Mơ thấy người kìm chế nhục dục: Có tâm lý cao thượng –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Phú là một cách quan trọng cho đời người. Vì vậy, la số Tử Vi dành rất nhiều cách, cục để nói về phú, qua các cung và rất nhiều sao. Mặt khác, thường khi phải xem cả lá số nhười phối ngẫu, vợ hay chồng, để biết tình trạng giàu nghèo nói chung của gia đình.
Về các cung, có những cung mô tả cách giàu của mình. Có cung chỉ cách giàu tiền, có cung chỉ cách giàu ruộng đất.
1. Cung Phúc đức:
Cung này chỉ tài sản của dòng họ, thường là của ông bà, xa hơn là tổ phụ
Cung Phúc tốt là điềm có di sản. Di sản mà lớn lao thì mới bảo đảm được sinh kế dễ thở lúc thiếu niên, giúp cho tuổi trẻ khỏi bị bận tâm về vấn đề sinh nhai. Mặt khác, cung Phúc tốt sẽ giúp con người có của ngay từ lúc mới chào đời. Khéo giữ của thì của đó bành trướng thêm và là yếu tố căn bản cho việc làm giàu. Người giàu nhờ di sản chẳng bao giờ bắt đầu bằng con số không. Tài sản thụ hưởng đó có ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản do mình tạo lập về sau vì cung Phúc chiếu thẳng vào cung Tài. Vì vậy người ta nói cung phúc tốt là có của Trời cho.
2. Cung Phụ Mẫu:
Cung này chỉ tài sản của cha mẹ. Nếu có nhiều sao tốt, nhất là sao tài thì cha mẹ dư dả, có thể giúp đỡ cho mình một cách đáng kể, nhất là trong giai đoạn lập nghiệp buổi đầu. Sỡ dĩ như thế là vì cung Phụ mẫu bao giờ cũng tiếp giáp cung Mệnh, ngụ ý rằng, đương sự vốn phải sống nhờ cha mẹ, ít nhất là trong buổi thiếu thời. Nếu cung Phụ mẫu tốt thì nếp sống đó hạnh thông, giúp con người bước vào đời bằng một số vốn nào đó chứ không phải bằng hai bàn tay trắng. Mặt khác, liên hệ giữa hai cung Phụ mẫu và Mệnh còn rõ ràng hơn nếu cung Mệnh được nhị hợp với cung Phụ mẫu.
3. Cung Mệnh:
Về mặt tài sản, cung này chỉ khả năng thụ hưởng và khả năng tạo sản của mình. Nếu Mệnh tốt, đương số có triển vọng thụ hưởng sản nghiệp thừa tự và nhờ đó bành trướng thêm của cải khác.
Duy cung Mệnh không mấy quan trọng về mặt tạo sản bởi lẽ cung này ứng vào lúc thiếu niên, lúc con người đang tập sự vào nghề, đang đầu tư vào nghề nghiệp sau này, chưa đến lúc thụ hưởng lợi lộc của nghề nghiệp mang lại. Tuổi niên thiếu là tuổi tiền tiêu nhiều hơn là làm ra tiền.
Dù sao, nếu cung Mệnh có sao tốt, thì sự đầu tư có triển vọng đắc lợi về sau, hoặc là sẽ sớm có được của cải trong thời gian đang học nghề.
4. Cung Thân:
Cung Thân tượng trưng cho hậu vận, tức từ khoảng 30 tuổi trở đi. Đây mới là giai đoạn tạo sản, là thời kỳ mà nhân đắc dụng và sáng tạo nhất. Nếu Thân tốt thì tạo và hưởng được sản nghiệp, đủ nuôi thân và có thể nuôi gia đình, thân thuộc. Hơn nữa, Thân còn có thể xem là cung Tài thứ hai, vì cung Thân có ý nghĩa đa diên, bao hàm công danh, tài sản, gia đạo v..v..
Trong trường hợp Thân cư Tài, sự tạo sản sẽ tích cực hơn: con người nỗ lực xây dựng của cải, ha, kiếm tiền, bị chi phối nhiều bởi xu hướng làm giàu, thích tiền của, điền sản hơn là quyền tước, công danh. Bấy giờ, nếu cung Tài tốt, đương số dễ thành đại phú.
Trong trường hợp Thân đóng ở cung khác , những hay dở của cung này sẽ có tiếng dội trên của cải. Nếu ở cung Phu Thê, cái hay của cung này nhất định có lợi cho việc tạo của, bằng sức lực, công lao hay di sản của vợ chồng. Nếu cung Di tốt đẹp, thì bấy giờ thời thế sẽ thuận lợi cho việc làm ăn nhất là ở phương xa.
Tóm lại, cung Phúc và cung Phụ là tài sản thiên định cung Thân là tài sản nhân tạo của hiện kiếp và báo hiệu tài sản của hậu kiếp trong đời con cháu . Vì vậy cung Tài mới tiếp giáp và ảnh hưởng vào cung Tử.
5. Cung Tài:
Tài ở đây chỉ tiền bạc, bất đọng sản, quí kim, cổ phẩn, trương mục, tiền tích trong tủ, trong ngân hàng, tiền để dành và tiền đầu tư.
Nếu hai cung Mệnh và Thân mô tả nếp sống tổng quát của con người trong hai đoạn tiền vận và hậu vận, thì cung Tài mô tả chi tiết tình trạng tài chính, nhất là trong giai đoạn hậu vận (khả năng kiếm tiền, giữ tiền, mức độ giàu nghèo, nguyên nhân hao phí...). vì tiền bạc thường tích tụ vào lúc con người lập thân, cho nên cung Tài và cung Thân có nhiều liên hệ mật thiết, đặc biệt khi Thân cư Tài.
Một điểm cần lưu ý là ngày nay, cung Tài chứa một nội dung và nhiều hình thái phong phú hơn ngày xưa. Thủa xưa, tài chỉ tiền bạc, vàng mà thôi. Còn ngày nay, nhờ sự phát triển ngành ngân hàng và nới rộng mậu dịch, cung Tài còn chỉ cả trương mục, cổ phần, mà giá trị còn hẳn cao hơn hiệu kim tích trữ.
6. Cung Điền:
Theo quan niệm xưa, nặng vè nông nghiệp, chữ Điền TRạch chỉ nhà và đất (ruộng, vườn), do di sản hay do mua sắm. Nhưng ngày nay, nhờ sự bành trướng của kỹ nghệ và tiện nghi vật chất, cung Điền còn chỉ luôn xí nghiệp, sản phẩm biến chế, hoa mầu trên mặt đất và khoáng sản dưới lòng đất, đồng thời chỉ cả máy móc, xe cộ dính liền với các bất động sản đó. Cho nên chữ Điền ngày nay phong phú hơn chữ Điền ngày xưa.
Cung Điền tốt chỉ có nhiều bất động sản và động sản liên hệ. Thông thường cái tốt của Điền phản ánh hoăc ảnh hưởng đến cái tốt ở cung Tài. Lý do là có tiền mới sắm được bất động sản lớn. Tài là yếu tố của Điền, Điền là thể hiện của Tài, theo một hàm số liên hệ nhân quả. Nếu cả hai cung đều tốt thì là phú gia địch quốc.
7. Cung Quan:
Cung này bao gồm bổng lộc do chức tước hay nghề nghiệp tạo ra, cho nên bổ túc cho hai cung Tài và Điền. Cung Quan càng có thêm ý nghĩa tài sản nếu Thân cư Quan.
Theo quan niệm xưa, cung này chỉ quan trọng cho phái nam. Duy quan niêm này đang thay đổi vì trong xã hội hiện nay, phụ nữ ngày càng có nhiều địa vị xã hội, có nghề nghiệp và sinh kế riêng, bổ túc cho sinh kế của chồng. Vì vậy, xem số phụ nữ có địa vị, phải để ý thêm cung Quan. Mặt khác, cung Thê của nam số cũng góp phần bổ túc ý nghĩa tài sản của vợ, trong trường hợp người vợ có nghề nghiệp riêng.
8. Cung Di:
Phần lớn những nhà giàu có của nhờ gặp thời. Vì thế cung Di góp phần khá quan trọng cho việc lập nghiệp.
Trong trường hợp Thân cư Di mà được cung Di tốt đẹp, ý nghĩa này càng rõ rệt. Đặc biệt là cung này có tài tinh, sao may mắn, sao trợ tài. Bấy giờ, khả năng của đương số sẽ không quan trọng bằng sự hên may của thời vân.
9. Các cung Hạn:
Trong lá số, bất cứ cung nào cũng có thể là cug hạn (đại hạn 10 năm, tiểu hạn từng năm một). Các cung hạn ghi nhận những biến cố, những thay đổi về mọi phương diên trong đó có phương diện tài sản. Tuy cung hạn bị đóng cung trong cung Thân, cung Mệnh, cung Tài, song nếu gặp cung hạn tôt, tài vận vẫn có thể khá lên được, dù cung Mệnh, Thân hay Tài, Điền tầm thường.
Trong khi bốn cung Tài, Điền, Quan, Phúc nói lên tình trạng tổng quat thì các cung Hạn đi vào chi tiết của vấn đề tài sản. Cụ thể như cung Hạn cho biết năm đắc tài, năm nào hao của, nguyên nhân của việc thủ đắc hay hao tán v.v...
- phải có chính tinh miếu, vương địa đóng ở các cung liên hệ đến tài sản, nhất là Tài và Điền. Nếu đó là tài tinh thì càng hay. Nếu có nhiều tài tinh đồng cung ở đấy càng tốt đẹp nữa. Đó là hai trường hợp gọi là thuận vị.
- phải được Âm, Dương sáng sủa chiếu vào hai cung Tài, Điền;
_ phải có phụ tinh tốt, nhất là tài tinh đóng ở hai cung Tài, Điền hay ít ra ở những cung Mệnh, Thân, Phúc, Quan. Nếu tài tinh hay cát tinh đắc địa thì càng tốt thêm;
- phải có sao giữ của đóng ở những cung Tài, Điền, Quan, Di, Mện, Thân;
- phải có sao hưởng của ở những cung tài sản hay ở Mênh, Thân, Phúc, Quan;
- phải có sao di sản ở những cung này;
- phải tránh các hao tinh, sát tinh, hung tinh, hình tinh. Nếu không các loại sao này phải đắc địa hoặc có sao giải đi kèm thì sức phá sẽ giảm nhẹ;
- cát và tài tinh phải tránh hai sao Tuần, Triệt mới bảo toàn hiệu lực cho cát tinh và tài tinh được.
Trong trường hợp cung Tài, Điền không có chính tinh thì phải có những điều kiện dưới đây bổ túc:
- có tứ Không, tam Không hay ít ra nhị Không, tức là các sao Tuần, Triệt, Địa Không và Thiên Không. Bốn sao này một phần tọa thủ, một phần họi chiếu;
- có Thái Âm, Thái Dương sáng sủa chiếu vào cung vô chính diện: đây gọi là trường hợp Nhật Nguyệt chiếu hư vô, mặt trời mặt trăng chiếu vào cõi vô cực;
- nếu khong được Âm Dương chiếu thì tối thiểu cung Tài, Điền vô chính diện phải có chính tinh miếu, vương địa xung chiếu vào.
- tài tinh, nghĩa là các sao trực tiếp chỉ tiền bạc và điền sản;
- sao trợ tài, nghĩa là các sao giúp đỡ thêm mãnh lực cho các tài tinh;
- sao may mắn nói chung;
- một số sao giữ của, giúp cho sự cầm của được chắc chắn và lâu bền, tránh hao tán, phá sản.
Phải đủ điều kiện kể trên, mới đủ phú cách và phú cách đó mới dồi dào và lâu dai.
1. Những sao tài:
Nói chung bất cứ chính tinh nào miếu và vương địa đều lợi cho tài sản. Nếu chính tinh lại là sao tài dưới đây càng hay:
Vũ khúc miếu và vương địa:
Chỉ sự giàu có, dư dả nói chung, thông thường là giàu về tiền bạc. Nhưng, nếu đóng ở cung Điền thì sẽ giàu về nhà đất.
Vũ Khúc không phân biệt nguyên nhân việc có của: bằng buôn bán, bằng quan tước, bằng kỹ nghệ, bằng ngân hàng, kinh tế v.v..Thiết tưởng ta không nên xác định cụ thể nghề nghiệp nào của Vũ Khúc, chỉ có thể nói rằng sao này liên hệ rất nhiều đến kinh tế, tài chính. Nếu làm việc công thì là quan coi kho, phụ trách ngân khố cho chính phủ hay phủ trách kinh tế quốc gia (thuế vụ, ngân hàng ngoại thương, nội thương). Ngày nay vì ngành xí nghiệp tư phát triển mạnh cho nên Vũ Khúc chỉ cả tư chức làm việc trong ngành kinh tế, tài chính (quản trị xí nghiệp, ngân hàng tư, xuất nhập cảng, thương gia, kỹ nghệ gia, xuất nhập cảng, hối đoái, nghiên cứu kinh tế tài chính v.v..)
Vũ Khúc sáng sủa báo hiệu một thế lực tài phiệt lớn, tức là người nhờ đồng tiền mà có thế lực, đặc biệt là khi đi đôi với Thiên Phủ, Lộc Tồn hay Hóa Lộc.
Thiên phủ:
Chỉ cái kho lớn của trời đât, nghĩa bóng là tài nguyên quốc gia, tất cả những gì sinh lợi cho nhà nước, bất luận lãnh vực nào (thuế má, kinh doanh, thương mại, ngân hàng, ngân khố, quan thuế, coi kho, thủ quỹ, phát lương, tồn trữ sản phẩm...). Đây là một tài tinh quan trọng tương tự như Vũ Khúc.
Nếu cả hai sao đồng cung và đặc biệt có thêm Hóa Lộc, Thiên Mã hay Lộc Tồn thì tài sản càng dồi dào, miễn là không bị sát, hung, hao tinh xâm phạm. Giữa Vũ và Phủ, rất khó phân biệt sao nào mạnh hơn. Có người cho rằng Phủ là đệ nhị chính tinh, đứng sau Tử Vi, thế tất phải mạnh hơn Vũ...Có quan niệm thì cho rằng Phủ là sao tầm thường và không chế nổi hung tinh hạng nhẹ như Kinh, Đà, Linh, Hỏa nên kém hơn Vũ.
Thái âm, Thái dương sáng sủa:
Biểu tượng cho hai nguyên lý âm, dương của trời đất. Nhật, Nguyệt có nghĩa bóng là phước của trời đất dành cho mình. Về phương diện tài sản, phước đó cụ thể bằng sự giàu có.
Nếu dựa vào nguyên nghĩa nói trên mà suy luận thì sự thịnh vượng của Âm Dương bắt nguồn từ việc đắc thời, từ vận hội tốt đẹp của đất nước, phù hợp với năng khiếu làm giàu của mình, trong thời bình hoặc trong thời loạn. Điều này được thể hiện qua việc hai sao này thường hội chiếu lẫn nhau. Nếu cả hai sao này gia tăng tài lộc dồi dào, đặc biệt cho những người có giờ sinh tương hợp. Nếu đồng cung thì phải có thêm Hóa Kỵ hay Tuần ha Triệt mới hay.
Ngoài ra, có thể nói sự thịnh vượng đó do cha mẹ để phúc lại vì Thái Âm tượng trưng cho mẹ, Thái Dương cho cha. Nếu cả hai sao cùng sáng thì cha mẹ giàu có, thường để lại di sản cho con cháu. Nếu không giàu thì ít ra cũng thọ.
Riêng Thái Âm trực tiếp có nghĩa điền sản. Đây là sao điển hình cho ai hành nghề bất động sản (chủ điền, chủ phố, chủ đồn điền, xí nghiệp, mua bán nhà đất ...). Cho nên, nếu đóng ở Điền thì rất hợp vị. Vì vậy, người ta cho rằng, về mặt của cải, Thái Âm lợi hơn Thái Dương. Ngay cả trong trường hợp Âm, Dương đồng cung (ở Sửu hay Mùi), nếu được Tuần, Triệt án ngữ (hay có Hóa Kỵ đồng đi kèm) thì Âm vẫn thịnh hơn Dương vì Sửu và Mùi là 2 cung Âm.
Riêng Thái Dương đi với Thiên Lương ở Mão với Cự Môn ở Dần, hoặc Thái Âm đi với Thiên Đồng ở Tý cũng rất giàu có.
Việc cung Tài giáp được Âm, Dương sáng sủa cũng chỉ dấu hiệu của sự dư dả. Về mặt nghề nghiệp, đó là nghề dính dáng đến tiền bạc.
Tử vi :
Tử Vi là đế tinh, có ý nghĩa tốt toàn diện, cả về mặt tài sản. Nhưng, Tử Vi không phải là sao tài đúng nghĩa. Đóng ở cung Tài, Điền vẫn lợi lộc, nhất là ở Dần, Thân, Tị, Hợi. Tại bốn vị trí này, Tử Vi hội với Thiên Phủ là tài tinh, nhất là ở hai cung Dần và Thân, Tử Vi và Thiên Phủ đồng cung cho nên hiệu lực về tài chính cũng thêm nhiều.
Nếu Tử Vi ở Ngọ thì rất rực rỡ, tài lực càng sung mãn.
Cự môn, Thiên cơ đồng cung:
Hai vị trí đồng cung của Cự, Cơ là Mão và Dậu, song ở Mão đẹp hơn ở Dậu. Hai sao kết hợp thì tạo được tài lộc dồi dào, nhờ tài năng cạnh tranh, óc tính toán, đa mưu, biết người biết việc, biết phương pháp, mánh khóe, chiến lược kinh doanh, biết tường tận môi trường tài chính, rất thích hợp cho các ngành nghiên cứu về kinh tài. Cự, Cơ là sao của các nhà đại kinh doanh, tư bản lớn, làm ăn trên các môi trường lớn, các gút kinh tế hoặc của các chiến lược gia kinh tế. Đi chung với tài tinh khác như Hóa Lộc, Song Hao, ý nghĩa trên càng chắc chắn.
Riêng Cự Môn đơn thủ ở Tý Ngọ cũng giàu có tự lập từ tay trắng rồi bộc phát lẹ làng, nhất là trong lúc loạn, cạnh tranh.
Thiên cơ, Thiên lương đồng cung:
Thế đồng cung của hai sao này chỉ có ở hai cung Thìn và Tuất. Tại đây Cơ, Lương chỉ sự giàu có dễ dàng. Thiên Cơ chỉ mưu trí, xảo thuật kiếm tiền, Thiên Lương chỉ cơ hội tốt đẹp và may mắn, đồng thời cũng chỉ thiện tính của nhà buôn bán, kinh doanh.
Nếu Lương chỉ đơn thủ ở Tý, Ngọ thì cũng giàu có. Đồng cung với Thái Dương ở Mão, với Thiên Đồng ở Dần Thân thì cũng đắc phú như vậy.
Cách giàu của các sao đi chung với Thiên Lương đều lương thiện, có tinh thần xã hội, cứu độ, tạo công ăn việc làm cho kẻ khác.
Vũ khúc, Tham lang đồng cung:
Hai sao này kết hợp điển hình cho ngành kinh doanh thương mại. Tham lang chỉ sự hám lợi, mưu tìm cái lợi tối đa. Vũ Khúc chỉ tiền bạc. Cả hai sao kết hợp là người tham tiền, ham lợi, đặc điểm của doanh thương. Vì có sự hiện diện của Tham Lang, nên sự buôn bán này không lương thiện, thành thật bằng Cơ, Lương.
Ngoài ra, vì cùng là bắc đẩu tinh hết cho nên Vũ, Tham đắc tài lúc hậu vận.
Riêng Tham Lang đơn ở Thìn, Tuất cũng rất giàu, nhất là về già. Cách giàu này rất nhanh, có tính cách hoạch phát. Hình chất khả hữu là sự kinh doanh táo bạo, tốc chiến tốc thắng, phù hợp với đặc tính của Tham Lang. Duy Tham Lang là sao tham lam, trục lợi, cho nên cách doanh thác này không mấy chính đáng. Hình thái đầu cơ tích trữ, cầm giá, kìm giá, thao túng thị trường, độc quyền mại bản có thể rất thông dụng
Thiên đồng miếu địa:
Sao này không phải là phú tinh mà là phúc stinh. Vì phúc tinh bao hàm cả lĩnh vực tiền bạc cho nên Thiên Đồng đắc địa cũng là đắc phú: đó là trường hợp Thiên Đồng ở Mão, chỉ người tay trắng lập nghiệp, chắc chắn nhờ may mắn, phúc đức. Duy cách giàu của Thiên Đồng phải nhọc sức, đi đây đi đó buôn bán mới có của, kiểu như các nhà môi giới, các đại diện thương mại, các người giao hàng, trình dược viên, quảng cáo lưu động, tùy viên thương mại ở nước ngoài hoặc ở xa trụ sở kinh doanh.
Đồng đi chung với Thiên Lương ở Dần Thân cũng rất thịnh vượng và lương thiện, thông thường kinh doanh trên các nghề nghiệp hợp pháp và có khuynh hướng bố thí, hào sảng, có của, làm ra của đông thời cũng làm cho ngươi khác có của theo.
Thiên tướng:
Tướng không phải là tài tinh, nhưng nếu ở Tỵ, Hợi, Sửu, Mùi hoặc đồng cung với Liêm Trinh ở Tý, Ngọ, với Tử Vi ở Thìn, Tuất thì cũng làm giàu dễ dàng mà lại lâu bền, chắc chắn và chính trực.
Phá quân miếu địa:
Cũng không phải là sao tài, nhưng nếu miếu địa ở Tý, Ngọ thì cũng phong phú. Tuy nhiên, cách giàu của Phá Quân, dù có nhanh chóng dễ dàng nhờ mạo hiểm, liều lĩnh, bạo dạn, nhưng đồng thời cũng có nhiều bất trắc vì tính mạo hiểm. Dù sao, Phá Quân vẫn giữ bản chất hao tán, cho nên cái giàu rất mong manh. Cũng vì đó cho nên Phá Quân dù kết hợp với chính tinh nào cũng không chắc duy trì lâu dài sự giàu có.
Thất sát miếu địa:
Cũng không phải là tài tinh, nên chỉ có của khi nào miếu địa ở Dần Thân và Tý Ngọ. Duy cái giàu của Thất Sát rất bất thường, thường là chậm, chỉ phát sau giai đoạn lập thân, phát lúc bất ngờ, cho nên có tính cách hoạch tài.
Đi chung với Tử Vi thì kiếm tiền dễ, nhanh vì Thất Sat hỗ trợ cho Tư Vi, trong khi Phá Quân làm suy bại Tử Vi.
Nói tóm lại, cách giàu phải có tài tinh chinh cống và miếu địa. Những phúc tinh, quyền tinh, võ tinh chỉ có ý nghĩa giàu khi nào miếu địa. Những sao giàu kể trên đây có thêm trung tinh trợ lực mới mạnh thêm. Lẽ dĩ nhiên, các sao trên phải tránh các sao phá tán của cách nghèo.
Đối với trung tính, cũng có loại sao tài, cũng có loại sao may mắn, loại sao giữ của.
Lộc tồn:
- Là một tài tinh quan trọng, báo hiệu dư ăn dư để, khả dĩ gọi là giàu có. Tồn có hai ý nghĩa, tích cực và tiêu cực.
Về mặt tiêu cực. Tồn chỉ "lộc ăn", nghĩa là có nhiều cơ hội được tiền bạc, điền sản, lợi lộc nói chung. Sự lợi lộc này thường do hai nguyên nhân:
- di sản tổ phụ, cha mẹ: người có Tồn ở Phúc, Mệnh thường được hưởng ít nhiều của cải của thân tộc;
- do người khác biếu xén, tặng, giúp đỡ.
Với hai khía cạnh này, Tồn đắc lợi từ kẻ khác. Tuy nhiên, đây chỉ là khía cạnh tiêu cực.
Về mặt tích cực, sao này chỉ người tháo vác, có tài tổ chức, có tính toán và quyền biến theo hoàn cảnh, những đức tính cần thiết cho việc tạo của cho người biết làm của cải sinh lợi. Nói khác đi, đó là năng khiếu buôn bán, tính chất của nhà buôn, đó là khả năng của các ủy viên tổ chức, của giám đốc thương mại, của trưởng cơ quan tài chính, kinh tế. Trong lĩnh vực tư, Tồn rất thích hợp với thương gia, nhất là nhà kinh doanh lớn, hiểu biết và lợi dụng được thị trường. Nếu không hành nghề buôn bán, thì ý nghĩa tiêu cực sẽ nội bật hơn.
Mức độ ảnh hưởng của Lộc Tồn nhiều ít tùy theo tuổi. Theo cụ Thiên Lương, một nhà lý số đương thời, nguyên tắc chính để hưởng thiên lộc của sao này là cung Mệnh phải tọa thủ hay tam chiếu với cung có Lộc Tồn trấn đóng. * Đây là một lý đương nhiên. Duy cụ Thiên Lương đã có công chi tiết hóa và lượng giá mức độ, hoàn cảnh hưởng thụ. Theo cụ:
Mệnh có Lộc tồn tọa thủ hay tam chiếu thì hưởng lộc.
Nếu tọa thủ thì hưởng nhiều, tam chiếu thì hưởng ít hơn thế tọa thủ
Nếu nhị hợp thì ít hơn nữa.
Điều đáng chú ý là theo cụ Thiên Lương. Lộc Tồn ở thế xung chiếu Mệnh lại không được kể.
Hóa lộc:
Nói chung, sao này đồng nghĩa với Lộc Tồn. Tuy nhiên, Hóa Lộc ngay thẳng, thành thật, không mưu cơ như Lộc Tồn. Hóa Lộc làm giàu một cách chính đáng, cạnh tranh ngay thẳng hơn, óc con buôn tương đối vừa phải, không mấy hám tài, tham lợi như Lộc Tồn.
Dường như cái giàu của Hóa Lộc dẽ dàng hơn, không đua chen, lăn lộn nhiều với sinh kế, phần ý nghĩa tích cực của Lộc Tồn ứng dụng nhiều cho Hóa Lộc. Trong khi Lộc Tồn tha thiết giữ của thì Hóa Lộc tương đối hào sảng, biết hưởng thụ chứ không phải chỉ biết lo chắt mót: đây là người có tiền, chịu ăn chơi và chịu chi tiêu. Tâm lý của Hóa Lộc không chặt chẽ xài kỹ như Lộc Tồn. Hóa Lộc có thể là một Mạnh Thường Quân dám bố thí, hiến của trong khi Lộc Tồn hãy còn tính toán hơn thiệt, nếu không nói là ích kỷ. Vì vậy, Hóa Lộc cầm của kém hơn Lộc Tồn, dù cả hai sao đều dư ăn dư để.
Ở vị thế hội chiếu, hai sao này đảm bảo giàu có. Tuy nhiên nếu đồng cung lại kém vì Tồn thuộc Thổ. Lộc thuộc Mộc, hai hành xung khắc, có thể lụy vì tiền, có lẽ vì quá tham kiếm tiền.
Hóa Lộc hay Lộc Tồn kết hợp với Thiên Mã càng thêm giàu có.
Thiên mã :
Đắc địa ở Dần, Tỵ và phần nào ở Thân, Thiên Mã cũng có ý nghĩa tài lộc, phần lớn nhờ tháo vác, lanh lợi, khôn ngoan, xoay trở khéo, quán xuyến, chịu khó, chí thú làm ăn, tương ứng với các đức tinh của ngựa hay, chạy nhanh và bền. Duy cái giàu của Thiên Mã do tự lực, tay làm hàm nhai, cho nên cực. Mặt khác, đó cũng là cái giàu ở tha phương, càng làm ăn xa càng có lợi.
Mã chỉ dễ làm giàu khi nào hội tụ nhiều cách tốt như Mã Tử Phủ, Mã Nhật Nguyệt sáng, Mã Lộc Tồn, Mã Hóa Lộc, Mã Tràng Sinh, Mã Khốc Khách, Mã và Lưu Mã. Các cách này chỉ sự may mắn, đắc thời, hợp cảnh. Ngoài ra, hành của Mã còn phải phù hợp với hành của Bản Mệnh thì mới phát tài dễ dàng. Ví dụ Mã ở Dần với người mạng Mộc, ở Tỵ với người mạng Hỏa, ở Thân với người mạng Kim, ở Hợi với người mạng Thủy. Nếu Mã gặp Hình, hay Tuyệt, hay Tuần Triệt hoặc Mã ở Hợi (trừ khi mạng Thủy) thì bất lợi, hung hiểm hoặc chật vật.
Mã đắc địa ở cung Điền có ý nghĩa là có nhà cửa, ruộng đất, xí nghiệp ở nơi xa. Nếu có thêm Tả Hữu thì có nghĩa là song mã, tam mã, ngụ ý có thêm nhiều điền lộc: có thể có hai nhà, hoặc một nhà và một miếng đất hay một xí nghiệp, trong đó có một nhà ở xa.
Về phương diện nghề nghiệp, nghề của Thiên Mã hợp vơi ngành vận tải hàng hoá hay hành khách, hoặc môi giới, giao dịch với bên ngoài, ký hợp đồng ở xa, với người ngoại quốc hoặc lập văn phòng đại diện thương mại xứ người. Nếu là nghề công thì đây có thể là tùy viên sứ quán về kinh tế, thương mại.
Đại hao, Tiểu hao ở Mão và Dậu:
Hai sao này là hao tinh, nghĩa là hao tán tài sản. Nhưng, chỉ riêng ở Mão và Dậu, Đại và Tiểu lại giàu có. Thuộc hành hỏa (có người cho là hành Thủy), nhị Hao ở Mão đắc lợi là vì cung Mão thuộc Mộc phù sinh cho sao Hỏa. Do đó, nếu Đại Hao ở Mão, Tiểu Hao ở Dậu thì tốt hơn Đại ở Dậu, Tiểu ở Mão.
Tại hai cung này, nhị Hao rất thịnh về tiền bạc: đó là người thông minh, lanh lợi, biết xoay trở làm ăn, có chí làm giàu lớn, dám bỏ tiền ra kinh doanh đại sự, dám gánh bất trắc của thời cuộc để mưu lợi tối đa. Óc mạo hiểm của nhị Hao ở Mão Dậu rất lớn, được thời thì trở thành đại phú, gặp vận xui thì có thể sạt nghiệp. Đại, Tiểu Hao không chắt mót giữ tiền mà luân chuyển vốn liếng làm ăn rất linh hoạt, tiêu pha lớn trong việc kinh doanh cũng như trong việc ăn chơi. Tính tình nhị Hao còn hào phóng hơn Hóa Lộc rất nhiều.
Mặt khác, do đặc tính linh động, nhị Hao ám chỉ người có nhiều ngành buôn bán, kinh doanh một lần trên nhiều cơ sở thương mại, đầu tư vào nhiều lãnh vực khác nhau, dễ chuyển ngành thương mại từ địa hạt này sang địa hạt khác. Do đó, nhị Hao tượng trưng cho những nhà đại tư bản có cả dây chuyền xí nghiệp hoạt động có tổ chức và liện hoàn. Xí nghiệp có ở nhiều chỗ, phải lưu động đi kiểm soát, đôn đốc, xuất ngoại rất thường để tìm thị trường thương mại. Nền kinh tế nhà nước có phồn thịnh hay không hẳn là do những nhà kinh doanh loại này. Nếu tài sản của Lộc Tồn tương đối bất động, thì tài sản của nhị Hao lại luân lưu. Nếu dùng ví dụ để mô tả, thì Lộc Tồn đọng vốn trong việc kinh doanh bất động sản (như cho vay bạc lấy lời, cất cửa nhà cho thuê, tạo điền sản cho mướn lấy địa tô...) còn nhị Hao thì chế biến sản phẩm, phân phối hàng hóa, vận tải hành khách hay hàng hóa bằng đường bộ, đường thủy (nếu có Lưu Hà) hay hàng không (nếu có phi Liêm).
Long trì, Phượng các:
Hai sao này không rõ rệt lắm về cách giàu. Long Phượng là hai sao tốt một cách tổng quát (đẹp về nhan sắc, hay về văn học nghệ thuật, đoan trang về phẩm hạnh, may mắn về hôn nhân, sang cả về phương diện tiện nghi vật chất). Ý nghĩa tài sản chỉ là một khía cạnh trong số các ý nghĩa tốt dẹp đa diện đó.
Về tài sản, Long Trì ở cung Điền chỉ cái nhà khang trang, đài các, có canht trí xinh xắn, có thể có ao hồ, non bộ. Đây có thể chỉ là cách phong lưu, tư sản chứ khong hẳn là tư bản, giàu có. Mặt khác, Long Phượng đi với Mộ có nghĩa là được hưởng di sản.
Về mặt nghề nghiệp, Long Phượng có thể là kiến trúc sư, thầu khoán, những người sống bằng nghề buôn bán bất dộng sản, đặc biệt là khi tọa thủ ở Điền hay đồng cung với Thái Âm.
Tam thai, Bát tọa:
Chỉ khi nào hai sao này đóng ở Tài và Điền thì ý nghĩa tài sản mới rõ ràng. Mặt khác, nếu bộ sao này gặp Mộ ở bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì tài sản càng nhiều thêm. Hai sao Thai, Tọa ở Tài, Điền tốt đẹp thường chỉ sự hạnh thông về tiền bạc, sự may mắn trong việc tạo sản, không phải đấu tranh chật vật: tiền bạc tương đối dễ kiếm, hoặc có người bao bọc nuôi dưỡng, kiểu như trời sinh voi trời sinh cỏ. Cho dù kế sinh nhai có thanh đạm, đương số cũng không vì thế tự cho là khốn khổ. Tâm lý của Thai Tọa về mặt của cải rất lạ lùng: đó là sự vô tư trước tiền của, dù là giàu hay nghèo. Vì vậy, Thai Tọa thiếu óc đầu tư, đầu cơ trục lợi của người buôn.
Thiên khốc, Thiên hư ở Tý, Ngọ:
chỉ riêng hai vi trí này, Khốc Hư chỉ sự giàu có trong hậu vận, lúc về già. Người xưa gọi là "tiền bần hậu phú".
Ở những cung khác, Khốc Hư chỉ sự lo âu triền miên về tiền bạc. Trong các vị trí này, Khốc Hư là hai sao phản nghĩa với Thai Tọa.
Tử ở Tài, Điền:
Tử chỉ sự kín đáo, bí mật. Đóng ở Tài, Điền, đương số có tài sản chôn giấu hoặc nhờ người thân tín đứng tên. Riêng ở cung Điền tốt, sao Tử có thể có nghĩa quặng mỏ, quí kim, dầu hỏa...ở dưới lòng đất của mình, hoặc một trương mục vô ký danh ở ngân hàng. Về mặt nghề nghiệp, đây có thể là nhà khai thác khoáng sản, nếu sao Tử ở Tài, Điền và đi chung với các sao tài khác.
Tất cả tài tinh kể trên càng qui tụ nhiều vào các cung tài sản thì càng giàu, hoặc nếu giáp các cung tài sản thì cũng khá. Dĩ nhiên phải tránh các sao tán tài, các hung sát tinh, hao bại tinh và Tuần Triệt. Nếu gặp các sao này, tài sản sẽ chậm có, tiêu tán, hoặc phải cực nhọc mới thủ đắc được. Ngược lại, nếu tài tinh được phù trợ bởi các sao trợ tài thì sự giàu có càng dễ dàng, phong phú và lâu bền hơn.
Những sao trợ tài:
Những sao này không trực tiếp có nghĩa giàu có, phải đi chung với tài tinh thì tài lực mới hưng vượng được.
Tả phù, Hữu bật:
Tả, Hữu tượng trưng cho sự phò tá, sự giúp đỡ, sự cộng sức chung vốn của người đời. Đi chung với các sao tài, Tả Hữu có nghĩa là được bằng hữu giúp đỡ trong việc làm ăn, kiếm tiền dễ dàng nhờ những cộng sự viên đắc lực. Hai sao này chỉ những cổ đông, những người góp vốn hùn hạp, môi giới, trong thương hội, hợp tác xã. Cung Tài có Tả Hữu thì không có kinh doanh riêng rẽ trái lại được sự hợp doanh, hợp tư, chung của góp công, chia lời.
Đứng về mặt cơ sở thương mại, có Tả Hữu thì công ty sẽ có cơ sở rộng lớn hơn, có chi nhánh, có đại diện thương mại ở nhiều chỗ: đó là những xí nghiệp lớn.
Nếu tọa thủ tai một cung Điền tốt đẹp, Tả Hữu ngụ ý có hai nhà hoặc nhà, một đất hay xí nghiệp làm ăn. Còn ở cung Tài, đương số vừa có tiền để ở nhà, vừa có trương mục ở ngân hàng.
Nếu không bị sát tinh xâm phạm thì sự hợp tác chân thành tích cực và lương thiện. Trái lại, nếu có sát tinh, ám tinh đi kèm thì sự hợp tác có nghi kỵ, cạnh tranh, gian lận, lường gạt, hoặc giả có sự hợp tác để làm ăn ám muội và táo bạo kiểu như buôn lậu phi pháp, có thể đi đến sự thanh toán, giành giựt, phá sản, bị họa vì tiền bạc, vì quản lý kém phân minh.
Thiên quan, Thiên phúc:
Ý nghĩa tương tự như Tả, Hữu: có sự giúp đỡ của quí nhân trong việc làm ăn. Hai sao này vốn là cát tinh cho nên sự hợp tác có tính cách lương thiện, chân thành bất vụ lợi, tín nghĩa.
Mặt khác, Quan và Phúc cũng có nghĩa hay giúp đỡ kẻ khác, hay dùng tài sản làm việc phước thiện, làm việc văn hóa...
Tràng sinh, Đế vượng:
Sinh và Vượng chỉ sự phong phú, thừa thãi, đi với tài tinh, sẽ làm cho của cải thêm nhiều. Có thể ví hai sao này như hai hệ số, làm gia tăng tài lộc, mặc dù không tạo ra tài lộc: Sinh và Vượng chỉ số nhiều, chỉ lượng. Nói khác đi, cung Taì có sao tài đồng cung với Sinh hay Vượng thì tiền bạc có sinh lợi, vốn để ra lời hoặc vốn được tích lũy thêm mãi. Ngoài ra, Sinh Vượng còn có nghĩa như một tổ hợp thương mại chứ không phải một sự kinh thương đơn lẻ.
Ân quang, Thiên quý:
Ở cung Tài, Điền Quang Quý chỉ di sản, nhiều hay ít còn tùy số lượng tài tinh thủ hay chiếu. Nếu có nhiều sao đi kèm, di sản đó có thể quan trọng.
Mặt khác, Quang Quý còn có nghĩa là những cổ đông bỏ vốn, thường là người thân thuộc, tín nhiệm: thương hội vì vậy nên có tính cách gia tộc.
Ngược lại, nếu gặp cả Không, Kiếp hội chiếu, di sản đó có thể tiêu cực (có nợ nần của cha mẹ để lại) hoặc không được hưởng di sản, hoặc phải bị hao tán nhiều.
Đào, Hồng, Hóa, Lộc:
Lộc đi với Đào hay Hồng là cách làm giàu nhờ phái đẹp, vợ hay nhân tình có của. Sự may mắn thường do phái nữ mang đến. Đối với phái nữ, thì do phái nam cung cấp.
Hóa quyền:
Đóng ở cung Tài tốt đẹp, Hóa Quyền không hẳn có nghĩa quyền quí, mà có thể có nghĩa như một thế lực tài phiệt nếu Quyền đi cùng với tài tinh rực rỡ.
Đóng ở cung Điền, Hóa Quyền là bổng lộc do nhà nước ban cấp, dưới hình thức hiện vật, như được cấp đất khai khẩn, được ở nhà chính phủ, được sử dụng công xa, nói chung là những tiện nghi vật chất do quyền tước mà có. Đây chỉ là những ý nghĩa khả hữu mà thôi, không nhất thiết phải có như vậy, bởi lẽ Hóa Quyền chủ về quan lộc hơn là điền sản. Những lợi lộc trên chỉ rõ rệt đối với những lá số có quí cách, có quyền cách, nghĩa là những lá số làm quan to, văn hay võ.
Thiên khôi, Thiên việt:
Đây không phải là sao tài đúng nghĩa, cho dù Khôi, Việt có đóng ở Tài hay Điền. Hai sao này chủ yếu chỉ khoa giáp, bằng cấp.
Nhưng, Khôi Việt là những sao trợ tài vì làm sáng lạng thêm cho Tài Điền, nếu hai cung này xấu. Nếu thêm tài tinh thì của cải nhiều thêm. Sự hội tụ của nhiều tài tinh với Khôi Việt báo hiệu một thế lực tài phiệt có thể nói là xuất chúng, chính cũng vì Khôi Việt chỉ sự độc nhất trong lãnh vực nhất định nào đó. Trong trường hợp này, đương sự có thể là Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị, Chủ Tịch Hợp Tác Xã hay một xí nghiệp kinh tế tài chính, công hay tư. Bằng không thì là sở hữu chủ, chủ nhân.
Nếu hai cung Tài và Điền tương đối xấu thì sự hiện diện của Khôi Việt tại đó sẽ làm vượng cho hai cung: đương số không đến nỗi nghèo túng, có thể đủ ăn, đủ mặc.
ng phải là nơi cư trú lý tưởng. Vì với những kiến trúc cao tầng con người dễ bị mất hết sinh khí, nơi sinh khí yếu lại bị bóng tòa kiến trúc cao to che phủ, gây ảnh hưởng tới sức khoẻ. Tương tự như vậy, nếu có một ngôi nhà nhỏ trong bốn bề đều là nhà cao tầng thì tầm nhìn ra ngoài sẽ bị hạn chế, khiến người trong nhà có cảm giác tù túng, chật chội.
Ngày nay “tấc đất tấc vàng”, nhiều người khi xây cất nhà trên một mảnh đất nhỏ hẹp, thường nghĩ cách chiếm dụng không gian bằng cách xây nhiều tầng. Đây cũng không phải là cách làm hay bởi một ngôi nhà cao tầng đứng đơn lẻ trong cả một quần thể dân cư nhà thấp tầng sẽ phá vỡ cân bằng, phá hỏng sự hài hòa của phong cảnh cả một khu vực, gây ra sự đố kỵ, mất đoàn kết. Mặt khác, tuy kỹ thuật xây dựng hiện đại phát triển rất nhanh chóng, có biện pháp chông bão tô” và động đất tương đôi đáng tin cậy. Nhưng “cây cao hứng nhiều gió”, một ngôi nhà đơn lẻ cao chót vót giữa những ngôi nhà thấp càng cần phải chú ý trước sự nguy hiểm do bão tố gió xoáy hay động đất.
Vì vậy, cư trú trong quần thể dân cư gồm toàn những căn nhà thấp là tốt nhất. Khu dân cư hiện đại nếu gồm toàn những ngôi nhà thấp quây quần, về cơ bản có kích thước to nhỏ sàn sàn nhau, có điểm tốt là sinh khí mạnh nếu gần ngang nhau không gây cảm giác bức bối sinh khí mạnh áp đảo sinh khí yếu. Nếu mảnh đất nhà bạn ở quá chật có thể tìm cách xây tầng hầm với các thiết bị thông gió và chiếu sáng thì có thể khắc phục được tình trạng trên.
Tràng sinh (Thủy)
***
1. Ý nghĩa tướng mạo:
2. Ý nghĩa tính tình, phúc thọ:
3. Ý nghĩa của tràng sinh và một số sao khác:
- Tràng Sinh, Tử, Phủ: người bao dung, quảng đại, dễ tha thứ, không câu chấp. Nếu có quan chức lớn thì ân đức rộng.
- Tràng Sinh, Thiên Mã: được vận hội may về nhiều mặt; công danh tiến đạt, tài lộc gia tăng, công việc thành tựu. Nếu đồng cung thì càng đẹp. Tuy nhiên, riêng ở Hợi, vốn bất lợi cho Mã nên vất vả, trắc trở, không lợi về danh, tài, quan.
- Tràng Sinh, Đế Vượng: mập mạp, phong túc
4. Ý nghĩa của tràng sinh ở các cung:
Chỉ trừ phi ở cung Tật gặp nhiều sao xấu thì bệnh tật nhiều và lâu khỏi, ở các cung khác, Tràng Sinh đem lại phúc thọ, tài lộc.
Tại Bào thì anh em đông, sung túc. Tại Tử thì đông con. Tại Tài thì dồi dào tiền bạc. Tại Phúc thì thọ. Tại Hạn thì gặp vận may. Tùy ý nghĩa sao đi kèm, Tràng Sinh làm tăng thêm cái hay của cát tinh hoặc cái dở của sao xấu.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
Đền Bạch Mã tọa lạc ở địa chỉ 76 phố Hàng Buồm, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đền Bạch Mã là một trong tứ Trấn của kinh thành Thăng Long xưa, gồm bốn ngôi đền: Đền Quán Thánh (trấn giữ phía Bắc kinh thành); Đền Kim Liên (trấn giữ phía Nam kinh thành); Đền Voi Phục (trấn giữ phía Tây kinh thành); Đền Bạch Mã (trấn giữ phía Đông kinh thành).
Đền Bạch Mã được xây dựng từ thế kỷ 9 để thờ thần Long Đỗ (Rốn Rồng)- vị thần gốc của Hà Nội cổ. Năm 1010, khi Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, định đắp thành nhưng nhiều lần thành đắp lên lại bị sụp đổ. Vua cho người cầu khấn ở đền thờ thần Long Đỗ thì thấy một con ngựa trắng từ đền đi ra. Vua lần theo vết chân ngựa, vẽ đồ án xây thành, thành mới đứng vững. Thần được vua Lý Thái Tổ phong làm Thành hoàng của kinh thành Thăng Long.
Văn bia hiện còn ở đền cho biết, đền Bạch Mã được tu bổ lớn vào niên hiệu Chính Hòa (1680-1705) đời Lê Hy Tông, đến năm Minh Mệnh thứ 20 (1839) lại được tu bổ thêm: sửa lại đền, dựng riêng văn chỉ, xây Phương đình, quy mô ngày càng rộng rãi, cảnh quan tôn nghiêm, nổi tiếng ở chốn đất thiêng.
Kiến Trúc: Hiện tại ngôi đền có qui mô kiến trúc lớn, quay theo hướng Nam gồm có Nghi môn, Phương đình, Đại bái, Thiêu hương, Cung cấm và nhà hội đồng ở phía sau. Các mục hạng này được bố trí theo chiều dọc, trong một không gian khép kín.
Kiến trúc đền còn lưu lại hiện nay chủ yếu mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn (thế kỷ 19). Nổi bật trong kết cấu kiến trúc của đền là toàn bộ khung nhà gỗ với hệ thống cột gỗ lim lớn, các bộ vì đỡ mái được làm kiểu “giá chiêng chồng rường con nhị”, đặc biệt là “hệ củng 3 phương” tại nhà phương đình vừa có tác dụng chịu lực, vừa là tác phẩm nghệ thuật và sử dụng để treo đèn trong các ngày lễ hội và kết cấu “vòm vỏ cua” đỡ mái hiên nhà thiêu hương. Trên các cốn gỗ, xà lách, xà ngang, các vì chồng rường đều có nhiều mảng trang trí với các đề tài phong phú và nét trạm chắc, khỏe.
Trong nội thất của đền, phương đình ở phía trong, bên trái có cây hương, bàn thờ, phía ngoài có miếu thờ Tề Vương Phi, bên phải phương đình thờ Bể Núi. Thiêu hương và cung cấm có ban thờ và đồ tế lễ.
Hiện đền còn lưu giữ nhiều di vật cổ có giá trị như: bia đá, sắc phong, kiệu thờ, hạc thờ, đôi phỗng, Cùng với các giá trị về kiến trúc nghệ thuật, di tích đền Bạch Mã là một nguồn tư liệu quí để nghiên cứu, tìm hiểu Thăng Long-Hà Nội về nhiều mặt. Có hơn một nghìn năm lịch sử, Đền Bạch Mã là một trong những di tích kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu của thủ đô Hà Nội.
Đền Bạch Mã liên tục tiếp đón các du khách trong và ngoài nước đến viếng, tìm hiểu về một trong những di tích lịch sử văn hóa của Thăng Long-Hà Nội, nơi có vị thần Long Đỗ Thành hoàng quốc đô Thăng Long ngự trị, đã và đang phù trợ cho nhân dân.
Chỉ có một thiểu số ít hơn là dùng âm lịch thường xuyên để nghiên cứu hay áp dụng vào các bộ môn khoa học huyền bí, như lấy số tử vi hay coi ngày lành tháng tốt cho chuyện làm đám cưới hỏi, khai trương công việc làm ăn v.v.
Hiện nay nghề làm lịch số của Trung Quốc không còn giữ được bí mật theo kiểu cha truyền con nối như xưa, vì nhờ vào phương tiện in ấn dồi dào từ sách vở ghi chép còn sót lại để nghiên cứu. Hơn nữa, Âm lịch cũng không còn thực dụng, vì hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đang chính thức dùng Dương lịch. Dù vậy, hậu quả của việc bảo vệ bí mật trong mấy ngàn năm trướcđây, cũng đã vô tình đánh mất đi cơ hội dành cho những thế hệ về sau này của Trung Quốc, nghiên cứu và tìm ra vận hành của Thái dương hệ, trước Âu châu ít nhất là vài trăm năm!
Nếu tình cờ mỗi năm một lần, chúng ta thấy xuất hiện một từ quen thuộc gọi theo tên âm lịch của năm đó, như năm nay 2002 là Nhâm-Ngọ, 2003 là Quý-Mùi, hay năm tới 2004 Giáp-Thân, thì dám chắc ai cũng đã ít nhất một lần thắc mắc, bằng cách nào và dựa vào đâu, các nhà lịch số Trung hoa phát minh ra những từ ngữ trên? Nói rõ hơn là mười (10) Thiên Can và mười hai (12) Ðịa Chi. Xin nhắc lại ở đây, 10 Can gồm: Giáp, Ất, Bính, Ðinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Bài viết này sẽ dựa trên một vài dữ kiện kiểm chứng được của khoa học, để truy tìm lại phương pháp làm lịch mà các Chiêm tinh gia Trung hoa thời xưa có thể đã xử dụng. Bằng với tinh thần tôn trọng sự thật và học hỏi, người viết xin minh xác là những gì được trìnhbày sau đây có thể chưa được chính xác đúng hoàn tòan như đã xảy ra. Nhưng hy vọng sẽ là những ý tưởng khởi đầu, hay nếu có thể được, coi như là một đề nghị nghiên cứu thêm cho những vị có nhiều năng khiếu tự nhiên giỏi về các bộ môn Tử vi Lý số, để cùng làm sáng tỏ những gì đã bị hiểu nhầm là khoa học huyền bí.
Nội dung chính của bài viết này sẽ trình bày và giải thích tại sao, chỉ bằng mắt thường quan sát với phương tiện ghi chép còn thô sơ, các chiêm tinh gia Trung hoa đã tính được ra Thiên can, Ðịa chi và LụcTuần Hoa Gíap, hay khái niệm về vận hành 60 năm trong âm lịch. Phần cuối của bài viết sẽ giải thích một vài điều thắc mắc về những bí ẩn của khoa Tử vi Ðẩu số.
Nguồn gốc Lịch số
Âm lịch (lunar calendar) hay việc soạn thảo lịch số dựa vào vận hành của mặt trăng không phải bắt đầu từ Trung hoa như nhiều người lầm tưởng. Theo dữ kiện cóđược từ các nhà khảo cổ với bằng chứng rõ rệt, thì nền văn minh Sumerian, phát triển bên cạnh con sông Tigris cách đây hơn 6000 năm (khoảng từ năm 5000-4000 BC, để sau này thành trung tâm của xứ ngàn lẻ một đêm, hay ngày nay còn gọi là Baghdad, thủ đô của Iraq) đã biết làm lịch dựa vào vận hành của mặt trăng. Ðế quốc La mã ngay trong thời trước Julius Cesar ( 40 BC ) cũng dùng loại Âm lịch này. Chọn mặt trăng để làm lịch có thể bởi hai lý do: Dễ nhìn vì ánh trăng ban đêm không nóng gay gắt và khó nhìn như mặt trời ban ngày. Thay đổi hình dạng thường xuyên từ khuyết tới tròn dễ thấy hơn là mặt trời hầu như ít khi thay đổi. Tuy nhiên, còn một lý do khá quan trọng khác ít người nghĩ đến, là do yếu tố thiên nhiên. Xứ Ai cập (Egypt) nằm ngay trên đường Phân cực Hoàng đạo (Tropic of Cancer, khoảng 23°27 từ xích đạo) nên đa số nhiều người đã thấy được hiện tượng mặt trời chiếu thẳng trên đỉnh đầu. Nghĩa là trong khoảng từ 20 tháng 3 đến 20 tháng 9, nếu cắm một cái cọc thật thẳng đứng, sẽ thấy bóng của cây cọc nhập trùng ngay dưới gốc của nó vào lúc 12 giờ trưa, ít nhất là trong vài ngày (Chỉ những nước nằm giữa đường xíchđạo và Bắc bán cầu trong khoảng Vĩ tuyến từ 0 - 23°27 mới thấy được hiện tượng trên. Ngược lại, trong vùng Nam Bán cầu thì khoảng từ 20 tháng 9 đến 20 tháng 3). Nhờ quan sát hiện tượng đó, dân Ai cập cách đây khoảng hơn 4000 năm đã tính ra gần đúng số ngày trong năm (365 thay vì 355 như Âm lịch), và cũng chính là lý do họ chọn làm lịch theo mặt trời, lưu truyền Dương lịch cho đến bây giờ!
Các thủ đô của Trung hoa như Trường An hay Bắc kinh, vì nằm trong vùng ôn đới cách xa trên đường Phân cực (Tropic of Cancer) nên không thấy được hiện tượng nói trên, cũng như khôngcó ấn tượng nhiều về mặt trời, và cũng là lý do dể hiểu tại sao họ đã dùng mặt trăng để làm lịch.
Theo đúng như trong sử Trung hoa ghi lại thì khoa Lịch số đã có từ thời Hoàng Ðế, cách đây hơn 4000 năm, do các chiêm tinh gia soạn ra (nghĩa nguyên thuỷ là nhà thiên văn hay chuyên gia coi sao trên trời, không phải bị biến nghĩa ra thành "thầy bói toán" như về sau này!) chiêm tinh gia biên soạn lịch số để định chuẩn thời gian cho việc hành chánh và cai trị của triều đình Vua quan, nhưng đồng thời cũng giúp rất nhiều cho nghề nông trongviệc tiên đóan thời iết hay thu hoạch mùa màng. Chắc chắn trong giai đoạn đầu khi mới có cho đến khoảng sau thời Hán Cao tổ, âm lịch cũng không tránh khỏi nhiều sai lầm, nhất là rất đơn sơ và chưa có Thiên can hay Ðịa chi như sau này. Bằng chứng là trong thời kỳ phát triển của Chu Dịch (1150 - 500 BC) cũng chưa nghe nói đến. Phải đến thời "Tam Quốc" của Khổng Minh (Gia cát Lượng) vào khoảng 200-300 AD thì mới có văn tự rõ rệt nói về các Thiên Can, đồng thời xuất hiện các khoa lý số như Kỳ Môn Ðộn Giáp, Thái ất Thần toán, hay Lục Nhâm Ðại Ðộn v.v. Hầu hết các sử gia Trung quốc đều công nhận là chỉ vào thời kỳ của Nhà Hán, sau mấy trăm năm chiến tranh liên miên từ thời Ðông chu Liệt quốc, nền văn minh Trung hoa mới thật sự khởi sắc và đi lên trong Thiên niên kỷ đầu tiên (0 -1000 AD).
Theo chínhsử ghi lại, những nghiên cứu và phát minh của Trung hoa thật sự đã bắt đầu từ thời Tần thủy Hoàng, khi vị Hoàng đế tài giỏi nhưng tàn bạo này, có thể động viên hay chiêu dụ được nhiều đạo sĩ (coi như là khoa học gia theo tiêu chuẩn thời đó), trong việc thám hiểm, đi tìm kiếm các kỳ hoa dược thảo để luyện thuốc trường sinh bất tử cho ông. Dưới nhận xét bình thường thì cho rằng đó là việclàm xa xỉ, hoang tưởng và mê muội. Nhưng trong lãnh vực nghiên cứu khoa học ngày nay, Tần Thủy Hoàng rất xứng đáng được coi như đã có công sáng lập một cơ cấu kiểu Hàn lâm Viện khoa học đầu tiên cho nhân lọai! Những chi phí trong việc chiêu đãi hay thưởng công cho các đạo sĩ thời đó, dưới cái nhìn thiếu hiểu biết cho là phung phí, nhưng so với tỷ lệ ngân sách dành riêng cho khảo cứu khoa học ngày nay thì chẳng có nghĩa lý gìcả, dù là của một nước đang phát triển! Chính nhờ làm việc và sống chung tập thể với nhau đó, đã vô tình tạo ra môi trường tốt đẹp cho những sáng kiến mới, thi đua học hỏi, trao đổi kiến thức giữa các đạo sĩ với nhà vua, và có thể đã là cơ sở đóng góp cho nhiều phá minh quan trọng về khoa học và kỹ thuật sau này của Trung quốc. Hoá chất Lưu huỳnh dùng để làm thuốc súng, than đá, thủy ngân, chì, nam châm có từ tính, cách luyện thép, bàn ính (abacus), v.v. có thể đã được bắt đầu nghiên cứu hay tìm ra trong thờ kỳ này. Thí dụ về những huyền thoại phù phép mà Khổng Minh xử dụng, là do những phản ứng đặc biệt từ các hoá chất độc hại như lưu huỳnh, thuỷ ngân hay các loài dược thảo trộn chung với nhau khi bị đốt cháy. Kết qủa là làm cho đối phương bị gây mê, mất trí hay mạng vong trong những vùng gọi là bát qúai trận đồ. Nhưng một trong những thành quả tốt đẹp hơn hết chính là bộ môn xem thiên văn khí tượng bắt đầu xuất hiện được nhiều người biết đến. Nhờ vậy mà khoa lịch số đã được hiệu chỉnh, thay đổi đúng hơn cho tới bây giờ!
Phương pháp soạn Âm lịch
Có thể chia ra làm hai giai đọan phát triển chính cho việc soạn thảo âm lịch.
Giai đoạn I: Kéo dài khoảng gần 2000 năm từ thời Hoàng đế cho đến thời Khổng tử. Trong giai đoạn này chỉ có ngày, tháng và năm. Chưa có chia ra giờ cũng như chưacó thiên can và địa chi. Công việc soạn lịch vào thời sơ khai này rất là dễ hiểu, không có gì phức tạp như nhiều người thường lầm tưởng. Những chiêm tinh gia thời đó chỉ dựa vào khoảng cách giữa hai tuần trăng tròn để tính số ngày cho một tháng. Khoảng cách của một năm thì được định bằng thời điểm vào lúc Trăng tròn nhất, khoảng ngày rằm tháng 8 (sau này thành ra tết Trungthu), và một phần dựa vào thời tiết thay đổi của 4 mùa.
Khó khăn duy nhất lúc ban đầu là cứ cách khoảng chừng hai năm thì tháng có trăng tròn nhất bị kéo dài thêm một tháng. Ðó là những tháng nhuận, và cách giả iquyết thực tế đơn giản lúcbấy giờ là thêm nguyên một tháng vào những năm nhuận. Còn làm sao họ biết được năm nào nhuận là do phỏngchừng và dựa vào kinh nghiệm riêng của những đời trước theo kiểu cha truyền con nối. Chính cách làm theo lối thuận tiện như trên, nên âm lịch thường bị thành kiến cho là thiếu chính xác! Có thể trong thời kỳ này, tháng nhuận chỉ được thêm vào trong tháng trước tháng có trăng tròn nhất là tết Trung thu(?) Chỉ sau này khi bắt đầu ăn mừng ngày tết Nguyên đán và để không bị sai ngày quá xa, nên những nhà soạn lịch phải chia ra cho đều, thêm tháng nhuận vào các tháng khác.
Ngoài ra có vài chi tiết cần được để ý là hệ thống Âm lịch dựa vào thiên can và địa chi chỉ có phân biệt tối đa là 60 năm, nên nếu muốn viết lịchsử, họ thường dùng năm cai trị của Vua hay triều đại làm chuẩn. Thí dụ như trong sách thường viết là năm thứ mấy đời Vua nào đó gặp thiên tai bão lụt v.v. Lâu dần trở thành thói quen dùng luôn cho đến khi bị ảnh hưởng của nền văn minh Tây phương thay đổi.
Về giờ giấc, lịch số ở thời kỳ đầu cũng chưa chia ra 12 giờ như sau này. Ðể định giờ, họ dùng cách nói phỏng phừng theo vị trí của mặt trời, mà mãi cho đến bây giờ, nông dân ít học ở các vùng quê vẫncòn dùng, như khi nói mặt trời vừa lên quá ngọncây (khoảng 8 đến 9 giờ sáng mùa hạ), hay mặt trời đứng bóng giữa trưa khoảng 12 giờ v.v.
Những gì vừa trình bày có thể kiểm chứng bằng bộ sách Chu dịch đã được soạn ra khoảng từ thời nhà Chu (1150 BC) cho đến thời Khổng tử (550 BC). Cụ thể là việc lập quẻ Dịch. Trong bộ Chu Dịch chính bản chỉ ghi cách lập quẻ duy nhất là dùng cỏ Thi, còn gọi là phép bói cỏ Thi, mà không dùng đến giờ nào như Khổng Minh dùng để bấm độn sau này. Các lời bàn của 64 quẻ trong bộ Chu Dịch nguyên thuỷ hoàn toàn không có nói rõ về giờ giấc.
Giai Ðoạn II: Từ thời Khổngtử cho tới nhà Ðường khoảng chừng 1000 năm. Thời kỳ này văn minh Trung Hoa bắt đầu khởi sắc đi lên. Các Ðạo sĩ hay Chiêm tinh gia làm việc có phương pháp và khoa học hơn. Nhờ vậy, họ đã tìm ra hay khám phá được chu kỳ vận chuyển của các hành tinh trong Thái Dương hệ, và từ đó âm lịch mới được thay đổi để thêm vào Thiên can, Ðịa chi, Lục tuần Hoa giáp (hay chu kỳ 60 năm). Trướckhi đi sâu vào chi tiết, và để quý đọc giả dễ theo dõi vấn đề hơn, người viết xin nhắc lại một vài dữ kiện căn bản như sau:
Trong những đêm tốt trời không mây, nếu dùng mắt thường chúng ta có thể đếm được cả vài trăm ngôi sao là chuyện thường. Tuy nhiên, tất cả đều thấy gần như cố định không thay đổi theo năm tháng, vì không phụ thuộc vào một hệ thống vệ tinh như Thái dương hệ, hoặ cgiả có chu kỳ di chuyển quá lớn đến cả ngàn vạn năm. Còn lại, trừ trường hợp đặc biệt như sao chổi (Comet) và sao băng (Asteroid), chúng ta chỉ thấy được những hành tinh thuộc Thái dương hệ dic huyển mà thôi. Trong tám (8) hành tinh chính, trừ mặt trời và mặt trăng, mắt thường của chúng ta chỉ thấy được có năm(5) hành tinh. Ðó là Thủy tinh(Mercury), Kim tinh(Venus), Hỏa tinh(Mars), Mộc tinh(Jupiter), và chót là Thổ tinh(Saturn). Ba(3) hành tinh không thấy được bằng mắt thường là Diêm vương tinh (Uranus), Hải vương tinh (Neptune) và Thiên vương tinh(Pluto). Không biết có phải là trùng hợp ngẫu nhiên của tạo hóa, hay sắp đặt khéo léo của con người, trong 8 quái (Bát quái hay 8 hành?) của Dịch lý, các "Khoa học gia" thời đó chỉ thấy được có 5 quái: Ðịa, Sơn, Thủy, Lôi, và Hỏa, nên phát minh ra Ngũ hành (Ngườ viết đã trình bày trong bài "Những khám phá mới về Dịch lý và Ngũ hành" cách đây hơn hai năm.) .
Ðể tìm hiểu về 5 hành tinh thấy được chuyển động như thế nào, các Chiêm tinh gia thời đó đã dùng một phương pháp đơn giản nhưng rất khoa học, là ghi chép lại vị trí của các hành tinh sau một thời khoảng nhất định. Thời điểm tốt nhất để xem thiên văn là mỗi tháng một lần vào cuối hay đầu tháng, lúc trăng hoàn toàn bị che mất (đêm 29, 30 hay 1). Muốn định rõ vị trí của cácsao, có lẽ họ cũng biết dùng theo phương pháp chấm tọa độ, nhưng kém chính xác rất nhiều. Dùng sao Bắc đẩu làm chuẩn và theo đồ hình Bát quái, họ có thể định phương vị (hay khẩu độ) của một sao, và kế đến là cũng theo lối ước chừng độ cao của mặt trời để định khoảng cách từ đường chân trời. Thí dụ như để định vị ngôi sao ở 220 độ từ hướng Bắc (theo chiều kim đồng hồ) và 25 độ cách chân trời nằm ngang, họ có thể nói là nằm ở giữa cung Khôn (hướng Tây-Nam) cách chân trời khoảng một gang tay chẳng hạn. Về sau để được chính xác hơn, có thể các chiêm tinh gia đã dùng đến các tên của quẻ dịch để phân chia thành 64 cung trên vòng tròn. Ðó chính là lý do tạisao các nhà nghiên cứu về sau cóthể hiểu lầm vì bị nạn "tam sao thất bổn", nên tưởng là môn lịch số có nguồn gốc từ Dịch lý mà ra.
Dù bằng cách nào thì cũng nhờ khái niệm tuần hoàn và chu kỳ âm dương của Dịch lý, chiêm tinh gia thời đó có thể tin chắc là các vì sao đều chuyển động theo một chu kỳ nhất định nào đó. Nếu không thì có lẽ họ không bỏ thì giờ quá lâu cho cả một đời người để tìm ra gần đúng chu kỳ của 5 hành tinh trong Thái dương hệ, trước Âu châu cả hơn ngàn năm!
Kết quả công trình nghiên cứu và ghi chép vị trí sao của các Chiêm tinh gia Trung hoa nói trên cho thấy là cứ mỗi 60 năm thì cả 5 hành tinh đều quay trở về lại gần vị trí cũ! Ðặc biệt hơn hết, là vào khoảng cuối năm Quý Hợi và đầu năm GiápTý thì cả 5 hành tinh đều hội tụ lại, và nằm sát với nhau chung một hướng. Xin nhắc lại đây để tránh hiểu nhầm, nhờ tìnhcờ ngẫu nhiên quan sát thấy hiện tượng 5 sao tụ hội về một chỗ trước khi phân tán ra, nên có thể các nhà lịch số cho rằng đó là khởi điểm đầu tiên cho chu kỳ 60 năm, và họ đặt tên cho năm có hiện tượng đó là GiápTý, đứng đầu trong bảng lục tuần hoa giáp.
Sau đây là bảng tóm lược số vòng chu kỳ quay quanh mặt trời của 5 hành tinh, dựa theo thời gian một (1) năm của trái đất làm chuẩn:

Dựa vào bảng tính toán chu kỳ ở trên cho thấy có một vài chi tiết cần chú ý: Sau khoảng chừng 20 năm thì các sao tụ về tại một vị trí khác, và phải sau gần 60 năm của trái đất, thì cả bốn(4) sao Thủy tinh, Hỏa tinh, Mộc tinh, và Thổ tinh mới quay về gần đúng vị trí đầu tiên hay xê xích một chút. Khoảng cách sai số sau 60 năm là từ 10 đến 30 cung độ (arc), do các số lẻ thứ nhất của số chu kỳ trong 60 năm đều nằm trong giới hạn của 0 - 0.1 hay 0.9 - 1.0 theo vòng tròn (360 độ) của mặt trời. Ðối với người quan sát các hành tinh đứng từ vị trí trên trái đất và ở một gốc độ chéo, thì chắc sẽ nhìn thấy khoảng cách hay độ xê xích nhỏ hơn rất nhiều, hoặc có thể không thấy được độ sai biệt bằng mắt thường! Riêng trường hợp của Kim tinh (Venus) tuy nằm gần như đối diện với vị trí cũ (số lẻ 0.54), nhưng chu kỳ quay chung quanh mặt trời chỉ có chừng hơn 7 tháng, nên chỉ cần thêm khoảng 4 tháng (cũng còn trong 1 năm của trái đất) là quay vòng trở lại để hội tụ cùng các sao.
Như vậy, với một vài bằng chứng ở trên có thể tạm kết luận rằng: Chuyện các chiêm tinh gia Trung hoa cách đây hơn 1000 năm đã tìm ra chu kỳ gần đúng của 5 hành tinh là sự thật hiển nhiên rất dễ hiểu theo khoa học. Hình vẽ thứ hai sau đây cũng để minh chứng cụ thể cho thấy vị trí của 5 hành tinh vào tháng 2 năm 1984 (dương lịch, âm lịch là 30 tháng Chạp năm Quý Hợi, gần tết Nguyên đán) theo cách tính đúng qũy đạo chính xác của khoa học ngày nay.
Tuy nhiên cũng xin lưu ý và nhấn mạnh một lần nữa là do sự trùng hợp ngẫu nhiên đưa đến, không phải cứ 60 năm là các sao phải tụ về ở cùng một phương vị giống như vậy. Lý do là vì các sai số khoảng 0.06 cho Mộc tinh và 0.037 cho Thổ tinh như đã nói, nên phương vị của các sao tụ hội lại cũng thay đổi xê xích mộtchút sau khoảng 60 năm. Muốn các sao tụ hội về cùng phương vị gần giống như cũ phải mất khoảng 1600 năm, hay gần 27 lần của chu kỳ 60 năm! Nhưng dù vậy cũng chỉ gần đúng mà thôi. Nghĩa là trong thực tế không hề có sự trùng nhập lại giống y hệt như cũ được!
(Chú thích: Mercury bị che bởi Venus và Mars nên không thấy trong hình)
Nhân đây cũng nên nhắc đến một sự kiện lịch sử có ảnh hưởng rất nhiều đến vận mệnh của cả nước Việt nam. Do bởi các vua chúa Trung hoa thời bấy giờ vì quá tin vào lập thuyết của các chiêm tinh gia, cho rằng một khi các tinh tú đều chầu về một phương nào thì nơi đó tụ hội được nhiều linh khí, nghĩa là có "Thánh nhân" hay bậc đế vương sinh ra đời! Bởi vậy nên tính ra trong khoảng 400 năm ( 400 - 800 AD) vào thời nhà Ðường, các Sao đều chầu về phương Nam (gần giống như hình vẽ trên), làm cho họ phải lo sợ. Từ nguyên nhân đó, mới có việc sai phái đạo sĩ Cao Biền làm Thái thú để tìm cách trấn yểm phương Nam. Ngoài ra sau này họ cũng thường gởi các "Gián điệp" giả dạng đội lốt tu sĩ hay thầy Ðịa lý và thầy thuốc bắc để dò tìm nhân tài của Việ nam. Một khi phát hiện được nơi nào có "thần đồng" hay thiếu niên giỏi chữ là họ tìm đến để thử tài và tìm hiểu. Nếu đúng thì bằng nhiều cách như dụ dỗ, mua chuộc nếu cha mẹ nghèo, xin cho làm con nuôi để "dạy dỗ và huấn luyện chữ nghĩa v.v. Ðó là lý do tại sao trong những câu chuyện kể về các vị thần đồng Nho học của Việt nam thời xưa, thường nói tới việc có những người "khách lạ" tìm đến để ra câu đối và thử tài thông minh!
Nếu những gì nói trên đúng theo thuyết của các chiêm tinh gia Trung hoa, thì trong số những đứa trẻ sinh năm 1984-85 ở Việt nam sẽ cho ra nhiều thiên tài xuấtchúng ngoại hạng trong tương lai (!?) Ðúng hay sai thì chưa biết, nhưng ứng nghiệm vào các quốc gia thuộc vùng Ðông nam A¨ thịnh vượng giầu có hơn trong vòng 20 năm qua, và dĩ nhiên kết qủa là sẽ cho ra nhiều trẻ em thần đồng nhờ được nuôi dưỡng huấn luyện và giáo dục trong môi trường tốt hơn!
Nói chung với cách tính phỏng chừng và đơn giản dựa vào ba sao là: Hỏa tinh (Mars) có chu kỳ gần 2 năm, Mộc tinh (Jupiter) có chu kỳ khoảng 12 năm, và Thổ tinh có chu kỳ gần 30 năm, các nhà làm Lịch số đã tìm ra mẫu số chung gần đúng là 60 năm để cả ba sao tụ hội lại gần nhau, và có cùng chung một cung, hay cùng phương vị theo bát quái (mỗi cung khoảng 45°.)
Ðiều cần biết thêm ở đây chính là chu kỳ gần 2 năm của sao Hỏa (Mars), nghĩa là cách khoảng một năm thì các chiêm tinh gia thấy sao Hỏa nằm ở vị trí hướng đối ngược lại. Do hiện tượng trên trùng hợp với lý thuyết về Dịch hay luật âm dương, nên có thể các nhà lịch số tin rằng thời gian cũng giống như vậy là cứ một năm Dương một năm Âm thay đổi đều nhau!
Mộc tinh (Jupiter) là sao quan trọng nhất có chu kỳ gần đúng 12 năm. Quan trọng theo các nhà Lịch số thời bấy giờ có thể từ hai lý do. Thứ nhất, đó là sao duy nhất để phân biệt và chuẩn định sự khác biệt của các năm. Thổ tinh (Saturn) vì xa và khó thấy hơn, nhất là chu kỳ đầu tiên quá lâu và có tới gần 30 năm không chính xác bằng Mộc tinh. Riêng Hỏa tinh thì lại càng không chính xác vì chu kỳ quá ngắn chỉ có khoảng gần 2 năm. Thứ hai, dựa vào kinh nghiệm tích lũy từ quan sát và thực nghịêm của các chiêm tinh gia theo lối cha truyền con nối có thể đã kéo dài trong vài trăm năm, sau Mặt trời và Mặt trăng, Mộc tinh có ảnhh ưởng nhiều nhất đối với con người và Trái đất (sẽ giải thích thêm ở mục Tử Vi). Chính vì vậy, họ đã dùng chu kỳ 12 năm của Mộc tinh để đặt tên cho 12 năm, còn gọi là Thập nhị Ðịa chi. Dám chắc mới đầu chỉ có tên bằng con số 1, 2, 3, 4,...12. (Nếu để ý thì thấy các số lẻ 1, 3, 5...thuộc số Dương, số chẳn 2, 4, 6... là số Âm, phù hợp với Dịch lý đã nói ở trên). Còn tại sao sau này lại có tên của 12 con vật là Tý, Sửu, Dần...v.v, thì lại thuộc một vài lý do khác không nằm trong phạm vi bài viết này, nên xin miễn bàn ở đây. Nói chung, yếu tố quan trọng là nhờ vào quan sát thực nghịêm, một phương pháp thông dụng trong nghiên cứu khoa học.
Sau cùng, có lẽ các chiêm tinh gia cũng chỉ thấy có sao Thổ tinh là có chu kỳ lâu nhất trong 5 hành tinh, nên theo trình độ hiểu biết thời bấy giờ, họ cho rằng đó là vị thần chính của nhà Trời ảnh hưởng đến mọi sự sắp đặt và thay đổi của "Thượng đế", nên gọi là Thiên Can (?). Nhưng tại sao là 10 mà không là 5, vì 5 nhân 12 mới bằng 60? Hỏi vậy là xem thường khả năng về Toán của chiêm tinh gia! Nếu chỉ dùng 5 số Thiên can ghép với 12 Ðịa chi sẽ bị trở ngại ngay, nhất là không giải quyết được nguyên tắc Âm Dương, một năm Dương và một năm Âm đi liền với nhau như đã giải thích về chu kỳ của sao Hỏa ở trên. Ðể giải tỏa vấn nạn đó, các chiêm tinh gia buộc phải dùng gấp đôi con số 5 lên thành 10, tuy vẫn duy trì 5 đặc tính Ngũ hành của Thiên can. Bởi vậy cho nên bây giờ chúng ta mới có hai Can đi liền với nhau có cùng chung một Hành (theo thuyết Ngũ hành), và có một Dương và một Âm. Thí dụ như Giáp với Ất (hành Mộc), Bính với Ðinh (Hỏa), Mậu với Kỷ (Thổ), Canh với Tân (Kim) và Nhâm với Quý (Thủy).
Ngoài ra, do ảnh hưởng của thuyết Ngũ hành, việc đặt hay gọi tên 5 hành tinh theo Ngũ hành là hoàn tòan dựa vào màu sắc khi nhìn bằng mắt thường, và không có liên hệ gì với đặc tính vật lý. Theo lý thuyết của Ngũ hành về màu sắc, gọi là Mộc tinh vì có sắc xanh. Hỏa tinh vì có sắc đỏ như lửa. Thổ tinh vì có sắc vàng, Kim tinh (Venus) vì có sắc trắng do có độ sáng mạnh, và Thủy tinh (Mercury) có sắc đen vì quá gần mặt trời nên không thấy được sáng lắm!
Tóm lại hệ thống Âm lịch dựa vào các hành tinh chính sau: Mặt trời để định Giờ và Ngày, Mặt trăng dùng cho Tháng, Mộc tinh (Jupiter) dùng cho Năm hay 12 Ðịa chi, và sau cùng Thổ tinh (Saturn) và Hoả tinh (Mars) dùng để định Thiên can (Âm hoặc Dương) và Ðại Chu kỳ 60 năm hay LụcTuần Hoa Giáp. Ghi nhận thêm ở đây là theo âm lịch, mỗi tháng chia ra làm 3 tuần, có khoảng từ 9 đến 10 ngày, gồm: Thượng, Trung, và Hạ tuần. Về sau này thì các nhà soạn lịch tính và thêm vào các ngày đặc biệt như Ðại hàn, Tiểu hàn, Lập Đông, Hạ chí v.v
Những Bí ẩn của khoa Tử vi
Trong suốt hơn một ngàn năm, bộ môn Tử vi được coi như là khoa học huyền bí bởi tất cả các yếu tố an sao và giải đóan đều dựa theo một vài công thức định trước, mà không có sự giải thích hay chứng minh lý do tại sao. Dù tin hay không tin, thực tế cho thấy khoa tử vi cũng đã được lưu truyền trong dân chúng khá lâu, và ít nhất cũng đã có một số người chấp nhận, nghĩ rằng có thể dùng để đoán được phần nào vận mệnh tương lai của con người! Ðiều đáng ngạc nhiên là nếu đúng theo dữ kiện cho thấy, khoa Tử vi hiện tại này chỉ còn có Việt nam là đất dụng võ, dù có nguồn gốc từ Trung hoa. Ngay cả các sách viết về Tử vi ở TrungHoa cũng có nhiều, nhưng họ không thích xài Tử vi mà lại chọn các môn khác thông dụng hơn như Tử Bình (gọi tắt là Bát tự có 8 chữ, lấy số theo hàng Can và Chi của Năm, Tháng, Ngày và Giờ). Một lý do có thể giải thích là vì sau này họ đã khám phá và thấy được rằng, vận hành của các sao không được chính xác như đã tin tưởng lúc ban đầu!
Những gì được người viết phát hiện và trình bày sau đây cho thấy vài đặc tính khoa học của bộ môn Tử vi. Trần Ðoàn (được coi như ôngTổ sángchế ra Tử vi) hay các vị thầy tiền bối của ông vào khoảng thời nhà Ðường, có thể đã tiến xa hơn và biết khá nhiều về vận hành của các hành tinh. Nhưng tiếc rằng vì các điều kiện thực tế chủ quan về văn hóa xã hội thời bấygiờ, nên họ đã dấu kín và giữ kín bí mật tối đa, nhất là không muốn giải thích hay viết sách để lại lưu truyền cho hậu thế.
Cung An mệnh. Theo quan niệm về triết lý nhân sinh của Khổng giáo chịu ảnh hưởng ít nhiều đạo Lão, mỗi người sinh ra đều có một số phận được an bài trước gọi là thiên mệnh. Các nhà lý số hay tử vi gia Trung hoa dựa vào lý thuyết trên nên tin rằng, khi một đứa bé vừa sinh ra đời là chịu ảnh hưởng định đoạt cho số phận bởi các tinh tú hiện diện trên trời ngay thời điểm đó. Câu văn nổi tiếng thường nghe là "...sinh ra đời dưới một ngô isao..." phản ánh niềm tin trên. Nói cách khác, khi một đứa trẻ sinh ra đời tại một địa điểm nào trên trái đất, sẽ chịu ảnh hưởng của tất cả các tinh tú chiếu vào ngay tại thời điểm đó, và định đoạt số mệnh luôn cả đời cho đứa bé vừa sinh!
Không phải tự nhiên mà các Tử vi gia (TVG) bày đặt ra cách an mệnh trong Tử vi như sau: Khởi từ cung Dần (hay tháng Giêng) đếm theo chiều thuận (kim đồng hồ) đến tháng sinh, rồi từ đó lại đếm ngược cho tới giờ sinh để an cung mệnh. Dựa vào triết lý số phận cùng cách an cung mệnh cho thấy, các TVG thời đó đã khám phá ra được hai đặ ttính vận hành của trái đất và mặt trời, một đúng và một sai!
Thứ nhất, đúng là họ đã biết trái đất tự xoay vòng quanh lấy chính nó theo chiều ngược với kim đồng hồ! Trò chơi lồng đèn xoay (còn gọi là đèn kéo quân hay đèn cù) rất thịnh hành vào thời nhà Ðường, cho thấy các TVG lúc bấy giờ có thể đã có khái niệm về trái đất tròn và xoay. Nhưng như đã viết ở trên, họ đã giữ làm bí mật gia truyền, và nhất là sợ nguy hiểm cho chính bản thân và gia đình do quan niệm "Thiên cơ bất khả lậu" hoặc vì những người cầm quyền như Vua Chúa không tin (giống như trường hợp của Gallileo). Một lý do khác là ngay chính các TVG cũng không hiểu và không giải thích được hiện tượng tại sao con người không bị rơi ra ngoài nếu trái đất xoay tròn! Thêm vào, các hiện tượng thiên nhiên như nhật thực hay nguyệt thực, đã tạo cơ hội để các TVG hiểu ánh sáng từ mặt trăng là do từ ánh sáng mặt trời chiếu vào và thỉnh thoảng lại bị trái đất che (cho trường hợp nguyệt thực). Có thể với cách suy luận tầm thường và đơn giản theo lối chứng minh "phản đề" là: Nếu Trái đất nằm yên không xoay, thì dựa vào quan sát hàng ngày cho thấy mặt trời, mặt trăng, năm (5) hành tinh và đa số các tinh tú thấy được, phải "chạy" xung quanh trái đất mỗi ngày một lần! Ðiều này cho thấy hoàn tòan vô lý vì nhờ các hiện tượng nhật thực và nguyệt thực. Cụ thể như nhờ có hiện tượng nhật thực toàn phần giữa ban ngày, các TVG đã thấy được các ngôi sao và các hành tinh hiện ra, dù trong chốclát. Nghĩa là không phải vào ban ngày, các tinh tú chạy xuống dưới đất rồi đến tối mới hiện lên!
Thứ hai, các TVG đã hiểu sai khi khám phá ra và tin rằng mặt trời quay chung quanh trái đất mỗi năm một lần theo chiều thuận kim đồng hồ! Nhưng thật là may mắn cho khoa Tử vi, cái sai về lý thuyết lại trở thành đúng trên thựctế! Lý do là nhờ luật tương đối về chuyển động. Nghĩa là nếu các TVG đang đứng trên trái đất nhìn mặt trời, trong khi trá iđất di chuyển xung quanh mặt trời theo chiều ngược kim đồng hồ, thì cũng giống như các TVG đứng trên trái đất nằm yên, và nhìn mặt trời di chuyển xung quanh trái đất theo chiều thuận kim đồng hồ!.
Những bằng chứng trên cho thấy khi an cung mệnh, các TVG đã theo gần đúng nguyên tắc vận hành của trái đất và mặt trời, xác định vị trí tương đối lúc đứa bé sinh ra đời trong thái dương hệ. Tuy nhiên, xin được nhấn mạnh và giải thích rõ ở đây thêm một chút để tránh sự hiểu lầm. Ðúng ra, phần nào là do ảnh hưởng thể xác của người mẹ, do tính di truyền hay phù hợp với môi trường vào thời điểm đó, nên "chuyển bụng" mà sinh ra đứa bé, hơn là do cơ thể đứa bé sinh ra chịu ảnh hưởng của các hành tinh!
Vòng Tử vi và Thiên Phủ: Coi như quan trọng nhất cho lá số tử vi nên dựa vào tất cả bốn yếu tố là Năm, Tháng, Ngày và Giờ sinh. Nghĩa là chịu ảnh hưởng của Mặt trời, Mặt trăng và năm hành tinh. Theo nhận xét của người viết thì có thể sau khi định vị trí của đứa rẻ khi mới sinh ra đời dựa vào tháng và giờ, các TVG còn dựa vào hai yếu tố sau cùng là vị trí của các hành tinh hay thiên can, và vị trí của Mặt trăng hay ngày sinh. Nhưng làm sao họ biết sao Tử vi phải được an ở đâu dựa vào ngày sinh (?), và đây vẫn còn là một bí ẩn cần được nghiên cứu thêm. Câu trả lời tạm thời là có thể các TVG đã dựa vào quan sát thực nghiệm hình ạng và khuôn mặt của hàng trăm (hay vài ngàn) đứa trẻ trong một thời gian kéo dài cả mấy trăm năm. KhoaTướng số cũng cóthể nhờ đó mà phát sinh ra. Nên nhớ là ngày nay các nhà coi Tử vi chuyên nghiệp cũng cần phải dựa vào hình dạng hay tướng mạo để "điều chỉnh" và kiểm chứng lại trước khi bàn tới lá số của người nào.
Vòng Thái tuế: Trong số những người Việt nổi tiếng một thời nghiên cứu về khoa Tử vi, có thể TVG Thiên lương (bút hiệu) là người đã khám phá ra những yếu tố quan trọng đặc biệt nhất về vòng an sao Thái tuế. Vòng Thái tuế theo quan niệm của nhóm nghiên cứu TVG Thiên Lương, có ảnh hưởng nhiều đến thái độ sống và cách ứng xử của con người đối với xã hội. Tại sao vòng Thái tuế lại đóng một vai trò chính trong khoa Tử vi? Câu trả lời là vì đã dựa vào sao Mộc tinh (Jupiter). Các chiêm tinh gia từ xưa đã quan sát và biết chu kỳ đặc biệt duy nhất gần 12 năm của Mộc tinh trong Thái dương hệ. Nhưng yếu tố chính quan trọng ở đây là họ đã cảm nhận được ảnh hưởng của Mộc tinh đối với các sinh vật đang sống trên trái đất, nhất là con người theo từng năm (bởi vậy nên SaoThái tuế bao giờ cũng an theo năm sinh, nghĩa là sinh năm nào thì an Thái tuế ở ngay cung đó).
Theo dữ kiện khoa học tìm thấy được, Mộc tinh (Jupiter) hay saoThái tuế có hai đặc tính nổi bật nhất trong Thái dương hệ. Thứ nhất là Hành tinh lớn thứ hai chỉ nhỏ hơn Mặt trời, với đường bán kính trung bình khoảng chừng 70 ngàn cây số (km), gấp 11.2 lần Trái đất. Do đó, lực hấp dẫn (gravity) của Mộc tinh lên Trái đất rất là đáng kể (chỉ sau Mặt trăng quá gần với Trái đất). Thứ hai, và đây mới chính là điều đáng nói, ảnh hưởng từ trường của Mộc tinh mạnh nhiều hơn khoảng 10 lần của Trái đất. Yếu tố sóng từ trường như các phát hiện gần đây cho thấy, ảnh hưởng rất nhiều trên não bộ của con người nhất là cho các trẻ em! Thí dụ cụ thể là cách đây mấy năm, đã xảy ra hiện tượng một số các trẻ em Nhật bị ói mửa và bất tỉnh vì coi một chương trình truyền hình! Hay giới y học càng ngày càng có khuynh hướng tin và công nhận các loại sóng từ trường, từ các dụng cụ điện tử hay các đường dây điện cao thế, có thể gây nguy hại cho não bộ con người nếu hấp thu quá nhiều!
Trở lại chuyện tử vi, theo lý giải của phái TVG Thiên lương nếu người nào an mệnh tại cung có sao Tuế phá, xung chiếu với cung thiên di có sao Thái tuế, thì người đó thường hay bất mãn chống đối, sinh bất phùng thời, v.v. Ðể kiểm chứng hiện tượng trên, người viết chọn một lá số thí dụ để cho cung mệnh có được sao tuế phá: Người tuổi Canh-Thìn (1940), sinh tháng 9, giờ Tý, mệnh an ở cung tuất. Sauđó, dùng cách định vị trí của các hành tinh vào thời điểm nói trên, thì thấy rằng vị trí trên mặt đất vào giờ đó đối diện thẳng với sao Mộctinh, và ở vị trí gần nhất, theo hình vẽ sau:

Dựa vào hình vẽ trên cho thấy người sinh tháng 9 giờ Tý và người sinh tháng ba giờ Ngọ đều an mệnh tại cung Thìn và có cùng sao Tuế phá tại mệnh. Khác biệt duy nhất của hai trường hợp trên là chỉ có người sinh tháng 9 mới chịu ảnh hưởng hoàn toàn của Tuế phá, trong khi người sinh tháng 3 thì ngược lại không ảnh hưởng tí nào vì nhờ mặt trời che hoàn tòan! Một yếu tố có thể là do ảnh hưởng của sóng từ trường quá nhiều từ mộc tinh, nên não bộ của đứa bé lớn lên sẽ có khuynh hướng phát triển nhiều, thuộc loại thông minh hơn người, và thường đưa đến trường hợp chống đối những chuyện chướng tai gai mắt, nên dễ đưa đến bất mãn vì không hùa theo với người được (trường hợp của Cao Bá Quát trong lịch sử). Mặt khác có thể do thiếu giáo dục và hướng dẫn, dễ kết bè đảng với kẻ xấu (Kiếp, Không, Sát Phá Tham hãm địa) thành tay đạo tặc gian hùng v.v. Nên nhớ là những tay đạo tặc gian hùng có tiếng tăm phần đông đều thuộc loại thông minh hơn người rất nhiều !
Hai hành tinh gần mặt trời nhất cũng có thể làm cơ sở để an một số sao trong Tử vi. Kimtinh (Venus) có chu kỳ 0.61 và quay trở lại vị trí cũ (khoảng chừng 5 vòng) cho mỗi 3 năm tròn của trái đất, nên có một số sao trong Tử vi chỉ an theo ba (3) nhóm gồm: Thìn Tuất Sửu Mùi (Tứ mộ), hay Dần Thân Tỵ Hợi và Tý Ngọ Mão Dậu.
Ðặc biệt Thủy tinh (Mercury) quay quanh mặt trời quá mau, cứ mỗi ba tháng làm 1 vòng, trong khi trái đất cứ ba tháng lại di chuyển một phần tư (1/4) vòng chung quanh mặt trời, nên theo vị trí tương đối của người đứng quan sát từ mặt đất sẽ thấy như Thủy tinh chỉ di chuyển trong 4 vị trí chia đều trên vòng tròn (vì tầm nhìn quan sát bị gián đoạn không liên tục, do vị trí của Thủy tinh quá gần mặt trời). Phải chăng vì vậy mà sao Thiên Mã và một số sao khác chỉ an trong 4 cung thuộc trong 3 nhóm trên (?)
Những gì vừa được trình bày cho thấy mặc dù khoa Tử vi đẩu số không được hoàn hảo và còn nhiều nghi vấn theo tiêu chuẩn khoa học hiện đại, nhưng dám chắc rằng đó chính là biểutượng cho tinh hoa của nền văn minh Ðông phương, một thời rạng rỡ đã qua trong thiên niên kỷ đầu tiên của nhân loại, và hy vọng sẽ có ngày trở lại trong vinh quang của thiên niên kỷ thứ ba này.
Nguyễn Cường
Sacto 1/ 2003
Luận chung về Tướng chân
Theo quan niệm cổ nhân, chân là nơi trên chở một thân, dưới vận trăm thể, làm tượng của đất, thể dẫu rất thấp, mà dụng rất lớn, có thể phân biệt tốt, xấu, mà xét sang, hèn vậy. Lão Tử nói đại ý rằng, chân tuy ở dưới cùng của thân thể nhưng khả năng chống đỡ lớn nhất, có thể giúp chúng ta đội trời đạp đất.Tương truyền, gian thần đời Tống là Tần Cối có chân dài. Một nhà tướng pháp nhìn thấy Tần Cối liền nói: "Người này phá nước hại dân, e thiên hạ đều chịu họa, nhiều quân tướng chịu chết dưới tay ông ta", về sau lời nói của nhà tướng pháp quả nhiên ứng nghiệm.
Dưới nhãn quan tướng học Á đông, diện mạo được coi như thân cây, chân tay ví như cành nhánh. Có cây tốt thân mà xấu cành, có cây lại tốt cành mà xấu thân. Cành và thân đều tốt đã đành là quý, nhưng cành tốt thân xấu hay ngược lại thì cây đó vẫn có thể khả dụng. Cho nên, nếu Ngũ quan, Tam đình, Ngũ nhạc (trong Tướng mặt) có bị khuyết điểm đôi chút về mặt hình thức mà tứ chi hợp cách vẫn được coi là loại tướng khả dĩ có phú quý.
Trần Đạm Giã, một nhà nghiên cứu tướng pháp Trung Hoa, đã nói: "Tứ chi đối với con người cũng như bốn mùa đối với sự phát triển của vạn vật. Bốn mùa mà không điều hoà thì vạn vật khó sinh sôi nẩy nở. Tứ chi không ngay thẳng, cân xứng thì kẻ đó suốt đời khốn khổ".
Các bộ phận của chân nói gì?
Về đại thể, người đùi đẹp, chân thon dài, mềm mại, đầu gối cân xứng, đặc biệt đối với phụ nữ, là người có tướng phú quý. Chân tuy to rộng nhưng lại lệch, gầy và mỏng là tướng bần tiện. Đùi to mà đầu gối quá nhỏ, hay mắc quan tụng (kiện tụng), thua thiệt. Đầu gối nổi gân có vòng, suốt đời bôn tẩu, lao đao. Đầu gối quá nhỏ, chân lại khẳng khiu yếu đuối như không xương, tướng yểu bần. Da khô đầu gối nhỏ xương so với đùi, đến già vẫn chưa làm nên chuyện gì thành công.
Gót chân dày, bắp chân và đùi thon gọn là người có quyền thế, bắp chân ngắn và gót chân lớn thì hay gặp gian nan, vất vả. Nhìn chung, chân người sang thì nhỏ mà dày, chân người hèn thì lớn mà mỏng.
Bắp chân (bụng chân): Người có bắp chân to, chân dài, thuôn thì thường có thân hình đẹp, khí chất cao quý, tính cách dịu dàng, thanh lịch, đời sống tình dục mạnh mẽ. Bắp chân khá to, chân ngắn, người coi trọng lý trí, sống quyết đoán, vững vàng trước sóng gió của cuộc đời, giỏi xử lý công việc, dù không dịu dàng cho lắm.
Bắp chân bé, chân dài, người sáng suốt, tự tin, hành động nhanh nhẹn, có khiếu thẩm mỹ. Bắp chân đầy đặn, là mẫu phụ nữ truyền thống, tính ôn hòa, cởi mở, khiêm tốn, ưa thích tình cảm kín đáo. Bắp chân thon, chân ngắn, tính tự vệ cao, luôn cảnh giác đề phòng, thường ở trong trạng thái tâm lý căng thẳng, là người nhanh nhẹn, cần cù nhưng thường thích hư vinh và luôn muốn mình là trung tâm.
![]() |
| Người đùi đẹp, chân thon dài, mềm mại, đầu gối cân xứng, đặc biệt đối với phụ nữ, là người có tướng phú quý. |
Bàn chân: Nam giới có bàn chân dày, nhiều thịt, độ dài các ngón chân đều nhau, hồng hào thì phú quý, còn nữ giới thì phải mảnh mai, nhỏ nhắn, ít thịt lộ xương mới là tốt. Bàn chân vẹo vọ, gầy yếu, người khổ ải, nghèo hèn. Nếu trong lòng bàn chân có nốt ruồi đen, đó là dấu hiệu tượng trưng cho tài lộc, phú quý. Nốt ruồi càng to càng bóng càng chứng tỏ khả năng tài chính của chủ nhân rất ưu việt.
Nếu trong lòng bàn chân có đường vân hình xoắn ốc, người hợp với những công việc trong ngành truyền thông, phim ảnh và sẽ danh lợi song toàn.
Lòng bàn chân khuyết (lõm sâu) như chiếc thuyền úp, hay mặt trăng lưỡi liềm nằm giữa là người thường hưởng cả tài lẫn phúc lớn. Chân dù lớn mà mỏng là tướng hèn hạ, dày mà rộng và ngắn là tướng nghèo khổ, lòng bàn chân phẳng như ván là tướng nghèo hèn.
Gót chân: Người có gót chân tròn đầy là tướng phú quý. Người có gót chân hồng (nhất là phụ nữ) thì là hồng phúc, cả con cháu cũng được nhờ. Người có gót chân nổi rõ thường có tài vận cực vượng. Dưới gót có lằn thớ là tướng hèn hạ. Dưới gót có lằn xoáy là có danh vọng lớn. Dưới gót thành mắt là tướng phúc tới con cháu. Gót chân nứt nẻ là người hà tiện. Gót chân bằng phẳng thì trí lực kém, nghèo khổ.
Ngón chân: Ngón chân dài và hơi thon nhọn và dài là tướng quý, người trung lương. Ngón chân ngay và bằng là người trung nghĩa, thuần hậu. Ngón vẹo vọ, người luôn bận tâm, chịu khó làm lụng, tính khí nóng nảy, hấp tấp. Nếu các ngón xòe tõe ra, người vất vả, lao tâm, nghèo khổ. Nếu ngón lại gãy, gót bè bẹt thì tính ti tiện.
Ngón chân cái ngắn dùi đục: khổ ải. Ngón thứ hai dài hơn ngón cái, người quyết đoán, có khả năng lãnh đạo và tinh thần trách nhiệm cao. Ngón thứ hai và thứ ba cách xa nhau, người có khả năng quan sát tinh tế, nắm bắt nhanh và ngụy trang tốt cảm xúc. Ngón thứ hai ngả vào ngón cái, người ủy mị, giàu cảm xúc, nhưng đôi lúc lại quá yếu đuối, dù là người khá chín chắn. Ngón út nhỏ nhắn biểu hiện cho sự ngây thơ trong sáng và là người hóm hỉnh, hài hước. Ngón út cong lại, hướng ra ngoài người thích sự tự do, phóng khoáng.
Gan (lòng) bàn chân: Người có gan bàn chân mềm mịn và nhiều đường vân là phú quý. Gan bàn chân thô cứng không có đường vân là tướng bần cùng, hạ tiện. Gan bàn chân có vân rùa thì phải gánh vác trọng trách, vân hình chim thì giữ chức quan trọng. Gan bàn chân có vân như thêu gấm thì nhiều lộc, có đường vân như hình cây thì nhiều gia tài, có vân như hình chiếc kéo thì nhiều của cải. Nếu 10 ngón chi không có đường vân chủ về người phá hại gia tài.
Móng chân: Người có móng chân hình tròn, trơn bóng, nếu là nữ, là người có tướng mệnh phu nhân. Người có móng chân mọc cụp xuống dưới có số hưởng tiền. Người có móng chân màu tráng sữa thường có vận mệnh ổn định bình yên. Móng chân màu xám báo hiệu cuộc đời sẽ gặp nhiều trắc trở, đau khổ. Móng chân có sắc hồng hào là biểu hiện sức khỏe tốt, có mệnh phú quý.
Dáng đi nói gì?
Theo quan niệm của cổ nhân, đi là động, thuộc dương thể hiện phong thái và tính cách của con người. Nội tâm, nghĩ suy thế nào thì bước đi sẽ đồng điệu như thế. Người có phúc tướng đi như nước chảy không ngừng. Người tầm thường bước đi như cây gặp gió. Muốn đánh giá dáng đi thì phải quan sát từ xa và khi người đó đi một mình tự nhiên.
Theo đó, bước đi ung dung, uy nghi, bước dài, vững trãi, khoan thai, người và đầu thẳng, mắt nhìn thẳng là tướng vua quan uy quyền, cơ mưu. Bước đi điềm tĩnh, người và đầu không động đậy, không ngó nghiêng, tướng quyền uy kiêu hãnh, tự phụ hùng mạnh, dáng của tướng soái.
Đi thư thả bình lặng là người có tính ôn hòa, cuộc đời no đủ, an nhàn. Đi chân không bén đất, phá gia sản, tha hương, tính nôn nóng, đời nghèo khổ, không thọ.Tướng đi lấp sấp vội vã thì tính tình bất ổn, suốt đời lo lắng, thiếu thốn. Đi đầu cúi gằm nhìn đất hay ngó lại phía sau là tướng tự ti, không bản lĩnh, thân phận hèn kém, xảo quyệt.
Tướng đi lắc lư uốn éo (dáng rắn bò) là người cô độc, gái sát phu (nhiều đời chồng); người không thật thà, tham lam bủn xỉn và không thọ. Tướng đi bình lặng nhưng hai bàn tay nắm chặt, tính khó đăm đăm, giữ của, tính toán chi ly.
Đi mà hai bàn tay duỗi thẳng các ngón tay, tướng hoang phí, tính xởi lởi. Đi mà hai bàn tay khum tự nhiên là tướng căn cơ nhưng thiện tâm. Đi đầu chúi về phía trước, tướng vất vả đủ đường. Đi mà đầu ngửa ra sau là tướng ngu đần, vũ phu. Đi ưỡn thân ngực, đầu cất cao, tướng tự phụ, cao ngạo, coi thường thiên hạ.
Bước đi nặng nề là người suốt đời lo nghĩ, bất hạnh khổ đau. Bước đi hai chân song song (hai hàng) người thẳng là tướng giầu bất chợt nhưng cuộc đời phải đó đây. Bước đi hai tay lăng xa quạt chéo vể sau: Nếu là con trai thì đồng tính, tầm thường, nếu là con gái thì chua ngoa. Bước đi hai tay lăng xa quạt chéo phía trước, tính đỏm dáng, xởi lởi, quan tâm mọi người...
Theo Hà Nam
Câu chuyện pháp luật
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Mệnh là chỉ sinh mệnh, tức là điều kiện của một người được ra đời. vận là chỉ vận trình, tức là hành trình của một đời người. Mệnh cũng từ đó mà được sinh ra, vận là sự biến hóa do trời định, vận do mình sinh. Vì vậy, mặc dù về mặt triết học cũng tồn tại nhiêu thuyết luận tạo mệnh, nhưng vận mệnh vẫn không thể thay đổi được. Trong Liễu phàm tứ huấn chính là một ví dụ điển hình về cải tạo vận mệnh.
Ngoài ra chúng ta còn biết được mục đích của dự trắc là định hướng được sự phát triển trong tương lai đón cát tránh hung, có được cuộc sống tốt đẹp hơn. Bởi vì đón cát tránh hung thì vận mệnh cũng tự nhiên được thay đổi theo. Nếu vận mệnh thực sự do trời định thì làm thế nào có thể xoay chuyển được Càn Khôn đây?
Sức lực của con người có hạn, bạn không thể thay đổi được vận mệnh nhưng lại có thể thích ứng, thậm chí còn tạo ra ảnh hưởng tới sự biến đổi, cuối cùng là lợi dụng vận trình để cải biến cuộc sống của mình.
Cho nên nói, vận mệnh không phải là trời định, quan trọng nhất là bản thân phải nắm bắt được cuộc sống của chính mình.
Nguồn: Thiệu Vĩ Hoa, Lý Cư Minh, Quang Tuệ
Ngày nào là ngày tam nương tương sát
Theo trang Tử vi số mệnh, ngày tam nương có xuất xứ từ Trung Quốc. Tam nương có nghĩa là “ba người đàn bà”. Theo dân gian Trung Quốc, tam nương gồm ba nàng: Muội Hỉ, Đát Kỉ và Bao Tự (những giai nhân tuyệt sắc làm sụp đổ ba triều Hạ, Thương, Tây Chu trước Công nguyên). Trong suốt thời đại của mình, họ được coi là “hồng nhan họa thủy” mang lại sự xui xẻo cho mọi người liên quan. Ngày tam nương chính là ngày sinh và ngày mất của 3 người này, nên một tháng có 6 ngày tam nương, đó là các ngày 3, 7, 13, 18, 22, 27 âm lịch.
Theo các nhà khoa học tâm linh, những ngày tam nương tương sát trong phong thủy được tính là các phi tinh (trong Cửu cung bát quái) có Ngũ hoàng (trung cung) xấu nhất, bay tới đâu mang họa tới đó và cứ phi tinh hết các cung (nhất bạch, nhị hắc, tam bích, tứ lục, ngũ hoàng, lục bạch, thất xích, bát bạch, cửu tử) lại gặp ngũ hoàng. Ngày tam nương tương sát cũng là những ngày năng lượng giao động khiến cơ thể con người mất cân bằng, kém minh mẫn…
Ngày tam nương tương sát còn được kiêng trong các sinh hoạt hàng ngày. Ví dụ quan niệm: Đón dâu về nhà ngày tam nương tương sát thì vợ chồng sẽ cãi cọ, không ở được với nhau dài lâu, tuyệt đường con cái; Nếu đi sông biển ngày tam nương tương sát sẽ gặp họa vì khó tìm được bến bờ trở về; Nếu có bổ phong, nhận chức vào ngày này thì gặp họa thảm sầu, hoặc phải đi xa biền biệt…
Nhận định về ngày tam nương trong tháng 7 Âm lịch có “xấu” hơn so với các tháng khác trong năm không, ông Doãn Phú, Chủ nhiệm bộ môn Phong thủy (Viện Nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng con người) cho rằng, những ngày tam nương trong tháng 7 Âm lịch cũng như những ngày tam nương trong các tháng khác, không xấu hơn. Cũng theo ông Doãn Phú, không chỉ 6 ngày trên, những ngày 5, 14, 23 (các số cộng lại bằng 5) cũng là ngày xấu, được cho là "nửa đời, nửa đoạn", làm gì cũng không như ý.
Ông Doãn Phú cho biết thêm, người phương Tây cũng có quan niệm về những ngày xấu, gọi là ngày nguyệt kị, rơi đúng vào các ngày tam nương tương sát. Khoa học giải thích rằng, khi Trái đất tự quay quanh nó và mặt trăng quay quanh Trái đất thì khoảng 2 ngày rưỡi, mặt trăng sẽ di chuyển qua một “vùng trời” mới, khiến các dòng năng lượng giao động, ảnh hưởng tới toàn bộ sự sống trên Trái đất. Các chuyên gia thiên văn hiện đại cho rằng, vũ trụ thường xuyên xảy ra những vụ va chạm trong thiên hà và phát sinh những bức xạ, tia xạ ảnh hưởng lớn đến Trái đất, chi phối đời sống của sinh vật, trong đó có con người. Và những ngày tam nương là thời điểm mặt trăng chuyển sang vùng mới, tránh ngày xấu chính là tránh thời điểm không tốt của sự vận động vũ trụ và khí quyển.
Hạn chế làm việc gì?
Đại đức Thích Pháp Đạt,nguyên trụ trì chùa Trường Sa lớn (huyện đảo Trường Sa), người đã có nhiều chuyến đi về giữa đảo và đất liền nhân tháng Vu Lan đã chia sẻ rằng, nhà chùa không phân biệt ngày tốt, xấu, ngày thường hay ngày tam nương tương sát như trong dân gian. Nhà chùa khuyên mọi người không nên lệ thuộc, sợ hãi quá vào những ngày tốt, xấu. Nhà chùa không kể ngày, giờ tốt hay xấu, đặc biệt khi có người cầu cứu, các nhà sư không chờ ngày tốt, giờ tốt mới đi, hoặc né tránh giúp người vì lý do ngày, giờ xấu.
Với đạo Phật, mọi việc đều do nghiệp quả, quan niệm xui hay không là do con người. Nếu cố chấp, lo lắng nhiều thì khó khăn sẽ đến. Nhưng nếu buông bỏ, không coi trọng những quan niệm đó thì sẽ không có gì. Bỏ đi được quan niệm xấu, tốt, hay không bỏ quan niệm đó cũng tùy “nghiệp” của từng người, nhưng đừng sa đà vào mê tín dị đoan.
Ông Doãn Phú cũng khuyên, ngày tam nương, nguyệt kị là xấu theo dân gian và tâm linh, nhưng thực sự chưa có nghiên cứu, kiểm chứng khoa học nào về những xui xẻo do ngày đó mang lại. Ông Doãn Phúc nhận định: “Quan sát gần đây thấy có những kiêng kị dân gian có cái còn phù hợp, có cái không. Và thực tế nhiều vụ tai nạn máy bay rơi, đắm tàu thuyền lớn… gần đây không hoàn toàn rơi vào những ngày xấu. Đã từng có nhiều việc trọng đại diễn ra vào các ngày 13/6, 13/7 Âm lịch và đều đạt kết quả rất tốt. Như vậy, những ngày này không phải xấu như quan niệm. Người dân không nên quá lo lắng để tìm cách hóa giải”.
Tuy nhiên, ông Doãn Phú cũng khuyến cáo vì các ngày tam nương tương sát thường là những ngày năng lượng giao động khiến cơ thể con người mất cân bằng, kém minh mẫn. Vì vậy, nên thận trọng khi lái xe, điều khiển máy móc, hạn chế các chuyến đi chơi xa, leo núi, tới nơi rừng rú...
Ông Doãn Phú nói: "Quan điểm của tôi là việc kiêng hay không kiêng, tránh hay không tránh ngày tam nương tương sát là tùy mỗi người. Nếu là người làm ăn, hoặc khi triển khai các việc lớn như khai trương, ký hợp đồng, khởi công nhà mới.. thì cần xem kỹ ngày để tránh xui xẻo. Còn bình thường thì không nên xem trọng quá. Ngày tam nương tương sát chỉ nên xem đó là một ngày bình thường, cứ sinh hoạt, làm việc bình thường, đừng để những quan niệm ảnh hưởng đến cuộc sống của mình vì con người vẫn là yếu tố quyết định".
1. Bịt kín mọi khe hở xung quanh khung cửa sổ
Dù chỉ một khe nhỏ cũng khiến những cơn gió lạnh lọt vào nhà và hơi ấm trong nhà thoát ra. Nếu kẽ hở nhỏ, bạn có thể trát viền xung quanh, làm viền nhựa. Nếu khe hở lớn, bạn cân nhắc lắp lại cửa, thêm kính nếu chưa có.
![]() |
| Lớp rèm dày, thảm sẽ giúp căn phòng bớt lạnh. Ảnh minh họa: Andapo. |
2. Lựa chọn rèm dày
Nhiều gia đình hiện nay sử dụng rèm hai lớp để dễ dàng điều chỉnh theo điều kiện thời tiết. Nếu chỉ dùng rèm một lớp, bạn nên chọn rèm có độ dày nhất định để giữ nhiệt cho nhà.
Vào ban ngày, khi có ánh sáng mặt trời, bạn nên để rèm mở hoặc chỉ để lớp rèm mỏng (với rèm hai lớp). Vào buổi tối, bạn nên kéo hết rèm lại để đảm bảo nhà ấm áp hơn.
3. Sử dụng thảm
Bạn có biết rằng nhiệt có thể thoát qua sàn nhà? Để ngăn cản điều này, bạn hãy trải thảm ở các khu vực hay đi lại trong nhà. Không gian sống của bạn trở nên đẹp, ấm cúng hơn còn đôi chân của bạn cũng được bảo vệ.
4. Mua những chiếc chăn tốt nhất
Những bộ chăn ga ấm, bền, nhẹ không bao giờ có giá rẻ. Nhưng bù lại, bạn sẽ được giữ ấm, đảm báo sức khỏe và không tốn tiền để bật máy sưởi, điều hòa.
5. Thay ga gối
Bạn nên chuyển sang các loại ga giường làm bằng chất liệu vải dày, ấm hơn. Ở sofa phòng khách cũng nên đặt thêm gối dựa, chăn dạ để đắp khi ngồi xem tivi, trò chuyện với bạn bè.
6. Đóng cửa các phòng ít sử dụng
Thay vì mở cửa để không khí lưu thông khắp nơi như mùa hè, bạn hãy khép kín phòng ngủ cho khách, phòng đọc... khi không dùng. Nhờ vậy, khi bạn sử dụng máy sưởi, điều hòa, nhiệt lượng sẽ được giữ lại trong các phòng bạn đang ở.
7. Kê lại đồ đạc
Bạn có thể kê lại góc đọc sách xa cửa sổ để tránh cảm giác lạnh lẽo. Sofa phòng khách đừng nên kê quá gần các bức tường tiếp xúc trực tiếp với bên ngoài.
8. Các thiết bị giữ nhiệt ít tốn kém
Ngoài điều hòa, máy sưởi, trên thị trường còn có những chiếc túi nhiệt, chăn điện, gối điện tăng khả năng giữ nhiệt. Bạn lưu ý mua đồ đảm bảo để tránh nguy hiểm cho bản thân.
9. Tập trung giữ ấm cho bản thân bạn
Nếu nhà quá rộng, bạn không thể bật điều hòa, máy sưởi ở khắp mọi nơi. Để cơ thể luôn ấm áp, bạn có thể đầu tư quần áo dày, dép bông đi trong nhà.
Lam Huyền (Theo Womansday)
Rất nhiều người thắc mắc vật phẩm phong thủy mang lại may mắn mệnh hỏa là gì?. Để có những thông tin chính xác vật phẩm phong thủy cho người mệnh hỏa thì hãy cùng chúng tôi đọc bài viết sau đây nhé!
Nội dung
Vật phẩm phong thủy đối với người mạng hỏa cũng phải tuân theo nguyên tắc này sử dụng chất liệu đá, gỗ và có màu sắc phù hợp như đỏ, hồng, cam, tím, xanh lá.

Trong và ngoài căn nhà nên có cây xanh vì Mộc sinh Hỏa.
Đương nhiên nếu kích hoạt quá tay yếu tố Hỏa thì cũng không tốt cho gia chủ, vì thế nên sử dụng gương, bể cá để kích hoạt Thủy khí, cân bằng Hỏa khí cho căn nhà.
Gương không nên để đối diện với cửa ra vào, và đối diện với đầu giường vì sẽ gây cảm giác bất an.
Nếu các bạn còn ở chung với gia đình, nhưng có phòng riêng, thì ngoài việc bài trí cho căn phòng riêng của mình hợp với mệnh theo hướng dẫn trên, bạn nên sử dụng phương pháp bát trạch để xác định các phương vị các cung cần kích hoạt trong nhà.
Thông thường các cung chính là Tài Lộc, Quan Lộc và Quý Nhân mà bạn cần kích hoạt để mang lại tài lộc, công danh và quan hệ may mắn.
Bài trí vật phẩm tại những hướng cụ thể này không ảnh hưởng nhiều tới tổng thể của căn nhà, dù gia chủ mang mệnh gì.
Cung Quan Lộc nằm ở hướng Bắc tính từ giữa trung tâm căn nhà và thuộc hành Thủy, vì thế gia củ nên đặt bể cả hay phong thủy luân (đài phun nước) hoặc chuông gió ở hướng này.
Cung Quý Nhân nằm tại hương Tây Bắc tính từ giữa trung tâm căn nhà, kích hoạt cung này sẽ nhận được sự giúp đỡ của người khác, tại góc Tây Bắc bạn có thể đặt bình gốm, đá hay pha lê để tăng cường năng lượng.
Cung Tài Lộc nằm ở hướng Đông Nam tính từ trung tâm căn nhà thuộc hành Mộc, vì thế nên đặt một chậu cây xanh hoặc một vài đồng xu trong bát nước để tài lộc đổ vào như nước.
thiên hình (Hỏa)
***
1. Ý nghĩa cơ thể:
2. Ý nghĩa bệnh lý:
3. Ý nghĩa tính tình:
4. Ý nghĩa công danh, nghề nghiệp:
5. Ý nghĩa phúc thọ, tai họa:
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
Lãnh đạo luôn là vị trí nhiều người mơ ước. Hãy cùng xem 3 con giáp nào sẽ là ứng cử viên sáng giá cho vị trí cao quý này nhé!

1. Tuổi Dần (Tuổi Hổ)
Các chuyên gia tướng số cho rằng, người tuổi Hổ thường có tính cách khá độc đáo, rất giỏi trong việc đối nhân xử thế và đặc biệt có khả năng lãnh đạo.
Nhận định đó xuất phát từ ý chí cứng rắn khó lòng lay chuyển và niềm tin mạnh mẽ của những người tuổi Hổ. Bởi vậy, khi có được cơ hội thăng tiến, người cầm tinh con Hổ sẽ quyết tâm cố gắng hết sức không mệt mỏi để đạt được những gì mình mong muốn.
Một lòng hướng đến mục tiêu, không phàn nàn kêu ca về những khó khăn vất vả trên đường đến với vinh quang, người tuổi Hổ sẽ luôn là ứng cử viên sáng giá cho những vị trí quản lý, giám đốc.
2. Tuổi Tỵ (Tuổi Rắn)
Với vẻ ngoài lạnh lùng đầy suy tư, có vẻ hơi “nguy hiểm, người tuổi Tỵ tu vi được đánh giá là bí ẩn nhất trong 12 con giáp. Họ không dễ dàng tức giận, họ dùng sự tĩnh lặng của mình để suy nghĩ và phán đoán ra những điều khiến người khác phải kinh ngạc.
Trước khi được nếm trải sự ngọt ngào của thành công và cảm giác thỏa mãn của quyền cao chức trọng, người cầm tinh con Rắn phải trải qua rất nhiều gian nan vất vả thậm chí cả thất bại. Nhưng chỉ cần có lòng tin vào chính mình để cố gắng làm lại từ đầu, tương lai người tuổi Tỵ sẽ trở thành ông chủ lớn được người người kính trọng.
3. Tuổi Thìn (Tuổi Rồng)
Đối với những người lần đầu tiếp xúc, người tuổi Rồng luôn biết cách tạo ấn tượng cao quý, sang trọng trong mắt đối tác. Cho dù đang làm việc tại cơ quan công sở hay tự kinh doanh điều hành công ty riêng, những người cầm tinh con Rồng đều sẽ tạo nên một vương quốc riêng cho mình, trở thành ngôi sao sáng chói trong lĩnh vực mà họ đã lựa chọn.
Chính sự linh hoạt nhạy bén trong suy nghĩ và phong cách làm việc, năng lực xử lý tình huống khéo léo khiến người tuổi Hổ trở thành ứng cử viên tiềm năng cho mỗi cuộc xét chọn thăng chức làm lãnh đạo.
| ► Xem Lịch vạn niên, lịch vạn sự chuẩn nhất tại Lichngaytot.com |
![]() |
![]() |
Sao Thái dương tại cung Dần, Thân tất có sao Cự môn nhập miếu cùng tọa thủ, sáng tối giao nhau, hào quang không mạnh, thiếu động lực, thường dựa vào tài ăn nói để kiếm tiền.
Sao Thái dương tại cung Dần, Thân tất có sao Cự môn nhập miếu cùng tọa thủ (cung Dần sao Thái dương là thế vượng, cung Thân sao Thái dương là thế địa). Cung Mệnh không có chủ tinh, cung Thiên di là sao Thiên đồng, Thái âm (cung Tý: Sao Thiên đồng là thế vượng, sao Thái âm là nhập miếu; cung Ngọ: Sao Thiên đồng là rơi vào thế hãm, sao Thái âm là không đắc thế địa), cung Điền trạch là sao Liêm trinh thế bình và sao Phá quân rơi vào thế hãm.
Sao Thái dương thuộc dương Hỏa, quang minh bác ái, tích cực rộng lượng, có dũng khí hy vọng. Sao Cự môn thuộc âm Thủy, cố chấp, bảo thủ, ngay thẳng, đa nghi, nhiều thị phi. Hai sao cùng tọa thủ cung Tài bạch, sáng tối giao nhau, hào quang không mạnh, thiếu động lực, thường dựa vào tài ăn nói để kiếm tiền, thích hợp với ngành kinh doanh buôn bán, luật sư, giáo viên, nghiệp vụ, bán hàng, nhân viên công giáo; thường phải cạnh tranh, vận dụng tài ăn nói và vất vả tốn công.
Ngoài ra thích việc lớn hám công to, tránh tiến tài, đầu cơ ngắn tài ở ngoài; gặp Hóa kỵ dễ có tài vật thị phi. Hai sao cùng tọa thủ cung Dần, thường giống như mặt trời vào giờ Dần từ từ mọc lên, tuần tự từng bước; cùng tọa thủ cung Thân, thường nảy mầm mà chẳng ra hoa, cần để phòng đầu voi đuôi chuột, chăm chỉ trước rồi lại lười biếng.
Cung Mệnh không có chủ tinh, cần phải dựa vào các cát tinh khác của bản cung và sao Thiên đồng, Thái dương của cung đối diện (cung Thiên di), tổng hợp lại và luận mệnh.
Sao Thiên đồng độ lượng khoan hồng, phúc khí tự đến. Sao Thái âm yêu mến rõ ràng, ruộng đất nhiều. Hai sao cùng tọa thủ cung Thiên di, Tý, Ngọ, dịu dàng đa tình, nhân duyên tốt, không phải lo về ăn mặc, nhà cửa nhiều, ý chí phấn đấu mạnh, lạc quan độ lượng, không tranh giành với thời thế. Xuất ngoại hoạt bát được hoan nghênh, có nhiều cơ hội đi du lịch, cơ duyên nhiều, tri thức rộng. Hai sao cùng tọa thủ cung Tý, phúc lộc lưỡng toàn; cùng tọa thủ cung Ngọ, phiêu bạt bất định.
Sao Liêm trinh, Phá quân cùng tọa thủ cung Điền trạch, việc vận dụng tiền tài mang tính tùy ý, thường hay dao động, thích kinh doanh những ngành như ẩm thực, khách sạn, nhà ăn...
Vào dịp Tết Nguyên đán, từ Bắc chí Nam, nhà nào cũng đều có bày mâm ngũ quả trên bàn thờ tổ tiên. Theo thuyết ngũ hành: Kim màu trắng, Mộc màu xanh, Thủy màu đen, Hỏa màu đỏ, Thổ màu vàng. Mâm ngũ quả thường theo 5 sắc màu đó để phối trí các loại quả cho tương xứng. 5 màu tượng trưng cho mong ước được ngũ phúc: phú (giàu có), quý (sang trọng), thọ (sống lâu), khang (khỏe mạnh), ninh (bình yên).
Miền Bắc thường chưng 5 loại quả có 5 màu khác nhau như: chuối, táo màu xanh; bưởi (hoặc phật thủ), cam, quýt màu vàng; hồng hoặc táo tây, ớt màu đỏ; roi, mận, đào hoặc lê màu trắng; hồng xiêm ( tức sabôchê) hoặc nho đen, măng cụt, mận màu đen. Ở miền Nam, mâm ngũ quả thường thấy các loại mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung, dưa hấu, thơm…
Thường người ta chọn loại quả tươi tốt, có màu sắc đẹp và có ý nghĩa tượng trưng cho mong ước của mình. Quả bưởi tròn tượng trưng sự viên mãn, đầy đủ, nhiều phúc lộc; quả phật thủ tượng trưng cho sự che chở, bình an; quả na, lựu, nhiều hạt ngụ ý sự đông con nhiều cháu; quả quất tượng trưng cho người quân tử...
Tùy theo quan niệm của mỗi miền mà có những kiêng kỵ khác nhau, dựa vào tên của vài loại quả, gọi là cách tá âm. Ví dụ như có nơi người ta không chưng quả cam (cam chịu), quả chuối (chúi: chúi đầu, chúi mũi; vất vả), tắc (bế tắc… Ở Nam bộ, người ta lại thích dứa, thơm (thơm tho, thơm danh), sung (sung túc); hoặc thể hiện sự mong ước đơn sơ bằng các loại như mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài (cầu vừa đủ xài); mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung (cầu vừa đủ xài sung)…
12 loại trái cây thường được chọn dùng trong mâm ngũ quả ngày Tết còn có nhiều giá trị về mặt y học.
1. Mãng cầu (cầu)
Mãng cầu gồm có mãng cầu xiêm và mãng cầu dai (na). Thịt quả trắng, mùi dễ chịu, vị dịu, hơi ngọt, chua, có tính giải khát, bổ dưỡng.
Trong 100g phần ăn được của mãng cầu xiêm có chứa các chất sau: Nước 81g; protid 1,70g; lipid 0,80g; glucid 12,00g; carbohydrat 1,10g; cellulose 1,80g; acid 0,90g; tro 0,70g. Cung cấp 64 calo. Ngoài ra, mãng cầu xiêm còn chứa nhiều chất vitamin và các chất khoáng vi lượng; cung cấp cho cơ thể nhiều chất dinh dưỡng, rất tốt cho người suy nhược cơ thể, ăn uống kém.
Thịt quả mãng cầu xiêm nhiều nước, ít đường, nhiều acid, nên có vị chua ngọt và mùi thơm rất đặc trưng. Người ta dùng thịt quả pha thêm nước và đường hoặc sữa, xay làm nước sinh tố để giải khát, bổ mát và chống hoại huyết. Đây là loại trái cây có ích cho người bệnh tiểu đường và cao huyết áp. Mãng cầu xiêm cũng được dùng chế biến thành mứt kẹo thơm ngon, rất được ưa chuộng.
Quả xanh phơi khô tán bột dùng trị kiết lỵ và sốt rét. Lá dùng trị sốt rét với mục đích thường để chặn cữ (lên cơn sốt rét) như sau: Lá mãng cầu xiêm 15 lá, đâm vắt lấy nước cốt uống 1 lần, ngày uống 4 lần.
Mãng cầu dai, tức quả na, còn gọi là mãng cầu ta (Annona squamosa L.), có thịt quả mềm, thơm, ngon, ngọt. Trong 100g phần ăn được của quả na có chứa: Nước 82,5g; protid 1,6g; glucid 14,5g; cellulose 0,8g; tro 0,6g; các chất khoáng vi lượng Ca 35mg; P 45mg; Fe 0,6mg; các vitamin B1 0,11mg; B2 0,10mg; PP 0,8mg; C 36mg; cung cấp 98 calo.
Theo đông y, thịt quả na có vị ngọt, chua, tính ấm, tác dụng hạ khí, tiêu đàm. Thường dùng trong các trường hợp kiết lỵ, tiết tinh, đái tháo, tiêu khát, ho có đàm vàng đặc. Quả xanh dùng chữa lỵ và tiêu chảy. Lá có tác dụng sát khuẩn, tiêu viêm, sát trùng, dùng chữa kiết lỵ ra máu.
2. Dừa (Vừa)
Dừa được trồng rộng rãi nhiều nơi trên thế giới, nhất là ở các vùng ven biển nhiệt đới. Theo Đông y, quả dừa gọi là da tử, có vị ngọt, tính bình, không độc, ăn đỡ đói; tác dụng khử phong, ích khí, tiêu phù thũng, trừ hoắc loạn, tâm phiền, giải nhiệt độc (Tuệ Tĩnh - Nam dược thần hiệu).
Cùi dừa màu trắng đẹp, ăn giòn thơm, hương vị như sữa. Quả càng già, hàm lượng chất dinh dưỡng càng nhiều. Ăn bổ dưỡng lại giúp trừ được phong thấp. Nước dừa có vị ngọt, tính bình, tác dụng giảm tiêu khát, khỏi thổ huyết, trừ say nắng, giúp đen râu tóc. Dùng uống giải khát và bổ dưỡng. Nước dừa vô trùng được dùng làm dung dịch truyền tĩnh mạch, trị tiêu chảy.
Nước dừa chứa nhiều chất dinh dưỡng, bao gồm vitamin C, sắt, phospho, canxi, kali, magiê, natri, các chất khoáng khác, lipid, protein, đường... Nước dừa là loại nước giải khát có giá trị, tác dụng tăng cường khí lực, giải khát, giải nhiệt, làm tươi nhan sắc. Rất tốt cho người bị cảm nắng, tiêu chảy, tiêu ra máu.
Người ta ưa chuộng dừa vì nó chứa một số acid béo không thay thế trong quá trình đồng hóa thức ăn, cố định men, tham gia dự trữ chất béo của cơ thể. Dầu dừa hay bơ dừa tạo thành một nhũ tương rất mịn khi gặp mật và dịch tụy nên dễ đồng hóa.
Nước cốt dừa là cùi dừa khô bào vụn, vắt ép lấy nước. Trong nước cốt dừa có chất béo, acid amin, đường, acid hữu cơ. Nước dừa và nước cốt dừa có chất kích thích tăng trưởng nên được dùng để cấy mô.
Các món ăn như kho, nấu chè, bánh kẹo có pha nước cốt dừa sẽ tăng hương vị ngọt béo, hấp dẫn khẩu vị. Người Nam Bộ còn chế loại bánh tráng dừa làm bằng cùi dừa bào còn nước cốt và bột gạo nếp. Bánh màu trắng ngà, dẻo mềm, thơm ngon, có thể ăn ngay không cần nướng.
3. Đu đủ (Đủ)
Theo sách Dược thảo bách khoa toàn thư, đu đủ được người Maya sử dụng làm thức ăn và làm thuốc từ rất lâu đời. Người Trung Quốc thì xem đu đủ như “trái cây vua của vùng Lĩnh Nam”, đặt tên cho đu đủ là Phiên mộc qua.
Ngày nay, mọi người đều công nhận đu đủ là một loại trái cây có hương vị thơm ngon, bổ dưỡng và có tác dụng trị liệu một số bệnh tật. Trong 100g phần ăn được của đu đủ có chứa các chất dinh dưỡng sau (FAO, 1976): Nước 87,1g ; glucid 11,8g ; protein 0,5g ; lipid 0,1g ; tro 0,5g ; các chất khoáng K 24mg, P 22mg, B1 0,03mg, C 71mg, cung cấp 45Kcalo.
Theo đông y, đu đủ chín có vị ngọt, mát, tác dụng nhuận tràng, tiêu thực, tiêu tích trệ, lợi trung tiện, lợi tiểu. Là một thức ăn bổ dưỡng, giúp tiêu hóa protid, lipid, albumin rất hiệu quả.
Đu đủ xanh có vị đắng, ngọt, tác dụng tiêu rất mạnh (dễ gây xót ruột khi dùng nhiều), được dùng chữa rối loạn tiêu hóa do tỳ vị yếu, viêm dạ dày mãn tính, viêm dạ dày - ruột non ở trẻ em. Ngoài ra, còn có tác dụng giúp cơ thể phòng chống ung thư, sát trùng diệt khuẩn (theo Trung dược đại từ điển).
Trái đu đủ xanh và các bộ phận khác của cây như thân, rễ, lá, đều có chứa chất nhựa mủ. Trong nhựa mủ này có men papain có khả năng hòa tan một khối lượng tơ huyết (fibrin) gấp 2.000 lần khối lượng của nó.
Men papain của đu đủ có tác dụng như men pepsin của dạ dày và nhất là giống men trypsin của tụy tạng trong việc tiêu hóa protid, lipid, hydrat carbon trong môi trường hơi kiềm hay trung tính. Nếu sự phân tiết của tụy tạng có trở ngại, gây ra một số rối loạn về tiêu hóa, thì có thể sử dụng đu đủ chín nấu ăn để điều hòa. Ngoài ra, men papain còn có tác dụng làm triệt tiêu progesteron, cho nên phụ nữ có thai không nên ăn đu đủ xanh.
Hoa đu đủ đựng dùng trị ho trẻ em, ho gà, bằng cách hấp với đường phèn: 30g hoa tươi hấp với 20g đường phèn (có thể nấu với ½ chén nước), chia làm 2 lần cho uống trước bữa ăn.
Nhựa mủ đu đủ (Latex caricae papayae) được lấy từ trái xanh đem phơi khô, hoặc lấy từ thân cây, có tác dụng làm sạch da, làm lành các vết thương, thúc đẩy quá trình làm lành các ung nhọt cũng như các khối ung thư (Theo sách The Encyclopedia of Medicinal plants).
Qua đó, ta thấy đu đủ có những lợi ích rất thiết thực :
- Chứa nhiều caroten, khi vào cơ thể sẽ chuyển hóa thành vitamin A, là chất chống oxy hóa rất hiệu quả, giúp phòng chống bệnh tim mạch, lão suy, ung thư.
- Giàu vitamin B, C, các chất khoáng, tác dụng bổ dưỡng, trợ tiêu hóa. Kết hợp với chuối + mật ong chống táo bón.
- Bảo vệ da rất tốt (+ sữa tươi + đường). Làm mặt nạ (+ sữa tươi hoặc yaourt), ngừa được mụn, vết nám da, chữa da khô. Đu đủ còn có công dụng rất đặc biệt, nó có thể giúp vết thương hay vết mổ của bạn mau lành, bằng cách đắp một miếng đu đủ lên vùng da bị tổn thương.
- Đu đủ xanh hầm móng giò heo là thức ăn lợi sữa, làm nộm với khô bò là thức ăn khoái khẩu, lợi tiêu hóa.
- Bổ dưỡng Tỳ vị: Đu đủ chín 200g, sữa bò 250ml, nước chanh vắt 1 muỗng canh, mật ong vừa đủ. Gọt vỏ đu đủ, xắt nhỏ, bỏ hột, cho vào máy xay cùng với các nguyên liệu để xay nhuyễn, dùng uống trong ngày.
- Nước đu đủ, dứa giúp da trắng mịn, hồng hào :
Vật liệu: Đu đủ ¼ quả, dứa ¼ quả, bôm (táo tây) ½ quả, cam 2 quả, nước 50ml.
Cách làm: Dứa cắt miếng nhỏ. Đu đủ gọt bỏ vỏ và gạt rồi cắt miếng nhỏ; bôm, cam rửa sạch, cắt miếng bỏ hạt. Lấy các thứ trên cho vào máy xay sinh tố, sau khi xay xong đổ vào ly, thêm nước vào quậy đều là có thể dùng.
4. Xoài (Xài)
Xoài được coi là “vua trái cây”. Trong 100g phần ăn được của quả xoài chín có chứa các chất sau : Nước 86,5g; protid 0,6g; lipid 0,3g; glucid 15,9g; tro 0,6g; các chất khoáng vi lượng Ca 10g; P 15g; Fe 0,3g; các vitamin B1 0,06mg; C 36mg; beta-caroten 1880 microgam. Cung cấp 62 calo. (FAO.1976)
Như vậy, xoài chín chứa nhiều chất bổ dưỡng. Một miếng xoài 100g cung cấp 78% nhu cầu vitamin A mỗi ngày, 46% nhu cầu vitamin C, ngoài ra còn có vitamin E.
Ăn xoài chín giúp tăng cường sức đề kháng, chống viêm, phòng ngừa ung thư, giúp hạ cholesterol máu, hạ huyết áp, phòng bệnh mạch vành, ngừa ung thư ruột kết (do làm tăng nhu động ruột, chống táo bón). Tác dụng bổ não, có lợi cho người làm việc trí óc. Đặc biệt, xoài rất tốt cho hoạt động của thanh đới, chống khô cổ, khản tiếng (ca sĩ, phát thanh viên… nên dùng)
Xoài xanh có nhiều vitamin C, nấu canh chua với các loại cá đồng (cá rô, cá trê, cá lóc…) rất ngon lại có tác dụng giải nhiệt, chống mệt mỏi vào mùa hè. Tuy vậy, xoài xanh có nhiều chất chát có thể gây táo bón, không nên ăn lúc đói bụng. Ăn ít thì nhuận trường, ăn nhiều gây tiêu chảy. Sau bữa ăn no, bị sốt, vết thương mưng mủ, đái tháo đường không nên ăn xoài chín.
Tinh chất từ hạt xoài có thể giúp ngăn chặn nhiều loại vi khuẩn có hại, trong đó có listeria. Listeria là loại vi khuẩn có trong thực phẩm, nhất là các loại thịt đóng hộp, đặc biệt nguy hiểm đối với phụ nữ có thai, người già, trẻ sơ sinh và người có hệ miễn dịch yếu. Theo các nhà nghiên cứu, người ta có thể tận dụng hạt xoài để chế biến một loại chất bảo quản thực phẩm tự nhiên chống nhiễm khuẩn listeria.
Theo Đông y, quả xoài vị ngọt, chua, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt, kiện tỳ, tiêu trệ, chỉ thổ, giải khát, lợi niệu, trị ho, hoại huyết, tiêu hóa kém, phòng ngừa ung thư đại tràng và bệnh do thiếu chất xơ.
Hạt xoài có vị chua, chát, tính bình, dùng trị giun, kiết lỵ, tiêu chảy, giúp giảm đau, trị miệng khát họng khô, tiểu tiện không thông.
Vỏ trái xoài chín nấu thành cao lỏng, trị được bệnh ho ra máu.
Khi ăn xoài, cần lưu ý những điều sau đây:
- Tuy thịt quả xoài có tác dụng lợi tiểu, chữa hoại huyết, nhưng nếu ăn nhiều sẽ bị nóng, dễ sinh mụn nhọt, chảy ghèn ở mắt.
- Không nên ăn xoài sau khi dùng các thức ăn có nhiều gia vị cay, nóng như hành, tỏi, tiêu, gừng, ớt…
- Cách ăn xoài chín an toàn là xắt nhỏ, làm nhuyễn, không để cả lát to, không nhai dối, nuốt chửng (chú ý đối với trẻ em và người già răng yếu). Nên ăn xoài chín đến độ có thể bóc vỏ mà không cần dùng dao gọt vỏ.
- Tránh nhựa mủ ở vỏ, mủ xoài có chất độc gây nôn mửa, tiêu chảy, viêm da.
Sau đây là cách chế nước sinh tố xoài làm đẹp da:
Nguyên liệu: Xoài chín ½ quả, chanh ½ quả, bưởi ½ quả, mật ong ½ muỗng nhỏ, sữa chua ½ ly, nước đá một ít.
Cách làm: Tất cả cho vào máy xay sinh tố rồi ăn sau bữa ăn 2-3 giờ.
Làm săn da mặt bằng cách: Lá xoài tươi 50g, rửa thật sạch, giã nát, đắp mặt trong 20 phút rồi rửa sạch.
5. Sung (Sung túc)
Sung còn gọi là vô hoa quả, thiên sinh tử, ánh nhật quả, văn tiên quả, phẩm tiên quả, nãi tương quả, mật quả, thường mọc hoang ở những nơi ẩm ướt và cũng được trồng quanh bờ ao hoặc ven sông. Người ta dùng quả, lá sung làm thực phẩm và dùng cả nhựa, lá, vỏ cây để làm thuốc.
Trong 100g quả sung có chứa các chất sau: protein 1g, chất béo 0.4g, đường 12.6g, Ca 49mg, P 23mg, Fe 0.4mg, caroten 0.05mg, dẫn xuất không protein 12.3g, khoáng toàn phần 3.1g.
Quả sung thường dùng muối ăn như cà muối, luộc ăn với nước chấm hoặc kho. Lá sung non có thể ăn sống như rau, lộc sung dùng gói nem.
Theo đông y, quả sung có vị ngọt, hơi chát, tính mát, tác dụng thông huyết, lợi tiểu, chỉ thống, tiêu đàm, tiêu thủng, tiêu viêm, sát trùng, bổ huyết. Quả còn xanh dùng cầm tiêu chảy. Quả sung và lá non giúp lợi sữa cho sản phụ.
Nhựa mủ dùng bôi ngoài chữa các chứng sang độc, chốc lở, đinh nhọt, bỏng, các loại ghẻ. Cành lá và vỏ cây sung dùng chữa phong thấp, sốt rét, sản phụ ít sữa. Liều dùng 10-20g, sắc uống.
Trong sách Nam dược thần hiệu, Tuệ Tĩnh đã dùng nhựa sung chữa các loại đinh nhọt và dùng lá sung non chữa trẻ em bị lở ghẻ. Trong sách Bách gia trân tàng, Hải Thượng Lãn Ông dùng lá sung tật nấu nước cho uống và xông rửa mặt chữa trên mặt bị nổi từng cục u nhỏ sưng đỏ.
Ở Ấn Độ, rễ sung được dùng chữa lỵ, nhựa rễ cây dùng chữa tiêu khát (đái tháo đường); lá sung sấy khô, tán bột, trộn với mật ong chữa bệnh túi mật; quả dùng chữa rong kinh, khạc ra máu; nhựa sung dùng chữa bệnh trĩ và tiêu chảy.
Y học hiện đại cho rằng quả sung có tác dụng nhuận tràng, hạ huyết áp và phòng chống ung thư. Ngày nay, cây sung còn được trồng trong bồn, chậu non bộ làm cảnh, rất được ưa chuộng.
6. Dứa - thơm (Thơm tho, Đa phúc lộc)
Quả dứa có nhiều nước, vị ngọt pha chua rất ngon, mùi thơm đặc biệt, là một trong các thứ trái cây tươi được nhiều người ưa chuộng. Quả dứa có nhiều mắt nên được tượng trưng cho đa lộc, đa phúc.
Theo Đông y, dứa có vị ngọt chát, tính bình, có tác dụng giải khát, giải nhiệt, lợi tiêu hóa, ngừng tả. Men dứa giúp dạ dày phân giải protein, làm thức ăn dễ tiêu. Sau khi ăn nhiều thịt, mỡ, ăn dứa rất có lợi. Ngoài ra, chất đường, muối và men trong dứa còn có tác dụng lợi tiểu, chữa viêm thận, cao huyết áp, phù thũng. Đối với bệnh viêm phế quản, ho, nó cũng có tác dụng điều trị hỗ trợ.
Tuy nhiên, có một số người sau khi ăn dứa xuất hiện hiện tượng dị ứng. Thường sau 15 phút hoặc 1 giờ, bệnh nhân thấy đau bụng, buồn nôn, đi lỏng, đồng thời có các biểu hiện mẫn cảm như đau đầu, chóng mặt, mẩn đỏ da, ngứa toàn thân, tay chân và lưỡi cứng đờ, nghiêm trọng hơn có thể ngất đột ngột. Do đó, những người bị dị ứng dứa không được ăn.
Trước khi ăn, có thể ngâm dứa trong nước muối để một phần acid hữu cơ bị phân giải, làm giảm nguy cơ ngộ độc dứa. Dứa sau khi xát muối ăn đậm đà, ngọt ngào hơn.
- Nước ép dứa:
Mỗi ngày, bạn hãy uống một ly nước ép dứa để ngừa ung thư. Nước dứa có khả năng kích thích hệ miễn dịch tấn công tế bào bệnh; kìm hãm khả năng di căn của các loại ung thư vú, phổi, đại tràng, buồng trứng và da. Không ăn hoặc uống nước ép dứa khi bụng đói.
Cũng giống đu đủ, dứa rất hữu ích trong việc làm mềm da, chứa ezym đặc biệt có tác dụng tẩy tế bào chết, đặc biệt khi thoa hoặc ngâm nước ép dứa ở những vùng da đầu gối, khuỷu tay, gót chân, v.v...
7. Hồng (Hồng hào, Tươi tốt)
Cây hồng còn gọi là hồng thị, thị đinh, quân thiên tử, cậy… Trong quả hồng tươi có chứa: 88-90% nước; 0,7-0,9% protid; 0,1% lipid; 6,2-8,6% glucid; 10 mg% Ca; 19 mg% P; 0,2 mg% Fe; 0,16 mg% caroten; 16mg% vitamin C; 0,3 mg% vitamin P…
Tai hồng là phần đài còn đính vào quả khô, được dùng làm thuốc với tên thị đế (Calyx Kaki).
Trong sách Nam dược thần hiệu, Tuệ Tĩnh viết như sau: “Hồng thị là quả hồng, vị ngọt hơi chát, tính hàn lành, nối liền khí kinh mạch, làm mát dạ dày, nhuận trong miệng, hòa trong ruột, thông được tai mũi. Khi uống rượu thì không nên ăn hồng vì dễ say hoặc sinh ra đau tim".
Quả hồng khô (mứt hồng) vị ngọt, tính bình, không độc, nhuận phế, nhuận tâm, hòa vị, tiêu đàm, giáng hỏa, hỏa huyết. Có tên là bạch thị hoặc thị bánh”.
Vị thuốc thị đế có vị đắng, tính ôn, vào kinh vị, tác dụng ôn trung, giáng khí. Thường dùng chữa nấc, đầy bụng, nôn ói, ợ hơi. Ngày dùng 8 – 16g sắc uống.
Ngày nay ở Trung Quốc, người ta còn dùng thị tất (Succus Kaki Siccatis) là nước ép từ quả hồng chưa chín, phơi hay sấy khô, để chữa cao huyết áp, cầm máu, trĩ.
Vị thuốc thị sương (Saccaharum Kaki) là chất đường trong quả hồng chảy ra khi người ta ép để làm mứt, cho vào nồi đun lửa nhẹ đến khi cô lại thành châu thì đổ ra khuôn, phơi hoặc sấy nhẹ cho khô se, cắt thành từng miếng rồi phơi sấy cho khô hẳn. Thị sương dùng chữa ho, viêm họng khô rát.
Ngày nay, người ta còn dùng quả hồng chữa bệnh theo những cách sau :
- Hồng khô + mộc nhĩ đen để chữa táo bón, trĩ ra máu.
- Hồng khô sấy dòn, tán bột chữa đường tiêu hóa sưng đau.
- Hồng khô + trà + đường phèn chữa ho đàm, ho ra máu.
- Hồng khô + váng sữa + mật ong chữa tỳ vị yếu, ăn uống kém.
- Nước ép hồng tươi + sữa tươi hoặc nước cơm rất tốt cho người cao huyết áp.
Ngoài ra, người ta còn dùng lá hồng 10g + trà 6g, sắc uống hàng ngày để chữa cao huyết áp, ngừa xơ vữa động mạch. Vỏ quả hồng phơi khô 50g đốt tồn tính, tán bột mịn, trộn với dầu mè bôi chữa viêm da lở loét.
Những người bị huyết áp thấp không nên ăn hồng.
8. Dưa hấu (Tốt đẹp, viên mãn, trung thực)
Dưa hấu có ruột đỏ (may mắn), vỏ xanh (thanh xuân), hạt đen (duyên dáng), lớp cùi vỏ trắng (thanh khiết, trung thực).
Trong dưa hấu có chứa nhiều chất dinh dưỡng giá trị như citrulin (0,17% của dịch quả), caroten, lycopen, manitol, vitamin A, vitamin C, vitamin B, , PP, acid folic…các chất khoáng vi lượng (Fe, P, Ca, Mg…), rất giàu chất pectin, kali (116mg%)… Hạt dưa hấu có chứa dầu (20-40%).
Theo đông y, thịt quả có vị ngọt nhạt, tính hàn, tác dụng giải khát, giải say nắng, trừ phiền nhiệt, hạ khí, lợi tiểu, sinh tân dịch. Vỏ quả dưa hấu có vị ngọt, tính mát, tác dụng thanh nhiệt, giải thử độc, chỉ khát, lợi tiểu. Hạt dưa có vị ngọt, tính hàn, tác dụng hạ nhiệt, hạ khí, lợi tiểu.
Ngày nay, người ta dùng quả dưa hấu trong trường hợp cao huyết áp, nóng ở vùng bàng quang, tiểu buốt, viêm thận, phù thũng, vàng da, đái tháo đường, say rượu, cảm sốt do thử nhiệt, phiền khát, chữa lỵ ra máu và ngậm với muối nuốt nước chữa viêm họng. Ngày uống 2-3 chén nước ép dưa hấu.
Người Trung Quốc cho rằng nếu vào mùa hè, mỗi ngày ăn được 3 miếng dưa hấu thì chẳng cần gì đến thuốc thang. Tuy nhiên, những người thận suy đi tiểu nhiều, người tỳ vị hư hàn, bụng lạnh, dễ tiêu chảy, hay buồn nôn thì không nên ăn dưa hấu.
Trường hợp dùng dưa hấu để trị liệu thì không được ướp lạnh, chỉ dùng tươi mới tốt. Dưa hấu là thức ăn rất tốt cho người đái tháo đường, mập phì và người cao tuổi. Khi bổ ra thì phải ăn ngay, không nên để lâu vì dễ nhiễm trùng, ăn vào đau bụng (các cụ ngày xưa cho là dưa bị hở nên có gió nhập vào).
Tuy dưa hấu là thứ giải khát tốt nhưng không nên ăn quá nhiều trong một lần, nhất là đối với những người tì vị hư hàn.
Người ta còn nghiền thịt dưa hấu thành bột nhão làm kem đắp lên mặt để dưỡng da, an toàn, không bị dị ứng, ngừa nám da, khô da. Mỗi tuần làm khoảng 2-3 lần, đắp mặt nạ dưa hấu chừng 15-20 phút rồi rửa sạch.
Vỏ quả dùng giải say nắng, chữa sốt cao, khát nước, đi tiểu ít, tiểu lắt nhắt, phù thũng, miệng lưỡi sưng lở. Có thể dùng tới 40g vỏ quả sắc với 500ml nước sôi uống thay trà, hoặc dùng vỏ quả khô đốt ra than, tán bột ngậm chữa miệng lưỡi sưng lở.
Hạt dưa hấu dùng chữa đau lưng, trị giun sán, phụ nữ hành kinh quá nhiều. Ngày dùng 12-16g sắc uống. Ngoài ra, hạt dưa hấu còn được người Trung Quốc dùng để mát phổi, tan đàm, nhuận trường, lợi tiêu hóa.
Rễ và lá dưa hấu dùng để chữa tiêu chảy, kiết lỵ vào mùa hè.
Lớp cùi vỏ trắng (nhiều citrulline hơn thịt quả), có tác dụng làm lành vết thương, lợi tiểu, giải khát, tăng cường sinh lực. Thường dùng làm rau trộn, xào thịt, làm nhân bánh.Cùi trắng của dưa hấu xắt lát mỏng rồi ngâm dấm để làm dưa chua, ăn khai vị rất ngon miệng, thích hợp vào mùa hè.
9. Chuối (Bình an, đa phúc lộc)
Quả chuối còn xanh chứa 10% tinh bột và 6.53% chất tanin.
Quả chuối chín có chứa rất nhiều chất dinh dưỡng. Trong 100g chuối chín có chứa: glucid 26.1g, protein 1.2g, lipid 0.3g, tro 0.8g, Ca 12mg, P 32mg, Fe 0.8mg, các vitamin A (beta caroten) 225 microgam, B1 0.03mg, C 14mg. Ngoài ra còn có Mg, Na, S, Zn… Xét về mặt dinh dưỡng, chuối có giá trị hơn cả khoai tây và tương đương với thịt. 100g chuối cung cấp cho cơ thể 100 calo và dễ tiêu hoá.
Quả chuối chín có tác dụng nhuận trường, chống scorbut và thúc đẩy sự lên da non của các thương tổn trong ruột, trong viêm ruột kết có loét.
Khi mới bị táo bón, chỉ cần ăn liền 3-4 quả chuối tiêu sau bữa cơm chiều, sáng hôm sau sẽ dễ đi cầu. Nếu bị táo bón lâu ngày thì nên dùng quả chuối mật mốc (chuối lá) thật chín, đem nướng đến khi cháy gần hết vỏ, lấy ra bóc ăn, khi chuối còn nóng, sau 30-60 phút sẽ thông đại tiện. Trường hợp phân bị vón quá nhiều, thì sau 20 phút ăn tiếp một quả nữa rồi uống thêm một cốc nước muối pha loãng.
Chuối chín là thực phẩm dinh dưỡng rất tốt cho mọi người, từ trẻ đến già, từ lao động trí óc đến lao động chân tay. Nó giúp ích cho hệ xương, cho sự sinh trưởng cân bằng hệ thần kinh. Người ta sử dụng chuối để trị tiêu chảy, kiết lỵ, chống rối loạn ruột và dạ dày, chữa viêm ruột. Chuối được coi là một loại trái cây lý tưởng cho những vận động viên, nhất là những vận động viên thể hình.
Theo các nhà khoa học của Đại học John Hopkins (Mỹ) thì chuối là loại thuốc hạ huyết áp tốt nhất cho những người nghèo. Các bệnh nhân cao huyết áp ăn mỗi ngày 2-3 quả chuối, liên tục trong một tuần có thể giảm trị số huyết áp khoảng 10%.
Bột của quả chuối xanh có tác dụng chữa loét dạ dày có hiệu quả. Cách chế bột chuối như sau : Phơi quả chuối xanh trong im (phơi âm can) hoặc sấy khô ở nhiệt độ thấp, sau đó tán bột. Ngày uống 2 lần, mỗi lần một muỗng canh bột chuối, hoà với nước ấm, uống lúc không no không đói quá.
Người ta còn dùng quả chuối xanh non để chữa hắc lào mới phát: Trước tiên, ta rửa sạch chổ lở ngứa bắng nước ấm, gãi cho trợt da ra, lau khô rồi lấy quả chuối vừa bẻ trên buồng ra, cắt dần từng lát, cho nhựa chuối tiết ra mà chấm, bôi, xát vào chỗ đau. Làm 4-5 lần sẽ khỏi.
Hoa chuối (ba tiêu hoa) có tính ấm, vị chua mặn, tác dụng làm ấm dạ dày, tan đàm, làm mềm u nhọt, thông kinh. Người ta dùng hoa chuối để làm thực phẩm (gỏi, rau độn trong dĩa rau xanh của bún, lẩu…). Món hoa chuối xắt nhỏ, luộc chín, trộn với muối mè hoặc đậu phụng rất tốt cho phụ nữ ít sữa sau khi sinh và người già bị táo bón.
Lá chuối được dùng làm thuốc chữa một số bệnh ngoài da. Dùng lá chuối rửa thật sạch, nghiền nát rồi trộn với nước gừng tươi để đắp chữa nhọt độc mới phát. Lấy lá chuối nghiền nát, trộn với lòng trắng trứng gà hoặc dầu mè để chữa các vết bỏng lửa, bỏng nước sôi. Nước của thân cây chuối hoặc củ rễ chuối được dùng uống trị sưng tấy, làm thuốc giải nhiệt, chữa nóng quá phát cuồng. Dùng ngoài rửa thật sạch, giã nát đắp vào chỗ đau, nhọt độc sưng nhức.
10. Lựu (Đa phúc, đa lộc)
Quả lựu có nhiều hạt nên được tượng trưng cho sự phồn thịnh, đa phúc, đa lộc. Ở Việt Nam, lựu được trồng khắp nơi để làm cảnh, lấy quả ăn và lấy vỏ quả, vỏ rễ, vỏ thân, hoa, thịt quả để làm thuốc.
Đông y dùng các bộ phận của cây lựu làm thuốc từ rất lâu đời. Theo sách Nam dược thần hiệu của Tuệ Tĩnh, quả lựu có vị ngọt, chua, chát, tính ấm, hơi độc, tác dụng làm nhuận được họng bị khô náo, trừ được lao. Rễ dùng sát trùng rất tốt và trị được huyết lậu. Tuy nhiên nếu ăn nhiều quả lựu sẽ bị hại phổi, tổn răng.
Ngày nay, người ta biết rằng nước quả lựu giàu chất chống ôxy hóa polyphenol, vitamin B1, B2, vitamin C, Ca, Na và P, bảo vệ cơ thể khỏi các gốc tự do gây lão hóa, các bệnh tim mạch, bệnh Azheimer và cả ung thư. Những người bị huyết áp cao, uống 50ml nước quả lựu mỗi ngày trong 2 tuần liên tục có thể hạ được 5% mức huyết áp. Nước lựu có tác dụng tăng cholesterol tốt HDL, giảm cholesterol xấu LHD với tỉ lệ là 20%, giúp làm giảm quá trình hình thành các mảng bám trong các động mạch.
Ngoài ra, nước lựu còn có tác dụng khử trùng và giúp phụ nữ đối phó với các triệu chứng của thời mãn kinh. làm giảm quá trình hình thành các mảng bám trong các động mạch. Dầu hạt lựu có khả năng ngăn ngừa sự hình thành tế bào ung thư da nhờ khả năng làm mau liền da trong trường hợp da bị thương tổn
Trong dân gian, người ta dùng thịt quả để trợ tiêu hóa, trợ tim. Dịch quả tươi giúp hạ nhiệt, làm mát. Hạt giúp tiêu hóa tốt hơn. Hoa dùng chữa viêm tai, đề phòng chảy mủ tai.
Vỏ quả cây lựu có vị chua, chát, tính ấm, tác dụng sáp trường chỉ tả, chỉ huyết khu trùng. Thường dùng chữa tiêu chảy, lỵ ra máu, tiểu ra máu, băng huyết, bạch đới, thoát giang, đau bụng giun. Ngày dùng 15-30g dạng thuốc sắc, thường phối hợp với các chất thơm cho dễ uống.
Vỏ thân và vỏ rễ có vị đắng, chát, tính ấm, có độc, tác dụng sát trùng, trừ sán. Thường dùng trị giun, đặc biệt có hiệu quả đối với sán xơ mít ở người và đối với cả sán ở súc vật nuôi trong nhà. Ngày dùng 20-60g dạng thuốc sắc. Ngoài ra, nước sắc vỏ rễ và vỏ thân còn dùng làm thuốc ngậm chữa đau răng.
Cần lưu ý là khi dùng vỏ quả khô, vỏ thân, vỏ rễ khô thì thuốc phải được bảo quản nơi khô ráo, không để lâu quá 2 năm. Những người thể trạng hư yếu, phụ nữ có thai và trẻ em không nên dùng vì thuốc có độc.
11. Quất (Sung túc, đa lộc)
Quả quất rất giàu chất pectin, chứa vitamin C với hàm lượng 0,13-0,24 mg %, dịch quả có đường, acid hữu cơ nên có vị chua, hơi ngọt. Trong vỏ quả, lá tươi và chồi có tinh dầu 0,21%.
Theo Đông y, quất có vị chua, hơi ngọt, tính bình, không độc. Dùng chữa gan uất kết, dạ dày yếu, tiêu hóa kém, thực tích, chứng ách nghịch, ho, viêm họng, đàm tích, ẩu thổ, tiêu khát, trừ uế khí, giải độc rượu.
Người ta cất giữ quả quất lâu năm bằng cách làm quất muối như sau: Rửa quả quất thật sạch, để ráo nước, xếp vào hũ sành hoặc hũ thủy tinh, cứ 1 lớp quất xen với 1 lớp muối ăn, rồi đem phơi nắng. Thời gian cất giữ càng lâu, công hiệu càng tăng. Khi sử dụng, lấy 5-10 quả quất muối nấu nước uống, hoặc đâm nát ra, chế nước sôi để uống. Trị ho đàm, khô cổ, nặng ngực sau khi ăn, đàm vướng trong cổ không khạc ra được. Nếu dùng giải khát bổ phế thì lấy 1-3 quả đâm nát, hòa với nước đường hoặc nước pha mật ong để uống.
Người ta thường chế mứt kim quất để ăn, vừa bổ dưỡng lại trị được ho đàm, tăng cường tiêu hóa, chữa các chứng ách nghịch.
Quả quất ngâm rượu uống chữa tì vị yếu (hư hàn), can khí uất kết, trừ đàm tích và ẩu thổ. Liều dùng 30-50ml một ngày, uống trước bữa ăn. Xirô quất dùng giải khát, bổ dưỡng, trợ tiêu hóa.
Ngoài ra quất cũng được dùng làm thuốc chữa ho trẻ em theo cách sau: Quả quất chín 10g, hoa hồng trắng 10g, hạt chanh 10g, cho vào bát cùng với đường phèn hoặc mật ong, đem chưng cách thủy hoặc hấp trong nồi cơm 15-20 phút, lấy ra nghiền nát cho uống.
12. Bưởi (Phúc lộc, viên mãn)
Bưởi là loại trái cây rất được ưa chuộng của người Việt Nam. Vào những ngày lễ tết, những quả bưởi tươi thắm luôn được bày trên mâm ngũ quả của các gia đình.
Về mặt dinh dưỡng, trong 100g phần ăn được của bưởi có chứa các chất sau: Nước 80g; protid 0,6g; glucid 9g; lipid 0,1g; các khoáng chất chất: Ca 23mg; P 18mg; Fe 0,5mg; Cellulose (chất xơ) 0,7mg, các vitamin: B1 0,04mg; B2 0,02mg; PP 0,3mg; C 95mg. Cung cấp cho cơ thể 30 calo.
Theo y học hiện đại, nước bưởi giúp hạ đường huyết. Kiểm chứng thực tế cho thấy ăn bưởi đều đặn sẽ giúp giảm cân và phòng chống được tiểu đường. Những người bị bệnh cao huyết áp, tiểu đường, dùng dịch quả bưởi rất thích hợp.
Những hoạt chất khác tìm thấy trong bưởi giúp sản xuất chất xúc tác enzymes, ngăn ngừa ung thư; và một chất khác, chất bioflavonoids, giúp ngăn trở các hoạt động của các hormon phát triển bướu u.
Ngày nay, các nhà khoa học còn ghi nhận quả bưởi có tác dụng chống viêm, ức chế quá trình ngưng tập tiểu cầu và cải thiện độ bền vùng thành mạch. Do đó, bưởi có tác dụng làm giảm nguy cơ suy tim, làm vết thương mau lành, giảm đau nhức các khớp, phòng ngừa ung thư dạ dày, ung thư tiền liệt tuyến, chống hoại huyết.
Ăn bưởi thường xuyên cũng sẽ rất có ích cho người bị bệnh thấp khớp, viêm khớp, lupus, hoại huyết, kinh phong.
Theo đông y, tép bưởi có vị ngọt, chua, tính mát, tác dụng tiêu thực, lợi tiêu hoá, tiêu đàm, lợi tiểu, bổ dưỡng cơ thể. Thích hợp với người ăn uống kém, ăn uống không tiêu, đi tiểu ít, dễ xuất huyết, phụ nữ có thai bị nôn nghén, người bị tiểu đường, mập phì, cao huyết áp, đau nhức các khớp, ngộ độc rượu, tinh thần không thư thái.
Y học dùng nhiều bộ phận của bưởi để làm thuốc như vỏ quả, vỏ hạt, hạt, lá, hoa, dịch ép nước bưởi.
Theo đông y, vỏ quả bưởi có vị đắng, cay, tính không độc, trừ đàm, táo thấp, trị trường phong hạ huyết, tiêu thủng, giảm đau, hòa huyết. Bỏ lớp trắng, chỉ lấy lớp vỏ vàng, sao lên mà dùng. Người Trung Quốc dùng vỏ quả bưởi để trợ tiêu hóa, làm long đàm, trị ho. Ngày dùng 4-12g sắc uống.
Tinh dầu của vỏ bưởi giúp kháng viêm, làm giãn mạch, có tác dụng hỗ trợ tiêu hóa và trị cảm cúm, thường được dùng trong liệu pháp nấu nồi xông giải cảm.Lấy vỏ bưởi tươi, gừng tươi giã nát, đắp vào chỗ khớp xương đau trị được bệnh đau xương khớp. Vỏ bưởi ướp đường ăn chữa say xe, say sóng, trẻ em đầy bụng.
Đặc biệt trong cùi trắng của quả bưởi có tác dụng làm giảm cholesterol - huyết, bảo vệ tính bền của mạch máu, phòng chống cao huyết áp và tai biến mạch máu não.
- Lá bưởi có vị đắng, cay, mùi thơm, tính ấm, có tác dụng tán hàn, khai uất, thông kinh lạc, giải cảm, trừ đàm, tiêu thực, hoạt huyết, tiêu sưng, tiêu viêm.
- Hạt bưởi có vị đắng, tính ấm, chứa chất béo, có tác dụng trị đau thoát vị bẹn, sa đì. Hạt bưởi giã nát sắc uống dùng chữa sa ruột, sa nang.
- Vỏ hạt bưởi có nhiều pectin, được dùng làm thuốc cầm máu.
- Hoa bưởi dùng làm hương liệu gội đầu hoặc nấu chè rất thơm ngon.
Toàn bộ quả bưởi (cả vỏ lẫn múi) xắt nhỏ sắc uống có thể chữa mẩn ngứa da do dị ứng.
Bưởi đào hay bưởi hồng chứa nhiếu chất beta-carotene, lycopen.Loại bưởi này cũng chứa nhiều chất xơ và ít calories, nhiều chất bioflavonoids và một vài hóa chất khác có tác dụng giúp ngăn ngừa bệnh ung thư và tim mạch. Bưởi hồng còn có khả năng làm giảm mức độ mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt nơi đàn ông.
Lương y Đinh Công Bảy
Tổng Thư ký Hội Dược liệu TP HCM
Trich tu: vnexpress.net
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Người tuổi Dậu nên tránh hợp tác với người tuổi Mão nếu không muốn danh tiếng của bạn bị ảnh hưởng. Để biết bản thân mình nên tránh hợp tác với tuổi nào thì các bạn cùng tìm hiểu bài viết dưới đây nhé!

Nội dung
Không nên hợp tác cùng: Tuổi Dần
Người tuổi Dần nửa cuối năm 2014 muốn nhanh chóng đạt được thành công, nhưng ngược lại do thiếu kiên nhẫn mà làm hỏng việc, liên lụy đến bạn, khiến tiền tài của bạn hao tổn lây.
Không nên hợp tác cùng: Tuổi Sửu
Người tuổi Sửu nửa cuối năm nay mặt tiền tài không được tốt lắm, nếu hai người kết hợp với nhau sẽ khiến điểm xấu mạnh gấp đôi, không ai giúp được ai.
Không nên hợp tác cùng: Tuổi Thân
Hay xảy ra tranh chấp về lợi ích, dễ gây hao tốn tiền tài, những dự án đang tiến hành hoặc các kế hoạch dễ bị bỏ dở, đổ bể nếu người hai tuổi này kết hợp với nhau.
Không nên hợp tác cùng: Tuổi Ngọ
Phong cách làm việc của cả hai không hợp ý nhau, cho nên đôi bên khó đoàn kết, không làm việc hết mình, như vậy thì sẽ khó có thể làm tốt bất cứ việc gì.
Không nên hợp tác cùng: Tuổi Mùi
Nửa cuối năm này họ sẽ là rắc rối lớn với bạn, hoặc có thể họ có ý tốt, nhưng thường không làm mọi thứ đến nơi đến chốn, khiến bạn phải theo sau dọn dẹp.
Không nên hợp tác cùng: Tuổi Tý
Sự hợp tác của hai người nửa cuối năm này sẽ dễ dàng vì tranh chấp từ một phía mà gây nên những phản ứng dây chuyền, cả hai đều trở nên ích kỷ, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.
Không nên hợp tác cùng: Tuổi Thìn
Nếu bạn không muốn những văn kiện hồ sơ quan trọng bị họ làm mất, hoặc tổn thất một khoản tiền lớn thì tốt nhất đừng nên hợp tác với họ.
Không nên hợp tác cùng: Tuổi Hợi
Cuối năm này, sự cả tin của bạn kết hợp với những phán đoán sai lầm của người tuổi Hợi sẽ khiến cả hai bị kẻ gian lừa gạt, chịu tổn hại lớn.
Không nên hợp tác cùng: Tuổi Tỵ
Nếu hợp tác cùng người tuổi Tỵ, bạn rất có thể sẽ phải đối mặt với nguy cơ mất đi quyền lực, hoặc tài sản bị tiêu tán.
Không nên hợp tác cùng: Tuổi Mão
Đối với những người tuổi Mão mới quen biết chưa đầy một năm, bạn không nên quá thân thiết, càng không nên có mối quan hệ hợp tác chia sẻ lợi ích với họ, để tránh cho danh tiếng của bạn bị hủy hoại.
Không nên hợp tác cùng: Tuổi Dậu
Bạn hợp tác với họ thì hãy cẩn thận, họ sẽ khó hoàn thành những việc đã hứa với bạn, ngược lại còn khiến bạn lỡ mất thời cơ tốt nhất của mình.
Không nên hợp tác cùng: Tuổi Tuất
Nếu họ đối mặt với lợi ích càng lớn, thì bạn rất có thể sẽ bị phản bội, thậm chí một vài bí mật quan trọng của bạn sẽ bị họ tiết lộ.
![]() |
![]() |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Cát Phượng (##)
Xưa nay khi quyết định làm một việc gì đó có tính chất trọng đại, người ta hay chọn những ngày tốt đẹp nhất, để bắt tay vào công việc. Ví dụ như khởi công xây dựng, khai trương, nhậm chức, tu sửa âm phần, mai táng, cưới hỏi …
Việc lựa chọn ngày tốt, không đơn thuần là nét đẹp trong phong tục và tín ngưỡng, nó còn thể hiện niềm mong ước đón nhận điều may mắn cát lành, tránh những việc bất trắc, trở ngại, gập nghềnh trên đường đời.
Không chỉ có vậy, việc chọn ngày còn thể hiện rõ tính khoa học, kết hợp với kinh nghiệm dân gian truyền tụng từ đời này qua đời khác. Triết học Mác – Lê nin khẳng định, vật chất có dạng có thể nhận biết và cầm nắm được, có những dạng phải vô cùng nhỏ bé phải thông qua các thiết bị hỗ trợ mới nhận biết được. Ví dụ như sóng viễn thông, sóng truyền hình, truyền thanh…hay các dạng vật chất khác.
Học địa lý chúng ta biết được, sự chuyển động của các hành tinh, và quan hệ tác động qua lại ảnh hưởng của chúng lên Trái đất – nơi mà chúng ta đang sinh sống. Thủy triều nơi biển cả, chịu tác động theo chu kỳ vận hành của Mặt trăng. Và con người chúng ta cũng chịu ảnh hưởng, trong quá trình vận động của vũ trụ. Có ngày thì gặp may mắn bất ngờ, có những ngày lại gặp toàn những chuyện xui xẻo, bực mình
Ngày tốt là gì? Là những ngày mà thiên can, địa chi, âm dương, ngũ hành, các ngôi sao trong vũ trụ mang lại may mắn, tốt lành và cát khí cho con người. Lịch sử của quá trình chọn ngày thì đã có từ rất lâu đời rồi. Đến mức độ tinh vi hơn, đã là lựa chọn những ngày đó phù hợp với việc gì, phù hợp với những ai. Công việc này thường được các nhà thiên văn, các viên quan coi việc tế tự, lễ nghi trong cung đình, các học giả, hay các thầy số trong dân gian.
Để lựa chọn được một ngày tốt, trước tiên ta phải tránh những ngày xấu trước đã. Ngày xấu gồm các ngày Tam nương, Nguyệt kỵ, Thọ tử, Sát chủ, Không phòng, Quỷ khốc… Những ngày xấu này thường được thông kê trong các cuốn lịch Vạn sự
Ở đây chúng ta nên tập trung vào việc để tính một ngày tốt. Thường được dựa vào những yếu tố cơ bản dưới đây
Tính ngày theo Lục diệu. Cách tính này là một phương pháp chọn ngày nhanh, khi có việc cần kíp, dễ tính, và ai cũng có thể tính được. Tương truyền cách tính này của Gia Cát Lượng, thời Tam Quốc sử dụng, bị thất truyền khá lâu, sau đó Lý Thuần Phong, nghiên cứu và vận dụng trở lại. Phương pháp này như sau.
|
Tốc hỷ |
Xích khẩu |
| Lưu niên |
Tiểu cát |
|
Đại an |
Không vong |
Cột trên cũng giống như hai ngón tay, có sáu đốt. Từ ngón thứ nhất là tháng giêng hàng năm, thuộc Đại an, đếm tiếp theo chiều kim đồng hồ, tháng hai đến Lưu niên, tháng ba đến Tốc hỷ, cứ tính tiếp đến tháng cần xét trong năm, tới cung nào thì lấy đó làm chuẩn.
Từ cung đó, coi là ngày mùng một đầu tháng. Tính tiếp theo chiều thuận đến ngày cần xét. Dừng lại ở cung nào thì sẽ lấy cung đó làm chuẩn.
Từ cung làm chuẩn coi đó là giờ Tý của ngày tính tiếp để biết cát giờ tốt xấu về sau.
Ví dụ hôm nay là ngày 14/ 6 Âm lịch. Tháng 6 âm sẽ ở chỗ Không vong. Vị trí này là ngày mùng một đầu tháng. Ngày 14 sẽ là ngày Đại an theo lục diệu.
Tương tự : giờ Tý ngày này sẽ là Đại an, giờ Sửu là Lưu niên, Giờ Dần là Tốc hỷ,… cho tới giờ Hợi hết ngày.
Ý nghĩa của các cung như sau
Đại an : Đây là một cung tốt, làm việc gì cũng đặng hanh thông.
Lưu niên: Là một cung trung bình, xấu đặc biệt vào ban ngày. Mọi sự suy tính mưu cầu đều khó thành công. Việc liên quan tới giấy tờ, chính quyền luật pháp (nhận chức, thưa kiện, khiếu nại, tố cáo, trình báo, đề nghị…) cũng phải hết sức từ từ, thư thả, thì mới có kết quả tốt. Chờ tin người thân thì chưa thấy về. Việc nhân sự cuộc sống sinh hoạt đều bình thường. Đề phòng thị phi, miệng tiếng.
Tốc hỷ: Ngày và giờ chọn được rất cát lợi, chỉ niềm vui đến một cách mau lẹ, nhanh chóng. Buổi sáng đại cát, nhưng buổi chiều không tốt. tương tự như vậy, quãng thời gian đầu giờ thì tốt, cuối giờ thì không may.
Xích khẩu: Là một cung xấu, rất dễ xảy ra việc xung đột bất hòa hay cãi vã. Nên tránh đi là hơn
Tiểu cát: Được cung này thì rất tốt, nên chọn nó để tiến hành công việc đã định
Không vong: hay tuyệt lộ, là một cung xấu, không vong nghĩa là không mong đợi gì, không thu lại được gì. Tuyệt lộ là cùng đường, làm việc gì cũng nên tránh né cung này.
Việc chọn ngày Hoàng đạo, cũng được áp dụng rất phổ biến
Bảng chọn ngày Hoàng đạo
| Ngày tháng |
Thanh long |
Minh đường |
Thiên hình |
Chu Tước |
Kim quỹ |
Kim đường |
Bạch hổ |
Ngọc đường
|
Thiên lao |
Nguyên vu |
Tư mệnh |
Câu trần |
| 1 |
Tý |
Sửu |
Dần |
Mão |
Thìn |
Tị |
Ngọ |
Mùi |
Thân |
Dậu |
Tuất |
Hợi |
| 2 |
Dần |
Mão |
Thìn |
Tị |
Ngọ |
Mùi |
Thân |
Dậu |
Tuất |
Hợi |
Tý |
Sửu |
| 3 |
Thìn |
Tị |
Ngọ |
Mùi |
Thân |
Dậu |
Tuất |
Hợi |
Tý |
Sửu |
Dần |
Mão |
| 4 |
Ngọ |
Mùi |
Thân |
Dậu |
Tuất |
Hợi |
Tý |
Sửu |
Dần |
Mão |
Thìn |
Tị |
| 5 |
Thân |
Dậu |
Tuất |
Hợi |
Tý |
Sửu |
Dần |
Mão |
Thìn |
Tị |
Ngọ |
Mùi |
| 6 |
Tuất |
Hợi |
Tý |
Sửu |
Dần |
Mão |
Thìn |
Tị |
Ngọ |
Mùi |
Thân |
Dậu |
| 7 |
Tý |
Sửu |
Dần |
Mão |
Thìn |
Tị |
Ngọ |
Mùi |
Thân |
Dậu |
Tuất |
Hợi |
| 8 |
Dần |
Mão |
Thìn |
Tị |
Ngọ |
Mùi |
Thân |
Dậu |
Tuất |
Hợi |
Tý |
Sửu |
| 9 |
Thìn |
Tị |
Ngọ |
Mùi |
Thân |
Dậu |
Tuất |
Hợi |
Tý |
Sửu |
Dần |
Mão |
| 10 |
Ngọ |
Mùi |
Thân |
Dậu |
Tuất |
Hợi |
Tý |
Sửu |
Dần |
Mão |
Thân |
Dậu |
| 11 |
Thân |
Dậu |
Tuất |
Hợi |
Tý |
Sửu |
Dần |
Mão |
Thìn |
Tị |
Ngọ |
Mùi |
| 12 |
Tuất |
Hợi |
Tý |
Sửu |
Dần |
Mão |
Thìn |
Tị |
Ngọ |
Mùi |
Thân |
Dậu |
Các ngày : Thanh long, Minh đường, Kim quỹ, Kim đường, Ngọc đường, Tư mệnh là các ngày Hoàng đạo, tốt cho các công việc
Các ngày: Thiên hình, Chu tước, Bạch hổ, Thiên lao, Nguyên Vũ, Câu trần là những ngày xấu hay còn gọi là ngày Hắc đạo
Trong Thái dương hệ của chúng ta có tám hành tinh, chuyển động, Mặt trời làm trung tâm, bên cạnh ấy, ngoài Thái dương hệ là dải ngân hà, ngoài dải ngân hà này là dải ngân hà khác, và vũ trụ bao la vô cực. Các hành tinh, các vì sao luôn có lực hấp dẫn và chuyển động tương tác khác nhau. Chính vì thế, lực từ, khí trong, khí đục, may mắn, và rủi ro không phải thời điểm nào cũng như nhau cả. Phương pháp tính ngày theo nhị thập bát tú, được các nhà chiêm tinh, thiên văn học tổng hợp lại như sau
28 Sao luôn thuận theo thứ tự sau đây:
| Phương Đông |
1.Giác |
2.Cang |
3.Đê |
4.Phòng |
5.Tâm |
6.Vĩ |
7.Cơ |
| Phương Bắc |
8.Đẩu |
9.Ngưu |
10.Nữ |
11.Hư |
12.Nguy |
13.Thất |
14.Bích |
| Phương Tây |
15.Khuê |
16.Lâu |
17.Vị |
18.Mão |
19.Tất |
20.Chuỷ |
21.Sâm |
| Phương Nam |
22.Tỉnh |
23.Quỷ |
24.Liễu |
25.Tinh |
26.Trương |
27.Dực |
28.Chẩn |
| Ngày tuần lễ |
Thứ Năm |
Thứ sáu |
Thứ bảy |
Chủ nhật |
Thứ hai |
Thứ ba |
Thứ tư |
| Thống thuộc |
Mộc |
Kim |
Thổ |
Thái dương |
Thái âm |
Hoả |
Thuỷ |
Hai mươi tám sao thuộc các chòm sao Thanh long (Phương Đông), Bạch hổ (Phương Tây), Chu tước (Phương Nam), Huyền vũ (Phương Bắc), Hệ thống 28 sao này thay nhau trực chiếu lên Trái đất, nên nó có ảnh hưởng nhất định. Hầu hết các ngày thứ tư, thứ 5 đều là ngày tốt có sao tốt chiếu, ngày thứ 6, thứ 7 thường tập trung nhiều sao không tốt nhất, Chủ nhật tốt vừa, thứ 2, thứ 3 tốt xấu đan xen.
Cụ thể những ngày tốt xấu đó ra sao, tốt với việc gì và không tốt với việc gì, các bạn nên sử dụng các tài liệu chuyên sâu, hoặc nhờ những người có kinh nghiệm, học thức uyên bác sâu rộng, phân tích kỹ chi tiết cho.
Chung quy lại, ba cách tính ngày được sử dụng phổ biến nhất hiện nay để lựa chọn ngày tốt. Ngoài ra các nhà nghiên cứu chuyên sâu dùng cả sách “Ngọc hạp thông thư”, “Đổng Công tuyển nhật”… Nhưng theo quan điểm của tôi, việc lựa chọn càng kỹ lưỡng, càng khắt khe, thì số ngày tốt càng không nhiều. Nên nắm lấy ba yếu lĩnh cơ bản này để có thể tự xem ngày, cho công việc của mình.
Mỗi cô gái đều muốn trở thành một nàng công chúa, được người che chở, nâng niu, trở thành tâm điểm của sự ngưỡng mộ. Nhưng đâu phải ai sinh ra cũng được như vậy, trong 12 cung hoàng đạo thì chỉ có 4 chòm sao nữ may mắn dưới đây mới có mệnh công chúa thôi nhé.
![]() |
![]() |
Các cặp đôi nào trong 12 cung hoàng đạo song hành cùng nhau họ sẽ bổ trợ và giúp đỡ lẫn nhau rất nhiều đấy. Bạn thuộc chòm sao nào và kết đôi với ai thì tốt? Hãy đọc bài viết những cặp đôi hoàng đạo song hành sẽ gặp may mắn, hạnh phúc ngay dưới đây để biết củ thể nhé!
Nội dung
Trong nửa cuối năm nay, các cặp đôi này sẽ có vận mệnh khá tốt. Họ khuyến khích và hỗ trợ lẫn nhau. Khi nhận ra đôi bên có cùng mục tiêu, họ sẽ vô cùng ăn ý. Họ cũng hiểu rõ về những ưu, nhược điểm của đối phương. Là những cung có thuộc tính giống nhau, họ dễ dàng trò chuyện và luôn vui vẻ, thoái mái khi ở cùng nhau.
Cự Giải tính tình ôn hoà, còn Song Ngư giỏi trong việc chăm sóc và khích lệ người khác. Trong năm nay, vận mệnh của hai bạn lúc tốt lúc xấu. Bên cạnh đó, Xử Nữ và Kim Ngưu là những người hay dồn tích áp lực. Khi hai cặp đôi này gặp nhau thì đúng là trời hạn gặp mưa rào. Cự Giải và Song Ngư sẽ an ủi đối phương, đồng thời cũng khiến đối phương thấy được ý nghĩa sự tồn tại của mình.

Mối quan hệ của họ giống như nước với lửa, nhưng chính vì bất đồng nên họ lại càng để ý đến đối phương. Song Ngư và Thiên Bình hay bị hoang mang, bối rối, họ thiếu sự dũng cảm tiến về phía trước. Mà Kim Ngưu và Bạch Dương lại có tính cách này. Ngoài ra, Kim Ngưu và Bạch Dương còn cảm thấy các cung thuộc tính gió như Song Tử và Thiên Bình rất thẳng thắn, bộc trực và là một nhà cố vấn tâm lý tài năng.
Nếu những người thuộc các cặp đôi trên gặp nhau, họ sẽ lập tức trở thành tri kỷ, vì họ vô cùng ăn ý với nhau. Nếu đôi bên có thể tham gia vào các mối quan hệ bạn bè của nhau thì mối quan hệ xã hội sẽ được mở rộng lên rất nhiều. Tuy nhiên đừng quá coi trọng bạn của đối phương mà quên mất người bạn ban đầu của mình nhé!
| ► Tham khảo thêm: Đặt tên cho con theo phong thủy để có vận mệnh tốt đẹp |
![]() |
Chất lượng của bàn làm việc không nên quá cầu kỳ vào việc đắt tiền, hào hoa.
Màu sắc của bàn làm việc nên phối hợp với ánh sáng ở trong phòng, màu sắc đậm nhạt cần phải điều hòa với nhau.
Bàn làm việc không nên đặt ở dưới xà ngang nhà, không thể hướng ra bên ngoài là nơi có dòng thuận thuỷ của rãnh nước, tốt nhất là ngồi ở vị trí nghịch thủy.
![]() |
| Bàn làm việc nên đặt những vật mà có trợ giúp thành công trong sự nghiệp |
Bàn làm việc không thể mặt bên xung với cửa của nhà vệ sinh, cũng không thể dựa sát vào cửa nhà vệ sinh.
Bàn làm việc không thể trực xung với cửa ra vào, bên phải của bàn làm việc không thể dựa sát tường, bên trái dựa vào tường là có lợi. Ghế ngồi của bàn làm việc không thể quá nhỏ, tốt nhất là mặt bàn màu trắng.
Phía sau bàn làm việc của nhân viên kế toán, tài vụ không thể có người thường xuyên đi lại.
Phía Thanh Long của bàn làm việc thích hợp cao, phía Bạch Bổ thì thấp hơn một chút và thích hợp với tĩnh. Các thiết bị như đèn bàn, điện thoại thì nên đặt ở phía Thanh Long là cát.
Bề mặt bàn làm việc của chủ quản nên đặt những vật mà có trợ giúp cho họ thành công trong sự nghiệp, không nên tùy tiện đặt những con vật mà không phải là con vật mà mình cầm tinh, nếu bản thân bạn là cầm tinh con trâu mà trên bàn lại đặt một con lợn bằng thủy tinh hoặc bằng đá thì sẽ bất lợi đối với vận khí của chủ quản, vậy vì sao trên bàn làm việc của chủ quản nên đặt những vật đại diện cho sự thành công?
Tứ bảo của văn phòng làm việc là những vật đại diện cho: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ đều là tương sinh, lại đặt thêm một con vật bằng thủy tinh mà mình cầm tinh, bên trên có những dòng chữ chúc phúc được làm bằng những sợi chỉ đỏ thì cũng là một việc chiêu tài cầu vận.
Theo Sách Phong Thủy Văn phòng làm việc nơi công sở
Những con vật gì hay được dùng trong phong thủy? Câu hỏi này có rất nhiều người đặt ra và chưa có câu trả lời. Vì thế chúng ta cùng tìm hiểu bài viết sau đây để biết thêm thông tin nhé!
Nội dung
Sư tử được coi là 1 loại thú lành , có thể giải trừ được nhiều loại hình sát trước nhà , đồng thời còn có tác dụng tăng thêm uy phong của 1 cơ quan nhà nước , 1 công ty lớn , tăng thêm sinh khí cho nhà ở. Sư tử đá rất thích hợp với những người sống bằng nghề nước bọt như luật sư , diễn viên. Trong phòng làm việc của những người làm nghề này có thể đặt 1 đôi để gây thêm thanh thế , tăng tài lộc. Sư tử luôn đặt có đôi , 1 đực , 1 cái mới đúng , xin thận trọng , đừng mua nhầm. Ngoài ra , khi đặt sư tử nên lưu ý nó có nhiều chất liệu , nhiều màu sắc , nên chọn chất liệu và màu thích hợp với Ngũ hành nơi đặt nó. Và 1 điểm rất quan trọng nữa là sư tử luôn đặt ngó ra ngoài , không được ngó vào nhà.
Rất hay dùng để hóa sát ngăn ngừa tai họa. Nó hay được dùng khi :
_ Nhà ngay giao lộ
_ Cột đèn trước cửa
_ Cây to trước cửa hay cửa sổ
_ các vị trí Họa Hại và Tuyệt Mệnh trong như: Nhà mà có người mạng Thủy , đặt sư tử đồng càng tốt , vì được Kim sinh Thủy thêm Vượng Tài. Nhớ cũng đặt quay đầu sư tử ra ngoài.

Đây là vật chống lại thói trăng hoa rất hay trong PT. Đặt gà trên kệ , tủ nhìn ra cửa có thể cấm tiệt thói trăng hoa từ ngoài đưa đến. Nếu dùng trong tủ quần áo , phải dùng 1 đôi , đặt 2 bên góc tủ.
Khác với gà đồng , gà làm bằng gốm sứ lại dùng cho việc hóa giải hình sát Ngô Công Sát. Tức là bên ngoài nhà có các cấu trúc giống hình sâu , rết với các chân chìa ra 2 bên. NHƯNG nên nhớ rằng : Nếu nó chỉ chĩa vào nhà thì không sao , chỉ khi nào nó chỉa vào BẾP hoặc GIƯỜNG hay PHÒNG NGỦ TRẺ EM thì mới cần hóa giải. Loại gà này nên chọn loại gà trống , tối đa chỉ là 2 con , mõ nó nên để hướng về phía có hình sát.
Đây là 1 trong Tứ Linh , hấp thu Linh Khí Trời Đất nên sóng rất thọ. Nó vừa là biểu tượng của Trường thọ , vừa có tác dụng hóa sát. Trong PT , không phải lúc nào chúng ta cũng dùng Cương chọi Cương theo kiểu đặt Sư Tử , Kỳ Lân , Tỳ Hưu , Long Mã , …vv.. mà cũng có lúc ta phải dùng Nhu khắc Cương theo cách đặt Rùa ( Quy ). Nhất là trong phòng người già , nếu đặt 1 con rùa đầu hướng ra cửa sổ là rất hay. Rùa ( Quy ) sống cũng có khả năng hóa sát , nên xin đừng nghe lời ai bảo trong nhà không nên nuôi Quy ( Rùa ). Chỉ xin lưu ý , khi dùng Rùa ( Quy) sống để hóa sát , nếu nó chết hãy lập tức thay ngay con khác , không cần lo lắng. Để hóa sát với biểu tượng Rùa , nên lưu ý chất liệu nó và Ngũ Hành nơi đặt , và CHỈ KHI HUNG SÁT MẠNH , ngại dùng sư tử không chống nổi mới phải dùng , tránh lạm dụng.
Đây là 1 loại thú lành , chuyên đem điều may mán đến , nên thường được dùng để hóa giải tai ương. Trong PT , Long Quy thường được dùng nơi có Thủy khí nặng , hoặc nơi Tam Sát chiéu đến. Nơi có Thủy Khí nặng thường phát sinh chuyện đôi co , đặt Long Quy nơi đó , ngoài việc hóa giải đôi co còn tăng thêm nhân duyên nữa đấy.
Rồng là con vật đứng đầu trong các loài thú lành ( nam giới dùng thích hợp hơn nữ ) , nên ngoài việc hóa sát nó còn tăng cường phát huy quyền lực , người có chức vụ cao dùng nó có hiệu quả càng lớn. Nó còn có tác dụng đè ép bọn tiểu nhân rất tốt , nên rất thích hợp cho người làm việc hành chính , hoặc hoạt động chính trị , giúp chống lại những lời dèm pha và tăng cường quyền uy. Có thể đặt công cụ này ở góc trái bàn viết tượng cho Tả Thanh Long.
Nói chung về loại Rồng , thì không nên đặt hướng đầu Rồng về phòng ngủ , nhất là phòng ngủ trẻ em. Nếu treo tranh Rồng thì tốt nhất là dùng khung màu kim. Số lượng Rồng trong tranh nếu nhiều thì phải có 1 con chủ bầy , nếu không là Quần Long Vô Chủ , chỉ gây hại chứ không có lợi.
Đây cũng là 1 con vật trong bộ Tứ Linh , nên uy lực rất mạnh. Ngoài việc hóa sát , Kỳ Lân còn có tác dụng Chiêu Tài , Thêm Đinh. Nam nữ đều dùng được.
Đây là 1 loài thú trong truyền thuyết có từ thời thượng cổ , có tác dụng hóa tai , giải nạn rất hay. Nó có thể đặt hướng ra ngoài , hoặc loại nhỏ làm trang sức đeo bên mình cũng tốt.
Ngựa là con vật tượng cho sự đi xa , nên rất thích hợp cho những người hay đi công tác xa , hoặc bôn ba đây đó. Nên chọn 1 đôi ngựa đồng đặt ở trên bàn viết hoặc chỗ Tài Vị trong nhà , đầu ngựa hướng ra cửa , cửa sổ. LƯU Ý tránh đặt ngựa trong bếp , trong nhà tắm.
Nói chung với việc dùng ngựa , xin lưu ý máy điểm sau :
_ Người tuổi Tý tránh dùng biểu tượng hay tranh ảnh ngựa.
_ Nếu đặt nhiều con ngựa , thì số 6 con ngựa là tốt nhất cho việc sinh tài lộc , 8 con ngựa tốt nhất cho việc sum họp gia đình , ĐẠI KỴ dùng 5 con ngựa ( vì như ngày xưa là Ngũ Mã Phanh Thây ).
_ Ngựa không dùng cho hóa sát.
Với Voi Đồng thì tác dụng chính của nó là Hút Tài Lộc , nhất là nhà mà mở cửa , cửa sổ nhìn thấy ao , hồ , sông , biển thì càng có hiệu quả cao.
Với voi bằng gồm sứ , thường được dùng để hóa giải các cấu trúc nặng nề như dầm nhà , xà nhà đè xuống.
Với sư tử thì ta trấn cửa lớn , chó thì trấn cửa sau. Nhưng nhiều người theo thói quen là coi chó để giữ nhà , nên đặt ở trước cửa , cũng không sau. Số lượng chỉ 1-2 con là đủ. Người tuổi Thìn tránh dùng biểu tượng chó. Nên lưu ý màu sắc nó cho phù hợp phương hướng nhà.
Ngày thần Bạch Hổ nhập miếu gọi là ngày “Bạch Hổ”, nên kiêng làm các việc lớn. Đó là các ngày:
