Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Xem tuổi vợ chồng làm ăn - Xem tuổi vợ chồng - Xem Tử Vi

Xem tuổi vợ chồng làm ăn, Xem tuổi vợ chồng, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Xem tuổi vợ chồng làm ăn, tu vi Xem tuổi vợ chồng làm ăn, tu vi Xem tuổi vợ chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tuổi vợ chồng làm ăn

Với mỗi người việc chọn bạn đời hoặc đối tác làm ăn vô cùng quan trọng, nó sẽ mang may mắn thành công tài lộc nếu tuổi người đó hợp. Với vợ chồng mà hợp nhau trong con đường làm ăn sẽ giúp bạn thăng tiến tốt hơn. Cùng xem tuổi vợ chồng hợp làm ăn. xem tuổi vợ chồng hợp làm ăn

Hướng dẫn xem tuổi vợ chồng trong chuyện làm ăn

Việc chọn lựa người bạn đời với một tình yêu thực sự, hợp tính tình, và quan trọng hơn nữa là Âm Dương, Ngũ Hành phối hợp hoàn hảo thiết tưởng là một việc vô cùng cần thiết của mỗi người trước khi tiến đến hôn nhân. Để chọn lựa người vợ, người chồng cần thực hiện theo hai tiêu chí là Âm Dương và Ngũ Hành phù hợp.

Việc chọn tuổi tác bạn bè để hợp tác làm ăn, thì nên dựa bát sát này sẽ dễ hiểu hơn, ngoài ngũ hành và tương sinh. Vì đối với tuổi vợ chồng thì nên dựa vào cung sanh còn đối với bạn bè hoặc đối tác làm ăn chung thì nên dựa vào cung phi.Ví dụ : tuổi Đinh Mùi (1967), lấy vợ tuổi Nhâm Tý (1972) thì tuổi Đinh Mùi cung sanh là Đoài, tuổi Nhâm Tý cung sanh là Chấn thì sẽ cho ra Tuyệt Mạng (xấu vừa). Nhưng đối với cung phi thì lại tốt vì tuổi Đinh Mùi là Càn, Nhâm Tý là Cấn.

Tuy nhiên có nhiều trường hợp xảy ra.

Ví dụ : có 2 người hùn hạp làm ăn, nhưng cung phi 2 người không hạp thì sẽ dễ đổ vỡ, thất bại trong làm ăn. Nhưng ngược lại, nếu có người thứ 3 hùn vào thì có thể chuyển hóa từ xấu thành tốt.

Các bạn có thể tham khảo tuổi hợp như sau :

1. CÀN :

Càn + Càn – Phục Vị (tốt vừa)
Càn + Cấn – Phước Đức (thật tốt)
Càn + Khôn – Sanh Khí (thật tốt)
Càn + Đoài – Diên Niên (thật tốt)
Càn + Chấn – Lục Sát (thật xấu)
Càn + Tốn – Họa Hại (thật xấu)
Càn + Khảm – Tuyệt Mạng (thật xấu)
Càn + Ly – Tuyệt Mạng (thật xấu)

2. CẤN :

Cấn + Cấn – Phục Vị (tốt vừa)
Cấn + Càn – Thiên Y (thật tốt)
Cấn + Khôn – Sinh Khí (thật tốt)
Cấn + Đoài – Diên Niên (thật tốt)
Cấn + Chấn – Lục Sát (thật xấu)
Cấn + Khảm – Ngũ Quỷ (thật xấu)
Cấn + Tốn – Tuyệt Mạng (tốt vừa)
Cấn + Ly – Họa Hại (thật xấu)

3. ĐOÀI :

Đoài + Đoài – Phục Vị (tốt vừa)
Đoài + Càn – Phước Đức (thật tốt)
Đoài + Cấn – Diên Niên (thật tốt)
Đoài + Khôn – Sinh Khí (thật tốt)
Đoài + Khảm – Họa Hại (thật xấu)
Đoài + Chấn – Tuyệt Mạng (xấu vừa)
Đoài + Tốn – Lục Sát (thật xấu)
Đoài + Ly – Ngũ Quỷ (thật xấu)

4. KHÔN :

Khôn + Khôn – Phục Vị (tốt vừa)
Khôn + Càn – Thiên Y (thất tốt)
Khôn + Cấn – Sinh Khí (thật tốt)
Khôn + Đoài – Phước Đức (thật tốt)
Khôn + Khảm – Tuyệt Mạng (xấu vừa)
Khôn + Chấn – Họa Hại (thật xấu)
Khôn + Tốn – Ngũ Quỷ (thật xấu)
Khôn + Ly -Lục Sát (thật xấu)

5. KHẢM :

Khảm + Khảm – Phục Vị (tốt vừa)
Khảm + Chấn – Thiên Y (thật tốt)
Khảm + Tốn – Sinh Khí (thật tốt)
Khảm + Ly – Phước Đức (thật tốt)
Khảm + Càn – Lục Sát (thật xấu)
Khảm + Cấn – Ngũ Quỷ (thật xấu)
Khảm + Khôn – Tuyệt Mạng (xấu vừa)
Khảm + Đoài – Họa Hại (thật xấu)

6. CHẤN :

Chấn + Chấn – Phục Vị (tốt vừa)
Chấn + Khảm – Thiên Y (thật tốt)
Chấn + Tốn – Diên Niên (thật tốt)
Chấn + Ly – Sinh Khí (thật tốt)
Chấn + Càn – Lục Sát (thật xấu)
Chấn + Cấn – Ngũ Quỷ (thật xấu)
Chấn + Khôn – Họa Hại (thật xấu)
Chấn + Đoài – Tuyệt Mạng (xấu vừa)

7. TỐN :

Tốn + Tốn – Phục Vị (tốt vừa)
Tốn + Khảm – Sinh Khí (thật tốt)
Tốn + Chấn – Phước Đức (thật tốt)
Tốn + Ly – Thiên Y (thật tốt)
Tốn + Càn – Họa Hại (thật xấu)
Tốn + Cấn – Tuyệt Mạng (xấu vừa)
Tốn + Khôn – Ngũ Quỷ (thật xấu)
Tốn + Đoài – Lục Sát (thật xấu)

8. LY :

Ly + Ly – Phục Vị (tốt vừa)
Ly + Khảm – Phước Đức (thật tốt)
Ly + Chấn – Sinh Khí (thật tốt)
Ly + Tốn – Thiên Y (thật tốt)
Ly + Càn – Tuyệt Mạng (xấu vừa)
Ly + Cấn – Họa Hại (thật xấu)
Ly + Khôn – Lục Sát (thật xấu)
Ly + Đoài – Ngũ Quỷ (thật xấu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tuổi vợ chồng làm ăn - Xem tuổi vợ chồng - Xem Tử Vi

Người tuổi Thìn mệnh Mộc

Người tuổi Thìn mệnh Mộc là những người sinh năm Mậu Thìn 1928, 1988...
Người tuổi Thìn mệnh Mộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Thìn mệnh Mộc là những người sinh năm Mậu Thìn 1928, 1988...

thanh cong
 
Đây là người có chí tiến thủ mạnh mẽ, luôn tin vào khả năng của bản thân và sẽ cố gắng thể hiện hết mình nếu có cơ hội. Họ không phải là mẫu người bảo thủ. Vì thế, họ sẽ thừa nhận nếu làm sai việc nào đó. Tuy nhiên, họ cũng luôn đặt ra yêu cầu rất cao đối với những người khác.

Người tuổi Thìn mệnh Mộc sống hướng ngoại, có năng lực suy luận, óc sáng tạo và khá hiếu động. Họ thường được đánh giá cao bởi những suy nghĩ độc đáo, mới lạ. Tinh thần hợp tác trong công việc cũng giúp họ gây được thiện cảm với đồng nghiệp. Song, họ có nhược điểm là không biết cách tự kiềm chế và thường làm việc nửa chừng, dễ thay dao động, thay đổi.

Đa số người tuổi Thìn mệnh Mộc ham học, có ý chí, có vốn tri thức sâu rộng, biết kính trên nhường dưới và thường lên kế hoạch chu đáo cho mọi việc.

Nếu được sao tốt tương trợ, họ có thể đảm nhận tốt công việc giám sát, quản lý, tài chính, luật sư… Họ sẽ dễ dàng có được cả danh và lợi, phú quý, hiển đạt.

Nếu không được sao tốt tương trợ trong cung mệnh, người này sẽ không chuyên chú vào sự nghiệp học hành, thiếu ý chí vươn lên, cuộc sống gặp nhiều khó khăn, không ổn định. Tuy bề ngoài họ vẫn vui cười nhưng bên trong lại bất bối rối. Khi đó, họ cũng trở nên hiếu thắng và hay tranh cãi với mọi người hơn, gây nên nhiều rắc rối cho bản thân.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Thìn mệnh Mộc

Đặc điểm nổi bật về tính cách của người tuổi Bính Dần

Bính Dần có tính cách như lửa, trong nháy mắt thiêu đốt tiêu diệt mọi thứ. Còn điều gì về tử vi của người tuổi Bính Dần, xin mời độc giả theo dõi.
Đặc điểm nổi bật về tính cách của người tuổi Bính Dần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong Lục Thập Hoa Giáp, Bính Dần có tính cách như lửa, trong nháy mắt thiêu đốt tiêu diệt mọi thứ. Ngoài ra, bởi tự nhận tài trí hơn người nên thành lười biếng, coi rằng mình đã ngập tràn nhiệt tình rồi, không cần phải tiếp tục nỗ lực nữa. Còn điều gì về tử vi của người tuổi Bính Dần, xin mời độc giả cùng theo dõi.

Dac diem noi bat ve tinh cach cua nguoi tuoi Binh Dan hinh anh
 
Theo Lục Thập Hoa Giáp, người tuổi Bính Dần nhiệt tình phóng khoáng, tự tin hiếu thắng, hay nói hay cười, thiếu bình tĩnh, tâm tình bất ổn, dễ kích động tức giận, khuyết thiếu cẩn thận chăm chú. Luận giải dựa trên kiến thức tử vi thì Bính là Thái Dương, tọa Trường Sinh, có ánh sáng sắc bén nên chủ nhân thông minh nhưng lại tọa Kiêu Thần đoạt Thực nên không may mắn.   Người sinh vào khoảng thời gian sau Đông Chí, trước Hạ Chí là Mậu Thổ Trường Sinh với Dần, Thực Thần vượng, chủ nhân thông minh, cát lợi. Người sinh vào khoảng thời gian sau Hạ Chí trước Đông Chí thì Mậu Thổ Trường Sinh ở Thân, Thực Thần yếu, vận trình kém hơn một chút. Để xác định thời gian, xin mời tham khảo bài viết: 24 tiết khí đánh dấu thời gian trong năm.   Tuổi Bính Dần thiếu thành thục, tâm tình không ổn định, nhanh mồm nhanh miệng, ngay thẳng chân thật, ưa vận động, lợi Quan gần Quý. Nữ mệnh hiền lương, lanh lợi, nếu cần cù sẽ có thu hoạch lớn. Bính là Dương Hỏa ưu thế mãnh liệt, hừng hực thiêu đốt, có thể làm sắt nóng chảy.    Bởi vậy người sinh vào năm Bính tinh lực dồi dào, đến đâu cũng có thể giành được quyền uy và danh tiếng, nhiệt tình theo đuổi lý tưởng của chính mình. Quang minh chính đại không che giấu bất kì khuyết điểm hay thiếu sót nào nên có lúc sẽ ồn ào tâm sự, thổ lộ những điều trong lòng mình với người khác.   Người tuổi Dần có uy lực, là con hổ dũng mãnh nên cá tính có phần cương ngạnh, cần có người thuần phục. Tính hoang dã trong con người tràn trề, nhiều khi khiến những người xung quanh cảm thấy sợ nhưng thực chất bạn hiền lành và thẳng thắn, không câu nệ tiểu tiết, thích làm thân với mọi người và có tinh thần nghĩa hiệp, sẵn sàng tương trợ lúc khó khăn, hoạn nạn.    Tuổi Bính Dần có tính cách như lửa, trong nháy mắt thiêu đốt tiêu diệt mọi thứ. Ngoài ra, bởi tự nhận tài trí hơn người nên thành lười biếng, coi rằng mình đã ngập tràn nhiệt tình rồi, không cần phải tiếp tục nỗ lực nữa. Công việc vì thế cũng phập phù, lúc tốt lúc xấu, nếu có thể toàn tâm toàn ý phấn đấu cho sự nghiệp thì đảm bảo thành quả không hề nhỏ, khiến người khác phải ngưỡng mộ.
Dac diem noi bat ve tinh cach cua nguoi tuoi Binh Dan hinh anh
 
Có khi như mặt trời mọc thoải mái trong sáng, có khi lại gây mâu thuẫn xung đột với những người xung quanh, cần phải biết cách khống chế tính cách của chính mình. Người sinh ngày Bính đều nhiệt tình trong tình yêu, một khi đã yêu thích ai sẽ không do dự, tích cực theo đuổi đến cùng, có thể coi là một hình thức quả cảm, không mấy ai sánh kịp.    Lần đầu gặp mặt chỉ cần phán đoán đó chính xác là đối tượng lý tưởng, bạn lập tức viết thư, gọi điện, tìm cách liên lạc hoặc trực tiếp đến trước mặt người đó đưa ra lời mời hẹn hò. Nam mệnh đa tình, có khuynh hướng năm thê bảy thiếp, vượt quá phạm vi chuẩn mực cho phép. Người này cũng có thể yêu nhiều người không cùng tính cách, kỹ xảo đạt tới mức thượng thừa.   Tuổi Bính Dần là người ăn nói dễ nghe, dễ lấy lòng người khác, thực tế chỉ khó vượt qua Hỏa tính trong lòng mà thôi. Một khi xác định mối quan hệ thì rất nhiệt tình, quan tâm nhưng vẫn không ngừng theo đuổi người con gái khác gây ảnh hưởng tới tình cảm hiện tại. Có thể bạn không thích các cô khác lắm đâu, rất yêu người yêu hiện tại nhưng bản tính thích chinh phục làm bạn không thể ngừng lại được.    Gieo rắc đào hoa khắp nơi cuối cùng không cẩn thận lại bị lửa đốt, chịu tổn thương, Bính Dần bị tình yêu chi phối, đi theo đường trái tim chỉ dẫn, cháy hừng hực như lửa, trời sinh có sức thuyết phục rất tốt. Họ sẽ được tha thứ nhưng có nắm bắt được cơ hội, làm lại từ đâu, trân trọng người mình đang có hay không thì chỉ có thể dựa vào chính bản thân bạn mà thôi.

Ngoài ra, bạn đọc có thể xem thêm một góc nhìn khác về số mệnh của người này thông qua bài viết: Giải mã vận mệnh người tuổi Bính Dần theo Lục Thập Hoa Giáp.

