”
Tức THÁI ÂM + LỘC TỒN + TẢ HỮU, hoặc VŨ KHÚC đi với TỒN TẢ HỮU. Có LỘC TỒN không còn lo lắng bộ KÌNH ĐÀ phức tạp xuất hiện. Bộ LỘC TỒN TẢ HỮU đi với sao nào cũng hay trừ trường hợp đi với SÁT PHÁ, CỰ.
THÁI TUẾ : Tam thái cách. Thái sư, Thái phó, Thái bảo… mơ hồ khó đạt được cần có KHOA LỘC. Làm thái sư phụ dễ gặp. 
KỊ GẶP:
TAM ÁM (DIÊU ĐÀ KỊ). Tai nghe mắt thấy bị ám rồi còn nghe thấy chi nữa. Nếu MỆNH có bộ NHẬT NGUYỆT hạn đến bộ tam Ám là xui nhất. Đây là 2 bộ sao kỵ nhau nhất.
HAO TINH: Phi lễ thành hôn (đối với nam)
“Âm phùng Hao tú một phương. Thành hôn chẳng lọ là đường cưới xin.” Vì khi có HAO tức THÁI ÂM ngộ ĐÀ hay ngộ KÌNH
ĐÀ LA: Mệnh cung kị NGUYỆT ngộ ĐÀ LA có tính loạn dâm. Âm ám chủ bị nữ lôi kéo.
KÌNH ĐÀ : Đa khắc thân. Nhân ly tài tán. Vì hình thành các bộ ÂM KÌNH, DƯƠNG KÌNH ÂM ĐÀ, ÂM KÌNH tức âm thầm hay công khai chống đối 2 giới nam và cả nữ trong gia đình (đa khắc thân: khắc nhiều người thân). Từ đó vui thì sống, buồn thì đi (nhân ly tài tán là thế).
KÌNH DƯƠNG :”TUẦN TRIỆT bất khả LỘC TỒN tư cơ phá bại. DƯƠNG NHẪN bất nghi NHẬT NGUYỆT bệnh tật triền miên”. KÌNH ở đây còn chủ phải chống đỡ với nhưng nguy cơ âm thầm trong thân thể của mình (chứ tui không chống ai hết)
“THÁI ÂM ngộ DƯƠNG ĐÀ tất chủ nhân ly tài tán
DƯƠNG NHẨN bất nghi NHẬT NGUYỆT bệnh tật triền miên”
VIỆT LINH HÌNH: Phòng sấm sét, búa đao.
TRIÊT: Tất cả đều lộ ra hết, y như cặp trai gái nằm phơi bày lồ lộ. Cái lộ đó càng cay đắng hơn nếu như có chén thuốc đắng HÓA KỴ bên cạnh, nếu như thuốc độc không ngại gì mà không uống.
Tất cả Âm Mưu, tất cả sự thầm kín sẽ bị phơi bày (THIÊN LƯƠNG) công khai (hoặc đưa ra ánh sáng THÁI DƯƠNG). Xấu tốt do hung, cát tinh mà thôi. Tụ tập nhiều hay ít. Biết bao nhiêu người bị chết… cháy vì cách nầy. Như đã nói cách này không được hoàn chỉnh… vì thiếu một ngôi sao THIÊN ĐỒNG thâm sâu, ngôi sao THIÊN CƠ tính toán kỹ. Vì thế ta ít khi gặp lá số Âm Dương tốt. Nếu không có gì xấu xa khi bị lộ (mà rất dễ lộ. sao TRIỆT cứ chu kỳ 5 năm đến thăm Sửu Mùi một lần, có lúc rủ thêm Kỵ thế là họa đến) không làm điều xấu xa bị phơi bày ra ánh sáng có khi quảng cáo cho mình. Ờ cái đó là âm mưu à! Cái đó là âm thầm giúp đỡ mà thôi. Tại anh ghét anh nói vậy thôi.
Dĩ nhiên những âm thầm nguy hiểm (Kỵ Kiếp) chưa kịp tạo ra có khi bị bóp chết trong trứng nước là vì thế.
Ở đây người viết cần giải thích thêm. Ý người viết nói tại đây có bộ KỴ KIẾP, tức tại bản cung, tam hợp cung hội họp. Nếu có bộ này nằm ở cung xung chiếu mang ý khác. Bản cung có Kỵ cung xung chiếu có KIẾP mang ý khác và ngược lại, bản cung có Kiếp xung chiếu có KỴ tất phải mang ký khác. Ví dụ nội Kỵ ngoại Kiếp: Tại anh ăn hiếp (tức là KIẾP) tui, nên tui mới ghét (kỵ) anh. Vi dụ: Nội Kiếp ngoại Kỵ: Ê mày dám chê (vì Kỵ xung) tao hả? Tao sẽ ức hiếp mày bằng thích. Giải thích rất bình dân, thực tế như vậy không biết bạn có hiểu kịp không? Hay bạn ưa nghe mơ hồ: cần phân biệt thế xung và hợp, nói như vậy 10 người chỉ có 1 người lanh trí hiểu.
KHÔNG KIẾP:
“NHẬT NGUYỆT sát hội nam đa gian đạo nữ đa dâm”
Không cần giải thích bạn cũng hiểu. Đôi trai gái trời ơi này.
GIÁP HAY RẤT DỄ GẶP:
Tại vị trí Sửu Mùi thường dễ gặp các bộ sao đôi hợp chiếu và dễ gặp các cách giáp như: Long Phượng (kề cận quý nhân), Thai Tọa (công danh, nhàn hạ), Quang Quí (ân thưởng vẽ vang). Hay nhất là giáp XƯƠNG KHÚC (ví như tay trái xem sách, tay phải chơi đàn, 2 cung phụ mẫu huynh đệ là giới văn nghệ sỹ). Có câu:
“XƯƠNG KHÚC giáp trì nam Mệnh quí nhi thả hiển”. Trì là tên riêng của Âm Dương, Quế trì là THÁI ÂM, đan trì là THÁI DƯƠNG.


MỘT SỐ CÂU PHÚ LIÊN QUAN .
Ghi lại đây một số câu phú có liên quan, quan điểm một số nhận xét của người xưa.
“NHẬT NGUYỆT Sửu Mùi. ÂM DƯƠNG hổn hợp tự giảm quang huy kị phùng sát tinh, nhược lai văn diệu, diệc kiến QUÍ ÂN, THAI TOẠ, KHÔI HỒNG văn tài nguỵ lý xuất xử thành công”
Tự giảm quang huy. Đình không đồng ý. Đã giải thích ở đầu bài ở Sửu lợi cho THÁI DƯƠNG ở Mùi lợi cho THÁI ÂM. Văn tài nguỵ lý cũng không đồng ý vì các bàng tinh sẽ đánh giá công việc ấy như HƯ PHÁ, PHI LIÊM.
“NHẬT NGUYỆT Sửu Mùi ái ngộ TUẦN KHÔNG. QUÍ ÂN XƯƠNG KHÚC ngoại triều văn tất thượng cách đường quan xuất chính”
“Mấy người bất hiển công danh. Vì chưng NHẬT NGUYỆT đồng tranh Sửu Mùi”
Ngày xưa KHHB tranh luận câu này. Người cho bất hiển, người cho là phỉ hiển (Thỏa mãn toại nguyện). Xét cho cùng quá võ đoán, vớ vẩn chỉ bộ Âm Dương chưa đủ điều kiện ắt có và đủ như trong toán học. Thấy tốt ta mới kết luận tốt, xấu ta kết luận xấu. Đó là việc làm của các bàng tinh.
Kể các câu phú dưới đây thuộc loại võ đoán.
“NHẬT NGUYỆT Mệnh, Thân cư Sửu Mùi tam phương vô cát phản vi hung”.
“NHẬT NGUYỆT đồng lâm quan cư hầu bá”
“THIÊN LƯƠNG, THÁI ÂM tác phiêu bồng chi khách.”

Sưu tầm


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều lưu ý khi luận lá số Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi

Ai là cao nhân lắm tài nhiều tật Khổng Minh

Một cao nhân khiến Khổng Minh "tự thẹn không bằng", luôn khinh thường Lưu Bị mà Bị vẫn phải năm lần bảy lượt tìm cách chiêu mộ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bản lĩnh của Thừa tướng triều Thục Hán Gia Cát Lượng được đánh giá là "tiếu ngạo quần anh", dù chưa phải "tuyệt đỉnh cao thủ" nhưng những nhân vật có khả năng tề danh cùng ông không nhiều.

Tuy vậy, trong nội bộ Thục Hán có một nhân vật xứng danh là "cao nhân", mà bản thân Khổng Minh vô cùng kính nể.

Người này không chỉ khiến Gia Cát Lượng hao tâm tốn sức chiêu mộ về trướng Lưu Bị, mà còn được ông công khai ca ngợi - "Về bản lĩnh bày mưu tính kế, Lượng thua xa Tử Sơ" (trích "Tam Quốc Chí - Thục thư").

Vị cao nhân "Tử Sơ" mà Lượng nhắc đến, không ai khác chính là Thượng thư lệnh Lưu Ba.

Lưu Ba, tự Tử Sơ, người Linh Lăng, Kinh Châu, xuất thân trong gia tộc làm quan, ông tổ là Thái thú Thương Ngô Lưu Diệu, cha là Thái thú Giang Hạ, Đãng Khấu tướng quân Lưu Tường.

Cao nhân "lắm tài nhiều tật", khinh thường Lưu Bị

Lưu Bị cũng từng tán dương Lưu Ba - "Tử Sơ tài trí tuyệt luân, nếu không phải ta, khó có người khác dám dùng". Đương nhiên, Bị khen Lưu Ba là một phần, mà khoe khoang về bản thân là chính.

Lưu Ba được đánh giá là thông minh mẫn tiệp từ nhỏ, nhưng khi trưởng thành lại trở nên cao ngạo. Dù cùng mang họ Lưu, nhưng Lưu Ba luôn khinh thường Lưu Bị "có xuất thân nghèo hèn".

Năm 18 tuổi, Lưu Ba đã làm chức quan Chủ bạ tại Kinh Châu. Khi Lưu Bị mới về nương nhờ Kinh Châu Lưu Biểu, thì Lưu Ba đã nổi danh là người "bác học đa tài".

Vào "đêm trước" trận Xích Bích, quyết định vận mệnh "Tam Quốc đỉnh lập", Lưu Bị đại chiến cùng Tào Tháo tại dốc Trường Bản, kết quả bị Tào Ngụy đánh "không còn manh giáp".

Khi Lưu Bị đưa theo bách tính chạy trốn, rất nhiều sĩ tộc Kinh Châu đã đi theo ông, duy có Lưu Ba một mình ngược Bắc tìm... Tào Tháo, đủ thấy Lưu Ba thực sự phản cảm đối với Bị, thà đi theo "Hán tặc" Tào Tháo cũng không theo "hậu duệ Hán thất" Lưu Bị.

Tào Tháo thấy danh sĩ Lưu Ba về đầu quân thì rất vui mừng, cho Ba làm chức Tác duyện (trợ lý). Về sau, Tào phái Ba đi "ngoại giao" Trường Sa (Hồ Nam, Trung Quốc), Linh Lăng... Lưu Ba rất được Tào trọng dụng.

Tuy nhiên, số phận của cao nhân họ Lưu này có phần đen đủi, bởi sau thất bại của Tào Tháo tại Xích Bích, Lưu Bị đã đoạt được các quận Trường Sa, Linh Lăng.

Lưu Ba là một nhân vật "lắm tài nhiều tật"

Năm lần bảy lượt cự tuyệt Lưu Bị "chiêu hiền"

Lưu Bị lấy được Linh Lăng, biết tin Lưu Ba đang ở đây thì quyết tâm "chiêu hiền đãi sĩ", bỏ qua chuyện cũ để tới tìm Ba. Không ngờ Lưu Ba đã bỏ trốn.

Do sách lược thu phục Trường Sa, Linh Lăng thất bại, Lưu Ba cũng không còn đường trở về Tào Ngụy mà buộc phải cao chạy xa bay.

Trước khi Lưu Ba bỏ trốn đã cự tuyệt thư chiêu mộ của Gia Cát Lượng, khiến "Tiên chủ (Lưu Bị) vô cùng căm hận".

Lưu Ba bỏ trốn rồi, vẫn sợ Lưu Bị tìm cách bắt lại nên đổi sang họ Trương.

"Linh Lăng tiên hiền truyện" có ghi chép - "Ba đổi thành họ Trương, đến Ích Châu bị bắt lại, Thái thú định giết (Lưu Ba).

Quan Chủ bạ nói - 'Người này không phải bình thường, không thể giết'."

Chủ bạ đưa Lưu Ba tới gặp Ích Châu mục Lưu Chương. Chương vốn kính nể thanh danh cha Lưu Ba là Lưu Tường, nên gặp Ba vô cùng vui mừng, thường xuyên hỏi han chính sự.

Bản thân Lưu Chương thuộc phái thân Tào, từng cử bộ hạ Trương Tùng tới Ngụy tỏ ý với Tào Tháo. Tuy nhiên, do năng lực ngoại giao của Tùng kém cỏi, bị Tào Tháo lạnh nhạt.

Trương Tùng tức giận trở về khuyên Lưu Chương "bắt tay" Lưu Bị chống lại Tào Ngụy. Lưu Chương vốn không có chủ kiến, cũng nghe lời Tùng.

Lúc này, chỉ có Lưu Ba đưa ra đề xuất "đầy tính chiến lược" với Lưu Chương: Không thu nạp Lưu Bị.

Lưu Ba nói - "Bị là kẻ hùng tài vĩ lược, thu về ắt gây hại, không thể giữ lại".

Chương vẫn thu nạp Bị, Lưu Ba lại can - "Để Lưu Bị thảo phạt Trương Lỗ thì khác nào thả hổ về rừng", song Chương vẫn không nghe. Ba bèn đóng cửa cáo bệnh.

Sau khi vụ việc Trương Tùng câu kết với Lưu Bị bại lộ, Lưu Chương mới hiểu ra lời can gián của Lưu Ba, tiếc rằng đại cục đã định. Ích Châu đã là vật nằm trong túi Lưu Bị.

Khi Lưu Bị vây đánh Ích Châu, từng hiệu lệnh tam quân - "Ai dám làm hại Lưu Ba sẽ tru di tam tộc". Về sau binh sĩ bắt sống được Ba, Lưu Bị mừng lắm.

Lưu Bị lại nhiệt thành kêu gọi, đồng thời Khổng Minh tiếp tục gửi thư khuyên nhủ Lưu Ba.

Ba đã lâm vào cảnh cùng đường nên đành phải nhận lời về Thục Hán, được Bị phong làm Tây tào duyện, phụ trách nội vụ quan lại.

Lưu Ba nhậm chức, Khổng Minh là người mừng nhất, bởi Ba chia sẻ một phần không nhỏ gánh nặng công việc của ông.

Năm 219, Lưu Bị xưng Hán Trung vương, phong Lưu Ba làm Thượng thư. Sau khi "ái thần" Pháp Chính qua đời, Ba được tấn thăng làm Thượng thư lệnh, thay cho Pháp Chính, nắm toàn quyền xử lý chính sự.

Dù nhiều lần cự tuyệt Lưu Bị, nhưng khi về Thục Hán, Lưu Ba vẫn được trọng dụng và ngang hàng với nhóm đại thần Khổng Minh, Pháp Chính...

Dù nhiều lần cự tuyệt Lưu Bị, nhưng khi về Thục Hán, Lưu Ba vẫn được trọng dụng và ngang hàng với nhóm đại thần Khổng Minh, Pháp Chính...

Tâm cao khí ngạo

Do Lưu Ba thường phớt lờ Trương Phi, dẫn đến Phi bất mãn, nên quan hệ giữa 2 người này rất tồi tệ.

Gia Cát Lượng từng khuyên giải Lưu Ba nên mềm mỏng hơn với "Hoàng đệ" Dực Đức, nhưng Ba bỏ ngoài tai. Điều này vô hình trung khiến Lưu Bị trở nên phản cảm đối với Lưu Tử Sơ.

Bị nói với Gia Cát Lượng - "Lưu Ba tài trí hơn người. Nếu không có ai thay thế thì dùng y, nếu đã có người thay thế thì không cần dùng nữa".

Lượng đáp - "Về bản lĩnh bày mưu tính kế, Lượng thua xa Tử Sơ". Lưu Bị nghe xong mới từ bỏ ý định "loại" Lưu Ba.

Về vấn đề Lưu Ba "lơ" Trương Phi, quân sư Đông Ngô Trương Chiêu cũng đứng về phía Lưu Bị, cho rằng Lưu Tử Sơ rất quá đáng.

Nhưng Ngô chủ Tôn Quyền đã chỉ ra - "Nếu Lưu Ba chỉ biết tát nước theo mưa, lấy lòng Lưu Bị, thì sao có thể xứng là bậc cao nhân?"

