Các lễ hội ngày 7 tháng 2 Âm Lịch - Lễ Giỗ Tổ Nghề Kim Hoàn
1. Hội Đình Tri Yếu
Thời gian: Tổ chức từ ngày 7 đến ngày 10 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: xã Đặng Cương, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn các vị thành hoàng làng là Cao Sơn, Qúy Minh và Chàng Rồng (một võ tướng trung quân của Vua Hùng Duệ Vương).
Nội dung: Mở đầu hội đình Tri Yếu là lễ tế cáo Thần, rồi tiến hành lễ rước "bát hương Thánh" với những nghi thức trang trọng với đầy đủ bộ lễ, bát âm, chiêng trống. Ngoài các nghi lễ còn có các tiết mục biểu diễn hát chèo, cờ tướng, thi nấu bánh trưng, bánh giầy, đấu vật giành giải thưởng.
2. Lễ Giỗ Tổ Nghề Kim Hoàn
Thời gian: tổ chức từ ngày mùng 7 tới ngày mùng 9 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: hội quán Lệ Châu, 586 Trần Hưng Đạo, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn ông tổ nghề kim hoàn gồm hai nghi thức: tế Tổ trong hai ngày đầu và tế các bậc Tiền hiền, hậu hiền trong ngày cuối.
Trong thời gian lễ giỗ, những người thợ kim hoàn ở thành phố Hồ Chí Minh và các nơi từ khắp các vùng thuộc nam bộ về dâng hương lễ tổ, trao đổi những kinh nghiệm cũng như hỗ trợ nhau phát huy nghề của tổ sư. Những người thợ không về dự được thì có thể tổ chức cúng tổ tại nhà nhưng phải chọn ngày cúng sau những ngày lễ ở hội quán ở Lệ Châu.
Bố cục căn nhà toạ Ngọ hướng Tý và toạ Đinh hướng Quý: Tài vận rất tốt, cửa chính nằm tại vị trí tiểu thần tài (cũng là vị trí tài tiểu thái cực). Hơn nữa đại thái cực của cửa chính là cát tinh Nhất Bạch, Lục Bạch. Tài vận: Vị trí tài vận của toà
Bố cục căn nhà toạ Ngọ hướng Tý và toạ Đinh hướng Quý: Tài vận rất tốt, cửa chính nằm tại vị trí tiểu thần tài (cũng là vị trí tài tiểu thái cực). Hơn nữa đại thái cực của cửa chính là cát tinh Nhất Bạch, Lục Bạch.
Tài vận: Vị trí tài vận của toàn căn nhà ở phía Bắc, mà tiểu tài vị lại nằm ở phía Bắc phòng khách. Vì thế, cửa sổ phía Bắc phòng khách là vị trí đại tài vị và tiểu tài vị giao thoa tác động mạnh đến sự ảnh hưởng của tài vận. Tại đây nên đặt bánh xe phong thuỷ và chậu cây cảnh để thúc đẩy thăng tiến tài vận.
Sức khỏe nhân đinh: Đặt bếp lò nấu nướng ở hướng Nam của nhà bếp sẽ hỗ trợ thêm gia đinh và sức khoẻ.
Vòng tay là một vật trang sức khá quen thuộc với nữ giới, đó không chỉ là một vật trang trí mà thông qua vòng tay còn thể hiện cá tính đặc sắc của chủ nhân. Tuy nhiên, chúng ta thường coi vòng tay là vật trang trí thông thường và luôn đeo tùy tiện miễn hợp mắt mình, nhưng không biết rằng việc chọn đeo vòng tay bên nào cũng ảnh hưởng rất nhiề đến vận mệnh của mình. Một số lời khuyên từ các nhà phong thủy trong việc đeo vòng tay sẽ giúp bạn cải thiện vận số tốt hơn. Bạn nên đeo vòng vào tay trái trong những trường hợp sau để gặp may mắn, thuận lợi (ảnh: Internet) 1. Đeo vòng vào tay trái để được may mắn khi đi đến những điểm như phòng thi, trung tâm xổ số, các buổi rút thăm trúng thưởng... sẽ khiến vận may được sinh sôi dồi dào. 2. Trong những buổi họp, hội thảo quan trọng mà cần nắm phần thắng thì cũng nên đeo vòng vào tay trái để tăng sức mạnh nội lực,tỏa ra nguồn năng lượng vô tận khiến công việc suôn sẻ hơn. 3. Khi cần giao dịch các vấn đề liên quan đến tiền bạc như vào ngân hàng, công ty chứng khoán... đeo vòng tay trái sẽ khiến đường tài lộc thông hanh, vận tiền tài trôi chảy. 4. Khi thăm viếng người cao tuổi, gia đình sếp của bạn, các giáo viên, thầy cô cũ, học giả hay người quan trọng cũng nên đeo vòng vào tay trái để ăn nói được suôn sẻ, tránh gây mất lòng. 5. Nên đeo vòng vào tay trái khi tham dự các buổi lễ quan trọng, khi thăm viếng nơi linh thiêng, lễ khánh thành, khai trương... Bạn nên đeo vòng vào tay phải đối với những trường hợp sau (ảnh: Internet) 1. Đi đến những nơi âm thịnh dương suy như đám tang, viếng mộ, bệnh viện, những ngôi nhà hoang cũ hoặc rừng rậm thâm sâu 2. Đeo vòng vào tay phải khi phải đi ngang những nơi có giết chóc như lò mổ, tòa án, bệnh viện, đoạn đường nhiều tai nạn giao thông 3. Những nơi có mùi ô uế như nhà tù, bãi rác, nhà vệ sinh công cộng và những nơi ô nhiễm, bẩn thiểu khác 4. Khi phải vào nơi có thể tiếp xúc với người nghiện hút, tù tội... Theo các chuyên gia phong thủy, đeo vòng tay đúng hướng trong từng trường hợp sẽ giúp hóa dữ thành lành, tránh vận điều xấu vào thân và gặp được nhiều may mắn hơn. Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
Bạn có biết rằng trên lòng bàn tay mỗi người ngoài các đường chỉ tay còn được phân chia thành các gò trên lòng bàn tay. Mỗi gò ở một vị trí khác nhau mà mang ý nghĩa tượng trưng cho một khía cạnh khác trong cuộc đời của bạn.
Bạn có biết rằng trên lòng bàn tay mỗi người ngoài các đường chỉ tay còn được phân chia thành các gò trên lòng bàn tay. Mỗi gò ở một vị trí khác nhau mà mang ý nghĩa tượng trưng cho một khía cạnh khác trong cuộc đời của bạn. Bài viết sau của Phong thủy số sẽ giới thiệu tới các bạn vị trí và ý nghĩa của các gò trên bàn tay:
Xem thêm:
+Xem bói đường chỉ tay giàu có trên bàn tay bạn
+ Xem những đường chỉ tay chỉ xuất hiện ở người may mắn.
+ Xem chỉ tay đường con cái để biết bạn sinh con trai hay con gái
+ Xem bói chỉ tay đoán vận mệnh, tình yêu của bạn
Các gò trên lòng bàn tay gồm có 7 gò là: gò Thủy tinh, gò thái dương, gò thái âm, gò thổ tinh, gò mộc tinh và gò hỏa tinh, gò kim tinh.
Gò Kim Tinh:
Vị trí của gò Kim tinh nằm ở dưới ngón tay cái, giữa đường sinh đạo và ngón tay cái. Gò Kim tinh biểu hiện cho sự sinh sản, và cuộc sống của mỗi người.
Nếu gò kim tinh nổi cao và đầy đặn, biểu hiển rằng người này có duyên giao tiếp.
Nếu gò kim tinh phẳng thì thường gặp khó khăn trong tiếp xúc với người khác, không có sực thu hút người đối diện.
Gò Hỏa tinh:
Gò Hỏa tinh có 2 vị trí, thứ nhất là nằm dưới đường sinh đạo gần ngón cái, phí trên của hò kim tinh.
Nếu gò này phát triển, nổi cao thì là dấu hiệu của uy quyền, ý chí và lòng can đảm, thường là người chỉ huy.
Gò Hỏa tinh thứ 2 nằm giữa đường tâm đạo và đường trí đạo ở phía đối diện với gò hỏa tinh thứ nhất. Những người này thường có sự hăng say là can đảm nếu gò này phát triển và săn chắc.
Gò Thổ Tinh:
Vị trí gò Thổ tinh nằm dưới ngón giữa, nếu nổi cao đầy đặn là biểu hiện cho sự cẩn thận, hoặc thậm chí là sự nghi ngờ khi tiếp xúc với người lạ. Những người này thích sự cô đơn và nghiêm túc trong làm việc.
Gò Thái Dương:
Vị trí của gò Thái Dương nằm ở dưới ngón áp út.
Nếu gò thái dương nổi cao thì dấu hiệu của sự vinh quang, có khả năng thẩm mỹ, thích giao tiếp.
Nếu không có gò thái dương là dấu hiệu của người ít thành công, không thích chỉ huy người khác:
Gò Thủy Tinh:
Gò thủy tinh nằm dưới ngón áp út. Là biểu thị cho sự thông minh cũng như khả năng thương mại.
Khi nghiên cứu, gò thủy tinh nổi cao và đường trí tuệ rõ ràng thì đây là dấu hiệu của người thông minh lanh lợi, có tài hùng biện, có năng khiếu thương mại.
Nếu đường trí đạo ngắn và mảnh thì người ngày thường có tính gian lận trong thương mại.
Gò Thái Âm:
Vị trí của gò Thái Âm phía dưới bàn tay đối diện với gò Kim tinh. Nếu gò này đầy đặn sẽ là người có trí tượng tượng tốt, thích sự thay đổi.
Nếu gò thái âm phẳng, thì người đó chú ý tới tiểu tiết.
Trên đây là các gò trên lòng bàn tay cơ bản mà mỗi người đều có. khi xem bói chỉ tay, các thầy tướng số còn để ý đến các gò bởi giữa ác gò và đường chỉ tay có mỗi quan hệ mật thiết với nhau.
Xem tuổi hợp khắc, xung khắc để lấy vợ, lấy chồng hay xem tuổi hợp khắc để làm ăn là điều rất quan trọng quyết định đến sự thành hay bại, hạnh phúc hay chia ly mà nhiều người chưa biết khi xem tuổi hợp nhau hay không ?. Xem tuổi hợp nhau khi nam nữ k
Xem tuổi hợp khắc, xung khắc để lấy vợ, lấy chồng hay xem tuổi hợp khắc để làm ăn là điều rất quan trọng quyết định đến sự thành hay bại, hạnh phúc hay chia ly mà nhiều người chưa biết khi xem tuổi hợp nhau hay không ?.
Xem tuổi hợp nhau khi nam nữ kết hôn không?
Trong cuộc sống hiện đại, những tưởng mọi thứ đều có thể giải thích được bằng khoa học và không còn đất cho những điều mê tín dị đoan hay những niềm tin tâm linh. Nhưng thật ra, cứ ngẫm từ sự vật, sự việc của cuộc đời thì quả là có nhiều tự nhiên hay ngẫu nhiên đến khoa học cũng không thể giải thích hoặc giải thích không thấu đáo được. Đối với đa số người Á Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, đức tin vào tâm linh và thần thánh dường như luôn hiện hữu trong cuộc sống.
Dẫu sao các cụ ta cũng đã dạy “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Đó đâu phải vô cớ.
Đối với các bạn trẻ ngày nay, trước khi kết hôn, lập gia đình việc xem tuổi hợp chồng vợ, xem tuổi cưới là điều không thể thiếu vì đa số có một đức tin rằng, vợ chồng có hợp tuổi, hợp mệnh thì làm ăn mới phát đạt, mới gặp nhiều may mắn, hạnh phúc và tránh được những tai ương trong cuộc sống.
Về quan điểm cá nhân, tôi không phủ nhận mỗi người có một số mệnh riêng, có người thì gặp may mằn, có người thì bất hạnh trong cuộc sống nhưng suy cho cùng thì sự thành đạt, hạnh phúc phần lớn do chúng ta gây dựng, vun đắp và nuôi dưỡng, vận mệnh nằm trong tay chúng ta, còn cái gọi là “số mệnh” chỉ là rất nhỏ vậy nên đừng bao giờ khi thất bại hay đau khổ lại đi lấy cái “ngẫu nhiên để quy cho tự nhiên”.
Sau đây là một tài liệu sưu tầm được, bạn nào nghiên cứu thấy thích thì mừng. Nếu không, thì cũng đừng bận tâm nhé… Cái này chỉ là giải trí xem để biết không mang ý nghĩa là truyền bá hay cổ súy cho mê tín dị đoan.
Để xem tuổi hợp vợ chồng hay bạn bè có xung khắc nhau không thường thì thầy bói dựa vào 3 điểm chính sau :
1. Tuổi gồm có 12 tuổi Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi gọi là Thập nhị chi.
2. Mệnh gồm có 5 Mệnh: Kim, Hoả, Thuỷ, Mộc, Thổ gọi là Ngũ hành.
3. Cung mỗi tuổi có 2 cung, gồm có cung chính và cung phụ. Cung chính gọi là cung sinh cung phụ gọi là cung phi. Cùng tuổi thì nam nữ có cung sinh giống nhau nhưng cung phi khác nhau.
Khi xem tuổi hợp khắc, hai tuổi khắc nhau vẫn có thể ăn ở với nhau được nếu như cung và mệnh hoà hợp nhau.
Ngoài ra người taxem tuổi hợp khắc còn dựa vào thiên can của chồng và tuổi của vợ để đoán thêm. Thiên can là 10 can gồm có Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ ,Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Nếu tuổi bạn với ai đó không hợp nhau thì cũng đừng lo vì còn xét đến Mệnh của mỗi người (Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ) Bạn nhớ nguyên tắc này: Tuổi chồng khắc vợ thì thuận; Vợ khắc chồng thì nghịch (xấu)
Thí dụ vợ Mệnh Thuỷ lấy chồng Mệnh Hoả thì xấu, nhưng chồng Mệnh Thuỷ lấy vợ Mệnh Hoả thì tốt. Vì Thuỷ khắc Hoả, nhưng Hoả không khắc Thuỷ mà Hoả lại khắc Kim.
Sau đây là ngũ hành tương sinh (tốt):
Kim sinh Thuỷ; Thuỷ sinh Mộc; Mộc sinh Hoả; Hoả sinh Thổ; Thổ sinh Kim (tốt)
Như vậy chồng Mệnh Thuỷ lấy vợ Mệnh Mộc thì tốt; vợ được nhờ vì Thuỷ sinh Mộc. Vợ Mệnh Hoả lấy chồng Mệnh Thổ thì chồng được nhờ vì Hoả sinh Thổ.
Sau đây là ngũ hành tương khắc (xấu):
Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim (xấu)
Thí dụ vợ Mệnh Kim lấy chồng Mệnh Mộc thì không tốt do Kim khắc Mộc nhưng chồng Mệnh Kim lấy vợ Mệnh Mộc thì tốt vì theo nguyên tắc ở trên là tuổi chồng khắc vợ thì tốt, vợ khắc chồng thì xấu.
Về cung thì mỗi tuổi có một cung khác nhau. Sau đây tôi kể trước cho các bạn có tuổi Đinh Tỵ (1977) đến Đinh Mão (1987).Nên nhớ cung phi của nam nữ khác nhau còn cung sinh thì giống nhau khi xem tuổi hợp khắc.
Muốn biết hai cung có xung khắc nhau hay không thì các bạn xem cách trình bày sau.
Còn các bạn nào cùng tuổi thì tất phải hợp nhau rồi. Người ta có câu nói “Vợ chồng cùng tuổi ăn rồi nằm duỗi”.
Về cung là phần rắc rối khó nhớ nhất nên mới đầu không quen ta ghi lại trên một tờ giấy để tiện tra cứu sau này.
Lại phải nhớ những từ cổ này Sinh khí, diên niên (phước đức), thiên y, phục vị (qui hồn). Đó là nhóm từ nói về điều tốt.
Ngũ quỉ, Lục sát (du hồn), hoạ hại (tuyệt thể), tuyệt mệnh. Đó là nhóm từ nói về điều xấu.
Sau đây là tám cung biến tốt xấu , không cần học thuộc mà khi nào xem thì ta đem ra tra cứu. Sẽ cho thí dụ để các bạn hiểu cách xem tuổi cụ thể
Bây giờ nói về tám cung biến hoá.
Khi tôi viết tắt càn-càn thì hãy hiểu là người thuộc cung càn lấy người thuộc cung càn, hoặc tôi viết cấn- chấn thì hãy hiểu là người có cung cấn lấy người thuộc cung chấn v.v….
Bây giờ xin nói lại về giờ âm lịch cho chính xác. (theo tháng âm lịch)
Tháng 2 và tháng 8: từ 3giờ 40 đến 5 giờ 40 là giờ Dần. Tháng 3 và tháng 7: từ 3g50 đến5g50 là giờ Dần Tháng4 và tháng 6: từ 4g đến 6g là giờ Dần Tháng5 : từ 4g10 đến 6g10 là giờ Dần Tháng 10 và tháng chạp: Từ 3g20 đến 5g20 là giờ Dần Tháng 11: từ 3g10 đến 5g10 là giờ Dần
Biết được giờ Dần ở đâu rồi thì các bạn tính lên là biết giờ khác. Ví dụ vào tháng 7 âm lịch từ 3g50 đến 5g50 là giờ Dần thì giờ Mão phải là từ 5g50 đến 7g50. Cứ thế tính được giờ Thìn, Tỵ…..
Bây giờ tôi cho thí dụ cách xem như thế này Thí dụ nữ tuổi Nhâm tuất (1982) lấy nam Mậu Ngọ (1978) thì tốt hay xấu. Xem bảng cung Mệnh tôi ghi từ 1977 đến 2007 ở trên thì thấy.
1. Xét về tuổi: Hai tuổi này thuộc về nhóm Tam Hợp, như đã nói ở trên, nên xét về tuổi thì hợp nhau.
2. Xét về Mệnh: Mậu ngọ có Mệnh Hoả, trong khi đó Nhâm Tuất này có Mệnh Thuỷ. Xem phần ngũ hành thì thấy Thuỷ khắc Hoả tức là tuổi vợ khắc tuổi chồng, vậy thì xấu không hợp.
3. Xét về cung: Mậu Ngọ có cung Chấn là cung sinh (cung chính) còn Nhâm Tuất này có cung sinh là Đoài. Xem phần Tám cung biến thì thấy chấn-đoài là bị tuyệt Mệnh, quá xấu không được.
Lại xét về cung phi để vớt vát xem có đỡ xấu không thì thấy Mậu Ngọ về nam thì cung phi là Tốn, Nhâm Tuất cung phi của nữ là Càn mà ở phần Tám cung biến thì tốn-càn bị hoạ hại, tuyệt thể.
Như vậy trong 3 yếu tố chỉ có hợp về tuổi còn cung, và Mệnh thì quá xung khắc, quá xấu. Kết luận có thể xẻ đàn tan nghé.
Hai tuổi này xem tuoi hop còn có thể kiểm chứng lại bằng phép toán số của Cao Ly (Hàn Quốc, Triều Tiên ngày nay). Tôi sẽ trình bày sau phần này, đây là một cách xem dựa vào thiên can và thập nhị chi của người Hàn Quốc xưa.
Sau đây tôi đưa 1 thí dụ khác lạc quan hơn thí dụ trước Bây giờ giả sử nữ Kỷ Mùi (1979) lấy nam tuổi Mậu Ngọ (1978) thì tốt hay xấu. Ta thấy: Mậu ngọ (1978) Mệnh Hoả, cung sinh Chấn, cung phi Tốn (nam) Kỷ Mùi (1979) Mệnh Hoả, cung sinh Tốn, cung phi Chấn (nữ) a) Xét về tuổi hai tuổi hợp nhau vì cùng thuộc Lục Hợp, đã nói ở trên b) Xét về Mệnh hai tuổi cùng Mệnh Hoả nên hợp nhau, khỏi bàn. c) Xét về cung sinh thì xem tám cung biến ta thấy Chấn-tốn được diên niên (phước đức) như vậy là rất tốt Thật ra chỉ cần hai cái tốt thì chắc hai tuổi lấy nhau là tốt rồi không cần xem cái ba Tóm lại hai tuổi này lấy nhau rất tốt, đến đầu bạc răng long. Tại sao tôi quả quyết như vậy, bởi tôi còn dựa vào phép toán của Hàn Quốc nữa, sẽ nói sau
Sau đây là BÀI TOÁN CAO LY. Xem cái này phải kết hợp thêm cung, Mệnh, tuổi.
*Nam GIÁP-KỶ lấy vợ tuổi Tý Ngọ được tam Hiển Vinh Sửu Mùi bị nhì Bần Tiện Dần Thân được nhất Phú Quý Mão Dậu được bị ngũ Ly Biệt Thìn Tuất được tứ Đạt Đạo Tỵ Hợi được tam Hiển Vinh
*Nam tuổi ẤT CANH lấy vợ tuổi Tý Ngọ bị nhì Bần Tiện Sửu Mùi được nhất Phú Quý Dần Thân bị ngũ Ly Biệt Mão Dậu được tứ Đạt Đạo Thìn Tuất được tam Hiển Vinh TỴ Hợi bị Nhì Bần Tiện
*Nam tuổi BÍNH TÂN lấy vợ tuổi Tý Ngọ được nhất Phú Quý Sửu Mùi bị ngũ Ly Biệt Dần Thân được tứ Đạt Đạo Mão Dậu được tam Hiển Vinh Thìn Tuất bị nhì Bần Tiện Tỵ Hợi được nhất Phú Quý
*Nam tuổi ĐINH NHÂM lấy vợ tuổi Tý Ngọ bị ngũ Ly Biệt Sửu Mùi được tứ Đạt Đạo Dần Thân được tam Hiển Vinh Mão Dậu bị nhì Bần Tiện Thìn Tuất được nhất Phú Quý Tỵ Hợi bị ngũ Ly Biệt
*Nam tuổi MẬU QUÝ lấy vợ tuổi Tý Ngọ được tứ Đạt Đạo Sửu Mùi được tam Hiển Vinh Dần Thân bị nhì Bần Tiện Mão Dậu được nhất Phú Quý Thìn Tuất bị ngũ Ly Biệt Tỵ Hợi được tứ Đạt Đạo
Thí dụ: Nam tuổi Giáp Dần lấy vợ tuổi Thìn hay Tuất thì được Đạt Đạo (gia đạo an vui)
Bần Tiện là nghèo khổ, bần hàn. Đây là nghĩa tương đối có ý nói không khá được sau này ( có thể 15 hay 20 năm sau mới ứng). Bởi con nhà đại gia lấy con nhà đại gia thì dù có bị Bần Tiện cũng là đại gia, nhưng về sau thì kém lần không được như cũ , có thể suy)
Đàn ông lấy vợ năm nào thì tốt ?
Câu trả lời sau đây. Đàn ông tuổi Tý lấy vợ kỵ năm Mùi. ( năm Mùi không nên lấy)
Thí dụ: Nam tuổi Tý lấy vợ thì năm nào cũng được nhưng tránh làm đám cưới vào năm Mùi đi. Hay nữ lấy chồng, nếu cô ấy là tuổi Thìn chẳng hạn, thì tránh làm đám cưới vào năm Hợi.
P/S: Bà con lưu ý, đây chỉ là 1 trong số những điểm tham khảo mà tôi sưu tầm đc. Nhưng nghiệm cũng đúng với một số người nên tôi thấy có thể tin đc phần nào. Mọi người xem xong ai thấy đúng sai thì góp ý nhé.
Ví dụ khác:
Nam tuổi Quý Hợi (1983) kết hôn với nữ tuổi Đinh Mão (1987) thì tốt hay xấu:
1. Thứ nhất xét về Tuổi:
Ta thấy Quý Hợi và Đinh Mão thì tuổi Hợi và tuổi Mão thuộc Tam Hợp (cặp 3 tuổi hợp nhau: Hợi-Mão-Mùi)
Kết luận: Về tuổi là Tam hợp: Tốt
2. Thứ hai: Xét về Mệnh:
– Nguyên tắc: Tuổi Chồng khắc vợ thì thuận (tốt); vợ khắc Chồng thì nghịch (xấu): Ví dụ: Vợ Mệnh Thủy lấy chồng Mệnh Hỏa thì xấu nhưng chồng Mệnh Thủy lấy vợ Mệnh Hỏa thì tốt. Vì Thủy khắc Hỏa, nhưng Hỏa không khắc Thủy mà Hỏa lại khắc Kim.
– Về trường hợp trên: Nam Quý Hợi (1983) là Mệnh Thủy; Nữ Đinh Mão (1987) là Mệnh Hỏa.
– Kết luận: Theo nguyên tắc trên thì xét về Mệnh của cặp tuổi trên là thuận (tốt).
3. Thứ ba: Xét về Cung:
Nam Quý Hợi (1983): Cung Sinh: Cấn; Cung phi: Cấn
Nữ Đinh Mão (1987): Cung Sinh: Càn; Cung phi: Khôn
Căn cứ theo tám cung biến hóa thì:
– Về cung sinh kết hợp với nhau là: Cấn – Càn: Thiên Y (tốt)
– Về cung phi kết hợp với nhau là: Cấn – Khôn: Sinh Khí (tốt)
Đây là điển cố thứ Bảy trong quẻ Quan Âm, mang tên Tô Nương Tẩu Nạn (còn gọi là quẻ Tô Nương Chạy Nạn). Quẻ Quan Âm Tô Nương Tẩu Nạn có bắt nguồn như sau:
Dưới đời vua Chu cảnh Vương (tại vị từ năm 544 trước Công nguyên đến năm 520 trước Công nguyên), quốc vương nước Bạch Nha ở Tây Phồn đã tiến cống ba báu vật: Chén nóng lạnh (chiếc chén đựng rượu, mùa đông thì ấm, mùa hạ thì mát), thảm tỉnh rượu, chim biết nói. Có được ba báu vật kỳ diệu, hoàng đế hết sức vui mừng.
Một hôm, Chu cảnh Vương đến hậu cung, sai người đem ba báu vật đến, cùng chia sẻ với các phi tần. Chu cảnh Vương rất vui vẻ, sai thị tùng mang chén nóng lạnh, thảm tỉnh rượu và chim biết nói ra, lần lượt nói rõ tác dụng kỳ diệu của ba báu vật đó. Mọi người đều trầm trồ không ngớt. Lúc này, con chim biết nói thấy mọi người nói vui vẻ, cũng kêu liến thoắng như muốn tranh lời với người. Thấy cảnh đó, Chu cảnh Vương cười ha hả, hỏi mọi người rằng: “Ai có thê’ khiến con chim nói chuyện được?” Mọi người đưa mắt nhìn nhau, không ai có thế nhận lời. Lúc ấy, vương hậu ở đông cung là Tô Anh nương nương nói rằng, mình có thể nói chuyện được với chim. Và Tô Anh nương nương bắt đầu trò chuyện với con chim, bên này một câu bên kia một câu, khiến Chu cảnh Vương khen ngợi không ngót. Lúc này vương phi Tô Anh đã có thai ba tháng, nên được lập làm chính cung, cho phép quản lý ba vật báu. Tô Anh nương nương vội vàng tạ ơn nhà vua.
Sau khi mọi người đã ra về, vương hậu ở tây cung là Mai Ngọc Xuân rất ghen tức, ôm hận trong lòng, bèn cùng với anh trai là Mai Luân ngầm bàn mưu, lập ra một kế. Một hôm, anh em họ Mai cố ý mượn cớ đến đông cung, nói chuyện vui vẻ một hồi, rồi đề nghị Tô Anh nương nương cùng uống rượu. Mai Ngọc Xuân nhân lúc cùng Tô Anh yến ấm, vờ lảo đảo tựa vào ba vật báu, dùng khuỷu tay thúc mạnh, khiến chiếc chén nóng lạnh rơi xuống vỡ vụn. Mai Ngọc Xuân giả say, đổ rượu ờ trong chén lên chiếc thảm tỉnh rượu, rồi dậm chân lên. Anh trai của Mai Ngọc Xuân cũng nhân cơ hội ngã người đè lên con chim biết nói. Khi Tô Anh nương nương vẫn chưa kịp định thần, thì hai anh em liền vu cáo cho Tô Anh thất đức, rồi trói Tô Anh lại đưa đến trước mặt Chu cảnh Vương. Chu Cảnh Vương đùng đùng nối giận, không để Tô Anh có cơ hội phân trần, định xử Tô Anh tội chết.
Đại thần Phan Cát biết được sự việc, trong lòng thông cảm, muốn tìm cách giải cứu mẹ con Tô Anh. Phan Cát suy đi nghĩ lại, cuối cùng tìm được một cách, nhưng lại phải đánh đối một cái giá quá lớn. Phan Cát suy tính đến nỗi nước mắt đầm đìa, cuối cùng ông đã hạ quyết tâm: dùng chính vợ con mình thế mạng cho Tô Anh. Phan Cát tính cách để đưa vợ mình vào trong ngục, đổi trang phục cho Tô Anh, sau đó giấu Tô Anh nương nương ở nhà mình. Đến đêm ngày thứ hai, dưới sự sắp xếp của Phan Cát, Tô Anh rời khỏi nhà họ Phan, đến nơi đứa cháu của Tô Anh là Tô Kính lánh nạn. Khi trốn đến chùa Bạch Mã, Tô Anh nương nương chuyển dạ, sinh ra một đứa con trai.
Tuy Chu Cảnh Vương đã xử tử Tô Anh nương nương, nhưng Mai Phi vẫn luôn cảm thấy bất an, bèn sai người gieo quẻ, biết là Tô Anh chưa chết, bèn sai người truy sát, nhưng không có kết quả.
Tô Anh sinh ra thái tử ở chùa Bạch Mã, để bọn người của Mai Phi không phát hiện ra thân thế của thái tử, đành phải dằn lòng đem con mình cho một nông phụ nuôi, còn đế lại tín vật đế sau này dễ bề nhận người thân, còn Tô Anh một mình trở lại nhà Tô Kính. Mười ba năm sau, rồi thái tử cũng biết được thân thế của mình, liền mang tín vật đi tìm mẹ. Cuối cùng, hai mẹ con đã được vui mừng đoàn tụ. Tô Anh nương nương bèn bí mật gửi thư cho Phan Cát, nói rõ nơi ở của hai người.
Lúc này, Chu cảnh Vương đã về già mà không có con kế vị, cũng đã hối hận vì sự nóng vội trước kia của mình. Sau khi Phan Cát nhận được thư của Tô Anh nương, lập tức tấu lên Chu cảnh Vương. Chu Cảnh Vương lập tức sai người đi đón mẹ con Tô Anh về triều, gia phong cho vợ của Phan Cát là Lý thị. Và sau này, Chu cảnh Vương đã truyền lại ngôi vị cho con trai của Tô Anh.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Hương Giang (##)
Tỳ Hưu là vật phẩm phong thủy cầu tài được nhiều người ưa chuộng, tuy nhiên, không giống các vật phẩm khác, phải khai quang điểm nhãn cho Tỳ Hưu thì mới linh nghiệm.
Tỳ Hưu là vật phẩm phong thủy cầu tài khá đặc biệt, vì hơi “khó chiều”, không phải cứ mua về bày trong nhà là đã tốt, đã có lộc. Khi “thỉnh” (mua) Tỳ Hưu về phải bịt mắt bằng một tờ giấy hoặc miếng vải đỏ, chờ ngày khai quang, đánh thức linh vật. Thông thường, để tăng tính linh nghiệm, có thể mang Tỳ Hưu lên chùa nhờ làm lễ khai quang nhưng để tiện lợi thì khai quang tại nhà cho Tỳ Hưu cũng không hề khó. Chọn ngày lành tháng tốt, chuẩn bị 7 viên đá quý, một ít ngũ cốc (5 loại hạt), một ít chỉ ngũ sắc, sợi ngũ đế, linh đang, một tờ giấy đỏ trên có viết chú. Đặt Tỳ Hưu quay về phía thần Tài, lần lượt đổ ba món đầu tiên vào bụng Tỳ Hưu, sau đó treo sợi ngũ đế (sợi chỉ đỏ) và linh đang lên trên Tỳ Hưu, rồi chuẩn bị “niệm”. *Kim quang nhất khí, Tỳ Hưu cao tường, tiến tài tiến quý, lợi lộ hanh thông. *Kim quang nhị khí, Tỳ Hưu phúc giáng, phúc lộc mãn đình, phúc tinh cao chiếu. *Kim quang tam khí,Tỳ Hưu điểm hóa, nam nạp bách phúc, nữ nạp thiên tường càn, cát lợi nguyên hanh. Sau khi niệm chú xong đặt bài chú vào bụng Tỳ Hưu, rồi quay Tỳ Hưu lại phía mình. Lấy khăn bông thấm một chút nước chè điểm (chấm) vào mắt Tỳ Hưu, điểm mắt trái trước sau đó điểm mắt phải, lặp lại 3 lần. Đó là cách điểm nhãn cho Tỳ Hưu. Tay trái giữ chắc Tỳ Hưu, dùng ngón cái tay phải xoa đầu, xoa từ phía trước ra phía sau, lặp lại 3 lần. Tháo dây vải đỏ ở cổ và băng vải bịt mắt Tỳ Hưu để Tỳ Hưu bắt đầu đi ăn tiền. Đến đây thì việc khai quang điểm nhãn cho Tỳ Hưu đã được hoàn tất.
► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh
Theo Tử vi khoa học Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Đoan Trang(##)
Tết nguyên đán vào ngày nào Dương lịch? Cùng xem lịch nghỉ Tết 2017 năm nay vào những ngày nào? Lịch nghỉ Tết 2017 của các doanh nghiệp ngoài nhà nước sẽ như thế nào?
Theo thông tin từ bộ nội vụ thì lịch nghỉ Tết nguyên đán 2017 gồm 7 ngày, bắt đầu từ ngày 28 tháng chạp năm Bính Thân (tức là vào thứ 5 ngày 26 tháng 1 năm 2017) đến hết ngày mùng 5 tháng Giêng năm Đinh Dậu ( tính theo dương lịch là vào thứ 4 ngày 1 tháng 2 năm 2017).
Theo thông tin chính thức thì lịch nghỉ Tết đối với cán bộ công nhân viên chức sẽ không được hoán đổi ngày nghỉ, không đi làm bù. Còn đối với các doanh nghiệp ngoài nhà nước thì sẽ có sự thay đổi phù hợp với từng văn hóa công ty.
Xem thêm: Những điều đại kỵ vào đầu năm mới 2017
Lịch nghỉ Tết nguyên đán năm 2017
Tết 2017 vào ngày mấy dương lịch?
Ngày mùng 1 Tết và ngày mùng 2 Tết Đinh Dậu đúng vào thứ 7 và chủ nhật (ngày 28/1/2017 và ngày 29/1/2017) nên công nhân viên chức được nghỉ bù vào ngày 31/1 và ngày 2/1/2017 tức là vào thứ 3 và thứ 4 tuần kế tiếp.
Ngày mùng 3 Tết âm lịch đúng vào Thứ 2 ngày 30 tháng 1 năm 2017.
Với 3 ngày Tết âm lịch 2017 vào các ngày 28, 29 và 30 tháng 1. Theo một số ý kiến thì lịch nghỉ Tết năm nay khá muộn, thông thường các năm lịch nghỉ Tết sẽ bắt đầu từ ngày 27 hoặc 28 Tết và kéo dài tới hết ngày mùng 3 hoặc mùng 4.
Lịch nghỉ Tết của học sinh các cấp:
Lịch nghỉ Têt của học sinh các cấp từ mần non tới trung học phổ thông được nghỉ tới 16 ngày liên tục từ ngày 26 tháng chạp năm Bính Thân tới hết ngày mùng 9 Tết năm Đinh Dậu. Theo Dương lịch thì lịch nghỉ Tết sẽ bắt đầu từ ngày Thứ 7, 21 tháng 1 năm 2017 cho đến hết chủ nhật ngày 5 tháng 2 năm 2017.
Lịch nghỉ Tết 2017 của học sinh các cấp
Xem các bài viết khác tại: Phong thủy số
: Những bài thơ chúc tết hay Những câu thơ chúc tết hay nhất Tết 2017 Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Bích Ngọc (##)
Bàn thờ là nơi tập trung tâm linh của cả ngôi nhà nhưng nhiều gia đình lại mắc lỗi đặt bàn thờ. Những điều kiêng kị khi đặt ban thờ dưới đây sẽ giúp bạn tránh
Ban thờ là nơi tập trung tâm linh của cả ngôi nhà, phải chú trọng để cả nhà được yên ổn và hưởng an lành. Những điều kiêng kị dưới đây sẽ giúp bạn tránh được những lỗi đặt bàn thờ không đáng có.
Vị trí đặt ban thờ là một trong những vấn đề đáng lưu tâm nhất trong phong thủy ban thờ. Một lỗi đặt bàn thờ thường gặp là vị trí phạm phải sát khí hoặc xú khí, tức là đặt gần nhà tắm, nhà vệ sinh, bếp, dưới xà nhà hay xung với cửa. Đây đều là các vị trí rất xấu trong phong thủy, không thích hợp để đặt ban thờ. Đặt gần nhà tắm, nhà vệ sinh thì ô uế, hại sức khỏe; gần bếp thì hỏa vượng, thiêu rụi gia chủ, tán tài, phá phúc; dưới xà nhà thì áp lực đè nén, họa chết giáng đầu; xung với cửa thì có dao hướng tới, họa không lường được. Điều kiêng kị khi đặt ban thờ thứ nữa là xung quanh có quá nhiều đồ đạc. Ban thờ nên đặt ở nơi thoáng mát, rộng rãi và sạch sẽ. Theo nguyên tắc trái Thanh Long, phải Bạch Hổ thì phía trái ban thờ kị đồ diện, phía phải ban thờ kị bừa bộn. Bởi đồ điện thuộc Kim, không hợp với Bạch Hổ, dễ sinh sát khí mà làm hại gia chủ. Thanh Long chủ sức khỏe, sự nghiệp, đặc biệt ảnh hưởng tới nam giới trong nhà, phương này mà ô uế thì những thứ ấy đều hại. Phía dưới ban thờ nên đặt một chiếc la bàn để tăng vượng khí, phía bên phải đặt tì hưu, bạch ngọc để cải thiện môi trường phong thủy. Ngoài ra không nên đặt thêm thứ gì khác, đặc biệt là dưới ban thờ. Nếu như hướng của ban thờ ngược với hướng của nhà sẽ khiến cho gia đình không hòa thuận, nghiêm trọng hơn có thể dẫn đến việc không có con nối dõi. Đây là điều kiêng kị khi đặt ban thờ nhất thiết phải chú ý. Bởi đôi khi, gia chủ chỉ chú ý tới không gian, vị trí mà cho rằng hướng ban thờ không quan trọng. Cần phải nhớ, ban thờ là nơi tích tụ tâm linh, có hòa hợp với nhà thì mới tốt. Tránh được lỗi đặt bàn thờ này sẽ tránh phạm đại kị. Đặt bài vị sát tường sẽ ảnh hưởng đến tiền đồ, vận mệnh cả đời của con cháu, vì vậy luôn phải để một khoảng trống nhỏ giữa bàn thờ và bài vị tổ tiên. Ngược lại với bài vị, tượng Thần Phật phải đặt sát tường mới tốt.
► Xem thêm: Phong thủy nhà ở chuẩn giúp phát tài phát lộc, tránh tai ương
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen. Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Tôi nghe thế nầy : một khi Phật ở, trong một Tinh Xá, vườn Cấp-cô- độc, cây của Kỳ-Ðà, cùng các Tăng-già, có trên hai vạn, thêm tám nghìn người , cùng chư Bồ-Tát. Bấy giờ Thế-Tôn, cùng với Ðại chúng, nhân buổi nhàn du đi về phía nam, thấy đống xương khô chất cao như núi Ðức Phật Thế Tôn liền sụp lạy ngay đống xương ấy. Tôi bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, Ngài ở trên ngôi chí Tôn, chí Qúy, Thầy cả ba cõi Cha lành bốn loài thiên thựơng nhân gian thảy đều tôn kính, sao Ngài lại lễ đống xương kia.