Xem tuổi xông nhà 2017 cho gia chủ tuổi Bính Dần Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Bính Dần
Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc điểm nổi bật về tính cách của người tuổi Bính Dần

3 chòm sao nữ lụy tình, sợ bị tổn thương không dám yêu

Ở thời điểm chia ly, tuy đau xót nhưng có người sẽ cố gắng quên đi quá khứ, còn 3 chòm sao nữ lụy tình dưới đây thì bị tổn thương là không muốn yêu đương
3 chòm sao nữ lụy tình, sợ bị tổn thương không dám yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong tình yêu, bị thương là khó tránh khỏi, cảm tình đâu phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió. Ở thời điểm chia ly, tuy đau xót nhưng có người sẽ cố gắng quên đi quá khứ, còn 3 chòm sao nữ lụy tình dưới đây thì bị tổn thương là khép cửa trái tim, không muốn yêu đương nữa.


3 chom sao nu luy tinh, so bi ton thuong khong dam yeu hinh anh 2
 

Cự Giải 

  Nếu như nói tới chòm sao nữ lụy tình, dễ dàng bị tổn thương trong tình yêu thì Cự Giải xếp ở vị trí số 1. Phản ứng chậm chạp, kém thích nghi, Cự Giải mẫn cảm với sự chia ly, khuyết thiếu cảm giác an toàn, vốn ỷ lại vào người yêu, đang hưởng thụ cảm giác an toàn mà đối phương mang đến, nay lại bơ vơ một mình, không tránh khỏi hụt hẫng. Tuy rằng bề ngoài bình thản nhưng trong lòng dậy sóng, đả kích sâu đậm, mất thật nhiều thời gian mới có thể hồi lại, nên khó mở lòng để yêu người mới.  

Hổ Cáp

 

Hổ Cáp nữ tản ra một loại khí chất thần bí, cá tính cực đoan, trong thế giới của họ vạn vật đều rất rõ ràng, minh bạch. Tình yêu cũng vậy, hoặc là không yêu hoặc là yêu rất sâu đậm, Hổ Cáp không chấp nhận thứ làng nhàng, phải là thứ ở mức độ cao nhất. Khi yêu, chòm sao nữ lụy tình này dành toàn bộ trái tim, tâm huyết, cảm xúc vào đối phương. Thời điểm bị tổn thương, xuất phát từ bản năng tự bảo vệ mình và cá tính ngang ngạnh, Hổ Cáp sẽ đóng cửa trái tim, ai đến cũng không tiếp, lạnh lùng tránh xa tất cả.
3 chom sao nu luy tinh, so bi ton thuong khong dam yeu hinh anh 2
 

Kim Ngưu

  Nhắc đến Kim Ngưu nữ, mọi người liền nhất định nhớ tới tính cách đặc biệt cố chấp của nàng ấy. Là người ổn định, có phần chậm chạp, để yêu một người Kim Ngưu cũng phải mất rất nhiều thời gian, tiến vào rồi là không muốn bước ra, trọn đời trọn kiếp chung tình. Nếu tình cảm không như ý, đôi bên tan vỡ, chắc chắn cô nàng sẽ đau lòng và rụt vào vỏ ốc của mình, không muốn đối mặt, cũng không đủ dũng khí để đón nhận tình cảm mới. Sống trong thế giới của riêng mình, từ chối tất cả những người đến sau, Kim Kim quả là chòm sao nữ lụy tình
1001 cách thu hút đàn ông “cực dễ” của Chòm sao nữ thông minh 3 chòm sao nữ yêu bản thân một cách điên cuồng Đáng sợ 4 chòm sao nữ trở mặt như trở bàn tay
Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 chòm sao nữ lụy tình, sợ bị tổn thương không dám yêu

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Mượn tuổi làm nhà như thế nào cho đúng

Thủ tục mượn tuổi làm nhà thực chất rất khó, có rất nhiều câu hỏi xoay quanh vấn đề tại sao phụ nữ lại không được chú trọng trong việc “nhà cửa”,
Mượn tuổi làm nhà như thế nào cho đúng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để tìm hiểu kỹ hơn về việc mượn tuổi làm nhà và trong câu hỏi mượn tuổi làm nhà thế nào cho đúng, các chuyên gia xem phong thủy sẽ lý giải rõ hơn về vấn đề này.

Mượn tuổi làm nhà như thế nào cho đúng

1. Khi làm nhà xem tuổi đàn ông

Theo các chuyên gia phong thủy đời sống thì trong việc "khai môn lập hướng" tính phong thủy cho một ngôi nhà người ta ít khi lấy tuổi đàn bà mà coi tuổi người đàn ông như một tiền đề để định cát hung. Thực tế, xét cho cùng cũng bởi thuyết Âm dương Ngũ hành với nguyên lí Âm thuận tòng dương. Đối với một gia đình hai vợ chồng thì lý thuyết này coi người chồng là dương, vợ tính là âm. Bởi vậy trong thuật phong thủy nhà ở người xưa mới có câu là "lấy vợ xem tuổi đàn bà, làm nhà xem tuổi đàn ông".

2. Người mượn tuổi làm nhà nên là nam giới, tuổi cần lớn hơn gia chủ.

Người mượn tuổi làm nhà nên là nam giới

Trong một đại gia đình, các thành viên có quan hệ huyết thống, vai trò người cha, người ông được xem như gốc rễ của cái cây phả hệ. Thuyết Âm dương Ngũ hành coi người đứng đầu như ông, cha trong gia đình như một chủ thể đại diện. Còn các vai vế khác trong gia đình như vợ, con, cháu... nằm trong mối quan hệ phụ thuộc. Có thể hiểu rằng người đứng đầu trong gia đình (ông, cha) thuộc tính dương được ví như chiếc đầu tàu kéo theo những toa thành viên còn lại trong gia đình đi theo. Lý thuyết này không thay đổi cho dù ở bất cứ thời đại nào, dù là chế độ chính trị khác nhau.

TS Vũ Thế Khanh, Tổng Giám đốc Liên hiệp Khoa học Công nghệ Tin học Ứng dụng (UIA) cho rằng, dân gian còn quan niệm, đối với nhà nhiều thế hệ, dù lấy tuổi đàn ông làm nhà nhưng vẫn chú trọng lấy tuổi cao nhất. Điều này thể hiện sự sống lâu nên nhà sẽ bền vững.

Mượn tuổi lớn hơn gia chủ thì càng tốt

TS Vũ Thế Khanh cho biết thêm, hiện nay còn duy trì quan niệm nếu không được tuổi làm nhà thì mượn tuổi tốt theo cửu trạch. Người này sẽ khấn hộ trước bàn thờ thần linh khi động thổ. Cách làm này chưa chính xác. Bởi nếu đã quan niệm thần linh thiêng liêng, nhìn được trăm sự thì việc mượn tuổi làm nhà lại biến thành hành động lừa dối. Vì thế, về nguyên lý là chưa phù hợp. Còn để đúng tuổi người mượn thì cần có sự mua bán theo khế ước thực sự. Khi làm nhà xong bán lại theo khế ước cho chủ cũ. Tuy nhiên, người tốt, hay làm phúc đức thì không cần quan trọng xem ngày tốt xấu mà ngày, năm, tháng nào cũng tốt nên có thể làm nhà bất cứ thời điểm nào. Còn người xấu thì ngày tốt cũng là vận hạn.

Trong thực tế nếu trong năm nào đó gia chủ chưa được tuổi làm nhà thì có thể mượn tuổi người thân hoặc bạn bè hợp tuổi đứng ra động thổ giúp. Người MƯỢN TUỔI LÀM NHÀ nên là nam giới, nếu tuổi tác lớn hơn gia chủ thì càng tốt. Một điều cần chú ý là gia đình không có tang chế và điều quan trọng nữa đó là tuổi không phạm vào các vận hạn Tam Tai, Hoang Ốc, Kim Lâu.

3. Kinh nghiệm mượn tuổi làm nhà

- Nên mượn tuổi của người thân trong nhà, trong nội tộc, gần nhà bạn có dự định xây là tốt nhất sẽ thuận tiện cho bạn về các thủ tục sau này.

- Người cho mượn tuổi làm nhà không được cho người thứ 2 cùng mượn tuổi trong thời gian mà người mượn trước chưa làm nhà xong. Vì vậy, khi mượn tuổi ai đó bạn cũng nên hỏi kỹ vấn đề này trước khi bạn có ý định nhờ để giúp mình động thổ.

- Chỉ được phép mượn tuổi làm nhà để khởi công xây nhà mới. Không mượn tuổi khi sửa nhà.

- Nếu bạn dự định sửa chữa nhỏ mà không động đến đất thì chỉ cần chọn ngày tháng đẹp để làm.

- Nếu bạn sửa nhà mà động đến đất thì cần xem đến năm vì khi đó động chạm đến Thần Linh.

- Nếu năm bạn định sửa nhà mà không được tuổi thì nên chọn năm khác.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mượn tuổi làm nhà như thế nào cho đúng

Có phải phụ nữ mũi tẹt là xấu?

Mũi là một trong năm ngũ quan có ảnh hưởng tới vận mệnh, mũi chủ về cung tài lộc. Phụ nữ mũi tẹt thường có tính cách vội vàng, dễ xao động, điều này ảnh hưởng
Có phải phụ nữ mũi tẹt là xấu?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

rất lớn tới vận trình.


Co phai phu nu mui tet la xau hinh anh 2
Ảnh minh họa
1. Người mũi tẹt không cần phải đề phòng
 
Trên gương mặt, mũi nằm ở vị trí chính giữa, hình dáng mũi có đẹp hay không, có đối xứng hay không ảnh hưởng rất lớn tới thẩm mỹ của cả khuôn mặt, bởi vậy, cái mũi có tầm quan trọng rất lớn.    Người có mũi cao, đẹp và rắn chắc thì có sức hấp dẫn lớn, cũng có sự tự tin lớn nhưng tính tình lại khá ích kỷ. Ngược lại, người mũi tẹt thì ý thức được việc mình sở hữu chiếc mũi không như ý nên bình thường có chút rụt rè, nhưng lại tạo được sự đáng tin cậy và người đối diện cảm giác như tìm được tri kỷ.
2. Mũi tẹt thiếu tự tin
 
Bình thường, người mũi tẹt khá thiệt thòi, tình cách tương đối hướng nội, ngại ngùng bởi thiếu sự tự tin vào chính bản thân mình, cũng không có sự quyết đoán nên khi giao tiếp với người khác thường không dám thể hiện đúng năng lực của mình, cho dù có phải chịu sự bất công cũng chọn giải pháp im lặng bởi vậy cuộc sống gặp nhiều áp lực hơn người thường.

Co phai phu nu mui tet la xau hinh anh 2
Ảnh minh họa
Cũng chính vì thiếu tự tin mà tương lai thường không được như ý muốn, thường coi vật chất coi trọng hơn tinh thần. 3. Người mũi tẹt không có nhiều thành công

Mũi tẹt có đặc thù là lõm vào, theo góc độ khoa học cơ thể người thì điều này có ảnh hưởng không tốt với hệ hô hấp (phổi). Người mũi tẹt thường không có ý chí phấn đấu, trong công việc thường do dự nhưng tính cách lại vội vàng, dễ làm hỏng chuyện, so với người thường thì khó đạt được thành công hơn).
► Xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác

Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có phải phụ nữ mũi tẹt là xấu?

Người tuổi Dần có thành công nhờ tính cách?

Người tuổi Dần thường dũng cảm, nhiệt tình, hiếu động. Họ luôn có sức hấp dẫn và từ con người họ cũng toát ra uy quyền cần thiết. Tuy nhiên, nhiều lúc họ cũng
Người tuổi Dần có thành công nhờ tính cách?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

rất xốc nổi, tự cao, không chịu nghe lời khuyên của người khác và khá phóng túng.

 
tuoi ty (6)
 

Người tuổi Dần thường làm việc rất hăng say, luôn hào phóng, cởi mở. Mặc dù bản thân ghét bị người khác đặt những chế độ, quy định nhưng lại thích đề ra khuôn khổ, quy tắc và yêu cầu mọi người phải tuân thủ.

Thay đổi công việc đối với họ là một việc hết sức bình thường. Cuộc đời của họ cũng chính là một sự vận động không ngừng nghỉ. Họ không thể chịu đựng nổi việc mình cứ phải dẫm chan mãi tại một vị trí và lại càng không thích chịu sự chi phối của người khác. Chính nhờ những đặc điểm này mà chúng ta có thể dễ dàng phân biệt được họ với những người khác.

Người tuổi Dần là những người theo trào lưu lãnh đạo thời đại. Họ tự tin cho rằng mình là người sáng tạo nên tất cả những trào lưu mới. Dưới cái nhìn của họ, tất cả mọi sự được cho là thời thượng đều đã trở nên lỗi thời. Họ thường hay thể hiện cá tính của mình thông qua sự sáng tạo đó.

Ngay khi ở vào những hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm nhất, người tuổi Dần vẫn luôn lạc quan và tự tin. Tại sao họ có thể làm được điều  này? Chỉ có thể giải thích rằng chính bản năng không sợ gian khổ trong những lúc nguy khốn, giúp họ thoáng thân trong hoàn cảnh ngặt nghèo nhất. Tính cách này cũng phần nào giúp họ gặt hái được nhiều thành công trên con đường sự nghiệp của mình.

Đa phần người tuổi Dần đều khá thành thực nhưng đôi khi vì hoàn cảnh khách quan nên họ cũng sẽ vấp phải những sai lầm nhỏ. Họ không thể tiếp nhận được sự áp đặt của người khác cũng như những điều bất công trong xã hội. Họ ghét tất cả những việc không chính nghĩa và luôn cố gắng bảo vệ quan điểm của mình. Vì có thể mang lại cho mọi người cảm giác an toàn và tin cậy nên người tuổi Dần rất có thể sẽ trở thành nhân vật có quyền cao chức trọng trong xã hội. Tuy nhiên, họ cũng có rất nhiều mộng tưởng cao xa và luôn cho rằng chức vụ mình đang nắm giữ hoàn toàn không tương xứng với tài năng, năng lực của mình.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Dần có thành công nhờ tính cách?

Cách hóa giải kim lâu –

rong dân gian có rất nhiều cách tính tuổi Kim lâu. Mỗi cách đều có cái hay và dở với độ chính xác chưa được kiểm chứng. Mỗi Kim lâu một loại tai họa Lương y Vũ Quốc Trung cho biết, theo kinh nghiệm dân gian và cổ thư để lại thì "một, ba, sáu, tám thị

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

rong dân gian có rất nhiều cách tính tuổi Kim lâu. Mỗi cách đều có cái hay và dở với độ chính xác chưa được kiểm chứng.

Mỗi Kim lâu một loại tai họa

Lương y Vũ Quốc Trung cho biết, theo kinh nghiệm dân gian và cổ thư để lại thì “một, ba, sáu, tám thị kim lâu”. Theo đó: Nam lấy số tuổi âm lịch chia cho 9, số dư mà = 1, 3, 6, 8 thì là phạm Kim lâu (tính để xem tuổi làm nhà, sửa nhà). Nếu dư 1 là phạm Kim lâu thân (gây tai họa cho bản thân người chủ). Nếu dư 3 là phạm Kim lâu thê (gây tai họa cho vợ của người chủ). Nếu dư 6 là phạm Kim lâu tử (gây tai họa cho con của người chủ). Nếu dư 8 là phạm Kim lục súc (gây tai họa cho con vật nuôi trong nhà. Nữ: Hàng đơn vị của tuổi âm lịch mà = 1, 3, 6, 8 là phạm Kim lâu (tính để xem tuổi lấy chồng).

Cách tính này dựa vào Hà đồ, Cửu cung, Hậu thiên bát quái. Nếu ở vào các cung Càn thuộc mệnh Chủ, cung Chấn thuộc về vợ, cung Cấn thuộc con cái hoặc người thân, cung Tốn thuộc gia súc đề ở 4 góc của cửu cung là phạm Kim lâu không nên xây nhà.

Bắt đầu tính khởi 1 góc ở Tây Nam (Khôn), 2 đến Tây (Đoài), 3 đến Tây Bắc (Càn), 4 đến Bắc (Khảm), 5 vào cung giữa (trung ương), 6 ở Đông Bắc (Cấn), 7 ở Đông (Chấn), 8 ở Đông Nam (Tốn), 9 ở Nam (Ly), đến 10 lại về cùng giữa rồi tiếp hàng đơn vị ở hướng Tây Nam… Tính như vậy thì ta luôn luôn thấy 1 – 3 – 6 – 8 ở các phương, góc có Tứ Mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) có Tứ Sinh (Dần, Thân, Tị, Hợi). Vừa có “Mộ” lại vừa là “Sinh” nên gọi Kim lâu, ẩn chứa nhiều hung nguy hơn cát tường nên cần phải kiêng tránh.

Cụ thể như sau:

Phạm cung Khôn: Nhất Kim lâu thân: Chính kỵ nhất.

Phạm cung Càn: Nhị Kim lâu thê: Kỵ người vợ.

Phạm cung Cấn: Tam Kim lâu tử: Kỵ cho con cái.

Phạm cung Tốn: Tứ Kim lâu lục súc: Kỵ súc vật nuôi.

Có tám tuổi không cấm kỵ Kim lâu khi tạo tác và khi chết cũng không sợ trùng là tuổi: Kỷ Sửu – Tân Sửu, Kỷ Mùi – Tân Mùi; Canh Dần – Canh Thân; Nhâm dần – Nhâm Thân. Tránh những năm phạm Kim lâu: Là những năm: 12, 15, 17, 19, 21, 24, 26, 28, 39, 33, 35, 39, 42, 44, 46, 48, 51, 53, 55, 57, 60, 62, 64, 66, 69, 71, 73, 75 âm lịch. Ngoài Kim lâu tạo tác (xây nhà) nói trên còn Kim lâu cho cưới gả, chỉ cần xem tuổi âm lịch nữ giới (đàn bà) nếu hàng đơn vị là 1, 3, 6, 8 là phạm Kim lâu, không nên cưới gả. Do cách vận hành của cửu cung, Hà đồ khác nhau nên có kết quả này (không trình bày ở đây).

Hãy tự tính cho mình

Ông Nguyễn Văn Chung cho biết, theo cổ học phương Đông, 24 phương vị gồm 8 thiên can, 12 địa chi và 4 quẻ Khôn, Càn, Cấn, Tốn được mô tả theo hình vẽ dưới (ảnh tròn).

29_291211DOOLThangTT014

Các số dư 1, 3, 6, 8 đều thuộc Tứ Mộ (tức 4 cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) và Tứ Sinh (tức 4 cung Dần, Thân, Tỵ, Hợi). Mùi và Thân thuộc Tây Nam. Tuất và Hợi thuộc Tây Bắc. Dần và Sửu thuộc Đông Bắc. Thìn và Tỵ thuộc Đông Nam. Đây cũng chính là phương vị của 4 quẻ Khôn, Càn, Cấn, Tốn. Từng quẻ nằm giữa hai ngôi Tứ Sinh và Tứ Mộ. Phong thủy quy định Nam ở phía trên, Bắc ở phía dưới (khác với cách nhìn ở bản đồ), Đông bên tay trái hình vẽ, Tây bên tay phải hình vẽ. Như vậy: Kim Lâu Thân là số 1 ở cung Khôn góc Tây Nam. Kim Lâu Thê là số 3 ở cung Càn góc Tây Bắc. Kim Lâu Tử là số 6 ở cung Cấn góc Đông Bắc. Kim Lâu Súc là số 8 ở cung Tốn góc Đông Nam.

Theo đó, có 8 tuổi không kỵ Kim Lâu là: Tân Sửu, Tân Mùi, Kỷ Sửu, Kỷ Mùi, Canh Dần, Nhâm Dần, Canh Thân và Nhâm Thân. Với 8 tuổi này, nếu Hoàng ốc cũng tốt thì có thể xây nhà. 52 tuổi còn lại trong hoa giáp, nếu phạm Kim lâu, phải kiêng kỵ. Cách tính Hoàng ốc: Dùng 6 đốt của 2 ngón tay theo hình dưới để tính Hoàng ốc. Mỗi đốt ngón tay có tên tượng trưng như sau:

3 cung tốt là: Nhất Kiết, Nhì Nghi và Tứ Tấn Tài. 3 cung xấu là: Tam Địa Sát, Ngũ Thọ Tử và Lục Hoàng Ốc. Cách tính: Khởi 10 tuổi tại Nhất Kiết, 20 tuổi tại Nhì Nghi, 30 tuổi tại Tam Địa Sát, 40 tuổi tại Tứ Tấn Tài, 50 tuổi tại Ngũ Thọ Tử, 60 tuổi tại Lục Hoàng Ốc.

Việc xét theo bàn tay Kim lâu được tính như sau:

Dùng 9 đốt của 3 ngón tay theo hình dưới để tính:

29_291211DOOLThangTT015

5 cung Khảm, Ly, Chấn, Đoài và Trung cung được xây nhà. 4 cung Khôn, Càn, Cấn, Tốn kiêng kỵ không xây nhà.

Cách tính: Khởi 10 tuổi tại cung Khôn. 20 tuổi tại cung Đoài. 30 tuổi tại cung Càn. 40 tuổi tại cung Khảm. 50 tuổi tại Trung cung. 60 tuổi tại cung Cấn. 70 tuổi tại cung Chấn. 80 tuổi tại cung Tốn. 90 tuổi tại cung Ly. Ví dụ, người 28 tuổi âm lịch làm nhà. 20 tuổi bắt đầu từ cung Đoài, 21 tuổi tại cung Càn, 22 tuổi tại cung Khảm, 23 tuổi tại cung Cấn, 24 tuổi tại cung Chấn, 25 tuổi tại cung Tốn, 26 tuổi tại cung Ly, 27 tuổi tại cung Khôn, 28 tuổi tại cung Đoài. Như vậy, người này làm nhà vào năm 28 tuổi âm, thì được.

Trường hợp đặc biệt, nếu người chồng của gia đình đó đã mất thì lấy tuổi của con trai để tính việc xây nhà. Nếu gia đình đó không có con trai thì lấy tuổi của người đàn bà tính Hoàng ốc và Kim lâu cũng như trên để xây nhà.

Cách hóa giải vận hạn

Các chuyên gia cho biết, theo tài liệu cổ và kinh nghiệm dân gian nếu gặp những năm “tứ kim lâu”, “lục hoàng ốc” hoặc “tam tai” thì không nhất thiết không xây dựng hoặc cưới gả. Theo cách “có đóng, có mở” rất linh hoạt và giải toả tâm lý cho gia chủ có thể hoá giải như sau:

Nếu gặp năm Tứ kim lâu hoặc Tam tai thì gia chủ có thể “mượn tuổi” nghĩa là nhờ một người khác (thường là người thân) có tuổi không phạm phải Tứ kim lâu và Tam tai đứng ra thay để thực hiện công việc (cúng bái, động thổ, trông coi việc xây cất…). Nếu gặp năm Hoàng ốc thì sau khi xây cất xong, gia chủ trước khi đến ở (nhập) cho người khác (thường là người thân, không chạm Hoàng ốc) đến ở một thời gian, sau đó mới dọn đến ở chính thức. Việc cưới xin nếu gặp Kim lâu thì “xin dâu hai lần” để hoá giải việc “đứt gánh giữa đường”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải kim lâu –

Phòng khách hoàn hảo hơn nhờ tranh ảnh –

Phòng khách là một trong những căn phòng tốt nhất trong nhà để treo các hình ảnh phản ánh những mục đích và tham vọng của bạn. Bất cứ vật gì có ý nghĩa riêng tư đặc biệt đều có thể có tác động mạnh hơn rất nhiều so với các vật hóa giải theo phong thủ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

y truyền thống, vì thế hãy bắt đầu và sáng tạo.

trang tri tuong cho phong khach 7

Đặc biệt chú ý đến các đồ vật và hình ảnh trong ba khu vực dưới đây của căn phòng:

– Tiêu điểm thu hút sự chú ý của bạn trước tiên khi bước vào phòng

– Khu vực để thấy nhất khi bạn ngồi trên chiếc ghế thường dùng

– Cung Danh vọng (ở giữa bức tường phía sau); đây là vị trí tuyệt vời để treo hình ảnh tượng trưng cho các tham vọng.

Nếu những gì bạn nhìn thấy trong ba khu vực này không phản ánh những gì bạn muốn đạt được trong cuộc sống, hãy thay bằng vật gì đó thế hiện mong muốn của bạn. Ngoài ra, kiểm tra lại những vật có thể là biểu tượng của mọi dạng mâu thuẫn hay bất hòa. Một căn phòng tràn ngập hình ảnh vui vẻ, thân thiện sẽ hỗ trợ cuộc sống gia đình hạnh phúc, thân mật. Bất cứ vật nào không có tính kích thích đều không góp phần tạo nên không khí tích cực, nhất là trong phòng khách. Nếu không thể chuyển vật đó sang chỗ khác trong nhà, hãy cất nó vào đâu đó.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phòng khách hoàn hảo hơn nhờ tranh ảnh –

Lời chúc mừng nhân ngày nhà giáo Việt Nam dành cho thầy giáo

Lời chúc mừng nhân ngày nhà giáo Việt Nam dành cho thầy giáo. Truyền thống của Việt Nam ta là tôn sư trọng đạo. Hãy gửi lời chúc hay đến thầy của mình
Lời chúc mừng nhân ngày nhà giáo Việt Nam dành cho thầy giáo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lời chúc mừng nhân ngày nhà giáo Việt Nam dành cho thầy giáo. Truyền thống của Việt Nam ta là tôn sư trọng đạo. Để tri ân công ơn to lớn của thầy cô trong sự nghiệp ngàn năm trồng người, bạn hãy gửi đến thầy cô của mình những lời chúc hay nhất.

Đặc biệt, với những học trò cũ thì xa trường, xa thầy cô với mỗi người học sinh luôn là những kỷ niệm đẹp không thể nào quên. Chỉ có những dịp lễ, tết hay dịp đặc biệt nhân ngày Nhà giáo Việt Nam mỗi chúng ta mới lại được chở lại những kỷ niệm êm đềm ấy. Nhưng để có những lời chúc ý nghĩa nhất dành cho thầy cô giáo cũ không phải ai cũng có thể biết. Tổng hợp những lời chúc 20/11 tốt đẹp và ý nghĩa nhất dành tặng thầy giáo được đánh giá là hay nhất. Hãy tham khảo những gợi ý sau đây nhé bạn.

Lời chúc mừng nhân ngày nhà giáo Việt Nam dành cho thầy giáo

Lời chúc mừng nhân ngày nhà giáo Việt Nam dành cho thầy giáo

Dẫu đi khắp 4 phương trời, cũng không quên nổi lời thầy khắc ghi “tiên học lễ, hậu học văn”. Con không thầy con không lớn nổi thành người. Kính chúc thầy ngàn lời tốt đẹp, con mong thầy mạnh khỏe để chở thêm những chuyến đò sớm mai.

——–

Dù ngày hôm nay trò đã ở vị trí không phải là một người học sinh, nhưng trò vẫn luôn hướng về một nơi, một mái ấm gia đình thân yêu nhất và trong mỗi bài giảng của thầy dành cho học sinh, sinh viên, trò vẫn nhớ đến những người thầy của mình, nhớ về mái trường đã cho trò vững bước vào đời, với niềm tự hào, lòng biết ơn vô hạn.

Tháng 11 đầy ưu tư nhung nhớ, nhớ ký ức của một thời nhỏ dại. Nhớ thầy của những buổi đến trường, chúc cho thầy thân yêu của con mãi mạnh khỏe và thanh đạt.

Ngày 20/11 em xin được dành những lời chúc ý nghĩa nhất, những bó hoa tươi thắm nhất của mình, và tất cả những lời chúc đó, đều là dành cho thầy, em cũng như bao bạn khác được như ngày hôm nay đó là kết quả của thầy mang lại cho chúng em.

Tháng năm dầu dãi nắng mưa, con đò trí thức thầy đưa bao người. Qua sông gửi lại nụ cười, tình yêu xin tặng người thầy kính thương. Con đò mộc – mái đầu sương. Mãi theo ta khắp muôn phương vạn ngày

Dù đi khắp bốn phương trời, mãi nhớ về Người! Thầy như ánh nến soi tỏ đêm khuya. Như tấm bảng đen vẽ nên kiến thức trong mỗi học trò Dẫu mai đi bốn phương trời Những lời thầy dạy đời đời khắc ghi . 20 tháng 11 đã đến em chúc thầy sức khỏe dồi dào, hạnh phúc!

Con biết khóc trước những tấm lòng hi sinh cao cả, con biết đau trước những số phận éo le của đời người, con biết nhặt lấy chông gai trên đường để bảo vệ những người đi sau… Tất cả đều nhờ công ơn của thầy, 20/11 con xin gửi tới cô lời chúc tốt đẹp nhất.

Cứ mỗi mùa 20/11 về, những kỉ niệm về thầy cô, bè bạn, mái trường lại ùa về trong tâm trí con. Gương mặt gầy gầy, xương xương, giọng nói ấm áp và những lời dạy của thầy luôn in sâu trong trí nhớ con. Con cảm ơn thầy vì đã hết lòng dạy dỗ.

Mọi lời hay ý đẹp đều chẳng đủ để nói hết được công ơn của thầy dành cho chúng em. Dù đã khôn lớn, đã trưởng thành nhưng con luôn là cậu học trò bé nhỏ của ba trong ngôi nhà thứ hai đầy yêu thương ấy.

Một mùa 20/11 nữa lại về, xa thầy hàng trăm ki-lô-met nhưng vẫn muốn gửi đến thầy một lời chúc sức khỏe, chúc thầy luôn vui vẻ và tràn đầy nhiệt huyết để tiếp tục đưa thế hệ trẻ cập bến tương lai.

Lại một mùa 20 -11 để em có cơ hội gửi đến thầy những gì tốt đẹp nhất. Chúc thầy luôn trẻ trung vui tươi để mãi là người thầy, người chỉ đường gần gũi nhất với mọi học sinh. Chúc thầy luôn mạnh khỏe và luôn được các học sinh yêu quý. Mong thầy luôn tự hào và nhớ tới em. Ký tên: (Học sinh nguy hiểm và xuất sắc nhất của thầy).

Ơn dạy dỗ cao dường hơn núi, nghĩa Thầy như nước biển khơi, công Cha Mẹ con luôn tạc dạ, ơn Thầy con mãi ghi lòng. Nhân ngày nhà giáo Việt Nam con xin kính chúc thầy thầy mạnh khỏe, thành công trong sự nghiệp trồng người.

Thầy! thầy giống như ông em vậy, em chỉ muốn nói với thầy điều này thôi: Chúc thầy luôn luôn hạnh phúc đến tận giây phút cuối cùng của cuộc đời.Và một “1” trong 10000 điều hạnh phúc của thầy là chúng em!! những học sinh khóa cuối của thầy!

Happy smile :))

Ngày 20 đã đến, tháng 11 thân thương, kỷ niệm ngày hiến chương của các thầy giáo, em nay xin kính chúc các thầy cùng các thầy mạnh khỏe, thầyng tác tốt để dìu dắt chúng em thành con ngoan trò giỏi.

Là một đứa học trò cá biệt trong lớp, em đã làm thầy buồn thật nhiều. Đã có lần em bật khóc khi nhìn vào ánh mắt nặng trĩu của thầy. Nhân ngày nhà giáo Việt Nam em xin kính chúc thầy thật nhiều sức khỏe, thật nhiều thành thầyng. Em xin hứa sẽ không quậy phá, trốn tiết để thầy phải buồn nữa!

Em xin chúc tất cả các thầy giáo luôn mạnh khoẻ, trẻ trung, vui tính, luôn luôn giữ vững niềm tin và ngày càng nâng cao sự dũng cảm trước những đứa học trò nghịch như quỷ sứ chúng em. Happy Vietnam’s teacher day!

Nhân ngày nhà giáo Việt Nam em xin kính chúc thầy, gửi đến thầy lời chúc tốt đẹp nhất. Chúc các thầy hoàn thành nhiệm vụ cao cả của mình trong sự nghiệp trăm năm trồng người, trong công cuộc đổi mới của đất nước. Em chân thành cám ơn thầy.

Em không là học trò xuất sắc nhất của Thầy, nhưng Thầy là người mà em yêu quý nhất. Nhân ngày 20/11, kính chúc Thầy luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và gặt hái được nhiều thành công trong sự nghiệp trồng người!

20 – 11 là một ngày thật sự ý nghĩa và em thật sự cảm thấy hạnh phúc khi nhìn thấy những nụ cười rạng ngời của thầy cùng những bó hoa tươi thắm. Càng trưởng thành em lại càng thấy thấm thía những gì thầy đã chỉ dạy! Nhân ngày 20 – 11 em xin chúc thầy sức khỏe, luôn tràn đầy nồng nàn nhiệt huyết với sự nghiệp ” Trồng người” của đất nước.

Những lời chúc ý nghĩa còn quý hơn những món quà đắt tiền gửi đến thầy

Nhân ngày nhà giáo Việt Nam 20-11, với tất cả tấm chân tình mà con muốn gửi đến thầy, kính chúc  tất cả thầy luôn vui vẻ tràn ngập niềm tin trong cuộc sống, ngày nào cũng luôn gặp may mắn và thành thầyng trên con đường dạy học của mình, dìu dắt những học trò của mình thật tốt để sau này giúp đời.

Thầy là đốm lửa đã nhen nhóm lên ngọn lửa tâm hồn của chúng em. Thầy là những bậc thềm đá để chúng em bước từng bước tiến lên phía trước. Nhân ngày 20-11 con xin chúc thầy manh khỏe, công tác tốt!

Nếu hỏi: “Thành công bắt nguồn từ đâu?”

Em sẽ trả lời rằng: “Là thầy – người đã mang đến cho chúng em kiến thức, hành trang bước vào đời”.

Tháng 11 đã về, còn nhớ ngày này năm trước con được diện áo dài đi dự lễ kỷ niệm Ngày nhà giáo Việt Nam và được trông thấy nụ cười tươi giòn của thầy. Năm nay không được về nhà, con xin được gửi thật nhiều nắng gió của phương Nam, thật nhiều lời chúc mừng sức khỏe và hạnh phúc đến thầy nhân ngày 20/11!

Chúc mừng thầy nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11. Chúc các thầy luôn đủ tâm – trí – lực để ngày càng cống hiến nhiều hơn nữa cho sự nghiệp “trồng người”!

Chúc mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20-11. Ở nơi phương trời xa, em xin kính chúc thầy, thầy luôn vui khỏe, hạnh phúc, chúc cho mọi lời chúc của tất cả học trò dành cho thầy thầy đều trở thành hiện thực

Mỗi ngày qua đi, thầy lại cầm tay dìu dắt chúng em đến gần hơn với chân trời kiến thức. Nhân ngày Nhà Giáo Việt Nam 20-11, em xin kính chúc thầy luôn luôn mạnh khỏe và hạnh phúc để mang đến cho chúng em thật nhiều những bài học hay và bổ ích!

Nghề giáo bao đời nay luôn được xem là nghề cao quý nhất – nghề “trồng người”. Người thầy, dù ở đâu cũng là những người được kính trọng nhất. Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam, con xin gửi lời chúc mừng tốt đẹp nhất đến thầy!

Chúc mừng thầy nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11. Chúc thầy luôn đủ tâm, trí và lực để ngày càng cống hiến nhiều hơn nữa vì các em học sinh thân yêu.

Thầy là một biển lớn kiến thức, em lái con thuyền nhỏ, thả sức quăng lưới đánh bắt!

Xin gửi những lời chúc 20/11 hay nhất chân thành nhất từ đáy lòng đến thầy:

– Luôn giữ vững tình cảm: yêu trò, yêu nghề

– Giữ vững hơn nữa bản lĩnh nghề nghiệp: làm việc tận tâm, tận lực.

– Không ngừng trau dồi, học hỏi, nâng cao năng lực giảng dạy và sẵn sàng cách tân, đổi mới sáng tạo phương pháp giảng dạy.

Vui vẻ và hạnh phúc trong ngày này, luôn là tấm gương sáng về đức và tài trong mắt học trò và được hết thảy mọi người yêu quý!

Ở phương xa theo đại ngàn mây gió, con gởi niềm tôn kính đến thầy yêu.

Thầy ơi! Thầy đứng trên cương vị thiêng liêng đó, như một tháp chỉ đường chỉ dẫn hết lớp người này đến lớp người khác, hướng về phía trước, hướng về phía trước!

Thầy ơi! Tuổi tác đã hằn sâu những vết nhăn trên trán thầy, làm tóc mai thầy thêm sợi bạc, nhưng tấm lòng yêu thương của thầy đối với chúng em, mãi mãi không cạn kiệt.

Thầy ơi! Thầy đã dùng tình cảm cao cả nhất của nhân loại – tình yêu, để gieo hạt giống mùa xuân, gieo hạt giống ý tưởng, gieo hạt giống sức mạnh.

Xin chúc mừng thầy, thầy hãy cứ tin rằng, dù là 10 năm, 20 năm… hay bao nhiêu năm trôi qua đi chăng nữa, học trò vẫn luôn nhớ về mái trường thân yêu, nhớ những bàn tay đã dìu dắt trò những bước đi đầu tiên của cuộc sống tự lập.

Chúc thầy ngày nhà giáo Việt Nam siêu vui vẻ, siêu đẹp đẽ. Cám ơn sự quan tâm và giúp đỡ tận tình của thầy trong suốt những ngày đầu chập chững bước vào lớp. Chúng em yêu thầy nhiều nhiều lắm, siêu nhiều ạ!

Thời gian dẫu bạc mái đầu. Tim trò vẫn tạc đậm ơn thầy. Chúc mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20/11. Chúc thầy mạnh khỏe và luôn chăm lo cho thế hệ tương lai

Mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20/11. Kính chúc thầy cùng gia đình luôn mạnh khỏe và đạt nhiều thành tích xuất sắc trong sự nghiệp

Em chúc tất cả các thầy giáo luôn mạnh khỏe, trẻ trung, vui tính, luôn luôn giữ vững niềm tin và ngày càng nâng cao sự dũng cảm trước những đứa học trò nghịch như quỷ sứ bọn em. Happy Vietnam’s teacher day

Ngày 20 tháng 11 đến rồi!

Hôm nay em có vài lời tặng thầy:

Một là sẽ có ô tô

Nhà cao cửa rộng xài đô tiêu vàng

Hai là phú qúy an khang

Tăng cường sức lực sánh ngang võ tòng

Ba là vẻ đẹp xanh trong

Không bị lão hóa theo dòng thời gian

Cuối cùng là có nhiều “Fan”

Ùn ùn kéo đến tràn lan túi tiền !!!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lời chúc mừng nhân ngày nhà giáo Việt Nam dành cho thầy giáo

Cha mẹ kiểm tra lại vị trí kê giường ngủ sai phong thủy

Nếu thấy trẻ ốm đau trong suốt thời gian dài mà lại không rõ nguyên nhân, cha mẹ nên nghĩ ngay tới khả năng kê giường ngủ sai phong thủy và tiến hành kê lại.
Cha mẹ kiểm tra lại vị trí kê giường ngủ sai phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Vị trí kê giường ngủ hợp phong thủy sẽ mang tới giấc ngủ chất lượng, giúp tinh thần sảng khoái, sức khỏe dồi dào. Nó vô cùng quan trọng, nhất là với trẻ nhỏ. Nếu thấy con bạn hay ốm đau mà không rõ nguyên nhân, hãy nghĩ ngay tới khả năng kê giường sai phong thủy.



Kê giường thẳng cửa ra vào có hại như thế nào? Kỵ giường ngủ đối diện cửa phòng tắm Hướng dẫn đặt giường ngủ theo năm để tránh họa rước hên
1. Giường ngủ sát cửa sổ   Theo phong thủy phòng ngủ, kê giường ngay sát cạnh cửa sổ vừa tạo cảm giác không an toàn, lại dễ bị tiếng ồn ào bên ngoài ảnh hưởng, khiến trẻ cảm thấy sợ hãi, ngủ không ngon giấc.    Hơn nữa, ánh sáng mặt trời chiếu thẳng vào giường ngủ gây ra hiện tượng phạm quang sát. Nguồn sáng quá mạnh khiến trẻ khó tập trung, tinh thần lơ đễnh, ngày càng ốm yếu.   Vậy nên, nếu thấy trẻ ốm đau trong suốt thời gian dài mà lại không rõ nguyên nhân, cha mẹ nên nghĩ ngay tới khả năng kê giường ngủ sai phong thủy và tiến hành kê lại.  
Cha me kiem tra lai vi tri ke giuong ngu sai phong thuy hinh anh
 
2. Kê giường sát nhà bếp, nhà vệ sinh   Hiện nay, những khu chung cư cao tầng phần lớn là nhà thương mại, có cùng một kiểu thiết kế. Trước khi mua nhà, phụ huynh nên xem xét vị trí đặt phòng ngủ và giường ngủ cho con thật tỉ mỉ. Tránh tình trạng ngay phía trên hoặc phía cạnh sườn giường ngủ của con là nhà bếp, nhà vệ sinh…    Điều này là một trong những đại kị phong thủy, ảnh hưởng rất xấu tới sức khỏe của con trẻ. Xú khí từ nhà vệ sinh, mùi khó chịu trong bếp… đều là nguồn năng lượng tiêu cực, khiến sức khỏe trẻ nhỏ giảm sút, bệnh tật, ốm yếu triền miên.   Lựa chọn phong cách phòng ngủ cho trẻ Kiêng kỵ đối với phòng của trẻ em Kiêng kỵ đối với phòng ngủ của trẻ em
3. Kê giường ngay dưới xà nhà
  Đặt giường ngay dưới xà nhà là đại kị trong phong thủy. Xà nhà tạo sức ép lớn, gây ra cảm giác bí bách, ngột ngạt, người lớn cũng bị ảnh hưởng nặng nề chứ đừng nói tới trẻ nhỏ có hệ miễn dịch non nớt.   Người nằm ngủ trên giường bị xà ngang chèn ép lâu ngày cảm thấy hít thở khó khăn, thường xuyên mơ thấy ác mộng, sức khỏe giảm sút nghiêm trọng, nhất là hệ tim mạch trong cơ thể.  
Cha me kiem tra lai vi tri ke giuong ngu sai phong thuy hinh anh
 
4. Vị trí kê giường không giống nhau   Những gia đình có từ hai con trở lên thường hay kê hai hoặc ba giường trong cùng một phòng ngủ để tiện cho việc con cái sinh hoạt, nghỉ ngơi.    Cách làm này cũng không có vấn đề gì nếu như vị trí các giường đặt loạn xạ, không theo chiều hướng nhất định nào. Trong phong thủy, điều này sẽ khiến con trẻ dễ cãi nhau, mâu thuẫn, lâu dần tình cảm anh chị em ruột thịt bị rạn nứt.   Vậy nên, nếu bạn ở trong trường hợp này, nên kê giường ở phương vị giống hệt nhau, đầu giường và cuối giường cùng phía.   5. Kê giường ngay cạnh tivi, loa đài   Những sản phẩm công nghệ như tivi, loa đài… đều gây ra tiếng ồn lớn. Tiếng ồn cũng được coi là sát khí trong phong thủy.   Nếu kê giường trẻ nhỏ ngay cạnh những đồ vật này, không những trẻ khó ngủ, dễ mơ thấy ác mộng mà còn khiến thần kinh của trẻ bị suy nhược, thường xuyên ốm đau, học hành thiếu tập trung.   Ngọc Điệp   Không nên lơ là phong thủy phòng ngủ cho trẻ nhỏ
Cha mẹ nào cũng thương con, vì vậy việc quan tâm đến phong thủy phòng ngủ cho trẻ nhỏ là điều rất cần thiết, không thể bỏ qua.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cha mẹ kiểm tra lại vị trí kê giường ngủ sai phong thủy

GẶP RÙA CÓ PHẢI LÀ ĐIỀM XẤU ???

Chiêm nghiệm, đoán điềm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sáng nay, tranh thủ lướt qua mạng. Thấy ông bạn bắt được một con rùa. Ông ta lo lắng việc bắt được nó liệu có bị xui xẻo gì không? Muốn tôi xem bói cho một quẻ, tôi buộc phải vận dụng tất cả những kiến thức về loài vật này, để suy ngẫm và lý giải một phần nào thắc mắc của ông ta.

Trong giới sinh vật rùa là loài vật có tuổi thọ rất cao. Loài sinh vật chậm chạp này gần gũi với dân gian đến mức được đi vào thành ngữ: “Chậm như rùa”. Việc cậu ta nhìn thấy một chú rùa và bắt được nó không có gì là lạ. Bởi vì khu vực vùng núi có nhiều loài rùa sinh sống. Rất có thể chú rùa đó đi ngang qua đó để tìm thức ăn, nước uống… Hoặc có thể hài hước hơn là người nào đó bắt được con rùa đó từ trước nhưng làm nó sổng ra, và nó bỏ đi mất. Việc mê tín quá mức thật là không nên.

Về đặc tính của rùa, tuy là loài vật vô cùng chậm chạp, nhưng rùa có một đức tính kiên trì, bền bỉ, không ngại gian khó. Trong bài học đạo đức của trẻ nhỏ nói về chú rùa và chú thỏ cùng nhau đi học, nhưng rồi chú rùa đã đi học đúng giờ, còn chú thỏ thì trễ giờ, hay trong thơ ngụ ngôn La Phông ten đã nói về sự chiến thắng của rùa trong một lần chạy thi với thỏ. Đức tính kiên trì, bền bỉ, nhẫn nại và quyết tâm là một đức tính quan trọng và quý báu mà con người cần phải rèn luyện trong học tập và sự nghiệp. Không những thế, đức tính của rùa hiền lành và tuổi thọ rất cao.

Theo những truyền thuyết cổ và tín ngưỡng tâm linh trong dân gian thì rùa là loài vật linh thiêng nằm trong Tứ linh, Long (rồng), Ly (Kỳ lân), Quy (rùa), Phụng (phượng hoàng). Trong các ngôi đền chùa, hay trong Văn Miếu, rùa được đục chạm với hình tượng đội bia, bia này ghi chép tên tuổi và tiểu sử của những người đỗ đạt khoa bảng (Văn Miếu), hay những người có công với đất nước trong đền chùa, hoặc những lời di huấn thiêng liêng cần được truyền tụng đến nhiều đời sau.

Trong Thiên văn học và phong thủy học,  nhị thập bát tú có bốn chòm tinh diệu Thanh Long, Bạch hổ, Chu tước và Huyền vũ .  Huyền Vũ là tượng một con rùa lớn, cai quản tại phương Bắc, mang hành Thủy, có màu đen. Được hợp thành bởi các sao: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.

Theo dòng văn học dân gian Trung Hoa, xưa Cửu Thiên Huyền Nữ nương nương (Bà Nữ Oa), sau  luyện đá ngũ sắc để vá lại bầu trời thì nương nương dùng một con rùa khổng lồ để chống đỡ bầu trời, bốn chân của nó thành bốn trụ, từ đó phân ra bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc.

Vua Hạ Vũ bên Trung Hoa ngày xưa trị thủy, cứu vạn dân thoát khỏi cơn đại hồng thủy kinh hoàng trong lịch sử cổ đại, sau khi thành công đến sông Lạc, gặp một con rùa lớn trên mai có hình vẽ đặc biệt, ông chép lại, và đó cũng chính là nguồn gốc sơ khai của đạo lý, luân thường, và Kinh dịch. Khổng Tử nói rằng: Hà Đồ xuất, Lạc Thư xuất, thánh nhân chi tắc. Nghĩa là: Khi bức họa đồ xuất hiện trên sông Hoàng Hà (Bức vẽ trên mình con Long mã mà vua Phục Hy nhìn thấy) xuất hiện, bức họa đồ trên sông Lạc (trên mai một con rùa) xuất hiện, thì Thánh nhân dựa vào đó để làm nên Kinh Dịch…

Ở nước ta, sau khi chiến thắng 50 vạn quân Tần xâm lược, An Dương Vương xây thành Cổ Loa được thần Kim Quy giúp đỡ mới có thể hoàn thành công trình đó.

Vua Thái Tổ nhà Lê, khi khởi binh chống lại ách đô hộ của triều Minh, ngẫu nhiên có được thanh gươm, sức mạnh như thần thánh. Sau khi giành được độc lập và lên ngôi vua vào năm 1428, một ngày đi chơi trên hồ Hoàn Kiếm, gặp một con rùa, xin vua trả lại thanh gươm báu cho trời đất, dứt việc can qua, binh lửa, xây dựng thời đại thái bình, thịnh trị, ấm no tươi sáng. Sau sự việc này, hồ đó mới có tên là Hồ Gươm, hay Hồ Hoàn Kiếm.

                           Sự tích hoàn gươm

                                                         Sự tích hoàn gươm

Ngày nay, hồ đó vẫn còn rất nhiều những cụ rùa lớn, nghe người ta truyền khẩu nhau rằng, mỗi khi cụ rùa nổi lên mặt hồ thì đất nước thường có niềm vui, hay một sự kiện trọng đại.

Trên cơ sở, phân tích, trích dẫn những điều trên, tôi khẳng định, việc gặp rùa của ông bạn kia là ngẫu nhiên, và nó là điềm lành được báo trước. Không phải điềm xấu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: GẶP RÙA CÓ PHẢI LÀ ĐIỀM XẤU ???

Mơ thấy khớp xương: Tài chính gia tăng hay tình yêu vững vàng –

Mơ thấy khớp xương mình bị đau nhức, dự báo tài chính sẽ tăng trưởng. Mơ thấy khớp xương người khác có bệnh, dự báo tình yêu của bạn sẽ thành công và vững vàng. Nếu mơ thấy xương khớp tay, dù của bạn hay bất kỳ ai, đều cảnh báo bạn đang lãng phí thời
Mơ thấy khớp xương: Tài chính gia tăng hay tình yêu vững vàng –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy khớp xương: Tài chính gia tăng hay tình yêu vững vàng –

Nằm mơ thấy đeo nhẫn vàng có ý nghĩa gì? –

Có rất nhiều giấc mơ kỳ lạ, làm bạn lo lắng không biết liệu giấc mơ ấy có điềm báo gì không? Nằm mơ thấy nhẫn vàng có ý nghĩa gì? Đây cũng là một câu hỏi với bao lo lắng của nhiều người và chưa biết làm cách nào để giải mã giấc mơ ấy. Tuy nhiên không
Nằm mơ thấy đeo nhẫn vàng có ý nghĩa gì? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy đeo nhẫn vàng có ý nghĩa gì? –

Những loại cây tốt cho văn phòng để cải thiện phong thuỷ vượng tài

Bật mí những loại cây tốt cho văn phòng giúp cải thiện phong thủy văn phòng dưới đây sẽ giúp bạn ngày một phát đạt, công việc hanh thông. Đâu là những cây
Những loại cây tốt cho văn phòng để cải thiện phong thuỷ vượng tài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn phòng là nơi mà chúng ta tiếp xúc thường xuyên mỗi ngày nên càng chăm chút thì càng có lợi. Những loại cây vượng tài giúp cải thiện phong thủy văn phòng dưới đây sẽ giúp bạn ngày một phát đạt, công việc hanh thông.

 
Nhung loai cay tot cho van phong de cai thien phong thuy vuong tai hinh anh
 
Không gian sống nào “xài” cây cảnh ấy để hút tài vượng lộc. Với những văn phòng lớn, không gian thoáng rộng, nên trưng các loại cây vượng tài lớn như cây hạnh phúc, trầu bà, thiết mộc lan, cây phát tài, cây móng rồng, trúc phú quý, cây dừa cảnh, cây hoàng tâm diệp,…   Với những văn phòng hoặc góc làm việc nhỏ nên trưng các loại thực vật nhỏ gọn như vạn niên thanh, lan da hổ, lô hội, cây lưỡi hổ, lan điếu, hoàng kim cát, cây bạch chưởng, văn trúc, vạn tuế…   Cây tốt cho văn phòng có tác dụng chắn sát, hấp thụ năng lượng xấu, điều tiết phong thủy, còn có thể thanh lọc không khí, mang đến bình an, thịnh vượng cho chủ nhân.   Tác dụng cụ thể cho từng trường hợp như sau:  

1. Vượng Văn Xương

  Để cải thiện phong thủy văn phòng của những người làm công việc liên quan tới văn vở, chữ nghĩa, hành chính thì đẹp nhất là thúc đẩy Văn Xương tinh. Nên dưỡng các loại cây như trúc phú quý, tuyết lan, trúc vĩ, sơn trúc – có khả năng khơi thông suy nghĩ, đẩy mạnh năng lực, tập trung trí lực. Đọc thêm: Những lý do theo phong thủy khiến bạn muốn mua trúc phú quý ngay lập tức  
Nhung loai cay tot cho van phong de cai thien phong thuy vuong tai hinh anh
 

2. Cát tinh tụ tài

  Với người kinh doanh, buôn bán hoặc làm việc trong lĩnh vực tài chính, kế toán, liên quan tới tiền bạc thì nên trưng cây phong thủy vượng tài. Tiêu biểu như cây tốt cho văn phòng: Cây phát tài, trúc phú quý, cây móng rồng, tùng Bồng Lai, lan quân tử, hoa anh thảo – có tác dụng tụ tài, thúc đẩy tài lộc.  

3. Bình an, ôn hòa

  Muốn văn phòng khoáng đạt, yên bình, thanh nhã thì chủ nhân nên chọn bách hợp, lan điếu, hoa hồng, tuylip – có tác dụng tâm bình khí hòa, mang đến tốt lành.  
Nhung loai cay tot cho van phong de cai thien phong thuy vuong tai hinh anh
 

4. Khỏe mạnh, khoan khoái

  Để cầu sức khỏe, mang sinh khí đến cho phòng làm việc, hãy bày hoa hồng, hải đường, hoa trà, hoa phăng – có tác dụng nhẹ nhàng, thư giãn, tăng cường vận trình sức khỏe cho chủ nhân.  

5. Hóa sát, trừ hình

  Phòng làm việc phạm sát hoặc có hình thì bày thực vật giải trừ như ngọc kỳ lân, xương rồng, cây dây nhện – có tác dụng khắc chế ngoại sát, bảo hộ bình an.
Muốn cải thiện phong thuỷ, gia tăng tài lộc và thăng tiến, đừng quên những loại cây tốt cho văn phòng trên đây nhé!
Những tác dụng bất ngờ của cây phát tài Nằm lòng kiến thức phong thủy về trồng cây trước nhà
Thái Vân
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những loại cây tốt cho văn phòng để cải thiện phong thuỷ vượng tài

Chọn ví tiền hợp phong thủy - cách cải thiện tài vận nhanh nhất

Ví tiền hợp phong thủy là đại biểu cho vượng tài, vượng vận, nhất định phải chú ý. Nếu muốn vận trình tài lộc của mình hanh thông, hãy lưu ý một số điểm.
Chọn ví tiền hợp phong thủy - cách cải thiện tài vận nhanh nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ví tiền hợp phong thủy là đại biểu cho vượng tài, vượng vận, nhất định phải chú ý. Nếu muốn vận trình tài lộc của mình hanh thông hơn, hãy lưu ý một số điểm nho nhỏ dưới đây khi chọn ví tiền.


Chon vi tien hop phong thuy - cach cai thien tai van nhanh nhat hinh anh
 

1. Màu sắc


Ví tiền hợp phong thủy thì không thể quên việc chọn màu sắc hợp với ngũ hành bản mệnh. Ngoài ra, mỗi màu lại có ý nghĩa phong thủy riêng.   Màu đen thuộc ngũ hành Thủy, đại biểu cho sự thận trọng, có thể trợ giúp giữ tiền cũng có thể tụ tài, không để tài vụ thất thoát.   Màu đỏ thuộc ngũ hành Hỏa, có ý nghĩa thâm hụt của cải, không thích hợp để chọn làm màu sắc ví tiền. Dùng ví màu đỏ, chủ nhân sẽ nhanh chóng đem tiền tiêu hết, không những không tụ tài mà còn tán tài.    Màu trắng thuộc ngũ hành Kim, mang ý nghĩa sạch sẽ, tiền tài trống không, không thích hợp dùng làm ví tiền.   Màu vàng thuộc ngũ hành Thủy, chon ví tiền màu này có tác dụng chiêu tài, nhưng lực tụ tài không mạnh mẽ lắm.   Màu hồng đào thuộc ngũ hành Thủy, rất có lợi cho việc vượng khí, vượng đào hoa, thích hợp với những người muốn khai vận nhân duyên.   Màu xanh lam thuộc ngũ hành Thủy, không thích hợp để chọn làm màu sắc ví tiền, ngụ ý tiền tài như nước trôi đi. 

Khi chọn màu sắc ví cũng cần căn cứ theo mệnh, chẳng hạn mệnh Thổ hợp màu gì, mệnh Mộc hợp màu gì,..

Chon vi tien hop phong thuy - cach cai thien tai van nhanh nhat hinh anh
 

2. Hình thức 

  Ví tiền hợp phong thủy nhất là loại có hình thức đóng gập. Loại ví có khóa, dây kéo thì không nên dùng để đựng tiền, mang ý nghĩa lậu tài, tiền bạc rơi rớt. Trừ khi là lãnh đạo, ông chủ hoặc nhân viên ngành tài chính thì có thể dùng loại ví đó cũng được, ý chỉ mang đến tiền bạc cho những người khác.  

3. Hình dáng

  Thông thường, ví tiền hình chữ nhật là tốt nhất, ví hình tròn hoặc hình thù kì lạ đều không nên dùng. Càng đơn giản lại càng hiệu quả, càng cầu kì thì càng mang họa.  

4. Thời gian

  Một chiếc ví chất lượng tốt có thể dùng trong thời gian dài, nhưng về mặt phong thủy thì chỉ nên sử dụng trong 3 năm. Sau 3 năm thì vận may của chiếc ví đã hết, cho dù vẫn còn tốt cũng không nên dùng nữa, đổi ví tiền hợp phong thủy mới để sang vận, khai tài, có như vậy tài nguyện mới rộng rãi, cuồn cuộn tiến vào.   Ví tiền của bạn có thể hút tài lộc hay không? Mơ đi shopping, cẩn thận ví tiền Màu ví tiền ảnh hưởng cực lớn tới độ giàu nghèo của bạn Trình Trình  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn ví tiền hợp phong thủy - cách cải thiện tài vận nhanh nhất

Người tuổi nào luôn 'gặp dữ hóa lành'?

Ý chí kiên định của người tuổi Dần, số phú quý của người tuổi Hợi luôn giúp họ gặp hung hóa cát .
Người tuổi nào luôn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Dần

Ý chí kiên định và lòng dũng cảm của người tuổi Dần giúp họ thuận lợi vượt qua mọi khó khăn. Người tuổi Dần bộc trực, thẳng thắn lại khôn khéo, biết nắm bắt cơ hội để có được thành công trong sự nghiệp và tình yêu.

Dan-4690-1411631568.jpg

Những ưu điểm vượt trội trong tính cách của người tuổi Dần giúp họ "biến hung thành cát", thay đổi cục diện theo cách có lợi nhất cho bản thân.

Tuổi Hợi

Người tuổi Hợi số phú quý thiên bẩm, khi sinh ra đã không phải lo nghĩ chuyện tiền bạc. Hơn thế, họ giữ được thái độ điềm tĩnh và sáng suốt trong mọi tình huống, dù cấp bách hay nguy hiểm.

Hoi-3312-1411631568.jpg

Bên ngoài, người tuổi Hợi luôn tỏ ra vô lo vô nghĩ và có chút lười biếng, thật ra họ suy nghĩ rất chín chắn, thường lên kế hoạch rõ ràng cho những mục tiêu đã đề ra. Khi gặp điều kiện bất lợi hay xui xẻo, họ lạc quan vượt qua mọi chuyện.

Tuổi Ngọ

Không chỉ biết vun vén cho riêng mình, người tuổi Ngọ còn hay quan tâm tới mọi người. Họ vốn tốt tính, đôn hậu và biết cảm thông. Đồng thời, người tuổi Ngọ tính cách hòa đồng, không tính toán thiệt hơn nên dễ có được cảm tình của mọi người ngay từ lần đầu tiếp xúc.

Ngo-8961-1411631568.jpg

Do đó, nếu gặp sự cố hoặc khó khăn trong công việc và chuyện tình cảm, bạn bè xung quanh sẽ chủ động "tư vấn", làm chỗ dựa tinh thần cho người tuổi Ngọ. Bởi vậy, mọi vận xui của họ sẽ biến mất nhanh chóng, nhường chỗ cho điều tốt lành.

Tuổi Mão

Người tuổi Mão năng động, phóng khoáng nên kết giao nhiều bạn và có những mối quan hệ xã giao tốt đẹp. Họ đơn giản, coi trọng tình cảm và biết quan tâm tới những người xung quanh.

Mao-7749-1411631568.jpg

Bước đường thành công của người tuổi Mão vô cùng rộng mở bởi họ làm chuyện gì cũng "gặp hung hóa cát" vì được nhiều người hỗ trợ.

Tuổi Tỵ

Hào phóng, nghĩa khí, có biệt tài ăn nói là những ưu điểm nổi bật của người tuổi Tỵ. Đặc điểm này dễ giúp họ biến thách thức thành cơ hội tốt đẹp và đạt được mục đích thuận lợi.

Ty-3066-1411631569.jpg

Dường như may mắn lúc nào cũng mỉm cười với người tuổi Tỵ. Họ có quý nhân phù trợ, người sẵn sàng đưa tay giúp đỡ khi họ gặp khó khăn về tài chính.

Mr.Bull (theo Dyxz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi nào luôn 'gặp dữ hóa lành'?

Đặt tên cho Bé sinh năm Tỵ

Khi đặt tên cho con, bạn nên được tư vấn chuyên môn để có thông tin thực sự chính xác và hữu ích giúp cho cha mẹ chọn tên hay và hợp cho bé.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo quan niệm dân gian, có một số cái tên đem vận số xui xẻo cho bé tuổi Tỵ. Khi đặt tên cho con tuổi Tỵ, các bậc cha mẹ nên chọn tên cho con nằm trong các bộ Thủ tốt và tránh đặt tên cho con nằm trong các bộ Thủ xung khắc với từng tuổi và nên được tư vấn chuyên môn để có thông tin thực sự chính xác và hữu ích giúp cho cha mẹ chọn tên hay và hợp cho bé.

ten-con-tuoi-ran

Tên kiêng kỵ

Theo can chi thì Tỵ và Hợi là đối xung, Tỵ và Dần là tương khắc nên cần kỵ những chữ có liên quan tới những chữ Hợi và Dần trong tên gọi của người tuổi Tỵ. Ví dụ như: Tượng, Hào, Dự, Gia, Nghị, Duyên, Xứ, Hiệu, Lương, Sơn, Cương…

Rắn thường sống ở các hang động âm u và hoạt động về đêm nên rất sợ ánh sáng mặt trời. Do vậy, cần tránh những chữ thuộc bộ Nhật khi đặt tên cho người tuổi Tỵ. Những tên cần tránh gồm: Tinh, Đán, Tảo, Minh, Tình, Huy, Trí, Thời, Hiểu, Thần, Diệu, Yến, Tấn, Nhật…

Theo thành ngữ “Đánh rắn động cỏ”, nếu dùng những chữ thuộc bộ Thảo để đặt tên cho người tuổi Tỵ thì vận mệnh của người đó không suôn sẻ. Vì vậy, bạn cần tránh những tên như: Ngải, Chi, Giới, Hoa, Linh, Phương, Anh, Nha, Thảo, Liên, Diệp, Mậu, Bình, Hà, Cúc, Hóa, Dung, Lệ, Vi, Huân…

Theo địa chi thì Tỵ thuộc Hỏa, Tý thuộc Thủy, Thủy - Hỏa tương khắc. Vì thế, tên của người tuổi Tỵ cần tránh những chữ thuộc bộ Thủy như: Thủy, Cầu, Trị, Giang, Quyết, Pháp, Tuyền, Thái, Tường, Châu, Hải, Hạo, Thanh, Hiếu, Tôn, Quý, Mạnh, Tồn…

Rắn bị xem là biểu tượng của sự tà ác và thường bị đuổi đánh nên rắn không thích gặp người. Do đó, bạn không nên dùng chữ thuộc bộ Nhân như: Nhân, Lệnh, Đại, Nhậm, Trọng, Thân, Hậu, Tự, Tín, Nghi, Luận, Truyền…để đặt tên cho người tuổi Tỵ.

Ngoài ra, bạn cần biết rắn là loài động vật ăn thịt, không thích những loại ngũ cốc như Mễ, Đậu, Hòa. Vì vậy, bạn nên tránh những tên thuộc các bộ này, như: Tú, Thu, Bỉnh, Khoa, Trình, Tích, Mục, Lê, Thụ, Đậu, Phấn, Mạch, Lương…

Tên đem lại may mắn

Người tuổi Tỵ là người cầm tinh con rắn, sinh vào các năm 1953, 1965, 1977, 1989, 2001, 2013, 2025…

Dựa theo tập tính của loài rắn, mối quan hệ sinh - khắc của 12 con giáp (tương sinh, tam hợp, tam hội…) và nghĩa của chữ trong các bộ chữ, chúng ta có thể tìm ra các tên gọi mang lại may mắn cho người tuổi Tỵ.

Rắn thích ẩn náu trong hang, trên đồng ruộng hoặc ở trên cây và thường hoạt động về đêm. Vì vậy, có thể dùng các chữ thuộc các bộ Khẩu, Miên, Mịch, Mộc, Điền để đặt tên cho người tuổi Tỵ.

Những chữ đó gồm: Khả, Tư, Danh, Dung, Đồng, Trình, Đường, Định, Hựu, Cung, Quan, An, Nghĩa, Bảo, Phú, Mộc, Bản, Kiệt, Tài, Lâm, Tùng, Sâm, Nghiệp, Thụ, Vinh, Túc, Phong, Kiều, Bản, Hạnh, Thân, Điện, Giới, Lưu, Phan, Đương, Đơn, Huệ…

Rắn được tô điểm thì có thể chuyển hóa và được thăng cách thành rồng. Nếu tên của người tuổi Tỵ có chứa những chữ thuộc bộ Sam, Thị, Y, Thái, Cân - chỉ sự tô điểm - thì vận thế của người đó sẽ thăng tiến một cách thuận lợi và cao hơn.

Bạn có thể chọn các tên như: Hình, Ngạn, Thái, Chương, Ảnh, Ước, Tố, Luân, Duyên, Thống, Biểu, Sơ, Sam, Thường, Thị, Phúc, Lộc, Trinh, Kì, Thái, Thích, Chúc, Duy…

Tỵ, Dậu, Sửu là tam hợp. Vì vậy, những tên chứa các chữ Dậu, Sửu rất hợp cho người tuổi Tỵ. Ví dụ như: Kim, Phượng, Dậu, Bằng, Phi, Ngọ, Sinh, Mục, Tường, Hàn, Đoài, Quyên, Oanh, Loan…

Tỵ, Ngọ, Mùi là tam hội. Nếu tên của người tuổi Tỵ có các chữ thuộc bộ Mã, Dương thì thời vận của người đó sẽ được trợ giúp đắc lực từ 2 con giáp đó. Theo đó, các tên có thể dùng như: Mã, Đằng, Khiên, Ly, Nghĩa, Khương, Lệ, Nam, Hứa…

Rắn là loài động vật thích ăn thịt. Vì vậy, bạn cũng có thể chọn những chữ thuộc bộ Tâm, Nhục - có liên quan đến thịt - để đặt tên cho người tuổi Tỵ. Các tên đó gồm: Tất, Chí, Cung, Hằng, Tình, Hoài, Tuệ, Dục, Hồ, Cao, Hào, Duyệt, Ân, Tính, Niệm…

Rắn còn được gọi là “tiểu long” (rồng nhỏ). Do vậy, những chữ thuộc bộ Tiểu, Thiểu, Thần, Sĩ, Tịch… cũng phù hợp với người tuổi Tỵ. Những tên bạn nên dùng gồm: Tiểu, Thiếu, Thượng, Sĩ, Tráng, Thọ, Hiền, Đa, Dạ…

Để đặt tên cho con tuổi Tỵ, bạn có thể tham khảo thêm các thông tin về Bản mệnh, Tam hợp hoặc nếu kỹ lưỡng có thể xem Tứ Trụ, (nếu bé đã ra đời mới đặt tên) và nên được tư vấn chuyên môn để thông tin thực sự chính xác và hữu ích giúp cho cha mẹ chọn tên hay cho bé.

Tam Hợp

Tam Hợp được tính theo tuổi, do tuổi Tỵ nằm trong Tam hợp Tỵ - Dậu – Sửu nên những cái tên nằm trong bộ này đều phù hợp và có thể coi là tốt đẹp.

Bản Mệnh

Bản Mệnh thể hiện tuổi của con thuộc Mệnh nào và dựa vào Ngũ Hành tương sinh tương khắc để đặt tên phù hợp. Tốt nhất là nên chọn hành tương sinh hoặc tương vượng với Bản mệnh.

Tứ Trụ

Dựa vào ngày, giờ, tháng, năm sinh của bé để quy thành Ngũ Hành, nếu bé thiếu hành gì có thể chọn tên hành đó, để bổ sung hành đã bị thiếu trong tứ trụ, để cho vận số của em bé được tốt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên cho Bé sinh năm Tỵ

Nằm mơ thấy em bé điềm báo gì ? –

Con nít, em bé là đại diện cho sự ngây thơ, hồn nhiên. Tuy nhiên, trong giấc ngủ bạn lại mơ thấy chúng. Đó phải chăng là điềm gì? Bài viết nằm mơ thấy trẻ em bé điềm báo gì? sẽ giúp giải mã giấc mơ mà bạn đã gặp. Nằm mơ thấy em bé điềm báo gì? Nằm mơ
Nằm mơ thấy em bé điềm báo gì ? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy em bé điềm báo gì ? –

Tài vận gia chủ bị ảnh hưởng vì 6 sai lầm phong thủy

Phong thủy nhà ở ảnh hưởng rất lớn đến tài vận. Vì vậy, cần tránh những sai lầm sau để rước tài vận về nhà.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Theo phong thủy, gương treo trong nhà quá lớn sẽ dễ gây tà, đặc biệt, nếu vợ chồng bạn thường xuyên soi gương thì càng dễ hao tài vận của cả 2 vợ chồng. Vì thường xuyên soi gương, hai vợ chồng bạn sẽ có thói quen mua sắm thường xuyên những đồ vật có giá trị trưng diện, chi tiêu của gia đình vì thế sẽ vượt quá thu nhập, lâu dần sẽ làm cho kinh tế của bạn càng khó khăn đi.

2. Khung cửa bị cong vênh hoặc nứt cũng sẽ ảnh hưởng đến phong thủy tài vận. Thần tài sẽ không thể đến cửa, công việc làm ăn của hai bạn sẽ gặp khó khăn nếu bạn không nhanh chóng sửa chữa khung cửa bị hỏng.

3. Có một số người do tiếc của nên vẫn giữ lại bếp nấu hoặc nồi cơm bị vỡ để dùng. Nhưng đứng về góc độ phong thủy thì việc này sẽ gây tổn hại cho bạn, bếp nấu hỏng hóc, thần tài cũng sẽ rời xa ngôi nhà của bạn.

4. Có nhiều gia đình vì muốn tiết kiệm không gian nên sẽ kê giường vào vị trí 3 mặt sát tường. Cảm giác gò bó khi nằm trên cái giường kiểu này khiến người ngủ như bị cầm tù. Trong phong thủy, giường ngủ đại diện cho vị trí tối của tài vị, nếu tài vị bị gò bó thì đương nhiên tài vận không thể đến với vợ chồng bạn rồi.

5. Có một số gia đình vì thẩm mỹ nên trang trí trực tiếp gạch men trong phòng ngủ trong khi loại gạch này thường chỉ dùng trong nhà vệ sinh hoặc phòng bếp. Các nhà phong thủy cho biết, cách trang trí này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến bạn. Bạch men rất dễ bong rơi, việc tài vận của bạn sẽ tiêu tán theo đó.

6. Nhiều người thích xây nhà trên mặt ao, hồ vì kiểu thiết kế này sẽ rất đẹp, lại thơ mộng nhưng nếu theo phong thủy, nếu nhà ở vào nơi có nước chảy qua sẽ khiến tài vận tiêu tán theo dòng nước.

(Theo Kiến thức)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tài vận gia chủ bị ảnh hưởng vì 6 sai lầm phong thủy

Lời chúc 8/3 hay và ý nghĩa nhất

Gửi lời chúc 8/3 tới một nửa thế giới nhân ngày Quốc tế phụ nữ 8-3 với lời cảm ơn, lòng chân thành, tình yêu thương sâu sắc tới đóng góp của chị em phụ nữ
Lời chúc 8/3 hay và ý nghĩa nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Gửi lời chúc 8/3 tới một nửa thế giới nhân ngày Quốc tế Phụ nữ. Chúc ngày 8-3 mang tới niềm vui, niềm hạnh phúc tràn đầy với lòng yêu thương của phái mạng đối với phái yếu. Dù đàn ông ở sao Hỏa, đàn bà ở sao Kim thì trong ngày 8 tháng 3 này cánh mày râu sẽ làm những việc chưa từng làm, đảm nhiệm những việc ít khi đảm nhiệm hòng mang tới cho cánh bên kia một ngày 8/3 ý nghĩa nhất.

Hãy gửi lời chúc tới tất cả chị em phụ nữ, bà, mẹ, vợ, người yêu, chị gái, em gái, bạn gái hay các đồng nghiệp nữ những lời chúc 8-3 hay nhất, những lời chúc 8-3 ý nghĩa nhất, cầu mong sức khỏe, niềm vui, niềm hạnh phúc đến với họ.

Lời chúc 8/3 hay nhất và ý nghĩa nhất tới bà, mẹ, vợ, người yêu, chị gái, em gái, bạn gái, đồng nghiệp nữ

Cả năm mới có tháng này.
Tháng này lại có 1 ngày của girl.
Ngày này phái mạnh bị đơ.
Bao nhiêu yêu sách bơ phờ…nàng đưa.
Từng nào boy cũng dạ thưa.
Nhạc nào cũng nhảy cho girl tít cười.
Hôm nay mùng 8 đến rồi.
Chúc cho phái yếu rạng ngời sắc xuân.
Happy women’s day!

—–

Hôm nay phụ nữ lên ngôi.
Anh em thấy vậy rã rời tay chân.
Ngày xưa các cụ tòng phu.
Bây giờ phu phụ tung mù bằng nhau.
Mong ngày mùng 8 qua mau,
Để cho con gái lại mau việc nhà.
Chúc mừng ngày Quốc tế phụ nữ!

—–

Hôm nay mùng 8/3.
Điện hoa tấp nập bay ra bay vào.
Chị em phấn khởi dạt dào.
Cùng nhau ra phố lao xao vịt bầy.
Hôm nay mùng 8 là ngày.
Chị em phụ nữ no say tiệc tùng.
Hôm nay được phép nổi khùng.
Chị em lớn tiếng lung tung…cấm cười!
Happy women’s day!

Mồng 8 tháng 3.
Bao la quà cáp.
Điện hoa từ Pháp.
Đáp tới Việt Nam.
Hộp quà từ Cam (Camphuchia).
Bay ngang bên Thái.
Rồi về Sing mới.
Chuyển tới Malai.
Gom quà khắp nơi.
Bơi qua biển lớn.
Rồi về tới bến.
Chuyển tới chị em.
Phụ nữ Việt Nam.
Rạng ngời, tươi tắn!
Happy women’s day!

Mùng 8 tháng 3
Chúc chị em ta
Tay ôm nhiều hoa
Giỏ đựng đầy quà
Khỏi lo việc nhà
Được đi chơi xa
Ăn uống thả ga
Tiền không phải trả
Nói năng rôm rả
Cười tươi như hoa
Mùng 8 tháng 3
Chúc chị em ta
Áo quần thướt tha
Da phấn, mặt hoa
Đẹp như bức họa
Mở điện thoại ra
Ngập lời tụng ca…
Tối đến về nhà
Được chồng mát-xa
Thật là Ô… lá… la

Mồng 8 tháng 3 là ngày mà phụ nữ cảm thấy mình là phụ nữ, còn đàn ông cảm thấy mình là đàn ông. Tôi đề nghị nâng cốc chúc cho những ngày còn lại trong năm để phụ nữ luôn cảm thấy mình được yêu mến và quí trọng, còn đàn ông luôn yêu thương và che chở cho phụ nữ!

Ngày 8-3 chúc một nửa Thế Giới luôn thành công trong cuộc sống! Chúc bạn luôn duyên dáng và xinh đẹp trong mắt một nửa thế giới còn lại.

Nhân ngày 8/3, chúc các bạn nữ ngày một xinh đẹp, ngày càng có nhiều chàng trai theo đuổi như lửa bám xăng, như răng bám lợi, như trời bám mây, như cây bám đất, như bít tất bám … bàn chân.

Chúc bạn luôn cười tuơi, cười duyên, cười e thẹn, cười trẻ trung và…cười hoài hoài trong ngày hôm nay.

Đàn ông thường nói phụ nữ ngu ngốc. Vâng, họ thường ngu ngốc trong sự đần độn của chúng ta. Nhân ngày Quốc tế phụ nữ. Phái mạnh chúng ta hãy làm những việc có ích thông minh để phái yếu được sáng suốt và khôn ngoan như những gì Thượng đế đã ban cho họ. HAPPY WOMEN DAY!

Nụ cười của người phụ nữ có sức mạnh cứu rỗi thế giới thoát khỏi bất kỳ thảm họa khổ đau nào. Vì vậy, chúng ta hãy cùng chúc cho những đóa hồng sự xinh đẹp, niềm vui và tràn đầy hạnh phúc để thế giới luôn rực rỡ bạn nhé. HAPPY WOMEN’S DAY!

Tôi đã từng đi qua rất nhiều cánh đồng hoa lá, nhưng chẳng nơi đâu có sự lan tỏa hương sắc như khi đứng cạnh người phụ nữ. Nhân ngày Quốc tế phụ nữ, chúc phái đẹp luôn xinh xắn, dịu dàng và tinh khiết như nắng mai! HAPPY 8-3!

Bất cứ người phụ nữ nào được có mặt ở trên đời này cũng đều mang lại hạnh phúc, niềm vui cho người đàn ông của họ. Nhân ngày Quốc tế phụ nữ, phái mạnh chúng ta hãy cùng gửi lời tri ân tới tấm chân tình và sự hy sinh cao cả mà người phụ nữ đã dành cho chúng ta và chúc cho một nửa thế giới luôn xinh tươi, viên mãn!

Nhân ngày Quốc tế phụ nữ, xin gửi tới các bà, các mẹ, các cô, các dì, các chị, các em lời chúc mạnh khỏe, hạnh phúc, xinh đẹp và thật nhiều niềm vui trong ngày ý nghĩa này! Happy women day!

Trái đất ngày càng phải hứng chịu nhiều nối đau đớn từ chiến tranh, núi lửa, thiên thạch, vũ khí hạt nhân, ô nhiễm môi trường, băng tan, sóng thần… bão lũ. Nhưng tất cả chẳng thấm tháp gì so với nỗi đau của những người phụ nữ – nạn nhân của sự phân xâm hại tình dục, bất bình đẳng giới, phân biệt chủng tộc, bạo lực gia đình. Nhân ngày Quốc tế phụ nữ, chúng ta hãy nố lực hết mình cho quyền lợi của phụ nữ. Cầu chúc cho phái đẹp không còn bất cứ nỗi đau đớn về thể xác và tan nát trong tâm hồn thêm một lần nào nữa!

Bạn có thể đi được bao xa trên đường đời nếu phía sau bạn không có bàn tay của một người phụ nữ? Thượng đế đã tạo ra phụ nữ và mặc định rằng họ là động lực cho tất cả mọi sự thành công của đàn ông. Nhân ngày Quốc tế phụ nữ, chúng ta hãy cùng tôn vinh phái đẹp, những đấng giàu đức hy sinh và là ngọn nguồn của sự sống!

Phụ nữ nhẹ nhàng và khó nắm bắt như những cánh bồ công anh. Tôi yêu họ ngay cả khi họ dữ dội như những vòng xoáy trong lốc bão. Nhân ngày Quốc tế phụ nữ, xin gửi tới 1 nửa thế giới những đóa hồng dịu hương và một bầu trời tỏa nắng! Tôi yêu phụ nữ!

Nguồn cội của đàn ông chính là đàn bà và ngược lại. Nhân ngày 8-3, trân trọng gửi lời chúc tốt đẹp nhất đến một nửa còn lại của thế giới. Chúc nguồn cội của những người đàn ông luôn hạnh phúc và rực rỡ như cánh đồng mùa xuân!

Những bông hoa rực rỡ rồi cũng sẽ tàn, chỉ có vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ là tỏa sáng mãi mãi. Nhân ngày Quốc tế phụ nữ, xin gửi lời chúc mừng nồng nhiệt nhất đến tất cả các chị em trên toàn thế giới. Chúc các nàng Eva luôn xinh đẹp trong nhan sắc và sâu sắc trong tâm hồn. Cảm ơn các bạn đã làm thế giới này được nở hoa! Thân thương!

Hết đêm trăng sẽ tàn, hết ngày nắng sẽ tắt nhưng nụ cười của bạn thì mãi mãi ngự trị  trên môi. Chúc cô gái xinh đẹp của tôi ngày Quốc tế phụ nữ rực rỡ như hướng dương và luôn kiên cường trong cuộc sống nhé! Good luck!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lời chúc 8/3 hay và ý nghĩa nhất

Luận cát, hung của sao Thất Xích khi kết hợp trong Cửu tinh

Sao Thất Xích là sao Phá Quân, còn gọi là tặc tinh, một trong những hung tinh của Huyền Không Phi tinh, nên cẩn trọng khi lập tinh bàn chọn đất xem nhà.
Luận cát, hung của sao Thất Xích khi kết hợp trong Cửu tinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thất Xích là sao Phá Quân, còn gọi là tặc tinh, một trong những hung tinh của Huyền Không Phi tinh, nên cẩn trọng khi lập tinh bàn chọn đất xem nhà.


► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác

Luan cat, hung cua sao That Xich khi ket hop trong Cuu tinh hinh anh
 
Sao Thất Xích nếu vượng thì phát về võ quyền, đinh tài đều vượng. Nếu suy thì trong nhà xuất hiện trộm cướp hoặc có người chết trận, bị giam cầm. Gia đạo không yên, có thể vì hỏa tai mà tổn đinh hoặc xuất hiện người ham mê tửu sắc.
 
Thất Xích là hung tinh vì vậy nên tĩnh mà không nên động. Động thì điều xấu càng nhiều, nhất là nhà ở đầu phố hay ngã ba thì nguy hại càng lớn. Nếu sao Thất Xích tương ứng với hình thế Loan đầu thì sẽ có các biểu hiện như:
 
- Bên ngoài có sa hình dạng hồ lô thì trong nhà có người hành nghề y.
 
- Bên ngoài có sa hình dạng con dao thì có con làm nghề đồ tể.
 
- Bên ngoài có sa hình dạng cái kìm thì trong nhà có người làm thợ thủ công.
 
- Bên ngoài có sa hình dạng cờ trống thì trong nhà dễ có người phản nghịch.
 
- Bên ngoài có sa thủy hình dạng thập thò hoặc phình ra bên hông thì trong nhà dễ có kẻ làm trộm cướp.
 
- Bên ngoài có sa xung chiếu thẳng tới gặp Nhất Lục bay đến thì trong nhà dễ có người thổ huyết nặng.
 
Thất Xích gặp Nhất Bạch là sinh xuất. Nếu vượng thì võ chức thăng tiến, con cái đào hoa. Nếu suy thì Thủy Kim đều lạnh nên con cháu ham mê tửu sắc, tiêu phá tiền của hoặc vong ơn bội nghĩa. Gặp lúc Thái Tuế bay tới thì có điều nọ tiếng kia, hoặc bị cướp, bị bệnh ở bụng dưới, thổ huyết, thương tật, hay bị tù đày mà phá sản.
 
Sao Thất Xích gặp Nhị Hắc là sinh nhập. Nếu vượng thì tài sản ruộng vườn thêm nhiều, thăng quan tiến chức, phụ nhân sang quý. Nếu gặp được số Nhị Thất bát quái Tiên Thiên thì trong nhà luôn có đèn chiếu sáng, hưng vượng nhộn nhịp. Nếu suy thì dễ gặp hỏa hoạn, phụ nữ trong nhà bất hòa, người nhà dễ bị ngộ độc thức ăn, có bệnh về răng miệng hay kiết lị.
 
Thất Xích gặp Tam Bích khắc xuất. Nếu vượng thì làm văn thần võ tướng, quyền cao chức trọng, trong nhà xuất hiện người có tài văn thao võ lược, bốn phương kính phục, con cháu giỏi giang hơn người. Nếu suy thì đối xử thô bạo với mọi người, con cái hống hách lộng hành. Gia đạo bị xuyên tâm sát dễ gặp binh đao, trộm cướp. Trong nhà cãi cọ, kiện cáo lẫn nhau; gia đình bất hòa, con cái ly tán. Người nhà dễ mắc bệnh thổ huyết, bị thương tật hoặc quan tai.
 
Thất Xích gặp Tứ Lục khắc xuất. Nếu vượng thì phụ nhân sang cả quyền thế, quan lộc đều có, đồng thời gặp vận đào hoa. Nếu suy thì phụ nữ làm chủ nhân, gặp kiếp đào hoa nên nam nữ ham dâm, trong nhà bất hòa, mẹ chồng nàng dâu không hòa thuận. Dễ bị bệnh thổ huyết hoặc chết yểu.
 
Thất Xích gặp Ngũ Hoàng là sinh nhập. Nếu vượng thì giàu có, ruộng vườn của cải đại phát. Nếu suy thì có bệnh ở miệng, ung nhọt. Thường tranh chấp nên dễ bị kiện tụng hoặc gặp rắc rối vì đào hoa.
 
Thất Xích gặp Lục Bạch tỵ hòa. Nếu vượng thì văn võ toàn tài, quan lộc đều có. Nếu suy thì có tranh chấp ở chốn quan trường, gia đạo bất hòa, dễ bị thương tật vì đao kiếm hoặc tai nạn xe cộ. Dễ bị bệnh tật ở miệng, đau đầu, viêm nhọt.
 
Thất Xích gặp Thất Xích tỵ hòa. Nếu vượng thì của cải và quyền bính đều được quý nhân phù trợ nhưng kiếm tiền bất nghĩa. Nếu suy thì dễ gặp trộm cướp hoặc hỏa hoạn; thường hay bị tranh chấp. Trai gái vì ham mê tửu sắc nên dễ bị quan tai.
 
Thất Xích gặp Bát Bạch là sinh nhập. Nếu vượng thì thăng quan tiến chức liên tiếp, tài vận hanh thông, trở nên giàu có, gia đình hòa thuận, con cháu khỏe mạnh và phát triển thuận lợi. Nếu suy thì tiền tài tổn thất, ra đi nhanh chóng. Dễ bị tật ở miệng hoặc con nhỏ lắm bệnh tật.
 
Sao Thất Xích gặp Cửu Tử là khắc nhập. Nếu vượng thì Hỏa chiếu sảnh đường, gia đạo hưng vượng. Nếu suy thì dễ gặp hỏa hoạn. Phương vị Thất Cửu nếu có Nhất Bạch bay đến thì dể gặp hỏa tai. Nếu phương vị Thất Cửu là ở hướng mà động thì gặp hỏa hoạn. Thất Cửu ở phương vị sơn gặp Nhị Hắc thì hung sát càng nặng, dù không động cũng gây nên hỏa hoạn. Nếu Loan đầu bên ngoài có nhiều màu đỏ thì khó tránh khỏi hỏa tai.
ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận cát, hung của sao Thất Xích khi kết hợp trong Cửu tinh

Mơ thấy mình chiến đấu

Là chiến sĩ, cuộc sống gắn liền với hình ảnh chiến đấu, gian nan vất vả. Nhưng với những người không phải là chiến sĩ mà bất chợt trong giấc mơ lại nằm mơ thấy
Mơ thấy mình chiến đấu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

cảnh chiến đấu, thì đây là điềm báo những mâu thuẫn, những xung đột đang giằng xé tâm trí bạn.


► Tham khảo thêm: Giải mã giấc mơ thấy cá, mơ thấy máu

Mo thay minh chien dau hinh anh
Ảnh minh họa

Nếu trong giấc mơ, bạn thấy mình là chiến sĩ trực tiếp đối mặt với kẻ thù với bao hiểm nguy rình rập, điều này biểu thị rằng bạn đang có những xáo trộn trong tâm hồn. Ngoài ra đây cũng có thể là bạn đang có một cuộc chiến trong tâm lý, bạn đang cố gắng "chiến đấu" để tìm ra lối đi đúng đắn, phù hợp với mình nhất.
  Còn thấy những người khác đang chiến đấu kiên cường, dũng cảm trong giấc mơ thì nó ám chỉ bạn đang phải miễn cưỡng chấp nhận những rắc rối từ cuộc sống. Tuy nhiên, có thể bạn lại không phải gánh vác trách nhiệm nào về những vụ việc phức tạp này.   Trong bất kỳ cuộc chiến nào, tinh thần quả cảm dám xả thân vì nghĩa lớn cũng được tôn vinh. Tuy nhiên nếu mơ thấy điều này lại biểu thị rằng bạn không thể lý giải được những mâu thuẫn, xung đột đang giằng xé tâm trí mình. Cách tốt nhất để giải tỏa những rắc rối này là bạn hãy thay đổi quan niệm, thói quen cùng những quan điểm không phù hợp. Hãy khắc phục những nhược điểm này để vươn tới cuộc sống tốt đẹp hơn đang chờ đón bạn ở phía trước.

Theo Bí ẩn điềm chiêm bao

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy mình chiến đấu

Mách bạn cách sử dụng phong thủy hàng rào hợp lý

Phong thủy hàng rào quanh ngôi nhà không chỉ có tác dụng ngăn cách, bảo vệ mà còn ảnh hưởng tới yếu tố phong thủy xung quanh ngôi nhà.
Mách bạn cách sử dụng phong thủy hàng rào hợp lý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Hàng rào quanh ngôi nhà không chỉ có tác dụng ngăn cách, bảo vệ mà còn ảnh hưởng tới yếu tố phong thủy xung quanh ngôi nhà. Việc sử dụng tường rào sao cho đảm bảo được giá trị thẩm mĩ và phong thủy không hề đơn giản.


► Xem thêm: Những yếu tố phong thủy nhà ở ảnh hưởng đến tài vận gia đình bạn
 
1. Hàng rào làm điểm tựa vững chắc   Người xưa luận phong thủy dương trạch, chú trọng tới việc phía sau lưng tựa núi, tả hữu có cát, phía trước có án sơn, có thể tàng phong tụ khí. Trên thực tế, để đạt được đầy đủ các yếu tố này không hề đơn giản. Chính vì vậy mà phong thủy hàng rào cũng rất được coi trọng.   Hiện nay, những bức tường bao quanh khu vườn, hay còn gọi là hàng rào, là giải pháp tốt để bù đắp sự thiếu hụt các yếu tố trên. Phía tường nhà phía sau ví như chỗ dựa vững chắc, hai bên và phía trước cũng có chỗ ngăn cách.    Nếu thế đất nào đã có chỗ tựa vững chắc, làm tường vây bao quanh như gấm thêm hoa, đã tốt lại tốt hơn. Nếu bốn phía quanh nhà đều trống trải, làm hàng rào là điều tất yếu.  
Mach ban cach su dung phong thuy hang rao hop ly hinh anh
 
2. Hàng rào phía trước nhà có thể ngăn chặn sát khí   Sát khí từ phía ngoài đi vào trong ngôi nhà chủ yếu sẽ qua cửa chính. Nếu như nhà có hàng rào, tường vây phía trước, có thể ngăn chặn sát khí hoặc làm hung tính của nó giảm đi một nửa, đó chính là tác dụng của phong thủy hàng rào.   Tường vây này có thể là hàng rào bằng cây, bằng gỗ… vây xung quanh khu vườn phía trước nhà. Nhìn trông có vẻ đơn giản thế thôi, nhưng nó có tác dụng phong thủy khá hữu hiệu.
Mach ban cach su dung phong thuy hang rao hop ly hinh anh
 
3. Độ cao của hàng rào   Hàng rào không nên quá cao hoặc quá thấp. Tuy cao thì có thể ngăn cản sát khí hiệu quả, nhưng điều đó đồng nghĩa với việc nguồn sinh khí, năng lượng tốt dễ bị cản trở, khó mà lưu thông vào tận trong ngôi nhà. Nếu làm hàng rào quá thấp sẽ không có tác dụng bảo vệ.   Vì thế, khi làm hàng rào xung quanh tứ phía ngôi nhà, độ cao càng cần phải tính toán kỹ càng. Tránh tình trạng phong thủy hàng rào khí tốt không vào được mà toàn sát khí vào nhà. 
Thế nào là tường rào hợp phong thủy Những điều cấm kỵ với tường rào Phong thủy cho hàng rào (phần cuối)
4. Hình dạng khu vườn
  Phía trước ngôi nhà chính là Minh đường, lấy vuông vức, thông thoáng làm cát. Vì thế, khi làm hàng rào, cần đảm bảo phù hợp với tổng quan ngôi nhà cũng như hình dạng cả khu vườn để có được Minh đường tốt nhất.    Lưu ý, khi đã quyết định sử dụng phong thủy hàng rào thì không nên thiết kế cửa sổ trong nhà quá lớn, sẽ phạm phải “chu tước khai khẩu”, gia chủ dễ bị điều tiếng, vướng vào rắc rối thị phi. Ngoài ra, nếu tường rào bố trí trước rộng sau hẹp hoặc trước hẹp sau rộng cũng không tốt cho tiền tài.   Hoàng Lam
Hình ảnh hành lang hay hàng rào trong giấc mơ có ý nghĩa gì?
Trong giấc mơ của bạn thấy xuất hiện hình ảnh hàng rào, báo trước một trở ngại hoặc vật cản nào đó sẽ xuất hiện trên con đường bạn đi. Bạn cảm thấy bị giới

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mách bạn cách sử dụng phong thủy hàng rào hợp lý

Xem tướng mặt phải như thế nào?

Xem tướng thông qua hình tướng bên ngoài cùng giọng nói để quan sát những thứ bên trong nội tâm, xem tướng thuật này mới là thầy tướng giỏi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tướng mặt xét về đạo lý cơ bản vốn vô hình, cho nên dựa vào tướng mặt cũng không nên quá dập khuôn mà cần có sự thông biên phù hợp. Mỗi người đều có một hình tướng cụ thể, nhưng lại chịu sự chế ước vô hình của quy luật tự nhiên. Tướng thuật tuy là tuân theo một quy định nhất định nhưng nếu quá câu nệ vào đó, ngược lại sẽ chẳng thể đưa ra được kết luận đúng đắn.

xemtuongmatntn

Tướng sỹ cao minh: Nhìn người phải quan sát tâm

Thành Hòa Tử cho rằng: Hình tướng của người được sinh ra từ hình tướng của trời đất, cũng tức là nơi, người vốn là không có hình tướng, nhưng các loài chim bay thú chạy được sinh ra trong trời đất lại có các loại hình tướng, chính là dựa trên nền tảng này loài người mới có được hình tướng của riêng mình. Vậy làm sao trong các loại hình tướng có thể phân biệt được đâu là hình tướng tốt? Và làm sao có thế thay đổi để tướng mệnh trở nên tốt được?

Từ sự thể hiện ra một hình tướng cụ thể, lại không tuân theo một phép tắc cụ thể nào mà thông qua hình tướng bên ngoài cùng giọng nói để quan sát những thứ bên trong nội tâm con người, từ đó tiến hành luận đoán tốt xấu, cát hung. Như thế mới là phương pháp tốt nhất, người dựa vào cách xem tướng thuật này mới là thầy tướng giỏi.

Trong Phong giám có chép: Không chỉ dựa vào hình mạo thể hiện ra bên ngoài của con người để luận đoán tốt xấu mới là người tướng sỹ giỏi, cũng chính là nói ý này.

Trong Bí quyết chép: Chỉ dựa vào hình mạo bên ngoài của một người để luận đoán tốt xấu của người đó, giống như Tử Vũ nhìn nhầm người, hay chỉ dựa vào cách nói năng để mà đoán định tốt xấu của một người tựa như Tể Dư nhìn nhầm người. Đạo trời tuy có thể sinh ra được hình tướng nhưng ngược lại không thể nói là hình tướng lại sinh ra đạo trời. Vì thế chỉ có thể hiểu được thiên đạo mói là tiêu chuẩn để phân biệt được điềm tốt xấu trong hình tướng của con người.

Cho nên hình tướng vốn không gì có thể quyết định được, tất cả đều phải noi theo vòng thiên đạo. Chỉ khi hiểu rõ việc này mới có thể hiểu được đến cùng lẽ cao siêu trong tướng thuật.

Tướng sỹ bình thường: Đoán người chỉ nhìn vẻ ngoài

Đã định ra phép tắc làm căn cứ và tiến hành phỏng đoán nhưng lại không biết vận dụng một cách linh hoạt, như thế cách mà các nhà tướng thuật lựa chọn cũng chỉ là cách làm bình thường. Học những quy tắc đã được định ra trong tướng thuật của cổ nhân, tuân theo một cách nghiêm chỉnh những điều đó thì đó cũng chỉ là cách xem của một thầy tướng bình thường. 

Thái Xung Tử chỉ ra rằng: Học tập những quy tắc trong việc xem tướng của cổ nhân có thể lĩnh hội được bản ý ở trong đó mà quên đi những quy định cụ thể. Nếu có thể đạt đến được trình độ như thế thì chẳng phải lo lắng gì về việc đoán định sau này.

Trần Đồ Nam cho rằng: Các thuật sỹ khi xem tướng mặt, phỏng đoán hình tướng, suy đoán xương cốt, sau đó dựa vào vẻ bên ngoài để làm căn cứ mà suy đoán vận số tốt xấu của một người. Trên thực tế, tướng sĩ mà có hình tướng rất siêu việt chỉ có thể gọi họ là thần tiên hạ phàm.

Trong Bí quyết chép: Bá Nhạc vào thời Xuân thu rất giỏi xem tướng ngựa.

Tần Mục Công than rằng: Ngoài Bá Nhạc ra, chẳng còn ai biết xem tướng ngựa nữa.

Nói như thế, Bá Nhạc cũng không hài lòng. Ông ta có chỉ ra có Cửu Cao cũng hiểu về tướng ngựa, vì thế Tần Mục Công bèn lệnh cho Cửu Cao tìm con thiên lý mã trong nước.

Mấy tháng sau, Cửu Cao quả nhiên tìm được thiên lý mã, rồi có miêu tả lại hình dáng tướng mạo của nó. Nhưng khi Tần Mục Công nhìn thấy con ngựa này thì phát hiện, trên thực tế hình tướng con ngựa này với hình tướng mà Cửu Cao miêu tả là khác nhau. Vì thế, Tần Mục Công tức giận nói: Cửu Cao không hiểu gì về màu lông cũng như tính chất của ngựa, tại sao có thể phán đoán được đó là con thiên lý mã hay không?

Bá Nhạc nói: Đều là cách xem tướng ngựa của Cửu Cao, tinh hoa ở bên trong nhưng nhìn lướt qua có vẻ thô xấu, thấy được bản chất bên trong thông qua hình tướng bên ngoài, đó mới là người nắm được thiên cơ xem tướng ngựa.

Quả nhiên qua một thời gian thử nghiệm, con ngựa mà Cửu Cao tìm được đúng là con ngựa tốt.

Như vậy, đạo lý ẩn tàng trong việc xem tướng mặt và xem tướng ngựa là như nhau. Người học tập xem tướng mặt có thể lĩnh hội phương pháp của Cửu Cao để đạt đến được cảnh giới xuất thần nhập hóa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng mặt phải như thế nào?

Cách gói bánh tét ngày Tết của người miền Tây

Thời điểm này khi Tết chỉ còn tính bằng ngày, cũng là lúc từng xóm làng miệt sông nước miền Tây Nam bộ rủ nhau chuẩn bị nào nếp, lá chuối, dừa... để gói những đòn bánh tét đón năm mới.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhân bánh tét được làm nhiều loại như chuồi, dừa, mỡ, đậu xanh. Vì vậy, nguyên liệu gói bánh gồm dừa khô, nếp dẻo thơm, chuối, đậu xanh cà, mỡ, lá chuối phơi khô, dây từ cọng lá chuối để cột bánh...



Dừa được nạo để lấy thịt vắt nước cốt nấu với nếp và làm nhân bánh.


Vo nếp thật sạch rồi mang nấu với nước cốt dừa để có độ béo thơm.


Đậu cà ngâm cho mềm, đãi vỏ lại cho thật sạch, xong nấu cho thật chín, đem xào với hành, chút dầu hay mỡ, nếm gia vị muối, tiêu, bột ngọt cho vừa ăn.


Đậu xanh mặn và ngọt được vo thành nắm to để làm nhân bánh.


Mọi thứ đã chuẩn bị sẵn sàng chờ gói bánh.


Mỗi người chia nhau từng công đoạn để cho ra những đòn bánh tét thơm ngon.


Xếp lá ngang và dọc nằm xen vào nhau, xếp cho lớp lá lớn nằm giữa. Xúc nếp đổ vào giữa lá, dàn đều nếp ra theo chiều dài.


Cho nhân đậu xanh vào giữa nếp.


Phần nếp có màu xanh vì được nấu với lá dứa xoay nhuyễn, để tạo thêm sự phong phú và đẹp mắt cho món bánh tét ngày Tết. Nhân loại này có thể gồm đậu cà và mỡ.

Cách gói và nấu bánh tét


Sau khi nếp và nhân để vào lá chuối, bạn có thể gói lại thật chặt bánh và khéo léo xếp 2 đầu cho nhân và nếp không lọt ra.


Dùng những sợ dây siết thật chặt đòn bánh. Đặt đòn bánh xuống, lăn bánh cho tròn, vỗ bánh cho chắc, cột dây cách đều nhau, xiết bánh cho chặt.


Siết thật chặt đòn bánh theo hình dọc và ngang.


Dây siết bánh cũng là sản phẩm từ thân lá chuối, tướt ra thành từng sợi và phơi khô cho có độ chắc bền.


Đòn bánh sau khi được gói và cột tỉ mỉ trông rất đẹp.


Bánh được cột thành nhiều sợi màu khác nhau để phân biệt bánh ngọt, mặm, nhân chuối, nhân đậu.


Cho lá chuối dư xuống đáy nồi, xếp bánh tét đã gói xong cho vào nồi, đổ nước ngập bánh, đun lửa nấu liên tục.


Thường người dân hay dùng củi khô và to để nấu bánh.


Bánh được nấu trong khoảng 8 giờ với lửa thật to. Khi nước cạn dần, bạn có thể thêm vào cho đầy nồi bánh. Tùy theo số lượng bánh nhiều hay ít, sẽ nấu bánh lâu hay mau.


Bánh chín, vớt bánh ra cho ráo nước. Treo bánh vào nơi thoáng sẽ để được bánh trong thời gian lâu hơn.


Hương thơm và nét đặc trưng của từng loại nhân bánh quyện vào nhau, tạo nên một hương vị đặc trưng rất riêng của ngày Tết tại đồng bằng sông Cửu Long.

Trich tu: vnexpress.net
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách gói bánh tét ngày Tết của người miền Tây

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd