Nhiều người trong chúng ta thường ngồi trong công sở với những lời ca than về công việc, người quản lý, hay nhân viên. Vậy hãy nghe theo những lời răn của nhà Phật dưới đây và xem chúng giúp ích bạn thế nào.
Theo một góc nhìn thú vị trong cuốn sách nổi tiếng thế giới: 'Being Buddha at Work', hiện tồn tại một phong cách lãnh đạo rất được quan tâm và hưởng ứng, theo đó, các CEO (giám đốc điều hành) hay các CSO (Chief Spiritual Officer – giám đốc tinh thần) luôn tâm niệm theo những điều răn của Đức Phật. Họ xây dựng những tổ chức thành công, trường tồn mãi với thời gian nhờ nắm vững những quy luật căn bản của sự lãnh đạo, làm việc nhóm, kết nối, thay đổi, giải quyết mâu thuẫn xung đột và chế ngự sự căng thẳng.
Điều đặc biệt là mục đích của họ không hướng doanh nghiệp của mình trực tiếp vào hai chữ “lợi nhuận”, thay vào đó, họ lại tập trung làm tăng các giá trị tinh thần, lý trí, cảm xúc – và chính những giá trị này sẽ dẫn đến những lợi ích tài chính to lớn về sau. Người công nhân hạnh phúc nhất cũng là người công nhân có năng suất nhất, những người công nhân năng suất sẽ tạo ra nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Phật Tổ đã hy sinh cả cuộc đời mình để chỉ lối cho con người tới với tự do, thoát khỏi khổ ải – trong đó có cả những khó khăn trong công việc. Dưới đây là 5 lời thần chú giúp bạn làm dịu nhẹ những vất vả công sở thường nhật, thêm năng lượng cống hiến nhiều hơn, và tạo nên những ngày làm việc hoàn hảo.
Thần chú thứ nhất: Mỗi ngày đều là ngày vui
Theo sử sách ghi chép, đại sư Yun Men khi ngồi giác ngộ cho những môn đệ của mình đã nói:
“Ta không hỏi về những ngày trước hôm 15 của tháng, hãy kể ta nghe về những ngày sau hôm 15” Không một ai có câu trả lời, và sau đó, đại sư đã tự giải đáp cho tất cả“Mọi ngày đều là ngày vui.”
Quá khứ đã qua rồi và không ai có thể làm gì để thay đổi chúng. Tương tự như vậy, tương lai vẫn còn chưa đến và cũng không ai có thể can thiệp thay đổi. Không ai có thể dự đoán tương lai. Đại sư Yun Men thực chất đang muốn đánh giá liệu chúng ta có đang lo lắng vô ích về thời gian, về quá khứ cũng như tương lai hay không. Mục đích của người chỉ hỏi về hai chữ duy nhất: “Hiện tại”, khoảnh khắc của sự thức tỉnh. Thật vô nghĩa khi phải chia rõ ràng thành ngày, tháng, năm, và sống như thể chúng ta đều đang chạy đua trên một cuốn lịch. Từ góc nhìn của Thiền, chẳng có quá khứ hay tương lai.
Chúng ta không phải những tờ lịch vô tri, chúng ta giống với những chiếc đồng hồ. Chúng ta biết và nắm bắt những khoảnh khắc đang xảy ra. Đôi tay luôn hướng đến “Hiện tại”. Không có những hôm trước ngày 15, cũng chẳng có những ngày sau đó. Chúng ta chỉ tập trung năng lượng sống và làm việc cho chính những giây phút này – và hãy nhớ, mỗi ngày đều là một ngày vui !
Thần chú thứ hai: Không có gì là thiếu, không có gì là thừa
Mọi thứ đều hoàn toàn rộng mở
Không có gì thiếu, cũng chẳng có gì thừa
Nắm giữ hay từ bỏ
Và bạn sẽ đánh mất Chân như
Sư tổ Sengcan đã từng miêu tả về một con đường tuyệt vời, lối đi của những bậc hiền triết, theo đó chính con người chúng ta mới là những người tạo nên những khái niệm như “quá nhiều” hay “quá ít’. Nhưng trong tâm trí Đức Phât, mọi thứ tồn tại với đúng bản chất của nó, không thiếu thốn, không dư thừa. Và vì sự đánh giá là vô nghĩa, sẽ chẳng có những đau khổ gây ra bởi sự so sánh hay phán xét.
Đức Phật có thể quan sát những email, đống giấy tờ bề bộn trên bàn làm việc của bạn, những công việc chất đống trong vali, và người sẽ chỉ nói một câu đơn giản “Cứ vậy đi”. Người không phải chịu những căng thẳng, đau khổ vì trong tâm trí người chẳng hề tồn tại khái niệm về sự quá tải hay quá ít trong khối lượng công việc. Thay vì kêu ca với những đầu việc đang hiện hữu, hãy học cách chấp nhận. Khi không còn phải chịu sự đau khổ bởi những lời ca than do chính mình gây ra, chúng ta sẽ giải phóng năng lượng làm việc, cả thể chất lẫn tinh thần, từ đó, tự do tìm đến với sự thanh thản.
Thần chú thứ 3: Hãy luôn đối tốt với chính mình
Tôi khoẻ mạnh về thể xác
Tôi khoẻ mạnh về tinh thần
Tôi giải thoát khỏi những nỗi sợ hãi
Và tôi tìm thấy bình yên
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đi truyền thụ khắp nơi, lần này qua lần khác, về sự thật giản đơn rằng: Mục đích sống của chúng ta là trở nên hạnh phúc. Nhưng liệu loài người đã thực sự lắng nghe ? Dường như là không, khi chúng ta vẫn luôn quay về những mô thức khiến mình cảm thấy khó chịu, đau khổ.
Ngài đã trải qua vô vàn những khó khăn, vất vả trong cuộc sống, nhưng giống với những người dân Tây Tạng khác, trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ đều mỉm cười bình an. Tại sao ? Bởi vì hạnh phúc thực sự nằm trong chúng ta chứ không phải đến từ những thành công, ban thưởng hay danh vọng từ bên ngoài. Nó xuất phát từ chính sự bình an trong tâm trí, dựa trên niềm tin và những chân giá trị.
Hãy nhớ rằng, những mức lương hấp dẫn, những lời tán dương của mọi người, địa vị cao sang không phải là đích ngắm trong cuộc sống, nếu chỉ dựa vào những "phưong tiện" đó để cảm thấy vui sướng trong phút chốc thì bạn cũng sẽ mau chóng cảm nhận nỗi buồn chán quay về. Hạnh phúc đích thực luôn tồn tại và hiện hữu – ngay trong bản thân mỗi người chúng ta. Hãy đối tốt với chính bản thân mình, tìm thấy chân hạnh phúc và bạn sẽ ngay lập tức lan toả điều đó ra những con người xung quanh
Thần chú thứ 4: Giàu có là một điều tốt
Khi anh ta sử dụng tài sản của mình một cách chính đáng, nhà vua sẽ không chiếm giữ, trộm cướp cũng không lấy mất, lửa không thể thiêu, lũ không thể cuốn, những đứa con cháu không xứng đáng cũng chẳng có lấy một đồng. Tài sản của anh ta, sử dụng hợp lý, luôn dẫn đến những kết quả tốt đẹp, và không bao giờ bị lãng phí.
Phật Tổ không hề chỉ trích việc con người kiếm tiền, hay thậm chí trở nên giàu có. Đoạn kinh trên muốn chỉ ra một điều: Khi những con người chính trực trở nên giàu có, họ chia sẻ cho gia đình, cộng sự, bè bạn - họ cho đi vì những lý do đáng trân trọng, hướng đến sự hạnh phúc chân chính. Viễn cảnh đó, đơn giả là chẳng có gì đáng để chê trách.
Trong cuộc sống bề bộn ngày nay, hãy nhìn về tấm gương của tỷ phú hiền triết Warren Buffett. Tài sản không tốt cũng chẳng xấu, nó luôn mang tính trung gian. Tiền bạc là công cụ chúng ta sử dụng cho những mục đích vị tha và cao thượng, hoặc cũng có thể gây nên xung đột hay huỷ hoại người khác. Sự tốt đẹp luôn song hành cả với giàu có lẫn nghèo khổ. Sự tốt đẹp bắt nguồn từ chính những lựa chọn khôn ngoan.
Thần chú thứ 5: Những rắc rối của người khác chỉ đơn giản là vấn đề của chính họ
Đối xử với mọi người cách mà anh ta đối xử với bạn
Anh ta sẽ bị đào thải và bạn sẽ tự do
Chúng ta dường như đều cùng trải qua một hoàn cảnh giống nhau trong công việc: Cộng tác với những ông sếp tồi hay những đồng sự khó chịu. Thậm chí, có thể bạn đang trải nghiệm điều đó ngay lúc này !
Nhưng hãy nhớ rằng, đó không phải là vấn đề của bạn. Những vấn đề phát sinh từ rắc rối của họ vẫn luôn thuộc về họ. Bạn thực sự chỉ đang cảm nhận và chịu đựng hệ quả từ những rắc rối đó. Còn bản chất, nguồn gốc nảy sinh khó khăn vẫn luôn ở lại với những con người kia.
Theo lời dạy của nhà Phật, hãy tránh khỏi “nghiệp chướng” của những người khác và lo cho chính những hành động của mình. Còn nếu bạn thực sự muốn tham gia bài khảo nghiệm học tập từ những khó khăn – Hãy “yêu mến” những con người đang gặp rắc rối trong công việc. Họ sẽ cho bạn những bài học tuyệt vời mà không ai có thể cho. Một ngày nào đó, bạn có thể sẽ nhìn lại và nhận thấy mình đã thực sự trở nên mạnh mẽ, kiên cường, nhẫn nại, vị tha,….chính nhờ những năm tháng làm việc cùng những con người “khó chịu” như vậy.
Hệ số quan trọng nhất trong lịch pháp phương Đông là hệ số 10 (thập can), hệ số 12 thập nhị chi, hệ số 60 tức lục thập hoa giáp, 6 chu kỳ hàng chi kết hợp với
Theo quy luật, can chi nào là số lẻ là dương, can chi nào là số chẵn là âm. Dương can chỉ kết hợp với dương chi, âm can chỉ kết hợp với âm chi.
Sự kết hợp hàng can với âm dương - ngũ hành và 4 phương
Giáp
dương Mộc
phương Đông
Ất
âm Mộc
phương Đông
Bính
dương Hoả
phương Nam
Đinh
âm Hoả
phươngNam
Mậu
dương Thổ
trung ương
Kỷ
âm Thổ
trung ương
Canh
dương Kim
phương Tây
Tân
âm Kim
phương Tây
Nhâm
dương Thuỷ
phương Bắc
Quý
âm Thuỷ
phương Bắc
Sự kết hợp hàng chi với âm dương - ngũ hành và 4 phương
Hợi
âm Thuỷ
phương Bắc
Tý
dương Thuỷ
phương Bắc
Dần
dương Mộc
phương Đông
Mão
âm Mộc
phương Đông
Ngọ
dương Hoả
phươngNam
Tị
âm Hoả
phươngNam
Thân
dương Kim
phương Tây
Dậu
âm Kim
phương Tây
Sửu
âm Thổ
phân bố đều 4 phương
Thìn
dương Thổ
phân bố đều 4 phương
Mùi
âm Thổ
phân bố đều 4 phương
Tuất
dương Thổ
phân bố đều 4 phương
Bàn về lịch vạn niên
Trả lời 4 câu hỏi ai cũng thắc mắc về tử vi số mệnhHướng dẫn xác định số mệnh có Cát thần Phúc Tinh Quý Nhân tốt lànhXem bát tự hợp hôn chuẩn bị cưới vợ gả chồng3 cách cục tử vi tuyệt đối không nên chọn làm bạn đời
Mỗi vị trí nốt ruồi trên cơ thể mang một ý nghĩa khác nhau có ảnh hưởng tới cuộc đời hay vận mệnh của bạn. Có thể là một điềm báo xấu hoặc tốt đối với vận mệnh của bạn. Mỗi nốt ruồi ở chân mang một ý nghĩa khác nhau, có thể là mang ý nghĩa tốt hay xấ
Theo phong thủy, nhà vệ sinh có vai trò quan trọng, đòi hỏi sự chú ý của gia chủ. Chỉ cần phạm lỗi phong thủy nhà vệ sinh sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, sự nghiệp. Sau đây là một số lỗi sai vị trí nhà vệ sinh thường thấy trong căn nhà Việt.
1. Phòng vệ sinh nằm giữa nhà
Trung tâm của ngôi nhà cũng giống như trái tim của con người, rất quan trọng. Dương trạch kỵ nhất là phòng vệ sinh nằm giữa nhà vì khí ô uế có thể lan tỏa tứ phương. Người sống tại căn nhà này liên tục mắc bệnh, đặc biệt là cao huyết áo, bệnh tim và đường tiêu hóa. Khi phạm lỗi phong thủy nhà vệ sinh này, gia chủ nên treo rèm trước cửa nhà vệ sinh cùng xâu Ngũ Đế, Lục Đế, Thập đế. Ngoài ra, trong nhà vệ sinh nên đặt lọ muối tinh, không cần đậy nắp và giữ gìn vệ sinh thật tốt. Phụ nữ đến kỳ kinh nguyệt có được đi chùa lễ Phật? Về tâm linh, nhiều người cho rằng khi đến ngày kinh nguyệt không được đi chùa lễ Phật. Những làm thế nào nếu muốn lễ chùa đầu xuân mà lại 2. Phòng vệ sinh nằm tại vị trí Văn Xương hoặc Tài vịNếu phòng vệ sinh nằm tại vị trí Văn Xương hay Tài vị, sẽ làm ô uế Văn Xương, gây bất lợi cho tài vận. Điều này khiến cho thành tích học tập của trẻ nhỏ giảm sút, sự nghiệp của gia chủ trắc trở thăng trầm.Để cải thiện lỗi phong thủy này, trước cửa phòng vệ sinh nên treo rèm và xâu Ngũ Đế, Lục Đế, Thập Đế để hóa giải. Bên cạnh đó, nên bố trí vị trí Văn Xương (Văn Xương bản mệnh và Văn Xương lưu niên) và Tài vị khác.
3. Phòng vệ sinh đặt cạnh phòng thờKhu vực thờ cúng là nơi trang nghiêm, thanh tịnh, là nơi tưởng nhớ đến ông bà tổ tiên. Vì thế, khi đặt nhà vệ sinh theo phong thủy, gia chủ cần phải tránh khu vực này bởi nhà vệ sinh là nơi có âm khí và xú khí nặng, dễ khiến "chư thần thoái vị", gia chủ dễ trúng gió, đau lưng, gặp ác mộng.Cách giải quyết tốt nhất khi gặp trường hợp này là thay đổi vị trí nhà vệ sinh hoặc phòng thờ, đồng thời treo xâu Ngũ Đế, Lục Đế, Thập Đế. Chi Nguyễn Xem Clip nhận biết Ý nghĩa thờ cúng tổ tiên Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thiên Nga (##)
Chùa An Xá được xây dựng vào khoảng năm 1900. Di tích chùa An Xá có giá trị lịch sử cực kỳ tiêu biểu trong thời kỳ tiền khởi nghĩa tháng Tám ở Quảng Bình.
Chùa An Xá tọa lạc tại xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Từ Trung tâm huyện Lệ Thủy, đi bằng đường bộ về phía Tây 8 km là đến di tích chùa An Xá. Nếu đi bằng đường thủy, từ bến đò chợ Tréo, xuôi thuyền theo dòng Kiến Giang thơ mộng đi qua một vùng quê được mệnh danh là vựa lúa của tỉnh nhà.
Chùa An Xá là ngôi chùa di tích lịch sử – văn hóa quốc gia nằm ngay bên cạnh nhà Đại tướng tại làng An Xá. Đây là ngôi chùa mà mỗi lần về thăm nhà, thăm quê, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đều dành thời gian tới thăm và dâng hương lễ Phật.
Hội nghị thống nhất Đảng và cử cơ quan lãnh đạo của tỉnh là bước ngoặt lịch sử quan trọng mở ra thời kỳ mới – thời kỳ thống nhất tổ chức, thống nhất lãnh đạo, thống nhất hành động trong toàn tỉnh; tạo ra sức mạnh mới, niềm tin mới cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vượt qua mọi gian nan thử thách, vươn lên cùng toàn Đảng, toàn dân giành thắng lợi quyết định trong giai đoạn cách mạng mới. Điều này ghi nhận vị trí, ý nghĩa tác dụng to lớn của hội nghị cán bộ Đảng tại chùa An Xá.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, di tích chùa An Xá đã bị giặc Pháp đốt phá, vì chúng cho rằng chùa là nơi ẩn náu, tụ họp của cán bộ Việt Minh. Sau kháng chiến chống Pháp, chính quyền địa phương đã có bước tu sửa, tôn tạo bằng công sức tiền của nhân dân địa phương. Thời kỳ chống Mỹ, máy bay giặc đã nhiều lần ném bom, bắn phá chùa, làm cho di tích lịch sử này thành phế tích.
Chùa An Xá đã được các chiến sĩ cộng sản từng hoạt động trên địa bàn về thăm nhiều lần như các đồng chí: Võ Nguyên Giáp, Đoàn Khuê, Trần Hữu Dực và nhiều vị cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước và Quân đội. Được sự quan tâm của Nhà nước và các cấp chính quyền, chùa An Xá đã được trùng tu, tôn tạo và đã phát huy tác dụng. Di tích chùa An Xá là địa chỉ đỏ chứng minh cho bao thế hệ những người con Quảng Bình tìm về để tưởng nhớ, để nhắc nhở động viên nhau phát huy truyền thống cách mạng, quyết tâm xây dựng quê hương “Hai giỏi” ngày càng giàu đẹp.
Danh xưng hình khắc ở đây có nghĩa rất rộng rãi. Nhẹ thì hàm ý rằng khi lấy chồng, vợ chồng sẽ xung đột, gia đạo sóng gió, ít khi có hạnh phúc, nặng thì biểu lộ sự hung hiểm xảy đến cho người chồng công danh sự nghiệp, sức khoẻ hoặc sinh mạng, vợ chồ
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen. Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Tôi nghe thế nầy : một khi Phật ở, trong một Tinh Xá, vườn Cấp-cô- độc, cây của Kỳ-Ðà, cùng các Tăng-già, có trên hai vạn, thêm tám nghìn người , cùng chư Bồ-Tát. Bấy giờ Thế-Tôn, cùng với Ðại chúng, nhân buổi nhàn du đi về phía nam, thấy đống xương khô chất cao như núi Ðức Phật Thế Tôn liền sụp lạy ngay đống xương ấy. Tôi bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, Ngài ở trên ngôi chí Tôn, chí Qúy, Thầy cả ba cõi Cha lành bốn loài thiên thựơng nhân gian thảy đều tôn kính, sao Ngài lại lễ đống xương kia.
Nầy A-Nan ơi! Ngươi tuy xuất gia theo ta tu học, trong bấy nhiêu lâu, những sự thấy nghe đã rộng rãi, đống xương khô ấy hoặc là ông bà, hay là cha mẹ, thân trứơc của ta, ngàn muôn ức kiếp, đời đã cách xa, bởi thế nay ta chí thành kính lễ. Ngươi đem xương nầy chia làm hai phần, một là đàn ông, hai là đàn bà, phân biệt cho ta.
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
ÐÂY LÀ LỜI PHẬT
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen.
Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Lạy Ðức Thế Tôn, công ơn cha mẹ như non như bể, thăm thẳm nghìn trùng, lấy gì báo đáp, cúi xin Ðức Phật dủ lòng thương xót, dạy bảo chúng con.
Nầy A-Nan con, Về ân đức mẹ, trong vòng mười tháng đi lại nặng nề, cưu mang nhọc mệt, khổ không xiết :
Khi vừa một tháng, ở trong thai mẹ, khác gì hạt sương dính trên ngọn cỏ, sớm còn tụ đọng, trưa đã tan, khó lòng giử được.
Khi được hai tháng, ở trong thai mẹ, hình như sữa đặc, đã chắc gì đâu.
Khi được ba tháng, ở trong thai mẹ, ví như cục máu, đông đặc đỏ ngầu, vô tri vô giác.
Khi được bốn tháng, ở trong thai mẹ, mới dạng hình người.
Khi được năm tháng, ở trong thai mẹ,mới đủ năm hình, chân tay đầu tóc.
Khi được sáu tháng, ở trong thai mẹ, sáu căn mới đủ, mắt tay mũi lưỡi thân hình và ý.
Khi được bảy tháng, ở trong thai mẹ, mới sinh đầy đủ, ba trăm sáu mươi những cái đốt xương, cùng là tám vạn, bốn nghìn chân lông.
Khi được tám tháng, ở trong thai mẹ, phủ tạng mới sinh, ý chí mới đủ, chín khiếu mới thông.
Khi được chín tháng, ở trong thai mẹ, mới đủ hình người ngồi trong bụng mẹ, khát uống nguyên khí, không ăn hoa quả, cùng là ngũ cốc, sinh tạng rủ xuống, thực tạng hướng lên, có một dãy núi gồm có ba quả; một là Tu Di hai là núi Nghiệp, ba là núi máu, núi nầy đồng thời hoá ra dòng máu, rót vào trong miệng.
Ở trong thai mẹ, trong vòng mười tháng, trăm phần toàn vẹn, mới đến ngày sinh, nếu là con hiếu, chắp tay thu hình, thuận lối mà ra, không đau lòng mẹ; nếu là con bạc, dẫy giụa bải bơi khiến lòng mẹ, buốt chói từng hồi, như đâm như xỉa, như cấu như cào, như nghìn mũi dao, đâm vào gan ruột, đau đớn vô cùng, nói sao cho siết, sinh được thân nầy, mừng thay vui thay, yêu thay mến thay.
Phật bảo A-Nan : công ơn cha mẹ, gồm có mười điều, phàm kẻ làm con, phải lo báo hiếu .
Những gì là mười điều?
Nhớ ơn mẹ ta, chín tháng mười ngày, cưu mang nặng nhọc.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, đau đớn vô cùng.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sanh lúc nở, quên cả âu lo.
Nhớ lại công ơn, mẹ ăn miếng đắng, lại nhả miếng ngon, dành dụm cho con.
Nhớ lại công ơn, chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo xê con.
Nhớ ơn mẹ ta, ba năm bú mớm, nuôi nấng thuốc thang, trong khi sài đẹn.
Nhớ ơn mẹ ta, giặt diệm hong phơi áo quần dơ dáy, ô uế tanh hôi mẹ đành cam chịu .
Nhớ ơn mẹ ta, khi đi đâu xa, vì thương nhớ con, trong lòng cầy cậy, một phút chẳng ngơi .
Nhớ công ơn mẹ, vì sanh nuôi con, mà mẹ cam lòng tạo bao nhiêu ác nghiệp.
Nhớ công ơn mẹ, lòng rất thương con, trọn đời yêu dấu, không phút nào ngơi.
ÐỆ NHẤT ÂN: CHÍN THÁNG MƯỜI NGÀY CƯU MANG NẶNG NHỌC
Bao kiếp, duyên cùng nợ;
Ngày nay, mới vào thai
Ðầy tháng, sanh ngũ tạng;
Bảy bảy, sáu tinh khai
Thân trọng, như non Thái
Ðộng tĩnh, sợ phong tai
Áo the, đành xốc-xếch,
Gương lược, biếng trang đài.
ÐỆ NHỊ ÂN: KHI GẦN SANH NỞ
Khi gần ngày sanh nở
Nặng nhọc, khổ vô cùng,
Cưu mang, trong mười tháng
Sanh nở, sắp đến ngày
Ðứng ngồi coi nặng nhọc;
Dáng vẻ, tựa ngô ngây,
Sợ hãi lo, cùng lắng;
Tử sanh giờ phút nầy!
ÐỆ TAM ÂN: SANH NỞ
Mẹ ta, khi sanh nở,
Thân thể đều mở toang!
Tâm hồn như mê mẩn,
Máu me chan hòa đầy,
Chờ nghe, thấy con khóc;
Lòng mẹ mừng rỡ thay!
Ðương mừng lại lo đến
Rầu rĩ ruột gan nầy.
Cúi xin chư Phật, soi xét kẻ phàm, phóng Ngọc hào quang, ra tay cứu vớt, làm sao báo được, ân đức mẹ cha .
ÐỆ TỨ ÂN: ĂN ÐẮNG NHẢ NGỌT
Mẹ ta lòng thành thực,
Thương con chẳng chút ngơi
Nhả ngọt nào có tiếc!
Ăn đắng nói cùng ai?
Yêu dấu như vàng ngọc.
Nâng niu tay chẳng rời
Những mong con ấm no;
Mẹ đói rách cũng vui .
ÐỆ NGŨ ÂN: XÊ CON TỰ THẤP
Tự mình nằm chỗ ướt,
Chỗ ráo để xê con,
Hai vú phòng đói khát;
Hai tay ủ gió sương.
Thâu đêm nằm chẳng ngủ;
Nâng niu tựa ngọc vàng
Những mong con vui vẻ;
Lòng mẹ mới được yên.
ÐỆ LỤC ÂN: BÚ MỚM NUÔI NẤNG
Ðức mẹ dày như đất;
Công cha thẳm tựa trời
Chở che coi bình đẳng;
Cha mẹ cũng thế thôi!
Chẳng quản, câm mù, điếc!
Chẳng hiềm, quắt tay chân!
Bởi vì con ruột thịt,
Trọn đời dạ chẳng khuây.
ÐỆ BÁT ÂN: ÐI XA LÒNG MẸ THƯƠNG NHỚ
Từ biệt, lòng khôn nhẫn;
Sanh ly dạ đáng thương;
Con đi đường xa cách
Mẹ ở chốn tha hương,
Ngày đêm thường tưởng nhớ;
Sớm tối vẩn vấn vương
Như vượn thương con đỏ
Khúc khúc đoạn can trường?
ÐỆ CỬU ÂN: VÌ SANH CON MÀ CAM LÒNG TẠO BAO ÁC NGHIỆP
Mẹ trải qua bao nhiêu gian khổ,
Công lao tựa vực trời
Bồng bế cùng nuôi nấng;
Mong sao con ăn chơi
Nhường cơm cùng xẻ áo;
Mẹ đói rách dũng vui!
Khôn lớn tìm đôi lứa
Gây dựng cho nên người
ÐỆ THẬP ÂN: MẸ TRỌN ÐỜI THƯƠNG YÊU CON
Công cha cùng đức mẹ
Cao sâu tựa vưc Trời
Mẹ già, hơn trăm tuổi,
Vẫn thương con tám mươi!
Bao giờ ân oán hết?
Tắt nghỉ cũng chẳng thôi !…
Phật bảo A-Nan: Ta xem chúng sanh, dẫu làm được người lòng còn ngu muội chẳng nghĩ mẹ cha, công đức kể ra, như non như bể, chẳng cung chẳng kính, chẳng hiếu chẳng từ, mẹ mang thai con, trong vòng mười tháng, ngồi đứng không yên, như mang gánh nặng, ăn uống chẳng ngon, như người mang bệnh, ngày tháng thoi đưa, dến khi sanh nở, chịu khổ mọi đường, phút giây hay dở, kinh sợ vô cùng, như giết trâu dê, máu me lai láng, còn nhiều khổ nữa, mới được thân nầy, ăn đắng nuốt cay, nhả bùi nhả ngọt, nâng niu dưỡng dục, giặc giũ dáy dơ, không nề gian khổ, bức bối nồng nàn, rét mướt cơ hàn, lầm than tân khổ, mẹ nằm chỗ ướt, ráo để xê con, ba năm bú mớm, bồng bế nâng niu, dạy bảo đủ điều, lễ nghi phép tắc, cho ăn đi học, tìm đủ mọi nghề, đưa đón đi về, cần lao chăm chú, chẳng kể gì công.
Trái nắng dở Trời tuần trăng cuối gió, bệnh nọ chứng kia, bông hoa sài đẹn, thang thuốc đâu đâu, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi năm canh vò võ, bệnh con có khỏi lòng mẹ mới yên, mong con lớn lên, con thảo con hiền, để mà trông cậy.
Không ngờ ngày nay, hóa con bất hiếu, mẹ già cha yếu, con chẳng đỡ đần, cãi vã song thân, nói năng cắn cẩu, giương đôi mắt chẫu, khinh rẻ mẹ cha, chú bác ông bà, cô dì chẳng nể, anh em cũng kệ, đánh lộn xẩy ra, ô nhục nước nhà, bất trung bất nghĩa, bất hiếu bất lương, phép nước coi thường, mẹ cha cũng kệ, xóm giềng chẳng nể, chửi bới nhau luôn, sớm tối ra vào, chẳng thưa chẳng gởi nói năng càn rỡ, tự ý làm bừa, cha mẹ cũng thừa, thầy trên cũng mặc!
Bé thì ai chấp, người những nâng niu, dần dần khôn lớn, gai ngạnh mọi điều, chẳng hòa chẳng thuận, thường hay sân si bỏ cả bạn lành, giao du bạn ác, tập thói xa hoa, chơi khắp gần xa, thất thường điên đảo, bị kẻ dổ dành, mất cả thân danh, bỏ làng trốn mất, trái ý mẹ cha, ly biệt quê nhà, chẳng nhìn quê quán, hoặc vì buôn bán, hoặc bởi tòng quân, tiêm nhiễm dần dần, trở nên lưu luyến, vợ nọ con kia, chẳng thiết đi về, quê hương bổn quán, ở đất nước người lại hay rong chơi bị người lưà gạt, tai vạ liên miên, pháp luật gia hình, tù loa cấm cố, cực khổ mọi điều, chẳng may yếu đau, chứng kia tật nọ, ở chốn tha hương, ai kẻ thích thân, ai người thang thuốc, mẹ cha cách biệt, thân thích biết đâu, cam chịu ưu sầu, quê người đất khách; khốn khổ gầy còm, không người trông nom, bị khinh rẻ, lang thang đường ngõ, vì thế chết đi; không người mai táng, chương phềnh thối nát, giãi bừa, chó cầy nhai xé!….
Mẹ cha thân thuộc, khi được tin buồn, luống những đau thương, ruột như dao cắt, hai hàng nước mắt, lã chã chứa chan, hoặc vì quá thương, kết thành bệnh khí, hoặc là đến chết, làm quỷ ôm thây, chẳng để cho ai khư khư giữ mãi. Hoặc là vì con, chẳng chăm học tập, chỉ mải rong chơi nay đây mai đó, cùng bạn vô loài làm điều vô ích, giao du trộm cắp, chẳng sợ lệ làng, chè rượu nghênh ngang, đánh cờ đánh bạc, gian tham tội ác, lụy đến tôn thân, nay Sở mai Tần, lên đồn xuống phủ, mẹ cha ủ rũ, khốn khổ vì con.
Nào con có biết, cha mẹ khổ đau, trăm não nghìn sầu, mùa Thu mùa Ðông, rét run bức bối chẳng nhìn sớm tối; ấp lạnh quạt nồng, chẳng viếng chẳng thăm, chẳng hầu chẳng hạ, mẹ cha già cả, hình vóc gầy còm, hổ mặt người con, dầy vò mắng nhiếc, mẹ cha hoặc góa, trơ trọi một mình, luống những buồn tanh, như người ngủ trọ, chiếc gối một phòng, năm canh vò-võ, mùa đông sương gió, rét mướt cơ hàn, trai gái các con, nào ai hỏi đến, đêm ngày thương khóc, tự thán tự thương !
Khi đem thức ăn, dâng lên cha mẹ, thì lại giữ kẽ, rằng ngượng e, sợ kẻ cười chê; ví đem quà bánh, cho vợ cho con, mặt dạn mày dầy, không hề xấu hổ, vợ con dặn bảo, phải đúng như lời cha mẹ hết hơi không hề hối cải .
Ðây là con gái khi chưa gả chồng, hãy còn ở chung, tỏ ra hiếu thảo; khi đã gã bán, về ở nhà người một ngày một lười thiết gì cha mẹ, những ngày giỗ tết, có đảo về qua, ví dù mẹ cha, có gì sơ ý, liền sinh giận dữ, tỏ vẻ oán hờn, chồng chửi nhơn nhơn, đành cam lòng chịu, khác họ khác làng, tình nghĩa keo sơn, hóa ra thâm trọng, mẹ cha máu mủ, thì lại sơ tình. Hoặc đi theo chồng, quê người đất khách, quận nọ tỉnh kia, cha mẹ xa lià. Làng không tưởng nhớ, chẳng viếng chẳng thăm, thư tín cũng không, tuyệt không tin tức, mẹ cha thương nhớ, rầu rĩ ruột gan, luống những bàng hoàng, sớm chiều mong mỏi công đức cha mẹ, vô lượng vô biên, con chẳng hiếu hiền, ở đời cũng lắm.
Khi ấy Ðại chúng, nghe Phật nói ra, công đức cha mẹ, cao tầy non Thái đều cùng đứng dậy, hoặc tự gieo mình, đập đầu lăn khóc, máu me trào trạt, lai láng cả nhà, chết ngất cả ra, hồi lâu mới tỉnh, mà nói lời nầy, khổ thay khổ thay ! đau lòng đứt ruột, lũ con ngày nay, tội ác ngập đầu, xưa có biết đâu, mờ như đêm tối ngày nay biết hối thì sự đã rồi đau đớn lòng tôi trót đà bội bạc, cúi xin chư Phật, soi xét kẻ phàm, phóng Ngọc hào quang, ra tay cứu vớt, làm sao báo được, ân đức mẹ cha .
Phật liền nói ra, đủ đầy tám giọng, bảo Ðại chúng rằng :
Ví có kẻ nào, hai vai kiệu cõng, cha mẹ đi chơi suốt cả mọi nơi trên rừng dưới biển, hai vai nặng trễ, mòn cả đến xương, máu chảy cùng đường, không hề ân hận, cũng chưa báo được công đức mẹ cha, kể trong muôn một.
Ví lại có người. Gặp khi đói kém, cắt hết thịt mình, cung nuôi cha mẹ, khỏi lúc nguy nàn, riêng mình cam chịu, thịt nát xương tan, trăm nghìn muôn kiếp, để báo thâm ân, chẳng được một phần, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, tự tay cầm dao, khoét đôi mắt mình, luyện làm thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, đều tự tay mình, cầm dao khoét ruột, móc lấy tim gan, luyện thành thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì tội mẹ cha, trăm nghìn vòng dao, băm vằm thân thể, thịt nát xương tan, như thế cũng là, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì báo ơn mẹ, lấy mình đốt lên, làm cây đèn thịt, cúng dàng chư Phật, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì bệnh mẹ cha, đập xương lấy tủy, để làm thang thuốc, chữa bệnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì cứu mẹ cha, trải trăm nghìn kiếp, nuốt viên sắt nóng, cháy sém cả mình, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Bấy giờ Ðại chúng, nghe Phật nói rồi trong dạ bồi hồi ruột đau như cắt, hai hành nước mắt, tầm tả như mưa, mà bạch Phật rằng : con muốn đền ơn, công đức mẹ cha, cúi xin Phật đà, rủ lòng chỉ bảo ?
Ðức Phật liền bảo : Cặn kẽ mọi lời này chúng sinh ơi muốn đền ân mẹ, nhất là một lẽ, nên chép Kinh nầy, kính biếu gần xa, cho nhiều người tụng. Hai vì cha mẹ, đọc tụng Kinh này, chuyên cần chớ đoạn. Ba vì cha mẹ, sám hối làm chay. Bốn vì cha mẹ, cúng dường Tam Bảo, tùy sở dùng. Năm vì cha mẹ, trong sáu ngày Trai phải nên nhớ giữ. Sáu vì cha mẹ, thường hay bố thí.
Làm được như thế, thực là con hiếu, cứu được cha mẹ, siêu thăng Cưc Lạc, phúc đẳng Hà sa.
Phật bảo A-Nan, ở trên thế gian, những người bất hiếu, sau hết duyên trần, nguyên cái xác thân, chôn vùi dưới đất : còn phần Linh giác, là cái chân thân, phải vào Ðiạ Ngục, Chính ngục A-Tỳ, vuông rộng tứ vi tám ngàn cây số, bốn mặt có tường sắt, tường đồng, lửa cháy tứ tung, toàn dây thép điện, thường có lửa bén, cháy đỏ hồng hồng, bốc cháy tứ tung, thấy mà kinh sợ; hơn như thế nữa, sấm chớp đùng đùng, chó sắt rắn đồng, phun ra khói lửa, đốt cháy tội nhân.
Lại còn nước đồng đun sôi sùng sục, rót ngay vào miệng những kẻ tội nhân, vì tội bất hiếu, cãi giả mẹ cha, cam chịu cực hình, ở trong ngục ấy, gươm dao sào gậy, đâm chém suốt ngày, như hạt mưa bay, trên không rơi xuống, trải nghìn muôn kiếp, không phút nào nguôi hết hạn ấy rồi lại vào ngục khác; Ðầu đội chậu máu, xe sắt nghiến mình, mình mẩy chân tay, dập dừ tan nát, một ngày phải chết, tới nghìn vạn lần, khổ sở gian truân, vì chứng bất hiếu. Phật lại dạy rằng : ví có Thiện nam hay là Tín nữ, thật là hiếu tử, trả nghĩa mẹ cha, in Kinh nầy ra, biếu cho người tụng, in được một quyển, được một công đức, in được mười quyển, được mười công đức, in được trăm quyển, được trăm đức Phật, in được muôn quyển, được muôn đức Phật, phù hộ độ trì, lại tiếp hồn đi về phương Cực Lạc, đây là lời Phật, chớ có coi thường, Ðiạ ngục vấn vương, khó lòng thoát khỏi !
Bâý giờ A-Nan cùng chư Ðại chúng, Trời Rồng, Thần, Quỉ, Dạ Xoa, La Sát, người cùng phi nhân, được nghe Phật nói đều phát nguyện rằng :
Chúng con tận tâm, chí thành chí kính, dù trăm nghìn kiếp, thịt nát xương tan, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy. Thà rằng lấy kìm, cặp lưỡi rút ra, dài trăm do tuần, cho trâu sắt cày, máu chảy chan hòa, thành sông thành suối con thề chẳng trái lời Phật dạy răn.
Chúng con thề rằng: Thà lấy trăm nghìn vòng dao giáo mác, đâm chém thân này, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Chúng con thề rằng: Thà lấy lưới sắt, quất chặt vào thân trăm nghìn muôn kiếp, chẳng tháo cho ra, cực khổ vô cùng, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy.
Chúng con thề rằng: Thà đâm thà chém, thà mổ thà xả, thà xay thà giã, nhỏ như vi trần, đem cái xác thân nầy, làm nghìn muôn thứ, nào da nào thịt, nào gân nào xương, rơi rác ngoài đường, trong nhà, ngoài ngỏ; trải trăm nghìn kiếp, chịu khổ như thế, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Khi ấy A-Nan, liền bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, đây là kinh gì, lũ chúng con đây đều muốn tụng trì, có được hay chăng. Ðức Phật dạy rằng, chúng con nên biết :
Kinh nầy là Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân chi Kinh, tất cả chúng sinh thảy đều nên tụng. Khi ấy Ðại chúng nghe Phật nói rồi tin, kính phụng lành, lễ tạ mà lui.
Chấm dứt Kinh Phật Nói Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân
Kính lạy Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân kinh.
Kính lạy Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính lạy chư Phật đã đền ân cha mẹ.
Kính lạy Ðức Ma Gia Ðại Thánh Mẫu.
Kính lạy Ngài Quang Mục Ðại Thánh Nữ.
Kính lạy Ngài Diệu Thiện cắt tay cứu Phụ Vương.
Kính lạy Ngài Mục Kiền Liên vào ngục cứu mẫu thân.
Giường ngủ gần cửa sổ Nếu giường ngủ gần cửa sổ thì khí bên ngoài sẽ xung thẳng vào giường ảnh hưởng đến sức khỏe và công việc. Khí đến giường ngủ cần yên tĩnh, kín đáo. Vì thế, gặp truờng hợp trên nên treo rèm trước cửa sổ hoặc đóng lại không sử dụn
Nếu giường ngủ gần cửa sổ thì khí bên ngoài sẽ xung thẳng vào giường ảnh hưởng đến sức khỏe và công việc. Khí đến giường ngủ cần yên tĩnh, kín đáo. Vì thế, gặp truờng hợp trên nên treo rèm trước cửa sổ hoặc đóng lại không sử dụng. Dùng thêm các vật khí lợi cho công danh thi cử như quả cầu, cây tre, trúc, đôi ống sáo…
Giường ngủ hoặc bếp gần nhà vệ sinh
Trong bài trí phong thủy tối kỵ phòng bếp hoặc giường ngủ sát ngay nhà vệ sinh. Uế khí của nhà vệ sinh sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và nguồn tài lộc của gia đình. Gặp trường hợp trên nhất thiết phải di chuyển giường và bếp, hoặc phá nhà vệ sinh đi không dùng nữa. Để khắc phục phải sử dụng các vật khí hỗ trợ sức khỏe như hồ lô, khánh rồng…
Đầu giường không nên để xà ngang ép đình
Đầu giường có xà ngang ép đỉnh gọi là “Huyền trâm sát” sẽ không có lợi cho sức khỏe của gia chủ.
Có ba biện pháp hóa giải như sau:
– Tránh: Đây là biện pháp tốt nhất bằng cách xê dịch đầu giường để tránh xà ngang, làm như vậy đã hóa giải được vị trí không gian ở đầu giường. Ngoài ra, ở đầu giường có thể đặt tủ, giá sách hay giá để dụng cụ, như vậy tránh cho đầu giường không trống trải, hơn nữa có thể tiết kiệm được không gian.
– Che: Nếu diện tích căn phòng nhỏ hẹp hoặc vì nguyên nhân nào khác mà không “tránh” được thì có thể dùng phương pháp che bằng cách dùng tấm trần giả để che xà ngang. Làm như vậy sẽ bớt được áp lực về tâm lý.
– Ngăn: Nếu sử dụng biện pháp che mà gia chủ vẫn không an tâm thì có thể đổi giường thành giường hai tầng, tầng trên để chăn đệm còn tầng dưới để ngủ. Làm như vậy, chăn đệm ở tầng trên sẽ thay thế cho người chịu đựng những thiệt hại do xà ngang ép xuống.
Đầu giường không nên để đối diện với cửa phòng
Xét về phong thủy học, đầu giường đối diện với cửa phòng là không tốt lành, bởi vì hiện tượng này sẽ dẫn tới sự suy sụp về sức khỏe và công danh của gia chủ.
Tuy nhiên, cần phải xem xét thêm là diện tích nhà bạn và bố cục phòng ngủ có thể xoay xở được nhiều không. Vì nếu phòng chỉ rộng khoảng 3m thì giường chắc chắn sẽ “dính” một phần cửa khi mở vào. Còn nếu kê bàn hoặc giường khuất hẳn về một góc phòng thì người bên trong xoay lưng lại cửa dễ bị giật mình khi có người ra vào phòng.
Xét về cân bằng âm dương thì phần đầu giường ngủ mang tính âm (cần yên tĩnh, tối hơn so với cuối chân giường) nên cần đặt trong vùng âm (ít gió và ánh sáng chiếu trực tiếp). Còn phần bên hông và chân giường là vùng đi lại thuộc dương nên có thể gần lối đi, cửa sổ hoặc cửa ra vào. Vì vậy, nếu phòng chật thì chỉ cần cửa mở vào không thẳng ngay đầu giường là ổn.
Trong trường hợp này gia chủ nên xê dịch giường ngủ, không đổ giường ngủ và cửa phòng thành một đường thẳng. Nếu giường ngủ không thể xê dịch được thì hãy xoay lại để ngủ củng là một cách hóa giải.
Đầu giường không nên kê quá sát vào cửa sổ
Luồng khí từ cửa đi mở vào gặp giường gọi là trực xung (có thể kiểm nghiệm điều này bằng cách đóng kín cửa sổ, rồi đóng và mở cửa đi vào phòng, bạn sẽ nghe thấy ngay tiếng kính cửa sổ rung lên rõ rệt do luồng khí chuyển động).
Nếu đầu giường kê quá sát vào cửa sổ thì sẽ không tốt. Không xét về phong thủy học chỉ nói về môi trường sống, đầu giường kê sát vào cửa sổ khi ánh nắng mặt trời chiếu thẳng vào đầu giường, khi trời mưa thì nước mưa thẩm thấu qua cửa sổ sẽ ảnh hưởng đến giấc ngủ của gia chủ. Để đảm bảo sức khỏe và gia cư an toàn, không nên kê đầu giường vào sát cửa sổ.
Đầu giường không nên chiếu thẳng vào gương
Trong phong thủy, gương dùng để ngăn sát, tác dụng phản xạ trở lại sát khí xông thẳng vào cho nên (dù không phải là gương Bát quái hay gương cửa) cũng không nên để chiếu trực tiếp vào giường ngủ.
Nếu để gương chiếu trực tiếp vào đầu giường thường sẽ bị giật mình, ảnh hưởng nghiêm trọng đến giấc ngủ, gây đau tim, tinh thần phân tán. Tốt nhất, nên treo gương ở phía trong cánh tủ quần áo để không làm ảnh hưởng đến sức khỏe.
Đầu giường không nên chiếu thẳng vào bếp đun
Trước phòng ngủ có bếp đun rất không có lọi cho sức khỏe vì lửa bếp cháy rừng rực, khói mỡ khi xào nấu xông vào rất không tốt với sức khỏe của con người, có thể sẽ sinh ra các chứng bệnh đau tim…
Không nên để “lộ không” nơi đầu giường
Đầu giường không nên “lộ không” điều đó có nghĩa là đầu giường không kê sát vào tường, không có chỗ dựa, không có chỗ che chở, vì thế hung nhiều cát ít. Nếu đầu giường không kê sát vào tường được thì cuối giường nên kê sát vào tường, còn nếu không có thể đặt kệ tủ sát đầu giường cạnh vách tường cũng là một cách hóa giải.
Giường ngủ kiêng cầu thang ép đinh
Giường ngủ đặt ở dưới chân cầu thang mặc dù là cầu thang ở bên ngoài phòng cũng không nên. Không xét về phong thủy học, chỉ riêng tiếng bước chân đi lên xuống cầu thang cũng làm cho mất ngủ gây bất an.
Giường ngủ không nên đặt ở trên bếp
Trong phong thủy, xưa nay có câu “nhất vị nhị hướng” nghĩa là vị trí để đặt một không gian cư trú quan trọng hơn cả hướng. Khi đã đúng vị trí thì sẽ xoay xở được về hướng tùy theo khí hậu, mệnh trạch và giao tiếp.
Sở dĩ người xưa truyền lại rằng, phải kiêng kị nằm ngủ trên bếp đơn giản là vì nhà cửa ở nông thôn thuở trước không có tầng lầu kết cấu chủ yếu bằng vật liệu nhẹ như tranh tre nứa lá, nhà xây gạch thì nếu có gác cũng làm bằng gác gỗ, nằm ngủ trên bếp khác gì bếp đun nấu ngay dưới lưng? Mà bếp thuở trước lại dùng bếp lò than củi rất dễ cháy nên ngôi nhà xưa thường phải tách bếp ra khỏi nhà chính là vì vậy, đó cũng là một cách giảm ô nhiễm và phân khu chức năng khá rạch ròi.
Ngày nay, nhà cửa bằng vật liệu kiên cố diện tích đất xây dựng củng eo hẹp hơn ngày xưa nên bếp ở ngay trong ngôi nhà chính, trang thiết bị bếp cũng hiện đại, gọn nhẹ và không còn khói bụi nhiều nữa. Mặt khác, với việc đúc sàn lầu bằng bê tông đã tách biệt hẳn hai không gian trên dưới thì hoàn toàn không thể có chuyện nằm ngủ trên lầu mà tầng dưới là bếp thì sẽ bị hun khói như những đồn đại thuở trước.
Trường hợp nêu trên về phong thủy, cần xét theo hai bước.
Bước thứ nhất: kiểm tra xem bếp đã đặt đúng phương vị chưa, bao gồm xét vị trí của bếp so với toàn nhà, so với không gian của căn phòng chứa bếp, so với bồn rửa chén, tủ lạnh. Rồi xem miệng bếp đó (Tá khẩu, hướng lưng của người nấu) có hướng vào cửa phòng vệ sinh hay đối diện bồn rửa không? Bên dưới cái bếp ấy có hồ nước ngầm hay hầm phân tự hoại không? Có đường nước thoát hoặc nước cấm chạy ngay dưới bếp không? Những vấn đề trên đều liên quan đến Thủy khắc Hỏa để tránh ảnh hưởng ô nhiễm trong quá trình sử dụng bếp.
Tiếp theo bước thứ hai, giả sử bếp đó đã đặt đúng vị trí, không thể xê xích được nữa, ta mới xét tiếp đến phòng ngủ trên lầu. Khi bếp được đặt đúng vị trí, tức là chỗ đặt bếp thuộc về vùng hung của nhà theo phương Bát trạch. Vậy thì chỗ đó không đặt giường ngủ được, vì giường ngủ cần nằm trong vùng cát của nhà.
Như vậy, ta cần xem xét lại cơ cấu phân bố không gian toàn nhà, trong đó có bếp và phòng ngủ.Vì nhà ống chiều ngang hẹp diện tích không nhiều nên khu vực có bếp dưới tầng trệt thường làm phòng ngủ trên lầu là điều dĩ nhiên. Ta có thể linh hoạt bố trí trong phòng ngủ trên lầu này sao cho vị trí giường ngủ không trùng với vị trí bếp nấu bên dưới là được. Ngay chỗ mà bên dưới là bếp thì có thể đặt tủ hay lối đi, các phía khác thuộc về vùng tốt sẽ đặt giường ngủ.
Dĩ nhiên gia chủ cần lưu ý rằng, tất cả những sắp đặt kể trên phải căn cứ theo mối quan hệ tổng thể, cơ cấu bố trí cầu thang, mở cửa ra vào phòng, vị trí phòng vệ sinh (cả trên và dưới) thì mới có thể sắp xếp hợp lý về phong thủy lẫn kiến trúc, tránh tình trạng “giật gấu vá vai”, chỉ xê dịch một cách cục bộ sẽ không có kết quả trọn vẹn.
Giường ngủ không nên đối diện với kệ tủ
Kệ tủ hoặc những cấu trúc có góc cạnh được đặt trong phòng ngủ sẽ sinh ra sát khí. Nếu đặt kệ đối diện trực tiếp với giường ngủ thì mức độ ảnh hưởng càng xấu hơn.
Theo phong thủy, kệ mở, tủ đặt trong phòng ngủ bị xem là một trong những nguyên nhân gây bất hòa và xung đột trong các mối quan hệ tình cảm giữa thành viên sống trong nhà. Nghiêm trọng hon, kệ tủ có thể gây ra những hiểu lầm giữa hai vợ chồng, ảnh hưởng đến việc gìn giữ hạnh phúc lứa đôi.
Giải pháp cho các kệ mở đặt trong phòng ngủ là gắn thêm cửa cho chúng để trở thành tủ có nhiều ngăn. Song gia chủ không được dùng gương hoặc kính làm cửa tủ, bởi nó sẽ tạo thành bề mặt phản chiếu và gây ra những vấn đề nghiêm trọng khác. Nếu không thể làm cửa cho các kệ mở, bạn hãy khắc phục bằng cách dùng màn che (loại màn dày hoặc mỏng đều được).
Cửa tủ có quá nhiều đường nét chạm khắc cũng không tốt. Vì những đường chéo, chữ thập và các góc cạnh dễ sinh ra các tia sát khí hướng về phía người nằm trên giường. Tốt nhất là bạn nên dùng cửa phẳng, có kiểu thiết kế đơn giản và nhớ nội thất có đường nét trang trí hình vòng cung sẽ đem lại hiệu quả tốt về mặt phong thủy.
Bạn có tổng cộng bao nhiêu hoa tay? Tất cả được nằm trên một hay cả hai bàn tay? Hãy xem hoa tay nói gì về cuộc đời của bạn nhé! Việc xem hoa tay, tướng số và đoán được phần nào cuộc sống mỗi con người cũng là điều được khá nhiều người quan tâm. Xem
Bạn có tổng cộng bao nhiêu hoa tay? Tất cả được nằm trên một hay cả hai bàn tay? Hãy xem hoa tay nói gì về cuộc đời của bạn nhé!
Việc xem hoa tay, tướng số và đoán được phần nào cuộc sống mỗi con người cũng là điều được khá nhiều người quan tâm.
Nội dung
1 Xem tướng bằng hoa tay
1.1 Có 1 hoa tay
1.2 Có 2 hoa tay
1.3 Có 3 hoa tay
1.4 Có 4 hoa tay
1.5 Có 5 hoa tay
1.6 Có 6 hoa tay
1.7 Có 7 hoa tay
1.8 Có 8 hoa tay
1.9 Có 9 hoa tay
1.10 Có 10 hoa tay
1.11 Không có hoa tay nào
Xem tướng bằng hoa tay
Có 1 hoa tay
Tay trái: Kiên định, tố chất tâm lí tốt, là người làm việc lớn, nhưng có những lúc rất cố chấp, khăng khăng làm theo ý mình. Bạn dễ gặp phải trở ngại không vượt qua được, nhưng sau khi thất bại, bạn không nản chí mà đứng dậy đi tiếp. Bạn còn là người rất nồng nhiệt trong tình yêu.
Tay phải: Tính cách độc lập, có năng lực lãnh đạo, những lúc cá biệt có thể không từ một thủ đoạn nào, nên bạn nhất định sẽ là người thành công. Rất thu hút người khác giới. Người 1 hoa tay thời vận không được tốt, phải dựa vào tự thân nỗ lực phấn đấu thì mới có được thành tựu.
Có 2 hoa tay
Cùng trên 1 tay: Tính tình ôn hòa, quan hệ xã hội tốt. Đôi khi thiếu tầm nhìn xa. Những lúc khó khăn có quý nhân phù trợ.
Nằm trên cả 2 tay: Tính cách phóng khoáng, thường hiếu kì. Làm việc thường giục tốc bất đạt. Người 2 hoa tay rất có duyên trong mắt người khác giới, nhưng rất khó tìm được người hợp ý với mình. Rất phù hợp với những ngành nghề liên quan đến văn nghệ, biểu diễn.
Có 3 hoa tay
Cùng trên 1 tay: Là người thông minh, chịu khó, đa số là lãnh đạo tầm trung. Là mẫu người của gia đình, luôn đối xử tốt với vợ hoặc chồng, con cái, những người thân của mình.
Nằm trên cả 2 tay: Thuộc về mẫu người có tiềm chất toàn năng, chỉ cần có cơ hội và đủ thời gian là có thể đảm nhận mọi loại công việc. Cảm tính và lí trí đều vừa phải như nhau. Kiểu này rất ít gặp, vận mệnh tốt, là đối tượng hôn nhân lí tưởng.
Có 4 hoa tay
Cùng trên 1 tay: Bên ngoài cởi mở, nội tâm cô đơn. Lấy mình làm trung tâm, là người theo chủ nghĩa toàn mĩ. Trắc trở trong tình yêu.
Nằm trên cả 2 tay (ít gặp): Là người thấu tình đạt lí, có tài, có tướng, rất được những người xung quanh ưa thích. Tình yêu thuận buồm xuôi gió. Phù hợp với những ngành nghề liên quan đến văn tự.
Có 5 hoa tay
Cùng trên 1 tay: Cá tính mạnh mẽ, không bao giờ hài lòng với hiện tại, nên có rất nhiều chuyện không như ý. Hợp tác với những người có 1 hoặc 2, 3, 4 hoa tay mới có thể vạn sự thuận lợi. Trong tình yêu không có yêu cầu cao.
Nằm trên cả 2 tay: Lương thiện, biết nghĩ cho người khác, hiền lành, ngoan ngoãn, sức chịu đựng tốt. Trung niên vận khí đi lên. Có xu hướng thần tượng người mình yêu.
Có 6 hoa tay
Tay trái nhiều hơn tay phải: Có dã tâm, thích nghĩ kì quái. Khi còn nhỏ lận đận, sau thời thanh niên vận khí dần tốt lên. Ở quê nhà phát triển sự nghiệp là tốt nhất. Yêu cầu đối với người khác giới rất mâu thuẫn, vừa thấp nhất, vừa cao nhất.
Tay trái ít hơn tay phải: Thường xử lí theo cảm tính, tự tin và tự ti đều mãnh liệt. Phải nhờ sự giúp đỡ thì bên ngoài mới có thể thành công. Tình yêu bình ổn, hạnh phúc cả đời.
Trái 3 phải 3: Có thể nói là người rộng rãi, thích tưởng tượng, nội tâm lo lắng, thiếu cảm giác an toàn. Trên thực tế, số mệnh người này tốt, chỉ là buồn lo vô cớ. Tình yêu không được như ý.
Có 7 hoa tay
Tay trái nhiều hơn tay phải: Là người sống nội tâm, tính tình hơi khó chịu, luôn kiên trì bền bỉ phấn đấu cho mục tiêu của mình, tương lai công thành danh toại. Nên quan tâm đến người yêu và gia đình nhiều hơn một chút.
Tay trái ít hơn tay phải: Là người mẫn cảm, rất nhiều chuyện có thể rõ như lòng bàn tay, chỉ là không biểu lộ ra. Rất hòa đồng, thân thiện với mọi người. Gặp người khác giới không hợp sẽ lập tức có mâu thuẫn ngay, phải tìm được người tâm đồng ý hợp thì mới bên nhau trọn đời được.
Có 8 hoa tay
Tay trái nhiều hơn tay phải: Nhìn có vẻ như hòa nhã, nhưng kì thực là rất xoi mói, lúc thì vui vẻ lúc thì u buồn. Vận khí giống như chờ đợi thì không đến, trong lúc vô tình lại đến rất nhiều. Tình cảm phong phú, thân thể khỏe mạnh. Trong tình yêu là người mơ mộng không thực tế.
Tay trái ít hơn tay phải: Lòng tự trọng lớn, có chí khí. Vận khí luôn luôn không tốt bằng những người xung quanh, nhưng chỉ cần nỗ lực, thành thích của bạn sẽ vượt qua những người có vận khí tốt hơn mình rất nhiều. Rất cố chấp và bảo thủ trong tình yêu.
Trái 4 phải 4: Lương thiện, trước thời trung niên vận khí không tốt, cần phải có sự giúp đỡ của người khác một hoa tay mới có thể biến vận xui thành vận may. Trong tình yêu thì tưởng tượng nhiều hơn là thực hiện.
Có 9 hoa tay
Tay trái nhiều hơn tay phải: Nhiệt tình, tích cực, có khả năng lí giải siêu cường, giỏi về ứng biến, có năng lực tổ chức hoạt động. Không thích chạy theo người khác, thích người khác theo mình. Tay trái ít hơn tay phải: Lí tưởng rộng lớn, luôn đi trước thời đại. Nên chọn người này làm người yêu.
Có 10 hoa tay
Lương thiện, cố chấp, bên ngoài kiên cường, bên trong yếu đuối. Đa số là có được thành tích trong nghệ thuật. Từ trung niên trở đi vận khí bắt đầu đi lên cho đến già. Dày tình mỏng mệnh, là người si tình.
Không có hoa tay nào
Thẳng thắn, lương thiện, vùi đầu trong công việc, làm việc đến nơi đến chốn, là người hơi thô kệch. Vận khí vào thời trung niên là tốt nhất. Yêu ai thì rất yêu, hận cũng rất hận.
Duyên phận của người 10 hoa tay và người không có hoa tay giống như được trời định. Họ phải chịu mấy đời gặp trắc trở không thể gần nhau mới có thể đổi lấy một đời ở bên nhau. Theo phân tích của khoa học: Tính cách của người 10 hoa tay và người không hoa tay là bổ khuyết cho nhau, một người cương một người nhu, một người chủ động một người bị động, ở với nhau là thập toàn thập mĩ.
Do tính cách của hai loại người này đều có chút cực đoan, vì thế nếu không ghép đôi với nhau thì sẽ chìm trong vòng luẩn quẩn của đau khổ. Nhưng một khi hai người ở bên nhau thì có thể nói là một sự tổ hợp làm thay đổi thế giới.
Sống an nhiên tự tại theo lời Phật dạy sẽ giúp con người thư thái và lành mạnh hơn. Dưới đây là 12 cách tạo nghiệp lành để sống tốt theo quan niệm nhà Phật.
► Mời các bạn đọc những câu nói hay về cuộc sống và suy ngẫm
1. Lấy từ bi làm tôn giáo của mình
Tạo nghiệp tốt không nhất thiết phải theo tôn giáo, mà con người chỉ cần thể hiện thái độ tử tế ân cần với người khác như một lẽ tự nhiên để sống an nhiên tự tại. Đức Đạt Lai Lạt Ma thường nhắc nhở: “Tôn giáo của tôi là lòng từ bi”. Không phải chỉ tử tế với người khác trong chốc lát mà phải luôn luôn, suốt cuộc đời của mình, trong mọi phương diện của đời sống, trong mọi mối liên hệ, trong mỗi công việc làm, trong tất cả những giao tiếp.
2. Trì chú
Trì chú là việc làm cơ bản và dễ nhất cho hành giả tu theo Mật tông để bắt đầu đi trên con đường mở ra những chân trời mới cho tâm trí. Đây là cách thức mạnh nhất để thanh lọc ác nghiệp mà chúng ta đã mang tới trong thế gian này với mình từ quá khứ. Luôn luôn trì chú với ý tưởng mang lợi ích đến cho người khác sẽ cảm thấy mình trở nên khoan dung hơn, bớt bối rối và bình tĩnh hơn.
3. Niệm Phật
Một cách thức mạnh mẽ để giải trừ những ác nghiệp là niệm danh hiệu Phật và lễ Phật sám hối. Trong khi niệm Phật con người phát khởi ý nghĩ sám hối về những nghiệp xấu đã tạo ra trong những kiếp trước và ngay trong kiếp sống này.
4. Thực hành thiền quán
Tham thiền là quá trình tập trung và thâm nhập, nhờ đó mà tâm được an tĩnh và nhất tâm bất loạn rồi đi đến giác ngộ. Khi quán tưởng như vậy, người ta nhẹ nhàng suy ngẫm về mọi sự trên đời, rũ bỏ tà niệm, hiểu thấu được sự quý giá của cuộc sống thì mới có thể sống an nhiên được.
5. Nhường đường khi lái xe
Chúng ta cũng có thể nhường đường cho người khác ngay cả khi mình có quyền ưu tiên. Khi không xem con đường là nơi tranh chấp giữa mình và những người lái xe khác, việc lưu thông sẽ thú vị hơn nhiều. Mỗi lần nhường đường cho người khác, tức là kiềm chế tính dễ nổi nóng và đây cũng là một cách để tạo nghiệp tốt.
6. Dành phần thắng cho người khác và chấp nhận thua thiệt
Khi nhường nhịn người khác, chúng ta nhiếp phục được sự tự ái của mình, và không thể để cho tự ngã của mình nghĩ đến những điều vị kỷ. Khi chấp nhận thua thiệt, sẽ là cơ hội cho ta diệt trừ tính kiêu ngạo. Đây là cách tạo nghiệp lành đặc biệt hữu dụng trong đối nhân xử thế. ST
Tốt xấu theo hướng khí hậu Ví dụ như hướng nam và lân cận nam (đông nam và tây nam) là những hướng tốt đối với điều kiện khí hậu Việt Nam, bởi đón được gió mát và nguồn ánh sáng ổn định, không khí ấm áp. Trong khi đó, các hướng tây, tây bắc thì gặp nắng gắt vào buổi chiều; hướng đông thì chói vào buổi sáng và chịu thêm gió lạnh từ hướng đông bắc. Hướng bắc nằm giữa hai hướng tây bắc (nắng chiều) và đông bắc (gió lạnh) nên cũng không tốt lắm. Bởi thế, “làm nhà hướng nam” là một trong những kinh nghiệm xây dựng dân gian để đón được gió mát, tránh được gió lạnh.
Ngoài việc ứng phó với môi trường thiên nhiên, con người cũng phải ứng xử với môi trường xã hội. Vì thế, nhà cần quay mặt (hoặc cửa, lối vào một không gian nào đó) ra những vị trí thuận lợi cho việc giao tiếp.Cha ông ta dạy nhất cận thị – nhị cận giang – tam cận lộ là nói lên những lợi điểm khi mua đất cất nhà, từ xưa đến nay vẫn không khác nhau bao nhiêu khi xét giá trị một bất động sản.Như vậy, khi xem xét một ngôi nhà có hợp hướng hay không, ta phải xem xét trên cơ sở phân tích và tổng hợp cả bốn loại hướng, chứ không đơn giản là “nghe thầy nói hợp hướng đông bắc“ thì cố tìm bằng được nhà hướng đông bắc, xem nhẹ các yếu tố khí hậu, giao tiếp và phương vị.Cần phân tích trước tiên xem bốn loại hướng trên tốt xấu bao nhiêu phần, khả năng khắc phục nhiều hay ít, có ảnh hưởng gì đến môi trường, con người, kết cấu xây dựng hay không.
Tốt xấu theo hướng phương vị
Là hướng của một vùng, một vật (hay người) ta xét so với một điểm gốc nào đó.Ví dụ nói “trước mặt thoáng đãng, sau lưng có chỗ dựa, tả long hữu hổ“ là ý nói đến hướng xung quanh của một chủ thể ta xét.Khi chủ thể di chuyển, thay đổi, quay về đâu thì trước sau phải trái thay đổi theo.Cùng một dãy nhà (tức là nhìn ra cùng một hướng) và cùng buôn bán giống nhau, nhưng có nhà thuận lợi có nhà khó khăn là vì mỗi nhà bên trong và bên ngoài, trước sau phải trái có phương vị khác nhau.
Tốt xấu theo hướng mệnh trạch
Có thể tham khảo các sách về Dịch học và văn hóa truyền thống phương Đông để dễ dàng tìm ta cung mệnh của mỗi người tương ứng với các phương hướng cát hung.Dịch học phương Đông quy định có 8 mệnh cung tương ứng với 8 hướng trong tự nhiên theo 8 quẻ của bát quái, phân thành hai nhóm là nhóm đông tứ mệnh và tây tứ mệnh.Nguyên tắc chung là người theo nhóm Đông tứ mệnh thì ở nhà Đông tứ trạch, người theo nhóm Tây tứ mệnh ở nhà Tây tứ trạch. Khi đi sâu vào từng hướng cụ thể, sẽ có thêm các phân tích ngũ hành sinh khắc để xác định hướng hợp và không hợp.
Hướng cổng nhà theo tuổi đúng phong thủy
Có nhiều người quan niệm chỉ cần chọn hướng nhà còn hướng cửa thì không quan trọng. Đây là quan niệm không đúng. Bởi vì trong phong thủy mỗi chi tiết của ngôi nhà đều mang một yếu tố riêng của nó.
Cách bố trí cổng của ngôi nhà cũng rất quan trọng vì nó giúp che chắn bảo vệ ngôi nhà với các trường khí xấu bên ngoài. Hướng cổng cũng cần bố trí đúng hướng của gia chủ. Việc bố trí cổng tránh ngã ba đường, tránh dẫn lỗi trục xung với cửa chính.
Dưới đây là một số hướng cổng tốt theo phong thủy học:
1. Cổng vào trong các hướng Tý, Dậu, Mão, Tân, Sửu. áp dựng với Nhà hướng Tý 2. Nhà hướng Quý: cổng vào trong các hướng Quý, Ất, Tân, Càng, Cấn. 3. Nhà hướng Sửu: cổng vào trong các hướng Sửu, Tuất, Thìn, Tị, Hợi. 4. Nhà hướng Cấn: cổng vào trong các hướng Cấn, Càn, Tốn, Nhâm, Tuất. 5. Nhà hướng Dần: cổng vào trong các hướng Dần, Hợi, Tý, Tị, Mão. 6. Nhà hướng Giáp: cổng vào trong các hướng Giáp, Nhâm, Bính, Quý, Ất. 7. Nhà hướng Mão: cổng vào trong các hướng Mão, Tí, Ngọ, Sửu, Thìn. 8. Nhà hướng Ất: cổng vào trong các hướng Ất, Quý, Cấn, Đinh, Tốn. 9. Nhà hướng Thìn: cổng vào trong các hướng Thìn, Sửu, Mùi, Dần, Tị. 10. Nhà hướng Tốn: cổng vào trong các hướng Tốn, Cấn, Khôn, Thân, Bính. 11. Nhà hướng Tỵ: cổng vào trong các hướng Tỵ, Dần, Thân, Dậu, Tý. 12. Nhà hướng Bính: cổng vào trong các hướng Bính, Giáp, Ất, Canh, Tỵ. 13. Nhà hướng Ngọ: cổng vào trong các hướng Mão, Thìn, Ngọ, Dậu, Bính. 14. Nhà hướng Đinh: cổng vào trong các hướng Ất, Bính, Đinh, Tân, Tốn. 15. Nhà hướng Mùi: cổng vào trong các hướng Mùi, Tị, Thìn, Tuất. 16. Nhà hướng Khôn: cổng vào trong các hướng Khôn, Tốn, Càn, Bính, Canh. 17. Nhà hướng Thân: cổng vào trong các hướng Thân, Tị, Hợi, Ngọ, Dậu. 18. Nhà hướng Canh: cổng vào trong các hướng Canh, Bính, Đinh, Nhâm, Tốn. 19. Nhà hướng Dậu: cổng vào trong các hướng Dậu, Ngọ, Đinh, Mùi, Canh. 20. Nhà hướng Tân: cổng vào trong các hướng Canh, Tân, Quý, Dậu. 21. Nhà hướng Tuất: cổng vào trong các hướng Sửu, Mùi, Tuất, Hợi, Thân. 22. Nhà hướng Càn: cổng vào trong các hướng Càn, Khôn, Cấn, Canh, Nhâm. 23. Nhà hướng Hợi: cổng vào trong các hướng Hợi, Thân, Dần, Dậu, Càn. 24. Nhà hướng Nhâm: cổng vào trong các hướng Nhâm, Giáp, Canh, Tân, Quý.
- Hỏi: Tôi xin gởi kèm theo đây lá số của vợ tôi để xin ông vui long xem giúp 1 điểm duy nhất: tại sao số vợ tôi không thấy có yếu tố gì đa tình mà vẫn phản bội? Tôi biết chắc ngày giờ sinh của vợ tôi rất chÍnh xác vì những điểm khác đều ứng nghiệm, nhưng mỗi điểm trên tôi không tài nào tìm hiểu nổi, mặc dù tôi cũng đã nghiên cứu tử vi khá vững vảng. Nếu ông có thể chứng minh được xin ông cho tôi biết sớm bằng thư riêng hoặc trên KHHB cũng được, miễn là ông đừng nêu rõ danh tánh của tôi cũng như ngày giờ sinh của vợ tôi.
- Đáp: ông đã nhận xét rất đúng khi cho rằng lá số của vợ ông không có yếu tố gì chứng tỏ bà nhà thiếu đứng đắn. Thực thế, mạng có Thiên Tướng mà lại không có sao gì đa tình tọa thủ (như Đào, Hồng, Riêu, Hỉ…) và "Thân" (vì bà nhà đã trên 30 nên tôi phải xét đến Thân nữa) cư Thiên Di lại hội toàn sao lạnh lùng, cô đơn như Cô Quả, Đẩu Quân, Vũ khúc, Lộc Tồn thì còn ai dám quyết đoán là đa tình. Thậm chí cung Nô Bộc cũng chẳng có sao gì chứng tỏ đương số giao du với những người ăn chơi, trụy lạc vì chỉ có Thất Sát hội Tả Hữu, Tang Hổ, Khốc Hư….
Quả thực lá số của bà nhà rất khó xem vì phải xét đến khía cạnh tâm lý trên các cung số nhiều hơn. Nếu ông để ý tới cung Phu (tức là liên quan đến chính ông), cung Tài, Quan và Di thì ông sẽ vỡ lẽ ra liền. Bây giờ xin ông cùng tôi phân tích từng cung: cung Phu có tử vi, Tham Lang hội Song Hao, Đào Hồng (Đào ở Quan, Hồng ở Phúc) chủ về chồng (tức là ông) có tay làm ra tiển nhiều, có môi trường dễ ăn chơi, rồi lại được nhiều phụ nữ thương yêu (nhờ Tham Lang hội Đào Hồng). Đó là lý do khiến bà bất mãn về ông. Cung Tài Bạch có Xương Khúc Khôi Việt Đào Hồng chứng tỏ đương số có tâm hồn nghệ sĩ, chứ không ham bon chen trên con đường danh lợi, chỉ thích giao thiệp rộng hoặc vui chơi (như lui tới phòng trà, ca nhạc, cờ bạc) để phù hợp với Thân cư Di có Vũ Phá (2 sao này chủ về sự phóng khoáng, không chịu gò bó, quy tắc…) và cung Quan có Đào Hoa chủ về sự hoạt động ngoài xã hội sớm nếu không xuất than đi làm việc ăn lương sớm khi cung Phu thừa khả năng nuôi dưỡng vợ. Đó là lý do làm cho bà không thể giữ lòng trung thành với ông. Ngoài ra cung Thân và cung Phúc lại còn chứng tỏ bà nhà luôn cảm thấy mình cô đơn, cần tìm 1 nguồn an ủi nơi người đàn ông khác khi chồng mình luôn theo phụ nữ bên ngoài. Với những lý do nêu trên, ông thấy rằng bà không trung thành với ông thực ra chỉ vì vấn đề tâm lý, vì hoàn cảnh trái ngược với chí hướng, ý nguyện của mình chứ không phải do bản chất đa tình, lường gạt chồng của bà. Theo tôi, chính ông đã đưa bà đến môi trường thiếu đứng đắn vì nếu ông không ăn chơi thì chắc chắn bà nhà không bao giờ dám hướng lòng mình về người khác vì dù sao Thiên Tướng thủ mạng cũng giữ được tư cách hiên ngang của mình, ngay cả ở trong hoàn cảnh ăn chơi bừa bãi nữa. Rất mong lời nói thật không làm mất lòng ông.
2. ĐÀ LA GẶP BẠCH HỔ LÀ CÁCH GÌ?
- HỎI: Có 1 vài thầy Tử vi coi lá sốcủa tôi cứ khen tôi được cách Đà La gặp Bạch HỔ mà dẹp bỏ tất cả các cách khác tại mệnh của tôi. Vậy xin ông cho biết cách đó có tốt thật không mà sao tôi không thấy sách nào đề cập tới? Tôi xin ông thứ lỗi đã không gởi lá số của tôi vì tôi biết ông không nhận giải đoán dùm độc giả KHHB mà chỉ trả lời về 1 điểm có lợi ích chung mà thôi.
- Đáp: Xin cám ơn ông thông cảm đường lối của tôi và nay xin trả lời về điểm ông nêu ra, chứ không đề cập đến cá nhân ông qua tử vi. Thú thực với ông là phú tử vi hoặc các cách về tử vi nhiều vô kể, không ai dám tự hào biết được hết, người biết được 1 số câu hóc búa này, kẻ nhớ được 1 số câu lạ lùng kia. Riêng về cách Đà La gặp Bạch Hổ thì tôi được biết các cụ Tử vi khi xưa thường hay nói tới: "HỔ TÒNG PHONG VI LINH VẬT" và khen cách này hay lắm. Hổ tức là Bạch Hổ, phong tức là Đà La. Cách này giúp cho ta trởi thành người độc đáo khác thường nhưng với điều kiện không gặp những cách "hiền" khác thì mới đáng gọi là "linh vật". Cũng như cách Thiên Hình gặp Bạch Hổ cũng phải độc thủ mới hữu hiệu, nếu có các cách khác như Cơ Lương, Thai Tọa, Khôi Việt… cùng hiện diện thì đương nhiên hết linh. Nhưng thường thường cách độc đáo như trên chỉ phát được 1 thời gian, không khác gì hung tinh Không Kiếp đắc địa hoạnh phát hoạnh phá, nhưng khi đã bắt đầu phát thì không có chướng ngại gì cản trở nổi. Vậy khi xem ai có cách như trên, không thể hồ đồ quyết đoán luôn là hay được vì còn phải xét xem có cách nào chế hóa đi không, cũng như bùa càng linh nghiệm càng khó tôn trọng, khó giữ gìn. Sau hết xin ông theo dõi loạt bài về "Tìm hiểu phú tử vi" trên KHHB do tôi phụ trách nếu ông tò mò các câu phú lạ.
3. THAM LANG NGỘ BẠCH HỔ NHƯ THẾ NÀO MỚI TỐT?
- HỎI: Tôi và 1 người bạn cùng đi xem tử vi. Tôi có Tham Lang đồng cung với Bạch Hổ bị thầy tử vi chê quá xá trong khi bạn tôi cũng có Tham Lang hội Bạch Hổ (chứ không đồng cung) lại được thầy khen hết lời. Ông thầy không chịu giải thÍch, có lẽ vì muốn dấu nghề, nên tôi xin ông chỉ dẫn cho nếu có thể. Tôi xin đính kèm 2 lá số để ông tiện nghiên cứu và trả lời
- Đáp: trước hết tôi cần nói với ông rằng trong khi thầy tử vi đó không chịu giải thích mà tôi lại trả lời ông thì hơi thiếu tế nhị, nhưng vì tôi luôn luôn chủ trương đóng góp thành thực và tối đa vào lĩnh vực tử vi nên tôi chẳng ngại gì, dù có bị chê là thiếu tế nhị. Tôi chỉ tiếc mình không biết nhiều để cống hiến độc giả KHHB mà thôi. Nay xin trả lời câu hỏi của ông.
Nếu ông có học Tử vi chắc ông biết rằng Tham Lang, Bạch Hổ đều là các con thú (Lang là con beo, Hổ là con cọp), cho nên khi nhốt chúng chung 1 chuồng (tức là đồng cung) thì thế nào cũng có lúc chúng cắn xé nhau, tức là cuộc đời mình xáo trộn, dù cho con nào được hay thua cũng vậy. Tuy nhiên cũng cần để ý đến ngũ hành của mình vì nếu mình hành Kim thì Bạch Hổ thuộc phe ta, và nếu mình hành Mộc thì Tham Lang thuộc phe mình (cũng có nhà Tử vi cho Tham Lang thuộc hành Thủy). Do đó khi ph eta thắng bao giờ cũng lợi hơn, còn phe địch thắng tuy không nguy khốn nhưng ta phải chịu đựng môi trường trái ngược, bất mãn. Muốn biết con thú nào thắng, ta cần phải kết hợp với các yếu tố khác, ví dụ Tham Lang có đủ cả bộ SPLT thì sẽ mạnh hơn Bạch Hổ có đủ cả Long Phượng, Hoa Cái (cách tứ linh) sẽ thắng Tham Lang dễ dàng nến Tham Lang cô đơn. Sau nữa cần phải xét đến ngũ hành của cung xem sinh sao nÀO thì sao đó mạnh, đồng thời lại phải đếm xem trong cung có nhiều sao Kim hoặc nhiều sao Mộc, sao kim nhiều thì lợi cho Bạch Hổ, sao Mộc nhiều thì lợi cho Tham Lang. Nhưng nói tóm lại, bao giờ Tham Lang đồng cung với Bạch Hổ cũng bất lợi mà ông lại ở trong trường hợp này cho nên thầy chê là đúng
Còn bạn ông thì trái lại được khen nhiều cũng là đáng, vì Tham Lang không đồng cung với Bạch Hổ và ở ngoài chiếu về Mệnh mà lại còn thêm Phi Liêm tức là 2 con thú ấy có cánh, di chuyển mau lẹ mỗi khi cần đến không khác gì chàng Tarzan mỗi khi hú gọi các thú vật, chúng ùa đến cứu giúp liền. Hai con thú ấy nếu không cùng 1 chuồng chúng sẽ không cắn xé nhau mà lại trở thành bạn với nhau. Do đó ông bạn ông có cuộc sống suông xẻ hơn và có hậu thuẫn vững vàng và hữu hiệu, nhất là trong lĩnh vực chÍnh trị. Không những thế, bạn ông còn được cả Hoa Cái, Thanh Long đều tượng trưng cho thú vật cả, như thế coi như hội đủ tất cả các con thú trong tử vi tại mệnh, đáng làm chúa tể trong chốn sơn lâm vậy.
Sau hết, ông bạn của ông lại còn có Thất Sát (Thân) thủ mệnh, tức là có chÍnh tinh miếu địa và có đủ khả năng chỉ huy nhóm thú nêu trên nên càng hữu hiệu. Trường hợp không có chÍnh tinh nào thì sẽ kém đi rất nhiều vì khi các con thú ấy ùa về mệnh (VCD) mà không có ai chỉ huy thì đương nhiên sẽ ô hợp, hỗn loạn hoặc nếu có chÍnh tinh hiền lành như Thiên Phủ, Thiên Lương cũng chẳng hay mấy vì làm sao chế ngự được các mãnh thú
Bây giờ chắc ông hết thắc mắc về sự chênh lệch quá nhiều giữa ông và bạn ông, và mong ông đừng kể lại cho thầy tử vi đã xem cho ông và bạn ông để tránh chuyện "múa rìu qua mắt thợ" hoặc mọi hiểu lầm không hay.
Chùa Ông còn được gọi là miếu Quan Đế hay Nghĩa An Hội Quánđây là ngôi chùa mang đậm nét kiến trúc độc đáo về văn hóa. Chùa tọa lạc tại số 676 đường Nguyễn Trãi, thuộc phường 11, quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh. Dù không thuộc loại nhất nhì về quy mô, nhưng theo khẳng định của nhiều người thì sự linh thiêng của chùa đã nức tiếng xa gần. Ngày 7 tháng 11 năm 1993, Bộ Văn hóa – Thông tin đã công nhận ngôi miếu là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia
Trong miếu, vị thần được thờ chính là Quan Công (tức Quan Vũ, 162? – 219), một nhân vật thời Tam Quốc. Đối với người Hoa, ông là người tài đức vẹn toàn[2]. Vì vậy, miếu có tên là miếu Quan Đế. Và vì đây cũng là nơi hội họp của người Triều Châu, nên còn gọi là Nghĩa An Hội Quán (Nghĩa An là tên một vùng đất ở Quảng Đông thuộc Trung Quốc, nơi đa số người Triều Châu sinh sống). Tuy nhiên, ngôi thờ này thường được gọi là chùa Ông theo thói quen của nhiều người.
Theo sử sách ghi chép lại, thì miếu Quan Đế do người Hoa gốc Triều Châu xây dựng trước thế kỷ 19, nhưng đến năm 1819-1820 mới xây cất kiên cố cho đến ngày nay. Hiện ở trong miếu có một thạch bia chữ lớn nêu rõ bà Đỗ Thị (phu nhơn Tả quân Lê Văn Duyệt) cúng hai trăm quan tiền vào năm 1819, và một chiếc lư hương bằng đồng làm vào năm Đạo Quang thứ 5 (1825). Từ khi xây dựng kiên cố cho đến nay, miếu đã được trùng tu nhiều lần vào các năm 1866, 1901, 1969, 1984 và gần đây nhất là năm 2010.
Miếu Quan Đế (Nghĩa An Hội Quán) có kiến trúc tổng thể hình chữ khẩu (囗) hay chữ quốc (国) với các dãy nhà khép kính vuông góc. Ngôi chùa mang màu sắc Trung Hoa cổ kính, có lịch sử trên 200 năm. Kiến trúc và trang trí ở chùa thể hiện rõ nét phong cách Trung Hoa qua thiết kế, qua các tượng, phù điêu bằng gốm trên mái ngói hay các bông hoa chạm ngược, tượng kỳ lân, diềm gỗ… trên bộ vì kèo sơn màu đỏ thắm…
Chính điện có gian thờ Quan Thánh, tượng cao 300 cm, mặc áo gấm xanh, ngồi trên ngai, đặt trong khám thờ chạm viền nhiều lớp tùng – hạc, mai – điểu, mẫu đơn – trĩ, Bát tiên giao chiến thủy quái… Đứng hầu hai bên trước bệ thờ là tượng Quan Bình và Châu Xương cao gần 200 cm, đặt trong tủ kính.
Kiến trúc độc đáo mang đậm nét văn hóa
Hàng năm lễ cúng Quan Đế được tổ chức vào ngày 24 tháng 6 (âm lịch) và rằm tháng Giêng (lớn nhất). Ngoài ra, còn các lễ cúng Bà Thiên Hậu, Phúc Đức chính thần, v.v… Đây không chỉ là nơi chiêm bái của người Hoa gốc Triều Châu ở vùng Sài Gòn, mà còn là một công trình có giá trị về kiến trúc và nghệ thuật ở nửa cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20.
– Trung Thu 2016 rơi vào tháng 8 âm lịch, là tháng Đinh Dậu, Mão Dậu tứ hành xung, nên người tuổi Mão khó tránh những điều hung họa, nhất là bị kẻ tiểu nhân đeo bám gây chuyện thị phi.
Tết Trung Thu: 12 con giáp chọn hướng xuất hành, du lịch cát lànhTrung Thu 2016, vận trình 12 con giáp có biến động gì lớn?Quý cô tuổi nào khiến các chàng đã yêu không bao giờ buông tay?
1. Người tuổi Mão
Trung Thu 2016 rơi vào tháng 8 âm lịch, là tháng Đinh Dậu, Mão Dậu tứ hành xung, nên người tuổi Mão khó tránh những điều hung họa, nhất là bị kẻ tiểu nhân đeo bám gây chuyện thị phi. Dẫu công việc vẫn được con giáp này hoàn thành đúng tiến độ, nhưng trong quá trình thực hiện vấp phải không ít trở ngại. Phần lớn là do có kẻ tiểu nhân “ném đá sau lưng”, buông lời gièm pha nhằm hạ thấp uy tín và sự ảnh hưởng của bạn trong công việc. Giữ tinh thần ổn định, bình tĩnh và tỉnh táo, người tuổi Mão sẽ sớm vượt qua “ải” thị phi để đón trọn vẹn một mùa Trung Thu hạnh phúc bên những người thân yêu. Ngoài ra, bạn nên suy nghĩ tích cực và lạc quan hơn, tìm tới những chỗ đông người, náo nhiệt để bỏ mọi sầu muộn sau lưng.
2. Người tuổi Dần
Mặc dù vận khí của người tuổi Dần trong dịp Trung Thu không hề tồi, nhưng vẫn khó tránh bị tiểu nhân đeo bám, gây điều bất lợi. Tinh thần con giáp này khá bất ổn, vui buồn thất thường. Nhưng may mắn, bên cạnh bạn vẫn còn nhiều người thân, bạn bè để chia sẻ. Vì thế, dẫu có trục trặc về mối quan hệ với đồng nghiệp, vướng vào thị phi của kẻ tiểu nhân, nhưng tuổi Dần vẫn gặt hái được những thành quả nhất định trong mùa trăng tròn này.Hành sự thận trọng, giữ thái độ bình tĩnh và cư xử hài hòa sẽ là chìa khóa giúp con giáp này tránh xa những cạm bẫy thị phi, cùng đón Tết đoàn viên sum vầy bên gia đình thân yêu.
3. Người tuổi Mùi
Bước sang tháng 8 âm lịch, nhất là dịp Trung Thu trăng tròn sáng tỏ, tư tưởng người tuổi Mùi như được khơi thông, tập trung tinh lực để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tuy vậy, vẫn có kẻ tiểu nhân cản đường cản lối, khiến bạn khó tránh cảm giác ấm ức, muốn bay cao bay xa hơn nữa mà chưa thỏa mãn được yếu tố “nhân hòa” nên đành ngậm ngùi chờ đợi thời cơ.Làm việc gì, bạn cũng cần chủ động, tránh tình trạng dựa dẫm vào người khác để rồi có ngày bị quay lưng lại, bao nhiêu công sức cố gắng đổ xuống sông xuống biển. Ngoài ra, tuổi Mùi nên dành nhiều thời gian quan tâm, chia sẻ với mọi người xung quanh. Bạn có thể rủ bạn bè đi hát hò, ăn uống để nhanh chóng nạp năng lượng và lấy lại tinh thần.
► Xem bói 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn
Hoàng Lam 3 con giáp nhân duyên tốt đẹp nhất dịp Trung Thu Có Hồng Loan tinh nhập mệnh trợ giúp, lại gặp tháng Đinh Dậu vượng đào hoa, nên nhân duyên của người tuổi Thìn trong dịp Trung Thu vô cùng sinh động. Chỉ cần Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Bích Ngọc (##)
Áp dụng ngũ hành trong luận giải. Hãm hay đắc của sao thì không có liên quan đến hành khí của sao mà chỉ liên quan đến tính chất xấu hay tốt mà sao đem lại Sao đắc hãm tại các vị trí khác nhau, và tuỳ theo tính chất đắc vượng miếu hay hãm mà mang ý nghĩa khác nhau.
Ý nghĩa xấu-tốt của sao không thể thay đổi, trừ khi gặp Tuần hay Triệt. Một sao đã hãm địa không thể trở nên đắc địa cho dù hành khí của sao có thay đổi do tương quan sinh khắc giữa sao với các sao khác hay với Mệnh và cung.
Còn hành khí của sao có thịnh lên hay giảm xuống thì căn cứ vào tương quan giữa hành sao với các sao khác, hành sao với và hành cung, hành sao và hành Mệnh. Khi hành khí của sao thịnh lên thì ảnh hưỡng tốt xấu của sao được phát huy mạnh mẽ hơn, nhưng bản chất xấu tốt của sao vẫn giữ nguyên vẹn. Khi hành khí của sao bị suy giảm thì ảnh hưỡng xấu tốt của sao sẻ bị suy yếu đi, nhưng tính chất xấu tốt của sao vẫn không thể thay đổi. Tóm lại đắc hảm của sao nói về tính chất của sao, còn hành khí của sao thịnh hay suy nói về cường độ ảnh hưỡng mạnh hay yếu.
Cát tinh sáng sủa thì thường mang tính chất tốt. Càng sáng thì thông thường càng có nhiều tính chất tốt. Cát tinh hãm địa thì mang tính chất xấu. Xấu nhưng không quá xấu vì là cát tinh, là sao chủ yếu mang đến điều tốt lành.
Hung tinh thường mang ý nghiã xấu hung hãn, gây tai họạ Hung tinh đắc địa thì tuy có mang tính chất tốt nhưng không trọn vẹn như cát tinh vì cũng còn có tính chất xấu đi kèm. Hung tinh hảm địa thì ý nghiã xấu càng trở nên mãnh liệt.
Sao an theo năm (theo Can, Chi) thì có tác dụng lâu dài bền bỉ. Sao an theo tháng thì tác dụng cũng ngắn hơn, còn sao an theo giờ thì phát huy nhanh chóng tạm thờị
Khi luận giải, phải lấy hành bản Mệnh làm gốc để luận đoán.
Có bốn nguyên tắc được sắp xếp theo thứ tự quan trọng cần để ý.
NGUYÊN TẮC THỨ NHẤT: Đây là nguyên tắc quan trọng nhất, xét tương quan giữa hành sao và hành Mệnh. Hành Mệnh là hành của năm, nghĩa là lấy hành khí đang cực thịnh của năm làm chủ. Năm Mộc thì khi ấy Mộc phải vượng không thể yếu được. Xét sự sinh khắc giữa hai hành thì căn cứ vào câu phú sau:
Đồng sinh thì Vượng (cùng một hành khi gặp nhau thì Vượng, cả hai hành đều mạnh lên, hưng thịnh lên).
Sinh ngã thì Tướng (gặp hành khắc sinh ra ta (ngã) thì ta Tướng, ta tốt lên nhiều phần).
Ngã sinh thì Hưu (ta sinh cho hành khắc thì không thành, không tăng, không hưng thịnh lên mà lại giảm, bị suy yếu, hao tổn, ta không được lợi gì, vô dụng).
Ngã khắc thì Tù (ta khắc hành khác thì ta tù, nghĩa là bị giam cầm, bó tay không hoạt động).
Khắc ngã thì Tử (ta gặp hành khắc ta thì ta chết).
Vận dụng qui luật sinh khắc này vào sự sinh khắc giữa hành sao và hành Mệnh ta có:
1) Hành sao sinh hành Mệnh: hành sao bị hao tổn, bị giảm (Hưu) nên ảnh hưỡng xấu tốt của sao bị yếu đị Mệnh được hưng vượng lên (Tướng) chứng tỏ Mệnh được sao phu sinh, nghiã là sao làm lợi cho Mệnh cho dù là cát tinh hay hưng tinh.
Nếu là cát tinh sáng sủa thì đưa đến lợi ích trọn vẹn cho Mệnh. Nếu là cát tinh lạc hảm thì do sao có tính chất xấu nên Mệnh tuy cũng hưỡng lợi ích nhưng không toàn vẹn. Nếu là hung tinh sáng sủa thì các tính chất tốt xấu của nó cũng khiến bản Mệnh hưng thịnh. Nếu là hung tinh lạc hảm thì cũng ít bị nguy hại hơn vì hành sao bị hao tổn nên phát huy yếu ảnh hưỡng xấu của nó, trong khi bản Mệnh lại được hưng thịnh. Cho dù gặp sao xấu hay tốt, bản Mệnh vẫn vững vàng hưng thịnh lên vì bản Mệnh được sinh nhập (Tướng). Do đó người ta thường nói hành sao sinh hành Mệnh thì tốt. Người có hành sao sinh hành Mệnh là người được sao trợ giúp, sao không thể tác họa mạnh đến bản Mệnh.
2) Hành sao đồng hành với hành Mệnh: cả hai đều được hưng vượng lên (Vượng). Mọi ảnh hưỡng tốt xấu của sao lên Mệnh đều hưỡng trọn vẹn. Cát tinh hay hung tinh vẫn phát huy mạnh mẽ hơn ảnh hưỡng của chúng. Tuy nhiên bản Mệnh vẫn được on có vì hành khí của bản Mệnh được hưng thịnh lên, nghiã là sao đó thuộc về mình, mình hoàn toàn chủ động, Mệnh mang những đặc tính của saọ Do đó hành sao đồng hành với bản Mệnh thì tốt nhất, Mệnh chỉ huy được sao một cách trọn vẹn.
3) Hành Mệnh sinh hành sao: hành khí của sao hưng thịnh lên (Tướng), trong khi đó bản Mệnh bị hao tổn (Hưu). Hành khí của sao hưng thịnh lên nhưng không có lợi ích gì cho bản Mệnh vì bản Mệnh bị suy tổn. Cho dù cát tinh sáng sủa đi chăng nữa cũng không đem lại lợi ích cho Mệnh mà còn làm cho Mệnh bị hao tổn khi sao phát huy tính chất của nó. Hung tinh lạc hảm khi phát huy tính chất của nó thì còn gây bất lợi cho Mệnh nhiều hơn do các tính chất xấu của nó. Do đó Mệnh không chỉ huy được sao, bị hao tổn do các ảnh hưỡng xấu tốt của sao gây ra. 4) Hành sao khắc hành Mệnh: hành khí của sao vẫn giữ nguyên, nhưng bị giam cầm bó tay không hoạt động được (Tù). Bản Mệnh bị hao tổn, thiệt hại rất nhiều (Tủ), bị chết, có nghiã là gây nhiều điều bất lợi đến cho bản Mệnh. Cho dù cát tinh miếu vượng thì mọi tính chất tốt đẹp của sao cũng làm cho Mệnh bị mệt mõi, tuy là cát nhưng lại không đem điều gì tốt lành đến Mệnh. Tuy nhiên vì là cát tinh nên điều tai hại mang đến cũng đở lọ Còn nếu là hung tinh thì thật là bất lợi cho Mệnh. Nếu là hung tinh đắc địa thì các tính chất tốt xấu lẫn lộn của nó cũng làm bản Mệnh bị nguy hạị Nếu là hung tinh hảm địa thì tính chất xấu của nó càng làm bản Mệnh càng thêm bị nguy hạị Hung tinh lạc hảm khắc hành bản Mệnh dễ mang lại tai họa cho Mệnh nhất. Do đó hành sao khắc hành Mệnh thì xấu nhất vì sao hoàn toàn chủ động gây bất lợi cho bản Mệnh, cho dù là cát tinh.
5) Hành Mệnh khắc hành sao: hành sao bị tổn hại suy yếu, bị chết (Tủ) nên cường độ ảnh hưởng xấu tốt của sao bị giảm rất nhiều trong khi Bản Mệnh bị giam cầm bó tay không hoạt động được (Tù), nghĩa là Mệnh không chỉ huy sao, không coi sao đó là thuộc về mình. Nếu là cát tinh sáng sủa thì cũng không mang đến điều lợi cho Mệnh là baọ Nếu là cát tinh hảm địa thì Mệnh cũng ít chịu ảnh hưỡng tính chất xấu của saọ Nếu là hung tinh đắc địa thì tính chất đắc của hung tinh bị suy giảm nhiều nên phát huy tác dụng rất yếu, thành ra Mệnh cũng hưỡng ít tính chất xấu tốt lẫn lộn của sao Còn nếu là hung tinh lạc hãm thì tính chất xấu của hung tinh bị yếu đi nhiều do đó Mệnh rất ít bị ảnh hưỡng hơn. Do đó hành Mệnh khắc thắng hành sao (khắc xuất) thì ảnh hưởng xấu tốt của sao lên Mệnh không còn là bao do hành sao bị suy yếu rất nhiều trong khi hành Mệnh bị giam cầm không hoạt động được.
Ví dụ:
Vũ Khúc là tài tinh, hành Kim.
Vũ Khúc sáng sủạ Mệnh Kim và Thuỷ thì tiền bạc tốt, mệnh Hỏa thì không hưỡng là bao, Mệnh Mộc thì tuy có hưỡng tiền bạc nhưng lại khiến cho Mệnh bị mệt mõi vì tiền bạc, Mệnh Thổ thì tiền bạc chỉ đem tai hại đến bản Mệnh.
Không Kiếp hành Hỏa.
Không Kiếp đắc địa, chủ bạo phát bạo tàn. Mệnh Hỏa bạo phát bạo tàn. Mệnh Thổ phát ít đi nhưng cũng ít suy hơn vì bản Mệnh được hưng thịnh lên. Mệnh Mộc thì phát mạnh nhưng không ích gì cho Mệnh, bạo tàn. Mệnh Kim thì việc phát đem tai họa đến cho Mệnh. Mệnh Thuỷ thì phát ít hơn so với các Mệnh khắc nhưng tai hại đem đến cho Mệnh cũng không có là baọ
Không Kiếp hãm địa, chủ hung họạ Mệnh Hỏa ít bị nguy hạị Mệnh Thổ ít bị nguy hại nhất. Mệnh Mộc thì bị nguy hạị Mệnh Kim bị hung họa nhiều nhất. Mệnh Thuỷ thì ít bị nguy hại nhất. NGUYÊN TẮC THỨ HAI: Xét tương quan giữa hành Mệnh và hành cung để xét đoán Mệnh thịnh hay suỵ Mệnh thịnh thì tốt, điều xấu có xảy ra cũng dễ thoát khỏị Mệnh suy thì xấu, điều xấu xãy ra khó thoát khỏi tai ương họa hạị
Hành cung sinh hành Mệnh: hành bản Mệnh hưng thịnh nên tốt nhất (Tướng).
Hành cung hòa hành Mệnh: hành bản Mệnh hưng thịnh lên nên tốt (Vượng).
Hành cung khắc hành Mệnh: hành bản Mệnh bị suy tổn nên xấu nhất (Tử).
Mệnh khắc hành cung: hành bản Mệnh tuy khắc tháng nhưng bản Mệnh không được lợi ích gì cả, bị giam cầm không hoạt động được (Tù).
Mệnh sinh hành cung: hành bản Mệnh bị tiết khí hao tán nên xấu (Hưu).
Cần chú ý hành Mệnh ta nên đi sau phân biệt là Âm hay Dương. Ví dụ Dương Mộc là hành Mộc đang thịnh, nếu sinh xuất cho cung thì cũng đỡ xấu hơn Âm Mộc. Hơn nữa, hành cung cũng có Âm Dương. Nếu Mộc Mệnh sinh xuất cho cung Ngọ Dương Hỏa thì Mệnh bị tổn hại nhiều hơn là sinh xuất cho Âm Hỏa.
NGUYÊN TẮC THỨ BA: xét tương quan giữa hành của tam hợp cục của cung an Mệnh (THCM) với hành bản Mệnh. Phải lấy hành bản Mệnh làm gốc.
THCM sinh hành Mệnh: hành bản Mệnh hưng thịnh (Tướng) nên tốt nhất.
THCM hòa hành Mệnh: hành bản Mệnh hưng thịnh lên (Vượng) nên tốt.
THCM khắc hành Mệnh: hành bản Mệnh bị suy tổn nhiều, bị chết (Tủ) nên xấu nhất.
Mệnh khắc hành THCM: hành bản Mệnh tuy khắc thắng nhưng chẳng được lợi ích gì cả vì Mệnh bị bó tay, không hoạt động được (Tù).
Mệnh sinh hành THCM: hành bản Mệnh bị tiết khí hao tán (Hưu) nên xấu.
Ví dụ:
Mạng Thủy, Mệnh cư Tí có Phá Quân Thủy thì hay hơn Mệnh cư Ngọ vì tam hợp Thân Tí Thìn thuộc Thuỷ, còn tam hợp Dần Ngọ Tuất thuộc Hỏa.
Thất Sát Kim miếu tại Dần Thân, Mạng Kim tốt hơn mạng Mộc vì nguyên tắc thứ nhất quan trọng hơn nguyên tắc thứ bạ Mạng Kim thì hành sao đồng hành với Mệnh, nhưng THCM khắc bản Mệnh. Mạnh Mộc thì hành sao khắc Mệnh nhưng được THCM sinh bản Mệnh cũng đỡ phần nào.
Không Kiếp miếu địa tại Tỵ Hợi Tại Tỵ thì tốt hơn tại Hợi tuy cung miếu địa nhu nhau vì hành cung đồng hành với hành sao. Nếu Mệnh là Thổ hay Hỏa thì ảnh hưởng mạnh nhất nghĩa là phát rất nhanh và mạnh, lên nhanh xuống nhanh. Mệnh Kim thì sự phát trợ nên vô dụng vì Hỏa khắc Kim nên bản mệnh bị hao tổn. Hành Mộc thì cũng phát mạnh mẽ nhưng khó tránh sự thăng trầm tai họa vì Mệnh bị tiết khí. Hành Thuỷ thì hưởng sự phát ít nhưng phá ít đi vì Thuỷ khắc Hỏa.
Thất Sát miếu địa tại Dần bị Tuần, Kim Mệnh, người Dương Nam. Do bị Tuần áp đảo mạnh mẽ đến 80% sau 30 tuổi, sao Kim lại kỵ Tuần nên các ý nghĩa tốt của Thất Sát bị đảo ý nghĩa. Do Mạng Kim đồng hành với hành sao nên người mạng Kim sẻ hưởng trọn vẹn tính chất xấu của Thất Sát bị Tuần. Nếu là Hỏa Mệnh thì Hỏa Khắc Kim, thì ý nghĩa xấu của Thất Sát bị Tuần trợ nên ít đi. NGUYÊN TẮC THỨ TƯ: xét tương quan giữa hành cung với hành saọ Nguyên tắc này tương đối không quan trọng, chỉ mạng ý nghiã gia giảm chút đỉnh.
Các sao đắc hảm không phụ thuộc vào ngũ hành của cung mà phụ thuộc vào vị trí của nó trên thiên bàn và sự phối chiếu hay đồng cung với sao khác. Do đó cần xem xét sự tương quan sinh khắc giữa hành sao và hành cung để coi sức phát huy ảnh hưỡng của sao như thể nàọ Hành của sao phải thịnh thì ảnh hưỡng tốt hay xấu mới phát huy trọn vẹn. Luôn luôn lấy hành cung làm gốc để luận đoán vì hành cung là dat hay địa thể mà sao lâm vàọ Cho dù hành sao có như thế nào cũng không thể làm suy yếu hành cung hay nói khắc đi hành cung là nói hành khí nơi nó vượng nhất, như Dần Mão thuộc Mộc thì cung Dần và Mão là nơi Mộc vượng. Sao Mộc ở đó thì hành khí không bị thay đổị Khi Mộc Vượng thì Hỏa Tướng, như vậy hành khí sao Hỏa được hưng thịnh. Mộc vượng thì Thuỷ Hưu, sao Thủy bị suy yếu ở sinh xuất cho cung. Mộc vượng thì Kim Tử, sao Kim trợ nên vô dụng vì thế Mộc quá thịnh nên Kim không thể khắc nổi, chứng tỏ hành Kim không được mạnh. Mộc vượng thì Thổ Tủ. Sao Thổ không thể hưng thịnh vì bị hành Mộc đang thịnh khắc mạnh. Như vậy:
Hành cung sinh hành sao: hành sao được hưng thịnh (Tướng).
Hành cung đồng hành với sao: hành sao không thay đổi (Vượng).
Hành sao sinh hành cung: hành sao bị hao tổn, tiết khí nên yếu đi (Hưu).
Hành sao khắc hành cung: hành sao tuy khắc thắng nhưng không có lợi gì vì bị giam cầm không hoạt động được (Tử).
Hành cung khắc hành sao: hành sao bị thiệt hại nhiều nhất (Tủ).
Cần chú ý là Dần Mão tuy thuộc Mộc nhưng có khác biệt. Dần là Dương Mộc, Mão là Âm Mộc. Dương chủ thịnh, Âm chủ suỵ Dương Mộc là Mộc đang phát triển cực thịnh, còn Âm Mộc là Mộc đã bước vào giai đoạn suy yếụ Như vậy sao Thổ cư cung Dần bị khắc mạnh hơn sao Thổ cư Mão.
Ví dụ:
Phá Quân là hao tinh, hãm tại Dần Thân. Tại Dần thì Phá Quân Thuỷ sinh hành cung là Mộc, tại Thân thì Phá Quân Thuỷ được hành cung sinh. Như vậy tại Thân Phá Quân giữ nguyên vẹn ảnh hưỡng hảm địa của nó, còn tại Dần thì bản chất hao tán có bị yếu đi vì sao đó sinh xuất cho cung nên hành khí bị hao tổn.
Tử Phủ miếu tại Dần Thân. Tại Dần thì hành cung khắc hành sao đưa đến hành khí của sao bị hao tổn. Tại Thân thì hành sao sinh hành cung nên hành sao bị tiết khí. Như vậy tại Dần, tính chất miếu địa của Tử Phủ phát huy yếu đi, sao bị không chế khả năng hoạt động, còn tại Thân thì hành sao bị suy tổn làm suy yếu khả năng hoạt động.
Phá Quân miếu địa tại Tí Ngọ. Tại Tí thì hành cung đồng hành với hành sao, tính chất miếu địa của sao hoàn toàn không thay đổi do hành khí của sao vẫn nguyên vẹn. Tại Ngọ thì hành sao sinh hành cung, tính chất miếu địa không phát huy trọn vẹn ảnh hưỡng vì hành sao bị hao tổn.
Phá Quân đắc tại Thìn Tuất, hành cung khắc hành sao, tính chất của sao bị suy giảm do hành sao bị suy yếụ
Vũ Phá đồng cung tại Tỵ Hợi và hảm địạ Tại Tỵ thì Vũ Khúc bị hành cung khắc, Phá Quân thì khắc hành cung, do đó hành của Vũ bị suy đi, còn tại Hợi thì Vũ sinh xuất cho cung, Phá Quân đồng hành. Do Vũ Khúc Kim sinh cho Phá Quân Thủy nên hành khí của Phá Quân tại Hợi mạnh hơn Phá Quân tại Tỵ. Ví dụ người Kim mệnh thì hưỡng mạnh sao Kim là Vũ Khúc. Nếu Mệnh cư Hợi thì sẻ bị hao tán tiền bạc bởi vì Vũ khuc là tài tinh, Phá Quân là hao tinh. Kim sanh Thuỷ đưa đến bản chất hao tán của Phá Quân càng tăng thêm. Phá Quân có hành khí mạnh thì sẻ hao nhiều hơn.
Thất Sát miếu tại Dần Thân. Tại Dần và Thân thì hành khí của Thất Sát đều nguyên vẹn. Mệnh Thổ cư Dần thì bị hành cung khắc, đồng thời hành Mệnh lại sinh xuất hành sao, Mệnh bị tiết khí. Như vậy thì Mệnh Thổ tuy vẫn hưỡng tính chất của Thất Sát nhưng không có lợi cho bản Mệnh, và Thất Sát ở đây lại càng thịnh vượng. Tại Thân thì Mệnh Thổ lại càng hao tán do sinh xuất hành cung và hành saọ Do hành khí của Thất Sát được hưng thịnh lên nên tính chất của Thất Sát ở đây phát huy mạnh mẽ hơn nhưng không đem lại ích lợi cho bản Mệnh, làm bản Mệnh tổn hại dễ bị lâm nguy khi vào hạn xấụ Trường hợp Mạng Mộc thì do Kim khắc Mộc, nếu Mệnh cư cung Dần thì ảnh hưỡng của Thất Sát vẫn nguyên vẹn nhưng đưa đến bất lợi cho Mệnh.
Trong tử vi còn có một sự hòa hợp hay đối kháng giữa các sao về tính chất, khác hẳn với sự sinh khắc về ngũ hành. Ví dụ:
Văn tinh thì nên gặp Văn tinh, gặp Võ tinh thì không có lợị Điều này cũng đúng vì con người nếu thuận một tính, hoặc thuần hậu ôn nhu, hoặc mạnh bạo cương quyết thìdễ thành công hơn người tính tình nữa nạc nữa mỡ. Bởi thế nên các bộ sao Văn tinh như Cơ Nguyệt Đồng Lương thì cần có các sao Văn tinh hỗ trợ cho nó như Xương Khúc, Khoa Bộ Sát Phá Liêm Tham thì cần các sao cứng cỏi mạnh bạo hổ trợ như Lục Sát Tinh đắc địạ Bộ Tử Phủ Vũ Tướng rất kỵ gặp Không Kiếp vì Không Kiếp là sao hung tinh đứng đầu phụ tinh, chủ nóng nãy làm liều, đi với Tử Phủ Vũ Tướng thì chỉ gây ra điều bất lành vì tính của Tử Phủ là thuần hậu ôn nhụ Điểm cần chú ý là sự đối kháng về tính chất thì quan trọng hơn sự sinh khắc về ngũ hành. Không Kiếp hành Hỏa đương nhiên sẻ tương sinh với Tử Phủ hành Thổ, nhưng khi đứng cùng với Tử Phủ lại làm xấu bộ Tử Phủ. Phá Quân sáng sủa nắm được Không Kiếp là do tính chất của nó là hung, đi với sao hung thì có lợị Phá Quân hành Thuỷ khắc được hành Hỏa của Không Kiếp khiến Không Kiếp bị thu phục. Thất Sát võ tinh mà đi với Xương Khúc văn tinh, hay đi với Đào Hồng thì chẳng ra gì. Ngược lại Nhật Nguyệt gặp Đào Hồng Hỉ Xương Khúc thì lại thêm tốt. Hơn nữa Hóa Khoa là đệ nhất giải thần vì chế hóa được các sao hành Hỏa như Không Kiếp Hỏa Linh, Kình Đà(hành Kim đới Hỏa). Tính tình của con người cũng thay đổi theo đại hạn. Mệnh Sát Phá Liêm Tham mà đại hạn gặp Cơ Nguyệt Đồng Lương thì tính tình trở nên mềm yếu, hay thay đổi, thiếu cương quyết thì làm sao mà phát mạnh được. Nếu đại hạn gặp sao Lục Sát Tinh đắc địa thì vì gặp sao cùng phe nên phát mạnh bạo là điều đương nhiên.
CHÚ Ý XEM XÉT NGŨ HÀNH BẢN MỆNH THEO MÙA
Xem hạn thì cần xem trước nhất. Tuy nhiên khi xem xong, điều xấu tốt nên cân nhắc gia giảm một chút trong bối cảnh của Mùa.
Mùa Xuân hành Mộc, Hạ hành Hỏa, Thu hành Kim, Đông hành Thuỷ, Tứ Quí hành Thổ. Khi xét thì cũng sử dụng nguyên tác xét sinh khắc ngũ hành giữa Mùa với hành bản Mệnh. Lấy ngũ hành bản Mệnh làm chủ để xét đoán.
Ví dụ mùa Xuân hành Mộc. Nếu thấy tai họa xãy ra vào mùa Xuân thì nếu là Mệnh Kim thì tai họa sẻ xãy ra chắc chắn, nhưng nếu thấy hành Mộc thì bản Mệnh cũng có phần được cứu giải một chút.
NHẬN ĐỊNH VỀ HÀNH CỦA MỆNH VÀ CỤC VÀ TƯƠNG QUAN XUNG KHẮC
Hành bản Mệnh là hành của năm sinh. Mọi năm tháng ngày giờ đều có hành của nó, và Tử Vi chọn hành của năm sinh làm hành bản Mệnh.
Hành của Cục là hành của tháng mà cung Mệnh được an trên là số. Ví dụ Mệnh an vào cung Dậu thì tháng Dậu là tháng 8. Tùy theo Can của năm, ta có thể tính toán được hành của tháng căn cứ vào nguyên tắc Ngũ Dần, và từ đó tính ra hành của Cục.
Trong tử vi người ta thường tính sinh khắc giữa hành của Bản Mệnh với hành của Cục, mà thực chất là tính sự sinh khắc giữa hành của năm và hành của tháng. Khi tính sinh khắc giữa hành của Năm và hành của Tháng, thì đương nhiên hành của năm phải được chọn làm gốc vì năm ấy hành khí đang thịnh nhất đứng vai trợ chủ đạo, hành tháng là phụ thuộc. Như vậy thì phải lấy hành Bản Mệnh làm gốc để tính toán.
Hành Mệnh và hành Cục đồng hành: cả hai hành đều được hưng vượng lên (Vượng) nên tốt.
Hành Cục sinh hành Mệnh: hành Mệnh được hưng thịnh lên (Tướng) nên tốt.
Hành Mệnh sinh hành Cục: hành Mệnh bị suy yếu (Hưu) trong đó hành Cục được hưng thịnh (Tướng) nên không tốt cho bản Mệnh, xấu.
Hành Mệnh khắc hành Cục: hành Mệnh bị giam cầm bó tay không hoạt động được (Tù) nhưng không có hại, trung bình.
Sự sinh khắc trên đây là sự sinh khắc của ngũ hành chính.
Các lễ hội diễn ra trong ngày 17 tháng 5 âm lịch - Hội Làng Cựu Ấp
Các lễ hội tiêu biểu diễn ra trong ngày 17 tháng 5 âm lịch có Hội Đình Văn Khê được tổ chức tại xã Nghĩa Hương, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây cũ nay thuộc Hà Nội.
Các lễ hội diễn ra trong ngày 17 tháng 5 âm lịch - Hội Làng Cựu Ấp
Hội Đình Văn Khê
Thời gian: tổ chức từ ngày 17 tới ngày 18 tháng 5 âm lịch.
Địa điểm: xã Nghĩa Hương, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây cũ nay thuộc Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn hai vị thành hoàng làng của Lạc Long Quân và Âu Cơ.
Nội dung: Vào hội, ngày 17 bắt đầu với lễ rước nước vào lúc 2 giờ chiều. Dẫn đầu đám rước là phường Bát âm, tiếp sau là cờ quạt, nghi trượng, hàng đô khiêng kiệu có chum đựng nước, các quan viên và dân làng. Đoàn rước đến giếng làng, làm lễ lấy ngót rồi trở về đình cử hành lễ tắm tượng hại hậu cung. Chính hội ngày 18, tại đình Trung chủ tế làm lễ thỉnh kinh (xin phép Thành hoàng cho chọc tiết lợn) nơi cửa Thánh; sau đó chủ tế ra sân đình lựa chọn 1 trong 6 con lợn tế của 6 giáp, truyền cho cắt một túm lông đầu và lông đuôi, rồi chọc tiết hứng vào bát mang lễ Thánh. Tiếp theo, đội hình tế lễ dàn ra theo lời xướng của hai vị Đông xướng và Tây xướng. Khi vị Đông xướng hô ''ê mao huyết'', người giúp việc tế chạy vào hậu cung lấy bát huyết mang ra đổ quanh gốc đa trước sân đình. Sau các nghi lễ truyền thống là các hoạt động nghệ, các trò chơi dân gian.
► Xem bói tử vi 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn
Trường lưu Thủy cuồn cuộn bất tuyệt, tất quy về phương Đông Nam, xuôi dòng tự quy về Thìn, Tỵ. Thủy này nếu tọa cung Tài Bạch, một đời không được phú quý nhưng cũng không nghèo khổ. Tuy trong tay không có được số tiền lớn nhưng không bao giờ thiếu tiền dùng. Nhân Thìn là Chính ấn, mang đức trong sáng. Người mệnh này có lòng bao dung, tâm sáng như gương. Sinh vào mùa xuân, hạ, đại phú đại quý; sinh vào mùa thu, đông, gian trá thất đức. Nhâm Thìn là Thủy tự khố, nếu là hồ chứa nước đều ưa gặp Thủy. Duy có kỵ Nhâm Tuất, Quý Hợi Đại hải Thủy, Bính Tý Giản hạ Thủy, sinh vượng thái quá, là tượng tràn lan. Thủy này ưa Kim sinh dưỡng như Tân Tỵ Bạch lạp Kim, Tân Hợi Thoa xuyến Kim, cũng ưa Nhâm Thân, Quý Dậu Kiếm phong Kim và Nhâm Dần, Quý Mão Kim bạc Kim. Gặp Giáp Tý, Ất Sửu Hải trung Kim; Giáp Ngọ, Ất Mùi Sa trung Kim cũng vô dụng. Lục Thập Hoa Giáp của Nhâm Thìn kỵ Thổ làm tắc nghẽn khô cạn, nhưng Thổ lại có công đắp đê, chỉ lấy Canh, Tân, Bính, Đinh là tốt; Mậu, Kỷ là không tốt. Gặp Hỏa là tương hình, duy ưa gặp Đinh Mão Lư trung Hỏa, Đinh Dậu Sơn hạ Hỏa, ưa nhất gặp Ất Hợi Sơn đầu Hỏa. Gặp Mộc, lấy Quý Sửu Tang đố Mộc làm núi, Quý Mùi Dương liễu Mộc làm vườn, tọa thời trụ là Thủy nhiễu hoa đề cách, chủ hiển quý. Ưa Quý Hợi Đại hải Thủy, gọi là Long diệu thiên môn cách. Trụ khác nên gặp Kim là tốt, mệnh nữ dung mạo xinh đẹp, thông minh. Chi khác không ưa gặp Tuất, kỵ nhất Mậu Tuất là phạm hình xung, xung thì Thủy tất sẽ bị tràn lan, chủ hung tai. Mệnh nữ khắc chồng, mệnh nam một đời phiêu bạt, còn chủ con cái duyên mỏng. Chi khác có Thìn, phạm hình, chủ là người cố chấp thiên kiến, nông cạn, vợ chồng duyên mỏng. Nếu tọa thời chi nên nương nhờ cửa Phật. Nếu Địa chi của ngũ trụ có Thìn, nam khắc vợ, nữ khắc chồng. Nhâm lộc tại Hợi, ưa chi khác có Hợi, chủ phú quý. Nhâm quý tại Mão, ưa chi khác có Mão, chủ cát lợi. Người sinh năm Nhâm, Văn xương tại Dần, chi khác có Dần, có thể học mệnh lý, làm thầy giáo hoặc hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật. Người tuổi Nhâm Thìn gặp năm Thìn, Tuất, trong nhà không yên ổn, không hại đến bản thân cũng hại đến người nhà. Nếu Địa chi của ngũ trụ có Thìn, nam khắc vợ, nữ khắc chồng. Nhâm Thìn chọn bạn đời nên tìm người sinh năm Bính, Đinh. Không nên gặp người sinh năm Mậu, Kỷ.Theo Tử vi toàn tập Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Cát Phượng (##)
Tại phòng ngủ, nếu đặt máy tính và các hồ sơ, giấy tờ có liên quan đến công việc sẽ gây bất lợi cho gia chủ. Những vật đó sẽ khiến năng lượng trong phòng ngủ chủ về xung đột, mâu thuẫn.
Màn hình máy vi tính có bề mặt phản chiếu giống như gương, có thể gây ra những ảnh hưởng xấu. Không những thế, thời gian làm việc bên máy tính cũng khiến bạn quên đi việc dành tình cảm và sự chăm sóc tận tình tới người bạn đời của mình.
Không nên đặt máy tính trong phòng ngủ
Đối với phụ nữ, việc mang máy tính vào phòng ngủ càng nên hạn chế. Theo phong thủy, đây là hành động trực tiếp đối kháng với năng lượng Thổ của quẻ Khôn, là quẻ tượng trưng cho đất, phụ nữ, người mẹ.
Xét về phương diện ngũ hành tương khắc, máy tính để bàn có hại hơn máy tính xách tay. Đơn giản vì khi không sử dụng máy tính xách tay nữa, bạn có thể gấp máy lại; trong khi màn hình của máy tính để bàn đặt trong phòng ngủ lại trở thành bề mặt phản chiếu gây bất lợi cho bạn.
Nếu sống trong căn hộ chỉ có 1 phòng, nên dùng vách ngăn để ngăn cách giường ngủ và nơi làm việc. Ngoài ra, cũng nên sắp xếp hồ sơ và các giấy tờ có liên quan đến công việc một cách gọn gàng để khí trong phòng được lưu thông tốt hơn. Phòng ngủ là nơi cần nhiều năng lượng âm hơn năng lượng dương, vì vậy tốt nhất là nên giữ cho không gian này được yên tĩnh.
Chắc chắn rằng cho đến nay có rất nhiều người không biết phân biệt Tọa. Hướng của gia đình quý vị như thế nào. Chúng tôi xin hướng đẫn mọi người cách nhận biết tương đối cơ bản để xác định Hướng và Tọa Sơn của căn nhà. Nếu nhà ở Là kiến trúc tầng lầu
Chắc chắn rằng cho đến nay có rất nhiều người không biết phân biệt Tọa. Hướng của gia đình quý vị như thế nào.
Chúng tôi xin hướng đẫn mọi người cách nhận biết tương đối cơ bản để xác định Hướng và Tọa Sơn của căn nhà. Nếu nhà ở Là kiến trúc tầng lầu. bạn cần lấy mặt ánh sáng của căn nhà Làm hướng. Cái gọi là mặt ánh sáng chính là lấy mặt mà nhà hay mở cửa sổ nhiều nhất làm hướng. Thường Là năm ở mặt cửa sổ sát đất, mặt ánh sáng của ngôi nhà này là hướng Bắc, vì thế ngôi nhà này là dương trạch toạ Nam hướng Bắc.
Tiết Mang Chủng là tiết khí thứ 9 trong 24 tiết khí, là dấu hiệu của mùa tiểu mạch lớn, là tiết thu hoạch của nông vụ, cũng là thời điểm gieo trồng cho mùa sau.
Tiết Mang Chủng là tiết khí thứ 9 trong 24 tiết khí, là dấu hiệu của mùa tiểu mạch lớn, là tiết thu hoạch của nông vụ, cũng là thời điểm gieo trồng cho mùa thu hoạch sau.
► Tra cứu ngày âm lich hôm nay chuẩn xác theo Lịch vạn sự
Tiết Mang Chủng bắt đầu từ bắt đầu từ ngày 5 hoặc ngày 6 tháng 6 và kết thúc vào ngày 21 hay 22 tháng 6. Thời điểm khi Mặt Trời ở xích kinh 75° (kinh độ Mặt Trời bằng 75°). Mang Chủng hay còn được gọi là tiết “Ngũ cốc trổ bông”, đối với nông vụ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây là thời điểm các loại ngũ cốc lớn đủ và chờ thu hoạch. Ở Việt Nam, do đặc điểm khí hậu đa dạng, trong tiết Mang Chủng, có nơi bắt đầu mùa gặt nhưng có nơi đã bắt đầu gieo trồng vụ mới, mạ xanh nhạt, nhất nhất sinh cơ. Bà con nông dân nên tranh thủ thời tiết mưa nhiều, nhiệt ẩm cao trong thời gian này để gieo cấy, nếu chậm thì nhiệt độ không đủ, thời kì sinh trưởng của lúa bị ngắn lại nên dễ gặp sâu bệnh, khô hạn, sản lượng không cao. Khoai lang cũng nên gieo trồng ngay trong tiết Mang Chủng. Vậy nên mới có câu “Tiết Mang Chủng mau mau trồng trọt”. Infographic: 24 tiết khí đánh dấu thời gian trong năm Cũng vì thế mà trong tiết khí này có nghi lễ gieo mạ. Để khẩn cầu mùa màng bội thu, nhà nhà cùng nhau làm lễ cúng tế, dâng lên ngũ cốc, gia súc và rau màu để thôn dân bình an, có một vụ mùa thắng lợi. Ở một số địa phương vùng cao của Việt Nam như Sơn La, Yên Bái,… tiết Mang Chủng còn là mùa hái quả, thời điểm mận chín cây và được thu hoạch. Các địa phương ở phía Bắc lại tổ chức lễ hái vải. Loại quả này chỉ rộ lên trong thời điểm tiết Mang Chủng, sang Hạ Chí là bắt đầu vãn dần.
Nguồn gốc của tiết Thanh MinhTiết Kinh Trập là gì? Trần Hồng Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Bích Ngọc (##)
Không những học nói mà còn phải học cách ngừng nói
Cổ nhân xưa vẫn có câu dạy chúng ta rằng “Nên uốn lưỡi 7 lần trước khi nói”. Thế nên, học nói không những quan trọng mà ta nên biết nói sao cho chừng mực
Cổ nhân xưa vẫn có câu dạy chúng ta học nói rằng: “Nên uốn lưỡi 7 lần trước khi nói”. Quả thật, ngôn ngữ dùng để biểu đạt cảm xúc, là công cụ để biểu lộ suy nghĩ, thế nhưng nó cũng có thể tạo ra những lời nói không phù hợp, vô nghĩa hoặc không cần thiết, dẫn đến phiền não không đáng có.
Vương Dương Minh là một nhà tư tưởng học nổi tiếng vào thời Minh. Trong một lần cùng với các đệ tử ra ngoài dạo chơi, ông thấy trên đường có hai người đang cãi nhau, một người nói: “Ngươi thật không có đạo lý”; người kia phản bác: “Ngươi thì không có lương tâm!”
Một vị đệ tử liền quay ra nói với thầy rằng: “Thầy nghe xem, bọn họ đang giảng đạo”.
Vương Dương Minh nói: “Không phải, họ đang mạ lỵ người khác”.
Dùng thiên lý, lương tâm yêu cầu chính bản thân thì là giảng đạo, còn áp đặt yêu cầu lên người khác thì chính là đang mạ lỵ người ta. Khi giao tiếp với mọi người, lời chúng ta nói ra chính là một cách tu hành thâm nhập thực tế, những lời nói tốt đẹp chính là hành động thiện lành nhất. Vì thế người nói, người nghe hay người ngoài cuộc mà vô tâm khiêu khích cũng sẽ tạo ra một sự ác ý tuần hoàn. Vì vậy, có thể nói tin đồn sẽ dừng ở người khôn ngoan. Khi mọi người ở cùng với nhau, không nên vì những lời nói tức thời bộc phát mà làm mất đi thiện duyên khó có được này.
Ngôn ngữ dùng để biểu đạt cảm xúc, là công cụ để biểu lộ suy nghĩ, thế nhưng nó cũng có thể tạo ra những lời nói không phù hợp, vô nghĩa hoặc không cần thiết, dẫn đến phiền não không đáng có.
Socrates – một triết học gia người Hy Lạp cổ rất giỏi về diễn thuyết, ông thường hay dạy mọi người cách làm thế nào để trò chuyện. Một hôm, có một thanh niên đến và nhờ ông dạy những kỹ năng diễn thuyết, bàn về tính trọng yếu của diễn thuyết như thế nào.
Sau một thời gian dài chờ đợi chàng thanh niên nói xong, Socrates tỏ ý muốn thu tiền học phí của anh gấp đôi, anh ta hỏi nguyên nhân tại sao. Socrates trả lời:
“Bởi vì, ngoài việc dạy anh diễn thuyết, tôi còn phải dạy thêm anh cách để ngừng nói”.
Cổ nhân xưa có câu: “Nhất ngôn chiết tận bình sinh phúc” – Cẩn trọng khi nói chính là điểm mấu chốt của tu thân.
Mục đích của lời nói là để diễn đạt những lời yêu thương dễ nghe cho nhau. Thế nhưng, trong những cuộc nói chuyện hàng ngày, có rất nhiều từ ngữ chúng ta cần thực sự phải chú ý, ví dụ:
“Là tôi bảo anh ta đến” – tại sao lại không nói: “Là tôi mời anh ta đến”?
“Hãy nghe tôi đi” – tại sao lại không nói là: “Chúng ta cùng bàn bạc nhé”.
“Bạn đừng có hối hận đấy” – tại sao lại không nói là: “Bạn có muốn suy nghĩ thêm không?”
“Bạn hãy cẩn thận cho tôi” – tại sao lại không nói là: “Có lẽ vẫn cứ nên cẩn thận một chút thì tốt hơn”…
Cùng là một hàm nghĩa nhưng tại sao cứ phải thêm vào những lời khó nghe? Như vậy, không những khiến cho đối phương cảm thấy không vui, mà còn dễ dẫn đến hiểu lầm, quả thực là không xứng với nét đẹp của những người có văn hóa.
Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm khi đăng ngôi Hoàng đế, muốn coi bói quẻ xem ngôi Hoàng đế này sẽ được truyền đến bao đời, kết quả là chỉ có một chữ “Nhất” (một). Vũ Đế rất không vui, quần thần đều sợ hãi mặt tái xanh, không ai dám nói câu gì. Đúng lúc đó, thị trung Bùi Khai đã tiến lên trước và nói: “Vi thần nghe nói, trời có một sẽ thanh minh, đất có một sẽ an bình, hầu vương có một sẽ có được sự ủng hộ trung thành của quần dân”. Chỉ một câu nói ngắn gọn như vậy đã khiến Vũ Đế từ lo lắng chuyển sang vui mừng, quần thần từ đáy lòng đều cảm phục Bùi Khai.
Bất cứ việc gì bạn nhìn thấy cũng có thể chỉ là vẻ bề ngoài chứ chưa phải là thực chất, không nhất định là đúng. Có thể nắm rõ những kỹ năng khi nói chuyện, vào những lúc thích hợp, bạn sẽ có thể biến nỗi buồn thành niềm vui, hoá thối nát thành thần kỳ.
Các lễ hội ngày 8 tháng 2 Âm Lịch - Hội Đình Bà Tía
1. Hội Đình Bà Tía
Thời gian: tổ chức từ ngày 8 tới ngày 10 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: thôn Vĩnh Ninh, xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: Nhằm tôn vinh vị Thánh hoàng làng là Bà Tía - một vị tướng của hai Bà Trưng thời đầu công nguyên.
Nội dung: Trong hội đình Bà Tía có lễ tế thành hoàng làng, và còn nhiều trò chơi dân gian đặc sắc như: thi đấu vật, đánh cờ, đi cầu đập nồi niêu.
2. Hội Đình Thanh Liệt
Thời gian: Tổ chức từ ngày 8 tới ngày 10 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn ở đình ngoại là Phạm Tu (một võ tướng, công thần ở thời nhà Lý. Ông còn là người có công lớn giúp vua Lý Nam Đế đánh đuổi quân xâm lược nhà Lương, thành lập nước Vạn Xuân); ở Đình nội thì tôn vinh Chu Văn An (một nhà giáo, thầy thuốc, một đại quan trong triều đại nhà Trần và được phong vinh Trình Công)
Nội dung: Trong hội đình, phần lễ có phần rước kiệu từ đình nội ra đình ngoại, còn phần hội thì có tiết mục diễn tuồng, chọi gà, đánh cờ bỏi.
3. Hội Đền Nghè
Thời gian: tổ chức từ ngày mùng 8 tới ngày 10 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn nữ tướng Lê Chân là một vị tướng giỏi của hai Bà Trưng được tấn phong làm Thánh chân công chúa hai Bà Trưng.
Nội dung: Bên cạnh các hoạt động tế lễ dâng hương thành lễ với cỗ tế chay, thì hội đền Nghè còn thu hút đông đảo du khách khắp nơi đến với lễ rước mũ.
Xuân mới đi chùa bái Phật lễ Bồ Tát, cả năm may mắn cát tường là phong tục tâm linh, cũng là thói quen rất đẹp của người Việt. Nhưng lễ lạt nhiều mà chưa học
Xuân mới đi chùa bái Phật lễ Bồ Tát, cả năm may mắn cát tường là phong tục tâm linh, cũng là thói quen rất đẹp của người Việt. Nhưng lễ lạt nhiều mà chưa học tập các vị Bồ Tát thì cũng chỉ là biết mà chưa hiểu, lễ mà chưa kính. Ngay từ hôm nay, hãy thành tâm bái Phật và nghiêm túc tu chỉnh bản thân theo những đức tính hay dưới đây.
Bái Bồ Tát, khấn chư Phật chính là việc áp dụng học hành kiến thức vào với thực thế cuộc sống chứ không phải chỉ mâm cao cỗ đầy hòng mong cầu xin xỏ. Với Phật giáo, việc tu dưỡng bản thân, học theo Phật pháp, hành thiện tu tâm, trở thành người có đủ chân, thiện, mĩ và thấu hiểu nhân gian mới chính là cách tốt nhất để lễ Phật.
► Xem Lịch vạn niên, lịch vạn sự chuẩn nhất tại Lichngaytot.com
Kiếm Phong Xem Clip Chuyện đời ai biết ngày mai Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thiên Nga (##)
Chọn cây trồng hợp mệnh cho gia chủ vạn sự cát tường
Chỉ với một chậu cảnh nhỏ xinh bày trong nhà là chúng ta có thể tạo ra một không gian sống vô cùng thoải mái, đồng thời đem lại tài vận, may mắn cho bản thân. Hãy tham khảo cách chọn loại cây trồng theo mệnh của gia chủ dưới đây để đem lại sự cát tường cho gia đình.
Có rất ít người biết rằng chỉ cần bày vài chậu hoa hay cây cảnh trong văn phòng hay nhà ở một cách hợp lý là đã có thể cải thiện vận khí cho nơi đó. Việc đặt chậu cây cảnh phù hợp không chỉ tạo ra một môi trường làm việc thoải mái hay một không gian sống dễ chịu mà còn giúp cải thiện vận may cho chính bản thân mình. Mỗi người thuộc những cung mệnh khác nhau sẽ hợp với những loài cây khác nhau:
1. Chọn cây cảnh hợp với người mệnh Mộc
Màu xanh giúp đem lại may mắn cho những người thuộc mệnh Mộc, nhưng người mệnh Mộc lại rất kỵ màu trắng. Để tăng tài vận cho những người mệnh Mộc thì số chậu hoa trong nhà tốt nhất nên để 3 hoặc 8 chậu. Gia chủ có thể chọn các loại cây thuộc họ tùng trúc, cây Phát Tài, hoa Thủy Tháp, hoa Lan, sâm cảnh, cây Vạn Niên Thanh, các loại dừa cọ, cây Kim Tiền,… để tăng tài vận.
Người mệnh Mộc nên chọn các loại cây thuộc họ tùng trúc, cây Phát Tài, hoa Lan
2. Chọn cây cảnh cho người thuộc mệnh Kim
Người mệnh Kim rất hợp với màu trắng và màu bạc nhưng lại rất kỵ với màu đỏ. Để tăng vận khí cho bản thân thì người mệnh Kim nên trồng 4 hoặc 9 chậu cảnh trong nhà. Để tăng tài vận, người mệnh Kim nên trồng các loại cây như Bạch Lan, cây Trà Phúc Kiến, hoa Bách Hợp vàng, hoa Cửu Ly Hương, hoa Hàm Tiếu, hoa Mễ Lan, hoa Kim Quế, hoa Kim Ngân,…
Người mệnh Kim nên trồng các loại cây như Bạch Lan, cây Trà Phúc Kiến, hoa Bách Hợp vàng,...
3. Chọn cây cho người thuộc mệnh Thủy
Màu đen, xám và xanh da trời là những màu sắc đem lại may mắn cho những người mệnh Thủy, nhưng những người mệnh này lại rất kỵ với màu vàng. Trồng 1 hoặc 6 chậu cây trong nhà sẽ giúp tăng tài vận cho người mệnh Thủy. Gia chủ mệnh Thùy có thể chọn trồng các loại cây như Lan Hồ Điệp, hoa Thủy Lục, Dương Xỉ, cây Liêm Hồ Đằng, Trúc Phú Quý, cây hoa trà, cây Thường Xuân, cây Ngọc Kỳ Lân, cây Mẫu Tử, hoa Đại tướng quân,…
Hoa Lan Hồ Điệp rất phù hợp để trồng trong nhà của người mệnh Thủy
4. Chọn cây cảnh cho người thuộc mệnh Thổ
Màu vàng không hợp với người mệnh Thủy nhưng lại là màu bản mệnh của người mệnh Thổ. Trong khi đó, người mệnh Thổ lại kỵ với màu xanh lá cây. Gia chủ mệnh Thổ nên trồng 5 đến 10 chậu cây cảnh để tăng tài vận cho mình. Người mệnh này có thể chọn trồng các loại hoa như hoa Hàm Tiếu, hoa Mễ Lan, hoa Quế, cây Mẫu Tử, cây Thiên Tuế,…
Người mệnh Thổ nên trồng các loại cây như hoa Hàm Tiếu, hoa Mễ Lan, hoa Quế, cây Mẫu Tử, cây Thiên Tuế
5. Chọn cây cảnh cho người thuộc mệnh Hỏa
Các màu sắc như màu đỏ, hồng và tím rất hợp với người mệnh Hỏa, trong khi màu đen lại kỵ với mệnh này. Để tăng tài vận cho người mệnh Hỏa thì nên trồng 2 hoặc 7 chậu cảnh trong nhà. Dưới đây là một số cây mà gia chủ mệnh Hỏa có thể chọn trồng như hoa Giấy đỏ, hoa Son Môi, hoa Trà đỏ, cây Long Huyết, cây Văn Trúc, cây Ngũ Gia Bì, cây Thường Xuân, hoa Quế, cây Phát Tài,…
Hoa Giấy đỏ, hoa Son Môi, hoa Trà đỏ, cây Long Huyết, cây Văn Trúc, cây Ngũ Gia Bì, cây Thường Xuân, hoa Quế, cây Phát Tài,… là các loại cây thích hợp với người mệnh Hỏa
Vận thế là do mỗi người trong chúng ta tự quyết định. Nếu bạn biết cách bố trí nhà cửa hợp phong thủy thì con đường tài lộc sẽ càng trở nên thuận lợi và gần hơn bao giờ hết.
(Theo Khám phá) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Đoan Trang(##)
Kỷ Sửu nam mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.
Kỷ Sửu số mạng như vầy, Lửa trời sấm chớp sáng đầy trời mưa. Nếu sanh mùa Hạ thì sang, Gái mà Kỷ Sửu số nàng như trai. Lòng dạ cứng cỏi như trai, Thấy mạnh hiếp yếu ra tay binh liền. Số này chẳng chịu ở yên, Có tay buôn bán lại chuyên nhiều nghề. Bạc tiền như giấc chiêm bao, Có rồi lại hết sớm vào tối ra. Số cô phải chịu phong ba, Ba mươi sáu tuổi mới là yên thân. Số cô tuổi nhỏ bôn ba, Nhưng mà cô số chẳng qua ông trời. Làm giàu phải tự tay ta, Chẳng cần cha mẹ cùng là phu quân. Kỷ Sửu lập nghiệp nên nhà, Công danh sẳn có nhờ căn tu.
CUỘC SỐNG
Tuổi Kỷ Sửu, tuổi nhỏ vào trung vận có nhiều cay đắng, con người bao giờ cũng có nhiều ý nghĩ và ham thích những cái đẹp bề ngoài. Cuộc đời vào thời hậu vận mới có được những kết quả về công danh, tài lộc cũng như mọi khía cạnh tình cảm. Con người hay có tánh lạt lòng, nên thường bị lợi dụng về tình cảm. Tuy nhiên, sẽ có nhiều triển vọng vào những năm mà số tuổi từ 24 trở đi.
Tóm lại: Cuộc đời nhiều cay đắng vào lúc tuổi nhỏ nhưng cuộc sống có nhiều triển vọng tốt đẹp vào hậu vận và trung vận. Sự sống lên cao bắt đầu từ 24 tuổi trở đi. Trong tương lai có nhiều may mắn hơn thời tiền vận.
Cuộc sống hoàn toàn êm đẹp, trung vận và hậu vận tốt đẹp, số hưởng thọ trung bình từ 58 đến 66 tuổi, nhưng nếu làm phước, ăn ở hiền lành thì sẽ được gia tăng niên kỷ, gian ác thì sẽ bị giảm kỷ.
TÌNH DUYÊN
Về vấn đề tình duyên đối với tuổi Kỷ Sửu là cả một vấn đề nan giải. Gặp rất nhiều trở lực trong cuộc đời đối với vấn đề tình duyên và hạnh phúc. Tình duyên đối với tuổi Kỷ Sửu được chia thành ba giai đoạn như sau:
Nếu bạn sanh vào những tháng nầy, thì cuộc đời bạn đối với vấn đề tình duyên và hạnh phúc phải có ba lần thay đổi, đó là bạn sanh vào những tháng: 3, 6, 8 và 10 Âm lịch. Nếu bạn sanh vào những tháng nầy thì cuộc đời bạn phải có hai lần thay đổi về vấn đề tình duyên và hạnh phúc, đó là bạn sanh vào những tháng: 2, 4, 7, 9 và 11 Âm lịch. Nhưng nếu bạn sanh vào những tháng nầy thì cuộc đời bạn hoàn toàn hưởng được hạnh phúc và không bao giờ có thay đổi về vấn đề tình duyên, hạnh phúc, đó là bạn sanh vào những tháng: 1, 5 và 12 Âm lịch.
Trên đây là diễn tiến về tình duyên và hạnh phúc của bạn xuyên qua tháng sanh và do sự nghiên cứu về chiêm tinh huyền bí học. Vậy bạn nên nhớ mình sanh vào tháng nào để biết được cuộc đời đối với vấn đề tình duyên để quyết định cuộc đời.
GIA ĐẠO, CÔNG DANH
Phần gia đạo được đầy đủ và nhiều thương yêu. Công danh nếu có theo đuổi, thì tương lai có triển vọng đặc biệt, nhứt là thời trung vận, tức là từ khoảng tuổi 24 đến 35. Về công danh có nhiều tốt đẹp trong tương lai. Nếu không theo đuổi công danh, thì vấn đề làm ăn rất hạp với sự buôn bán.
Sự nghiệp nhiều hi vọng và đầy triển vọng vào thời trung vận, có ảnh hưởng rất nhiều đến sự sống và cuộc đời. Sự nghiệp rất hay đẹp, tạo cho cuộc sống có một địa vị vững chắc ngoài xã hội. Tiền bạc dồi dào và đầy đủ, nhờ ở khả năng và sự dễ dàng tạo lấy nhiều dịp may về tiền bạc.
NHỮNG TUỔI HẠP LÀM ĂN
Nếu cần trong sự làm ăn cộng tác hay hợp tác bằng tiền bạc hay bằng khả năng, tất cả mọi công việc tạo lấy tiền tài và danh vọng, làm cho cuộc đời có nhiều phấn khởi; trong mọi sự việc ở trên đời này, tuổi Kỷ Sửu rất hạp với các tuổi: Canh Dần, Quý Tỵ, Giáp Ngọ. Nếu cần bất cứ một việc gì trong việc hợp tác làm ăn thì nên hợp tác với những tuổi trên, mau phát đạt và không bao giờ sợ có thất bại.
LỰA CHỌN VỢ, CHỒNG
Trong sự kết hợp lương duyên, xây dựng tình duyên và hạnh phúc, bạn cần nên chọn lựa những tuổi hạp với tuổi mình, mới có thể đẩy mạnh cuộc sống lên cao và làm cho cuộc đời đầy sung sướng. Tuổi Kỷ Sửu thuộc Nữ mạng rất hạp kết hôn với những tuổi nầy: Canh Dần, Quý Tỵ, Giáp Ngọ, Bính Thân, Mậu Tý, Đinh Hợi.
Hai tuổi Canh Dần và Quý Tỵ: Hợp với tuổi Kỷ Sửu về tình duyên, con cái đông đảo, hợp về đường tài lộc lẫn công danh, có thể đẩy mạnh cuộc sống lên đến tột đỉnh của cuộc đời. Với tuổi Giáp Ngọ và Bính Thân: Hợp với tuổi Kỷ Sửu về tình duyên và tài lộc, có thể tạo lấy tiền tài rất dễ dàng và có nhiều cơ hội thuận tiện để đưa đến sự giàu sang phú quý. Với tuổi Mậu Tý, Đinh Hợi: Hợp về lương duyên, hạnh phúc. Đường tài lộc có nhiều cơ hội phát đạt, cũng tạo được sự giàu sang và có đầy đủ cơ hội thuận tiện đẩy mạnh cuộc đời lên cao.
Trên đây về sự chọn lựa lương duyên của bạn được sống cao sang quyền quý, bạn nên chọn những tuổi trên mà kết hôn thì cuộc đời rất tốt đẹp.
Nếu bạn kết hôn với những tuổi nầy thì chỉ có thể tạo được cho cuộc đời bạn với một cuộc sống trung bình mà thôi, đó là bạn kết duyên với các tuổi: Nhâm Thìn, Giáp Thìn. Bạn kết hôn với hai tuổi nầy chỉ hợp về đường tình duyên mà không hợp về đường tài lộc, nên chỉ tạo được một cuộc sống trung bình mà thôi.
Nếu bạn kết hôn với những tuổi nầy, cuộc sống của bạn có thể sẽ trở nên và khó tạo lấy được một cuộc đời như ý, vì những tuổi nầy không hạp về đường tình duyên và lẫn cả vấn đề tài lộc, nên sẽ gặp phải một cuộc sống trong sự khó khăn của cuộc đời. Nghèo khổ luôn luôn vây lấy cuộc đời, khó tránh được, và khó vượt qua con đường đi dến tốt đẹp. Đó là bạn kết duyên với các tuổi: Kỷ Sửu đồng tuổi, Ất Mùi, Tân Sửu, Đinh Mùi.
Những tuổi nầy kết duyên không hạp, có thể phải sống trong sự nghèo khổ suốt đời.
Những năm mà bạn ở vào tuổi nầy, bạn không nên kết hôn, vì những năm xung khắc tuổi. Nếu bạn kết hôn sẽ sanh ra cảnh xa vắng triền miên hay ít ra cũng có lo âu về việc chồng, đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi: 17, 21, 23, 29, 33, 35 và 41 tuổi.
Ở vào tuổi nầy không nên kết hôn, vì không thành hay nếu thành thì có thể phải chịu cảnh đã nói ở trên.
Nếu gặp sanh vào những tháng nầy thì tuổi Kỷ Sửu có số đa phu hay ít ra cũng nhiều lo lắng về việc lấy chồng, đó là sanh vào những tháng: 7, 8, 10 và 11 Âm lịch.
NHỮNG TUỔI ĐẠI KỴ
Nếu đặt vấn đề làm ăn, hợp tác hay mọi việc gì khác trong cuộc đời, thì nên tránh những tuổi nầy, vì làm ăn hay hợp tác có thể sanh ra nhiều thương đau trong cuộc đời bạn, nếu không bị tuyệt mạng thì cũng mang cảnh biệt ly ở giữa cuộc đời, đó là những tuổi đại xung kỵ với tuổi Kỷ Sửu như các tuổi: Tân Mão, Đinh Dậu, Mậu Tuất, Quý Mão, Bính Tuất, Ất Dậu. Tốt hơn muốn tránh đi những đau buồn, thì không nên hợp tác hay kết hôn với những tuổi trên.
Gặp tuổi kỵ về tình duyên không nên làm lễ hôn nhân, ra mắt họ hàng thân tộc. Trong gia đình thì phải cúng sao giải hạn cho cả hai tuổi. Về việc làm ăn, kết bạn gặp tuổi kỵ nên tránh xa thì tốt hơn, đề hầu tránh sự thất bại hoặc đau khổ về sau.
NHỮNG NĂM KHÓ KHĂN NHẤT
Tuổi Kỷ Sửu phải bước qua những năm khó khăn nhứt là những năm mà bạn ở vào số tuổi 21, 24, 28 và 42 tuổi. Những năm nầy nên đề phòng, vì gặp sự làm ăn thất bại, bịnh tật hay mọi việc khó khăn trong cuộc sống.
NGÀY GIỜ XUẤT HÀNH HẠP NHẤT
Tuổi Kỷ Sửu có những ngày, giờ xuất hành hạp nhứt là ngày chẵn, giờ chẵn và tháng chẵn; xuất hành làm ăn và đi đúng như trên thì cuộc đời không bao giờ có thất bại, vì giờ, ngày và tháng trên rất hạp với tuổi của bạn nên sẽ mang lại được nhiều thắng lợi.
VẬN TRÌNH TỬ VI TỪNG NĂM
Từ 18 đến 25 tuổi: Năm 18 tuổi, năm nhiều thử thách trong cuộc đời, nên cẩn thận việc ra đi, xuất hành nhứt là việc đi xa nên đề phòng tai nạn, toàn năm chỉ ở trong mức độ bình thường. Năm 19 tuổi, tình cảm vượng phát, có nhiều triển vọng tốt đẹp về công danh, có tài lộc bất ngờ vào tháng 8 trở đi. Năm 19 tuổi, triển vọng về tình cảm và công danh, phần tài lộc bình thường. Năm 20 tuổi, phần tình cảm phát triển mạnh mẽ, phần tài lộc bình thường, phần công danh có nhiều triển vọng hay. Năm 21 tuổi, năm nầy kỵ kết hôn và không nên đi xa hay mở rộng việc dự tính làm ăn sẽ có nhiều thất bại. Năm 22 tuổi, nhiều hay đẹp trong cuộc đời, có kỵ tháng 4, đề phòng tai nạn, bịnh hoạn bất ngờ. Năm 23 và 24, hai năm chỉ thắng lợi về tình cảm, tài lộc bình thường, công danh nếu có sẽ vượng phát mạnh. Nếu không có vấn đề công danh thì việc làm ăn sẽ thâu được nhiều thắng lợi. Năm 25 tuổi, năm phát đạt về nghề nghiệp, việc làm ăn cũng như tình cảm và công danh.
Từ 26 đến 30 tuổi: Năm 26 tuổi, có nhiều lo phiền, vào những tháng 5 và 6 buồn nhiều. Năm 27 tuổi, khá về đường danh vọng, năm nầy tạo được nhiều việc may mắn trong cuộc đời. Năm 28 tuổi, có khắc kỵ hay xung khắc về gia đình. Năm nầy sanh con vào tháng 8 trở đi thì khó nuôi. Năm 29 tuổi, toàn năm đều tốt đẹp, có thắng lợi về tiền bạc, nghề nghiệp. Những tháng đầu năm thì rất tốt, làm ăn, danh vọng có nhiều phát triển. Từ tháng 6 trở đi hơi xấu, tháng 11 kỵ đi xa, có hại. Năm 29 và 30, hai năm bình thường không có gì quan trọng xảy ra trong cuộc đời.
Từ 31 đến 35 tuổi: 31 tuổi tốt đẹp, tiền tài tốt đẹp, công danh hay việc làm tạo được nhiều cơ hội thuận tiện phát triển mạnh về nghề nghiệp. 32 tuổi, việc làm ăn cà công danh ngừng trệ, năm nầy có hao tài tốn của hay đau bịnh thình lình. 33 tuổi, năm nầy không được tốt lắm, nên coi chừng bạn bè phản phúc hay có người trong nhà phản, hao tốn tiền bạc nhiều, hãy cẩn thận. 34 và 35 tuổi, hai năm trung bình, không có thất bại và cũng không có thành công.
Từ 36 đến 40 tuổi: Năm 36 và 37 tuổi, hai năm tài lộc điều hòa, gia đình êm ấm, có thể phát triển thêm sự làm ăn trong hai năm nầy thì tốt. Năm 38 và 39 tuổi, hai năm nầy khá tốt về đường tài lộc và tình cảm, có thể gặp nhiều việc may mắn về tiền bạc, kỵ tháng 6 năm 38 và tháng 4 năm 39. Năm 40 tuổi, trọn vẹn và khá hay đẹp, năm nầy sinh con thì tốt, có phát tài.
Từ 41 đến 45 tuổi: Năm 41 tuổi, không được tốt lắm, năm nầy có hai tháng đại xung khắc, đi xa thì bị nạn, đi gần thì gặp nhiều chuyện chẳng lành, đó là tháng 4 và 7, hai tháng nầy nên cẩn thận đề phòng cho lắm. Năm 42 và 43 tuổi, không được nhiều tốt đẹp, làm ăn tiền bạc hay thua lỗ, việc gia đình có hơi bê bối, hai năm nầy quá xấu, không nên phát triển nghề nghiệp, cũng như về mọi khía cạnh khác. Năm 44 và 45 tuổi, hai năm nầy có triển vọng lên cao, khá tốt đẹp về tài lộc lẫn cả tình cảm. Nếu cố tạo lấy việc làm ăn sẽ giàu to.
Từ 46 đến 50 tuổi: Năm 46 và 47 tuổi, khá hay đẹp về vấn đề gia đình, công danh và sự nghiệp ở vào mức trung bình, tài lộc điều hòa, không có nhiều lo âu lắm. Năm 48 và 49 tuổi, hai năm nầy cũng còn khá đẹp không có việc gì quan trọng xảy ra, chỉ nên cẩn thận về bản thân và nghề nghiệp mà thôi. Năm 48 tuổi và 49, hai năm nầy thì tài lộc bình thường, đường nghề nghiệp có cơ hội phát triển, tình cảm êm ấm. Năm 50 tuổi, năm nầy yên vui nhứt, toàn năm đều tốt đẹp.
Từ 51 đến 55 tuổi: Khoảng thời gian nầy vẫn ở trong tình trạng bình thường, cuộc sống khá sung túc và đầy đủ, cuộc đời hoàn toàn sống trong sự giàu sang phú quý. Trừ năm 53 tuổi có xấu vào tháng 6 và 8 mà thôi.
Từ 56 đến 60 tuổi: Năm 56 đến 57 tuổi, có triển vọng về phần gia đình, sự nghiệp, tiền bạc dư dả, con cháu thuận hòa, gia đạo yên vui. Năm 58 và 59, tình cảm êm đẹp, gia đình có nhiều chuyện buồn lo, tiền bạc có hao tài tốn của. Năm 60 tuổi, đề phòng tánh mạng, năm nầy có xung khắc vào tháng 10 trở đi.
1. Một người đàn ông có thể thành công ngoài có mẹ hiền, còn phải có một người vợ đảm. Nhà có vợ hiền thục đảm đang tốt hơn so với nhà có nhiều tiền. Nhà có nhiều tiền có thể phá hết, nhưng nhà có vợ hiền tất cuộc sống luôn được êm ấm hạnh phúc.
Chính vì vậy, hoa mẫu đơn tuy đẹp nhưng cần có lá xanh làm nền mới có thể tôn lên vẻ đẹp.
Đáng tiếc là tài phú trong thiên hạ dễ cầu, vợ hiền khó kiếm. Đương nhiên, nữ giới cũng oán thán vì sao thiên hạ lại khó tìm được người chồng tốt. Nguyên nhân có thể do ngũ trụ (ngũ trụ = tứ trụ + trụ thai nguyên) của chúng ta không đẹp hoặc kiếp trước chúng ta từng tạo nghiệp chướng.
2. Lưới mở một bên
Người xưa khi đánh cá để nước mở một bên, khiến cho cá nhỏ vẫn có thể thoát ra, không tận diệt cá. Như vậy còn cá mới sinh ra cá, lần sau có cá để đánh, còn cá là còn có thể đánh bắt.
Làm người cũng cần phải để lại cơ hội cho người khác, khiến cho họ cảm kích mình, sau này có cơ hội sẽ báo đáp.
Do đó làm người tất cần có tấm lòng khoan dung độ lượng, chớ nên có tâm địa hẹp hòi. Cần phải hiểu rằng biển cả do trăm sông đổ về mà thành, bạn không thu nạp trăm sông đó, hỏi có thể thành biển được không?
3. Bạn để lại những gì?
Đời người có sinh có tử, chết không đáng sợ chỉ là sau khi chết bạn để lại những gì? Để người đời sau nhớ đến, kính trọng, ca tụng, hay là bị chửi mắng, chê cười?
Hổ chết để lại da, vậy con người khi qua đời để lại điều gì?
Người chết thường để lại tiền của cho con cái. Nhưng nếu bạn có con cái lương thiện giỏi giang, chúng sẽ tự mình vươn lên kiếm tiền. Nếu bạn có con cái vô dụng, chúng sẽ phá tan tiền tài bạn để lại, thậm chí hại đến cả bản thân chúng.
Người phương Tây sau khi chết không để lại tiền cho con cái mà đem quyên góp từ thiện. Dụng ý của họ đó là cổ vũ khích lệ con cái tự mình nỗ lực phấn đấu, độc lập không dựa dẫm.
(Bát tự luận đoán tuần hoàn - Phan Tử Ngư)
---
Kể ông Phan Tử Ngư này cũng kỳ. Mỗi khi diễn giải về các phương pháp giải tử vi, các lá số mẫu ông ấy luôn có các bài viết diễn giải cách ứng xử, các đạo lý sống, rồi các kinh nghiệm giữ gì, bảo vệ sức khỏe ..
Có thể ai đó ham chiêu thì không vừa ý với cách này. Nhưng cái mà độc đáo của tử vi chính là lời khuyên ứng xử, lời khuyên cải vận cho người xem số. Để giúp họ sống hướng thiện, cải đổi cái xấu, thúc đẩy cái tốt - xu cát tị hung. Đó mới là tử vi đỉnh cao.
Đạo ứng xử, lời khuyên ứng xử dùng cho cả đời. Chỉ xem một lần mà cải vận cả đời thì mới giỏi. Còn nhăm nhăm xem hạn để tránh thì hình như hơi "xoàng" quá. Mình cảm thấy vậy.
– tẻ nhạt, thiếu nguồn sinh khí mới mẻ. Lâu dần, tình cảm thay đổi theo chiều hướng tiêu cực, thậm chí phải đường ai nấy đi, tự tìm cho mình đối tượng phù hợp hơn.
Ưu điểm và khuyết điểm trong tính cách của 12 con giápChọn tháng sinh vượng tài vận cho 12 con giápChàng trai tuổi nào lấy mẹ làm tiêu chuẩn để chọn vợ? No3. Nữ tuổi Dậu và nam tuổi DầnCặp đôi con giáp Dậu và Dần có cùng lý tưởng chung là mong muốn cuộc sống bình yên, ổn định, không quá nhiều sóng gió hay thử thách.Điều này vô hình chung khiến cuộc sống của họ ngày càng tẻ nhạt, thiếu nguồn sinh khí mới mẻ. Lâu dần, tình cảm thay đổi theo chiều hướng tiêu cực, thậm chí phải đường ai nấy đi, tự tìm cho mình đối tượng phù hợp hơn.
Lấy chàng trai tuổi này làm chồng, khỏi muộn phiền vì tiền bạc12 con giáp và những ngôi sao mùa Euro 2016: Người tuổi Dậu5 con giáp đào hoa đấy nhưng chớ vội chủ quan No2. Nữ tuổi Sửu và nam tuổi HợiCô nàng tuổi Sửu tính tình hiền hòa, nhu mì, đời sống nội tâm phong phú, nhưng lại không giỏi thể hiện cảm xúc ra bên ngoài. Trong tình yêu, con giáp này hết mực thủy chung, cũng là nửa kia lý tưởng cho người tuổi Hợi.Anh chàng tuổi Hợi lại chất phác, thẳng thắn, nhưng lại mắc cái tật đa nghi, thiếu sự lãng mạn trong tình yêu. Chính vì thế, khi cặp đôi này bên nhau lâu ngày, nữ tuổi Sửu sẽ cảm thấy đối phương nhạt nhẽo, vô vị, muốn tìm nguồn cảm hứng mới để có thể sống thật với chính mình.
No1. Nữ tuổi Tý và nam tuổi Thân Đa phần những cô nàng cầm tinh con Chuột đều chăm chỉ, cần mẫn, có lối sống hiện thực, không mơ mộng hão huyền hay ảo tưởng về những thứ xa vời trong tương lai xa xôi. Họ thường đặt ra mục tiêu phấn đấu cao, tự mình lăn lộn để chinh phục bằng được thành công. Trong tình yêu, nữ tuổi Tý lại luôn thiếu cảm giác an toàn, lúc nào cũng như tìm kiếm bờ vai vững chắc, đáng tin cậy để nương tựa mà không được. Chàng trai tuổi Thân năng động, hoạt bát, có đầu óc kinh doanh tốt, cộng thêm với nỗ lực bản thân, chất lượng cuộc sống ngày càng nâng cao. Nhưng vì đặt mọi tâm huyết cho sự nghiệp, nên phương diện tình cảm của con giáp này nhạt nhòa, yêu qua loa đại khái chứ không có chuyện lăn xả nhiệt tình.Chính vì thế, khi ở bên nhau lâu ngày, cặp đôi nữ Tý nam Dần ắt sẽ xảy ra chuyện. Không mâu thuẫn, cãi vã thì cũng im lặng rồi tự thân mỗi người tìm đến nguồn vui mới.
► Khám phá thêm: Bí ẩn 12 cung hoàng đạo và những điều liên quan tới bạn
Hoàng Lam 12 con giáp và những ngôi sao Euro 2016: Người tuổi Tuất Năm nay, tuy người tuổi Tuất không có cát tinh trợ lực, nhưng Tuất Thổ sinh Thân Kim, lại được Thái Tuế Bính Thân giúp đỡ, công việc, sự nghiệp vẫn bình ổn Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thanh Vân (##)