Nầy A-Nan ơi! Ngươi tuy xuất gia theo ta tu học, trong bấy nhiêu lâu, những sự thấy nghe đã rộng rãi, đống xương khô ấy hoặc là ông bà, hay là cha mẹ, thân trứơc của ta, ngàn muôn ức kiếp, đời đã cách xa, bởi thế nay ta chí thành kính lễ. Ngươi đem xương nầy chia làm hai phần, một là đàn ông, hai là đàn bà, phân biệt cho ta.
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
ÐÂY LÀ LỜI PHẬT
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen.
Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Lạy Ðức Thế Tôn, công ơn cha mẹ như non như bể, thăm thẳm nghìn trùng, lấy gì báo đáp, cúi xin Ðức Phật dủ lòng thương xót, dạy bảo chúng con.
Nầy A-Nan con, Về ân đức mẹ, trong vòng mười tháng đi lại nặng nề, cưu mang nhọc mệt, khổ không xiết :
Khi vừa một tháng, ở trong thai mẹ, khác gì hạt sương dính trên ngọn cỏ, sớm còn tụ đọng, trưa đã tan, khó lòng giử được.
Khi được hai tháng, ở trong thai mẹ, hình như sữa đặc, đã chắc gì đâu.
Khi được ba tháng, ở trong thai mẹ, ví như cục máu, đông đặc đỏ ngầu, vô tri vô giác.
Khi được bốn tháng, ở trong thai mẹ, mới dạng hình người.
Khi được năm tháng, ở trong thai mẹ,mới đủ năm hình, chân tay đầu tóc.
Khi được sáu tháng, ở trong thai mẹ, sáu căn mới đủ, mắt tay mũi lưỡi thân hình và ý.
Khi được bảy tháng, ở trong thai mẹ, mới sinh đầy đủ, ba trăm sáu mươi những cái đốt xương, cùng là tám vạn, bốn nghìn chân lông.
Khi được tám tháng, ở trong thai mẹ, phủ tạng mới sinh, ý chí mới đủ, chín khiếu mới thông.
Khi được chín tháng, ở trong thai mẹ, mới đủ hình người ngồi trong bụng mẹ, khát uống nguyên khí, không ăn hoa quả, cùng là ngũ cốc, sinh tạng rủ xuống, thực tạng hướng lên, có một dãy núi gồm có ba quả; một là Tu Di hai là núi Nghiệp, ba là núi máu, núi nầy đồng thời hoá ra dòng máu, rót vào trong miệng.
Ở trong thai mẹ, trong vòng mười tháng, trăm phần toàn vẹn, mới đến ngày sinh, nếu là con hiếu, chắp tay thu hình, thuận lối mà ra, không đau lòng mẹ; nếu là con bạc, dẫy giụa bải bơi khiến lòng mẹ, buốt chói từng hồi, như đâm như xỉa, như cấu như cào, như nghìn mũi dao, đâm vào gan ruột, đau đớn vô cùng, nói sao cho siết, sinh được thân nầy, mừng thay vui thay, yêu thay mến thay.
Phật bảo A-Nan : công ơn cha mẹ, gồm có mười điều, phàm kẻ làm con, phải lo báo hiếu .
Những gì là mười điều?
Nhớ ơn mẹ ta, chín tháng mười ngày, cưu mang nặng nhọc.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, đau đớn vô cùng.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sanh lúc nở, quên cả âu lo.
Nhớ lại công ơn, mẹ ăn miếng đắng, lại nhả miếng ngon, dành dụm cho con.
Nhớ lại công ơn, chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo xê con.
Nhớ ơn mẹ ta, ba năm bú mớm, nuôi nấng thuốc thang, trong khi sài đẹn.
Nhớ ơn mẹ ta, giặt diệm hong phơi áo quần dơ dáy, ô uế tanh hôi mẹ đành cam chịu .
Nhớ ơn mẹ ta, khi đi đâu xa, vì thương nhớ con, trong lòng cầy cậy, một phút chẳng ngơi .
Nhớ công ơn mẹ, vì sanh nuôi con, mà mẹ cam lòng tạo bao nhiêu ác nghiệp.
Nhớ công ơn mẹ, lòng rất thương con, trọn đời yêu dấu, không phút nào ngơi.
ÐỆ NHẤT ÂN: CHÍN THÁNG MƯỜI NGÀY CƯU MANG NẶNG NHỌC
Bao kiếp, duyên cùng nợ;
Ngày nay, mới vào thai
Ðầy tháng, sanh ngũ tạng;
Bảy bảy, sáu tinh khai
Thân trọng, như non Thái
Ðộng tĩnh, sợ phong tai
Áo the, đành xốc-xếch,
Gương lược, biếng trang đài.
ÐỆ NHỊ ÂN: KHI GẦN SANH NỞ
Khi gần ngày sanh nở
Nặng nhọc, khổ vô cùng,
Cưu mang, trong mười tháng
Sanh nở, sắp đến ngày
Ðứng ngồi coi nặng nhọc;
Dáng vẻ, tựa ngô ngây,
Sợ hãi lo, cùng lắng;
Tử sanh giờ phút nầy!
ÐỆ TAM ÂN: SANH NỞ
Mẹ ta, khi sanh nở,
Thân thể đều mở toang!
Tâm hồn như mê mẩn,
Máu me chan hòa đầy,
Chờ nghe, thấy con khóc;
Lòng mẹ mừng rỡ thay!
Ðương mừng lại lo đến
Rầu rĩ ruột gan nầy.
Cúi xin chư Phật, soi xét kẻ phàm, phóng Ngọc hào quang, ra tay cứu vớt, làm sao báo được, ân đức mẹ cha .
ÐỆ TỨ ÂN: ĂN ÐẮNG NHẢ NGỌT
Mẹ ta lòng thành thực,
Thương con chẳng chút ngơi
Nhả ngọt nào có tiếc!
Ăn đắng nói cùng ai?
Yêu dấu như vàng ngọc.
Nâng niu tay chẳng rời
Những mong con ấm no;
Mẹ đói rách cũng vui .
ÐỆ NGŨ ÂN: XÊ CON TỰ THẤP
Tự mình nằm chỗ ướt,
Chỗ ráo để xê con,
Hai vú phòng đói khát;
Hai tay ủ gió sương.
Thâu đêm nằm chẳng ngủ;
Nâng niu tựa ngọc vàng
Những mong con vui vẻ;
Lòng mẹ mới được yên.
ÐỆ LỤC ÂN: BÚ MỚM NUÔI NẤNG
Ðức mẹ dày như đất;
Công cha thẳm tựa trời
Chở che coi bình đẳng;
Cha mẹ cũng thế thôi!
Chẳng quản, câm mù, điếc!
Chẳng hiềm, quắt tay chân!
Bởi vì con ruột thịt,
Trọn đời dạ chẳng khuây.
ÐỆ BÁT ÂN: ÐI XA LÒNG MẸ THƯƠNG NHỚ
Từ biệt, lòng khôn nhẫn;
Sanh ly dạ đáng thương;
Con đi đường xa cách
Mẹ ở chốn tha hương,
Ngày đêm thường tưởng nhớ;
Sớm tối vẩn vấn vương
Như vượn thương con đỏ
Khúc khúc đoạn can trường?
ÐỆ CỬU ÂN: VÌ SANH CON MÀ CAM LÒNG TẠO BAO ÁC NGHIỆP
Mẹ trải qua bao nhiêu gian khổ,
Công lao tựa vực trời
Bồng bế cùng nuôi nấng;
Mong sao con ăn chơi
Nhường cơm cùng xẻ áo;
Mẹ đói rách dũng vui!
Khôn lớn tìm đôi lứa
Gây dựng cho nên người
ÐỆ THẬP ÂN: MẸ TRỌN ÐỜI THƯƠNG YÊU CON
Công cha cùng đức mẹ
Cao sâu tựa vưc Trời
Mẹ già, hơn trăm tuổi,
Vẫn thương con tám mươi!
Bao giờ ân oán hết?
Tắt nghỉ cũng chẳng thôi !…
Phật bảo A-Nan: Ta xem chúng sanh, dẫu làm được người lòng còn ngu muội chẳng nghĩ mẹ cha, công đức kể ra, như non như bể, chẳng cung chẳng kính, chẳng hiếu chẳng từ, mẹ mang thai con, trong vòng mười tháng, ngồi đứng không yên, như mang gánh nặng, ăn uống chẳng ngon, như người mang bệnh, ngày tháng thoi đưa, dến khi sanh nở, chịu khổ mọi đường, phút giây hay dở, kinh sợ vô cùng, như giết trâu dê, máu me lai láng, còn nhiều khổ nữa, mới được thân nầy, ăn đắng nuốt cay, nhả bùi nhả ngọt, nâng niu dưỡng dục, giặc giũ dáy dơ, không nề gian khổ, bức bối nồng nàn, rét mướt cơ hàn, lầm than tân khổ, mẹ nằm chỗ ướt, ráo để xê con, ba năm bú mớm, bồng bế nâng niu, dạy bảo đủ điều, lễ nghi phép tắc, cho ăn đi học, tìm đủ mọi nghề, đưa đón đi về, cần lao chăm chú, chẳng kể gì công.
Trái nắng dở Trời tuần trăng cuối gió, bệnh nọ chứng kia, bông hoa sài đẹn, thang thuốc đâu đâu, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi năm canh vò võ, bệnh con có khỏi lòng mẹ mới yên, mong con lớn lên, con thảo con hiền, để mà trông cậy.
Không ngờ ngày nay, hóa con bất hiếu, mẹ già cha yếu, con chẳng đỡ đần, cãi vã song thân, nói năng cắn cẩu, giương đôi mắt chẫu, khinh rẻ mẹ cha, chú bác ông bà, cô dì chẳng nể, anh em cũng kệ, đánh lộn xẩy ra, ô nhục nước nhà, bất trung bất nghĩa, bất hiếu bất lương, phép nước coi thường, mẹ cha cũng kệ, xóm giềng chẳng nể, chửi bới nhau luôn, sớm tối ra vào, chẳng thưa chẳng gởi nói năng càn rỡ, tự ý làm bừa, cha mẹ cũng thừa, thầy trên cũng mặc!
Bé thì ai chấp, người những nâng niu, dần dần khôn lớn, gai ngạnh mọi điều, chẳng hòa chẳng thuận, thường hay sân si bỏ cả bạn lành, giao du bạn ác, tập thói xa hoa, chơi khắp gần xa, thất thường điên đảo, bị kẻ dổ dành, mất cả thân danh, bỏ làng trốn mất, trái ý mẹ cha, ly biệt quê nhà, chẳng nhìn quê quán, hoặc vì buôn bán, hoặc bởi tòng quân, tiêm nhiễm dần dần, trở nên lưu luyến, vợ nọ con kia, chẳng thiết đi về, quê hương bổn quán, ở đất nước người lại hay rong chơi bị người lưà gạt, tai vạ liên miên, pháp luật gia hình, tù loa cấm cố, cực khổ mọi điều, chẳng may yếu đau, chứng kia tật nọ, ở chốn tha hương, ai kẻ thích thân, ai người thang thuốc, mẹ cha cách biệt, thân thích biết đâu, cam chịu ưu sầu, quê người đất khách; khốn khổ gầy còm, không người trông nom, bị khinh rẻ, lang thang đường ngõ, vì thế chết đi; không người mai táng, chương phềnh thối nát, giãi bừa, chó cầy nhai xé!….
Mẹ cha thân thuộc, khi được tin buồn, luống những đau thương, ruột như dao cắt, hai hàng nước mắt, lã chã chứa chan, hoặc vì quá thương, kết thành bệnh khí, hoặc là đến chết, làm quỷ ôm thây, chẳng để cho ai khư khư giữ mãi. Hoặc là vì con, chẳng chăm học tập, chỉ mải rong chơi nay đây mai đó, cùng bạn vô loài làm điều vô ích, giao du trộm cắp, chẳng sợ lệ làng, chè rượu nghênh ngang, đánh cờ đánh bạc, gian tham tội ác, lụy đến tôn thân, nay Sở mai Tần, lên đồn xuống phủ, mẹ cha ủ rũ, khốn khổ vì con.
Nào con có biết, cha mẹ khổ đau, trăm não nghìn sầu, mùa Thu mùa Ðông, rét run bức bối chẳng nhìn sớm tối; ấp lạnh quạt nồng, chẳng viếng chẳng thăm, chẳng hầu chẳng hạ, mẹ cha già cả, hình vóc gầy còm, hổ mặt người con, dầy vò mắng nhiếc, mẹ cha hoặc góa, trơ trọi một mình, luống những buồn tanh, như người ngủ trọ, chiếc gối một phòng, năm canh vò-võ, mùa đông sương gió, rét mướt cơ hàn, trai gái các con, nào ai hỏi đến, đêm ngày thương khóc, tự thán tự thương !
Khi đem thức ăn, dâng lên cha mẹ, thì lại giữ kẽ, rằng ngượng e, sợ kẻ cười chê; ví đem quà bánh, cho vợ cho con, mặt dạn mày dầy, không hề xấu hổ, vợ con dặn bảo, phải đúng như lời cha mẹ hết hơi không hề hối cải .
Ðây là con gái khi chưa gả chồng, hãy còn ở chung, tỏ ra hiếu thảo; khi đã gã bán, về ở nhà người một ngày một lười thiết gì cha mẹ, những ngày giỗ tết, có đảo về qua, ví dù mẹ cha, có gì sơ ý, liền sinh giận dữ, tỏ vẻ oán hờn, chồng chửi nhơn nhơn, đành cam lòng chịu, khác họ khác làng, tình nghĩa keo sơn, hóa ra thâm trọng, mẹ cha máu mủ, thì lại sơ tình. Hoặc đi theo chồng, quê người đất khách, quận nọ tỉnh kia, cha mẹ xa lià. Làng không tưởng nhớ, chẳng viếng chẳng thăm, thư tín cũng không, tuyệt không tin tức, mẹ cha thương nhớ, rầu rĩ ruột gan, luống những bàng hoàng, sớm chiều mong mỏi công đức cha mẹ, vô lượng vô biên, con chẳng hiếu hiền, ở đời cũng lắm.
Khi ấy Ðại chúng, nghe Phật nói ra, công đức cha mẹ, cao tầy non Thái đều cùng đứng dậy, hoặc tự gieo mình, đập đầu lăn khóc, máu me trào trạt, lai láng cả nhà, chết ngất cả ra, hồi lâu mới tỉnh, mà nói lời nầy, khổ thay khổ thay ! đau lòng đứt ruột, lũ con ngày nay, tội ác ngập đầu, xưa có biết đâu, mờ như đêm tối ngày nay biết hối thì sự đã rồi đau đớn lòng tôi trót đà bội bạc, cúi xin chư Phật, soi xét kẻ phàm, phóng Ngọc hào quang, ra tay cứu vớt, làm sao báo được, ân đức mẹ cha .
Phật liền nói ra, đủ đầy tám giọng, bảo Ðại chúng rằng :
Ví có kẻ nào, hai vai kiệu cõng, cha mẹ đi chơi suốt cả mọi nơi trên rừng dưới biển, hai vai nặng trễ, mòn cả đến xương, máu chảy cùng đường, không hề ân hận, cũng chưa báo được công đức mẹ cha, kể trong muôn một.
Ví lại có người. Gặp khi đói kém, cắt hết thịt mình, cung nuôi cha mẹ, khỏi lúc nguy nàn, riêng mình cam chịu, thịt nát xương tan, trăm nghìn muôn kiếp, để báo thâm ân, chẳng được một phần, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, tự tay cầm dao, khoét đôi mắt mình, luyện làm thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, đều tự tay mình, cầm dao khoét ruột, móc lấy tim gan, luyện thành thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì tội mẹ cha, trăm nghìn vòng dao, băm vằm thân thể, thịt nát xương tan, như thế cũng là, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì báo ơn mẹ, lấy mình đốt lên, làm cây đèn thịt, cúng dàng chư Phật, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì bệnh mẹ cha, đập xương lấy tủy, để làm thang thuốc, chữa bệnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì cứu mẹ cha, trải trăm nghìn kiếp, nuốt viên sắt nóng, cháy sém cả mình, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Bấy giờ Ðại chúng, nghe Phật nói rồi trong dạ bồi hồi ruột đau như cắt, hai hành nước mắt, tầm tả như mưa, mà bạch Phật rằng : con muốn đền ơn, công đức mẹ cha, cúi xin Phật đà, rủ lòng chỉ bảo ?
Ðức Phật liền bảo : Cặn kẽ mọi lời này chúng sinh ơi muốn đền ân mẹ, nhất là một lẽ, nên chép Kinh nầy, kính biếu gần xa, cho nhiều người tụng. Hai vì cha mẹ, đọc tụng Kinh này, chuyên cần chớ đoạn. Ba vì cha mẹ, sám hối làm chay. Bốn vì cha mẹ, cúng dường Tam Bảo, tùy sở dùng. Năm vì cha mẹ, trong sáu ngày Trai phải nên nhớ giữ. Sáu vì cha mẹ, thường hay bố thí.
Làm được như thế, thực là con hiếu, cứu được cha mẹ, siêu thăng Cưc Lạc, phúc đẳng Hà sa.
Phật bảo A-Nan, ở trên thế gian, những người bất hiếu, sau hết duyên trần, nguyên cái xác thân, chôn vùi dưới đất : còn phần Linh giác, là cái chân thân, phải vào Ðiạ Ngục, Chính ngục A-Tỳ, vuông rộng tứ vi tám ngàn cây số, bốn mặt có tường sắt, tường đồng, lửa cháy tứ tung, toàn dây thép điện, thường có lửa bén, cháy đỏ hồng hồng, bốc cháy tứ tung, thấy mà kinh sợ; hơn như thế nữa, sấm chớp đùng đùng, chó sắt rắn đồng, phun ra khói lửa, đốt cháy tội nhân.
Lại còn nước đồng đun sôi sùng sục, rót ngay vào miệng những kẻ tội nhân, vì tội bất hiếu, cãi giả mẹ cha, cam chịu cực hình, ở trong ngục ấy, gươm dao sào gậy, đâm chém suốt ngày, như hạt mưa bay, trên không rơi xuống, trải nghìn muôn kiếp, không phút nào nguôi hết hạn ấy rồi lại vào ngục khác; Ðầu đội chậu máu, xe sắt nghiến mình, mình mẩy chân tay, dập dừ tan nát, một ngày phải chết, tới nghìn vạn lần, khổ sở gian truân, vì chứng bất hiếu. Phật lại dạy rằng : ví có Thiện nam hay là Tín nữ, thật là hiếu tử, trả nghĩa mẹ cha, in Kinh nầy ra, biếu cho người tụng, in được một quyển, được một công đức, in được mười quyển, được mười công đức, in được trăm quyển, được trăm đức Phật, in được muôn quyển, được muôn đức Phật, phù hộ độ trì, lại tiếp hồn đi về phương Cực Lạc, đây là lời Phật, chớ có coi thường, Ðiạ ngục vấn vương, khó lòng thoát khỏi !
Bâý giờ A-Nan cùng chư Ðại chúng, Trời Rồng, Thần, Quỉ, Dạ Xoa, La Sát, người cùng phi nhân, được nghe Phật nói đều phát nguyện rằng :
Chúng con tận tâm, chí thành chí kính, dù trăm nghìn kiếp, thịt nát xương tan, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy. Thà rằng lấy kìm, cặp lưỡi rút ra, dài trăm do tuần, cho trâu sắt cày, máu chảy chan hòa, thành sông thành suối con thề chẳng trái lời Phật dạy răn.
Chúng con thề rằng: Thà lấy trăm nghìn vòng dao giáo mác, đâm chém thân này, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Chúng con thề rằng: Thà lấy lưới sắt, quất chặt vào thân trăm nghìn muôn kiếp, chẳng tháo cho ra, cực khổ vô cùng, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy.
Chúng con thề rằng: Thà đâm thà chém, thà mổ thà xả, thà xay thà giã, nhỏ như vi trần, đem cái xác thân nầy, làm nghìn muôn thứ, nào da nào thịt, nào gân nào xương, rơi rác ngoài đường, trong nhà, ngoài ngỏ; trải trăm nghìn kiếp, chịu khổ như thế, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Khi ấy A-Nan, liền bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, đây là kinh gì, lũ chúng con đây đều muốn tụng trì, có được hay chăng. Ðức Phật dạy rằng, chúng con nên biết :
Kinh nầy là Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân chi Kinh, tất cả chúng sinh thảy đều nên tụng. Khi ấy Ðại chúng nghe Phật nói rồi tin, kính phụng lành, lễ tạ mà lui.
Chấm dứt Kinh Phật Nói Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân
Kính lạy Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân kinh.
Kính lạy Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính lạy chư Phật đã đền ân cha mẹ.
Kính lạy Ðức Ma Gia Ðại Thánh Mẫu.
Kính lạy Ngài Quang Mục Ðại Thánh Nữ.
Kính lạy Ngài Diệu Thiện cắt tay cứu Phụ Vương.
Kính lạy Ngài Mục Kiền Liên vào ngục cứu mẫu thân.
Trong Nhân tướng học, tướng vân tay được chia thành hai loại: vân hình xoáy ốc và vân hình nước chảy. Từ hình dạng khác nhau của hai loại vân này có thể đoán biết tính cách và vận mệnh không giống nhau ở mỗi người.
Hai loại vân tay: Hình xoáy ốc và hình nước chảy
16. Ngón cái và ngón giữa có vân hình nước chảy
Đây là tướng tay của người thu không đủ chi, thích tiêu hoang. Cho đến khi về già họ vẫn phải nương tựa vào người khác mà sống. Tuy nhiên, nếu sớm bỏ thói quen hoang phí, thực hành tiết kiệm sẽ có cuộc sống no đủ về sau. 17. Ngón trỏ và ngón áp út có vân hình xoáy ốc
Người có tướng vân tay này thường kiên định về ý chí, không dễ bị khuất phục trước khó khăn. Người này có thể chịu khó, chịu khổ, biết tích lũy cho cuộc sống lâu dài. Cuộc sống về trung và hậu vận của ngày này khá tốt. 18. Ngón giữa và ngón út có vân hình xoáy ốc
Dạng vân kiểu này thể hiện vận mệnh của cuộc đời chủ nhân nó có nhiều sóng gió, lúc thành công, lúc thất bại. Tuy nhiên, chỉ cần người này đừng quá hấp tấp, làm việc theo đúng trình tự thì cuối đời được an nhàn, hưởng phúc. 19. Ngón áp út và ngón út có vân hình xoáy ốc
Người có dạng vân tay này thường có tài hùng biện nhưng lại dễ nóng vội trong hành xử. Chỉ cần người này có ý chí phấn đấu vươn lên thì nhất định sẽ thành công. 20. Ngón trỏ và ngón giữa có vân hình nước chảy
Điều này cho thấy đây là người hiền lành, thực thà, hơn nữa lại được sự tín nhiệm và danh vọng rộng mở. Tuy cuộc sống trước tuổi trung niên không ổn định, thậm chí còn vất vả, nhưng đến khi về già thì có xu hướng thay đổi tốt dần lên. 21. Ngón giữa và ngón áp út có vân hình xoáy ốc
Người có đường vân tay như này có năng lực hành động, nhưng lại thiếu khả năng quyết đoán và phán đoán. Nhưng nếu người này kiên trì làm việc quán triệt tới cùng thì sẽ thành công ở một mức nhất định nào đó. 22. Ngón cái và ngón trỏ có vân hình nước chảy
Tướng vân tay này cho thấy đây là người có tính cách thẳng thắn, đơn điệu, ý chí bạc nhược, tuy có chủ kiến nhưng không biết sắp xếp ổn thỏa cuộc sống. Nếu người này không thay đổi lối sống bấp bênh đó, chắc chắn cuối đời vẫn sống trong nghèo khổ. 23. Ngón giữa và ngón út có vân hình nước chảy Người có kiểu vân tay này có chí hướng cao xa, khéo nắm vững cơ hội. Người này thích hợp làm những việc mang tính đầu cơ, mặt khác càng đến hậu vận thì vận khí của người này càng thuận lợi. 24. Ngón giữa và ngón áp út có vân hình nước chảy
Thông thường, người có vân tay này ngay thẳng, thật thà, coi nhẹ tiền bạc. Tuy nhiên làm việc gì người này cũng không chú tâm, dễ bỏ dở giữa chừng nên thường khó có được thành công lớn. 25. Ngón áp út có vân hình nước chảy
Vì người có dạng vân tay này thường giỏi ứng đối trong quan hệ giao tiếp, hơn nữa lại là người đôn hậu nên dễ nhận được sự đề bạt của cấp trên, sự ủng hộ giúp đỡ của cấp dưới. Vào hậu vận, vận thế của người này cực mạnh, có thể gặt hái được nhiều thành công. 26. Ngón giữa có vân hình nước chảy Người có dạng vân kiểu này giàu dũng khí và tinh thần hiệp nghĩa. Họ luôn cố gắng hết mình để hoàn thành việc được giao, do đó nhận được sự tín nhiệm của mọi người xung quanh. Mặt khác, đây là người tính toán chi li, nếu không sửa chữa dễ gây thù địch hoặc vướng vào những rắc rối về tài chính. 27. Ngón trỏ có vân hình nước chảy Chủ nhân của dạng vân này có tính cách và phẩm chất đạo đức tốt. Cách đối nhân xử thế hiền hòa, khéo léo nhưng không thích hợp với kinh doanh buôn bán mà hợp với làm nghề giáo, làm các công tác tôn giáo hoặc là học giả. 28. Ngón trỏ và ngón giữa có vân hình xoáy ốc
Đây là tướng tay phúc đức, chỉ người có phẩm chất đạo đức cao thượng, tính cách hòa đồng, dễ chiếm được tình cảm và sự ủng hộ của mọi người xung quanh. 29. Ngón cái và ngón áp út có vân hình nước chảy
Chủ nhân của tướng vân tay này là người chất phác, giỏi tích lũy và vun vén. Nếu người này thực sự cố gắng, từng bước tiến lên phía trước thì không bao lâu sẽ có tiền tài và danh vọng. 30. Ngón cái và ngón út có vân hình nước chảy Người có vân tay này thường thẳng thắn nhưng ngoan cố, tính ích kỉ cao, nên dễ đắc tội với người khác. Do đó, phải sau trung vận thì người này mới ổn định cuộc sống và vận khí dần tốt đẹp. Theo Tìm hiểu tính cách con người qua bàn tay Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thùy Dung (##)
Xem tướng phát đại những người đang chuẩn bị đến vận tốt, hào khí quanh người hồng sáng, ngũ quan tươi tắn, trong khi tướng phá bại đi vào vận xấu cần xem
Khi đến vận tốt, xem tướng người phát đạt thấy hào khí tỏa sáng, tinh thần hưng khởi, ngũ quan hồng hào cân đối.
Thông thường, bàn về việc giải đoán tướng mạo, người ta hễ thấy diện mạo khôi ngô tuấn tú, tiếng nói vang dội. Tam đình bình ổn. Ngũ quan cân xứng vội vã cho ngay đó là loại tướng người chắc chắn sẽ có thể phát đạt, nhưng trongđời sống thực tế không thiếu gì kẻ hội đủ các dấu hiệu trên mà không khá giả, hoặc có tướng phát đạt một thời nhưng không được hưởng phúc đến già hoặc nửa đời vinh hoa cực điểm nhưng rốt cuộc nhà tan thân diệt.
Sở dĩ có những hiện tượng đó là vì theo luận của tướng học hoặc do Ngũ hành sinh khắc (ừong cái tốt đã hàm chứa cái xấu) hoặc do tâm tính kiêu sa, độc hại không biết giữ gìn để rồi tự mình làm hại mình trước khi bị người ta làm hại (phần tâm tướng không đi đôi với phần hình tướng).
Ngược lại, ngũ quan, ngũ nhạc không nảy nở, mũi không đẫy đà, thoáng trông không có gì là tướng phát đạt theo định nghĩa thông thường mà vẫn được hưởng phúc lúc trung niên hay tuổi già. Hiện tượng này trong thực tế cũng không hiếm.
Đứng về mặt tướng học chuyên môn, loại tướng người có vẻ không phát đạt mà lại phát đạt, chính là những kẻ có tướng phát đạt đặc biệt, ví dụ như các loại tướng ngũ lộ, ngũ tiểu, ngũ hợp, bát tiểu, cầm thú tướng, nếu các điều kiện hình thức lẫn lộn nội dung của các loại tướng (vốn bị coi là tiện tướng theo nhãn quang thường tục) kể trên phải đồng thời kiêm bị.
Xem tướng phát đạt giàu sang phú quý
Ta hãy lấy ví dụ về tướng ngũ lộ. Tướng ngũ lộ là:
Mắt lồi (vốn là tướng chết yểu).
Tai phản (Luân quách đảo ngược vốn là tướng người ngu độn).
Lỗ mũi hếch lên (tướng của người chết thảm).
Môi cong lên (tướng của người chết thảm).
Lộ hầu (cùng ý nghĩa như môi cong).
Thoáng nhìn qua, tướng người như vậy, kẻ học tướng thông thường vội vã cho là ác tướng, nếu không kết luận là tướng người yểu thọ, bần hàn thì cũng không dám nghĩ đó là tướng người phát đạt. Thế mà, một cá nhân nếu đủ cả ngũ lộ thì lại thường là kẻ phúc thọ song toàn. Tướng “Ngũ lộ câu toàn” tuy thường là tướng phát đạt đặc biệt, nhưng không phải hầu hết là phát đạt, vì chữ câu toàn chỉ mới là hỉnh thức chứ không đủ thực chất đi kèm.
Ví dụ như ngũ lộ mà:
Mắt lộ nhưng không có thần quang.
Tai lộ mà không có vành tai ngoài hoàn mỹ.
Mũi lộ mà chuẩn đầu trơ xương hoặc quặp xuống như mỏ chim ưng.
Môi hếch mà răng sún hoặc khểnh.
Lộ nhưng âm thanh rè và nhỏ thì đó lại là tướng thô trọc, chủ về khốn quẫn, chết non, vì chỉ đắc cách có phần hình thức mà không có phần thực chất nên không phải là tướng phát đạt.
Xem bói pháp có câu: Nhất lộ, nhị lộ thì quẫn bách, bần yểu, ngũ lộ thì phát đạt. Câu nói đó chỉ có tính tương đối. Ngũ lộ câu toàn có phát đạt hay không, còn tuỳ thuộc vào một số điều kiện như đã nói trên. Còn nhất lộ, nhị lộ thì quẫn bách, bần yểu, cũng không phải là điều đương nhiên phải thế. Vì cũng như ngũ lộ câu toàn nhất nhị lộ nhiều khi là tướng của kẻ bần cùng nhưng đôi khi cũng là tướng của người phát đạt. Nếu mắt lộ mà có chân quang và thu tàng thì nếu các bộ vị khác không khuyết hãm thì đến ngoài 40 tuổi sẽ có cơ hội khá giả. Mũi lộ mà khí sắc lúc nào cũng hồng nhuận, cánh mũi dầy và lỗ mũi không hếch lên (tham khảo đoạn nói về các loại mũi điển hình) thì tuy thiếu niên có bị khốn khổ nhưng nói về những vãn niên ắt phát đạt. Môi, tai, lông mày, yết hầu… cũng đều có thể suy diễn tương tự như trên để định xem “lộ” là tốt hay xấu chứ không thể vội vã võ đoán.
Ngoài tướng ngũ lộ được coi là phát đạt (nếu hội đủ cả hình lẫn chất) còn có các tướng ngũ tiểu, bát tiểu, ngũ hợp, tướng cầm thú… cũng đều là tướng phát đạt đặc biệt với điều kiện là hình và chất đi đôi với nhau.
Tóm lại, các tướng đặc biệt vừa kể, tướng pháp gọi đó là biến cách hay phi thường cách để phân biệt với loại tướng người bình thường, đều có thể phát đạt hay không tuỳ theo sự hội đủ được cả hình lẫn chất không. Những loại tướng phát đạt đặc biệt chính là căn cứ vào nguyên tắc “Trọc trung hữu thanh”, “thanh” và “trọc” tương đối dễ phân biệt, nhưng “Thanh trung hữu trọc” và “Trọc trung hữu thanh” thì lại rất khó tìm ra.
Muốn thấu hiểu phải tường tận, phải chuyên tâm nghiên cứu và có năng khiếu đặc biệt bén nhạy. Bởi lẽ trên, chúng ta sẽ không thấy gì đáng ngạc nhiên khi trong các sách nói về tướng học, người ta thường nói “Tâm lĩnh thần hội” nghĩa là những gì uyên thâm cao xa, thì có thể hiểu thấu đáo bằng lối tâm truyền chứ không thể bằng lối ngôn truyền được. Điển hình cho lề lối này là phàn hình nhi thượng của nho giáo do Khổng Tử hấp thụ được chỉ còn lưu lại qua con người của Tử Tư rồi Tử Tư chỉ truyền được đến đời Mạnh Tử là mất chân truyền.
Tuy vậy, mặc lòng sự cố gắng liên tục vẫn là điều tối thiết yếu cho bất cứ ai muốn đạt đến một mức độ thành quả nào đó, còn nằng khiếu đặc biệt về một ngành học càng huyền ảo, thì lại càng khó phát hiện nếu chưa nỗ lực tới mức tối đa. Vì vậy, độc giả không nên thấy khó mà đã vội ngã lòng khi nghiên cứu và ứng dụng nguyên lý thanh trọc trong tướng học “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông” kia mà.
Tướng người được nể trọng
Càng có nhiều đặc điểm dưới đây thì càng chính xác. Đây là một số điểm xem tướng người luôn được mọi người kính nể, nói lời thì nghe lời, kính trọng khuôn phép.
– Lòng bàn chân bằng phẳng. – Dưới hai lòng bàn chân có hiện ra hình bánh xe với đầy đủ các bộ phận, vành xe, trục xe và nan hoa xe. – Gót chân thon dài. – Ngón tay ngón chân dài. – Tay chân mềm mại. – Tay chân có chỉ giăng như màn lưới. – Mắt cá chân dáng như con sò. – Ống chân thon thả như chân hươu. – Đứng thẳng không khom xuống, cũng có thể với bàn tay sờ chạm đầu gối. – Ngọc hành ẩn kín trong bọc da. – Màu da sáng ánh như vàng ròng. – Da thật láng mịn, bụi bặm không bám. – Mỗi lỗ chân lông mọc chỉ một sợi lông. – Lông mọc hướng về phía trên, các lông có màu xanh đen và xoáy tròn chiều bên hữu. – Thân hình ngay thẳng. – Bảy chỗ là: cổ, 2 lưng bàn tay, 2 lưng bàn chân, 2 bả vai, đều no đầy. – Bán thân trên tựa như mình sư tử. – Lưng bằng phăng. – Thân cân đối như cây bàng, thân cao bằng sải tay và sải tay dài bằng thân. – Vị giác nhạy bén, tức là thần kinh lưỡi cực nhạy dễ dàng hấp thụ hưong vị thức ăn. – Cần cổ ừòn trịa, thẳng đều. – Cằm tròn như cằm sư tử. – Răng bằng và đều. – Răng mọc khít nhau. – Bốn chiếc răng nhọn thật trắng sạch. – Lưỡi rộng dài. – Tiếng nói trong ấm rõ ràng như tiếng chim karavika. – Tròng mắt đen huyền. – Lông mi dài mịn như mi mắt con bê. – Giữa đôi lông mày có chùm lông trắng mềm như bông. – Đầu có nhục kế, là xương đỉnh đầu nổi vung lên.
Tướng phá bại số kiếp long đong
Các dấu hiệu của sự phá bại (phá bại dùng ở đây có nghĩa rộng rãi), bao gồm:
Số kiếp long đong vất vả về một hay nhiều lĩnh vực của đời người, không bao giờ có thể khá giả, công danh, sinh kế trì trệ.
Tâm tính thấp hèn, ngu muội quá mức bình thường.
Kết quả cuộc đời thường bi thảm: chết trong cô đơn, chết bất đắc kỳ tử, chết thảm, đói rách, bị khinh rẻ,…
Đứng về mặt hình tướng, tướng người phá bại được nhận ra nhờ các dấu hiệu bề ngoài sau đây:
– Trán nhỏ, nhọn, hẹp, chủ về hình khắc, công danh trắc trở, thuở thiếu niên gặp nhiều tai họa. – Lông mày mọc thấp, lan xuống gần bờ mắt chủ về cùng khốn. Lông mày thưa thớt chủ về vất vả, nhọc nhằn trong cuộc sống, đứt đoạn chủ về công việc thành bại thất thường, ngắn cụt chủ về nghèo hèn… – Mắt vừa ngắn vừa nhỏ chủ về tâm địa nhỏ mọn, nếu thêm mặt mập núng nính như mặt lợn thì sẽ chết không toàn thây. – Mắt lớn, lồi và hời hợt, chủ về chét non, lộ và có hùng quang chủ về chét thảm, đồng tử vàng và lờ đờ thần chủ về khắc thê và hay bị hình phạm. – Mũi hếch và lộ chủ về phá tán, cùng khốn. Thấp hoặc có gân, có vạch chủ về công ăn việc làm lên xuổng thất thường, chuẩn đầu má cao so với khuôn mặt và nhất là so với lưỡng quyền thì chủ về cô đơn hay phá bại, quá lớn và mỏng gọi là không phù hoặc nghiêng lệch đều chủ về cô đơn trì trệ. – Miệng nhỏ, môi mỏng chủ về nghèo hèn, rộng mà lệch, lớn mà thường há hoác ra không khép kín lại đều chủ về cô đon, nghèo hèn. Môi chúm lại và nhô cao lên, khóe miệng trễ xuống, pháp lệnh ăn vào khoé miệng đều có ý nghĩa tưong tự. Riêng pháp lệnh ăn vào khoé miệng gọi là “Đằng xà nhập khẩu” dù các bộ vị khác có tốt nhung chung cuộc cũng chết đói hoặc chết đường chết chợ. – Tai không có luân, quách rõ ràng minh bạch chủ về cùng khốn, mỏng nhọn chủ về nghèo túng, đen đủi, thấp, lệch chủ về hèn mọn chết non.
Đại để nhũng kẻ mà ngũ quan đều vấp phải một trong các khuyết điểm của từng Quan kể trên khả dĩ đủ để xếp vào loại tướng người phá bại.
Ngoài tướng phá bại vì ngũ quan khuyết hãm kể trên còn có một số hình cách đặc biệt sau đây cũng bị xếp loại vào tướng phá bại:
Tướng lục cực
Tướng lục cực đó là người có một trong sáu dáng dấp cực đoan sau đây:
Đầu lớn nhưng cổ nhỏ: chủ về bần tiện, yểu vong. Riêng đàn bà đầu lớn cổ nhỏ vai ngang là số góa bụa, làm bé.
Mặt lớn, đầu nhỏ: chủ về nghèo và tính nết độc ác.
Thân thể phì nộn, cao lớn mà tiếng nói quá nhỏ, không có âm lượng, chủ về vãn niên nghèo khổ, chết chờ tay người ngoài tống táng.
Ức nổi cao mà bụng dưới lại quá lõm: chủ về hậu vận không ra gì.
Vai lưng quá trơ xương so với toàn thể các phần khác của thể: chủ về nghèo hèn không con cái.
Tướng lục tiện
Xét về mặt tâm tướng, vô luận hình hài ra sao, nếu phạm vào một trong các khuyết điểm sau về đức hạnh cũng thuộc về tướng lục tiện:
Không biết liêm sỉ, giữ gìn đạo lý.
Thường tự khoe mình (tự cao, tự đại).
Thích châm chích những khuyết điểm của người.
Không có gì đáng cười mà lại cười như kẻ phát khùng.
Không biết lẽ tiến thoái trong khi giao thiệp hay làm việc.
Lúc ăn hay nói chuyện huyên thuyên trên trời dưới đất (đây phải là một có tật bẩm sinh mới kể. Còn như với dụng tâm làm sai lạc nhận định của người chung quanh thì không kể).
Tướng lục nại
Lông mày thô, mọc thẳng đứng, không xuôi theo chiều từ đầu đến đuôi mắt chủ về hay bị hình phạm.
Ngay giữa sơn căn có một lằn sâu chạy xuyên qua ấn đường lên tới giữa trán.
Sống mũi cao gầy trơ xương: chủ về khổ sở, tai nạn.
Tròng mắt lồi cao rất tốt rõ: chủ về hình khắc.
Sống mũi có xương phát triển về chiều ngang và nổi cao lên chủ về trung niên phá tán, long đong vất vả.
Răng vẩu và khấp khểnh, lồi ra khỏi miệng chủ về bực dọc lo lắng uất ức suốt đời.
Xương lộ, thịt xệ và thường gặp tai nạn, hung hiểm và có số cơ hàn.
Tướng lục ác
Đầu quá nhỏ, bần tiện, ngu độn.
Mắt dê: chết thảm hoặc đoản mệnh
Môi chúm cong lên, răng lởm chởm: nghèo túng.
Yết hầu lộ: khắc vợ, muộn con, hay gặp tai vạ.
Tam đình bất quân xứng, Hạ đình đặc biệt dài và nhọn chủ về nghèo khổ, cô đơn lúc tuổi già.
Đi thân hình lắc lư như rắn bò, bước chân nhún nhảy như chim chìa vôi: long đong khốn quẫn.
Tướng thập sát
Mặt mày lúc nào cũng ngơ ngác như kẻ si ngốc.
Thần khí hôn ám thô bỉ.
Lòng trắng mắt pha hồng vì thiên bẩm.
Lỗ mũi hếch hếch, sống mũi quá thấp gần như vào mặt phẳng của khuôn mặt.
Không bệnh tật mà có thói quen bẩm sinh hay khạc nhổ dường như trong miệng lúc nào cũng có đờm.
Chỉ có râu cằm mà môi trên không có ria.
Lúc ăn uống thường đổ mồ hôi dù rằng thân thể không bị bệnh và trong khi mọi người khác ở vào hoàn cảnh tương tự không có đổ mồ hôi.
Tự nói, tự cười với chính mình mà không cần người đối thoại.
Thanh âm khan lạnh giống như tiếng chó sói tru.
Cơ thể có khí hôi do bệnh tình mà ra.
Càng gặp nhiều sát thì mức độ hung hiểm càng gia tăng và sự giải đoán càng thêm chính xác.
Ngoài những nét tướng hình thể ở vị thế tĩnh hoặc bán tĩnh, bán động đề cập ở mục vừa kể liên quan đến phát đạt hay phá bại, ta còn phải kể đến những nét tướng về thần, khí sắc (đặc biệt là khí, sắc) ở từng bộ vị một.
Mệnh Thân và Hạn tốt - Người có cung Mệnh tốt thì chỉ xứng ý toại lòng lúc còn trẻ tuổi, đến tuổi trung niên và hậu vận thì cũng cần phải được cung Thân tốt thì mới được trọn vẹn. Nếu được Hạn tốt nữa thì ví như gấm thêm hoa.
Mệnh Thân tốt gặp Hạn xấu - Mệnh Thân tốt có thể giải trừ được một phần lớn ảnh hưởng xấu của Hạn.
Mệnh Thân xấu được Hạn tốt - Được phát ví như lúa non gặp mưa thuận gió hòa, cây khô gặp mùa Xuân, nhưng không bền.
Mệnh Thân và Hạn xấu - Rất xấu như sinh bất phùng thời.
Ảnh hưởng của Chính tinh là Nam hay Bắc Đẩu Tinh nhập hạn trong Tu Vi
Nam Đẩu Tinh nhập hạn - Ảnh hưởng mạnh mẽ vào khoảng nữa phần thời gian sau của Đại và Tiểu vận. Nếu bị Tuần Triệt thì đoán ngược lại.
Các Nam Đẩu Tinh là Thái Dương - Thiên Cơ - Thiên Đồng - Thiên Lương - Thiên Tướng và Thất Sát. Các chính tinh trên hợp với người dương nam và âm nữ, nếu được miếu vượng hay đắc địa thì càng thêm tốt đẹp.
Riêng hai chính tinh Tử Vi và Thiên Phủ là Nam Bắc Tinh
Bắc Đẩu Tinh nhập hạn - Ảnh hưởng mạnh mẽ vào khoảng nữa phần thời gian đầu của Đại và Tiểu vận.
Các Bắc Đẩu Tinh là Thái Âm - Vũ Khúc - Tham Lang - Liêm Trinh - Phá Quân và Cự Môn. Các chính tinh trên hợp với người âm nam và dương nữ, nếu được miếu vượng hay đắc địa thì càng thêm tốt đẹp.
Ảnh hưởng của Sao nhập hạn
Ảnh hưởng các Sao lưu động mỗi năm
Đại Tiểu Hạn trùng phùng
Cung gốc đại vận 10 năm với lưu niên tiểu vận đồng cung, sự việc tốt xấu hay dở của năm xem hạn tại cung trùng phùng này sẽ gia tăng.
Thí dụ: hạn năm Ngọ 32 tuổi lưu niên chữ Ngọ trùng với cung gốc của đại vận 23-32 tuổi
Yếu tố thiên thời của đại-vận (10 năm) trong Tu Vi
Mỗi đại-vận là một thiên-thời, đắc được thiên-thời gặp vận hội tốt đời sẽ lên hương, còn mất thiên-thời thì đời sẽ thấy khó-khăn để rồi đi xuống.
Lấy ngũ hành của tam hợp tuổi đem so-sánh với hành tam hợp của cung đại vận nhập hạn:
Tam hợp tuổi tương đồng hành tam hợp vận - đắc vận Thái-tuế (thiên-thời) là đại-vận tốt đẹp nhất trong đời; thêm sao tốt nhập hạn thì được như gấm thêu hoa, nếu gặp ách-nạn thì cũng sẽ được cứu-giải mà qua khỏi.
Trường-hợp bị Hung-sát-tinh phá cách như Không-Kiếp ... thì vẫn được lên nhưng rồi dễ xuống, hay gặp khó-khăn và trở-ngại, vận hội tốt còn hưởng độ 50% mà thôi.
Đại-vận này cần phải được thêm tam-hợp Sinh-Vượng-Mộ hổ trợ thì mới được hưởng vận Thiên-thời một cách chính-đáng, trọn-vẹn và bền-bỉ.
Thí dụ: các người tuổi Dần-Ngọ-Tuất đại vận 10 năm đến các cung Dần-Ngọ-Tuất (đại vận hỏa đồng hành tam-hợp tuổi hỏa)
Tam-hợp-vận sinh-nhập hành tam-hợp-tuổi - được thuận-lợi và sức-khỏe tốt; tuy-nhiên vì nằm trong tam-hợp Thiên-không nên cũng hay dễ xảy ra những sự thất-bại và buồn lòng, nếu đắc Hóa-khoa có thể cứu-giải.
Thí dụ: các người tuổi Dần-Ngọ-Tuất đại vận 10 năm đến các cung Hợi-Mão-Mùi (đại vận mộc sinh hành tam-hợp tuổi hỏa)
Tam-hợp-tuổi khắc-xuất hành tam-hợp-vận - bị sa-lầy, nhiều vất-vả (Thiếu-âm), phải gắng công tranh-đấu (Phá-Hư-Mã); có thể nhờ đến phần Nhân-hòa (sao) giúp-đỡ.
Thí dụ: các người tuổi Dần-Ngọ-Tuất đại vận 10 năm đến các cung Tỵ-Dậu-Sữu (đại vận kim bị hành tam-hợp tuổi hỏa khắc)
Tam-hợp-vận khắc-nhập hành tam-hợp-tuổi - khắc ngược rất xấu, cần phải có được nhiều sao tốt để cứu giải.
Thí dụ: các người tuổi Dần-Ngọ-Tuất đại vận 10 năm đến các cung Thân-Tý-Thìn (đại vận thủy khắc hành tam-hợp tuổi hỏa)
Yếu tố địa lợi của Đại-vận (10 năm) trong Tu Vi
Địa-lợi là nơi an thân của bản mệnh tại đại vận. Nếu cung hạn tương sinh tất bản mệnh sẽ được vững chắc an lành. Phần này phải lấy ngũ hành nạp âm của mệnh so-sánh với ngũ hành của cung nhập-hạn :
Tương-Sanh - sức-khỏe dồi-dào và thường gặp may-mắn.
Thí dụ người mệnh hỏa đại vận đến hai cung Dần-Mão thuộc mộc được tương sinh.
Tương-Khắc - sức-khỏe kém, thường gặp nhiều khó-khăn và bất trắc xảy ra.
Thí duï người mệnh hỏa đại vận đến hai cung Hợi-Tý thuộc thủy bị tương khắc.
Nếu hành bản mệnh bị hành của cung đại-vận khắc rất xấu, nhưng được Chính-tinh tại cung đại-vận sinh-nhập lại mệnh (tức cung sinh sao và sao sinh lại mệnh) là cách "tuyệt xứ phùng sinh" rất tốt (ví dụ người mệnh hỏa bị hành của cung đại vận tại Hợi hay Tý thuộc thủy khắc, nhưng lại được chính tinh Thiên Cơ hoặc Thiên Lương tại Hợi-Tý thuộc mộc sinh lại bản mệnh)
Yếu tố nhân hòa của đại-vận (10 năm) trong Tu Vi
Nhân-hòa là thứ cách quan trọng sau yếu-tố Thiên-thời, nếu được Thiên-thời và Địa-lợi nhưng không được phần "Nhân-hòa" thì dù bản-thân có may-mắn đến đâu thì cũng phải bị nhiều vất-vả mới được thành-công, vì ít được sự trợ-giúp của bên ngoài.
Phần này phải xem bộ Chính tinh Đại-vận có cùng hay khác thế lưỡng-nghi với bộ Chính tinh của tam hợp Mệnh:
Nếu Chính tinh đồng bộ cùng phe phái lưỡng-nghi (như Tử-Phủ-Vũ-Tướng gặp Sát-Phá-Liêm-Tham) thì khi chuyển vận gặp nhau ít thay-đổi, thêm Trung-tinh đắc cách tam-hợp thì được hòa-thuận tốt đẹp.
Bằng như khác phe phái (như Cơ-Nguyệt-Đồng-Lương gặp Sát-Phá-Liêm-Tham) thì hẳn là có sự đụng-độ và khó-khăn, phần thiệt-hại vẫn là phần của phe yếu thế là Cơ-Nguyệt-Đồng-Lương; nếu gia thêm Sát-tinh nhập hạn thì sẽ gặp nhiều chuyện không may.
Tư-thế của bốn bộ Chính tinh (Tứ tượng) trên muốn được thêm hoàn-mỹ và thành-công thì cần phải có tối thiểu:
- Bộ T-P-V-T cần nhất là Tả-Hữu, Thai-Tọa
- Bộ S-P-L-T cần nhất là Thai-Cáo và Lục-sát-tinh
- Bộ C-N-Đ-L cần nhất là Xương-Khúc và Khôi-Việt
- Bộ C-N cần nhất là Hồng-Đào, Quang-Quý
* So-sánh hành Sao nhập hạn sinh hay khắc với hành Mệnh, bộ Sát-Phá-Liêm-Tham mỗi khi nhập hạn thường có những cuộc thăng-trầm khá quan-trọng xẩy ra.
Luận về Lưu niên đại hạn trong Tu Vi
Ngoài cách xem các đại vận 10 năm ra, nếu muốn xem đại vận một cách tường tận hơn thì phải xem cả lưu đại hạn của từng năm một.
Nếu muốn biết xem lưu đại vận từng năm một của mỗi 10 năm đại vận thì phải khởi năm thứ nhất từ con số đầu ghi ở cung gốc đại hạn muốn xem, tính tiếp sang cung xung chiếu của cung gốc hạn là năm thứ hai, sau đó:
Dương Nam - Âm Nữ : Từ năm thứ hai ở cung xung chiếu lùi lại một cung (theo chiều nghịch kim đồng hồ) là năm thứ ba, xong trở thuận lại cung xung chiếu ghi số tiếp năm thứ tư, rồi tiếp tục theo chiều thuận ghi tiếp mỗi cung một số cho các năm kế tiếp cho đến cung gốc của đại hạn sau.
Xem bảng thí dụ cách tính lưu đại vận của 10 năm đại vận từ 22 đến 31 tuổi của tuổi Dương Nam / Thủy Nhị Cục bên trái dưới đây.
Âm Nam - Dương Nữ : Từ số của năm thứ hai ở cung xung chiếu tiến lên một cung (theo chiều thuận kim đồng hồ) ghi số kế tiếp là năm thứ ba, xong trở lùi lại cung xung chiếu ghi số tiếp năm thứ tư, rồi tiếp tục theo chiều nghịch ghi tiếp mỗi cung một số cho các năm kế tiếp cho đến cung gốc của đại hạn sau.
Luận về Lưu niên tiểu vận (1 năm) trong Tu Vi
Trong lá số Tử Vi, chung quanh phần địa bàn (trung tâm của lá số) kế bên ô mỗi cung đều được ghi 1 địa chi (ví dụ Tý-Sửu-Dần-Mão ...) theo chiều nam thuận nữ nghịch, đó chính là năm tiểu vận tại mỗi cung của đời người - ví dụ năm Kỷ Mão thì xem tiểu vận tại cung có ghi chữ Mão, năm Canh Thìn thì xem tiểu vận tại cung có ghi chữ Thìn ...
Khi xem tiểu vận phải xem phối hợp với cung gốc của 10 năm đại vận của tiểu vận đó. Tiểu hạn (dầu tốt hay xấu) chỉ phụ giúp thêm hay làm giảm bớt 10% ảnh hưởng của Đại vận.
Mỗi tiểu hạn, chúng ta cần phải so sánh đến các tương quan giữa Can Chi của tuổi với Can Chi của năm nhập hạn vaø ngũ hành của các sao nhập hạn, sau đó phải so sánh hành bản mệnh với hành của cung tiểu vận nhập hạn theo bảng dưới đây để biết được tiểu vận đó tốt hay xấu.
So sánh hành Can của tuổi và Can năm nhập hạn (gốc, quan hệ)
So sánh hành Chi của tuổi và Chi năm nhập hạn (ngọn, thứ yếu)
So sánh hành bản mệnh và hành của năm hạn (tính theo nạp âm) để biết mức độ đắc thất.
So sánh Can của tuổi và Hành sao nhập hạn phụ thêm để quyết định.
Phụ luận :
Trong đời người từ nhỏ đến 60 tuổi có 5 lần gặp năm Thiên khắc Địa xung nhưng chỉ có 2 lần xung quan trọng là Năm 43 tuổi (hàng Can bị sinh xuất) và Năm 67 tuổi (hàng Can bị khắc nhập) vừa là giai đoạn gặp Thiên thương hay Thiên sứ.
Còn Năm 49 tuổi thường xấu vì tuy hàng Can của năm được sinh nhập (hưng vượng) nhưng hàng Chi lại nằm ở thế Phá Hư (không đắc ý) nên khiến cho từ chổ thành công mà lại đưa đến chỗ thất bại bất mãn; chẳng khác gì cây bị úng nước, rể phải hư và ngọn bị héo tàn.
Từ 49 đến 50 tuổi, 53 đến 60 tuổi và từ 67 đến 70 tuổi là ba đoạn đường đổ dốc để lượn lên các ngôi sơ thọ (50) - trung thọ (60) và thượng thọ (70) luôn luôn có Thương cung Nô và Sưù cung Ách là hai đồn canh đứng chặn giữa ba đoạn đường đại vận này để kiểm soát suôi ngược.
Người lái xe phải lành nghề (vòng Thái Tuế) vững tay lái, xe không ham chở nặng (Quyền Lộc) thì mới mong được an toàn.
Thương (thổ cung Nô) phụ tá của Thiên Sứ, gây ra tổn hại; có phần nào nhẹ tay hơn Sứ (cho người có đại vận đi xuôi gặêp Thương trước).
Sứ (thủy cung Ách) thi hành lệnh gieo tai ách
Mức độ nặng nhẹ của Thương-Sứ thi hành nhiệm vụ là tùy thuộc vào các Sát tinh nhập cuộc tại cung Nô và Ách như Văn Xương, Kình Dương (cung Tứ chính / các tuổi Giáp Mậu Canh Nhâm), Không Kiếp, Thiên Không, Tang Môn ...
Ngoài ra trong 3 đại vận liên tiếp trên, ít nào cũng năm sáu lần tiểu hạn đụng đầu Đào Hồng gặp Thiên không, Lưu hà và Kiếp Sát rất dễ gây ra sức ép với tuổi già.
Trừ phi Mệnh hay Thân đắc Thọ tinh hợp hành làm nồng cốt và không bị nghiệp báo Hình Riêu, Không Kiếp lũng đoạn.
Trong đời người, cứ mỗi 12 năm thì có 3 năm liên tiếp gặp hạn tam tai, thường thì hạn năm giữa là nặng nhất. Trong các năm nhập hạn tam tai thường gặp nhiều trở ngại, rủi ro hoặc khó khăn trong công việc. Ngoài ra không nên tu tạo hay tậu mãi nhà đất trong những năm hạn này. Còn việc hôn nhân, cưới hỏi thì ít bị ảnh hưởng. Đây chỉ là những dự đoán về hạn xấu chung để mà phòng tránh thôi chứ không chắc hẳn sẽ xảy ra như vậy.
Nếu năm nhập hạn trong lá số Tử Vi tốt thì hạn xấu của năm tam tai sẽ được giảm bớt, ngược lại nếu năm hạn trong lá số xấu mà gặp thêm năm tam tai thì năm hạn xấu sẽ càng xấu thêm.
Theo "Thọ mai gia lễ", có năm hạng tang phục tuỳ theo quan hệ huyết thống và nghĩa tình phân biệt thân sơ: 1.Đại tang: Trảm thôi và tề thôi. Quần áo sổ gấu gọi là trảm thôi: Con để tang cha. Quần áo không sổ gấu gọi là tề thôi: Con để tang mẹ, vợ để tang chồng khi cha chưa mất. Thời hạn: 3 năm, đời sau giảm bớt còn 2 năm 3 tháng (sau lễ giỗ đại tường 2 năm, thêm 3 tháng dư ai). áo xô, khăn xô có hai giải sau lưng (gọi là khăn ngang).
Thời nay, nhiều nơi đã bãi bỏ những tang phục này. ở thành phố nhiều nhà dùng băng đen theo tang chế châu Âu, theo ý chúng tôi, tiện hơn.
Con trai, con gái, con dâu đều để tang cha mẹ. (Kể cả đích mẫu, kế mẫu, dưỡng mẫu, từ mẫu và dưỡng phụ).
Vợ để tang chồng.
Nếu con trưởng mất trước thì cháu đích tôn để tang ông bà nội cũng đại tang thay cha.
2. Cơ niên: Để tang một năm. Từ niên cơ trở xuống dùng khăn tròn, vải trắng, không gậy.
Cháu nội để tang ông bà nội.
Con riêng của vợ để tang bố dượng nếu bố dượng có công nuôi và ở cùng, nếu không ở cùng thì không tang; trước có ở cùng sau thôi thì để tang 3 tháng.
Con để tang mẹ đẻ ra mình nhưng bị bố rẫy (xuất mẫu), hoặc cha chết, mẹ lấy chồng khác (giá mẫu).
Chồng để tang vợ cả có gậy, nếu cha mẹ còn sống thì không gậy.
Cháu để tang bác trai bác gái, chú, thím và cô ruột.
Anh chị em ruột để tang cho nhau (cùng cha khác mẹ cũng tang một năm, cùng mẹ khác cha thì tang 5 tháng).
Cha mẹ để tang con trai, con gái và con dâu cả, kể cả con đi làm con nuôi nhà người.
Chú, bác, thím cô ruột để tang cho cháu ( con anh em ruột).
Ông bà nội để tang cho cháu trưởng (đích tôn).
Đích mẫu, kế mẫu, từ mẫu tang các con chồng, thứ mẫu tang con mình và con chồng như nhau đều một năm. Tang con dâu cả cũng một năm.
Con dâu để tang dì ghẻ của chồng (tức vợ lẽ cha chồng).
Rể để tang cha mẹ vợ (vợ chết đã láy vợ khác cũng vậy).
Nàng hầu để tang cha mẹ chồng, vợ cả của chồng, các con chồng cũng như con mình (các họ hàng bàng thân bên nhà chồng đều không tang).
3. Đại công: để tang 9 tháng.
Anh chị em con chú con bác ruột để tang cho nhau.
Cha mẹ để tang con dâu thứ hoặc con gái đã lấy chồng.
Chú, bác thím ruột để tang cháu (con gái đã xuất giá, con dâu của anh em ruột).
Cháu dâu để tang ông bà của chồng, chú, bác, thím ruột, hoặc cô ruột của chồng.
Mẹ để tang con dâu thứ và con gái riêng của chồng.
Con gái đã xuất giá để tang bác trai, bác gái, chú thím, cô ruột.
4. Tiểu công: Để tang 5 tháng.
Chắt để tang cụ. (Hoàng tang: Chít khăn vàng)
Cháu để tang anh chị em ruột của ông nội (ông bà bác, ông chú, bà thím, bà cô).
Con để tang vợ lẽ, nàng hầu của cha ( nếu cha giao cho nuôi mình thì để tang 3 năm như mẹ đẻ).
Cháu để tang đường bá thúc phụ mẫu và đường cô (anh chị em con chú bác ruột của cha).
Anh chị em con chú, bác ruột để tang cho vợ của nhau.
Anh chị em chung mẹ khác cha để tang cho nhau (vợ con của anh chị em ấy thì không tang).
Chú bác ruột để tang cho cháu dâu (con dâu của anh em ruột).
Ông bà bác, ông chú, bà thím, bà cô để tang cho cháu (tức là cháu nội của anh em ruột).
Ông bà nội để tang cho vợ cháu đích tôn hoặc cháu gái xuất giá.
Cháu ngoại để tang ông bà ngoại và cậu ruột, dì ruột (anh chị em ruột của mẹ, kể cả đối với anh chị em ruột của đích mẫu, thứ mẫu, kế mẫu).
Cháu dâu để tang cô ruột của chồng.
Chị dâu, em dâu để tang anh chị em ruột của chồng và con của những người đó (tức là cháu gọi bằng bác, bằng thím).
5. Ty ma Phục: Tang 3 tháng.
Chít để tang can (kỵ) nội (ngũ đại : Hồng tang chít khăn đỏ).
Chắt để tang cụ nhà bác, nhà chú (tằng tổ bá thúc phụ mẫu và tằng tổ cô, tức là anh em ruột với cụ nội).
Cháu để tang bà cô đã lấy chồng (chị em ruột với ông nội).
Cháu để tang cô bá (chị em con chú bác ruột với bố).
Con để tang bố dượng (nếu trước có ở cùng, sau mới về bên nội).
Con để tang nàng hầu của cha.
Con để tang bà vú (cho bú mớm).
Cháu để tang tộc bá thúc phụ mẫu (anh em cháu chú, cháu bác với cha).
Chồng để tang vợ lẽ nàng hầu.
Anh chị em họ nội 5 đời để tang cho nhau.
Bố mẹ vợ để tang con rể.
Ông bà ngoại để tang cháu ngoại và cháu dâu ngoại.
Ông của chồng để tang cháu dâu.
Cụ để tang cho chắt nội.
Cháu để tang vợ cậu, chồng cô, chồng dì có cùng ở một nhà.
Anh chị em con cô ruột và bạn con dì ruột để tang cho nhau.
Cậu ruột để tang vợ của cháu trai
Cháu dâu để tang ông bà ngoại của chồng, cậu ruột, dì ruột chồng
Cháu dâu để tang các ông bà anh chị em ruột với ông nội chồng.
Chắt dâu để tang cụ nội của chồng.
Cụ để tang chắt nội trai gái.
Ông bà để tang các cháu gái của con nhà chú, nhà bác.
Tang bên cha mẹ nuôi:
Kỵ bên cha nuôi thì 3 tháng, cụ bên cha nuôi thì 5 tháng, ông bà thì một năm.
Cha mẹ nuôi thì áo bằng gấu, hoặc sổ gấu 3 năm có cả gậy.
Từ ông bà trở lên nếu mình thừa trọng cũng sổ gấu 3 năm.
Ông bà sinh ra mẹ nuôi thì 5 tháng, còn thì đều không có.
Tang họ nhà mình (Đã là con nuôi người khác, để tang bên họ của mình):
Ông bà sinh ra cha thì 9 tháng.
Cha mẹ sinh ra mình thì 1 năm có gậy.
Bác trai bác gái, chú, thím và cô là anh chị em ruột với cha thì đều 9 tháng. Cô đã giá thì 5 tháng.
Anh chị em ruột thì 9 tháng, chị dâu, em dâu thì 3 tháng, chị em đã xuất giá thì 5 tháng.
Ông bà sinh ra mẹ thì 3 tháng.
Xét trong lễ nói rằng: Con gái đã xuất giá thì các tang có giáng, song đi lấy chồng, hoặc phải chồng rẫy bỏ, hoặc chồng chết, con lại chẳng có, lại trở về nhà cũng như chưa lấy chồng, tang chẳng có giáng
Nếu đương để tang cha mẹ được một năm mà chồng rẫy bỏ thì phải tang cha mẹ 3 năm, hoặc để tang cha mẹ được 1 năm đã trừ phục đoạn thì chẳng được để lại 3 năm, dù phải chồng dẫy trước, sau mới để tang cha mẹ chưa đủ 1 năm mà chồng mới gọi về thì chẳng nên về vội phải nên để trọn 3 năm.
Trường phục: có ba loại:
Trưởng trường: Từ 16-19 tuổi
Trung trường: Từ 12-15 tuổi
Hạ trường: Từ 8-11 tuổi
(Đều lấy thứ tự giáng một bậc).
Ví dụ: Giai đã lấy vợ, gái đã lấy chồng, dẫu còn trẻ cũng không thể gọi là trường được, nhưng vốn mình phải tang 1 năm trưởng trường giáng xuống 9 tháng, trung trường giáng xuống 7 tháng, hạ trường giáng xuống 5 tháng.
Như vốn tang 9 tháng, trưởng trường giáng 7 tháng, trung trường giáng 5 tháng, hạ trường giáng 3 tháng, các trường hợp khác đều như thế mà suy.
Lấy chồng xem tuổi đàn bà, làm nhà xem tuổi đàn ông, xem hướng nhà theo tuổi người đàn ông trụ cột trong gia đình là truyền thống lâu đời của người Việt. Lịch Ngày Tốt xin hướng dẫn xem hướng nhà tốt xấu cho nam giới tuổi Dần, mời các bạn tham khảo.
Xem hướng nhà theo tuổi là cách đảm bảo vị trí nhà phù hợp với mệnh của chủ gia đình, mang tới phúc khí, may mắn cho cả gia trạch. Đàn ông tuổi Dần khi làm nhà, mua nhà, hãy chú ý chọn cho mình hướng cát, tránh hướng hung theo những gợi ý cụ thể sau.
1. Tuổi Canh Dần 2010 – mệnh Cấn
- Hướng tốt:Hướng Tây Nam – Sinh khí: Nhà này giàu có về điền sản, nhiều nhân đinh, hạnh phúc. Nhưng do Mộc tinh hành Mộc khắc hướng (Thổ) nên về sau sẽ kém dần.Hướng Tây – Diên niên: Nhà này phát tài phát lộc nhanh chóng. Con cháu thông minh, đỗ đạt cao, gia đình hạnh phúc.Hướng Tây Bắc – Thiên y: Nhà này được giàu sang phú quý, người nhà lương thiện, nhân đinh nhiều, tài lộc dồi dào theo phúc đức để lại. Do nhà thuần dương nên phụ nữ ốm yếu. - Hướng xấu:Hướng Đông Bắc – Phục vị: Nhà này lúc đầu có tiền tài, có của ăn của để nhưng về sau suy dần. Nhà này dương thịnh, âm suy nên phụ nữ và con gái trong nhà sẽ kém hơn nam giới về sức khỏe và công danh tiền tài.Hướng Đông Nam – Tuyệt mệnh: Nhà này thường gặp nguy hiểm từ bên ngoài vào. Người trong nhà dễ mắc bệnh chứng gió, dễ gặp tai họa, trộm cướp, thiệt mạng. Con út là người dễ thương tổn.Hướng Đông – Lục sát: Nhà này ban đầu bình yên, về sau suy dần. Nhà này dương thịnh, âm suy nên con gái trong gia đình hay bị tổn thương, con trai út cũng hay bị tổn thương, ốm đau.Hướng Nam – Họa hại: Nhà này lúc đầu cũng giàu có, nhưng về sau tài lộc suy dần, nhân khẩu không tăng, vợ lấn át chồng, gia đình hay mâu thuẫn.Hướng Bắc – Ngũ quỷ: Nhà này nhiều chuyện thị phi, kiện tụng cãi vã. Gia sản ngày càng suy, không vượng. Do nhà dương thịnh, âm suy nên phụ nữ và con gái trong nhà hay bị tổn thương. Xem thêm bài viết Tính chất cơ bản của 24 hướng nhà
2. Tuổi Mậu Dần 1998 – mệnh Khôn
- Hướng tốt:Hướng Đông Bắc – Sinh khí: Nhà này nhiều tài lộc, giàu sang phú quý, nhiều tiền của, con cái thành đạt, nhiều đất đai. Về sau sẽ kém vì hành Mộc của sao Sinh khí sẽ làm suy giảm tài lộc.Hướng Tây Bắc – Diên niên: Nhà này nhiều tài lộc, giàu có, có danh có tiếng, con cháu thông minh học giỏi, gia đình hạnh phúc, người trong nhà trường thọ.Hướng Tây – Thiên y: Nhà này âm thịnh dương suy, ít con trai. Nhà này gia đạo tốt, nhiều tài lộc làm ăn, nhưng về sau dễ suy kém về kinh tế.- Hướng xấu:Hướng Tây Nam – Phục vị: Nhà này thời gian đầu cũng cũng phát đạt giàu có, nhưng về sau bị tổn hại, nam bị tổn thương, nữ nắm quyền trong gia đình, có khi trở thành cô quả.Hướng Tây Bắc – Tuyệt mệnh: Nhà này làm ăn suy bại, không giàu có. Sức khỏe suy yếu, con trai thứ dễ tổn thọ sớm.Hướng Nam – Lục sát: Nhà này những năm đầu cũng có tài lộc, nhưng về sau sa sút, giảm đinh, dương khí suy do đó nam giới đoản thọ, thiếu con nối dõi.Hướng Đông – Họa hại: Nhà này lúc đầu giàu có, nhân khẩu tăng, nhưng về sau thì sa sút, thường gặp tai họa; người mẹ già dễ bị tổn thương.Hướng Đông Nam – Ngũ quỷ: Nhà này không có tài lộc, gia sản bại sút, nhiều chuyện thị phi, dễ bất hòa, gia đình không yên, tranh chấp tài sản, hiếm con trai. Người mẹ dễ gặp tai họa.
3. Tuổi Bính Dần 1986 – mệnh Khôn
- Hướng tốt:Hướng Đông Bắc – Sinh khí: Xem hướng nhà tốt xấu cho nam giới tuổi Dần, nhà này nhiều tài lộc, giàu sang phú quý, nhiều tiền của, con cái thành đạt, nhiều đất đai. Về sau sẽ kém vì hành Mộc của sao Sinh khí sẽ làm suy giảm tài lộc.Hướng Tây Bắc – Diên niên: Nhà này nhiều tài lộc, giàu có, có danh có tiếng, con cháu thông minh học giỏi, gia đình hạnh phúc, người trong nhà trường thọ.Hướng Tây – Thiên y: Nhà này âm thịnh dương suy, ít con trai. Nhà này gia đạo tốt, nhiều tài lộc làm ăn, nhưng về sau dễ suy kém về kinh tế.- Hướng xấu:Hướng Tây Nam – Phục vị: Nhà này thời gian đầu cũng cũng phát đạt giàu có, nhưng về sau bị tổn hại, nam bị tổn thương, nữ nắm quyền trong gia đình, có khi trở thành cô quả.Hướng Tây Bắc – Tuyệt mệnh: Nhà này làm ăn suy bại, không giàu có. Sức khỏe suy yếu, con trai thứ dễ tổn thọ sớm.Hướng Nam – Lục sát: Nhà này những năm đầu cũng có tài lộc, nhưng về sau sa sút, giảm đinh, dương khí suy do đó nam giới đoản thọ, thiếu con nối dõi.Hướng Đông – Họa hại: Nhà này lúc đầu giàu có, nhân khẩu tăng, nhưng về sau thì sa sút, thường gặp tai họa; người mẹ già dễ bị tổn thương.Hướng Đông Nam – Ngũ quỷ: Nhà này không có tài lộc, gia sản bại sút, nhiều chuyện thị phi, dễ bất hòa, gia đình không yên, tranh chấp tài sản, hiếm con trai. Người mẹ dễ gặp tai họa. Xem thêm bài viết Mua nhà phải biết: Nhà hướng Tây Nam có tốt không?
4. Tuổi Giáp Dần 1986 – mệnh Cấn
- Hướng tốt:Hướng Tây Nam – Sinh khí: Nhà này giàu có về điền sản, nhiều nhân đinh, hạnh phúc. Nhưng do Mộc tinh hành Mộc khắc hướng (Thổ) nên về sau sẽ kém dần.Hướng Tây – Diên niên: Nhà này phát tài phát lộc nhanh chóng. Con cháu thông minh, đỗ đạt cao, gia đình hạnh phúc.Hướng Tây Bắc – Thiên y: Nhà này được giàu sang phú quý, người nhà lương thiện, nhân đinh nhiều, tài lộc dồi dào theo phúc đức để lại. Do nhà thuần dương nên phụ nữ ốm yếu.- Hướng xấu:Hướng Đông Bắc – Phục vị: Nhà này lúc đầu có tiền tài, có của ăn của để nhưng về sau suy dần. Nhà này dương thịnh, âm suy nên phụ nữ và con gái trong nhà sẽ kém hơn nam giới về sức khỏe và công danh tiền tài.Hướng Đông Nam – Tuyệt mệnh: Nhà này thường gặp nguy hiểm từ bên ngoài vào. Người trong nhà dễ mắc bệnh chứng gió, dễ gặp tai họa, trộm cướp, thiệt mạng. Con út là người dễ thương tổn.Hướng Đông – Lục sát: Xem hướng làm nhà, nhà này ban đầu bình yên, về sau suy dần. Nhà này dương thịnh, âm suy nên con gái trong gia đình hay bị tổn thương, con trai út cũng hay bị tổn thương, ốm đau.Hướng Nam – Họa hại: Nhà này lúc đầu cũng giàu có, nhưng về sau tài lộc suy dần, nhân khẩu không tăng, vợ lấn át chồng, gia đình hay mâu thuẫn.Hướng Bắc – Ngũ quỷ: Nhà này nhiều chuyện thị phi, kiện tụng cãi vã. Gia sản ngày càng suy, không vượng. Do nhà dương thịnh, âm suy nên phụ nữ và con gái trong nhà hay bị tổn thương.
5. Tuổi Nhâm Dần 1962 – mệnh Khôn
- Hướng tốt:Hướng Đông Bắc – Sinh khí: Nhà này nhiều tài lộc, giàu sang phú quý, nhiều tiền của, con cái thành đạt, nhiều đất đai. Về sau sẽ kém vì hành Mộc của sao Sinh khí sẽ làm suy giảm tài lộc.Hướng Tây Bắc – Diên niên: Nhà này nhiều tài lộc, giàu có, có danh có tiếng, con cháu thông minh học giỏi, gia đình hạnh phúc, người trong nhà trường thọ.Hướng Tây – Thiên y: Nhà này âm thịnh dương suy, ít con trai. Nhà này gia đạo tốt, nhiều tài lộc làm ăn, nhưng về sau dễ suy kém về kinh tế.- Hướng xấu:Hướng Tây Nam – Phục vị: Nhà này thời gian đầu cũng cũng phát đạt giàu có, nhưng về sau bị tổn hại, nam bị tổn thương, nữ nắm quyền trong gia đình, có khi trở thành cô quả.Hướng Bắc – Tuyệt mệnh: Nhà này làm ăn suy bại, không giàu có. Sức khỏe suy yếu, con trai thứ dễ tổn thọ sớm.Hướng Nam – Lục sát: Nhà này những năm đầu cũng có tài lộc, nhưng về sau sa sút, giảm đinh, dương khí suy do đó nam giới đoản thọ, thiếu con nối dõi.Hướng Đông – Họa hại: Nhà này lúc đầu giàu có, nhân khẩu tăng, nhưng về sau thì sa sút, thường gặp tai họa; người mẹ già dễ bị tổn thương.Hướng Đông Nam – Ngũ quỷ: Nhà này không có tài lộc, gia sản bại sút, nhiều chuyện thị phi, dễ bất hòa, gia đình không yên, tranh chấp tài sản, hiếm con trai. Người mẹ dễ gặp tai họa. Xem thêm bài viết Hướng dẫn người ít kinh nghiệm xác định hướng nhà, tâm nhà
6. Tuổi Canh Dần 1950 – mệnh Khôn
- Hướng tốt:Hướng Đông Bắc – Sinh khí: Nhà này nhiều tài lộc, giàu sang phú quý, nhiều tiền của, con cái thành đạt, nhiều đất đai. Về sau sẽ kém vì hành Mộc của sao Sinh khí sẽ làm suy giảm tài lộc.Hướng Tây Bắc – Diên niên: Nhà này nhiều tài lộc, giàu có, có danh có tiếng, con cháu thông minh học giỏi, gia đình hạnh phúc, người trong nhà trường thọ.Hướng Tây – Thiên y: Xem hướng nhà theo tuổi, nhà này âm thịnh dương suy, ít con trai. Nhà này gia đạo tốt, nhiều tài lộc làm ăn, nhưng về sau dễ suy kém về kinh tế.- Hướng xấu:Hướng Tây Nam – Phục vị: Nhà này thời gian đầu cũng cũng phát đạt giàu có, nhưng về sau bị tổn hại, nam bị tổn thương, nữ nắm quyền trong gia đình, có khi trở thành cô quả.Hướng Bắc – Tuyệt mệnh: Nhà này làm ăn suy bại, không giàu có. Sức khỏe suy yếu, con trai thứ dễ tổn thọ sớm.Hướng Nam – Lục sát: Nhà này những năm đầu cũng có tài lộc, nhưng về sau sa sút, giảm đinh, dương khí suy do đó nam giới đoản thọ, thiếu con nối dõi.Hướng Đông – Họa hại: Nhà này lúc đầu giàu có, nhân khẩu tăng, nhưng về sau thì sa sút, thường gặp tai họa; người mẹ già dễ bị tổn thương.Hướng Đông Nam – Ngũ quỷ: Nhà này không có tài lộc, gia sản bại sút, nhiều chuyện thị phi, dễ bất hòa, gia đình không yên, tranh chấp tài sản, hiếm con trai. Người mẹ dễ gặp tai họa. Những điều không thể không biết để chọn hướng nhà hợp phong thủyGiải đáp những thắc mắc thường gặp để xác định hướng nhà tốtMuốn chọn hướng nhà tốt, nhớ ngay 4 lưu ý Trần Hồng Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Yến Nhi (##)
Chùa Xuân Trung là nơi sinh hoạt văn hoá tôn giáo để mọi người hướng lòng mình về cõi tâm linh phù hợp với tín ngưỡng dân gian, thực hiện chân thiện mỹ
Chùa Xuân Trung có tên chữ là Linh Quang tự (chùa Linh Quang). Chùa tọa lạc tại xã Xuân Bắc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Chùa được khởi dựng vào năm 1720 thời vua Lê Dụ Tông. Người có công lao đầu tiên trong việc xây dựng chùa là ông Đào Công Canh, quê làng Nguyệt Giám xã Minh Tân huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình.
Ngôi chùa ban đầu có quy mô kiến trúc nhỏ bé, mái lợp bổi, tường bao quanh đắp đất. Năm 1785, chùa Xuân Trung mới chính thức được xây dựng một cách khang trang. Đến đời vua Gia Long năm thứ 2 (1803), chùa đã có một quy mô bề thế, lớn trên 80 gian lớn nhỏ.
Trên khánh đá vào đời vua Tự Đức năm thứ 33 (1880), hiện treo tại gác khánh đã ca ngợi cảnh đẹp của chùa có khắc:
Chùa Linh Quang nằm ở thôn Trung, xã Trà Lũ, huyện Giao Thủy, phủ Xuân Trường là một thắng cảnh đẹp trong vùng, là nơi muôn màu tụ hội.
Chùa Xuân Trung ngoài thờ Phật còn thờ Thiền sư thời Lý là Nguyễn Minh Không (1076-1141). Thiền sư quê ở Đàm Xá (Điềm Xá) thuộc đất Tràng An, tên thật là Nguyễn Chí Thành. Thuở nhỏ làm nghề đơm đó, sau ngài xuất gia đi tu ở chùa Quốc Thanh, lấy hiệu là Minh Không.
Nguyễn Minh Không là người có trình độ học vấn uyên thâm nổi tiếng về pháp thuật, có xu hướng tu mật giáo: “Có phép lạ bay trên không, đi trên mặt nước, hàng long phục hổ”.
Truyền thuyết kể rằng: “Vua Lý Thần Tông mắc bệnh lạ, tâm thần rối loạn, mình mẩy loang lổ, miệng luôn gầm rú như một mãnh hổ. Các vị danh y đều bó tay, Quốc mẫu, Hoàng hậu đều lo sợ. Nghe tiếng tăm của Thiền sư Không Lộ, Quốc mẫu đích thân mời ngài về cung chữa bệnh. Thiền sư dùng pháp thuật chữa khỏi bệnh cho vua. Vua phong ngài làm Quốc sư và ban nhiều bổng lộc.”
Công trình kiến trúc chùa Xuân Trung hiện nay được xây dựng theo kiểu “nội chữ đinh, ngoại chữ quốc”, mặt quay về hướng tây trên một diện tích 6125m2. Tổng thể công trình gồm nhiều hạng mục, quy mô đồ sộ, bề thế còn bảo lưu được nhiều nét kiến trúc nghệ thuật thời hậu Lê thế kỷ XVII – XVIII.
Phía trước chùa là hệ thống tam quan xây kiểu chồng diêm hai tầng bốn mái, lợp ngói nam. Hai bên tam quan còn có gác chuông và gác khánh, được xây theo kiểu “cổng làng” với các đao góc uốn cong mềm mại.
Sau tam quan, qua một sân rộng lát gạch đỏ sạch sẽ là đến chùa chính. Công trình làm kiểu chữ đinh gồm bái đường 5 gian dài 13m, rộng 8,70m, tam bảo 5 gian dài 12m, rộng 5,30m. Bộ khung của công trình được làm bằng gỗ lim theo kiểu “giá chiêng” với các cấu kiện: câu đầu, quá giang, xà nách, bẩy tiền, bẩy hậu đều gia công theo dạng tròn. Đây là nét đặc biệt trong kiến trúc của thời Hậu Lê thế kỷ XVII – XVIII còn bảo lưu được tại di tích.
Bên cạnh chùa chính còn có đền thờ Thiền sư Nguyễn Minh Không, phủ thờ thánh Mẫu Liễu Hạnh, phía sau là nhà tổ và bao quanh là hệ thống nhà khách, tăng phòng… Tất cả đã tạo thành một tổng thể khép kín hoàn chỉnh đã làm tăng thêm giá trị kiến trúc nghệ thuật cho khu di tích.
Chùa Xuân Trung là nơi sinh hoạt văn hóa tôn giáo để mọi người hướng lòng mình về cõi tâm linh phù hợp với tín ngưỡng dân gian, thực hiện chân thiện mỹ, góp phần xây dựng cuộc sống văn hóa cộng đồng nơi đây.
Có nhiều cách để đặt tên cho bé yêu. Một trong những cách khá phổ biến là căn cứ vào mệnh tuổi để tìm tên hợp ngũ hành cho bé. Dưới đây là gợi ý một số tên hay
Phong (峰): Ngũ hành thuộc Thổ; chỉ đỉnh núi cao lớn và nhọn; còn có hàm nghĩa chỉ cảnh giới tối cao. Dùng làm tên người biểu đạt hy vọng bé yêu sau này trở thành nhân tài tuấn kiệt.
Đại (岱): Ngũ hành thuộc Thổ; là tên gọi khác của núi Thái Sơn, tượng trưng cho sự vững bền, vững như Thái Sơn.
Ý (懿): Ngũ hành thuộc Thổ; Chỉ sự thiện lương, kiệt xuất, hòa nhã.
Kính (敬): Ngũ hành thuộc Thổ; chỉ người có đạo đức, nhân từ.
Viễn (远): Ngũ hành thuộc Thổ; chỉ cự ly xa.
Văn (文): Ngũ hành thuộc Thủy; chỉ văn minh, văn hóa; dùng làm thên người chỉ sự thông minh; là tên thường dùng khi chọn theo hành Thủy.
Giang (江): Ngũ hành thuộc Thủy; nghĩa là sông.
Lan (澜): Ngũ hành thuộc Thủy; nghĩa là sóng lớn.
Thông (聪): Ngũ hành thuộc Thủy; Dùng làm tên người chỉ sự thông tuệ, nhanh nhẹn trong tư duy.
Duệ(睿): Ngũ hành thuộc Thủy; Dùng làm tên người chỉ sự thông tuệ, sáng suốt.
Huệ (惠): Ngũ hành thuộc Thủy; Dùng làm tên người có ý nghĩa nhân ái, khoan dung.
Hàm (涵): Ngũ hành thuộc Thủy, chỉ sự bao dung.
Trí (智): Ngũ hành thuộc Hỏa; Dùng làm tên người chỉ sự thông minh, trí tuệ, kiến thức.
Triết (哲): Ngũ hành thuộc Hỏa; Dùng làm tên người chỉ sự thông minh, tài năng.
Chữ Minh chỉ sự sáng rõ, thanh sạch
Minh (明): Ngũ hành thuộc Hỏa; Dùng làm tên người chỉ sự sáng rõ, thanh sạch.
Ngữ (语): Ngũ hành thuộc Hỏa; Dùng làm tên người chỉ sự đám luận, biện luận.
Mẫn (敏): Ngũ hành thuộc Hỏa; Dùng chỉ sự linh hoạt, nhanh chóng, thông minh, trí tuệ
Đạt (达): Ngũ hành thuộc Hỏa; Nghĩa cơ bản chỉ sự đạt đến còn có nghĩa chỉ sự đắc chí, hiển quý.
Chương (章): Ngũ hành thuộc Hỏa; Dùng làm tên người chỉ nhân tài.
Phi (飞): Ngũ hành thuộc Hỏa; Dùng làm tên người chỉ sự hy vọng về tài năng, phát triển thành công.
Đằng (腾): Ngũ hành thuộc Hỏa; chỉ sự bay nhảy, lên cao.
Vân (云): Ngũ hành thuộc Hỏa; chỉ đám mây.
Tài (才): Ngũ hành thuộc Mộc; chỉ tài năng.
Hiền (贤): Ngũ hành thuộc Mộc; ý chỉ người có tài có đức.
Cung (恭): Ngũ hành thuộc Mộc; Chỉ sự cung kính, có lễ độ.
Gia (嘉): Ngũ hành thuộc Mộc; chỉ sự tốt đẹp, hạnh phúc.
Tinh (精): Ngũ hành thuộc Mộc; chỉ sự tinh tế, chuyên tâm, thông minh, thanh sạch.
Thư (书) Ngũ hành thuộc Kim; Dùng làm tên người chỉ sách bút, ghi chép.
Họa phúc tại miệng, 4 khẩu nghiệp gánh cả đời không hết
Phật dạy về cuộc sống có 4 loại người nói năng sai trái: một là vọng ngôn, hai là ba phải, ba là thiển ngữ, bốn là xảo ngữ. Nói năng không thành thật, mắc phải những lỗi trên thì họa từ miệng mà ra.
1. Vọng ngữ - nói dốiPhật giáo coi trọng sự thật và điều thật, nên nói dối là một trong những tội nghiệt nặng. Người mà mở miệng ra là nói dối, nói dối không chớp mắt, nói dối tới quen miệng, thuận lời, không cần suy nghĩ, chính mình còn không cảm nhận được mình đang nói dối. Thật là nguy hiểm!Những người này đôi khí nói dối cũng không phải là để hại người mà nói dối cho vui, ba hoa, nhưng không biết rằng như thế là rước họa vào thân. Người gặp thì đề phòng, bạn bè gặp thì lánh xa, nhân duyên gặp thì vụt mất. Vì, Phật dạy về cuộc sống, dù nói dối xuất phát từ hảo tâm hay ác ý đều là tạo nghiệp xấu, làm tổn hại danh dự và hạ thấp bản thân.2. Ba phải – nói hai lờiHai lời tức là lúc nói thế này lúc nói thế khác, châm ngòi ly gián, trước mặt người này nói A mà với người khác lại nói B để hai bên phát sinh mâu thuẫn. Loại người này rất nguy hiểm, dùng lời lẽ hại người, là tạo nghiệp ác chứ không đơn thuần chỉ là nhói sai sự thật. 3. Thiển ngữ - lời lẽ thô thiểnNgười mà hay dùng những lời không hay đả kích người khác thì đối với Phật giáo chính là ác nhân. Đả thương lòng tự trọng của người khác, chửi mắng người khác, làm phương hại danh dự người khác là họa từ miệng ra, nói lời hại người lại chính là hại mình, tự mang phiền toái đến cho mình.Bởi vậy, Phật dạy, tôn trọng người khác là tôn trọng chính mình. Khi thốt ra những lời lẽ thô tục đối với người khác thì cũng là lúc bản thân bị hạ thấp, mà nói lời thiển ngữ lại còn bị tổn phước, rất không nên làm.4. Xảo ngữ - lời lẽ khiêu khích Người dùng ngôn ngữ khích bác, gợi lên lòng tham, sân, si của người khác, tuy cười nói bóng bẩy đấy mà bụng dạ sâu xa, cũng là ác nghiệp. Nếu không thể giúp được gì cho người khác thì không nên hại người, nếu không thể dùng từ bi mà hóa độ tham, sân, si của người khác thì cũng không nên khơi gợi, cổ vũ những thói xấu ấy.Gieo nhân nào gặp quả ấy, đừng vì đôi lời nói ra phút chốc mà gánh nghiệp cả đời.Tâm Lan Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Thư (##)
Bạn thắc mắc trong 12 cung hoàng đạo cung hoàng đạo nữ nào kiếm tiền nhiều nhất? Bạn từng nghe nói đâu đó rằng: Vị trí đầu bảng thuộc về các cô nàng Bạch Dương, tiếp theo là Bò Cạp và Kim Ngưu. Liệu có phải thế không? Để kiếm chứng củ thể hãy cùng đọ
Bạn thắc mắc trong 12 cung hoàng đạo cung hoàng đạo nữ nào kiếm tiền nhiều nhất? Bạn từng nghe nói đâu đó rằng: Vị trí đầu bảng thuộc về các cô nàng Bạch Dương, tiếp theo là Bò Cạp và Kim Ngưu. Liệu có phải thế không? Để kiếm chứng củ thể hãy cùng đọ bài viết cao thủ kiếm tiền trong 12 chòm sao nữ để xem mình có nằm trong tốp được gọi là cao thủ kiếm tiền không nhé!
Nội dung
1 Cung hoàng đạo nữ kiếm được nhiều tiền nhất
1.1 Ngôi đầu bảng: Bạch Dương
1.2 Ngôi thứ bảng: Bò Cạp
1.3 Vị trí thứ 3: Kim Ngưu
Cung hoàng đạo nữ kiếm được nhiều tiền nhất
Ngôi đầu bảng: Bạch Dương
Tính cách hướng ngoại, vui vẻ, lạc quan và khá nhanh nhạy trong cách nắm bắt và phân tích thông tin đã giúp những nàng Bạch Dương không bỏ sót bất cứ cơ hội kiếm tiền nào. Đó là lý do khiến khối tài sản của chòm sao này ngày một tăng lên nhanh chóng.
Bạch Dương rất quyết đoán và đưa ra những phán đoán hợp lý trong mọi tình huống. Dù đầu tư có mạo hiểm tới đâu bạn cũng không lo sợ, tiền dù đã mất nhưng bạn coi đó như là chi phí cho bài học đắt giá để rút kinh nghiệm cho những cố gắng kế tiếp.
Ngôi thứ bảng: Bò Cạp
Một trong những cao thủ kiếm tiền phải kể đến những cô nàng có tài năng lãnh đạo thiên bẩm, Bò Cạp. Hơn thế, chòm sao này lại chiếm được đông đảm cảm tình và sự ủng hộ của mọi người nhờ tính cách hòa đồng và biết đặt mình vào vị trí người khác để nhìn nhận vấn đề.
Một trong những tuyệt chiêu khiến Bò Cạp kiếm bội tiền, đó là dùng trí tuệ, đầu óc sắc lạnh và sự điềm tĩnh trong những tình huống cấp bách để khiến tiền đẻ ra tiền chứ không phải phí công dùng sức lực cơ bắp. Vậy nên, nhìn vẻ ngoài những cô nàng này lúc nào cũng khá thong dong, điềm tĩnh nhưng bên trong lại ẩn chứa một nội lực rất lớn.
Vị trí thứ 3: Kim Ngưu
Độ nhạy bén trong lĩnh vực tài chính của những nàng Kim Ngưu khá cao. Có thể nói, trong đầu của chòm sao này, lúc nào tiền bạc cũng là mối quan tâm hàng đầu. Bạn đã biết quản lý vấn đề chi tiêu tài chính của mình một cách hợp lý ngay từ khi còn rất nhỏ. Khi trưởng thành và có thể độc lập làm việc, số tiền bạn tiết kiệm được nhờ vào đầu óc tính toán và chi tiêu hợp lý là không hề nhỏ.
Kim Ngưu luôn biết cân nhắc thiệt hơn trước khi quyết định có nên chi một khoản tiền lớn nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu cá nhân hay không. Nhưng các nàng này lại khá hào phóng trong việc mua quà tặng hoặc giúp đỡ tiền bạc cho những người thân trong gia đình và cả bạn bè thân thiết.
Bước vào tháng 1 này, tình cảm của tuổi Tý đã không còn những đau khổ như trước đây nữa. Hai bên cơ bản đã có thể tìm ra điểm tương đồng của đối phương, có vấn đề xảy ra thì đều có thể trực tiếp nói chuyện, giải quyết luôn được.
Mặc dù mối quan hệ thân thiết này có lúc thì rất nồng nhiệt, lúc thì lạnh nhạt nhưng cả hai cũng không thấy thất vọng. Những bạn còn độc thân thì tháng này vẫn cứ nên để tâm tư vào công việc là tốt nhất.
Tuổi Sửu
Năm nay tuổi Sửu đang có suy nghĩ cho cuộc sống hôn nhân gia đình, nhất là thời điểm đang vào ‘mùa cưới’ như hiện tại. Do công việc khá bận rộn nên tuổi Sửu có nguyện vọng tìm một nửa còn lại để chăm sóc cho mình.
Hôn nhân sẽ khiến tuổi Sửu thấy yên tâm hơn, nhưng những bạn còn đang độc thân thì lại không được thuận lợi như vậy.
Lòng can đảm có thừa nhưng nhiều vấn đề không phải cứ cố gẳng thì có thể giải quyết được, điều chỉnh lại tiêu chuẩn mà mình đặt ra là điều quan trọng nhất lúc này nhé.
Tình duyên của 12 con giáp đầu năm
Cơ hội ‘thoát khỏi kiếp độc thân’ của tuổi Thìn tháng này khá lớn (Ảnh minh họa)
Tuổi Dần
Bước vào thời điểm khai xuân này, sự theo đuổi của tuổi Dần với đối phương khá mãnh liệt, họ sẽ tận dụng mọi chiêu thức xã giao để tiếp cận đối phương. Nhưng ngược lại, điều này lại khiến đối phương cảm thấy tuổi Dần quá vội vàng, kết quả sẽ không được như mong đợi.
Kiến nghị tuổi Dần nên ‘thả lỏng’ để đối phương có cơ hội lựa chọn. Đồng thời tuổi Dần đã có gia đình thì tháng này là tháng có tư tưởng vui chơi khá lớn, nhưng bất luận thế nào thì cũng không nên về nhà quá muộn nhé!
Tuổi Mão
Tình cảm tháng này của tuổi Mão có chút trục trặc do bản thân không có đủ can đảm để đối mặt với những vấn đề mà từ trước đến nay chưa hề gặp phải. Ví như tình cảm với người cùng giới, tình cảm với đồng nghiệp, tình yêu kiểu chị – em… tất cả đều làm tuổi Mão cảm thấy khó chấp nhận. Có thể cần thêm thời gian để trải nghiệm và hiểu hơn về các mối quan hệ đó.
Những bạn đã có gia đình thì nhất định không nên tạo áp lực cho đối phương, biết được bí mật của đối phương cũng nên giữ im lặng mới mong duy trì được tình cảm.
Tuổi Thìn
Cơ hội ‘thoát khỏi kiếp độc thân’ của tuổi Thìn tháng này khá lớn, và cũng rất có hi vọng cho một mối tình đẹp. Dám dũng cảm nếm trải những cung bậc, loại tình cảm khác nhau thì cho dù là bị tổn thương thì tuổi Thìn cũng không cảm thấy quá đau khổ.
Những bạn đã có gia đình thì phải đối mặt với việc làm sao để hài hòa với mọi người trong nhà chồng/ nhà vợ, hay những thị phi, đàm tiếu của xã hội. Bạn nên nhớ đây là giai đoạn ảnh hưởng nhiều đến tình cảm của hai bên đấy. Và cũng cần chú ý đến cả mối quan hệ ruột thịt, mẹ chồng – nàng dâu nữa nhé.
Tuổi Tỵ
Trải nghiệm tình yêu của tuổi Tỵ tháng này khác hẳn so với các tháng trước, có thể bạn sẽ lại yêu người mà bạn nghĩ chắc-chắn-không-bao-giờ-yêu. Bạn cũng có rất nhiều cơ hội để ‘dọn dẹp’ tất cả mớ hỗn độn trong đời sống tình cảm của mình để có cái nhìn trong sáng và mới mẻ hơn về mọi thứ tình cảm xung quanh. Tuổi Tỵ cũng hiểu rõ hơn, sâu hơn về những gì mà mình thực sự muốn theo đuổi.
Với những bạn đã có gia đình thì tháng này hãy dành cho nhau một chuyến du lịch để hưởng thụ cảm giác hạnh phúc của tình yêu đã đơm hoa kết trái nhé.
Tuổi Ngọ
Tư tưởng đi du lịch của tuổi Ngọ tháng đầu năm này không tồi chút nào, chịu khó ra ngoài đi dạo biết đâu bạn lại gặp được mối lương duyên đấy. Những bạn đã có gia đình thì những ham muốn dục vọng có phần nhiều hơn, nhất là những bạn nam tuổi Ngọ thì càng không nên đến những nơi đèn hoa mờ ảo.
Đến cuối tháng, bạn phát hiện ra người mà bạn yêu thương nhất lại mang đến cho bạn sự đau thương, mà điều này lại do chính sự cưng chiều của bạn tạo nên. Tuổi Ngọ hãy nhân cơ hội này mà thức tỉnh lại bản thân nhé.
Tuổi Mùi
Vận thế tình cảm tháng này của tuổi Mùi khá tốt, con mắt càng ngày càng tinh tường hơn và bạn có thể chọn được nửa kia phù hợp với mình. Nhưng cũng không nên tạo cho bản thân quá nhiều áp lực, chỉ cần chăm sóc cho bản thân tốt thì ắt tự nhiên thu hút được người khác giới thôi.
Tuổi Mùi đã có gia đình thì sự thân mật giữa vợ chồng có thể ít đi, vì vậy có thời gian hãy chủ động mang đến cho đối phương những điều lãng mạn để hâm nóng tình cảm nhé.
Tuổi Thân
Tháng này tình cảm của người tuổi Thân gặp phải khá nhiều vấn đề, chủ yếu là do đôi bên chưa có lòng tin nhiều với đối phương. Cứ nghi đông nghi tây nên không khí hai bên khá ngột ngạt, căng thẳng.
Những bạn còn độc thân thì tháng này dũng khí, cam đảm trong chuyện tình cảm lại chưa đủ, có vẻ như vẫn còn chút tự ti. Kiến nghị bạn nên điều chỉnh suy nghĩ một chút nhưng cũng không cần bộc lộ tình cảm quá sớm. Việc điều chỉnh bản thân mới là điều quan trọng đầu tiên.
Tuổi Dậu
Tình cảm tháng này của tuổi Dậu không được như ý nguyện, có thể trong quá trình theo đuổi đối phương bạn gặp phải chút rào cản. Nói chung tuổi Dậu rất hay mất bình tĩnh khi đối diện với người mà mình đang để ý.
Những bạn đã có gia đình thì tình cảm không có thay đổi nhiều, đôi khi bạn quá muốn thúc đẩy mối quan hệ thân thiết hơn với đối phương nhưng lại khiến họ cảm thấy không thích thú. Bình thường không cần nói quá nhiều từ hoa mỹ hay những lời nói có cánh, cứ quan tâm thật lòng là đủ rồi.
Tuổi Tuất
Tuổi Tuất đã hiểu được khá nhiều vấn đề về tình cảm, không quá gò bó đối phương, bạn cũng biết được rằng lý tưởng của bản thân thì phải tự mình thực hiện. Hai bên khá hòa hợp với nhau.
Nửa tháng về sau tuổi Tuất khá nhạy cảm trong chuyện tình cảm, rất dễ lay động, bất an, thậm chí là bạn còn có thể ghen tỵ với cả những người chẳng thể mang ra so bì với bạn nữa kìa. Bạn cần ai đó cổ vũ, lấy lại tinh thấn, có khi những lời khuyên của bạn bè sẽ có lợi hơn với bạn.
Tuổi Hợi
Tháng này là tháng có rất nhiều chuyện đáng mừng trong phương diện tình cảm với người tuổi Hợi. Những bạn đã có gia đình, tin có thai sẽ khiến bạn vui mừng khôn xiết, hoặc điều bất ngờ đến khi bạn chưa kịp chuẩn bị tâm lý đón nhận.
Tuổi Hợi còn độc thân thì cũng không cần quá nóng vội, năng đi dạo hoặc du lịch nhiều hơn, biết đâu còn tìm được ý trung nhân nữa đấy.
Ba phần trên mặt: trán, mũi, nhân trung đến cằm đều bằng nhau và đầy đặn; cằm cao vểnh nhô lên. Đầu tròn, miệng như đóa hoa sen, dáng người khỏe mạnh. Đấy là tướng mạo của những con người quyền cao, chức trọng, thông minh và nổi danh trong thiên hạ.
Hướng bếp tuổi Canh Ngọ 1990: - Năm sinh dương lịch: 1990 - Năm sinh âm lịch: Canh Ngọ - Quẻ mệnh: Khảm Thủy - Ngũ hành: Lộ Bàng Thổ (Đất đường đi) - Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch - Hướng tốt: Bắc (Phục Vị); Đông (Thiên Y); Đ
Trồng hoa không chỉ tăng mỹ quan mà còn sinh vượng khí, cải thiện phong thủy cho ngôi nhà.
Hồng môn sống ở môi trường nhiệt đới ẩm, du nhập vào nước ta từ lâu và là loài hoa khá quen thuộc với người Việt. Màu sắc tươi tắn, vẻ ngoài xinh đẹp, sang trọng, hồng môn rất được ưa chuộng để trang trí hoặc làm quà tặng. Nhưng ít người biết tới tác dụng phong thủy của loài hoa nên trồng trong nhà này. Hồng môn lá dài, rộng, dày, xanh mướt tượng trưng cho may mắn, phát triển; hoa nở to, màu sắc đỏ tươi rực rỡ, như lời nói nhiệt tình, tốt đẹp; chóp màu vàng óng dựng thẳng đại diện cho phú quý, tiền tài. Màu đỏ vốn là màu cát tường nên hoa hồng môn thích hợp để đem biếu, tặng nhân dịp có hỉ sự như khai trương, là lời chúc sự nghiệp thịnh vượng, náo nhiệt. Loài hoa may mắn này còn khiến người ta tràn ngập nhiệt tình cùng tin tưởng, đặt ở trong nhà như thắp thêm niềm vui và sức sống cho không gian. Nó giúp cho chủ nhân thoải mái tâm tình, giải phóng cảm xúc, hướng tới những điều tích cực. Bên cạnh đó, hồng môn là loài hoa thu hút quý nhân, gia tăng bạn tốt giúp đỡ người trong nhà. Ở trung cung trong Bát cung phong thủy nhà ở, đặt một chậu hồng môn tươi tốt có tác dụng khởi sinh. Hồng môn thuộc tính Mộc, sinh Hỏa, Hỏa tái sinh Thổ, đặt ở trung cung là phương vị Thổ như tạo ra miền đất mới, vạn vật được tái sinh. Trung cung nhà ở Khôn vị hoặc Cấn vị thì nhân sự bất lợi, xuất hiện hung tai, đặt hồng môn có thể hóa giải rất hữu hiện. Màu đỏ là quẻ Ly, tượng trưng cho vẻ đẹp, sự ngời sáng; màu vàng là quẻ Khôn, tượng trưng cho sự dịu dàng, chăm chỉ, đại diện cho nữ nhân. Trong nhà có nữ nhân thể trạng yếu hoặc vận thế không tốt, trồng loài hoa hợp phong thủy này rất có lợi. Hồng môn còn có nghĩa là nữ chủ nhân nắm quyền, nếu người phụ nữ muốn có tiếng nói trong gia đình thì cũng nên sắm một cây.
► Tham khảo thêm những thông tin về: Những Vật phẩm phong thủy giúp phát tài, phát lộc
Lập Thu là tiết khí thứ 13 trong 24 tiết khí, bắt đầu từ ngày 7 (hoặc 8) tháng 8 đến ngày 23 (hoặc 24) tháng 8.
► Tra cứu Lịch âm dương, Lịch vạn sự nhanh chóng và chuẩn xác nhất
Lập Thu mang ý nghĩa nóng đi, lạnh đến, mùa thu bắt đầu. Đặc điểm nổi bật nhất của tiết khí này là cây ngô đồng đổi màu lá, từ xanh sang vàng, bởi vậy mới có câu “một chiếc lá rơi, biết mùa thu tới”. Lập Thu có nguồn gốc từ Trung Quốc, theo Hán tự, chữ “thu” có cùng bộ với chữ “lúa”, nên cũng mang ý nghĩa là lúc lúa và ngũ cốc chín. Lập Thu là tiết khí đầu tiên của mùa thu, là thời kì quá độ, chuyển giao giữa hè và đông, giữa nóng và lạnh. Thời tiết lúc này giảm xuống còn khoảng 22℃. Do là thời điểm chuyển tiếp nên tiết khí này không quá rõ ràng, thường vô tình bị nhiều người bỏ qua, quên lãng. Đây cũng là lúc mưa bắt đầu nhiều lên, rất có lợi cho nông nghiệp.Nông nghiệp xem ngày dựa vào nông lịch, thoáng thấy Lập Thu là phải nhanh tay bón thúc, tăng cường dưỡng chất cho cây cối phát triển. Cũng vì mưa nhiều nên mới có câu “Lập Thu mưa rưi, khắp nơi là vàng bạc”, ám chí mưa vào tiết Lập Thu rất quý giá đối với cây trồng. Một số loại cây bắt đầu bước vào vụ thu hoạch như cây bông, cây trà,…
Đáng lưu ý là Lập Thu khí hậu mưa nhiều nên cũng nảy sinh nhiều loại dịch bệnh, cần tăng cường phòng chống sâu hại, chuẩn bị tốt đất đai và giống để bước vào vụ gieo cấy đông xuân.Căn cứ vào nhiệt độ trung bình thì Lập Thu vừa có nắng gắt cuối hạ, vừa có gió mát đầu thu, khí hậu dễ chịu, mát mẻ, sau mùa thu hoạch, chuẩn bị tổ chức lễ cúng bái cảm tạ trời đất. Các hoạt động cúng lúa mới, tế thần Mặt Trăng, bái thiên địa,… được tổ chức sôi nổi ở nhiều địa phương.Lập Thu có sự thay đổi trong cách dưỡng sinh, bổ sung thực phẩm ấm, giảm nhẹ thực phẩm lạnh để bồi bổ cơ thể. Ban ngày nóng, ban đêm mát, chọn dùng trà táo đỏ có thể thanh tâm an thần, bổ sung vừng, mật ong, mộc nhĩ, chế phẩm từ sữa,..Mùa thu da dẻ bắt đầu hanh khô, thiếu nước, nên tăng cường dưỡng âm, bổ sung vitamin cho cơ thể, đồng thời kiện tì, dưỡng vị bằng hạt sen, củ từ, đậu đũa, bí đỏ,… Mùa thu là mùa dưỡng sinh tốt nhất, hãy tranh thủ chuẩn bị một sức khỏe tốt để đón chào mùa đông sắp tới. Infographic: 24 tiết khí đánh dấu thời gian trong nămMón ăn dưỡng sinh trong 24 tiết khí (phần 1)Tìm hiểu tiết khíTâm Lan
Kiến thức phong thủy. Đào để đuổi tà, quất để cầu an, không nên chọn bừa –
Kiến thức phong thủy. Tết phải có đào để trị bách quỷ, quất là biểu tượng sức khỏe, bình an, trường thọ và may mắn trong tình duyên. Đừng ham quất nhiều quả Theo chuyên gia phong thủy, người chơi đào quất dịp Tết nên tìm hiểu thông tin trước khi chọn
Kiến thức phong thủy. Tết phải có đào để trị bách quỷ, quất là biểu tượng sức khỏe, bình an, trường thọ và may mắn trong tình duyên. Đừng ham quất nhiều quả
Theo chuyên gia phong thủy, người chơi đào quất dịp Tết nên tìm hiểu thông tin trước khi chọn mua cây cảnh về nhà. Đừng ham quất nhiều quả
Cây quất cảnh tốt tươi về lá, lộc là điều may mắn cho cả năm. Chính vì thế, người chơi quất luôn quan tâm đến bộ lá, lộc của cây hơn là dáng và quả.
Cây quất trong quan niệm dân gian còn là biểu tượng sức khỏe, bình an, trường thọ và sự may mắn trong tình duyên. Những người kinh doanh thường hay đặt hai chậu quất lớn có nhiều trái chín trước cửa nhà với mong muốn mang lại sự phát đạt, tiền tài dồi dào trong năm tới.
Theo các nhà vườn, thông thường một cây quất đẹp phải có gốc to, thân ngắn chẻ làm nhiều nhánh nhỏ thể hiện sự sum vầy của nhiều thế hệ gia đình. Dáng quất hoặc tròn hoặc hình tháp hoặc có các chẽ ngang tạo thế. Cây phải đủ “tứ quý” gồm quả vàng, quả xanh, nụ hoa trắng thơm ngát, lá chồi xanh non.
Nếu mua quất tại vườn nhà, nên đặt mua cây có dáng thông. Nên chọn cây quất cân đối, không phía nào của cây bị lép, đặc biệt là nếu muốn trưng bày ở một khoảng không rộng, mọi người ngắm được từ nhiều phía.
Nếu chỉ đặt cây ở góc nhà hay góc tiền sảnh thì cây hơi khuyết một chút cũng không sao. Nên chọn cây có độ sai quả vừa phải, vì khi cây quá sai, quả sẽ nhỏ.
“Trên cây quất có cả quả xanh, quả ương thì rất tốt, bởi nó tựa như các thế hệ trong một gia đình đề huề, hạnh phúc”
Theo chuyên gia phong thủy, quất thuộc mộc nên mộc vượng sinh hỏa, lá nhọn và dáng ngọn cây nhọn đều thuộc hỏa. Có thể nói loại cây này hội đủ ngũ hành và ngũ hành đều vượng, biểu lộ ra ngoài nên mới có thể kết đủ bốn mùa hoa trái.
Màu sắc, đặc tính của cây và màu sơn tường, hướng của phòng đều là những yếu tố quyết định đến việc đặt cây trong nhà. Việc phân loại thảo mộc theo ngũ hành chủ yếu căn cứ vào màu sắc. Những cây thuộc hành Thủy phần lớn có màu xanh lá thẫm như tùng, bách, quất… Cây thuộc hành Hỏa có sắc đỏ như thạch lựu, đào, hồng thiết. Nhiều khách vào dịp Tết bỏ nhiều công sức lựa chọn tùng là vì vậy, nhất là những người có nhà mới, tân gia.
Tết phải có đào để trị bách quỷ
Cây đào trong phong thủy được xem là tinh hoa của Ngũ hành. Đào có thể trị bách quỷ, xua đuổi tà ma nên khi đón năm mới ta thường thấy các gia đình hay trồng đào trước cửa nhà. Hoa đào còn là biểu tượng cho sự đổi mới và sức sinh sôi phát triển mạnh mẽ.
Theo những người sành đào, gốc, thân đào thế càng to, khỏe sần sùi, già bao nhiêu thì càng làm tôn lên vẻ đẹp cho thế đào bấy nhiêu. Các thế dân gian được nhiều khách lựa chọn là thế quần tụ. Nghĩa là, một tán lên cao biểu tượng cho cha mẹ và các tán phụ xung quanh biểu tượng cho con cháu sum vầy được tạo bởi các cành thấp, nhỏ; thế trực đổ là cây đào có 1 nhánh đâm thẳng lên và một nhánh đổ xuống; thế ngũ phúc là 4 chạc dưới và 1 chạc trên, cầu kỳ với các thế long giáng là những cây có hình con rồng sà xuống mặt đất, thế thường gặp là thế phu thê có hai cành một cặp quấn quýt lấy nhau.
Với loại đào cành, đây là loại khá thông dụng vì ngày Tết, các gia đình thường mua về cắm trong lọ độc bình, trưng trên ban thờ. Dù cành to hay nhỏ, điều quan trọng nhất là tán đào phải tròn, các nhánh phân bố đều.
Không nên chọn cành đào có dăm to, nên tìm mua loại cành có dăm nhỏ, bởi đào dăm nhỏ thường có nhiều nụ và mập mạp, khi hoa nở, cánh dày rất đẹp.
Theo các nhà vườn Tứ Liên (Tây Hồ, Hà Nội), sau khi mua, nên đốt gốc trước khi cắm vào lọ và nhớ nước cắm đào phải sạch. Nên cho vào lọ nước vài viên thuốc B1, một chút kali để có dinh dưỡng nuôi hoa.
Với việc chọn đào cây, cũng nên mua cây có dăm nhỏ và ngắn, các nhánh chính xuất phát từ một điểm trên thân, như vậy cây sẽ cân đối.
Việc hướng bình đào theo con giáp cũng được các chuyên gia phong thủy đánh giá là khá quan trọng đối với tiền tài, địa vị, sức khỏe của gia đình đó trong một năm.
Theo chuyên gia Bùi Hà (Hoàng Hoa Thám, Hà Nội), nếu là năm Tý, Thìn, Thân nên đặt bình đào theo hướng Tây; nếu là năm Ngọ, Tuất, Dần nên đặt bình đào theo hướng Đông; nếu là năm Dậu, Sửu, Tỵ nên đặt bình đào theo hướng Nam; nếu là năm Mão, Mùi, Hợi, nên đặt bình đào theo hướng Bắc.
Màu sắc của bình cắm đào cũng nên theo phong thủy. Nếu đặt bình về hướng Bắc nên chọn màu xanh da trời, màu đen; nếu đặt bình về hướng Đông Nam hay Đông nên chọn bình màu xanh ngọc, xanh lá cây; nếu đặt bình phía Nam nên chọn bình màu đỏ hoặc tím; nếu đặt bình hướng Tây, Tây Bắc nên chọn bình màu vàng hoặc trắng; Và hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc nên sử dụng bình màu vàng nâu.
Tại sao tuổi trong khai sinh, trong văn bằng không đúng với tuổi thật ?
Điều này cũng gây khá nhiều rắc rối, phức tạp cho các nhà khảo cứu sử học, biên soạn gia phả. Đã có trường hợp anh em cùng cha cùng mẹ sinh ra mà em nhiều tuổi hơn anh. Chỉ có lá số tử vi là chính xác nhất, chính xác đến từng giờ, nhưng ít người còn giữ được lá số tử vi, phần lớn ông bố bà mẹ chỉ nhớ được con mình cầm tinh con gì, qua đó mà tính ra tuổi thực (tuổi mụ).
Như trên đã nói, có ba lý do khai bớt tuổi: - Để chậm được vài năm khỏi phải đóng thuế thân và đi phu, đi lính. - Dưới thời Pháp thuộc, để tránh hạn định quá tuổi không được đi học, không được thi. - Do việc vào sổ họ chậm gần một năm còn việc vào sổ làng, hàng phe, hàng giáp, có khi chậm đến năm sáu năm. Trường hợp nâng tuổi lên cũng có ba lý do nhưng không phổ biến lắm: - Để nhanh đến tuổi lấy vợ (theo lệ "nữ thập tam, nam thập lục"). Nhiều gia đình muốn cưới con dâu về sớm để có kẻ ăn người làm và để sớm có cháu nối dõi tông đường. - Dưới thời Pháp thuộc, các công sở không tuyển người dưới 18 tuổi nên phải khai tăng tuổi. - Một số địa phương, có lệ làng cho tăng thêm tuổi để chóng đến tuổi lên lão mừng thọ.
Mẩu chuyện vui: Sêcuture với Hồ Chí Minh: Sêcuturê, Tổng thống Ghi Nê sang thăm Việt Nam theo lời mời với tư cách là khách của Hồ Chủ Tịch. Trong buổi mít tinh tiễn đưa tại Quảng trường Ba Đình Hà Nội, Sêcuturê hết lời ca ngợi và khâm phục Hồ Chủ Tịch
Ông phát biểu đại ý: Vợ tôi sắp sinh, nếu sinh con trai, tôi sẽ đặt tên con là Hồ Chí Minh.
Tôi được dự buổi lễ đó, thầm nghĩ: Ông này quả thật rất chân thành và rất cảm phục Hồ Chí Minh nhưng ông ta chưa hiểu câu "nhập gia vấn huý" của phong tục nước ta, câu đó có gì khác chửi người ta.
Liền đó Hồ Chủ Tịch trả lời lại rất khôn khéo, tài tình "Bác không có vợ nên không có con, vậy Bác đề nghị các cháu thanh niên, nếu sắp tới, cháu nào có con trai thì đặt tên cháu là Sêcuturê!"
Mọi người dự lễ đều vui cười thoải mái, phục tài đối đáp của Bác, vừa được lòng khách nước ngoài, vừa phù hợp với phong tục nước ta trong hoàn cảnh đó. Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)