Lòng bàn tay tiết lộ tài năng tiềm ẩn của bạn
![]() |
| 1. Dưới ngón tay cái | 2. Dưới ngón tay trỏ | 3. Dưới ngón giữa |
| 4. Dưới ngón áp út | 5. Dưới ngón út | 6. Cạnh trái của lòng bàn tay |
Mộc Trà (Theo Lol)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (##)
![]() |
| 1. Dưới ngón tay cái | 2. Dưới ngón tay trỏ | 3. Dưới ngón giữa |
| 4. Dưới ngón áp út | 5. Dưới ngón út | 6. Cạnh trái của lòng bàn tay |
Mộc Trà (Theo Lol)
Những lô đất được cho là “nở hậu” thì được ví von là “túi vàng” tích trữ tài sản tốt cho gia chủ. Điều đó cũng đồng nghĩa giúp gia chủ an tâm, vững tài, phát lộc. Thuyết phong thủy không mới, nhưng người tin vào phong thủy cũng đang tăng dần bởi không chỉ “có kiêng có lành” mà “có tin cũng có an” - an bình, an tâm, an phúc.
Thế “An sinh”
Trong phong thủy nơi nào có nước là nơi đó sinh tài, phát lộc.
1. Trái ngắn phải dài, trước rộng sau hẹp: cát trạch. Mảnh đất bên trái ngắn, bên phải dài sẽ rất tốt, vì loại địa hình này mặt sau hẹp mặt trước rộng, xây nhà ở đông thì toàn gia cát tường, con cháu đông đảo, chăn nuôi trồng trọt đều thành tựu.
2. Nơi ở có đầy đủ tứ thần là cát trạch. Đây là loại địa hình có đầy đủ tứ thần Chu Tước, Huyền Vũ, Thanh Long, Bạch Hổ. Tức là nhà ở bên trái có dòng nước chảy, bên phải có đường lớn, trước mặt có hồ nước, sau lưng có núi cao. Nếu chọn được địa hình này làm nơi ở thì nam giàu có, nữ tài giỏi. Quan tước lợi lộc không cần tìm kiếm cũng tự nhiên đến, con cháu đời sau có thể hưởng phúc trạch lâu dài.
3. Dòng nước chảy theo hướng tây nam – đông bắc là cát trạch. Đây là nơi có thể tìm kiếm để an cư lập nghiệp vì nó có dòng nước theo hướng tây nam – đông bắc chảy qua. Tuy lấy nhiều thê thiếp nhưng không có những tai họa khác, trong nhà sinh người quyền cao chức trọng.
4. Địa hình xung quanh đều cao là cát trạch. Loại địa hình giữa, chính diện, bốn phía đều cao, nếu xây dựng nhà cửa ở nơi này thì phúc đức có dư, gia súc đông đúc, gia đạo hưng vượng, con cháu nhiều anh hùng hào kiệt.
![]() |
| Đất có hình chữ nhật là một trong những ngoại hình nhà ở tốt lành theo phong thủy. |
5. Trước có đồi, sau có núi, phía tây có nước là cát trạch. Trước nhà có đồi, sau nhà có núi, hai bên có dòng nước uốn lượn từ hướng đông dần thấp xuống, từ từ chảy qua một phần khu đất, đây chính là nơi bảo địa.
6. Trái có thanh long, phải có bạch hổ là cát trạch. Loại địa hình hướng đông có dòng nước chảy mạnh mẽ hùng hậu, hướng tây lại có đường lớn thông suốt. Nếu chọn nơi này làm chỗ ở thì sẽ giàu sang phú quý. Đây chính là loại địa hình trái có thanh long, phải có bạch hổ.
7. Trước nhà hai bên đều có rừng cây, hướng Càn có đồi, hướng Cấn có núi là cát trạch. Trước mặt nhà có rừng cây phân ra hai bên, hướng Càn (tây bắc) có gò đồi, hướng Cấn (đông bắc) có dãy núi. Nếu ở được vào nơi này thì nhất định giàu sang phú quý, con cháu đời sau danh vọng vinh hiển.
Thế “Phú Quý”
8. Phía đông bắc có khuyết thiếu: đại cát, tích tụ tiền tài, công danh hiển hách.
9. Phía đông nam có chỗ khuyết thiếu: cát trạch, gia thế hiển hách, giàu sang, phú quý, con cháu hưng vượng, gia sản đầy đủ.
10. Địa hình cao ở giữa: cát trạch, nhân khẩu đông đúc, gia tài sung túc, con cháu vinh hiển.
11. Chính bắc có gò mả là cát trạch. Loại thế nhà này có phía bắc có gò mả, người thầy phong thủy giỏi chọn thế đất này là có nguyên do. Người quân tử ở đây thì thăng quan tiến chức, kẻ bình thường ở đây thì gia đạo phồn vinh.
12. Trước sau có đồi núi: cát trạch. Nơi ở trước sau đều có đồi núi, lựa chọn nơi này để ở là không sai lầm, thường sẽ có trang viên rộng rãi, phú quý phát tài, hỷ sự liên tiếp, là ao ước của rất nhiều người.
13. Địa hình trước hẹp sau rộng: cát trạch. Xây nhà ở nơi có địa hình trước hẹp sau rộng, tất yên ổn, giàu sang, con cháu phát đạt, cơm áo dư giả, sức khỏe dồi dào, của cải sung túc.
14. Phía tây bắc có đồi núi: cát trạch. Khu đất hướng Càn (tây bắc) phía sau có đồi núi, nếu xây nhà cửa, trang viên ở đây thì gia đạo sẽ hưng vượng, con gái nhập cung sẽ có thể làm cung phí, hoàng hậu, con cháu có con đường hoạn lộ thanh vân rực rỡ, làm quan đến chức khanh tướng.
15. Phía tây nam có gò mả: cát trạch. Địa hình phía tây nam có gò mả, nếu xây nhà hoặc đặt trang trại thì nhất định luôn hưng vượng, con cháu đời đời vinh hiển, tận hưởng vinh hoa phú quý.
16. Tây cao đông thấp: cát trạch. Phía tây cao phía đông thấp, xoay lưng lại với đỉnh núi cao, loại địa hình này thích nghi xây dựng nhà cửa trang trại, con cháu đời sau có thể hưởng vinh hoa phú quý, giàu có như đại phú gia Thạch Sùng, con cháu đầy nhà, gia súc đông đúc.
17. Phía sau có núi, bắc cao nam thấp: cát trạch. Loại địa hình phía sau có ngọn núi, phía bắc cao phía nam thấp được xem là “phong thủy bảo địa”, nếu chọn được vùng đất này thì con cháu hưng vượng, chăn nuôi thành tựu, của cải dư thừa.
18. Địa hình khuyết thiếu nhưng chỉnh tể: cát trạch. Loại địa hình bên phải ngắn bên trái dài, hoặc nếu bên phải dài bên trái ngắn thì cũng không có trở ngại gì. Vì nếu phía sau tròn trịa và chỉnh tề thì càng cát lợi, chọn được đất này để ở thì nhà dân thường cũng sinh người tài giỏi.
19. Trước sau có núi, trái phải có nước: cát trạch. Địa hình trước sau đều có núi cao tương hợp với nhau, hai bên trái phải lại có cồn cát, ao hồ, nếu ở đây nhất định gia thế sẽ vinh hoa, sống thọ.
20. Trái phải đều có kênh nước, cát trạch. Là nơi hai bên trái phải đều có kênh nước chảy qua, ở lâu dài con cháu sẽ giàu sang, phú quý, của cải tiền tài sung mãn, con cháu đời sau thông minh tuấn tú hơn người.
21. Sau lưng có núi: cát trạch. Loại địa hình sau lưng có núi, là nơi thích hợp xây dựng trang viên, người ở sẽ có của cải sung túc, sức khỏe dồi dào. Nếu xây nhà ở thì nhân khẩu đông đúc, con cháu đời đời của cải dư thừa.
![]() |
| Chọn được thế đất có đầy đủ tứ thần thì đại cát, đại lợi |
22. Phía đông bắc có gò mả: cát trạch. Loại địa hình phía đông bắc có gò mả, nếu thành gia lập nghiệp thì không có trở ngại gì. Xây dựng trang trại thì vô cùng cát lợi, vinh hoa phú quý, đời đời phồn vinh.
Các mảnh đất theo hình
23. Mảnh đất hình bình hành: Mảnh đất này được coi là một mảnh đất tốt. Trong trường hợp này, hãy xây nhà tại trung tâm mảnh đấy hay là phần phía trước sẽ giúp cho sự nghiệp phát đạt mau chóng. Nếu nhà nằm vào phần đất phía sau thì nghề nghiệp của người cư ngụ sẽ chắc chắn phát triển chậm.
24. Mảnh đất hình bán nguyệt: Mảnh đất hình dạng này là rất tốt. Trong mảnh đất này, tốt nhất là xây nhà ở giữa mảnh đất nhái theo hình dạng nửa đồng tiền cổ để đem lại tiền của dồi dào.
25. Đất có hình chữ nhật: đại cát, trong nhà xuất hiện hiền tài, con cháu có địa vị cao, tổ tông rạng rỡ.
26. Địa hình hình tròn: cát trạch. Đây là loại địa hình có hình tròn, bốn mặt hoàn chỉnh, căn cứ vào việc quan sát địa lý, loại địa hình này rất thích hợp xây dựng nhà ở. Nếu được ở vào khu đất này thì gia đình sẽ phú quý, hiển vinh, nhân khẩu hưng vượng.
Theo: Khỏe & Đẹp
Người tuổi Thân là những người tò mò, tinh quái, khôn khéo và vui vẻ. Là những người có đầu óc hài hước và cực kỳ trí thức. Là tuýp người giỏi giao tiếp, giỏi xoay sở để thích nghi với môi trường, có khả năng đoán biết được ý nghĩ của người khác. Vì thế họ có khả năng điều khiển quản lý người khác.Khi xem tuổi vợ chồng cho người tuổi Thân, cần dựa theo Kinh Dịch dự đoán các cặp kết hợp chi của tuổi Thân với các tuổi khác.
1. Xem bói tình yêu cho nam giới tuổi Thân với các tuổi khác
- Nam giới tuổi Thân với Nữ giới tuổi Tý: Đây quả là một cặp trời sinh. Hai người sẽ thương yêu và sống hạnh phúc bên nhau suốt đời.
- Nam giới tuổi Thân với Nữ giới tuổi Sửu: Tình yêu giữa hai người rất hòa hợp. Người vợ sẽ rất yêu chồng; người chồng thông minh thì luôn biết cách giải tỏa hết những mâu thuẫn trong gia đình để luôn cảm thấy vui vẻ, thoải mái và hạnh phúc.
- Nam giới tuổi Thân với Nữ giới tuổi Dần: Người chồng tuổi Thân nên chủ động chia sẻ những ý kiến của mình để tạo điều kiện cho người vợ tuổi Dần bộc bạch những suy tư ẩn dấu ở trong lòng. Nếu người vợ không thể thổ lộ những suy tư đó thì dễ rơi vào tình trạng chán nản, mệt mỏi trong cuộc sống.
- Nam giới tuổi Thân với Nữ giới tuổi Mão: Hai người có thể cùng nhau xây dựng nên một gia đình nhỏ hanh phúc. Cùng tìm ra mục đích để phấn đấu, để cùng nhau gây dựng thì sẽ có được thành quả lớn lao.
- Nam giới tuổi Thân với Nữ giới tuổi Thìn: Hai ngưòi có thể chung sống với nhau. Người đàn ông rất có sức thu hút đối với người phụ nữ. Và tuy đôi khi cảm thấy thất vọng nhưng họ cũng sẽ không để lộ cho người khác biết cảm giác đó của mình.
- Nam giới tuổi Thân với Nữ giới tuổi Tỵ: Hai người có thể cùng nhau xây dựng nên một gia đình hạnh phúc mỹ mãn, với điều kiện người đàn ông phải có tình cảm thực sự trước khi tiến tới hôn nhân với người phụ nữ tuổi Tỵ
- Nam giới tuổi Thân với Nữ giới tuổi Ngọ: Hai người có suy nghĩ rất tốt về nhau. Tình cảm của người vợ thì trong sáng còn người chồng rất đỗi yêu thương và chăm lo cho gia đình.
- Nam giới tuổi Thân với Nữ giới tuổi Mùi: Hai người có thể sống bên nhau. Người vợ có thể khơi dậy những hứng thú của chồng, nhưng ngưòi chồng cũng cần phải cố gắng tạo lập sự nghiệp để giúp vợ thực hiện những ước muốn của mình.
- Nam giới tuổi Thân với Nữ giới tuổi Thân: Hai người khá hợp nhau, cả hai có thể làm chung một công việc đó. Chính công việc này sẽ mang lại niềm vui và củng cố để cuộc hôn nhân giữa hai người ngày càng trở nên tốt đẹp hơn.
- Nam giới tuổi Thân với Nữ giới tuổi Dậu: Người chồng cho dù thật sự yêu thương người vợ nhưng cần phải học hỏi để biết cách thể hiện tình yêu này ra bên ngoài. Tạo dựng niềm tin cho người vợ mình là một chỗ dựa vững chắc cho người phụ nữ tuổi Dậu.
- Nam giới tuổi Thân với Nữ giới tuổi Tuất: Cả hai cần khoan dung và nhẫn nhịn lẫn nhau thì mới mong có kết quả tốt đẹp. Đôi lúc, người vợ sẽ không thể hiểu được những suy nghĩ của người chồng cho nên người tuổi Thân phải biết cách chia sẻ tâm tư của mình để tin tưởng và hiểu nhau hơn.
- Nam giới tuổi Thân với Nữ giới tuổi Hợi: Đây sẽ là một cuộc hôn nhân hạnh phúc mỹ mãn. Cả hai luôn biết cách để đối phương cảm thấy vui vẻ, thoải mái. Tình yêu, hôn nhân của họ luôn tràn ngập những niềm vui và tiếng cười.
- Nữ giới tuổi Thân với Nam giới tuổi Tý: Hai người có thể sống vui vẻ bên nhau. Rất có thể người chồng sẽ có đôi lúc làm cho vợ phải buồn lòng, nhưng anh ta cũng luôn nhận được sự tha thứ thông cảm từ vợ. Điều này khiến người chồng rất cảm động và làm cho cuộc sống vợ chồng càng thêm hạnh phúc.
- Nữ giới tuổi Thân với Nam giới tuổi Sửu: Hai ngưòi có thể chung sống với nhau. Người chồng sẽ yêu vợ tha thiết, sẵn sàng hy sinh, nhượng bộ tất cả vì vợ của mình.
- Nữ giới tuổi Thân với Nam giới tuổi Dần: Tuy việc chung sống của hai người là không hể dễ dàng, nhưng thực sự tình yêu của hai người là chân thành. Nếu bỏ qua cái tôi cá nhân hơn, biết tôn trọng và lắng nghe nhau nhiều hơn thì chắc chắn cuộc hôn nhân này ai cũng muốn có.
- Nữ giới tuổi Thân với Nam giới tuổi Mão: Đây sẽ là một cuộc hôn nhân rất hạnh phúc. Cả hai người luôn cảm thấy vui vẻ, thoải mái mỗi khi được ỏ bên nhau.

- Nữ giới tuổi Thân với Nam giói tuổi Thìn: Đây sẽ là một cuộc hôn nhân hạnh phúc mỹ mãn. Người chồng biết cách bảo vệ cho vợ, còn người vợ thì luôn biết cách đưa ra những ý kiến và lời khuyên chân thành, hữu ích cho người chồng đầy tự tin của mình.
- Nữ giới tuổi Thân với Nam giới tuổi Tỵ: Cuộc sống hòa thận, ít tranh cãi hay mâu thuẫn lớn. Hai vợ chồng không có sự khác biệt nhau nhiều về sở thích và quan niệm sống do đó tương đối bình yên trong hôn nhân.
- Nữ giới tuổi Thân với Nam giới tuổi Ngọ: Thực tế cuộc sống có thể kéo hai người ở lại bên nhau cho dù có chuyện gì xảy ra. Rõ ràng có một sự gắn bó nào đó mà bản thân hai người phải tự mình tìm hiểu và cảm nhận về nhau.
- Nữ giới tuổi Thân với Nam giới tuổi Mùi: Không ít người mơ ước cuộc sống của cặp đôi này vì trong tình yêu họ nồng cháy nhưng trong hôn nhân họ rất êm đềm và trôi lắng.
- Nữ giới tuổi Thân với Nam giới tuổi Thân: Hai người có thể sông bên nhau và cùng nhau làm được nhiều việc rất có ý nghĩa.
- Nữ giới tuổi Thân với Nam giới tuổi Dậu: Người vợ có thể có được rất nhiều điều tốt đẹp do người chồng mang lại. Người chồng luôn biết rằng tình yêu của người vợ đối với mình là chân thành và tận tụy.
- Nữ giới tuổi Thân với Nam giới tuổi Tuất: Có thể hai người sẽ rất hợp nhau vì cả hai đều không thích huyễn hoặc và luôn chú trọng đến thực tế.
- Nữ giới tuổi Thân với Nam giới tuổi Hợi: Đây sẽ là một cuộc hôn nhân vô cùng hạnh phúc. Người vợ ngưỡng mộ tài năng của người chồng còn người chồng thì luôn cố gắng để đáp ứng được hết những yêu cầu của vợ.
Tạp chí 12 con giáp
Xét về số đào hoa, nam giới tuổi Dậu có đường nhân duyên tốt, dễ dàng gặp được người bạn đời của mình hơn. Nữ giới tuổi Dậu lại không được suôn sẻ trong đường tình duyên. Ngay cả khi đã chung sống với người bạn đời của mình, họ cũng gặp phải nhiều mâu thuẫn.
|
| (Ảnh chỉ mang tính chất minh họa) |
Nam tuổi Dậu thuộc mẫu người ưa hành động. Song, tình cảm của họ cũng rất mãnh liệt. Trang phục truyền thống sẽ phù hợp và tạo sức hấp dẫn riêng cho người này.
Nữ tuổi Dậu thường thích chọn gam màu sặc sỡ cho trang phục. Tuy nhiên, hình thức này không tạo được ấn tượng cho người khác. Họ nên thay đổi cách ăn mặc. Phong cách thời trang trẻ trung kết hợp với ngôn từ, cử chỉ hài hòa sẽ giúp nữ giới tuổi Dậu tạo được sức hấp dẫn đối với người khác giới hơn.
Theo phong thủy, một số vật dụng sẽ mang lại may mắn cho người tuổi Dậu như sau: hoa lan, quả lê, ngọc lục bảo.
(Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Máy tính hầu như nhà nào cũng có, để làm việc và phục vụ nhiều nhu cầu giải trí. Ta thường nghĩ máy tính để ở đâu cũng được, đặc biệt là những chiếc máy tính xách tay có thể xách đi bất cứ đâu, nhưng theo kinh nghiệm truyền lại và quan niệm phong thủy, nhiều người khẳng định chuyện này không đơn giản như ta vẫn nghĩ. Theo đó, trong nhà (và nói rộng hơn là ở bất cứ đâu), cũng có những tối kỵ ở điểm đặt máy tính xuống và sử dụng:
Tránh nước
Dễ hiểu khi nói rằng các thiết bị điện tử không được để gần những nơi có nước để tránh nguy cơ chập điện, hỏng hóc, nhưng ngoài ra, máy tính được coi là thuộc Hỏa, kỵ Thủy, sự kết hợp này sẽ gây ra những điều bất lợi cho chủ nhân, người sử dụng nó.
Tránh sáng
Một số màn hình máy tính có lớp tráng chống lóa nhưng nhìn chung bất cứ ai sử dụng máy tính đều hiểu việc không nên để ánh sáng chiếu vào màn hình, vì sẽ dễ gây lóa và cảm giác nhức đầu, khó chịu khi sử dụng. Không chỉ thế, việc để ánh sáng chiếu trực tiếp cũng bị cho là nguyên nhân gây ra thị phi, tranh cãi. Ngoài việc tránh sáng, ta cũng không nên để máy tính ở gần nguồn nhiệt sẽ dễ gây hỏng hóc.
Tuy vậy, tránh sáng không đồng nghĩa với việc nên để máy ở nơi tối tăm, không khí kém lưu thông vì sẽ tạo cảm giác u uất, khó tư duy và sáng tạo, cũng là điều hoàn toàn không tốt.
Tránh đặt đối diện giường ngủ
Như mọi phương tiện điện tử khác, máy tính cũng được khuyên không nên đặt trong phòng ngủ, nhưng nếu điều kiện gia đình không cho phép có phòng làm việc riêng mà buộc phải kê bàn trong phòng ngủ thì bạn phải hết sức chú ý không để màn hình đối diện, chiếu thẳng vào giường. Giống như gương và nhiều mặt phẳng phản chiếu khác, màn hình máy tính bị cho có thể ảnh hưởng xấu đến tinh thần của con người, chất lượng giấc ngủ cũng như chất lượng mối quan hệ của những người trên giường.
Lưu ý vị trí đặt máy tính trên bàn
Nhiều người ứng dụng quan niệm phong thủy Thanh Long (trái) - Bạch Hổ (phải) lên bàn làm việc và cho rằng do Long sợ xú uế, Hổ sợ động nên nếu đặt máy tính ở bên phải bàn - vị trí của Bạch Hổ thì sẽ rất bất lợi. Thay vào đó, nên đặt máy tính ở bên trái bàn làm việc. Ngoài ra, trên bàn làm việc, xung quanh máy cũng luôn cần giữ gọn gàng để không ảnh hưởng đến khả năng tập trung của người sử dụng.
Như vậy, chiếc máy tính ở vị trí tốt nhất cả theo phong thủy cũng như mục đích, hiệu quả sử dụng của chúng ta là ở nơi thông thoáng, gọn gàng, vừa đủ ánh sáng, tạo tâm trạng tốt cho người sử dụng thì mới có thể dẫn đến những kết quả tốt nhất.
Bạn hãy xem lại vị trí để máy tính của nhà mình và thay đổi nhé!![]()
(Ảnh: Internet)
Tổng hợp
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
Đây là điển cố thứ Tư trong quẻ Quan Âm, mang tên Ngọc Liên Hội Thập Bằng (còn gọi là quẻ Ngọc Liên Gặp Thập Bằng). Quẻ Quan Âm Ngọc Liên Hội Thập Bằng có bắt nguồn như sau:
Câu chuyện tình yêu giữa Vương Thập Bằng và Tiền Ngọc Liên có nguồn gốc từ “Kinh thoa ký”. Từ Vị trong “Nam tự lục” có nói rằng, “Kinh thoa ký” có hai bản, một bản không rõ tác giả là ai, được soạn vào khoảng thời Tống, Nguyên; một bản là do Lý cảnh Vân đầu đời Minh soạn. Toàn bộ vở kịch “Kinh thoa ký” có bốn mươi tám màn, nội dung chính kê’ về nàng Tiền Ngọc Liên cự tuyệt lời cầu hôn của Tôn Nhữ Quyền giàu có, quyết lấy anh chàng thư sinh Vương Thập Bằng nghèo khố, đã dùng cây thoa bằng cỏ kinh làm sính lễ.
Thư sinh Vương Thập Bằng mất cha khi còn nhỏ, gia cảnh nghèo khó, cùng với mẹ nương tựa vào nhau mà sống. Có vị cống nguyên tên là Tiền Lưu Hành thấy Vương Thập Bằng thông minh hiếu học, là người đứng đắn, bèn đem người con gái của vợ trước là Tiền Ngọc Liên gả cho Vương Thập Bằng. Vương Thập Bằng do gia đình nghèo khó, bèn lấy cây trâm làm bằng cỏ kinh làm sính lễ. Nhưng mẹ kế của Ngọc Liên chê nghèo tham giàu, muốn đem Ngọc Liên gả cho Tôn Nhữ Quyền là nhà giàu có trong vùng. Ngọc Liên không vâng theo, chỉ muốn gả cho Vương Thập Bằng theo sự sắp xếp của cha.
Sau khi kết hôn được nửa năm, kỳ thi đã đến, Vương Thập Bằng bèn từ biệt mẹ và vợ, lên kinh dự thi, kết quả đã thi đỗ Trạng nguyên, được nhận chức Thiêm phán ở Nhiêu Chân, Giang Tây. Thừa tướng Vạn Sĩ thấy Vương Thập Bằng tài mạo song toàn, muốn mời về làm rể. Vương Thập Bằng chối từ, khiến Vạn Sĩ giận dữ, điều Vương Thập Bằng đi nhậm chức Thiêm phán ở Triều Dương thuộc Quảng Đông, không cho phép được về nhà thăm người thân.
Vương Thập Bằng rời kinh thành đi nhậm chức, nhờ sai dịch của quan phủ chuyển về nhà một bức thư, không ngờ bị Tôn Nhữ Quyền vốn đi theo Vương Thập Bằng đến kinh thành lừa lấy mất, lại đem sửa đổi bức thư, giả thành Vương Thập Bằng đã vào làm rể trong phủ Thừa tướng, nhắn Ngọc Liên hãy đi lấy người khác. Sau khi Tôn Nhữ Quyền về tới ôn Châu, lập tức tìm mẹ kế của Ngọc Liên, ép Ngọc Liên lấy Tôn Nhữ Quyền. Ngọc Liên thề chết cũng không thuận theo, nhảy xuống sông tự vẫn. May được quan An phủ Phúc Kiến vừa mới nhậm chức là Tiền Đới Hòa cứu vớt, nhận làm con gái nuôi, đưa đến nơi nhậm chức. Sau khi Tiền Đới Hòa đến Phúc Kiến nhậm chức, lập tức sai người đi Nhiêu Châu tìm
Vương Thập Bằng. Sai nha nghe được tin người mới nhận chức Thái thú ở Nhiêu Châu cũng họ Vương, đến nhận chức không lâu thì ốm chết, bèn trở về nói cho Ngọc Liên biết. Ngọc Liên nhầm tưởng chồng mình đã qua đời, đau khổ muốn chết. Còn Vương Thập Bằng trước khi đi nhậm chức đã đi đón mẹ và vợ đến kinh thành, nghe tin Ngọc Liên nhảy xuống sông mà chết, cũng vô cùng đau khổ.
Năm năm sau, Vương Thập Bằng được điều đi nhậm chức Thái thú ở Cát An, mà Tiền Đới Hòa cũng được thăng chức từ An phủ Phúc Kiến lên Tuần phủ Lưỡng Quảng. Trên đường đi nhậm chức, khi đi qua phủ Cát An, Vương Thập Bằng đến bến sông bái kiến Tiền Đới Hòa. Sau khi Tiền Đới Hòa biết được Vương Thập Bằng chính là chồng của Ngọc Liên, bèn mở tiệc trên thuyền, mừng Thập Bằng và Ngọc Liên được đoàn tụ.
Trong thực tế, vào thời Nam Tống quả thực có người tên là Vương Thập Bằng, “Kinh thoa ký” đã mượn cái tên này để soạn ra tích truyện trên.
Vương Thập Bằng thời Nam Tống (1112 -1171) là nhà thơ và nhà chính trị nối tiếng, tự là Quy Linh, hiệu là Mai Khê, là người thôn Mai Khê, Tả Nguyên, Tứ Đô, Đông Thanh (nay là thành phố Đông Thanh, tỉnh Triết Giang). Ông làm quan đến chức Long Đồ các Học sĩ, có câu đối nổi tiếng được lưu truyền: “Vân triêu triều, triêu triêu triều, triêu triều triêu tán; Triều trường trướng, trường trường trướng, trường trướng trường tiêu” (Sáng ra mây tụ, ngày ngày tụ, tụ rồi lại tan; Thủy triều thường lên, thường thường lên, lên rồi lại xuống).
Vương Thập Bằng bảy tuổi đi học, mười bốn tuổi học thông kinh sử, thơ văn nổi tiếng xa gần. Mười bảy tuổi, cảm thương cho thời cuộc, buồn cho hai vị vua Tống Huy Tông và Tống Khâm Tông bị bắt, nhà Tống bị ép dời đô về phương nam, đến năm mười chín tuổi đã viết ra câu thơ nổi tiếng “Bắc Đẩu thành trì tăng vương khí, Đông Âu sơn thủy phát thanh huy” (thành trì Bắc Đẩu thêm vương khí, non nước Đông Âu thật sáng trong). Có tài văn chương thơ phú, chấn động thi đàn Triết Nam. Do sự hủ bại của nền chính trị Nam Tống lúc bấy giờ, gian thần Tần cối lộng hành chuyên quyền, trường thi tệ lậu, cho nên Vương Thập Bằng đi thi nhiều lần mà không đỗ. Mãi đến năm bốn mươi sáu tuổi, sau khi Tần Cối chết, ông lấy cảm hứng từ chữ “lãm quyền” (nắm quyền) để đối đáp, đỗ Tiến sĩ đệ nhất, được phong làm Trạng nguyên, ban đầu được giữ chức Thừa sự lang, kiêm chức Giáo thụ tiểu học ở Kiến Vương phủ. Do ông chủ trương kháng chiến, lại tiến cử vị lão tướng yêu nước Trương Lăng và Lưu Kỹ, nên về sau Vương Thập Bằng bị phái chủ hòa bài xích, phải rời kinh đô về làng.
Bố cục của căn nhà toạ Thìn hướng Tuất: Đây là bố cục thượng sơn hạ thuỷ, suy thoái cả đinh và tài. Chỉ khi đằng sau nhìn thấy thuỷ (sông, hồ, biển, đầm,…) thì mới chuyển tài vận được.

Tài vận: Phải đặt chậu rửa trong nhà bếp hướng Đông Nam. Hướng Đông Nam là vị trí vượng khí tài thần, lại gặp cát tinh Lục Bạch. Vị trí này đặt thuỷ thì có thể thúc vượng tài thần. Phía Đông Nam của phòng khách cũng nên đặt vật phong thuỷ như đồng tiền ngũ đế, quả cầu thuỷ tinh để tăng tài vận.
Sức khoẻ nhân đinh: Đặt lò vi sóng, nồi cơm điện ở hướng Tây Bắc phòng khách có thể tăng vận gia nhân, sức khoẻ.
![]() |
1. Khi gặp được người mà bạn thật lòng yêu thương: Bằng mọi giá hãy làm cho người ấy yêu thương bạn và muốn ở bên bạn mãi mãi, bởi nếu người ấy ra đi, bạn sẽ vô cùng đau khổ.
2. Khi gặp một người bạn đáng tin cậy: Hãy giữ mối quan hệ tốt đẹp với người này vì trong cuộc đời rộng lớn này thì việc gặp được tri âm tri kỷ vô cùng khó.
3. Khi gặp người mà bạn mang ơn: Hãy có những hành động bày tỏ sự cảm kích với họ, tuyệt đối không nên làm tổn thương họ vì họ chính là ân nhân của bạn.
4. Gặp lại người yêu cũ: Nên nở nụ cười với họ, cảm ơn họ vì đã giúp bạn hiểu thêm về tình yêu.
5. Gặp người từng ghét cay ghét đắng bạn: Nên cười xã giao với họ vì họ làm bạn trở nên kiên cường, cứng rắn hơn.
6. Gặp người đã từng phản bội bạn, quay lưng với bạn: Hãy cứ vui vẻ bắt chuyện với họ vì nếu như không có sự phản bội của họ thì tầm hiểu biết của bạn về cuộc sống này vẫn vô cùng hạn hẹp.
7. Gặp người bạn đã từng yêu say đắm: Nên chúc phúc cho họ, bởi vì khi yêu là nhìn thấy người mình yêu hạnh phúc cũng là một điều hạnh phúc.
8. Gặp người tình cờ đi ngang qua bạn: Họ là người góp phần khiến cuộc sống của bạn lung linh hơn, màu sắc hơn, bạn nên cảm ơn họ.
9. Và hãy cảm ơn một nửa của bạn hiện nay bởi vì người ấy đã dành tình yêu cho bạn, vì bạn và người ấy đang hạnh phúc.
| ► Cùng đọc: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm |
S.T
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
|
| Người tuổi Mùi có năm sinh là 1967, 1979, 1991... |
Vốn kín đáo trong suy nghĩ và cả trong việc bộc lộ cảm xúc nên mọi người khó có thể nắm bắt được tâm lý của người tuổi Mùi. Khả năng tự kiềm chế tốt giúp họ có được những thuận lợi nhất định trong giao tiếp.
Bên cạnh đó, người cầm tinh con dê còn có tính tình hiền lành, ôn hòa. Nếu cộng sự hay cấp trên của họ là người mạnh mẽ, nghiêm khắc thì họ vẫn có thể phát huy được hết khả năng của mình. Biết cách tạo môi trường làm việc hài hòa là ưu điềm của người tuổi Mùi và vì thế họ thường nhận được sự giúp đỡ của đồng nghiệp.
Không chỉ có tài tổng hợp, họ còn là người có óc phân tích, luôn biết cách nhìn nhận vấn đề, sự việc một cách tỷ mỉ. Đây là một ưu điểm mà không phải ai cũng có được.
Dễ tin người cũng là nét tính cách dễ thấy ở những người tuổi Mùi. Trong cuộc sống hay làm ăn kinh doanh, không ít lần họ bị kẻ xấu lừa gạt. Lời khuyên cho họ là nên tránh đảm nhiệm những công việc cần có sự can thiệp của nhiều người, nhất là công việc đầu tư tiền tệ. Tuy nhiên, nếu được sự bảo trợ của một ai đó thì họ rất dễ thành công với hoạt động đầu tư bất động sản hoặc chứng khoán.
Xét một cách toàn diện, tuổi Mùi thường có cuộc sống bình lặng, ổn định. Tuy không phải ai cũng có thể trở nên giàu có nhưng ít người tuổi Mùi phải vất vả, lo lắng tới việc mưu sinh. Con đường sự nghiệp của họ phát triển khá ổn định và vững chắc.
(Theo 12 con giáp về sự nghiệp cuộc đời)
Muốn phong thủy nhà ở tốt cũng là để chiêu tài, vượng vận, vượng bình an. Vì thế, không ít người theo đuổi những phương pháp phong thủy cát tường rất phức tạp, rắc rối và khó thực hiện. Phong thủy là bộ môn vi diệu, mênh mông, muốn hiểu tường tận, cặn kẽ phải cần quá trình lâu dài. Nên, nếu ngay lập tức muốn mang tới may mắn cho gia đình thì chỉ cần làm theo 3 lưu ý phong thủy chiêu tài dưới đây. Dễ làm, đơn giản lại vượng trạch. 1. Ánh mặt trời sung túc Phong thủy vi diệu nhưng cũng bắt nguồn từ những điều hết sức tự nhiên, quen thuộc. Nơi đâu có mặt trời, nơi đó có sinh khí, nơi đâu sáng sủa, nơi đó tốt lành. Ánh mặt trời thấu khắp các phòng ốc sẽ mang đến cát tường thụy khí, tăng cường sức khỏe của người trong nhà. Trong phong thủy học, ánh mặt trời đại biểu cho sự thịnh vượng, khỏe mạnh, phát đạt, có khỏe mạnh mới có thể chiêu tài. Vì thế, trong bố trí nhà cửa, không nên treo rèm quá dày hay thiết kế phòng quá kín. Hãy đảm bảo trong nhà lúc nào cũng có thể đón nắng, đón gió, tốt nhất là phòng nào cũng có cửa sổ. 2. Không khí lưu thông
![]() |
![]() |
| ► Lịch ngày tốt gửi tới bạn đọc công cụ xem tướng và xem bói tử vi để biết tính cách, số mệnh của mình |
![]() |
| Đường Trí tuệ ngắn (hình 1) và đường Tình cảm song song (hình 2) |
Râu cũng là hoa lá của côị cây. “Đàn ông không râu kém uy, đàn bà không vú lâý gì nuôi con”. Râu rậm quá thường bị ganh ghét, nêú làm quan có thể bị giáng chức, mất chức.

Ngươì làm kinh doanh mà râu mọc vưà phải thì phát tài, phát lộc. Ngươì đàn ông có “râu hùm hàm én mày ngài” được coi là biêủ tượng của đàn ông theo nghiệp võ, tính tình nóng nảy, quyết đoán, hành động dứt khoát nhưng hay chủ quan và tự mãn. Râu rẽ lệch là khổ về già. Râu như râu dê là đa dâm, như râu mèo là nịnh bợ, như râu chuột là xảo quyệt hay đâm thọc, như râu cọp có rìa rậm là nóng nảy, râu rậm mày rậm có mụn ruôì ở cằm là thường bị tai nạn sông nước. Râu đỏ mặt hồng hào, mày thưa xém là bị hỏa hoạn, râu vàng mặt vàng cũng thế, râu nõn nà xanh đẹp hoặc ngả màu bạc râm là vẻ tiên phong cốt đạo, không làm giàu được cũng nhàn hạ.
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
| => Xem thêm: Mật ngữ 12 chòm sao, Horoscope được cập nhật mới nhất |
5 chòm sao nữ có khả năng cầm cương đàn ông
Bài của Ân Quang
Tôi xin tiếp tục loạt bài nói về Ý nghĩa Kình Dương và Đà La. Trong tử vi không có vị sao nào giống nhau, Văn Xương không thể nào giống y như Văn Khúc. Linh Tinh phải khác Hỏa Tinh. Kình Dương cũng không thể giống Đà La. Muốn tìm hiểu sự dị biệt này thì phải xét đến Ý nghĩa tên các vị sao. Mà muốn tìm hiểu Ý nghĩa các vị sao thì phải tìm hiểu cách viết tên các vị sao ấy bằng chữ Hán.
Tử-Vi và chữ Hán
Bài này có vẻ hơi khô khan, nặng nề đối với một vài bạn mới nhập môn Tử-Vi, nhưng tôi cũng xin viết ra, mong rằng đó sẽ là khởi điểm cho một điều hướng nghiên cứu mới có Ý thức, có quan niệm rõ ràng hơn. Chứ không phải chỉ mơ hồ, nhìn vào một cung nào đó, thấy một lô các sao Dương Đà Không Kiếp, Hỏa Linh, Hình Kị, Phục Binh, Tang Hổ … nghe một tràng những tên gọi rùng rợn … rồi kết luận là cung đó xấu lắm, hạn đến đó xấu lắm.
Đoán như vậy là dựa vào sức “nhạy cảm”. Nghe một tràng những tên gọi ghê tai, rồi rùng mình, đóan rằng xấu.
Đó là phương pháp lưng chừng. Lúc thì dựa vào một vài công thức nghe có vẻ khoa học. Lúc nào kẹt qúa thì lại buông thả theo trực giác mường tượng như cách phát âm tên vị sao để luận đoán (như dựa vào cách phát âm Trực-Phù mà đóan là đánh trống, bắn súng ….)
Phương pháp này không đưa người nghiên cứu vào con đường lập luận mạch lạc, hướng đến chân trời Lý Học, mà đặt người nghiên cứu vào tình trạng mờ mờ ảo ảo; lúc thì dùng lý trí phán đóan, lúc lại buông xuôi nhờ trực giác, nhờ thần linh mách bảo. Mục đích của Khoa Học Huyền Bí là đem những vấn đề Huyền Bí ra trước ánh sáng Khoa Học, chứ không phải là xô đẩy Khoa Học rơi vào tình trạng hỗn độn, mờ ảo huyền bí.
Tử-vi là một khoa học phát xuất từ Trung Hoa.
Để có một quan niệm rõ rệt về công dụng của Tử-Vi để đi tìm một đường lối nghiên cứu đúng đắn, mạch lạc, cần phải gác qua một bên những sở thích, những thành kiến, những nhân sinh quan riêng của mình, để tìm hiểu cái vũ trụ quan, cái nhân sinh quan của Trung Hoa vào thời mà Tử-Vi phát sinh và trưởng thành. Và dĩ nhiên là cần tìm hiểu Ý nghĩa chữ Hán để biết điểm dị biệt giữa các vị sao.
Khốn nỗi, lấy tiêu chuẩn nào để bảo đảm rằng cuốn sách chữ Hán mà chúng ta đang cầm trong tay, là một cuốn sách chân truyền. Chằng lẽ, cứ thấy một cuốn sách Tử-Vi bằng chữ Hán có vẻ cũ cũ, xưa xưa truyền lại từ nhiều đời trước, trong đó có một số bài phú thâm thúy, một vài cách luận giải khác lạ hay hay rối chóa mắt suy tôn gía trị tòan bộ sách, hãnh diện rằng mình có trong tay một bảo vật, tự mãn rằng sách đó chân truyền từ đời Nhà Tống, đời Trần Đòan, đời cụ Lê Qúi Đôn. Rồi thôi! Không cần xét lại những điểm tối nghĩa hay sao. Lỡ trong sách ấy có một vài đọan “tam sao thất bản” thì sao? Có lẽ cũng chỉ vì thế mà không những, không có phát minh, cải tiến trong Tử-Vi, trái lại khoa này càng ngày càng bị thất truyền.
Một vài vị nghiên cứu Tử-Vi khá lâu có tìm gặp tôi bàn luận và mong mỏi có một nền Tử-Vi Việt Nam, chẳng lẽ mình cứ mãi mãi lệ thuộc vào văn hóa Trung Hoa hay sao? Thỉnh thỏang lại nghe đồn có nhà Tử-Vi tài ba này, nhà Tử-Vi siêu việt nọ, mà rốt cuộc không thấy ai làm gì cho một nền Tử-Vi Việt Nam. Có lúc lại thấy có dư luận hướng về Tử-Vi Trung Hoa Đài Loan. Có người lại đón cả thầy Tử-Vi bên Trung Hoa Hồng Kông về xem.
Tôi xin thưa rằng tôi không đi ngược lại ý nghĩa xây dựng một khoa Tử-Vi Việt Nam. Nhưng tôi thiển nghĩ rằng tìm hiểu những nguyên lý cũ, những điểm tối nghĩa cũ còn chưa xong, mà vội xây dựng một cái gì khác lên trên thì e rằng thiếu căn bản. Nền nhà bên dưới chưa hòan tòan chắc chắn mà vội xây một cái nhà khác lên bên trên thì e rằng dễ sụp đổ.
Tôi thiển nghĩ làm việc gì cũng cần có từng giai đọan. Hiện nay thì cần làm sáng tỏ những nguyên lý cũ, giải quyết những điểm tối nghĩa cũ lần lần sẽ tính đến những sự cải tiến khác, thì việc làm sẽ được chắc chắn hơn.
Nếu cứ vội vã thông qua, không tìm hiểu kỹ những điểm căn bản, mà xây dựng một cái gì khác lên bên trên thì dễ tạo nên một sự rối lọan một sự sụp đỗ mới.
Nếu cứ vội vã thông qua Đà cũng như Kình, Kình cũng như Đà, Hỏa cũng như Linh, Linh cũng như Hỏa, thì người nghiên cứu dễ vô tình trở thành một tay “thợ Tử-Vi”, một chuyên viên “Cơ-Khí Tử-Vi”. Lối giải đoán như vậy chỉ có thể thỏa mãn một vài hiếu kỳ, thắc mắc cấp thời, chỉ đưa người nghiên cứu vào vòng làm việc thiếu ý thức sâu xa, không thể áp dụng Lý Học một cách mạch lạc. Làm việc như vậy, người nghiên cứu rất dễ hiểu lầm các câu phú như những công thức máy móc và không sao chế hóa được khi gặp trường hợp công thức này chống ngược lại công thức kia.
Chính vì thế mà trong giai đọan sơ khởi chúng ta phải tìm hiểu chữ Hán, để tìm hiểu, để giải quyết những điểm tối nghĩa cũ.
Đến đây tôi cũng xin thưa thực rằng số vốn chữ Hán của tôi không có gì uyên thâm. Chỉ học lại chút ít của các cụ trong họ hàng. Số vốn chữ Hán thì ít mà khát vọng tìm hiểu, tra cứu lại nhiều. Thế cho nên cứ có một điểm nào đó hơi tối nghĩa một chút là tôi liền thắc mắc, tra cứu, so sánh, đối chiếu các tài liệu, tìm tòi hỏi các cụ đi trước, cân nhắc các lời luận giải. Vì thế mà tôi thấy có nhiều trường hợp thất truyền hoặc tam sao thất bản.
Tôi buộc lòng phải viết hơi dài dòng, kể qua một vài trường hợp tam sao thất bản để quý bạn Tử-Vi có thể nhận định dễ dàng những điểm tế nhị của bộ sao Kình, Đà.
Một vài trường hợp tam sao thất bản
Có nhiều nguyên nhân khiến cho có sự “tam sao thất bản”, nhưng tôi trộm nghĩ là có bốn nguyên nhân đáng kể sau đây:
– Vì chữ Hán, nhòe một nét có thể đọc thành chữ khác
– Về chữ Hán có nhiều chữ đồng âm, nghe người khác đọc rồi chép lại sau và chép sai chữ.
– Người trước viết tắt để cho tiện (hoặc có ẩn Ý dấu nghề chăng?). Người sau chép lại, vì không hiểu thấu ý nghĩa sâu xa, nên chỉ biết nhìn vào chữ viết tắt mà chép lại, thành ra tối nghĩa.
– Cũng có thể là vì người chép lại, không hiểu hết Ý nghĩa của người trước đã thêm ý riêng của mình vào.
Tôi xin kể vài thí dụ:
Như câu “ Liêm Trinh, sát bất gia, thanh danh viễn bá” thì chữ Bá, viết với bộ Thủ có nghĩa là gieo rắc ra xa. Thế mà có sách lại chép ”Liêm Trinh, sát bất gia, thanh danh viễn phan” có lẽ bộ Thủ đã bị nhòe, người đọc tưởng là bộ Thủy, đã chép lại là chữ Phan, có nghĩa là Họ Phan, hay là …. Nước vo gạo.
Như câu “Quan phù, Thái Tuế, Công Dã hữu hy tiết chi ưu”. Gặp Quan Phù, Thái Tuế thì có thể như chàng Công Dã có sự ưu phiền về giây xích trói buộc.
Thế mà sách chép lại là Công Trị, rồi mới đây lại có một cuốn sách Tử-Vi đã (vô tình hay cố Ý) xếp chữ lại là Công Trự. Từ Công Dã, biến thành Công Trị, rồi nói đến Công Trự!
Công Dã đây là họ Công Dã (có ghi trong tài liệu “Bá gia tánh sách”) và có liên hệ đền điển tích anh thợ săn Công Dã Tràng. Vì vậy cung có câu phú diễn nôm:
Dã Tràng không tội phải tù.
Trong năm Thái Tuế, Quan Phù đi qua
Họ Công Dã, chữ Dã viết với bộ Băng, có một chấm, người đọc vì không hiểu họ Công Dã, tưởng chữ giả là chữ Trị, viết với bộ Thủy có hai chấm.
Ở đây tôi cũng xin mở ngoặc nói thêm là mỗi câu phú chữ Nôm hay chữ Hán không phải là một công thức hay là một cái đinh ốc trong bộ máy Tử-Vi. Các câu phú chữ Nôm hay chữ Hán do cổ nhân lập ra, chỉ là cách đặt câu có vần, cho chúng ta dễ nhớ về một trong nhiều tính cách mà một vị Sao có thể đem lại.
Mỗi vị sao trong Tử-Vi không phải là cái đinh ốc của một bộ máy mà là một khí lực biến hóa vô lường. Như chúng ta đã biết Tử-Vi không đi ra ngòai căn bản Dịch Lý, mà Dịch lý thì cát biến hung, hung biến cát. Một vị sao có thể có nhiều ảnh hưởng tương phản tùy theo vị trí miếu, hãm … hoặc tùy theo ảnh hưởng trợ lực của một vị sao khác. Không thể vội gán cho mỗi câu phú một gía trị công thức máy móc. Vì vậy mà cần hiểu ý nghĩa, hiểu những ảnh hưởng tương phản của một vị sao, để có thể luận giải chế hóa khi gặp hai, ba câu phú, hai, ba công thức đối chọi nhau.
Trở lại với câu chuyện chữ Hán. Có sách chép câu: “Mệnh trung ngộ Kiếp, Tham như lãng l ý hành thuyền” dịch đại ý là Mệnh có Địa Kiếp, Tham Lang thì bấp bênh như đi thuyền trên sóng.
Có sách lại chép là: ”Mệnh trung ngộ Kiếp, kháp như lãng lý hành thuyền” cho rằng “kháp như” là giống y như “đi thuyền trên sóng”
Có sách lại chép là: “Mệnh trung ngộ Kiếp hợp như lãng lý hành thuyền” cũng dịch tổng quát là Mệnh có Địa Kiếp lại thêm Sát Kỵ, thì như đi thuyền trên sóng.
Mỗi người một ý; lý đều xuôi tai. Thôi thì đành chiêm nghiệm vậy. Thật là …. “ lắc lư còn tàu đi”.
Lại như nói về Văn tinh ám củng Cổ Nghị, duẩn hỉ đăng khoa.
Có sách chép là: ”Văn tinh ám củng Mãi Nghị, duẩn hỉ đăng khoa”.
Có sách chép là: ”Văn tinh ám củng Giả Nghị, duẩn hỉ đăng khoa”
Vậy thì cái ông đó là ai? Cổ Nghị, Mãi Nghị hay Giả Nghị?
Ông này qua đời đã lâu lắm rồi. Tôi có hỏi một vài cụ để tìm lời dẫn giải thì cũng thấy mơ hồ. Bí kế phải tìm đến học giả Đào Duy Anh và Cụ Thiều Chữu qua hai bộ Tự Điển thì thấy giải thích rằng chữ Cổ có nghĩa là cửa hàng, buôn bán ngay tại tại cửa tiệm là Cổ. Chữ Cổ này cũng có một âm là Giả, họ Giả, Học giả Đào Duy Anh giải thích rõ thêm là Giả Nghị, tên một học giả có tiếng đời Hán, từng làm quan Đại trung đại phu (200-168 trước Kỷ Nguyên).
Vẫn biết rằng chữ Hán là một phức âm tự, viết cùng một cách nhưng có thể đọc nhiều cách khác nhau như chữ Tử là con, có thể đọc là TÝ (địa chi là TÝ) tùy trường hợp, hoặc có trường hợp đọc trệch đi một chút như Vũ và Võ, Huỳnh và Hòang. Nhưng tên riêng của một học giả mà có đến ba cách phát âm khác nhau qúa như: Cổ Nghị, Mãi Nghị hay Giả Nghị. Mãi Nghị thì chắc là chỉ có một cách đọc đúng.
Lại như cách đóan có sao Thiên Cơ hoặc Vũ Khúc ở cung Giải thì “Cưỡng bao đa tai” là có chửa ngòai dạ con.
Tôi có gặp cách đoán “Cưỡng bao đa tai” này trong một cuốn sách Tử Vi xuất bản tại Đài Loan. Chữ Cưỡng và chữ Bao đều viết có bộ y là áo. Chữ Cưỡng chỉ về cái túi vải (xưa còn gọi là cái địu) để đeo trẻ nhỏ sau lưng. Chữ Bao chỉ về cái tã lót. Chữ Cưỡng Bao là chỉ về thời gian còn bé nhỏ, còn dùng tã lót, còn được đeo ở sau lưng. Chữ “Cưỡng bao đa tai” là nói rằng lúc còn bé nhỏ như vậy dễ có lắm tai ách. Còn chữ Cưỡng Bao viết như thế nào (bằng chữ Hán) để có thể hiểu là “có chửa ngòai dạ con” thì tôi đã cố công tra cứu mà chưa tìm ra được.
Lại như câu ca để tìm Cục cho nhanh: ” Bính, Tân, đê, liễu, ba, ngân, trúc”. Nói rằng chữ Trúc là ứng vào Hỏa Cục, nhưng chữ Trúc lại viết trên có bộ Trúc, dưới có bộ Mộc (như chữ kiến trúc) thì sao lại ứng vào Hỏa Cục được. Nếu nói rằng bộ Mộc đó là ám chỉ, Mộc sẽ sinh được Hỏa thì đó là giải thích loanh quanh, thêm phần phức tạp. Tôi thiển nghĩ đó là chữ Chúc. Chúc là cái đuốc, viết với bộ Hỏa, ứng vào Hỏa Cục thì dễ hiểu hơn. Có lẽ đây là do sự phát âm lẫn lộn TR và CH của một vài điạ phương tại miền Bắc. Một người đọc một người chép, cho nên thay vì dùng chữ Chúc là đuốc có bộ Hỏa, để ứng vào Hỏa Cục, thì lại dùng chữ Trúc có bộ Mộc.
Đến như cách viết tên các vị sao bằng chữ Hán thì lại có lắm sự phức tạp, mơ hồ. Tôi xin tạm lấy một thí dụ như chữ Phi Liêm. Người thì viết chữ Phi là bay. Người thì viết chữ Phi là không. Người lại viết chữ Phi có bộ Trùng bên dưới. Theo cụ Thiều Chữu thì viết chữ Phi có bộ Trùng bên dưới là chữ Phi, tên một loài sâu. Lại có một lòai sâu tên là Phi Liêm (cả hai chữ đều có bộ Trùng)
Dường như không mấy ai đặt vấn đề tra cứu luận giải để có một quan niệm rõ rệt về ngôi Phi Liêm nằm trong vòng Thiên can (một trong ba vòng quan trọng của Tử-Vi: Thiên can, Cục và Địa chi). Phần đông chỉ thích một công thức giản dị, đỡ mất thời giờ: Phi Liêm chủ thế này, chủ thế nọ.
Cách viết tên một vị sao bằng chữ Hán đem lại rất nhiều ý nghĩa. Cần phải xét kỹ, không thể thản nhiên tự mãn rằng sách này sách chân truyền, có nhiều bài phú cao siêu, không được khởi ý thắc mắc, phải sùng kính sách xưa, cứ mặc nhiên chấp nhận tên các vị sao như vậy đi.
Ngay trong cách viết, ngay trong tên gọi mà còn mơ hồ thì đến khi luận giải chắc là phải làm việc lưng chừng; khi thì dùng lý trí phán đóan; lúc thì tưởng tượng ra một hình ảnh nào đó, hoặc lại buống xuôi nhờ trực giác, nhờ thần linh. Quan niệm căn bản còn lỏng lẻo thì làm sao có thể suy luận mạch lạc.
Tôi luôn luôn dành nhiều sự cảm phục đối với quÝ vị đã dày công sưu tầm tài liệu bằng chữ Hán để sọan sách Tử-Vi. Đó qủa là một công trình lớn lao nặng nề và qúy vị đã tiến được một bước đường rất dài trong việc rọi thêm tia sáng để chấn chỉnh khoa Tử-Vi.
Tôi chỉ muốn nêu lên một vài điểm tối nghĩa như kể trên để giúp qúy bạn Tử-Vi để nhận định rằng chính bộ sao Kình Đà cũng nằm trong trường hợp đó.
Ý nghĩa Kình & Đà. Dương Nhẫn, Dương & La
Tôi đã gặp nhiều tài liệu Tử-Vi đứng đắn, nhưng trong đó vẫn có nhiều sách viết khác nhau. Có tìm hiểu kỹ cách viết thì mới có thể đạt đến cái tinh thần của bộ sao Kình Đà. Từ đó mới có thể tiến đến chỗ luận giải có ý thức, có quan niệm rõ ràng, chứ không phải chỉ áp dụng công thức, thiếu suy luận phân minh, rồi có khi vô tình rơi vào trường hợp đóan đúng nhờ “nhạy cảm”, “linh cảm”. Nếu như vậy thì là đi từ ánh sáng Khoa Học vào trong Huyền Bí, chứ không phải là nghiên cứu những vấn đề Huyền Bí một cách khoa học.
Có đạt đến cái tinh thần thì mới xét đến điểm dị biệt giữa Kình và Đà, Dương và La thì mới có thể chiêm nghiệm, mới hiểu được trường hợp người tuổi Dương Nữ, âm Nam an Kình Đà khác với người tuổi Dương Nam, âm Nữ. Điều này cụ Ba La có tiết lộ sơ sơ với cụ Thiên Lương (KHHB số B2 ra ngày 19/02/1973). Đây không phải là quan điểm, phương pháp của riêng Cụ Ba La, mà là của phần lớn các cụ thuộc thế hệ trước. Vì vậy, chúng ta mới thấy trong các sách Tử-Vi xuất bản trước đây trên hai mươi, ba mươi năm, các tác giả có thu nhập tài liệu để luận về Kinh Dương ở Dần Thân Tỵ Hợi; còn Đà La ở TÝ Ngọ Mão Dậu, chỉ vì diễn không hết lý, trình bày không mạch lạc cho nên mới có sự mâu thuẫn giữa chương giữa cuốn sách luận về ảnh hưởng Kình Dương ở Dần Thân Tỵ Hợi, và chương đầu cuốn sách chỉ dẫn an sao.
Tôi thiển nghĩ rằng cụ Ba La, cụ Song An hoặc một số các cụ xưa kia không đến nỗi hẹp hòi dấu nghề. Có lẽ đó là do quan niệm thời ấy, chỉ nói sơ qua một số nguyên lý, một số nguyên tắc người đi sau chịu khó ra sức suy gẫm, tìm hiểu, nếu thành công thì sẽ thấu đáo hơn, thấm thía hơn. Ráng tu thì đắc đạo. Không ai đắc đạo dùm mình. Không ai làm cho mình đắc đạo được. Chỉ cần biết một số nguyên lý rồi dựa vào đó mà hành động. Nếu các Cụ có chỉ dạy sẵn, thì người đi sau lại có thể lười suy nghĩ, không cố gắng tìm hiểu sâu xa, hoặc có thể là vì thấy đáp số dễ qúa mà không quý trọng lời chỉ dẫn, còn hỏi tới hỏi lui, mất thì giờ của các cụ mà chẳng có lợi gì cho đôi bên.
Nay, xin đi vào Kình hay Đà – Dương hay La – Dương Nhẫn hóa Hình – Hóa Kị
Tất cả các tài liệu Tử-Vi xưa mà tôi gặp đều viết chữ Kình với bộ Thủ bên dưới ngụ ý chống lên, chỏi lên, giơ lên, dậy lên.
Kình Dương nhập miếu thì phú qúy thanh dương – Dương đây là tỏ ra, bốc lên. Ngộ nhận là chữ thanh danh thì cũng có nghĩa nhưng không sát với tinh thần của Kình Dương.
Trong tinh thần Dịch Lý, cát biến hung, nếu gặp cách xấu, thì Kình bị đảo, và có thể hình dung một cái gì khó vươn lên, ráng sức làm mà người khác hưởng (Lý Quảng)
Trong ngụ ý chống lên, vươn lên dậy lên mà cũng có quan niệm luận Kình Dương là Dương Tinh hạp với người Dương hơn (tác giả Đắc Lộc đã thu thập quan niệm này trong cuốn Tự Điển Tử-Vi xuất bản tại Hà Nội năm 1952).
Cũng trong cái khí lực đó chống lên, hồi lên này mà khi hãm thì Kình hóa Hình, là Nhẫn (cũng có âm là Nhận) là mũi nhọn của dao là cái gai. Khi xấu thì Kình hóa Hình là mũi (Nhẫn) lại gặp Thiên Hình nữa thì có thể độc lắm. Bởi thế mới có câu phú:
Hạn bởi gặp Nhẫn Hình Đà Hổ
Phải ngừa loài hùm chó mới yên.
Nếu chữ Kình đã được các sách Tử-Vi viết một cách thống nhất, thì chữ Dương đã có lắm cách viết khác nhau cũng có cách viết tối nghĩa mơ hồ.
Sau đây là là những cách viết chữ Dương mà tôi đã gặp trong một số tài liệu Tử-Vi.
– Chữ Dương viết với bộ Phụ, là Khí Dương cũng có nghĩa là tỏ ra.
– Chữ Dương viết với bộ Thủ, có nghĩa là giơ lên, bốc lên, dậy lên.
Viết chữ Dương với bộ Phụ hay bộ Thủ, ngó gần giống nhau, cách viết có hơi cầu kỳ.
– Còn một chữ Dương nữa mà tôi cũng đã gặp trong một số đáng kể tài liệu Tử-Vi. Chữ Dương là con Dê!. Cách viết thì có giản dị hơn, nhưng ý nghĩa thì thật mơ hồ. Chữ Dương là con Dê này trong cổ tự Trung Hoa cũng dùng như chữ Tường có nghĩa là điềm tốt lành. Nhưng đó cũng chỉ là một cách viết tắt chứ không có Ý nghĩa xúc tích.
Nhất là có tài liệu còn viết chữ Dương Nhẫn với cách viết chữ Dương là con Dê; Nhẫn là mũi dao. Vậy thì đó là Mũi Dao con Dê hay mũi dao tốt lành. Viết chữ Dương với bộ Thủ hay bộ Phụ có Ý nghĩa hơn, hạp với chữ Kình hơn.
Có lẽ viết chữ Dương là Dê, chỉ, chỉ là dựa vào cách phát âm, viết tạm cho tiện, cho gọn, lâu ngày thành thói quen, cũng như chữ “Không” ngày nay thành ra “O”.
Viết chữ Dương là con Dê (dù có luận rằng nghĩa như chữ Tường ngày xưa) thì thật là thiếu ý nghĩa.
Điều quan trọng trong Khoa học là những quan niệm sáng tỏ, mạch lạc làm sao cho Khoa học càng ngày càng tiến thêm, chứ không phải là nhiều người hay ít người viết như thế, Việt hay không Việt, Hán hay không Hán, chân truyền hay không chân truyền.
Khi đã hiểu Kình là ngụ ý cái gì chống lên, bốc lên …. Dương là dậy lên, tỏ ra … rồi xét đến Đà La, thì mới thấy được cái tiểu dị giữa Kình & Đà.
Chữ Đà có người viết với bộ Thủ, có người viết với bộ Phụ.
– Viết với bộ Thủ có nghĩa là kéo lại, kéo ra, kéo đến; ngụ Ý một cái Lực chuyển động theo chiều ngang (trong khí đó Kình ngụ ý một cái Lực chuyển động theo chiều thẳng đứng)
– Viết với bộ Phụ thì có nghĩa là chỗ đất gập ghềnh, hiểm trở.
– Chữ La là cái lưỡi và cũng có nghĩa là dăng rộng ra, dăng bày ra cũng có thể ngụ ý một cái gì bao la, bát ngát theo chiều ngang.
– La mà hãm thì không phát triển rộng ra, có khi mình lại bị gói vào trong lưỡi, mình bị động, bị che đi.
Đà mà hãm thì kéo co nhiều chuyện vướng mắc lôi thôi. Đà La mà hãm thì hóa thành Kị, nhiều chuyện trắc trở, mờ ám, che lấp.
Đà La mà nhập miếu thì có thể kéo rộng, mở rộng bao la, lan rộng ra, giăng rộng ra (theo chiều ngang).
Người xưa đã có quan niệm về Thiên, Nhân, Địa. Mà trong lá số Tử-Vi thì “Thiên” đây là Thiên Can (đầu mối trên trời) thể hiện qua vòng Lộc Tồn. “Nhân” thì đã thể hiện qua Vòng Tràng Sinh, vòng Cục, Cục đây là cuộc diện chứ không phải cục đá hay cục đất, “Địa” thể hiện qua vòng Địa Chi (ngành dưới đất) vòng Thái Tuế. Tôi sẽ xin nói thêm về các vòng này.
Trong thế giới hữu hình, trong hiện tượng giới, thì lúc nào cũng có sự đối tỷ, tương đối, có âm, có Dương, có cương có nhu, có nóng có lạnh, có trên dưới, trong ngòai, có cái bộc lộ, có cái tiềm tàng.
Ở một người ham họat động thì Kình Dương là hùng dũng hăng hái bộc lộ ra ngòai, hướng ngọai nhiều hơn, giải quyết bằng sức mạnh hoặc mau chóng hơn. Vì vậy ngôi Lực Sĩ luôn luôn đi chung với Kình Dương. Sự xếp đặt, viết tên Lực Sĩ vào chung với Kình Dương để nhắc nhở rằng đây là một lực hướng ngoại nhiều hơn.
Ở một người ham họat động thì Đà La là sự hăng hái nội tâm, hướng nội giải quyết bằng Tâm nhiều hơn băng Lực vì thế mà có lời luận là thâm trầm. Vì thế mà an đúng tiền Kình hậu Đà thì Kình bao giờ cũng đi với Lực. Đà La hướng về chiều ngang kín đáo, hướng nội, cho nên mới có quan niệm Đà La là âm Tinh.
Ở một người đa tình thì Kình Dương là tình nồng cháy ào ạt bộc lộc cấp bách. Đà La là tình âm ỷ tầm ngẩm tầm ngầm, nung nấu lâu dài, vì thế mới có quan niệm cho Đà La là dâm tinh (đây phải xét theo các sao khác đi cùng với Đà La mà luận)
Ở một người bướng bỉnh thì Kình Dương là ngang bướng chống trả ra mặt, mà Đà La là bướng ngầm kiên trì, chờ ngày thực hiện ý chí.
Kình là chống lên, Đà là kéo. Hạn có Kình Đà, tốt thì cũng có sự kéo co, lùng nhùng, trong phạm vi tốt, xấu thì cũng lại cũng có sự chống lên, kéo lại trong phạm vi xấu.
Gặp cách xấu thì Kình Dương là Nhẫn, là mũi dao, là cái gai xóc đến bất ngờ. Đà La là đa đoan lăng xăng vướng víu như mắc lưới.
Còn nhiều điểm tối hỷ nữa, nhưng tôi thiết tưởng rằng những dòng trình bày kể trên đã tạm đủ để đưa ra một Ý tưởng suy gẫm vấn đề. Tôi chỉ cố gắng trình bày một cách vô tư những gì mà tôi đã tra cứu, sưu tầm, học hỏi được.
Trong kỳ tới tôi sẽ trình bày vì đâu lại có câu chuyện Lộc tồn ở Thìn Tuất Sửu Mùi cũng là quan niệm về Mệnh chủ, Thân chủ, Lưu niên văn tinh
KHHB số 40
1. Hội Làng Lê Xá
Thời gian: tổ chức vào ngày 15 tháng 3 âm lịch.
Địa điểm: thôn Lê Xá, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn hai vị Đào Kì và Phương Dung (tướng của hai Bà Trưng).
Nội dung: mở đầu hội là phần tế lễ gồm có: lễ rước, lễ tế thành hoàng làng. Tiếp sau phần tế lễ là phần hội, có: thi đánh chạc (hay còn gọi là trò chơi biện thừng), ca trù, hát quan họ, thi bắt vịt, chơi chọi gà.
2. Hội Thả Diều
Thời gian: tổ chức vào ngày 15 tháng 3 âm lịch.
Địa điểm: làng Bá Giang, xã Hồng Hà, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây cũ nay thuộc Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn Nguyễn Cả - một danh nhân của làng, nguyên là tướng giỏi của Đinh Tiên Hoàng.
Nội dung: Mở đầu lễ hội là lễ rước bánh giầy để tưởng nhớ Thần nhân.
Vào ngày hội thi, đầu cuộc thi là lễ trình diều. Mọi người tham gia đều mang diều tới trình trước Miếu. Diều dự thì có thể dài tới 3m nếu nhỏ thì 1m. Trong gió có nồm nam của buổi chiều quê, mấy chục cánh diều bay lên xen lẫn là tiếng sau vi vu, người thì ở trên bờ đê người dưới sân đình, đứng ở trong làng có thể ngắm dc diều bay.
Các giải nhất, nhì, ba trao cho những người có diều bay cao, không chao đảo và có tiếng sáo hay nhất. Người trúng giải đem lễ về để tạ Thần, hội kết thúc.
3. Hội Làng Liên Bạt
Thời gian: tổ chức vào ngày 15 tháng 3 âm lịch.
Địa điểm: xã Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây cũ nay thuộc Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn đức thánh Đệ Nhất (Đặng Sĩ), đức thánh Đệ Nhị (Đặng Xã), đức thánh Đệ Tam (Đặng Lang).
Nội dung: Trong hội làng, mở đầu là các hoạt động tế lễ. Tiếp đó là phần trình diễn kiệu bay, kiệu quay, rước văn đề cao tinh thần hiếu học, quý trọng chi thức văn hóa.
4. Hội Đền Đô
Thời gian: tổ chức từ ngày 15 tới ngày 19 tháng 3 âm lịch (chính hội là ngày 16 tháng 3).
Địa điểm: làng Đình Bảng, xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn 8 vị vua nhà Lý.
Nội dung: Lễ hội có lễ trình Thánh, rước kiệu long trọng từ chùa Kim Đài đến đền Đô. Đi đầu đám rước gồm có 1 đoàn tướng võ cởi trần, đóng khố, tay cầm chùy đồng và hàng trăm quân sĩ đi theo. Tiếp đến là 100 người khiêng kiệu mặc áo đỏ mũ đen. Đi đầu là kiệu của nữ tướng có 18 nữ tướng đi theo sau rồi đến kiệu của Bát Đế, mỗi kiệu có 1 con ngựa và 16 nam tướng mặc áo đỏ. Sau cùng đoàn rước là các vị sắc phục lễ hội, hương lão và dân làng dự hội, cờ lọng khắp một vùng, tiếng trống vang trời.
Phần hội có các trò chơi dân gian như: chọi gà, thả chim bồ câu, thi đấu vật, hát quan họ và nhiều trò vui khác.
5. Hội Làng Đông Hồ
Thời gian: tổ chức vào ngày 15 tháng 3 âm lịch.
Địa điểm: làng Đông Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn thành hoàng làng, tổ nghề.
Nội dung: Hội làng mở ra hàng năm nhằm suy tôn Đức Thành Hoàng Làng và Ông Tổ nghề. Trong hội làng có những nghi thức truyền thống như: tế thần, thi mã. Ngoài ra còn có phần trưng bày và bán tranh dân gian Đông Hồ trong sân đình là nơi thu hút rất đông đảo các du khách trong và ngoài vùng đến tham quan. Dựng một cầu bằng tranh trong đình tượng trưng cho sự giao lưu và hòa hợp.
6. Hội Chùa Trông
Thời gian: tổ chức vào ngày 15 tháng 3 tới ngày mùng 1 tháng 4 âm lịch.
Địa điểm: Thôn Hán Lý, Hưng Long, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
Đối tượng suy tôn: nhằm tôn thờ Phật và suy tôn đức Thánh Nguyễn Minh Không và Đường Cát Đại vương (một vị tướng của Khúc Thừa Dụ có công đánh giặc ở thế kỉ thứ 10) và Lý Chiêu Hoàng (vua cuối cùng của Triều Lý).
Nội dung: lễ hội chùa Trông là lễ hội chung của hai làng. Sau khi chia tách mỗi làng có một đình. trong ngày hội tế ba vị gồm thành hoàng làng và một thiền sư.
Phần lễ có: Lễ rước xuất Đông nhập Tây. Đoàn rước bao gồm: Kiệu bát hương, kiệu Đức Thánh, hai kiệu Thành Hoàng, kiệu Thánh Mẫu. từ ngày 26 tới ngày 30 tháng 3 là tổ chức lễ đức Thánh và Thành Hoàng Làng. Sáng ngày mùng 1 tháng 4, đoàn rước tiến hành rước Thành Hoàng Làng về các đình và kết thúc hội. Song song với phần lễ là phần hội: có các trò chơi vui dân gian và văn nghệ truyền thống.
7. Hội Làng Phụng công
Thời gian: tổ chức vào ngày 15 tháng 3 âm lịch.
Địa điểm: xã Quỳnh Hội, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn côn ơn lớn lao của hai vị Bùi Đa và Hoàng Soi, là hai thủ lĩnh của nghĩa quân nông dân ở thế kỉ 18.
Nội dung: Mở đầu là hoạt động dâng hương tế lễ Tế Thành Hoàng. Tiếp đó là là tổ chức phần kéo chữ diễn lại cuộc luyện binh của nghĩa quân vật, võ, múa sơ tử.
Bạn đọc Trần Bình Trung (Hà Tĩnh) hỏi về phong thủy nhà ở: Tôi sắp chuyển vào nhà mới ở, nhưng đang lăn tăn về ngày làm lễ nhập trạch và chuyển, lắp các vật dụng gia đình trong nhà. Theo đó, tôi muốn lắp một số đồ dùng như tủ bếp, bếp, ban thờ, giường, tủ cũng như các đồ dùng gia đình như nồi niêu, bát đĩa chuyển vào nhà trước khi vào ở. Cùng với đó, khi vào ở chúng tôi cũng mới làm lễ nhập trạch. Vậy xin hỏi, chuyển đồ về trước ngày nhập trạch có được không?
Theo chuyên gia phong thủy Phạm Cương, Công ty Cổ phần Nhà Xuân, theo tín ngưỡng dân gian, nhập trạch là một thủ tục cần thiết khi về nhà mới như một việc làm nhằm báo cáo thần linh, thổ địa – những vị thần cai quản hành chính phần âm về việc mình và người nhà sẽ ở, sinh hoạt tại đây. Việc nhập trạch dựa vào các yếu tố như chọn ngày lành tháng tốt phù hợp với tuổi của người chủ nhà. 
Khi nhập trạch cần sắm sửa các đồ lễ theo tục thờ cúng phần âm của mỗi địa phương, mỗi gia đình.
Điều cần nói ở đây chính là, lễ nhập trạch bắt đầu khi chủ nhà làm lễ báo cáo thần linh thổ địa và về ở. Vì vậy, trong trường hợp này của chủ nhà, các vật dụng gia đình như tủ bếp, giường, tủ và ban thờ có thể lắp đặt trước không vấn đề gì.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Đây là điển cố thứ Bốn tư trong quẻ Quan Thế Âm, mang tên Duy Ngãi Đấu Trận (còn gọi là Khương Duy Và Đặng Ngãi Đấu Trận). Quẻ Quan Thế Âm Duy Ngãi Đấu Trận có bắt nguồn như sau:
Khương Duy là đại tướng nhà Thục Hán, Đặng Ngải là tướng quân của nước Tào Ngụy. Câu chuyện hai người đấu trận xuất hiện trong Tam Quốc diễn nghĩa. Khương Duy và Đặng Ngải gặp nhau ở núi Kỳ Sơn, hai quân đội dàn trận ở trước núi Kỳ Sơn. Khương Duy theo phương pháp “bát trận” của Vũ Hầu, dựa vào hình thái của trời, đất, gió, mây, chim, rắn, rồng, hổ đế sắp xếp trận thế. Đặng Ngải thấy Khương Duy dàn thành trận đồ Bát quái, cũng bố trí quân đội của mình thành trận đồ Bát quái. Khương Duy cầm cây thương từ trên lưng ngựa nói lớn: “Ngươi bắt chước ta, bày thành trận đồ Bát quái, vậy ngươi có thể biến trận được chăng?”
Đặng Ngải cười nói: “Ngươi cho rằng thế trận này chỉ có ngươi biết bày hay sao? Ta đã bày trận được, lẽ nào lại không biết biến trận?” Rồi thúc ngựa đi vào trận đồ, lệnh cho quan chấp pháp phất cờ ra hiệu, biến thành tám tám sáu mươi tư cửa, rồi Đặng Ngải lại đi ra phía trước trận đồ, hỏi: “Biến pháp của ta thế nào?” Khương Duy nói: “Tuy là không tồi, nhưng ngươi có dám đấu vây cùng trận đồ Bát quái của ta không?” Đặng Ngải đáp: “Có gì mà không dám!”
Thế là hai đội quân đều tiến lên theo đội ngũ của mình. Đặng Ngải ở giữa đội quân điều khiển đội ngũ. Hai đội quân đối đầu nhau, trận pháp không sai lệch chút nào. Khương Duy đi đến giữa đội quân của mình, cầm cờ lệnh phất lên, đột nhiên biến thành trận đồ “trường xà quyển địa” (rắn dài cuốn đất), vây hãm Đặng Ngải vào giữa, bốn bề tiếng hò reo vang dậy. Đặng Ngải không hiểu được phép biến hóa của trận pháp này, trong lỏng rất sợ hãi. Quân Thục dần dần vây đến gần, Đặng Ngải dẫn các tướng muốn phá vây xông ra nhưng không thành, chỉ nghe thấy tiếng quân Thục đồng thanh hô lớn: “Đặng Ngải mau ra hàng!” Đặng Ngải ngẩng lên nhìn trời thở dài: “Ta nhất thời cậy tài, đã trúng kế của Khương Duy rồi!”
Bỗng nhiên, ở góc phía tây bắc có một toán quân đánh vào, Đặng Ngải thấy là quân Ngụy, bèn thừa thế đánh ra. Người cứu Đặng Ngải là Tư Mã Vọng. Sau khi Tư Mã Vọng cứu Đặng Ngải ra, thì chín doanh trại của quân Ngụy đóng ở núi Kỳ Sơn đều bị quân Thục cướp mất cả. Đặng Ngải mang theo bại quân, đóng quân ở phía nam sông Vị Thủy. Đặng Ngải hỏi Tư Mã Vọng: “ông làm thế nào mà hóa giải được trận pháp đó của Khương Duy?”
Tư Mã Vọng trả lời: “Ta lúc nhỏ đi học ở Kinh Nam, từng kết bạn với Thôi Châu Bình và Thạch Quảng Nguyên, đã từng luận bàn về trận đồ này. Trận đồ mà Khương Duy biến hóa ra hôm nay, chính là trận “trường xà quyển địa”. Nếu như tấn công từ những vị trí khác, chắc chắn sẽ không thể phá được. Tôi thấy phần đầu của trận thế ở phía tây bắc, cho nên tấn công từ phía tây bắc, tự nhiên sẽ phá được thôi.”
Đặng Ngải nói: “Ta tuy có học được trận pháp, nhưng thực không hiếu về biến pháp, ông đã biết được phép ấy, ngày mai hãy sử dụng phép ấy chiếm lại các doanh trại cũ ở Kỳ Sơn, ông thấy thế nào?”
Tư Mã Vọng nói: “Những gì mà ta học được, e rằng không qua mặt được Khương Duy!”
Đặng Ngải nói: “Ngày mai ông đấu trận pháp với hắn, còn tôi sẽ dẫn một đội quân, đánh úp quân đội ở sau núi Kỳ Sơn của hắn. Hai bên cùng đấu, có thể lấy lại được doanh trại!” Vì thế lệnh cho Trịnh Luân làm tiên phong, Đặng Ngải tự mình dẫn quân tập kích ở sau núi, mặt khác lại sai người soạn thư khiêu chiến, hẹn Khương Duy ngày hôm sau đấu trận pháp.
Khương Duy đã biết được mưu kế của Đặng Ngải, nhưng vẫn nhận lời đấu trận, lại sai Liêu Hóa mai phục ở sau núi, đợi quân của Trịnh Luân vừa vòng qua sườn núi, Liêu Hóa lập tức dẫn quân đánh ra, một đao chém Trịnh Luân rơi xuống ngựa. Đặng Ngải rất kinh hãi, vội vàng lui quân, nhưng lại bị tướng của quân Thục là Trương Dực tấn công, quân Ngụy đại bại.
Xem bói Quẻ Quan Thế Âm Duy Ngãi Đấu Trận là quẻ thẻ Trung Bình trong quẻ thẻ quan âm, là quẻ số 44 !
Quẻ này là tượng gặp phải kỳ phùng địch thủ.
Những việc mong cầu phài bỏ công suy tính mới được tốt đẹp thuận lợi.
| ► Tra cứu Lịch âm dương, Lịch vạn niên nhanh chóng và chuẩn xác nhất tại Lichngaytot.com |
![]() |
![]() |
Phép xem lá Trầu
Thong dong ngắt lấy lá trầu
Nghiệm xem cho biết nhiệm màu phép tiên
Có ai vĩ mỗ sự duyên
Đem phù lưu diệp đến xin thuốc thần
Trước làm lễ vật tiễn đưa
Sau mới làm thuốc làm bùa cứu nhân
Luận xem phù diệp kể bày
HIện gia động phạm cho hay biết tình
Thượng đỉnh là dương Phật đình
Trung nguyên bản thổ tối linh thần hoàng
Chính tâm phụ mẫu gia đường
Hạ tề ấy thực là chàng Phạm Nhan
Minh luận bản mệnh cho an
Đoán giả tắc tử rõ ràng chẳng ngoa
Tinh là chúa Kỳ hiện ra
Đẩu là chúa Quế âm là chúa Tinh
Dương là Long thần chẳng linh
Càn vi tam đại tiền sinh đã đành
Khảm là cô di rành rành
Cấn là mạnh nữ tòng hành mộc tinh
Chấn là phụ mẫu ngoại hình
Tốn là thúc bá dung tình đa đoan
Ly là thổ công lai lâm
Khôn là hung thần Đoài là yêu tinh
Giáp là mạnh tướng cho minh
Ất là hiện hình miếu đinh chẳng không
Bính là xuất hiện Thổ công
Đinh là đạo lộ cô vong ngoài đường
Mậu là Phụ Mẫu cho tường
Kỷ là Phật tự Canh đương thiên thơi
Tân là tam đại lâm chơi
Nhâm Quý ông Mãnh ấy thí không sai
Quý là thất vật mọi loài
Long vương thuỷ phủ hai nơi hành mình
Động đâu phạm đấy cho minh
Làm thấy quyết đoán cho tinh kẻo nhầm.
Pháp sư Trần Ngọc Kiệm
Phòng khách là nơi tụ khí của căn nhà. Vì vậy, cây cảnh để trồng trong phòng khách phải được lựa chọn kỹ lưỡng. Hiện nay, nhiều người có xu hướng chuyển sang lựa chọn những loại cây có tên gọi mang ý nghĩa may mắn, hướng đến mong ước tài lộc vào nhà . Các loại cây thể hiện tài lộc được ưa chuộng nhất để trồng trong phòng khách là cây kim ngân, phú quý, kim phát tài, phát lộc...
1. Cây kim ngân
Kim ngân là một trong những cây phong thủy được nhiều người ưa chuộng nhất, riêng tên của loài cây này (kim ngân – tiền vàng ) đã mang đến ý nghĩa giàu có và may mắn. Nó thường được đặt ở khu vực tốt nhất là gần cửa chính của ngôi nhà.
2. Cây phú quý
Cây phú quý mang lại sự giàu sang, phú quý cho chính chủ nhân sở hữu nó. Với sự kết hợp hài hòa giữa màu xanh lá với viền đỏ sẽ rất thích hợp cho việc trồng cây trong phòng khách, tạo nét đẹp sang trọng hài hòa cho không gian.
3. Cây phát lộc hoa (dứa cảnh nến)
Cây phát lộc hoa là loại cây trồng trong nhà khá mới nhưng rất được ưu chuộng vì chúng có màu sắc đẹp, làm tươi mới cho không gian của gia chủ. Cây không chỉ đẹp về hình dáng mà còn đẹp về ý nghĩa mang lại tài lộc và may mắn cho gia chủ.
4. Cây ngọc bích
Cây ngọc bích hay còn gọi là cây hoa đá. Dựa vào ứng dụng phong thủy cổ đại, cây ngọc bích được đặt đúng vị trí sẽ mang lại sức khỏe và sự may mắn. Với đặc tính rất dễ nhân giống, chỉ cần lấy một chiếc lá đặt xuống đất ẩm thì nó sẽ nảy mầm mọc thành cây mới. Ngọc bích được coi là biểu tượng của sự chia sẻ và tình bạn. Ngoài ra, tên gọi thường xanh còn tượng trưng cho tuổi trẻ vĩnh hằng.
5. Cây kim tiền
Kim tiền thuộc cây cảnh họ Thiên nam tinh, sống lâu năm, xanh tốt. Thân cây to khỏe, nằm dưới mặt đất. Mầm nảy mạnh và hình thành nhiều thân nhỏ. Lá kép dạng to, cuống ngắn, chắc khỏe, màu xanh lục, sáng bóng rất đẹp, có tuổi thọ khoảng 2 - 3 năm và được thay thế không ngừng. Chính vì vậy, kim tiền được coi là cây “phát” - Kim phát tài.
6. Cây phất dụ
Cây phất dụ còn được gọi là cây phát tài (do cách đọc của người Trung Quốc: phất dụ đồng âm với phát tài), trong phong thủy, đây là loài cây mang lại may mắn cho gia chủ.
7. Cây thường xuân
Là loại cây xanh tốt quanh năm, thường xuân có sức sống rất mãnh liệt, ngay cả trong mùa đông giá rét. Vì vậy, nó được xem là loại cây rất tốt theo phong thủy. Theo quan niệm dân gian, một công dụng khác của dây thường xuân là khả năng trừ tà. Chính vì thế nó cũng là loài cây mang lại bình an, may mắn cho gia chủ.
8. Cây trầu bà đế vương
Cây Trầu Bà Đế Vương thể hiện tinh thần đế vương, quyền uy, giúp xua đi tà ma, mang lại may mắn và tài lộc cho gia chủ. Cây trầu bà đế vương có lá tròn, to, mọc hướng lên… phù hợp theo đặc tính dương trong Kinh dịch (dương, hướng lên, động) là loại câycó lợi cho tài lộc khi đặt trong phòng khách.
9. Cây hồng môn, tiểu hồng môn
Cây Hồng môn gồm 3 loại chính: đại hồng môn, trung hồng môn, và tiểu hồng môn. Trong đó Đại hồng môn là hoa màu đỏ đang được ưa chuộng nhất hiện nay. Theo phong thủy, cây Tiểu Hồng Môn mang lại cho gia chủ sự bình an, may mắn. Ngoài ra, cây còn thể hiện sự thương yêu.
10. Cây Ngọc Ngân
Ngọc Ngân ngoài ý nghĩa mang tiền tài, may mắn đến cho gia chủ, cây còn có ý nghĩa gắn kết sự yêu thương giữa mọi người trong gia đình. Cây ngọc ngân được ưa chuộng trồng trong phòng khách để mang lại nhiều tài lộc.
Mộc Lan
Theo Trí thức trẻ
![]() |
Infographic: 6 kiếp nạn của 12 con giáp trong xuân mới![]() |
| ► Xem bói theo khoa học tử vi để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình |
Chúng ta đều biết, vạn vật trong thế gian luôn tồn tại đối lập, không có “cát” thì cũng không có “hung”. Ảnh hưởng đối với con người, có lợi đối với sự sinh tồn của con người là “cát”. Trái lại là “Hung”. “Cát” và “hung” bắt nguồn từ sự phán đoán tâm lý con người, phán đoán tâm lý con người có căn cứ và nguồn gốc từ kinh nghiệm tổng kết qua việc tiếp xúc của con người với vật chất thế giới bên ngoài, bắt nguồn từ thực tiễn cuộc sống đơn sơ của con người.
Trước tiên là con người cần thoả mãn tâm lý phòng ngự, tiếp đó con người cần thoả mãn tâm lý được cát tường (may mắn), tiếp nữa là thoả mãn nhu cầu tâm lý muốn được sống trong “môi trường sinh thái như ý”, một khi có một trục đường lớn chạy thẳng chiếu vào cửa nhà, chúng ta nói ngôi nhà này đã bị ám khí xâm nhập, chính là không cát (may mắn), nhưng ở trước cung điện của Versailles cũng có một trục đường như vậy, lẽ nào cũng bị ám khí hay sao? Không phải.
Có thể thấy, định nghĩa giữa “cát” và “hung” vẫn còn chịu ảnh hưởng bởi sự khác biệt về văn hoá của các vùng khác nhau, còn nặng về phương diện tư tưởng con người. Nhưng nếu như quá ỉ lại vào phong thuỷ thì nhận thức sai về phong thuỷ dẫn đến chúng ta coi nhẹ tính khoa học cúa nó, làm cho phong thuỷ học thiên về mê tín. Điều này ở một xã hội khi mà sức sản xuất và khoa học kỹ thuật chưa phát triển thì khó tránh khỏi, nhưng trong thời đại ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại chúng ta cần phân biệt chính xác đâu là khoa học và đâu là mê tín.

Trong phong thuỷ học, “khí” được chia làm hung và cát, “cát khí” tụ, “hung khí” tán là cát, “cát khí” tán, “hung khí” tự là hung. Ví dụ khi chúng ta sống trong một ngôi nhà không thông gió, thì có thể nói là “khí” tụ, nhưng nếu chúng ta sống lâu dài trong đó thì sẽ không hít thở được không khí trong lành, dễ dẫn đến suy nhược cơ thế, giảm sức đề kháng, điều này sẽ không có lợi cho sức khoẻ. Trong tình hình “khí” như vậy thì dương nhiên là “hung”, cần phái có gió để liên tục thay đổi không khí trong nhà thì mới có thể có được hiệu quả “cát”.
Một ví dụ khác: Ở Lan Châu phía Tây bắc Trung Quốc, địa hình rất tốt, nhìn từ góc độ phong thuỷ đó là nơi tăng phong đắc thuỷ, thế nhưng do bị ô nhiễm của các nhà máy dầu mỏ, hoá chất, luyện kim nên chất lượng không khí ở đấy rất kém, là nơi ô nhiễm môi trường xếp thứ hai trên thế giới tính từ dưới lên. Ở đây vì tốc độ gió trong thành phố là 0~1m/giây, thuộc loại gió lưu thông tĩnh, tạp chất lẫn trong không khí không thể tách ra được, ảnh hưởng rất xấu đến chất lượng sinh hoạt của người dân trong thành phố. Khí lúc này đương nhiên là “hung”, cần phải có phong (gió) để xua tan loại “khí hung” này.
Có thể thấy phong thuỷ học chính là thông qua việc lợi dụng quan hệ biện chứng giữa “khí” và “hình”, từ đó làm cho con người có thể sống lâu và thịnh vượng. Để đạt được mục đích này, chúng ta cần phải thăm dò tự nhiên, thông qua việc sử dụng các biện pháp khoa học để hiểu biết về tự nhiên, tiến tới cùng chung sống hài hoà với tự nhiên, đó mới chính là quan điểm cơ bản của phong thuỷ học
Cũng có thể nói, nguyên nhân cơ bản của sự tồn tại và phát triển phong thuỷ học là bởi nó có phương diện khoa học, về phương diện mê tín, ở một mức độ rất lớn tạo thành phương diện này là do mọi người đã lý giải, giải thích sai về nó, mở rộng phạm vi không thích đáng, ứng dụng hiệu quả tuyên truyền chưa phù hợp.
Nằm đương nhiên cho ta thông tin về tâm trạng và tâm thế. Tướng nằm là “duy biến” và thể hiện ở hai trạng thái:
– Tướng nằm khi thức – nằm nghỉ ngơi.
– Tướng nằm khi ngủ.
Dù khi ngủ hay khi nghỉ thì bao giờ cũng có thế cố hữu của cách nằm phù hợp với cá thể.

I. TƯỚNG NẰM KHI THỨC – NAM NGHỈ NGƠI.
Khi thức thì người ta hay nằm tùy tiện. Nhưng rồi người nằm sẽ trở về thế quen thuộc của mình.
1. Nằm như thế núi, vững trãi (đầu cao, người nghiêng, chân hơi co, chân kia thẳng) thế nằm của Phật A Di lặc.
Tướng: Phúc thọ, giầu có, mưu mô, túc trí.
2. Nằm ngửa duỗi tay, duỗi chân: Không thọ.
3. Nằm nghiêng: Người kín đáo, kép nép.
II. TƯỚNG NẰM KHI NGỦ.
Sau khi ngủ say, người ta sẽ trở về thế nằm “bất biến” vì vậy mà khái quát tướng nằm là: Nằm yên tĩnh, tự nhiên thì phúc thọ, giầu sang. Nằm mà không yên tư thế gò bó thì xấu: khổ ải.
1. Nằm ngủ mà giang tay, giang chân: Tướng ngang tàng, phóng túng, tham vọng lớn. Không sự hãi, là người dũng lược.
2. Nằm co quắp: Tướng yếu, hèn không có dũng khí, người mồm mép.
3. Nằm nghiêng, duỗi tay chân thoải mãi: Tướng giầu có, sang trọng, sống lâu.
4. Nằm ngủ mà nghiến răng ken két: Tướng chết vì tai họa binh đao, chiến tranh.
5. Nằm ngủ mà miệng há hốc: Tướng chết non.
6. Nằm ngủ mà mở mắt (như Trương Phi): Tướng chết vì kíp nạn giữa đường.
7. Nằm ngủ mà nói mê sảng lung tung: Tướng hèn mọn, thân phận tôi đòi, làm thuê làm mướn.
8. Nằm ngủ úp mặt xuống gối: Tướng đói khát, khổ ải.
9. Nằm ngủ mà xoay tứ phía không định hướng: Tướng bần hàn, luôn lo lắng sinh nhai.
10. Nằm ngủ mà thở ra hôi hám: Tướng ngu đần.
11. Nằm ngủ mà thở ra ngắt quãng: Tướng chết non, đoản mệnh.
12. Nằm ngủ mà thoát ra tiếng “hừ hừ”: Tướng tử nạn.
13. Nằm ành ành (như lợn nằm): Tướng nghèo.
14. Ngủ mà thần thái sợ hãi: Tâm không an, trí suy kiệt.
15. Ngủ mà thở điều hòa thần thái bình lặng: Tướng thanh cao, thư thái, hiền lương.
16. Nằm ngủ mà nét mặt cau có: Tướng thô bạo, đời bất hạnh.
17. Nằm ngủ mà nét mặt dữ tợn: Tướng sát nhân và đoản mệnh.
18. Nằm ngủ mà thần thái bất an: Tướng yếu hèn, kinh khiếp.
Nhị thập bát tú là 28 ngôi sao có thật trên bầu trời. Các nhà Thiên văn học đã phát hiện, quan sát, ghi chép về nó từ rất lâu, như vậy các sao này luân phiên theo chu kỳ, chi phối ảnh hưởng đến Trái đất, chứ không phải là những chuyện viển vông hoang đường, ảo tưởng.
Hai mươi tám sao này phân thành bốn chòm sao.
Thanh long (thuộc phương Đông): Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ
Bạch hổ (thuộc phương Tây): Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm
Chu tước (thuộc phương Nam): Tinh, Quỷ, Liễu, Tỉnh, Trương, Dực, Chẩn
Huyền Vũ (thuộc phương Bắc): Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích
Người Trung Quốc lý giải nguồn gốc của nhị thập bát tú bằng một câu chuyện rất ly kì hấp dẫn. Vào thời Thượng cổ, vua Trụ nhà Ân hoang dâm tàn bạo khiến triều chính thối nát, kỷ cương nghiêng đổ, khắp thiên hạ như vạc dầu sôi. Vũ vương nhà Chu dấy quân nhân nghĩa, trừng phạt kẻ có tội. Đúng lúc này, trên tiên giới diễn ra một cuộc đàm luận, gồm có hai nội dung, thứ nhất trong số các tiên có nhiều người chưa đủ đức hạnh, và tu luyện chưa đạt cảnh giới thượng thừa. Thứ hai, trời đất tam giới khi ấy còn thiếu các thần linh để cai quản các công việc. Chính vì lẽ đó, mấy vị đứng đầu trong chư tiên họp bàn, muốn nhân cuộc biến loạn này, giáng một số vị tiên xuống làm thần linh cai quản trong các lĩnh vực. Mấy vị đứng đầu thượng giới gồm có, Thái thượng Lão quân, Nguyên Thủy Thiên Tôn (hai ông này đứng đầu Xiển giáo, tôn chỉ trong tu hành là chọn người có đức hạnh, cốt cách đặc biệt mới thu nhận làm đệ tử và truyền dậy), Thông Thiên Giáo Chủ, đứng đầu Triệt giáo (Phương châm của Triệt giáo là vạn vật chúng sinh đều bình đẳng, ông không phân biệt giữa người với người, hay vạn vật, chỉ cần có nhu cầu được học đạo thì ông sẽ dậy, học trò của ông rất đông, có nhiều người xuất thân từ động vật). Chính vì hay chủ trương đường lối của mấy vị lãnh đạo tiên giới đó đã dẫn đển mâu thuẫn về sao. Ba vị tổ sư này nghị luận và lập ra bảng phong thần, trong cuộc chiến Thương – Chu chiến tướng nào chết, mà có tên trong bảng phong thần thì sẽ về cai trị, thực hiện nhiệm vụ của thần đó. Trong số các thần này thì học trò Triệt giáo chiếm số lượng đông nhất. (nguyên nhân vì học trò của ông đông về số lượng, nhưng về chất lượng thì chưa thật sự đảm bảo).
Thông Thiên Giáo chủ lúc đầu đồng ý, chỉ định khoanh tay đứng nhìn, vô vi tu đạo, nhưng không ngờ, trong số đệ tử của ông xúi giục ông, khiến ông cũng nhảy vào cuộc chiến. Thái thượng Lão quân, Nguyên Thủy Thiên Tôn, và toàn bộ học trò Xiển giáo giúp đỡ bên nhà Chu, vì số trời của nhà Thương đã tận, và nhà Chu sẽ kế tiếp vai trò sứ mệnh của nhà Thương. Thông Thiên Giáo Chủ và toàn bộ học trò Triệt giáo giúp bên nhà Thương, vì cho rằng bên Xiển giáo phân biệt đối xử và khinh rẻ giáo phải của mình.
Thông Thiên Giáo Chủ lập ra trận Tru Tiên, nhằm cản bước Khương Tử Nha và Vũ Vương trên con đường tiến vào kinh đô Triều Ca để hỏi tội Trụ vương. Trận Tru tiên được xây dựng bằng bốn thanh gươm phép Tru tiên, Lục tiên, Hãm tiên, Tuyệt tiên, thần tiên mà chưa có pháp lực cao cường rơi vào đều không toan mạng. Trong trận Tru Tiên này, phe Xiển giáo thắng thế, tịch thu bốn thanh gươm phép này làm chiến lợi phẩm.
Thông Thiên Giáo chủ chưa chịu dừng lại, ông không trở về Bích Du cung mà tiếp tục lập trận khác thách thức quân Chu và Xiển giáo. Trận này là trận Vạn Tiên, có quy mô và mức độ khó hơn nhiều. Với sự giúp đỡ của hai vị giáo chủ Tây phương là Chuẩn Đề và Tiếp Dẫn, phe Xiển giáo và Khương Tử Nha lại một lần nữa phá xong trận này. Đáng lưu ý hơn, trong trận này, mấy vị Kim tiên trong Xiển giáo, quăng mấy thanh gươm phép lên trên trời, và đọc thần chú. Những thanh gươm này bay lung tung, loạn xạ, gặp phe đối phương là giết hại. Những vị đạo sĩ, học trò trong Triệt giáo hầu hết là các loài vật tu luyện thành, cho nên sau khi chết hiện nguyên hình là các giống vật đó. Nhị thập bát tú là những học trò trong Triệt giáo thiệt mạng trong trận này, vốn họ đã có tên sẵn trong bảng Phong thần, chỉ đợi lúc lâm nạn thì hồn phách trở về cai quan địa vị của mình được giao phó.
Vì vậy, các ngôi sao trong nhị thập bát tú đều mang hình của một con vật, và tên người.
Giác mộc giao, con giao long, Bá Lâm
Cang kim long, con rồng, Lý Đạo Thông
Đê lạc thổ, tướng tinh con Lạc đà, Cao Bính
Phòng nhật thố, tướng tinh con Thỏ, Dao Công Bá
Tâm nguyệt hồ, tướng tinh con Chồn, Tô Nguyên
Vĩ hỏa hổ, con hổ, Châu Chiêu
Cơ thủy báo, con báo, Dương Chân
Đẩu mộc giải, con cua, Dương Tín
Ngưu kim ngưu, con trâu, Lý Hoằng
Nữ thổ bức, con dơi, Trịnh Nguyên
Hư nhật thử, con chuột, Châu Bảo
Nguy nguyệt yến, con chim én, Hầu Thái Ất
Thất trư hỏa, con lợn, Cao Chấn
Bích du thủy, con rái cá, Phương Tiết Thanh
Khuê mộc lang, con chó sói, Lý Hùng
Lâu kim cẩu, con chó, Trương Hùng
Vị thổ trĩ, con chim trĩ, Tống Canh
Mão nhật kê, con gà, Huỳnh Thương
Tất nguyệt ô, con quạ, Kim Thằng Dương
Chủy hỏa hầu, con khỉ, Phường Tuấn
Sâm thủy viên, con vượn, Tôn Tường
Tỉnh mộc can, con dê trừu, Thẩm Canh
Quỷ kim dương, Triệu Bạch Cao
Liễu thổ chương, con gấu ngựa, Ngô Khôn
Tinh nhật mã, con ngựa, Lữ Năng
Trương nguyệt lộc, con nai, Tiết Dụng
Dực hỏa xà, con rắn, Vương Giáo
Chẩn thủy dẫn, con giun, Hồ Đạo Nguyên.
Hai ngôi nhị thập bát tú trong phim Tây du ký
Nhị thập bát tú, luôn phiên trực chiếu và tác động đến trái đất, nên nó ảnh hưởng tới các hiện tượng thiên văn, địa lý, người xưa dựa vào đó để đoán định việc mưa gió thiên tai, phục vụ cho cuộc sống và trong sản xuất nông nghiệp. Đoán các việc thịnh suy, hưng vượng của chế độ, thời đại, chính quyền…
Không những thế, hai mươi tám sao này còn được vận dụng trong việc lựa chọn các ngày tốt, ngày xấu, phù hợp với nội dung và mục tiêu công việc của mỗi cá nhân. Xưa Gia Cát Lượng lập Thất Tinh đàn để cầu gió Đông Nam, giúp Chu Du thắng trận Xích Bích. Đến khi bệnh nặng ông lập đàn tế sao cầu xin thêm tuổi thọ, nhưng việc này không thành.
Theo tiểu thuyết Phong thần thì ngoài 28 sao này, còn có nhiều các sao khác trong Tử vi đẩu số, như Khương Tử Nha cai quản sao Thiên cơ, thần của mưu trí, Khương hoàng hậu cai quản sao Thiên Phủ, chủ về tài sản, của cải, sao Tham lang do Đát Kỷ cai quản, là thần của tài hoa nghệ thuật, cầm kỳ thi họa, và dục vọng, tình ái… Các bậc trung thần nghĩa sỹ, trong thời loạn lạc khi mất đi được phong làm thần, các vị tiên chưa đủ đạo hạnh, pháp lực cũng tử trận trong cuộc chiến Chu – Thương mà giáng xuống làm thần. Cát thần luôn ban phước lành, của cải, sự may mắn và tuổi thọ. Hung thần trừng trị kẻ gian ác, gây nhiều tội ác. Tuy rằng cuộc chiến Chu – Thương, phe Triệt giáo tổn thất nặng nề, đệ tử bị tử nạn rất nhiều, nhưng so với tiên giới và vũ trụ, sự đóng góp của họ không phải nhỏ.
Đọc Phong thần, tìm hiểu về nhị thập bát tú, ta sẽ thấy được hai mặt âm dương sáng tốt rất rõ rệt, hai mặt này luôn cân bằng hài hòa, nếu bên nào mạnh hơn tất sẽ diễn ra một cuộc biến động, xáo trộn, thay đổi. Triết học Mác – Lê Nin quy nó về vấn đề mâu thuẫn, mặt đối lập, cặp phạm trù... Và trong quá trình phát triển song song, khi mâu thuẫn không thể dung hòa, cân bằng được, tất diễn ra cách mạng.
Ứng dụng của hai mươi tám sao trong thời kỳ hiện nay là dùng để chọn ngày tốt xấu rất là hữu ích và quan trọng.
Phong thủy số