Trên thực tế, Lưu Ba được đánh giá là người sống cần kiệm, không ưa kết giao với người khác, chỉ trọng việc công.

Thời điểm Lưu Bị đăng cơ, toàn bộ "bản thảo diễn văn" của Bị đều xuất phát từ cây bút của Lưu Ba.

Bộ luật "Thục khoa" của triều Thục Hán, thực chất là sản phẩm của 5 bộ óc thông minh: Gia Cát Lượng, Pháp Chính, Lưu Ba, Lý Nghiêm, Y Tịch, đủ thấy bản lĩnh Lưu Ba không tầm thường.

Anh tài đoản mệnh

Cống hiến lớn nhất của Lưu Ba là sau khi ông về với Lưu Bị không lâu. Sử liệu Trung Quốc ghi lại, sau khi Lưu Bị lấy Ích Châu, quốc khố trống rỗng khiến Bị vô cùng lo lắng.

Lúc này Lưu Ba đã hiến kế - "Việc này đơn giản: Đúc tiền lưu hành đồng bộ, thống nhất vật giá, thi hành chế độ đấu giá công khai".

Lưu Bị làm theo lời ông, chỉ trong vài tháng đã thu được ngân sách dồi dào.

Đáng tiếc rằng, bước sang năm Chương Vũ thứ 2 đời Hán Chiêu Liệt Đế Lưu Bị (222), Lưu Ba bệnh mất, thọ 39 tuổi. Sử liệu Trung Quốc bình về Lưu Ba nói rằng "trời (đố) kỵ anh tài, cao nhân đoản mệnh".


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ai là cao nhân lắm tài nhiều tật Khổng Minh

Trồng cây gì ở phòng khách để phát tài?

Trong phong thủy nhà ở, các loại hoa, cây cảnh được cho là có thể sinh tài lộc, hóa giải sát khí.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng khách là nơi tụ khí của căn nhà. Vì vậy, cây cảnh để trồng trong phòng khách phải được lựa chọn kỹ lưỡng. Hiện nay, nhiều người có xu hướng chuyển sang lựa chọn những loại cây có tên gọi mang ý nghĩa may mắn, hướng đến mong ước tài lộc vào nhà . Các loại cây thể hiện tài lộc được ưa chuộng nhất để trồng trong phòng khách là cây kim ngân, phú quý, kim phát tài, phát lộc... 

1. Cây kim ngân

Kim ngân là một trong những cây phong thủy được nhiều người ưa chuộng nhất, riêng tên của loài cây này (kim ngân – tiền vàng ) đã mang đến ý nghĩa giàu có và may mắn. Nó thường được đặt ở khu vực tốt nhất là gần cửa chính của ngôi nhà.

2. Cây phú quý

Cây phú quý mang lại sự giàu sang, phú quý cho chính chủ nhân sở hữu nó. Với sự kết hợp hài hòa giữa màu xanh lá với viền đỏ sẽ rất thích hợp cho việc trồng cây trong phòng khách, tạo nét đẹp sang trọng hài hòa cho không gian.

cay-phu-quy

3. Cây phát lộc hoa (dứa cảnh nến)

Cây phát lộc hoa là loại cây trồng trong nhà khá mới nhưng rất được ưu chuộng vì chúng có màu sắc đẹp, làm tươi mới cho không gian của gia chủ. Cây không chỉ đẹp về hình dáng mà còn đẹp về ý nghĩa mang lại tài lộc và may mắn cho gia chủ.

cay-phat-loc-hoa

4. Cây ngọc bích

Cây ngọc bích hay còn gọi là cây hoa đá. Dựa vào ứng dụng phong thủy cổ đại, cây ngọc bích được đặt đúng vị trí sẽ mang lại sức khỏe và sự may mắn. Với đặc tính rất dễ nhân giống, chỉ cần lấy một chiếc lá đặt xuống đất ẩm thì nó sẽ nảy mầm mọc thành cây mới. Ngọc bích được coi là biểu tượng của sự chia sẻ và tình bạn. Ngoài ra, tên gọi thường xanh còn tượng trưng cho tuổi trẻ vĩnh hằng.

Cây phong thủy giúp gia chủ hút tài lộc - 1

5. Cây kim tiền

Kim tiền thuộc cây cảnh họ Thiên nam tinh, sống lâu năm, xanh tốt. Thân cây to khỏe, nằm dưới mặt đất. Mầm nảy mạnh và hình thành nhiều thân nhỏ. Lá kép dạng to, cuống ngắn, chắc khỏe, màu xanh lục, sáng bóng rất đẹp, có tuổi thọ khoảng 2 - 3 năm và được thay thế không ngừng. Chính vì vậy, kim tiền được coi là cây “phát” - Kim phát tài.

Cây phong thủy giúp gia chủ hút tài lộc - 2

6. Cây phất dụ

Cây phất dụ còn được gọi là cây phát tài (do cách đọc của người Trung Quốc: phất dụ đồng âm với phát tài), trong phong thủy, đây là loài cây mang lại may mắn cho gia chủ.

7. Cây thường xuân

Là loại cây xanh tốt quanh năm, thường xuân có sức sống rất mãnh liệt, ngay cả trong mùa đông giá rét. Vì vậy, nó được xem là loại cây rất tốt theo phong thủy. Theo quan niệm dân gian, một công dụng khác của dây thường xuân là khả năng trừ tà. Chính vì thế nó cũng là loài cây mang lại bình an, may mắn cho gia chủ.

những loại cây cảnh độc hại những loại cây cảnh để trong nhà những loại cây cảnh trồng trong nước những loại cây cảnh trồng trong nhà những loại cây cảnh quý những loại cây cảnh nên trồng trong nhà những loại cây cảnh không nên trồng trong nhà những loại cây cảnh dễ trồng những loại cây cảnh có giá trị những loại cây cảnh chịu nắng các loại cây cảnh để trong nhà các loại cây cảnh trồng trong nước các loại cây cảnh quý hiếm các loại cây cảnh quý các loại cây cảnh nên trồng trong nhà các loại cây cảnh không nên trồng trong nhà các loại cây cảnh dễ trồng các loại cây cảnh có giá trị các loại cây cảnh chịu nắng tốt các loại cây cảnh chịu nắng

8. Cây trầu bà đế vương

Cây Trầu Bà Đế Vương thể hiện tinh thần đế vương, quyền uy, giúp xua đi tà ma, mang lại may mắn và tài lộc cho gia chủ. Cây trầu bà đế vương có lá tròn, to, mọc hướng lên… phù hợp theo đặc tính dương trong Kinh dịch (dương, hướng lên, động) là loại câycó lợi cho tài lộc khi đặt trong phòng khách.

cây trầu bà đế vương xanh

9. Cây hồng môn, tiểu hồng môn

Cây Hồng môn gồm 3 loại chính: đại hồng môn, trung hồng môn, và tiểu hồng môn. Trong đó Đại hồng môn là hoa màu đỏ đang được ưa chuộng nhất hiện nay. Theo phong thủy, cây Tiểu Hồng Môn mang lại cho gia chủ sự bình an, may mắn. Ngoài ra, cây còn thể hiện sự thương yêu. 

Cây hồng môn, tiểu hồng môn

10. Cây Ngọc Ngân

Ngọc Ngân ngoài ý nghĩa mang tiền tài, may mắn đến cho gia chủ, cây còn có ý nghĩa gắn kết sự yêu thương giữa mọi người trong gia đình. Cây ngọc ngân được ưa chuộng trồng trong phòng khách để mang lại nhiều tài lộc.

Mộc Lan
Theo Trí thức trẻ



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trồng cây gì ở phòng khách để phát tài?

Những ý tưởng trang trí bàn nước cho phòng khách độc đáo

Vẻ đẹp của một căn phòng không chỉ đến từ sự sang trọng của nội thất hay một thiết kế đồng bộ. Đôi khi sự phá cách sẽ làm nên hiệu quả, đặc biệt với phòng khách khi có rất nhiều chi tiết để chủ nhân thỏa sức sáng tạo.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những chiếc lọ thủy tinh sẽ trở nên lung linh trên bàn nước phòng khách nếu được chăm chút.
Bạn có thể tạo nên nét đẹp cho chúng bằng cách trang trí thêm hoa tươi, nến, hạt thủy tinh...

phòng khách 
Chỉ cần những ngọn nến, vài nhánh hoa đặt trong đèn thủy tinh kiểu cổ bày trên bàn nước
là bạn đã tạo được cảm giác nhẹ nhàng, lãng mạn cho phòng khách

phòng khách gần gũi 
Tạo phong cách gần gũi với thiên nhiên cho phòng khách với một chậu hỏa nhỏ trên bàn
nước, những vật dụng làm từ chất liệu tự nhiên như đồ mây tre đan, thảm dệt...

trang trí phòng khách 
Phòng khách có thêm sức sống với một chậu cây xanh nhỏ làm điểm nhấn trên bàn nước

trang trí bàn nước 
Phòng khách trở nên thanh lịch, cổ điển với một chiếc cốc thủy tinh đựng nến đặt trên bàn nước

phòng khách nhỏ 
Với những phòng khách nhỏ, ít bàn ghế hãy dùng một chiếc bàn gỗ cùng với hoa, giỏ mây, đĩa
đựng hoa quả phù hợp trên bàn nước sẽ giúp phòng khách nhìn phong cách hơn

bàn nước phá cách 
Bàn nước này trở nên vô cùng phá cách với một khúc gỗ dài đặt những ngọn nến nhỏ bên trên

phòng khách đẹp 
Phòng khách gợi cảm hứng đại dương nhờ những giỏ mây
đựng đầy vỏ ốc, đá cuội...trên bàn nước

trang trí bàn nước phòng khách 
Nến sáng lung linh và những chậu cây nhỏ xinh trên bàn nước
giúp không gian phòng khách trở nên vô cùng lãng mạn

(Theo Vinanet/Amazing Interior Design)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những ý tưởng trang trí bàn nước cho phòng khách độc đáo

Bí kíp hay cho căn bếp gọn, đẹp

Một căn bếp gọn gàng, sạch sẽ không chỉ giúp chúng ta tiết kiệm thời gian mà còn đem lại cảm giác nhẹ nhàng và thoáng đãng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bếp là nơi lưu trữ rất nhiều món đồ lặt vặt – từ đồ ăn đến đồ dùng. Và đôi khi những món đồ lặt vặt ấy lại trở thành "kẻ xâm lăng" trong gia đình, khiến chúng ta mệt mỏi với những ngăn tủ lộn xộn và chật cứng, rất khó tìm kiếm và sử dụng. Trong bài viết này, mình xin chia sẻ một số giải pháp và kinh nghiệm riêng trong việc tổ chức những ngăn đựng đồ lặt vặt, làm gọn đẹp tủ bếp và thuận tiện khi sử dụng.

 



 

1. Kiểm kê và phân loại

Hãy định kỳ kiểm tra các loại đồ dùng và thực phẩm của bạn. Loại bỏ bớt một số món đã không còn phù hợp hoặc hết hạn sử dụng. Với những món còn dùng được, hãy phân chia nhóm sản phẩm để sắp xếp có hệ thống và tập trung.

2. Phân khu chức năng phù hợp

Sau khi đã phân loại, hãy đưa các nhóm đồ dùng vào các ngăn chức năng phù hợp, ví dụ: thực phẩm khô, đồ ăn vặt, đồ làm bếp, chén bát, thiết bị nhỏ, đồ làm vệ sinh và chất tẩy rửa… Cần đề cao tính thuận tiện khi sắp xếp. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm không gian cũng như thói quen sinh hoạt của từng nhà, tuy nhiên có một nguyên tắc chung là những món thường xuyên sử dụng được tập trung một chỗ, để gần tầm với; những thứ ít sử dụng có thể để xa hơn.



 

 

3. Sử dụng các hộp đựng

Thường thì rất nhiều món lặt vặt mà chúng ta mua về không có hộp đựng: đường, muối, hạt nêm, đậu, mè, bánh kẹo, các thể loại gia vị… Nếu cứ để bao bì thì sẽ rất lộn xộn và khó sử dụng, nên tốt hơn hết là cho vào các loại hộp đựng. Gia vị có chai lọ riêng, phù hợp với chế độ bảo quản cũng như tần suất và cách thức sử dụng của từng loại. Ngũ cốc, bánh kẹo, đồ khô… cũng có thể cho vào hộp với kích thước phù hợp và tương đối đồng nhất để dễ sắp xếp, ưu tiên các loại hộp đựng có nắp đậy kín để tránh kiến, tránh ẩm và có màu trong suốt hoặc trắng mờ để dễ nhìn thấy bên trong. Nhớ là khi loại bỏ các bao bì, hãy ghi lại hạn sử dụng của từng món trên những mẩu sticker nhỏ và dán dưới đáy hộp. Nên dùng loại sticker chuyên dùng cho văn phòng, dính tốt nhưng rất dễ lột ra chứ không bám chết như các loại keo dán mua ở siêu thị.



 

 

4. Dùng các đồ vật giúp tiết kiệm không gian

Những ngăn tủ đóng sẵn với kích thước như nhau có thể hạn chế phương án sắp xếp của chúng ta, do đó hãy sử dụng những đồ dùng giúp tiết kiệm diện tích, tổ chức khu vực nhỏ và tận dụng chiều cao không gian như giá phân tầng, thanh chia ngăn kéo, hộp đựng chia ngăn, các kệ xếp chồng lên nhau, khuôn xếp chén dĩa thành chồng cao mà không bị đổ, khuôn đựng đồ hộp, các đồ đựng chuyên biệt để tiết kiệm không gian tủ lạnh… Trong trường hợp dùng kệ phân tầng, nên sắp xếp hợp lý để dễ lấy. Những đồ ở phía dưới không quá cao và ở phía trên không quá nặng, nếu cần rổ nên dùng loại có tay kéo để rút ra dễ dàng.


 
 

5. Sử dụng những đồ dùng xếp gọn

Đồ đạc của chúng ta không phải lúc nào cũng giữ số lượng cố định mà khi nhiều khi ít, cũng có khi loại bớt kha khá đồ thừa, cũ sau khi kiểm kê nên các loại đồ đạc dùng để chứa nó vô tình lại trở thành vật thừa chiếm diện tích. Tất nhiên, bạn không thể vứt đi khi nó còn tốt và có thể sử dụng cho những lần sau. Một giải pháp là hãy sử dụng những đồ dùng xếp gọn. Rất nhiều thứ ở nhà mình như hộp đựng đồ, kệ phân tầng, bàn ghế nhỏ... đều có thể xếp gọn khi không cần sử dụng để dễ lưu trữ.

 



 

6. Chuẩn bị những bộ đồ ăn đẹp

Bữa ăn gia đình nên là thời gian để thưởng thức, chứ không phải "cố nuốt cho trôi" – nhất là vào những khi rảnh rỗi, dịp cuối tuần hay ngày kỉ niệm. Chất lượng cuộc sống ngày càng cao khiến chúng ta không chỉ cần ăn ngon mà còn muốn tận hưởng trong một không gian đẹp. Một chút trang trí hoa lá thiên nhiên ở góc bếp hay bên bàn ăn sẽ gúp khung cảnh lãng mạn hơn. Chén bát, thìa nĩa là những thứ bình thường phục vụ nhu cầu ăn uống cơ bản, nếu biết chọn lọc thì bữa ăn càng thêm thú vị và tiện lợi.



 


 

Căn bếp gọn đẹp không nhất thiết phải là một căn bếp hiện đại và cầu kì (tất nhiên nếu có điều kiện thì chẳng tội gì lại không đầu tư một cái bếp thật ưng ý). Cái đẹp có thể nằm trong sự đơn giản, không quá tốn kém mà vẫn thể hiện sự tinh tế và khoa học. Ra đường, chúng ta đã phải đối mặt với sự ô nhiễm quá nhiều từ khói bụi, kẹt xe, khí thải, môi trường độc hại… nên đừng để bản thân phải chịu thêm sự "ô nhiễm tầm nhìn" khi trở về mái nhà yêu dấu, mà ở đó bếp là nơi thắp lửa hồng cho tổ ấm.

 

 

(Theo Đẹp)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí kíp hay cho căn bếp gọn, đẹp

3 vị trí phong thủy xấu của khu vực tài lộc

Khu vực tài lộc nằm trong phòng tắm, phòng giặt hay ga-ra để xe đều là những vị trí rất xấu theo phong thủy.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong hai phần trước, chúng ta đã cùng tìm hiểu về cách trang trí tốt cho khu vực tài lộc và những sai lầm cần phải tránh trong khu vực tài lộc. Chắc chắn các bạn đã phần nào hiểu rõ tầm quan trọng của việc áp dụng các giải pháp phong thủy để khắc phục những nhược điểm, làm khu vực tài lộc trong nhà và nơi làm việc của mình tốt đẹp hơn.

Xác định khu vực tại lộc trong nhà hoặc văn phòng làm việc:

Có hai cách để xác định khu vực tài lộc trong nhà và nơi làm việc là theo phong thủy phương Đông hoặc phong thủy phương Tây.

- Theo phong thủy phương Đông, khu vực kết nối với tiền bạc, sự thịnh vượng và dồi dào về tài lộc chính là hướng Đông Nam của ngôi nhà hoặc phòng làm việc. Đây là cách cổ điển, truyền thống để bạn xác định được khu vực tài lộc của mình.

- Theo phong thủy phương Tây, khu vực tài lộc được xác định là vị trí phía trên bên trái của không gian bạn ở hoặc làm việc.

Thực tế, không phải lúc nào khu vực tài lộc cũng nằm ở những vị trí đẹp đẽ trong nhà của bạn. Hãy cùng tìm hiểu một vài trở ngại phố biến đối với vị trí của khu vực tài lộc cũng như các giải pháp phong thủy tốt để khắc phục tình huống này.

1. Khu vực tài lộc nằm trong phòng tắm

Trong số tất cả các vị trí bất lợi nhất có thể xảy ra đối với khu vực tài lộc của bạn thì phòng tắm đứng số 1. Phòng tắm được coi là nơi tiêu cực theo phong thủy, không quan trọng nó nằm trong khu vực bát quái nào.

Bạn đương nhiên không muốn khu vực tài lộc của mình nằm trong căn phòng này, vì rất khó để giữ nguồn năng lượng ở đây được thông suốt, tươi mới và ổn định. Tuy nhiên, khó khăn không đồng nghĩa với điều không thể. Những lời khuyên phong thủy sau đây sẽ giúp bạn giảm thiểu các tác động tiêu cực có thể xảy ra.

Điều đầu tiên cần phải làm khi bạn đối với bất kỳ khu vực phong thủy đầy trở ngại nào đó là giữ cho nó thật sạch sẽ và ngăn nắp. Bởi vì, không bao giờ có thể tạo ra phong thủy tốt nếu khu vực đó luôn bẩn thỉu và bừa bộn, đặc biệt là khu vực tài lộc.

Dưới đây là một vài lời khuyên phong thủy đơn giản mà bạn có thể áp dụng cho khu vực tài lộc thuộc phòng tắm:

 3 vi tri phong thuy xau cua khu vuc tai loc - 1

Nên lựa chọn màu sắc yêu thích nhất của ba yếu tố Mộc, Thủy và Thổ  để sử dụng cho phòng tắm.

- Màu sắc: Sử dụng các màu sắc bạn thích nhất trong số các màu sắc đại diện cho ba yếu tố phong thủy Mộc, Thủy và Thổ. Bạn có thể đưa các lựa chọn màu sắc của mình dùng cho các bức tường, các yếu tố nghệ thuật hoặc với phụ kiện trong phòng tắm.

Cụ thể: Yếu tố Mộc: Màu nâu, xanh lá cây. Yếu tố Thủy: Màu xanh da trời, đen. Yếu tố Thổ: Màu cát, vàng nhạt.

- Cây tre may mắn: Một cây tre 8 đốt được coi là giải pháp phong thủy tuyệt vời cho sự giàu có và dư giả. Vì thế, thử cân nhắc đặt một cây tre may mắn trong phòng tắm nếu phù hợp.

- Đá quý, pha lê: Để một chiếc bát chứa đầy các loại đá quý, pha lê phong thủy trong phòng tắm là một ý tưởng mới cho bạn. Bạn có thể chọn nhiều loại đá quý và pha lê có màu sắc cũng như hình dạng khác nhau, ví dụ như đá thạch anh tím, ngọc bích…

- Hình ảnh: Nên treo các hình ảnh thể hiện sự giàu có. Đó có thể là những bức ảnh đầy màu sắc, một loạt poster nghệ thuật hoặc những bức tranh thiên nhiên tươi đẹp.

 3 vi tri phong thuy xau cua khu vuc tai loc - 2

Những hình ảnh thể hiện sự giàu có, trù phú rất thích hợp trang trí khu vực tài lộc.

- Không khí spa: Cảm hứng spa sang trọng, yên tĩnh cũng rất tốt cho phòng tắm.

- Chú ý sự ngăn nắp: Giữ cho không gian sạch sẽ và gọn gàng. Đảm bảo cho căn phòng có sự lưu thông khí tốt và đủ ánh sáng vì đây là nền tảng của năng lượng tốt.

- Báo động phong thủy: Cuối cùng nhưng không kém quan trọng đó là luôn đậy nắp bồn cầu khi không dùng đến để giảm sự thất thoát năng lượng của sự giàu có qua đường ống thoát nước.

2. Khu vực tài lộc nằm trong ga-ra, phòng giặt hoặc phòng thay đồ

Đây là mối quan tâm tiếp theo với vị trí của khu vực tài lộc. Trong nhiều ngôi nhà, khu vực tài lộc thực sự nằm ở ga-ra, phòng thay đồ hoặc phòng giặt. Một lần nữa, điều đầu tiên phải làm là chỉ cần chăm sóc thật tốt những không gian này bởi vì chúng không được chú ý, ngay cả khi căn phòng đó đẹp và gọn gàng.

 3 vi tri phong thuy xau cua khu vuc tai loc - 3

Muốn có phong thủy tốt thì điều đầu tiên bạn cần phải giữ cho các khu vực đó được sạch sẽ và ngăn nắp.

Sau khi những căn phòng trên được dọn dẹp sạch sẽ và sắp xếp ngăn nắp thì bạn có thể tham khảo 8 lời khuyên phong thủy trang trí nội thất đơn giản và hiệu quả để áp dụng cho chúng.

3. Khu vực phong thủy nằm trong không gian mở

Nếu khu vực tài lộc của bạn nằm trong một căn phòng có quá nhiều cửa, cả cửa sổ và cửa ra vào thì năng lượng rất dễ bị thất thoát. Do đó, bạn cần tập trung vào việc giữ nó lại. Bạn có thể làm điều này bằng cách sắp xếp đồ nội thất, thêm phụ kiện như rèm cửa…

 3 vi tri phong thuy xau cua khu vuc tai loc - 4

Khu vực tài lộc rơi vào căn phòng nhiều cửa sổ thì năng lượng của sự giàu có dễ bị thất thoát. Để kiểm soát điều này, bạn nên treo thêm rèm cửa, bố trí lại đồ nội thất để quản lý dòng chảy của năng lượng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 vị trí phong thủy xấu của khu vực tài lộc

5 kiểu mặt bằng nhà "xin đừng mua" để tránh phạm sát khí

Từ quan điểm phong thủy, tốt nhất là để tránh việc lựa chọn một số bố cụ nền nhà nhất định mang sát khí.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Mặt bằng nhà hình chữ L

Một căn nhà với phong thủy tốt cần vuông vức và hoàn chỉnh với tất cả các phòng chức năng cần thiết. Bố cục nhà hình chữ L, trông tương tự như khẩu súng lục, tạo ra do khuyết thiếu đất, nên cần tránh. Những hình dạng mang tính sát thương không tốt cho vận mệnh của những thành viên trong gia đình.

 5 kieu mat bang nha

2. Nhà vệ sinh ở trung tâm

Nhà vệ sinh là nguồn gây ô nhiễm và năng lượng tiêu cực. Nếu được đặt ở trung tâm của ngôi nhà, nó sẽ ảnh hưởng đến sự may mắn và tài lộc của tất cả những người cư ngụ. Bố cục này được coi là rất xấu và tuyệt đối cần tránh trong phong thủy nhà ở.

 5 kieu mat bang nha

3. Mặt bằng nhà hình tam giác

Trong phong thủy, những góc nhọn hình tam giác trông như đầu mũi tên. Như vậy, với bố cục này, cả ngôi nhà phạm vào "mũi tên độc" trong phong thủy. Nếu mọi người sống trong ngôi nhà như vậy, nó sẽ gây ra sự khó chịu và mang đến vận xấu cho những người sống bên trong.

 5 kieu mat bang nha

4. Mặt bằng hình thù kì dị

Những loại nhà có hình dạng kỳ lạ có khả năng lưu thông khí và thông gió kém. Trong xây dựng, những ngôi nhà như vậy rất khó để không khí tươi mát bên ngoài có thể trao đổi đến tất cả các phòng. Về lâu dài, nó sẽ gây ra các vấn đề sức khỏe cho những người cư ngụ.

 5 kieu mat bang nha

5. Nhà thông gió kém

Đừng chọn những bố trí ngôi nhà có rất ít hoặc thậm chí không có cửa sổ vì nó sẽ ảnh hưởng đến sự lưu thông không khí và tích lũy những không khí độc, vi khuẩn trong nhà. Nó sẽ gây ra các vấn đề liên quan đến sức khỏe và tinh thần.

 5 kieu mat bang nha
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 kiểu mặt bằng nhà "xin đừng mua" để tránh phạm sát khí

Đoán biết tình cảm đối phương qua cách nắm tay –

Để ý chút xíu là bạn sẽ khám phá được tình cảm của đối phương ngay thôi! Trong các lựa chọn dưới đây, bạn và người ấy thường có những cái nắm tay ra sao? Hãy chọn và cùng suy ngẫm nhé! A. Cả hai đan chặt các ngón tay vào nhau. Mối tình thủy chung Hai

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để ý chút xíu là bạn sẽ khám phá được tình cảm của đối phương ngay thôi!

Trong các lựa chọn dưới đây, bạn và người ấy thường có những cái nắm tay ra sao? Hãy chọn và cùng suy ngẫm nhé!

21949783

A. Cả hai đan chặt các ngón tay vào nhau.

Mối tình thủy chung
Hai bạn vừa mới bước vào giai đoạn nồng nàn nhất, mật ngọt nhất trong tình yêu. Cái nắm tay này như một dấu hiệu cậu ấy muốn thông báo cho cả trái đất biết tình yêu sâu sắc của hai bạn. Trải qua giai đoạn cuồng nhiệt này, cậu ấy lại càng thêm gắn bó, thậm chí coi bạn như chỗ dựa tinh thần vững chắc cả lúc vui cũng như khi buồn.

B. Người ấy nắm chặt cả bàn tay của bạn.

Chàng muốn bạn là của riêng mình
Chàng ta vì có phần tự ti vào bản thân mình, thậm chí lúc nào cũng có cảm giác không an toàn vì sợ mất bạn. Điều đó chứng tỏ chàng yêu bạn một cách đắm say nhưng cũng khá ích kỉ vì chỉ muốn bạn là của riêng chàng mà thôi.

C. Nắm chặt tay sau đó dùng ngón tay khẽ chạm vào lòng bàn tay bạn.

Đối phương muốn nhắc khéo về sự quan tâm của bạn
Đối phương rất quan tâm tới việc bạn đối xử với mình thế nào, mong muốn có được sự chú ý đặc biệt từ bạn. Do vậy, cái nắm tay của chàng như lời nhắc khéo về sự tồn tại một tình yêu vô cùng đằm thắm mà chàng dành cho bạn. Đồng thời, hy vọng bạn luôn đáp lại tình cảm đó bằng chính sự chân thành và nhiệt huyết của mình.

D. Móc một ngón tay của chàng vào ngón tay bạn.

Chàng rụt rè, đang “e ấp” một lời tỏ tình
Lúc mới yêu chàng khá rụt rè, không dám tỏ tình bởi chàng ta thuộc tuýp thật thà nhưng cũng khá đáng yêu. Bạn nên kiên nhẫn và “bật đèn xanh” gợi ý, tình yêu chân thành và tuyệt vời sẽ sớm đến với hai bạn mà thôi.

E. Chỉ nắm một ngón tay của bạn.

“Em là tình yêu đích thực của đời anh”
Khi yêu bạn, chàng đã xác định bạn chính là tình yêu đích thực của đời mình. Có lẽ vì một vài vướng mắc trong công việc hay chuyện gia đình khiến chàng chưa thể công khai bày tỏ tình yêu của mình với bạn. Lúc này điều bạn cần làm là phải thật kiên trì và lắng nghe tâm sự của chàng. Sự chia sẻ và gần gũi chính là sợi dây vô hình sớm đưa hai bạn chìm trong mật ngọt tình yêu.

F. Nắm chặt tay bạn đi tung tăng, vung lên vung xuống.

“Với anh, em là tất cả”
Điểm đích cuối cùng mà đối phương muốn dừng lại, không ai khác, đó chính là bạn. Có được tình cảm của bạn rồi, chàng sẽ luôn trân trọng nó và cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Trông chàng lúc này chẳng khác nào một đứa trẻ, vui vẻ, lạc quan và sống hết mình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán biết tình cảm đối phương qua cách nắm tay –

Dùng la bàn phong thủy thế nào cho chính xác? –

Trong phong thuỷ, la bàn chiếm một vị trí rất quan trọng. Dù là hướng đến của long mạch hay là tọa sơn triều hướng của căn nhà đều không thể tách rời khỏi la bàn. Cách thao tác sử dụng la bàn phong thủy rất đơn giản. Nếu muốn biết hướng sinh vượng củ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phong thuỷ, la bàn chiếm một vị trí rất quan trọng. Dù là hướng đến của long mạch hay là tọa sơn triều hướng của căn nhà đều không thể tách rời khỏi la bàn. Cách thao tác sử dụng la bàn phong thủy rất đơn giản.

download

Nếu muốn biết hướng sinh vượng của huyệt hoặc căn nhà nào đó (cát hướng) thì ta đặt la bàn ở vị trí thích hợp của căn nhà đó (đơn trạch vị trí chính giữa giếng trời, lưỡng tiến trở lên vị trí chính giữa sân của cửa chính với cửa thứ hai). Thông thường người ta đặt la bàn trên một chiếc đế trải gạo dầy khoảng ba thốn. Trước khi định hướng phải cất hết vật làm bằng kim loại ra chỗ khác để không làm ảnh hưởng đến sự chính xác của kim nam châm.

Cách xác định hướng cụ thể là để đường kẻ màu đỏ chính giữa (mỗi một la bàn đều lắp thêm hai tuyến kẻ vuông góc) vào một hướng nào đó trong chuẩn giả định rồi chuyển động la bàn để kim nam châm và đáy thiên trì cân bằng. Tiếp đó xem đường kẻ màu đỏ trên bàn tròn chỉ chữ gì. Sau đó căn cứ vào một loạt nguyên lý trên la bàn để suy đoán cát hung của phương vị. Nếu là hung nên tiếp tục điều chỉnh hướng chỉ của đường kẻ màu đỏ cho đến khi tìm được hướng tốt thì dừng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dùng la bàn phong thủy thế nào cho chính xác? –

Xem tuổi xông nhà 2015 cho người sinh năm Đinh Tỵ 1977 –

Xông nhà 2016 gia chủ Đinh Tỵ nên chọn những tuổi nào thì hợp với mình và có lợi cho gia đình làm người xông đất đầu năm mới? 1. Xem tuổi xông nhà năm 2016 cần lưu ý các yếu tố âm dương ngũ hành của năm Bính Thân Lịch âm được phân bổ theo vòng Thập L
Xem tuổi xông nhà 2015 cho người sinh năm Đinh Tỵ 1977 –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xông nhà 2016 gia chủ Đinh Tỵ nên chọn những tuổi nào thì hợp với mình và có lợi cho gia đình làm người xông đất đầu năm mới?

1. Xem tuổi xông nhà năm 2016 cần lưu ý các yếu tố âm dương ngũ hành của năm Bính Thân
Lịch âm được phân bổ theo vòng Thập Lục Hoa Giáp, mỗi giờ, mỗi ngày, mỗi tháng và mỗi năm đều thay đổi theo thứ tự 60 Can Chi trong vòng hoa giáp này. Năm 2016 là năm Bính Thân, mệnh Sơn Hạ Hỏa, tức Lửa Dưới Núi.

Năm Bính Thân: ngũ hành Hỏa
Khắc hàng Can: Nhâm Dần, Nhâm Thìn, Nhâm Tuất
Khắc hàng Chi: Giáp Dần
Năm Bính Thân 2016, các tuổi Nhâm Dần, Nhâm Thìn, Nhâm Tuất và Giáp Dần đều bị xung khắc với Thái Tuế nên khi chọn người xông nhà, gia chủ nên tránh những tuổi này.

20150210161614-7fe7

2. Phân tích các yếu tố về âm dương ngũ hành của gia chủ Đinh Tỵ
Người tuổi Đinh Tỵ có mệnh là Sa trung thổ, nghĩa là Đất giữa cát, thuộc hành Thổ.

Đinh Tỵ khắc hàng Can, hàng Chi: Kỷ Hợi, Quý Hợi, Quý Mùi, Quý Sửu nên các tuổi này cũng không phải là những đối tượng thích hợp để lựa chọn người xông đất.

3. Xem tuổi xông đất tốt nhất cho gia chủ Đinh Tỵ
Khi xem tuổi xông nhà năm 2016, bước đầu tiên là cần chú ý tránh những vị khách có tuổi xung khắc với năm mới, nghĩa là:

Ngũ hành
Thiên can
Địa chi
Cả 3 yếu tố trên, tuổi của người khách không được xung khắc với Thái Tuế của năm 2016 là Bính Thân.

Tương tự đối với chủ nhà, 3 yếu tố trên của người khách cũng không được xung khắc với chủ nhà. Ít nhất các yếu tố trên phải Bình Hòa, tức là không hợp cũng như không xung khắc.

Tiếp theo là ưu tiên những người có nhiều yếu tố hợp nhất, như: tam hợp, lục hợp với tuổi chủ nhà, vận hạn năm nay tốt đẹp, có nhân cách tốt, tính tình vui vẻ hòa hiếu với mọi người.

Sau đây là 5 tuổi xông đất năm 2016 hợp nhất, đã được sắp xếp tốt nhất từ trên xuống thích hợp cho chủ nhà Đinh Tỵ

Hướng xuất hành và giờ hoàng đạo

Người Việt thường chọn ngày mùng một Tết đầu năm để đi xuất hành cầu may. Khi chuẩn bị đi, chọn giờ hoàng đạo phù hợp với khoảng thời gian dự kiến. Nếu cầu tài lộc thì chọn hướng của Tài Thần đang cư trú, nếu nhà năm nay có cưới xin thì chọn Hỷ Thần để cầu phúc cầu cầu may cho đám cưới sắp tới.

Xuất hành theo hướng:

Tây Nam (Tài thần), hoặc
Hướng Tây Bắc (Hỷ thần)
Cần tránh hướng Đông Nam (Hạc thần) vì vị thần này khá xấu.
Nếu bạn xuất hành vào ngày mùng 2 tết thì hướng Tây Nam sẽ cực tốt.

Xuất hành theo các giờ hoàng đạo:

Giờ Tý: từ 23h đến 1h
Giờ Sửu: từ 1h đến 3h
Giờ Thìn: từ 7h đến 9h
Giờ Tỵ: từ 9h đến 11h
Giờ Mùi: từ 13h đến 15h
Giờ Tuất: từ 19h đến 21h
Ngày tốt mở cửa hàng đầu năm Bính Thân 2016
Tuổi Đinh Tỵ nên mở cửa hàng đầu năm vào ngày: 06/01 âm lịch

Nếu trong thực tế bạn không tìm được những người thuộc 5 tuổi trên, có thể sử dụng tiện ích tra cứu trực tuyến của Tử Vi Số Mệnh, đã được sắp xếp các tuổi xông nhà, tuổi xông đất chi tiết theo ngày tháng năm sinh của gia chủ tại đây


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tuổi xông nhà 2015 cho người sinh năm Đinh Tỵ 1977 –

Top 3 con giáp là nam thần ở ngoài đời thực

Dưới đây là top 3 con giáp là nam thần ngoài đời thực, tỉ lệ sinh nam thần, soái ca rất cao. Bạn không phải đi đâu xa để tìm được họ đâu nhé.
Top 3 con giáp là nam thần ở ngoài đời thực

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Nam thần không chỉ xuất hiện ở trong các bộ phim, cuốn truyện, nơi nào đó xa xôi, bởi họ ở ngay bên cạnh bạn đó thôi. Nếu tinh ý, bạn sẽ thấy ngay những con giáp dưới đây hội tủ đủ yếu tố để có thể trở thành nam thần trong mắt mọi người.

Những con giáp soán ngôi "nam thần" trong 12 con giáp:

No3. Người tuổi Ngọ - Bạch mã hoàng tử

Phong thái nho nhã, hào sảng, tiêu diêu tự tại của những anh chàng tuổi Ngọ được ví như một Bạch mã hoàng tử bước ra từ câu chuyện cổ tích.

Khi bên cạnh đàn ông tuổi Ngọ, bạn sẽ có cảm giác an toàn, như được ai đó che chở, bảo vệ. Hơn thế, con giáp này lại rất biết cách chiều chuộng đối phương, hiểu họ nghĩ và muốn gì, rồi tìm mọi cách để biến điều mơ ước ấy trở thành hiện thực.

Người cầm tinh con Ngựa còn có tinh thần trách nhiệm cao, phấn đấu miệt mài cho sự nghiệp, vì người thân yêu, họ sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân để có được cuộc sống giàu sang, phú quý.

Những đặc điểm này chẳng phải của một Bạch mã hoàng tử trong mơ hay hình tượng nam thần, soái ca trong mắt các quý cô sao?

Top 3 chang giap thau tron goi ngoi vi nam than hinh anh
Ảnh minh họa

No2. Người tuổi Thân – Chàng trai mang tới niềm vui


Trong danh sách con giáp là nam thần, không thể không nhắc tới người tuổi Thân. Thông minh, lanh lợi và vô cùng hài hước là những gì mà người ta dễ nhận thấy nhất ở những anh chàng tuổi Thân. Con giáp này thích mang niềm vui tươi, sự lạc quan của mình lan tỏa vào khắp các bầu không khí, nơi mà họ có mặt.

Khi bên cạnh họ, mọi áp lực tinh thần trong cuộc sống bỗng chốc đều tan biến, thay vào đó là tâm tư thư thái, cảm giác yêu đời thiết tha.

Hơn thế, diện mạo chàng trai mang tới niềm vui này cũng khôi ngô, tuấn tú, thoạt nhìn đã có cảm tình, càng nhìn càng dễ si mê, càng tiếp xúc càng dễ “đổ” trước tính cách hài hước và chân thành của họ. Nếu bạn để ý sẽ thấy khá nhiều nam thần đều cầm tinh con Khỉ đó.

Top 3 chang giap thau tron goi ngoi vi nam than hinh anh 2
Ảnh minh họa

No1. Người tuổi Dần – Nguyện là bờ vai vững chắc cho nàng


Mạnh mẽ, oai hùng và luôn muốn giành thế thượng phong là thế, nhưng trong tình yêu, anh chàng tuổi Dần lại dễ dàng bị đối phương cảm hóa, hết mực cưng chiều nửa kia, quên ngay cái tôi cá nhân bướng bỉnh lúc nào không hay.

Dù mới tiếp xúc hay đã là bạn lâu năm của con giáp này, mọi người đều có cảm giác an toàn, như được một cây đại thụ che chở trước mọi nắng mưa giông bão.

Đặc biệt là những cô nàng yếu đuối, bé bỏng, thì người tuổi Dần chính là bờ vai vững chắc mà họ có thể tựa vào bất cứ lúc nào. Nếu cuộc đời này có chàng nam thần này kề bên, quý cô chẳng những cảm thấy hạnh phúc tột cùng mà còn không ngừng tự hào vì điều đó.

Hoàng Lam

  Tử vi tuần mới 4-10/4/2016 của 12 con giáp
– Theo tử vi tuần mới của 12 con giáp, vận thế tuần này của người tuổi Sửu có sự gia tăng bất ngờ. Về tình cảm, nhờ người thân (cha mẹ, anh

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 con giáp là nam thần ở ngoài đời thực

Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Nhâm Tý

Tử vi của người sinh ngày Nhâm Tý đẹp đẽ hanh thông, làm chủ vận mình, tự mình tiến lên.
Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Nhâm Tý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi của người sinh ngày Nhâm Tý đẹp đẽ hanh thông, làm chủ vận mệnh, tự mình tiến lên.


► Xem bói tử vi để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình
 
Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Nham Ty hinh anh
 
Người sinh ngày Nhâm Tý được trời phú cho trí tuệ thông minh, mẫn tiệp, thích các hoạt động quảng giao. Ngày có Thiên Nguyên tọa có Tỷ Kiếp nên cá tính kiên trì, cố chấp.   Người có xu hướng cực đoan, hình thái Tang đố Mộc, tình nhiều duyên nhiều, hỉ sự vây quanh, chuyện tình cảm tốt đẹp bằng phẳng, lấy được người mình yêu. Trụ ngày đối xứng là Đinh Sửu, gặp Mão Mộc thì tốt, hợp nhất là người sinh vào năm Mão.   Xem tử vi mệnh chủ ngày Nhâm Tý là chí âm chí dương, ẩn nhẫn kiên cường. Thủy chủ trí, đại biểu cho ý chí của vạn vật. Người sinh nhu hòa, bình thản, thông minh, suy nghĩ thâm sâu. Đối với việc khó không lui, đối với việc xấu không xúc động, bình tĩnh, tự tin.    Ngày Nhâm Tý có Tý Thủy dương khí thịnh, khí thế đi đầu, không sợ Thất Sát, không sợ tài tinh, dũng mãnh đối đầu. Thủy thế vượng nên không câu nệ lễ tiết, cũng hay nói dối, lươn lẹo. Hơn nữa, Thủy thịnh thì tính háo sắc cuồng dâm, cậy mạnh đoạt yếu.    Cải thiện số mệnh nhờ sử dụng màu sắc chuẩn phong thủy
Mọi người đều tin rằng tính cách ảnh hưởng đến vận mệnh, tuy nhiên một điều mà không phải ai cũng biết, màu sắc quyết định vận mệnh.

Tử vi của người sinh ngày Nhâm Tý
tốt nhất là có Mộc để kiềm chế, Thủy là trí mà Mộc là nhân, tất sẽ tốt đẹp hòa hợp. Thủy nhiều thì tham vọng lớn, vận mệnh Thủy Mộc Thương Quan chăm chỉ, có Thủy Mộc dương hoa thì bị gièm pha, hiềm khích. Trụ ngày Nhâm Tý giống với ngày chủ Bỉ Kiếp tương đồng, thích phô trương khoe mẽ, không có ý thức quản lý tài sản.
 
Tử vi 2016 cho thấy, người sinh vào ngày này nên kết hôn  với những người sinh các ngày: Giáp Thìn, Giáp Thân, Giáp Tuất, Ất Sửu, Ất Tỵ, Ất Dậu, Ất Hợi, Bính Dần, Bính Thìn, Bính Tý, Đinh Sửu, Đinh Mão, Đinh Hợi, Mậu Tý, Mậu Dần, Mậu Thìn, Mậu Ngọ, Kỷ Sửu, Kỷ Mão, Kỷ Tỵ, Kỷ Dậu, Kỷ Hợi, Canh Ngọ, Canh Thìn, Canh Tuất, Tân Hợi, Tân Sửu, Tân Mùi, Tân tỵ, Nhâm Ngọ, Nhâm Tuất, Nhâm Thân, Quý Tỵ, Quý Mùi, Quý Sửu, Quý Dậu.
Trần Hồng

Xem Clip Nhân tâm bủn xỉn, họa đến không ngờ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Nhâm Tý

Quẻ Quan Âm: Bàng Hồng Úy Bao Công

Quẻ Quan Âm thứ 88 Quẻ Quan Âm: Bàng Hồng Úy Bao Công đoán rằng bề ngoài thì có vẻ như nguy hiểm, nhưng kết quả lại rất tốt đẹp.
Quẻ Quan Âm: Bàng Hồng Úy Bao Công

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 88 được xây dựng trên điển cố: Bàng Hồng úy Bao Công hay Bàng Hồng sợ Bao Công.

Thừ quái mộc hổ hữu uy chi tượng. Phàm sự hư kinh thiều thực dã.

Quẻ trung bình thuộc cung Dậu. Giống như chút tuyết bay trên lò lửa, hay làn gió thoảng qua bên tai, tuy có vẻ có chút nguy hiểm nhưng rồi mọi sự lại tiêu tan. Phải nghĩ đến những điều tốt đẹp, tất cả sẽ được giải quyết. Bề ngoài thì có vẻ lo sợ nhưng kết quả lại bình an.

Điển cố quẻ Quan Âm: Bàng Hồng Úy Bao Công

Bàng Hồng là người thời Bắc Tống, năm sinh năm mất không rõ. Con gái của Bàng Hồng là Bàng Đa Hoa được gả vào hoàng thất, được vua Nhân Tông phong làm Quý phi. Từ đó họ Bàng như mặt trời giữa không trung, chiếm đoạt không ít quyền lực. Bàng Hồng và con trai là Bàng Hùng cũng dần dần có dã tâm muốn chiếm đoạt ngôi vua.

Để đoạt lấy thiên hạ, cần phải trừ bỏ những trung thần lương tướng trong triều đinh, nên Địch Thanh đã trở thành cái kim trong mắt, cái gai trong thịt của họ Bàng. Ngay từ khi Địch Thanh vẫn là viên quan nhỏ không quyền lực trong triều, đã dám tố cáo cha con họ Bàng gian dối trong việc đóng muối, từ đó gây nên mối thù không thể hóa giải được với nhà họ Bàng. Bàng Hồng câu kết với các đại thần trong triều, vu cho Địch Thanh mưu phản, lại muốn hại chết Địch Thanh ờ trong ngục. Lúc này Bao Công làm Phủ doãn phủ Khai Phong, ông biết rõ đây là do cha con họ Bàng vu cáo nhằm hãm hại Địch Thanh, vì thế xin với vua Nhân Tông cho được xét xử vụ án.

Được biết hoàng đế cho phép Bao Công xét xử vụ án, Bàng Hồng sợ toát mò hôi, tim gan run rấy.

Bao Công về đến nha môn, xem hết một lượt cáo trạng, lệnh cho Lý Thẩm thị lên công đường. Lý Thẩm thị chưa từng nhìn thấy cảnh tượng này, vừa mới tra hỏi, còn chưa dùng hình, đã vội vàng khai ra hết.

Bao Công thức suốt đêm viết bản tấu, khi trời sáng đã vào triều tấu rõ với hoàng đế rằng: “Tôn Vũ đến quan ải, không kiểm tra kho tàng quân đội, chỉ nói bừa rằng có bao nhiêu bạc bị tham ô; cũng không tra hỏi về quá trình đánh mất áo và giả mạo lập công. Những điều này không có một chút quan hệ nào với nội dung tờ khai của Lý Thẩm thị. Đây là một điều sơ hử. Huống chi Dương Tông Bảo là vị chủ soái nơi biên cương, nắm giữ binh quyền mấy chục năm, là hậu duệ của bậc trung lương, là trụ cột của triều đình, làm sao có thể bao che cho Địch Thanh được? Đó là điều thứ hai. Xem xét tình trạng của người đàn bà này, chắc chắn là có người xúi bẩy. Kẻ này to gan làm điều xằng bậy, mạo phạm đến long nhan, bệ hạ nên truy cứu tìm ra thủ phạm chính, tránh để bậc trung lương của triều đình bị vu cáo hãm hại!” Tống Nhân Tông nghe xong nói: “Việc này quả là trẫm vẫn chưa suy xét kỹ, Bao khanh có biết kẻ chủ mưu ở phía sau là ai không?” Bao Công nghĩ, việc này có đến tám chín phần là do Quốc trượng Bàng Hồng xúi giục. Bàng Hồng là người không ai dám đối đầu, con gái lại là quý phi của hoàng đế, rất được vua sủng ái, giờ vẫn chưa phải là lúc lật đổ được Bàng Hòng. Nhưng nếu không dằn mặt hắn, thì lão gian tặc này lại cười mình vô dụng. Vì thế bèn nói: “Vi thần xem xét những lời cáo trạng, câu nào cũng đầy sát khí, người bình thường chắc không thể hiểu rỗ cục diện trong triều, bởi vậy chắc chắn là đại thần trong triều. Hãy để thần điều tra kỹ lưỡng, quyết không khoan dung, thỉnh cầu bệ hạ ân chuẩn cho vi thần điều tra!”

Bàng Hòng lúc này hai chân bủn rủn, mồ hôi vã ra, chỉ biết ngấm ngầm căm hận miệng lưỡi sắc bén của Bao Hắc Tử đã khơi ra sự việc trước mặt hoàng đế. Tống Nhân Tông lại nói: “Bao khanh, khanh đã biết là do đại thần trong triều thực hiện, vậy có thể biết đó là người nào không?” Bao Công vội nói: “Tờ cáo trạng ấy là do một quan đại thần nhất phẩm thân thích với hoàng thượng viết ra!” Nhân Tông nghe đến đây, trong lòng đã hiểu, thầm nghĩ: Nếu như Bao Chửng nói ra, thì bản thân mình cũng không có cách nào xử lý được, chi bằng sớm kết thúc là hơn. Bèn nói: “Bao khanh, trẫm cho rằng kẻ xúi giục phía sau không phải là then chốt trong vụ án này, không cần phải truy cứu nữa!” Bao Công cũng biết ý của vua Nhân Tông, đành phải thuận theo.

Vì thế vua Nhân Tông tuyên bố Địch Thanh không mưu phản, còn Lý Thẩm thị lại trở thành người thế mạng cho Bàng Hồng, bị áp giải ra pháp trường xử tội.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Bàng Hồng Úy Bao Công

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd