Tướng mũi to nói lên điều gì ở bạn? –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Cách 1: Bạn nên đặt 1 chiếc chuông ở cửa ra vào khu chứa tiền bạc để chuông reo lên mỗi khi mở cửa. Tiếng chuông cũng khiến kẻ xấu mất tinh thần, giảm hẳn nhuệ khí.
Cách 2: Đặt chiếc đồng hồ màu đỏ và 1 bể cá trong có 6 con màu đen trong công ty. Đây là mẹo của các thầy địa lý Trung Hoa hay dùng. Sức mạnh của nó rất kì bí, hiệu quả đem lại cũng khiến chủ doanh nghiệp bất ngờ.
Cách 3: Đặt 1 chiếc bình ở chỗ người thủ quỹ ngồi làm việc cũng là thủ thuật giúp công ty kiểm kê tài chính rõ ràng và chống trộm cắp rất tốt. Chữ "bình" tượng trưng cho sự bình an nên nó rất hữu hiệu trong việc đảm bảo an ninh tài chính, của cải cho công ty. Nên quấn thêm dải băng màu đỏ quanh chiếc bình và treo 1 chiếc sáo tre có buộc ruy băng đỏ bên trên chiếc bình để tăng thêm hiệu quả.
Người xưa quan niệm cây sáo cũng như 1 thanh gươm bảo vệ lợi nhuận cho chủ nhà hoặc 1 đường dẫn khí lên cao giúp việc kinh doanh phát đạt hơn. Lưu ý là phải treo sáo hướng lên phía trên giống như nét cuối của chữ ký phải hướng lên trên thì mới có tác dụng.
Bài viết chép lại của anh Quách Ngọc Bội
Đẩu Số với Tiết Khí
Trong các thảo luận về mệnh lý tại các khu vực khác nhau, thỉnh thoảng lại có người nhắc đến vấn đề tương quan giữa Tử Vi Đẩu Số với Tiết Khí. Có thể thấy rằng, Tử Vi Đẩu Số dù muốn hay không muốn tham khảo đến vấn đề của Tiết Khí thì cho đến nay vẫn cứ đã và đang khiến nhiều học giả nghiên cứu tử vi cảm thấy có chút bối rối. Thành thực mà nói, cá nhân tôi (QNB chú: tác giả bài viết, Phan Văn Khâm, Đài Loan) cũng từng rất bối rối, có thời gian dài mà tôi thậm chí chả dám dùng Tử Vi Đẩu Số để mà toán mệnh cho người ta ấy chứ!
Suy cho cùng thì Tử Vi Đẩu Số ở trong lúc bài bố mệnh bàn (lá số) có cần hay không việc đối chiếu với Tiết Khí đây? Trước khi thảo luận nghiên cứu vấn đề này, chúng ta còn nhất thiết phải giải quyết một vấn đề tranh nghị nhiều năm từ xưa đến nay của môn Tử Vi Đẩu Số, đó chính là vấn đề của "tháng Nhuận". Bởi vì vấn đề "tháng Nhuận" và "Tiết Khí" có tồn tại mối quan hệ rất mật thiết.
Người từng học qua môn Tử Vi Đẩu Số đều biết rằng, trong việc an lá số mà đụng phải vấn đề đương số sinh vào tháng Nhuận là một vấn đề khá hóc búa (tối thiểu thì với người mới học là như vậy). Song, đối diện với thời đại trăm nhà đua tiếng về thuật số, riêng đối với phép bài bố tháng Nhuận của Tử Vi đẩu số đã có rất nhiều phương pháp khiến cho người ta phải suy nghĩ.
Có người nói, tháng Nhuận thì cứ lấy tháng sau đó mà toán; có người cho rằng lấy chính tháng đó mà toán; còn có người nói theo tháng sau đó mà khởi 2 cung Mệnh Thân nhưng mà các tinh diệu theo tháng thì vẫn lấy tháng trước đó để bài bố an định; lại thêm có người đem tháng trước đó với tháng Nhuận cộng lại khởi đến gần 60 ngày; v.v...
Các bố đó kiến giải nhiều cái cũng rối rắm khiến cho người ta bất giác hoa mày chóng mặt. Thế nhưng mà, trong đó có rất nhiều luận điệu kỳ kỳ quái quái, cứ như là chẳng ai sẵn lòng đem Tử Vi Đẩu Số để đối mặt với "Tiết Khí". Chỉ đơn giản là do một câu "Bất y Ngũ Tinh yếu quá Tiết" (chẳng giống như môn Ngũ Tinh chú trọng đến Tiết Khí) ở trong bài Tử Vi Đẩu Số Tổng Quyết.
[Xin chú ý! bài Tử Vi Đẩu Số Tổng Quyết nói trên trong hai bản cổ thư của môn Tử Vi Đẩu Số, thì chỉ có cuốn <<Thập Bát Phi Tinh sách thiên Tử Vi Đẩu Số toàn tập>> có ghi lại, còn trong một cuốn khác là <<Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư>> lại hoàn toàn chẳng thấy có ghi lại!]
(QNB chú: bản TVĐS Toàn Thư mà QNB dịch cũng không thấy ghi chép về bài quyết này, nhưng QNB có sưu tầm từ một số nguồn khác nhau và cũng đã có dịch bài Đẩu Số Tổng Quyết này đăng trên tuvilyso.org và chép lại trong quyển Tử Vi Ca Phú Tập Thành. Quý độc giả nêu chưa rõ bài này thì tham khảo thêm).
Không biết quý vị độc có từng hay không nảy ra ý nghĩ là, nhỡ may cái câu "Bất y Ngũ Tinh yếu quá Tiết" chính là "ngụy quyết" (câu quyết giả) hoặc là cả cái bài Tử Vi Đẩu Số Tổng Quyết ấy đều là "ngụy quyết" thì làm sao?
Mọi người chớ có vội cho rằng bút giả nói chuyện giật gân, từ rất lâu rồi cho tới nay trong giới Đẩu Số vẫn liên tục có tồn tại tranh luận <<Thập Bát Phi Tinh sách thiên Tử Vi Đẩu Số toàn tập>> và <<Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư>> thì quyển nào mới là "Thiên Thư" chính thống. Chỉ đơn giản là trong hai bản cổ thư đó có tồn tại rất nhiều sự khác biệt. Trong các sách của giới tiền bối mệnh lý trụ cột như Liễu Vô Cư Sĩ, Tuệ Canh, Nhật Nguyệt Đạo Nhân,... có thảo luận tỉ mỉ kỹ càng với các khảo chứng, cái gì thực cái gì hư, đọc giả có thể tự mình nhận xét đánh giá, bút giả khỏi cần phải nói rườm rà thêm!
Trở lại với nội dung chính của vấn đề, đầu tiên chúng ta nghiên cứu xem "tháng Nhuận" là cái gì?
Trước hết, chúng ta cần bắt đầu nghiên cứu một chút về "Lịch Pháp" của Trung Quốc. Ở đây chúng ta viện dẫn trong sách <<Lịch pháp tùng đàm>> (phiếm đàm về Lịch Pháp) của tiên sinh Trịnh Thiên Kiệt trước tác, do Đại Học Văn Hóa Trung Quốc xuất bản:
Trung lịch dựa theo nóng lạnh bốn mùa mà xác định năm, lấy Đông Chí làm Tuế Nguyên (bắt đầu của năm), từ Đông Chí này đến Đông Chí tiếp theo là 1 năm; Nhật Nguyệt hợp Sóc mà xác định tháng, lấy ngày Sóc làm Nguyệt Thủ (đầu mối của tháng),... Cho nên "niên vi hồi quy niên" (năm là "năm hồi quy"), còn gọi là "năm Thái Dương"; nguyệt vi hợp sóc nguyệt (tháng là tháng theo Sóc), cũng gọi là "tháng Sóc Vọng" hoặc là "tháng Thái Âm";...
Năm Trung lịch là năm Thái Dương, độ dài của năm có 365.2422 ngày, gọi là Tuế Thực, một năm dựa vào Thái Dương ở tại vị trí trên vòng Hoàng Đạo mà chia làm 12 Tiết nguyệt, tức 12 tháng Thái Dương,... Dựa vào 12 Chi làm thứ tự Tiết nguyệt, còn gọi là Thập Nhị Kiến Nguyệt.
Trung lịch căn cứ vào sự tròn khuyết của Thái Âm để tính toán tháng, mỗi một tháng Thái Âm có độ dài là 29.53058 ngày, gọi là Sóc Sách, lấy số nguyên là 30 ngày hoặc 29 ngày làm một tháng (âm) lịch.
Trung lịch lấy 12 tháng Thái Âm làm một năm (âm) lịch, số ngày của một 12 tháng Thái Âm lịch trong một năm là 354 hoặc 355 ngày;
Một năm (âm) lịch so với Tuế Thực của năm dương lịch ước chừng ít hơn 11 ngày. Cho nên một vài năm lại cần bố trí tháng Nhuận để điều chỉnh Tiết hậu. Năm Nhuận thì một năm có chứa 13 tháng (âm) lịch.
Trung lịch dựa vào tháng Thái Âm của nó cần phối hợp Nguyệt tượng, trường độ Sóc Sách của một tháng, hợp với 29.53058 ngày; dựa vào năm Thái Dương của nó cần phối hợp Tiết Khí, trường độ của một năm, Tuế Thực, hợp với 365.2422 ngày; đem trường độ của Sóc Sách với Tuế Thực đối chiếu lên để tìm ra bội số chung nhỏ nhất của chúng chính là 19 năm (tính theo năm Thái Dương) gọi là 1 Chương, trong một Chương có 235 tháng (tính theo tháng Thái Âm), số ngày của nó và số ngày của 19 năm Thái Dương là tương đồng (6939.6 ngày)... Đó là lý do mà trong 1 Chương, 19 năm, thì thiết lập có 7 tháng Nhuận....
Chúng ta nên biết rằng, biến đổi diễn hóa của bất kỳ một môn mệnh lý thuật số thì không có môn nào mà các bậc tiên hiền cổ thánh lại không căn cứ vào định luật của thế giới tự nhiên hoặc là quy luật vận hành của Nhật Nguyệt theo sự quan sát mà suy tính ra. Theo như bên trên đã nói, chúng ta có thể biết được "Tháng Nhuận" chính là vì sự phối hợp năm Thái Dương được dùng để điều chỉnh số phần tháng Thái Âm. Trong Thiên Văn, Lịch Pháp, hoặc Chiêm Tinh học, "tháng Nhuận" chỉ là chúng ta sửa đổi lại việc thiết kế an bài của "Năm". Tháng của Thái Âm lịch có thứ tự từ tháng Giêng (Chính Nguyệt), tháng Hai, tháng Ba,... tháng Mười Hai (Chạp) cũng chính là sự bài bố theo số chứ chẳng có công dụng gì khác trên thực tế, trái lại, mỗi một Thái Dương Tiết Nguyệt trong Thiên Văn học lại có một địa vị trọng yếu tương xứng với nó. Quý vị mà không ngại thì hãy xem lại ngày sinh dương lịch của bản thân mình, bởi vì mỗi năm vào ngày ấy thì vị trí Thái Dương trên Hoàng Đạo là đều tương đồng vị trí với lúc sinh ra. Nhưng mà người Trung Quốc luôn luôn chịu ảnh hưởng sâu sắc và coi trọng ngày sinh theo nông lịch (lịch âm), mà theo Thiên Văn thì nó không có nhiều điểm đặc biệt. Đó là lý do mà chúng ta không thể không nghi ngờ chất vấn trong môn Tử Vi Đẩu Số đối với vấn đề phép xem "tháng Nhuận" dường như có ý nghĩa bàn luận có giá trị đặc biệt.
Đã từng có đại sư môn Đẩu Số cho rằng phải căn cứ vào "Thái Âm lịch" mà quy định (đây cũng là quan điểm mà nhiều đại sư Đẩu Số khăng khăng giữ). Nhưng mà, chúng ta cho rằng cái quan điểm đặc biệt ấy có giá trị thảo luận, chúng ta đừng ngại nghiên cứu thêm một chút:
Trước tiên, chúng ta khảo cứu tất cả lịch pháp của Trung Quốc, ngàn năm qua đều áp dụng "Âm Dương hợp lịch", vì vậy mới có sự xuất hiện của "tháng Nhuận". Còn nếu chỉ dùng riêng mình "Thái Âm lịch" thì tựa hồ như chưa từng xuất hiện qua, dù cho trong dân gian lấy Thái Âm để tính toán tháng, cũng đều là vẫn muốn phối hợp Tiết Khí làm căn cứ, điểm này chúng ta có thể qua nông lịch thịnh hành trong dân gian mà hiểu được.
Thứ hai, cho dù nói theo quan điểm của Thiên Văn học và Vật Lý học, lực ảnh hưởng của Thái Dương (Mặt Trời) đối với Địa Cầu nếu như so với Mặt Trăng thì mạnh hơn rất nhiều. Chúng ta đều biết rằng, hết thảy các sinh vật trên Địa Cầu đều có 3 yếu tố duy trì sinh mệnh là: Ánh dương quang, Không khí và Nước. Trên Địa Cầu nếu như mà không có dương quang thì sẽ không có tồn tại sự sống, do đó, giả sử như Tử Vi Đẩu Số trong buổi thiết lập ban đầu sơ khai, mà bỏ qua Thái Dương không dùng lại chỉ dùng mỗi Nguyệt Lượng (Mặt Trăng), thì dường như lại có điểm không thể nào nói nổi. Đây cũng chính là cái mà tại làm sao hết thảy các môn thuật số Trung Quốc bao gồm: Bát Tự, Lục Hào quái, Mai Hoa dịch, Kỳ Môn Độn Giáp, Phong Thủy Dương Trạch, Tướng Mặt Tướng Tay,... đều cần tham chiếu Tiết Khí của Thái Dương lịch làm căn cứ xuất phát. Thậm chí, ngay cả thuật Chiêm Tinh phương Tây cũng đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của Tiết Khí ấy chứ! (Trong chiêm tinh học, Thái Dương qua 12 chòm sao Hoàng Đạo chính là cái mà chúng ta gọi là Tiết Khí). Đương nhiên, Nguyệt Lượng đối với chúng ta cũng có lực ảnh hưởng tương đối lớn, điểm này, sau đây chúng ta sẽ thảo luận nghiên cứu.
Lại theo kết cấu bên trong của Tử Vi Đẩu Số để xét, giả sử nếu quả thực Tử Vi Đẩu Số chỉ khảo sát mình Thái Âm lịch hoặc năm Thái Âm, thì tại sao trong kỹ thuật Đẩu Số còn cần thiết lập một ngôi sao "Thái Dương" để làm cái gì? Trong phần "Chư Tinh vấn đáp luận" của sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có ghi chép:
"Thái Dương tinh thuộc hỏa nhật chi tinh vậy, chính là biểu nghi của tạo hóa,... làm nguồn chiếu sáng ở trong số, chính là then chốt của quan lộc...
Hi Di tiên sinh viết: Độ số trải qua vòng chu thiên của Thái Dương tinh vận chuyển vô cùng...
Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh viết: Thái Dương ti quyền quý làm văn, gặp Thiên Hình thì làm võ, tại Dần mão là sơ thăng (mới bắt đầu mọc), tại Thìn Tị là thăng điện (đã lên đến cung điện), tại Ngọ là Nhật lệ trung thiên (Mặt trời sáng rực rỡ giữa bầu trời), đại phú đại quý, tại Mùi Thân là thiên viên (xế khỏi cung viên)... tại Dậu là Tây một (lặn xuống phía Tây)... tại Tuất Hợi Tý là thất huy (mất ánh sáng)... v.v..."
Những quan điểm này đều cùng phù hợp với Thái Dương ở trong Chiêm Tinh học, có thể thấy trong buổi ban sơ thiết lập môn Đẩu Số, đích xác có suy xét khảo sát đến lực ảnh hưởng của Thái Dương.
Theo những gì đã thảo luận trong đoạn nói trên, chúng ta thực sự không tìm ra chứng cứ mạnh mẽ của việc Tử Vi Đẩu Số lấy Thái Âm lịch làm chủ. Có lẽ sẽ có người nghi ngờ chất vấn:
- Không lẽ vận hành của Nguyệt Lượng (mặt trăng) với Sóc Vọng tròn khuyết của nó lại không có ảnh hưởng tới sinh vật hay sao?
Chúng tôi có thể khẳng định chắc chắn với mọi người rằng:
- "Có"! Nguyệt Lượng thực sự cũng có lực ảnh hưởng rất lớn.
Trong Chiêm Tinh học, lực ảnh hưởng của Nguyệt Lượng là ngay kế sau Thái Dương. Trong mệnh bàn (lá số) có chiếm phân lượng tương đương. Nhưng mà then chốt của sự biến hóa thay đổi tròn khuyết của nó là ở "Nhật" (ngày) chứ không phải là ở "Nguyệt" (tháng). Chúng ta đều biết rằng ngày mồng Một âm lịch là không thấy ánh trăng, mà lúc trăng tròn thì nhất định là xảy ra xung quanh ngày 15. Cái này cũng chính là vì sao mà Tử Vi Đẩu Số khi an bài xác định sao Tử Vi cần phải theo ngũ hành Cục phối hợp với "số ngày sinh" để khởi. Ví dụ như: Trong khẩu quyết khởi Tử Vi tinh của Thủy Nhị Cục:
"Khảm thủy cung trung nhị tuế hành,
sơ nhất khởi sửu xuất nhị dần,
thuận hành nhất cung an nhị nhật,
âm dương tuy thù hành tắc đồng"
Nghĩa đen:
"Trong cung Khảm thủy hai năm chuyển
Mồng Một khởi ở Sửu, ra đến mồng Hai ở Dần
Chuyển theo chiều thuận, mỗi cung an hai ngày
Âm dương tuy có khác biệt nhưng di chuyển thì lại giống nhau"
Nôm na tức là:
"Đối với cung có Cục thuộc hành Thủy và cơ số vận hành là 2
Khởi sao Tử Vi với ngày mồng Một tại cung Sửu, mồng Hai tại cung Dần
Chuyển theo chiều thuận, cứ mỗi cung thì an hai ngày tiếp theo
Âm Dương tuy có khác biệt nhưng di chuyển lại giống nhau".
Ngoài ra thì ngũ hành cục khởi Tử Vi tinh cũng đều là tương đồng.
Trở lại, chúng ta xem phương pháp sắp đặt Mệnh Thân cung của Tử Vi Đẩu Số với phương pháp xác định cung Mệnh trong Chiêm Tinh học cũng có chút sự giống nhau. Lấy môn Quả Lão Tinh Tông (hoặc gọi là Thất Chính Tứ Dư) làm ví dụ, phương pháp an cung Mệnh của nó là lấy Thái Dương đến trong cung Hoàng Đạo mà khởi giờ sinh, thuận hành đếm đến Mão thì an cung Mệnh; còn phương thức của Tử Vi Đẩu Số thì lấy tháng sinh khởi giờ Tý, đếm nghịch đến giờ sinh thì an cung Mệnh. Phương diện này kỳ thực là có yếu tố tương tự rất to lớn, người nào mà học qua Thất Chính Tứ Dư (hoặc Chiêm Tinh) đều biết rõ, Thái Dương đến trong cung Hoàng Đạo kỳ thực chính là Tiết Khí mà chúng ta vẫn thường dùng, cũng chính là "tháng Thái Dương"; mà giải thiết là Tử Vi Đẩu Số cũng dùng Tiết Khí để phân chi Nguyệt Lệnh, như thế thì chẳng phải là cách an cung Mệnh của Tinh Tông và Tử Vi Đẩu Số là đều cùng một dạng theo Nguyệt Lệnh khởi đầu hay sao? Khác biệt chỉ ở phép đi thuận nghịch theo cung vị mà thôi. (Ở trong điều này còn liên quan tới vấn đề kết cấu của mệnh bàn Đẩu Số với Tinh Tông, có lẽ sau này sẽ trình bày ra).
Nếu như chúng ta còn bới lông tìm vết, theo cổ thư bắt đầu khảo chứng, cũng có thể tìm được một chút manh mối để thảo luận:
Hiện nay các học giả Tử Vi Đẩu Số chủ trương rằng nguyên do mà Tử Vi Đẩu Số không theo Tiết Khí là căn cứ cổ thư <<Thập Bát Phi Tinh sách thiên Tử Vi Đẩu Số toàn tập>> bên trong có bài "Tử Vi Đẩu Số Tổng Quyết" để mà lý luận. Chúng ta tạm thời trước tiên không bàn luận tới tính chân thực của nó, chỉ đơn thuần thảo luận nghiên cứu về câu bên trong bài "Tử Vi Đẩu Số Tổng Quyết":
"Tử Vi Đẩu Số Tổng Quyết" khai tông minh nghĩa có giảng rằng:
"Hi Di ngưỡng quan thiên thượng tinh,
Tác thành đấu sổ thôi nhân mệnh,
Bất y Ngũ Tinh ( yếu ) quá tiết,
Chích luận niên nguyệt nhật thì sinh
...
Hà dụng cầm đường giảng Ngũ Tinh".
=
(Ngài Hi Di ngẩng đầu ngắm sao trên trời,
Tạo ra môn Đẩu Số để suy đoán mệnh người,
Không giống với (môn) Ngũ Tinh, quá chú trọng đến Tiết khí,
(Mà) Chỉ luận về năm, tháng, ngày, giờ sinh).
...
Thì còn cần dùng phòng nhạc ("cầm đường") để giảng về môn Ngũ Tinh nữa chăng?)
và chúng ta thảo luận đến nhân tố then chốt có liên quan ở hai câu là "Bất y Ngũ Tinh yếu quá Tiết" và "Hà dụng cầm đường giảng Ngũ Tinh".
Trước tiên ta phải làm sáng tỏ hai chữ "Ngũ Tinh", bình thường dù sao vẫn cho rằng "Ngũ Tinh" chính là đại biểu cho "Quả Lão Tinh Tông" hoặc "Thất Chính Tứ Dư", nhưng kỳ thực điều này là sự hiểu lầm rất lớn. Cổ nhân giảng "Thất Chính Tứ Dư" là đem Thái Dương, Nguyệt Lượng, Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh, mà quy làm "Thất Chính"; mà trong "Thất Chính" thì Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh được gọi là "Ngũ Tinh"; địa vị của Thái Dương và Thái Âm là ở trên cả "Tinh". Do đó, "Ngũ Tinh" chẳng qua chỉ là một bộ phận bên trong của "Thất Chính", chứ không thể đại biểu cho toàn bộ "Thất Chính Tứ Dư".
Người mà học qua môn Chiêm Tinh học đều biết rằng trong hết thảy "Thất Chính Tứ Dư" thì chỉ có sự vận hành của Thái Dương với Thái Âm là có quy luật thời gian nhất định, còn "Ngũ Tinh" của nó đối chiếu với thời gian của Địa Cầu mà nói thì không có quy luật nhất định. Chúng ta đem quy luật biến hóa của Thái Dương diễn biến thành "Tiết Khí", còn sự trong khuyết của Thái Âm theo sự vận hành của nó thì biểu hiện sự biến hóa thay đổi theo mỗi một ngày đêm. Nhưng mà sự vận hành của "Ngũ Tinh" thì căn bản không có tuân theo quy tắc thời gian, mà hoàn toàn cần phải dựa vào quan trắc và tính toán theo số học mới có thể biết được. Cái này cũng chính là nguyên nhân vì sao mà cổ nhân học "Thất Chính Tứ Dư" cần phải học đầy đủ về diễn toán (tính toán theo công thức) số học và họ về quan trắc Thiên Văn, chỉ có như thế mới có thể hiểu rõ ràng chính xác về quy tắc vận hành của "Ngũ Tinh". Người hiện đại thì khỏi phải phiền phức như vậy, chỉ cần bấm máy tính một cái, thì toàn bộ vị trí của Thất Chính Tứ Dư đều hiển hiện rõ ràng! Bởi vậy, tại đây tôi nhất định phải nhấn mạnh rằng:
Sự vận hành căn bản của "Ngũ Tinh" với "Tiết Khí là không có sự liên quan.
Đó chính là lý do mà nếu như câu "Bất y Ngũ Tinh yếu quá Tiết" là nói Tử Vi Đẩu Số không chiểu theo quy tắc bài bố của "Ngũ Tinh" thì sẽ không cần nói đến việc khảo xét đến Thái Dương Tiết Khí. Trong toàn bộ kết cấu của câu trên, cũng có vẻ như có điểm mà nói chửa được thông.
Thứ hai, cổ nhân viết văn chương là hoàn toàn không có ngắt câu (các dấu câu chấm phẩy), do đó cái câu thoại "Bất y Ngũ Tinh yếu quá Tiết" nhỡ có thể là "Bất y Ngũ Tinh, yếu quá Tiết" (Không như Ngũ Tinh, phải chú trọng thông qua Tiết Khí) ấy chứ? Cứ kiểu như thế thì phản chuyển lại trở thành môn Tử Vi Đẩu Số lại cần chú trọng nhấn mạnh đến Tiết Khí hay sao?
Ngoài ra, quy ước an Thân Mệnh trong <<Tử Vi Đẩu Số toàn thư>> có nhắc đến:
"Đại để nhân mệnh cú tòng dần thượng khởi chính nguyệt..., hựu nhược nhuận Chính nguyệt sinh giả yếu tại Nhị nguyệt nội khởi an Thân Mệnh, phàm hữu nhuận nguyệt câu yếu y thử vi lệ."
(Đại khái là nhân Mệnh theo cung Dần khởi tháng Giêng... Lại nếu như người sinh vào tháng Giêng nhuận, thì phải từ Tháng Hai mà khởi an Thân Mệnh, phàm cứ xuất hiện tháng nhuận thì phải y theo quy tắc ấy.)
[QNB chú: độc giả lưu ý, có lẽ khi La Hồng Tiên biên soạn cuốn TVĐSTT này, năm Canh Tuất đời Gia Tĩnh triều Minh, thì chưa có sự điều chỉnh về quy ước cho tháng nhuận là "không được nhuận vào các tháng Một (11), Chạp (12), Giêng (1)”, cho nên ở trên mới đề cập tới chi tiết "tháng Giêng nhuận" như vậy. Quy ước ấy, có lẽ xuất hiện theo bộ lịch Thời Hiến, khoảng năm 1644-1674 thuộc 2 đời Thuận Trị và Khang Hi triều Thanh].
Cái đoạn thoại ở trên đây cũng chính là một trong những lý do khiến cho các đại sư môn Đẩu Số kiên trì với quan điểm Tử Vi Đẩu Số không theo Tiết Khí. Nhưng mà, quý vị độc giả đã từng khảo xét qua hay chưa, khi người viết ra cuốn sách <<Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư>> này là ông La Hồng Tiên, Tiến Sĩ của triều Thanh (QNB chú: có lẽ tác giả nhầm. La Hồng Tiên là Tiến Sĩ của triều Minh). Ở trong phần tựa mở đầu cuốn <<Tử Vi Đẩu Số toàn thư>> thì ông ấy có nói Tử Vi Đẩu Số là được một vị đạo sĩ ở núi Hoa Sơn có năm tu cỡ hai chục năm, dáng vẻ lão thành, đem tặng cuốn sách. Sau đó dựa theo sách mà học tập mà đoán ứng nghiệm như thần, bởi vì không dám giấu kín cho riêng mình nên đem công bố ra thiên hạ. Như thế thì, nói cách khác, cái bản <<Tử Vi Đẩu Số toàn thư>> này chính là sở học sở tích lũy theo quá trình tự nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số của La Hồng Tiên, mang những điều tâm đắc mà viết thành. Cũng có thể nói, <<Tử Vi Đẩu Số toàn thư>> quy ước an Thân Mệnh kia cũng là theo sở kiến cá nhân của La Hồng Tiên, là một bộ phận trong tác phẩm của ông ấy, chứ cũng chẳng phải là chính đích thân lão thần tiên Trần Hi Di viết ra. Như thế, thì nhiều điều luận trong cuốn <<Tử vi Đẩu Số toàn thư>> này có gì cam đoan là hoàn toàn không có sai lầm hay không? Cổ nhân viết sách in sách bởi vì việc sao chép là không dễ dàng gì, cho nên thường ngày sửa lỗi in đầy rẫy, chữ tác đánh thành chữ tộ ("lỗ ngư hợi thỉ" là thành ngữ, chữ Lỗ viết thành chữ Ngư, chữ Hợi viết thành chữ Thỉ). Chúng ta có thể rất dễ dàng đưa ra nhiều chỗ nhầm lẫn trong cuốn <<Tử Vi Đẩu Số toàn thư>>. Do đó, phương thức xử lý tháng Nhuận của Tử Vi Đẩu Số ở đây cũng có thể là đại biểu cho ý kiến cá nhân của ông La Hồng Tiên mà thôi. Hơn nữa, các học giả hậu thế đều không hoàn toàn chiểu theo y như phương pháp xử lý tháng Nhuận theo quy ước an Mệnh Thân trong <<Tử Vi Đẩu Số toàn thư>>. Do đó, cái này cũng không thể được nhận định là chứng cứ hùng hồn về việc Tử Vi Đẩu Số không theo Tiết Khí. Huống hồ Tử Vi Đẩu Số lưu truyền đến nay, trong kết cấu cũng không phát sinh quá nhiều thay đổi trọng đại? Các vị không ngại thì đến tiệm sách mà xem các tác phẩm của Tử Vân tiên sinh, Liễu Vô Cư Sĩ, cùng với một số quảng cáo rùm beng về Khâm Thiên Tứ Hóa phi tinh,... ngoại trừ 14 chính tinh tương đồng với truyền thống ra thì còn lại đều không thấy nhiều bóng dáng của hình ảnh cổ thư nữa! Thậm chí ngay cả Tứ Hóa truyền thống đều biến thành ra "nhị Hóa", trong đó Hóa Quyền với Hóa Khoa bị tỉnh lược đi! Nhất thời đúng hay sai khó mà phân biện cho rõ, nhưng mà cũng đại biểu cho phép xem không chính gốc của cổ nhân lưu lại, người hậu thế từ kinh qua nghiệm chứng mà san định sửa đổi.
Thảo luận tới đây, chúng ta không ngần ngại để làm một loại "giả thiết", đó chính là nếu như "Tử Vi Đẩu Số" là sự lột xác từ "Quả Lão Tinh Tông" hoặc Chiêm Tinh học thì "Tử Vi Đẩu Số" nhất định chẳng thể nào thoát ly được cặp ảnh hưởng của Thái Dương và Thái Âm. Do đó, tiên hiền cổ thánh lúc ban sơ thiết kế môn "Tử Vi Đẩu Số", tham chiếu phỏng theo vận hành của Nhật Nguyệt âm dương với biến hóa bốn Mùa, lấy "Tiết Khí" của Thái Dương vận hành trên Hoàng Đạo mà định Thân, Mệnh cung; lại tham khảo lấy "Nhật kỳ" của Nguyệt Lượng (mặt trăng) tròn khuyết để khởi Tử Vi tinh bàn. Như thế, cái tổ hợp cấu thành của thuật số mệnh học, nhất định sẽ phải giống ở riêng việc theo "Tiết Khí" làm căn cứ của thuật số để tiên tiến và chuẩn xác hơn.
Gần đây trên mạng có người hồi đáp Nguyệt Phần (số tháng) của Tử Vi Đẩu Số là căn cứ vào "Đẩu bính" để mà xác định, tháng Giêng thì "Đẩu bính" chỉ Dần, tháng Hai "Đẩu bính" chỉ Mão, tháng Ba thì "Đẩu bính" chỉ Thìn, v.v... Cái phép suy luận này cũng có vài điểm có chỗ mâu thuẫn:
Trước tiên, cái gọi là "Đẩu bính" là cái gì? Ứng với đúng cái phần phần đuôi của "Bắc đẩu thất tinh"! Nếu như quả chính xác là vậy thì tôi nhất định phải đưa ra sự sửa chữa uốn nắn! Bởi vì vị trí của chỗ "Đẩu bính" chỉ vào vẫn cùng với Tiết Khí có quan hệ không tách rời được!
Hoài Nam Tử viết: "Đẩu bính chỉ hướng Đông, thiên hạ đều Xuân; Đẩu bính chỉ Nam, thiên hạ đều Hè; Đẩu bính chỉ Tây, thiên hạ đều Thu; Đẩu bính chỉ Bắc, thiên hạ đều Đông".
Đây chính là cổ nhân lấy Bắc Đẩu thất tinh xem như ghi chép của quan trắc thời lệnh Tiết Khí. Cổ nhân phát hiện mà đem nó ghi chép lại. Thế thì vì sao mà có cái mối quan hệ đối ứng phù hợp như vậy nhỉ? Chủ yếu nhất vẫn là bởi vì Địa Cầu quay xung quanh Thái Dương mà biến đổi mối quan hệ của vị trí Hoàng Đạo. Do đó, chúng ta có thể nói "Đẩu bính" với Tiết Khí không liên quan hay sao? Huống hồ chỗ "Đẩu bính" chỉ vào Dần, Mão, Thìn, Tị,... cũng đều căn cứ vào sở định của Tiết Khí cả, không phải hay sao? Nếu như mà chẳng phải, thế thì xin hỏi rằng vào lúc tháng Nhuận của năm Nhuận thì "Đẩu bính" nó chỉ vào chỗ nào nhỉ?
Thứ hai, vị trí của chỗ "Đẩu bính" chỉ vào còn thuộc về "hiện tượng Thiên văn" mà làm sao có thể nói Đẩu Số với Thiên Văn là không liên quan đây? Ngoài ra, theo tôi được biết, vị trí của "Đẩu bính" di động mỗi ngày, từng Thời Thần (canh giờ) đều có vị trí biến động [Nó chỉ đúng chân thực phương hướng Đông Tây Nam Bắc hay không thì tôi vẫn còn nghi ngờ]. Vì thế, tôi còn đặc biệt đi sắm về một bộ giáo cụ rất đẹp của Bộ Giáo Dục phát hành - bàn chuyển các chòm sao để quan sát sao trời nhé! Đối với cái này mà có người nghi vấn, thì đề nghị ngài đừng ngại tới tiệm sách mà mua sắm vậy, đồng thời đi để mà quan sát một phen, ngài có thể hiểu rõ hơn!
Còn có người cho rằng Tử Vi Đẩu Số sở áp dụng chính là hệ thống "Hư tinh" chứ không phải là giống như Chiêm Tinh học xét đến sự vận hành của tinh thể thực tế. Do đó, khỏi cần đi giải thích về sự vận hành biến hóa của các tinh thể như là trong Chiêm Tinh học. Nên vì thế càng không cần bàn về việc Thái Dương quá cung với vấn đề Tiết Khí!
Về cơ bản, quan điểm này cũng có trăm ngàn chỗ sơ hở, chúng ta hãy nhìn quanh xem các môn chiêm bốc tinh mệnh của Trung Quốc, ngoại trừ Thất Chính Tứ Dư với Chiêm Tinh học hiện nay là cùng áp dụng sự vận hành của các tinh thể thực tế để mà làm cơ sở đoán mệnh ra, thì xin hỏi các vị, còn có một môn học thuật nào là xét đến hệ thống "Thực tinh" hay không? Thiên Can Địa Chi của Tử Bình Bát Tự, xin hỏi là có ai nhìn thấy được không? Hệ thống cửu tinh của Kỳ Môn Độn Giáp cũng chẳng phải là hư tinh hay sao? Hệ thống bát quái chẳng có nhẽ nào lại là tinh thể thực tế đấy à? Thế mà các môn đó đều dựa vào Tiết Khí để làm căn cứ, thế ngài cho rằng Tử Vi Đẩu Số có thể là ngoại lệ hay sao?
Một số bằng hữu có trả lời rằng chẳng cần biết mèo đen hay mèo trắng, có thể bắt được chuột thì chính là mèo tốt. Ý tức là chẳng kể là môn phái nào, chỉ cần toán được đúng thì nhất định là chính xác. Cái quan điểm này, cá nhân tôi đặc biệt tán thành, nhưng mà đây lại là một công trình khó khăn đặc biệt. Bởi vì Mệnh lý học chẳng phải là Toán học, nó cũng không có đáp án chuẩn mực, hoàn toàn chiểu theo kinh nghiệm cá nhân, cảm giác để mà nhận định, tựa hồ như rất khó có đáp án khách quan. Trừ phi có thể có một tổ chức đoàn thể giám sát cùng với một kho tư liệu khổng lồ để kiểm chứng tương hỗ, bằng không thì rất dễ rơi vào cái cảnh ông nói thì cho là ông có lý, bà nói thì cho là bà có lý, ai nói theo kiểu của người đó.
Ngoài ra, cá nhân tôi tuyệt đối tin tưởng vào "Mệnh vận tuyển trạch luận", nói cách khác là con người có thể thông qua sự lựa chọn để cải biến mệnh vận. Do đó, nhân tố của ảnh hưởng mệnh vận cũng không chỉ có riêng sinh thần bát tự, mà còn bao quát cả phong thủy, hoàn cảnh lớn lên, bối cảnh giáo dục, cha mẹ, vợ con,...
Chúng ta chỉ có thể căn cứ xác định một số đáp án sự kiện đã biết để suy đoán, bởi vì thực sự rất khó có một đáp án chuẩn mực, bất quá chúng ta vẫn đều là hy vọng có thể tập hợp một số học giả có chí hướng để nghiên cứu và thống kê, hy vọng có thể tiếp cận các chiêm tinh gia nước ngoài cùng đề xuất số liệu thống kê tin cậy để làm bằng chứng, cho nên tôi nói đây là một công trình đặc biệt to lớn.
Cuối cùng, tôi còn muốn nhấn mạnh một điểm, lập trường nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số của tôi tuyệt đối không phải là bảo thủ cứng nhắc, đứng ở lập trường người nghiên cứu mệnh lý, tôi thực sự mong muốn mở rộng tấm lòng để kiểm xét lại từ đầu các bảo vật mà Trần Đoàn lão tổ lưu lại, cái hay thì đường nhiên phải được tăng cường bảo tồn lưu giữ, có vấn đề thì chúng ta đương nhiên phải giải quyết vấn đề. Chiêm tinh thuật của người phương Tây có cục diện như ngày hôn nay cũng chính là công lao thuộc về sự phát triển của khoa học Thiên Văn cùng với sự sôi nổi của các học giả nghiên cứu, mới có thể có được hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh (Tuy nhiên vẫn còn có một số vấn đề, nhưng ít ra thì trong phương diện cơ sở lý luận thì họ có rất ít tranh cãi). Trái lại thì Tử Vi Đẩu Số ở trong nước (các môn thuật số khác cũng thế) còn dừng lại ở quy mô mỗi ông nói một chút, mỗi cá nhân đều có một phần lý luận cao siêu có thể tự bào chữa, gặp lúc có ý kiến bất đồng thì choảng nhau chí chóe, cũng chẳng chịu tĩnh tâm để mà nghe ý kiến phản biện của người ta. Xin hỏi cái loại nghiên cứu học thuật như thế sẽ tiến bộ được chăng? Riêng vấn đề của Tiết Khí, Tứ Hóa, khởi Đại Hạn có ở cung Mệnh hay không, cũng đã khiến cho người nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số đau hết cả đầu! Những cái khác càng không cần phải nói! Chúng tôi thực sự rất lo ngại, giả như có một ngày nào đó mà Đại Học trong nước (thậm chí Đại Học nước ngoài) muốn mở ra xây dựng chương trình học phần của môn Tử Vi Đẩu Số, thì không hiểu là sẽ phải giảng dạy như thế nào? Cho dù có chọn được người dạy được phù hợp, xin hỏi sẽ có bao nhiêu người tín phục nghe theo đây? Tới lúc đó, tôi có lẽ sẽ không nhịn được nếu như cứ nói đi nói lại cái luận điệu cũ rích: học tập mệnh lý cần không sợ tính toán sai lầm, chỉ sợ đến cố sống cố chết không nhận sai lầm!
Và quý vị cao nhân bậc thầy cùng chung sức. Nếu như tôi có sai lầm! Cũng hoan nghênh các cao nhân bậc thầy gửi thư đến phê bình và chỉ giáo! Tôi sẽ rất sẵn lòng hoan hỉ tiếp thu!
Phan Văn Khâm.
► Mời các bạn xem Tử vi 2017 đã được cập nhật tại Lichngaytot.com |
![]() |
![]() |
![]() |
Thứ 6 ngày 13 là ngày gì mà tại sao mọi người lại ghét bỏ và sợ hãi nó đến vậy. Hãy cùng Phong thủy số nhau khám phá về ngày thứ 6 ngày 13 có ý nghĩa gì ngay sau đây.
Thứ 6 ngày 13 được mọi người quan niệm là ngay xui xẻo nhất trong năm. Nhiều người coi ngày này là nỗi ám ảnh, tuy nhiên từ đâu mà có ngày này hay chỉ là quan niệm, từ lời truyền tai nhau người này người kia mà hình thành, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu.
Xem thêm: Ý nghĩa của ngày lễ vãng vong
Nỗi ám ảnh về ngày thứ 6 ngày 13 được gọi là paraskavedekatriaphobia, bắt nguồn từ những từ móc nối vào nhau của người Hy Lạp Παρασκευή, δεκατρείς và φοβία – từ này có ý nghĩa là thứ 6, số thứ tự thứ 13 và sự sợ hãi của mỗi người. Đánh vần xen kẽ nhau các từ nói ở bên trên sẽ được tổ hợp lại thành các từ như paraskevodekatriaphobia, paraskevidekatriaphobia hay friggatriskaidekaphobia và nó được dịch là nỗi ám ảnh về con số thứ 13.
Ngoài ra, theo các nhà sử học, con số 13 được coi là 1 trong những trường hợp đặc biệt từ những năm 1780 trước công nguyên khi mà trong bộ luật Hammurabi nổi tiếng của Babylon không hề có điều luật thứ 13. Bên cạnh đó còn có rất nhiều khái niệm liên quan như 12 cung hoàng đạo, 12 tháng trong 1 năm, 12 giờ trong ngày, 12 vị thần Hy Lạp... Theo một cách nói cụ thể thì con số 13 chính là khái niệm nằm vượt ra khỏi các quy tắc thông thường ấy.
Bên cạnh đó, theo thần thoại Bắc u, con số 13 còn được bắt nguồn từ việc vị thần xảo trá Loki đã bí mật hợp tác với thần bóng tối là Hoder để ám sát vị thần của hạnh phúc. Lúc đó chỉ có 12 vị thần tham dự tiệc, Loki đã đến với tư cách vị khách không được mời, cuối cùng Balder đã chết, cả trái đất đã chìm trong bóng tối và tang tóc. Đó được xem là ngày đen đủi và bất hạnh.
Bạn để ý sẽ thấy, con số 13 được tránh ở khắp mọi nơi như nhà cao tầng không đánh số tầng 13, nhiều sân bay bỏ qua cánh cổng thứ 13 ....Vậy còn ngày thứ 6?
Thứ 6 ngày 13 là ngày gì? Chúng ta vừa tìm hiểu về ngày 13 và biết được ý nghĩa cũng như sự ra đời của nó. Vậy còn ngày thứ 6 thì sao?
Các nhà nghiên cứu sau khi tìm tòi về kinh thánh của đạo thiên chúa đã phát hiện, ngày mà eva đưa cho adam ăn trái tám cấm tại vườn địa đường rơi vào chính xác là ngày thứ 6, sự việc này khiến họ bị trục xuất khỏi đó. Từ đó, các tín đồ của đạo Thiên chúa coi thứ 6 ngày 13 là ngày tội lỗi bởi vào ngày này chúa Jesus bị đóng đinh lên cây thánh giá.
Kể từ đó đến nay, con số 13 hay thứ 6 ngày 13 luôn là nỗi ám ảnh là sự sợ hại với nhiều người.vào ngày nay, chúng ta nên hạn chế làm các công việc quan trọng để tránh sự tổn hại.
Theo triết lý Trung Hoa, phong thủy tạo ra sự cân bằng và hài hòa xung quanh những vật thể sống. Với thời đại này, chúng ta vẫn có thể áp dụng phong thuỷ để tạo để sống trong môi trường tốt hơn, và thân thiện với môi trường.
Phong thủy cổng nhà
Chiếc cổng là ấn tượng đầu tiên khi một người nhìn thấy ngôi nhà của bạn. Vì vậy phải khiến cho các vị khách cảm thấy thân thiện khi bước vào nhà.
Giữ cho cổng nhà luôn sạch đẹp và không có bất kỳ sự cản trở nào.
Cổng tốt nhất là kéo vào khi đi ra, cũng có nghĩa là khi về nhà bạn đẩy cổng vào bên trong nhà. Như thế cái cổng đó mang ý nghĩa chào đón.
Phong thuỷ nhà bếp
Bạn không nên đặt một tấm gương sau bếp, hoặc tấm inox sáng bóng sau lưng bếp như một số người đã hướng dẫn để làm rộng bếp, hay hoá giải bếp ở hướng xấu, để tiện việc lau dọn sạch sẽ,.v.v...Vì họ không am tường hoặc không biết rằng điều đó sẽ ảnh hưởng đến hôn nhân gia đình, bạn có muốn ba mình hay mình có tình nhân, hay có quan hệ ngoài hôn nhân hay không? Tuỳ bạn quyết định.
Nhà bếp không nên đối diện nhà vệ sinh. Nếu có, thì nên khép kín cửa và đóng nắp toilet lại.
Phong thuỷ Phòng tắm và nhà vệ sinh
Luôn luôn đóng nắp toilet khi không dùng đến, vì có thể thủy là kỵ thần của một hay vài thành viên trong gia đình.
Giữ toilet sạch sẽ, dùng thùng đựng rác có nắp đậy để giữ vệ sinh.
Sàn toilet luôn sạch và khô ráo.
Phong thủy Phòng khách
Làm cho năng lượng có sự di chuyển trong nhà bằng việc gắn thêm những quả cầu pha lê phía trên trần nhà. Chắc chắn chúng sẽ làm tăng tính thẩm mĩ của gian phòng hơn.
Thay vì để những khoảng “chết” trong phòng, bạn nên đặt một chậu cây cảnh, bức tranh nhiều màu sắc hay cảnh vật bắt mắt sẽ rất sống động.
Không bao giờ đặt đồ nội thất (ghế quay lại cửa).
Luôn luôn có đủ ghế trong phòng khách và phòng ăn. Không nên để lưng ghế quay mặt ra cửa. Và điều quan trọng là phải sắp xếp sao cho có đủ không gian để mọi người có thể di chuyển dễ dàng.
Không nên để hoa khô trong nhà. Vì chúng không sống được lâu, thậm chí có thể gây ra tác động tiêu cực làm ảnh hưởng đến sự thịnh vượng cho nhà bạn. Bạn nên trang trí bằng hoa tươi hoặc hoa lụa sẽ mang lại sự tươi mới hơn cho ngôi nhà.
Đồ đạc theo quan niệm phong thuỷ
Giữ những cây chổi, giẻ lau sàn và thùng rác khuất tầm nhìn. Điều đó quan trọng cho sự tồn tại của gia đình và giữ những kẻ quấy rối ở bên ngoài, không cho chúng xâm nhập. Giống như là thần chổi giữ nhà giúp bạn vậy.
Suối nước, cây cối, tổ chim dọc theo con đường xuyên qua vườn sẽ mang lại sự cân bằng và xác định mức độ của năng lượng ngôi nhà. Nhưng tuyệt đối không làm cản trở hoặc áp chế lối đi vào nhà.
Một chiếc chuông gió gắn ở cửa sẽ làm xao lãng những năng lượng tiêu cực xâm nhập vào nhà.
Phong thuỷ Cửa và cầu thang
Nếu bạn có kế hoạch làm một ngôi nhà mới phải đảm bảo rằng cửa trước không đối diện cửa sau. Nếu điều đó không thể tránh khỏi, bạn nên có một bức mành giữa hai cửa để năng lượng không vào cửa trước và ra cửa sau.
Tránh đề cầu thang ngay trước cửa chính vì khi bạn mở cửa thì năng lượng theo cầu thang lên thẳng tầng trên, và năng lượng sẽ thoát ra ngoài nhanh hơn (không tụ khí được). Nếu đã ở tình thế đó, bạn có thể giải quyết bằng chiếc bình phong để thay đổi, điều tiết năng lượng.
Phong thuỷ Phòng ngủ
Phòng ngủ của bạn phải là một phòng riêng tư, ở đây sẽ không bị các vị khách và người viếng thăm nhìn thấy.
Không nên có quá nhiều cửa sổ trong phòng ngủ sẽ khiến cho năng lượng bị rối loạn.
Không nên có gương giáp mặt giường, để giải quyết vấn đề này là bạn chỉ cần một mảnh vải phủ gương mỗi tối trước khi đi ngủ.
Không nên có máy tập thể dục trong phòng ngủ, vì phòng ngủ lấy tịnh làm chủ, tránh động, ánh sáng chịu ấm.
Tránh có quá nhiều đồ điện tử trong phòng ngủ và không để bất cứ thứ gì dưới giường.
Nếu có một chút âm thanh nhẹ nhàng trong phòng ngủ thì thật tuyệt. Nó sẽ giữ cho bạn sự điềm tĩnh và thư giãn sau khi bạn dành quá nhiều thời gian cho công việc và các cộng sự.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thùy Dung (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Quan tìm hiểu va trao đổi nhiều người tôi thấy điều đó khá đúng. Có nhà mới động thổ xây dựng được vài ngày tai họa đã ập đến, có nhà thì lâu hơn, và đa số là sau khi ở được 1 thời gian ngắn đã phát sinh nhiều điều xấu. Chắc hẳn không cần lấy ví dụ thì các bạn cũng có thể chiêm nghiệm điều này. Qua đúc rút từ kinh nghiệm thực tế, tôi thấy có các nguyên nhân căn bản để dẫn đến vận đen khi xây nhà đó là:
1. Đáng sợ nhất là xây dựng vào năm gặp phải Ngũ hoàng sát, hay Nhị hắc bệnh phù đến hướng hay động khí vào vùng 2 sao đó đến (đây là 2 sao khi đã thoái vận thì hung tính rất lớn).
2. Động thổ, đổ mái năm Kim lâu tuổi, hay trạch xấu.
3. Sai ngày giờ (chạm vào các ngày có sao Đại hung).
Trên đây là 3 nguyên nhân căn bản, mà tôi thấy chỉ số ít các thầy biết để tư vấn cho mọi người khi làm nhà. Người dân thường thì cũng không biết, hoặc không gặp được người biết đúng để hỏi. Việc chọn ngày, tháng, năm phần nhiều chỉ xem qua sách Lịch vạn sự (được bày bán tràn lan trên thị trường), các thầy tư vấn thiếu đi kiến thức căn bản của quy luật Cửu tinh năm, cách tính sao tốt xấu, chọn tuổi làm nhà. Do vậy, đã có biết bao họa vô đơn chí xảy ra khi xây nhà, mà người dân thì vẫn mãi đổ cho đó là XÂY NHÀ thì ĐEN.
Bài viết này chỉ bàn các nguyên nhân khi tiến hành xây dựng nhà, chưa kể đến các yêu tố phong thủy nhà ở chuyên sâu.
Anh Quyền
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Hương Giang (##)
Hành: Hỏa
Loại: Sát Tinh
Đặc Tính: Trở ngại, thất bại, bần hàn, tai nạn, tác hại, gian xảo, kích động
Tên gọi tắt thường gặp: Không
Là một phụ tinh, thuộc bộ sao đôi Địa Không và Địa Kiếp. Phân loại theo tính chất là Sát Tinh, Hung Tinh.
Cũng là một trong 6 sao của bộ Lục Sát Tinh gồm các sao Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp, Linh Tinh, Hỏa Tinh (gọi tắt là Kình Đà Không Kiếp Linh Hỏa).
Cũng là 1 trong 4 sao của cách Hình Riêu Không Kiếp (Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không, Địa Kiếp).
Khi đóng trong cung không có chính tinh gọi là cách hung hoặc sát tinh độc thủ.
Khi có sao Địa Kiếp trong cùng một Cung Tỵ hoặc Cung Hợi gọi là cách Không Kiếp đồng cung Tỵ Hợi.
Khi một trong các Cung Tý, Cung Tuất, Cung Thìn, Cung Ngọ có sao Địa Không thì tại Cung Hợi hoặc Cung Tỵ thuộc cách giáp Không Kiếp.
Đắc Địa: Dần, Thân, Tỵ, Hợi.
Hãm Địa: Tý, Sửu, Mão, Thìn, Ngọ, Mùi, Dậu, Tuất.
Ý Nghĩa Địa Không Ở Cung Mệnh:
Tướng Mạo: Sao Địa Không ở Mệnh thì thân hình thô xấu, da kém vẻ tươi nhuận.
Tính Tình: Địa Không đắc địa: Có mưu trí, thâm trầm và lợi hại, rất can đảm, táo bạo, dám nói, dám làm, kín đáo, bí mật, hay giấu diếm, hay suy xét, mưu trí cao thâm, thủ đoạn. Những đặc tính này đúng cho cả phái nam và nữ.
Địa Không hãm địa: Ích kỷ, tự kỷ ám thị, suy tật xấu của người từ tật xấu của mình, xảo quyệt, gian tà, biển lận, tham lam.
Công Danh Tài Lộc
Sao Địa Không cho dù đắc địa cũng không bảo đảm trọn vẹn và lâu dài công danh và tài lộc. Sự nghiệp sẽ hoạch phát nhưng hoạch phá nghĩa là tiến đạt rất nhanh chóng song tàn lụi cũng lẹ. Uy quyền và tiền bạc phải gặp nhiều thăng trầm, lúc thịnh lúc suy; nếu có phú quý lớn thì hoặc không hưởng được lâu, hoặc phải có lần phá sản, lụn bại.
Nếu hãm địa, nhất định phải cực kỳ nghèo khổ, vất vả, không có sự nghiệp và sinh kế để nuôi thân. Sao Địa Không giáp Mệnh cũng liên lụy ít nhiều đến bản thân, công danh, tài lộc như phải vất vả, tha phương lập nghiệp, bị mưu hại, trộm cắp.
Phúc Thọ Tai Họa
Đắc địa: Cuộc đời phải vất vả cực nhọc, tuy tai họa tiềm tàng, nhưng không mấy hung hiểm. Dù sao, phải chịu nhiều cảnh thăng trầm, khi vinh, khi nhục. Nếu gặp phải sát tinh, thì sự phá hoại dễ dàng phát tác mau chóng.
Hãm địa: Địa Không ví như một nghiệp chướng bám vào vận mệnh con người, có ảnh hưởng đa diện và nặng nề, cụ thể như:
Bị tật nguyền vĩnh viễn, bệnh nặng.
Hung họa nhiều và nặng nề.
Nghèo khổ, cô độc, vô sản, phải đi xa làm ăn.
Yểu mạng.
Sao Địa Không đắc địa gặp Thiên Tướng, Thiên Mã, Hóa Khoa: Những sao này thủ Mệnh là người tài giỏi, lập được sự nghiệp lừng lẫy trong cảnh loạn ly.
Sao Địa Không đắc địa với phi thường cách: Phi thường cách hoặc gồm Tử Phủ, Vũ, Tướng đắc địa, hoặc gồm Sát, Phá, Liêm, Tham đắc địa, được sự hội tụ của cát tinh đắc địa như Tả, Hữu, Khôi, Việt, Xương, Khúc, Long, Phượng, Đào, Hồng, Khoa, Quyền, Lộc và của sát tinh đắc địa như Kình, Đà, Không, Kiếp, Hình, Hổ. Đây là cách nguyên thủ, đế vương, hội đủ tài đức và vận hội, có cả lương thần và hảo tướng trợ giúp, xây dựng chế độ, để danh tiếng lừng lẫy cho hậu thế.
Sao Địa Không với Thiên Hình, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh: Nếu cùng đắc địa cả thì phú quý được một thời. Nếu cùng hãm địa cả thì rất nguy hiểm tính mạng, sự nghiệp, tài danh, suốt đời gặp nhiều chuyện đau lòng. Dù đắc hay hãm địa, cả trai lẫn gái đều khắc vợ, sát phu.
Sao Địa Không, Thiên Cơ (hay Hỏa): Bị hỏa tai như cháy nhà, phỏng lửa.
Sao Địa Không, Tham Lang đồng cung: Bị thủy tai (chết đuối, bị giết dưới nước), nếu không cũng chật vật lang thang độ nhật, dễ sa vào đường tù tội.
Địa Không (Kiếp) Phục Binh, Thiên Hình, Hóa Kỵ: Gian phi, trộm cướp, du đãng.
Sao Địa Không, Trực Phù, Thiên Khốc, Điếu Khách, Cự Môn, Nhật: Cách này biểu hiện cho tai họa, tang khó, đau buồn liên tiếp và chung thân bất hạnh.
Ý Nghĩa Địa Không Ở Cung Phụ Mẫu:
Cha mẹ mất sớm, chết sớm, chết thảm, bị hình tù, ly cách.
Không nhờ vả được cha mẹ mà có khi phải gánh nợ di truyền của cha mẹ để lại.
Ý Nghĩa Địa Không Ở Cung Phúc Đức
Sao Địa Không đắc địa, thì hưởng lộc một thời.
Sao Địa Không hãm địa, chủ sự bất hạnh lớn về nhiều phương diện, dòng họ sa sút, lụn bại, vô lại, cường đạo, sự nghiệp tan tành, tuổi thọ bị chiết giảm, đau ốm triền miên vì một bệnh nan y.
Ý Nghĩa Địa Không Ở Cung Điền Trạch
Sao Địa Không đắc địa, có điền sản một dạo, nhưng phải mua đi bán lại luôn.
Sao Địa Không hãm địa, vô sản, bị sang đoạt, bị phá sản, bị tai họa về điền sản (cháy nhà, nhà sập ...) hoặc sang đoạt, tạo điền sản bằng phương tiện táo bạo, ám muội.
Ý Nghĩa Địa Không Ở Cung Quan Lộc
Công danh thấp kém, làm ăn rất chật vật.
Bị khinh ghét, dèm pha, không thăng tiến.
Bị mất chức ít nhất một lần.
Nếu đắc địa, có bộc phát được một thời nhưng sau cũng tàn lụi, hoặc phải lên voi xuống chó.
Ý Nghĩa Địa Không Ở Cung Nô Bộc
Tôi tớ phản chủ, hại chủ, giết chủ.
Bạn bè xấu, tham lận, lường gạt.
Nhân tình ám hại, bêu xấu, bòn của.
Ý Nghĩa Địa Không Ở Cung Thiên Di
Ra ngoài làm ăn vất vả, phải bon chen, đôi khi có sựï gây gỗ, bực mình.
Công danh vất vả, làm ăn lúc được lúc không, làm nghề cực nhọc.
Tình cảm bạc bẽo, có số ly hương, đi xa, mồ côi, nếu không thì gia đạo cũng ly tán, xa cách.
Ý Nghĩa Địa Không Ở Cung Tật Ách
Sát tinh này có rất nhiều đặc tính bệnh lý, hầu hết là rất nặng. Nó gây thương tàn cho bộ phận cơ thể đi kèm, dù sao đó chỉ xung chiếu hay bàng chiếu. Cuộc đời hay gặp tai nạn, trắc trở, bệnh khó chữa, có ám tật.
Địa Không, Thiên Đồng: Ruột dư phải mổ, hay bệnh thận phải mổ, bệnh mật có sạn.
Địa Không, Đế Vượng: Gãy xương sống, sái xương sống.
Địa Không, Hỷ Thần: Bệnh trĩ kinh niên hay bệnh mụn nhọt lớn ở mông.
Địa Không, Phá Toái: Đau yết hầu, ung thư cổ họng.
Địa Không, Thai: Bào thai chết trong bụng mẹ, mẹ cố ý phá thai.
Địa Không, Hóa Kỵ: Ngộ độc bị phục độc.
Ý Nghĩa Địa Không Ở Cung Tài Bạch
Địa Không nếu đắc địa: thì hoạch phát nhanh chóng một thời, nhưng về sau phá sản cũng rất nhanh. Thường thường kiếm tiền bằng những phương cách táo bạo (buôn lậu, ăn cướp, sang đoạt) và ám muội (đầu cơ, oa trữ, buôn bán đồ quốc cấm).
Địa Không nếu hãm địa: Vô sản, bần nông.
Ý Nghĩa Địa Không Ở Cung Tử Tức
Không con, hiếm muộn, ít con, phải ở xa con cái.
Sát con rất nhiều.
Con du đãng, đĩ điếm không nhờ vả được mà còn phải bị di lụy.
Con phá sản nghiệp cha mẹ.
Ý Nghĩa Địa Không Ở Cung Phu Thê
Có những ý nghĩa sau:
Sát phu, sát thê, góa bụa bất ngờ.
Có thể không có gia đình.
Nếu có gia đình thì sát hay phải xa cách nhau lâu dài vì tai nạn xảy ra cho một trong hai người.
Phải hai, ba lần lập gia đình, lần nào cũng nhanh chóng.
Ý Nghĩa Địa Không Ở Cung Huynh Đệ
Có những ý nghĩa sau:
Không có anh chị em hoặc anh chị em ly tán.
Có anh chị em dị bào, có người đau ốm bệnh tật, có tật nguyền, hoặc đoản thọ, chết yểu.
Không nhờ vả được anh chị em mà còn phải bị liên lụy vì họ (vì Địa Không bấy giờ giáp Mệnh).
Địa Không Khi Vào Các Hạn
Nếu đắc địa, sẽ bộc phát tài danh mau lẹ, nhưng phải làm bệnh nặng về phổi, mụn nhọt, hoặc phải đi xa.
Nếu hãm địa, rất nhiều tai nguy về mọi mặt:
Bị bệnh nặng về vật chất và tinh thần (lo buồn).
Bị mất chức, đổi chỗ vì kỷ luật.
Bị hao tài, mắc lừa, mất của, thất tình.
Bị kiện cáo.
Bị chết nếu gốc nhị Hạn xấu.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
1. Mơ thấy cá to
Mơ thấy cá to, báo hiệu sắp có tài vận, chuyện vui sắp đến hoặc cơ hội tốt mà bạn không nên bỏ qua.
2. Mơ thấy rắn
Mơ thấy có nhiều rắn ở trong nhà, báo hiệu có một nguồn tài vận dồi dào sắp đến gần. Doanh nhân mơ thấy rắn, báo hiệu sắp phát tài.
![]() |
3. Mơ thấy quả táo
Mơ thấy quả táo chín báo hiệu danh tiếng của bạn sẽ vang dội, có khả năng trúng số hoặc tìm thấy tài vận.
4. Mơ thấy cây ngô
Mơ thấy cây ngô báo hiệu tài vận may mắn sắp đến. Mơ thấy ngô chín, ám chỉ danh vọng, tiền tài và mong ước của bạn sắp thành hiện thực.
5. Mơ thấy phân và nước tiểu dính trên người
Mơ thấy phân và nước tiểu dính trên người báo hiệu có nguồn tài vận sắp đến, sự nghiệp thuận lợi. Doanh nhân mơ giấc mơ này ám chỉ công việc làm ăn suôn sẻ, tài vận đến liên tiếp.
6. Mơ thấy đếm tiền
Mơ thấy đếm tiền báo hiệu bạn sẽ thành công. Nam nữ chưa kết hôn mơ giấc mơ này báo hiệu chuyện tình cảm sẽ thuận lợi. Nam nữ đã kết hôn mơ thấy đếm tiền báo hiệu cuộc sống sẽ vô ưu vô lo, giàu sang phú quý.
Chocopie (theo Sina)
Khi lắp đặt các vận dụng trong nhà bếp, bạn cần chú ý đến độ an toàn và tính tiện dụng. Đồng thời, bạn cũng đừng quên vấn đề phong thủy của các vật dụng này.
Theo quan niệm phong thủy, bếp là nơi tích tụ rất nhiều năng lượng dương của gia đình. Gian bếp còn biểu hiện cho sự ấm no, đủ đầy. Do đó, việc hiểu và sắp đặt các đồ dùng đúng hướng phong thủy rất quan trọng.
Máy hút khói, tủ lạnh ![]() |
Máy hút khói được xem như lá phổi của nhà bếp. Máy hút không khí bụi bặm, hơi dầu mỡ ra ngoài và tạo sự đối lưu không khí, giúp không khí trong lành từ ngoài vào. Nên đặt máy và bếp nấu cùng hướng để tạo ra sự hài hòa phong thủy.
Tủ lạnh là nơi tích tụ nhiều khí lạnh. Mặc dù chúng vẫn tỏa nhiệt nhưng không đáng kể. Theo đó, bạn phải chọn đúng hướng để đặt tủ lạnh sao cho đáp ứng được hai yêu cầu. Thứ nhất là thuận tiện khi sử dụng. Thứ hai là hợp với hướng điều hòa phong thủy.
Đặt tủ lạnh theo hướng bắc là thích hợp nhất vì hướng này tượng trưng cho mùa đông lạnh giá, năng lượng dạng sóng lượn. Hơn nữa, hướng này đại diện cho nước. Khi không chọn được hướng này vì sẽ khiến không gian bất tiện, hãy đặt tủ lạnh theo hướng hợp với tuổi của bạn.
Bồn rửa bát, tủ nướng ![]() |
Tủ nướng (các loại tủ sử dụng nhiệt lượng): Các sản phẩm này tỏa ra một nhiệt lượng rất lớn để làm chín đồ ăn, đồng thời đa phần chúng được làm từ kim loại. Vì thế, bạn nên chú ý đến hướng phong thủy hòa hợp. Các loại tủ này không nên làm âm để dễ dàng thay đổi vị trí và toả nhiệt ra môi trường bên ngoài.
Nên đặt các vật dụng này ở hướng nam vì đây là hướng sinh nhiệt lượng rất lớn, nơi chốn của mặt trời, lửa và các vật sắc nhọn. Nguồn nhiệt lượng này luôn luôn được nuôi dưỡng và sinh ra liên tục.
Bồn rửa thường được đặt ôm sát tường và bố trí gần bếp để tạo thuận lợi cho bạn khi làm bếp. Tuy nhiên, nếu được đặt đúng hướng gió tây, nó sẽ làm bạn thấy thoải mái hơn.
Nếu bồn rửa bát nhà bạn không nằm cạnh cửa sổ thì phía trên giá tủ phải đủ sáng để năng lượng rọi vào vị trí này được kích hoạt khi bạn đứng rửa. Nên xoay về hướng tây nam nếu bồn rửa bằng đá, còn bồn bằng kim loại như inox thì đặt về hướng tây bắc.
Tủ bếp, bếp nấu ![]() |
Tủ bếp thường thiết kế bằng gỗ, thuộc hướng đông hay đông nam. Theo đó, các kệ tủ treo cũng nên kê theo hướng này để phát huy được yếu tố phong thủy mạnh nhất, tạo ra sự sạch sẽ và an toàn khi sử dụng.
Hướng đông nam cũng thích hợp cho các vật dụng có hình chữ nhật như tủ bếp. Năng lượng tiềm ẩn bên trong tủ tượng trưng cho sự dồi dào của thực phẩm, sự sung túc và đầy đủ cho mọi thành viên của gia đình. Bạn cũng nên chú ý sự liên thông về chất liệu giữa tủ treo và tủ đứng bên dưới để tạo ra quá trình cộng hưởng năng lượng chung trong bếp.
Bếp nấu chính là trái tim của căn bếp, nơi làm chín thức ăn, sử dụng rất nhiều năng lượng. Nguồn năng lượng này có thể từ ga hay từ bếp điện. Vì thế, bạn nên bố trí phích cắm bếp điện hay thùng ga hướng về phía hợp với tuổi của bạn. Mỗi chủ nhà đều có một hướng tốt phù hợp với tuổi. Đây cũng chính là hướng lấy năng lượng cho bếp.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Râu, Tóc ở trên người cũng đại diện cho phúc lộc của con người. Hãy xem cách luận tướng mặt qua râu và tóc cụ thể như thế nào.
Râu ở dưới miệng đại diện cho quan vị của con người. Người có lộc mà không có quan tước tức là có râu ở trên mà không có râu ở dưới; có quan mà không có lộc, tức là có râu ở dưới mà không có râu ở trên. Đó là vì, có lộc mà không có quan chủ người giàu có, lại có thể có được phúc, thọ; có quan không có lộc chủ người nghèo hèn, bần tiện, là điềm báo tài sản thất tán, rời xa quê hương, cha mẹ.
Dù Ngũ quan đều là tướng tốt nhưng mệnh chủ định người này cả đời nghèo khổ, chỉ có thể được trường thọ. Nếu một người râu trên và dưới đều tề chỉnh hoàn bị, đó là tướng tốt, phúc lộc song toàn. Nếu người mà có tóc cuộn tròn như nắm đấm, chủ người nghèo khổ.
Râu sáng bóng chủ người có phúc, râu khô héo chủ vận số không tốt. Râu thẳng, chủ người tính tình cương trực, không thể tích tụ được tài sản. Râu mềm mịn, chủ người có tính tình nhu nhược. Nếu râu có màu đỏ, chủ người vận mệnh cô đơn. Nếu tóc cuộn tròn và râu có sắc đỏ chủ người cả đời vất vả. Nếu râu đen sáng mà lại rạng rỡ, chủ người phú quý.
Sáng bóng nhuận sắc là tướng phúc.
Chất tóc khác nhau, số phận khác nhau Tóc của người giống như cây cỏ trên núi cao. Cho nên, tóc của người tốt nhất phải tươi sáng nhỏ dày, sáng bóng. Tóc đen sáng, tú khí được nhập vào trong, như thế mới là tướng quý.
Nếu tóc người lộ sắc vàng, người đó chủ bị khắc hại. Nếu tóc lộ sắc đỏ, chủ người gặp nhiều tai họa. Nếu tóc thô cứng, tính cách đa phần cương nghị, cô độc. Nếu tóc bết mà tỏa ra mùi hôi, người đó đa phần gặp nhiều khó khăn mà lại là kẻ bần tiện. Nếu tóc xoăn tít là người gian trá lại rất nghèo khổ.
Nếu tóc ở mép tóc tương đối nhiều chủ là người nghèo khổ. Nếu mép tóc tương đối cao, tính cách lương thiện. Nếu tóc sau gáy mà cao, tính tình người đó đa phần độc ác, nham hiểm. Nếu bên cạnh tai mà không có tóc mai, tâm địa nham hiểm, độc ác tựa như trong bụng chứa dao có độc. Nếu tóc người dài quá mày mà khiến trán rối loạn, người đó gặp nhiều tai họa. Nếu tóc mai thô mà mỏng bạc, người đó không có nhiều tài sản, cơm áo. Nếu tóc mai khô héo, người đó cả đời buồn khổ không ngừng.
Tóc đen, sợi tóc nhỏ chủ phú quý
Nếu một người tóc đen, sợi nhỏ, dày, chủ khí huyết đầy đủ, sung mãn. Nếu là tóc thô mà mỏng thưa, khí huyết tương đối mỏng bạc. Nếu tóc mịn mà bóng sáng, khí huyết thịnh vượng. Nêu tóc khô héo chủ người có khí huyết suy nhược. Nếu sợi tóc nhỏ mà sáng bóng, chủ người thích hợp làm quan. Nếu tóc đen nhỏ, đó là người được hưởng vinh hoa phú quý.
Nếu tóc mai rối loạn, người đó gian trá, xảo quyệt. Nếu trên trán có tóc rối loạn, người đó khắc hại mẹ. Nếu tóc mai không chỉnh tề, người như thế sẽ khắc hại vợ. Nếu chưa đến 40 tuổi mà tóc đã chuyển màu trắng, như thế là do khí huyết suy nhược tạo thành, tính cách người đó rất vui vẻ nhưng tuổi thọ không lâu dài. Nếu tóc mai cứng tựa như kim nhọn, người đó bất luận làm con hay làm bề tôi đều thiếu trung nghĩa, thiếu hiếu kính.
Mặt tròn phúc hậu
Theo quan niệm của dân gian, những người có khuôn mặt tròn thường là người phúc hậu, đoan trang, biết kính trên nhường dưới khiến không khí gia đình yên ấm hòa thuận. Với đa số đàn ông đây là yếu tố đầu tiên đảm bảo cho hạnh phúc gia đình. Đặc biệt với những người phụ nữ có gương mặt tròn và làn da trắng hồng được cho là người phụ nữ rất vượng về đường con cái. Việc sinh nở và nuôi dạy con cái rất khéo léo. Vì vậy những cô gái có gương mặt tròn thường được đàn ông săn đón.
Ánh mắt trong sáng
Một người phụ nữ có ánh mắt trong sáng luôn thu hút đàn ông. Những người phụ nữ có đôi mắt này thường có thần, có khát vọng, tính tình hiền dịu, nói chung, đàn ông thường chết mê người phụ nữ có đôi mắt như thế.
![]() |
Ảnh minh họa |
Hàm răng trắng và đều
Theo quan điểm nhân tướng học, đa phần nữ giới sở hữu hàm răng trắng ngọc ngà và đều tăm tắp thường có năng lực tiết chế cảm xúc bản thân rất tốt.
Thêm nữa, người này còn rất biết cách quản lý tài chính. Lúc chưa kết hôn, biết cách tiêu tiền để tận hưởng cuộc sống, sao cho xứng đáng với công sức mình bỏ ra. Sau khi lập gia đình, họ có thể kiểm soát được ham muốn bản thân, mua sắm những đồ thiết yếu, không bao giờ xa hoa, lãng phí.
Đây chính là nét tướng cách ở phụ nữ cần kiệm, biết vun vén cho gia đình. Lấy được người vợ như vậy, quý ông hoàn toàn yên tâm phấn đấu cho sự nghiệp, gia đình lúc nào cũng trong ấm ngoài êm.
Gò má cao vừa phải
Nếu trán và cằm đã tương đối đẹp thì cần phải phối hợp với xương gò má. Mỗi người đàn ông luôn cần một cô vợ đảm, mà hai bên gò má của người phụ nữ chính là sự động viên của người chồng. Vì thế gò má của người phụ nữ không được phép quá cao.
Những người phụ nữ có hai bên má cao vừa phải sẽ là những người nội trợ đảm đang, là hậu phương vững chắc cho người chồng sau những giờ làm việc căng thẳng, mệt mỏi.
Giọng nói nhẹ nhàng, ôn hòa
Nữ giới có giọng nói nhẹ nhàng, ôn hòa thể hiện sự điềm tĩnh trong tính cách. Người này ít khi nổi cáu hay trút giận cho mọi người xung quanh mà không có lý do chính đáng.
Cuộc sống sau hôn nhân của người này khá êm đềm, không khí gia đình lúc nào cũng ấm áp, bình yên nhờ sự coi sóc của họ.
Ngoài tính cách hài hòa, đa phần phụ nữ có nét tướng cách này đều có thân hình ưa nhìn, sức khỏe dồi dào, vận khí rất tốt, gián tiếp giúp gia đình thêm hưng vượng. Đây chính là mẫu phụ nữ mà các quý ông nhiệt tình săn đón.
Theo: Khỏe & Đẹp
HÓA GIẢI NHÀ HƯỚNG XẤU PHẠM: NGŨ QUỶ – LỤC SÁT – HỌA HẠI – TUYỆT MỆNH
1. Chọn cung phi theo bảng dưới đây: (VD nam sinh năm 1970, cung phi Chấn)
2. Sau khi đã chọn xong cung phi, tìm hình có cung phi tương ứng (VD cung phi chấn chọn hình Bát quái có chữ Chấn, theo hình vẽ sẽ thấy có 8 hướng Đông-Phục vị; Tây-Tuyệt mạng…
3. Xem giải nghĩa các hướng để biết hướng tốt, xấu:
* Hướng Tốt
Sanh Khí: thuộc Tham lang tinh, Dương Mộc, Thượng kiết. Phàm cung mạng hiệp được phương Sanh Khí này lợi cho việc làm quan, làm ăn mau giàu, nhân khẩu tăng thêm, khách khứa tới đông, đến năm, tháng Hợi, Mẹo, Mùi thì được đại phát tài.
Thiên Y: thuộc Cự môn tinh, Dương Thổ, Thượng kiết. Nếu vợ chồng hiệp mạng được cung Thiên y và tạo tác nhà cửa, đường ra vào được Phương này thì giàu có ngàn vàng, không tật bịnh, nhơn khẩu, ruộng vườn, súc vật được đại vượng, khoảng một năm có của. Đến năm, tháng Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì phát tài.
Diên Niên (Phước Đức): thuộc Võ khúc tinh, Dương Kim, Thứ kiết. Vợ chồng hiệp mạng được cung này, đường ra vào, phòng, nhà miệng lò bếp xoay vế phương Diên niên chủ về việc: trung phú, sống lâu, của cải, vợ chồng vui vẽ, nhơn khẩu, lục súc được đại vượng. Ứng vào năm, tháng Tỵ, Dậu, Sửu.
Phục Vì (Qui Hồn): thuộc Bồ chúc tinh, Âm Thủy, Thứ kiết. Phàm vợ chồng hiệp được cung Phục vì được Tiểu phú, Trung thọ, sanh con gái nhiều, con trai ít. Cửa lò bếp, trạch chủ nhà được phương Phục vì gặp năm có Thiên Ất Quy Nhơn đến Phục vì ắt sanh con quý, dễ nuôi (Muốn cầu con nên đặt lò bếp day miệng về hướng này).
* Hướng Xấu:
Tuyệt mạng: thuộc Phá quân tinh, Âm Kim, Đại hung. Bổn mạng phạm cung Tuyệt mạng có thể bị tuyệt tự, tổn hại con cái, không sống lâu, bịnh tật, thối tài, ruộng vườn súc vật bị hao mòn, bị người mưu hại (người hà bị mưu hại: thương nhơn khẩu). Ứng vào năm, tháng Tỵ, Dậu, Sửu.
Ngũ Quỷ (Giao chiến):Liêm trinh tinh, Âm Hỏa, Đại hung. Bị hỏa hoạn, bịnh tật, khẩu thiệt, hao mòn ruộng vườn, gia súc, thôi tài, tổn nhơn khẩu. Lâm nạn vào năm, tháng: Dần, Ngọ, Tuất.
Lục Sát (Du Hồn): thuộc Văn khúc tinh, Dương Thủy, Thứ hung.Nếu phương hướng nhà cửa phạm nhằm thì bị: mất của, cãi vã, hao mòn gia súc vườn ruộng, thương tổn người nhà. Ứng vào năm, tháng: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
Họa Hại (Tuyệt Thế): thuộc Lộc tồn tinh, Âm Thổ, Thứ hung.Phương hướng nhà cửa, cưới gả vân vân … phạm vào thì bị quan phi, khẩu thiệt, bịnh tật, của cải suy sụp, thương nhơn khẩu. Ứng hại vào năm, tháng: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
4. Khi xây nhà chọn các hướng tốt cho những vị trí: Bếp (hướng bếp là hướng lưng người nấu) , cửa chính, bàn thờ, đầu giường… Chọn các hướng xấu cho các vị trí nhà vệ sinh, hầm tự hoại, sàn giặt…
5. Nếu hướng nhà phạm vào hướng xấu, có thể dùng hướng bếp hóa giải:
Sanh khí giáng Ngũ quỷ
Thiên y chế Tuyệt mạng
Diên niên yểm Lục sát
Chế phục an bài đinh
Ví dụ nhà có phướng phạm vào ngũ quỷ, xoay hướng bếp sang hướng sanh khí sẽ trừ được tà khí…
6. Hóa Giải nhà Hướng Xấu bằng trụ thạch anh
Thạch anh tự nhiên mang nguồn năng lượng vũ trụ cực kỳ mạnh mẽ. Để hóa giải nhà hướng xấu không hợp tuổi gia chủ bạn nên dùng trụ thạch anh (trụ tối thiểu từ 0,5kg trở lên) loại lớn, để trấn các năng lượng xấu, tà khí xấu do hướng xấu như Lục sát, Ngũ quỷ, Mất mát, Họa hại gây ra. Năng lượng dương cực mạnh của thạch anh sẽ xua tan, đẩy năng lượng âm ra khỏi căn nhà của bạn. Bạn cần chú ý trụ thạch anh cần được ngâm nước muối tinh 7 ngày 7 đêm trước khi đặt, để mang lại hiệu quả trấn tốt hơn trụ thạch anh cần phải được trì chú và tính ngày giờ tốt hợp tuổi gia chủ để an vị. Nếu không có điều kiện dùng trụ thạch anh, bạn có thể dùng 2 gương bát quái treo phía trước cửa nhà bạn đó là TIÊN THIÊN BÁT QUÁI VÀ HẬU THIÊN BÁT QUÁI
Bát quái treo bên ngoài dùng để trừ tà ma, chỉnh hướng cửa sai… Bát quái có nhiều loại, có loại có gắn gương (thường, lồi, lõm). Các loại gương này được dùng như liệt kê dưới đây. Có 2 loại Bát-quái là Tiên-thiên Bát-quái và Hậu-Thiên Bát-quái. Tiên-Thiên Bát-quái treo theo vị trí Càn trên Khôn dưới. Hậu-Thiên Bát-quái thì treo theo vị trí Khảm trên, Ly dưới. Khi muốn sửa nhà nằm trong vị trí xấu thì treo Tiên-thiên Bát-quái trong vị trí bình thường. Hậu-Thiên Bát-quái phải xoay để thay vị trí hướng xấu bằng vị trí hướng tốt như sau đây:
Xem cửa chính nhà đã phạm hướng xấu nào dựa theo Mệnh-quái của Bát-trạch.
Ðịnh vị trí Bát-quái cần phải dùng để sửa:
Sinh-khí để hóa giải cửa chính quay về hướng Ngũ-quỹ.
Thiên-y để hóa giải cửa chính quay về hướng Tuyệt-mạng.
Phúc-đức để hóa giải cửa chính quay về hướng Lục-sát.
Phục-vị để hóa giải cửa chính quay về hướng Họa-hại.
Vị trí bình thường của Hậu-thiên Bát-quái là Ly ở phía trên, Khảm ở phía dưới tượng trưng cho vị trí Phục-vị. Dựa theo Mệnh-quái, xoay vị trí Phục-vị đến vị trí cần phải sửa. Hay nói khác đi là xoay vị trí tên của Mệnh-quái đến thay thế cho vị trí cần phải sửa.
Thí dụ 1: Theo Mệnh-quái Càn thì cửa chính hướng về phía Ngũ -quỉ ở phía Ðông (Cấn). Phải dung Sinh-khí để hóa giải. Mệnh-quái là Càn thì Phục-vị ở hướng Tây-bắc (Càn), Sinh-khí ở hướng Tây (Ðoài). Phải xoay Bát-quái cho Càn thế chổ của Ðoài tức là xoay Bát-quái 45 độ ngược theo chiều kim đồng hồ. Như vậy phải treo Khôn trên, Cấn dưới.
Thí dụ 2: Theo Mệnh-quái Khôn thì cửa chính hướng về phía Ngũ -quỉ ở phía Ðông-nam (Tốn). Phải dùng Sinh-khí để hóa giải. Mệnh-quái Khôn thì Phục-vị ở hướng Tây-nam (Khôn), Sinh-khí ở hướngÐông-bắc (Cấn). Phải xoay Bát-quái cho Khôn nằm vào vị trí Cấn tức là phải xoay 180 độ (nửa vòng). Như vậy phải treo Bát-quái trong vị trí Khảm trên, Ly dưới.
Tuy nhiên bát quái không phải lúc nào củng có tác dụng khi ta mua từ tiệm về để dùng.Mà ta phải đem đến CHÙA nhờ CHÚ NGUYỆN,có nghĩa là MỞ MẮT THẦN cho bát quái,thì sử dụng mới có hiệu quả.
(Tất nhiên việc đặt bất cứ dụng cụ nào để hóa sát trong phong thủy,đều phải xem ngày TRỰC TRỪ và giờ HOÀNG ĐẠO để đặt.)
No1. Tuổi Thìn
Ngay từ khi sinh ra, người cầm tinh con Rồng đã được hưởng nhiều phúc khí, thân phận cao quý và Thần May mắn lúc nào cũng luôn đồng hành. Theo đó, số mệnh con giáp này rất tốt, gặp may mắn liên tiếp trong mọi phương diện của cuộc sống.
Đặc biệt là những người sinh tháng 4, 5, 7 và 8 âm lịch. Đồng thời sinh vào ngày mùng 1, 10, 20, 30 thì phúc thêm phúc, lộc thêm lộc, suốt đời có quý nhân giúp đỡ, học hành giỏi giang, công danh sự nghiệp thành đạt, cuộc sống gia đình hạnh phúc, sức khỏe dồi dào.
![]() |
No2. Tuổi Hợi
Sở dĩ người tuổi Hợi liên tiếp gặp những chuyện may mắn trong cuộc sống là do có Phúc tinh chiếu mệnh, chuyển nguy thành an, gặp hung hóa cát, chuyện lớn hóa nhỏ, nhỏ thành không có.
Đặc biệt những người sinh vào ngày 8, 18, 28 âm lịch và các tháng 1, 2, 7 và 8 trong năm thì cuộc sống càng sung sướng, gia đình trong ấm ngoài êm, tài vận thuận buồm xuôi gió và có số làm quan to, hưởng nhiều phúc lộc.
![]() |
No3. Tuổi Thân
Những cô cậu cầm tinh con Khỉ lúc nào cũng tỏ ra thông minh, lanh lợi hơn người. Cộng thêm với vận may trời phú, mối nhân duyên tốt nên suốt đời sống trong vui vẻ, thành công mà không phải lo lắng quá nhiều.
Những người tuổi Thân sinh vào ngày 15, 25, 30 âm lịch và các tháng 3, 6, 9, 12 càng có số mệnh sung sướng và phú quý. Con giáp này có tiền vận vất vả, khó tránh khỏi quãng thời gian thăng trầm nhưng cuối cùng nhờ nghị lực phi thường, ý chí phấn đấu và sức khỏe trời phú, họ vượt qua tất cả để giành lấy vinh quang.
![]() |
Mr.Bull (Theo DYXZ)
Bàn thờ không phải cứ càng to càng linh nghiệm, đặc biệt ở các thành phố lớn, bàn thờ trong gia đình không nên quá to, cũng cần chú ý đến việc đặt vào vị trí thích hợp trong nhà, không nên vội vàng quyết định.
Bà mẹ nọ luôn lo lắng cho con, dù con cái đã thành gia thất bà rẫn luôn quan tâm đến sức khỏe và sự nghiệp của chúng. Đôi lúc quan tâm quá dẫn tới những ép buộc vô lý. Bà ép buộc con trai lớn nhất định phải đặt bàn thờ trong nhà để cầu cho gia đình bình an.
Trong phòng khách nhỏ hẹp của con trai, bà đã mua một ban thờ khá lớn, ép con đặt vào đó. Kết quả là nửa phòng khách là dùng để đặt bàn thờ. Xem bát tự của con trai và con dâu, hai người đều kỵ Hỏa, từ sau khi gia đình lập bàn thờ, do con dâu không tin thần thánh, thường xuyên giục chồng chuyển bàn thờ đi nhưng người con trai thì không muốn cãi lời mẹ, thế là chỉ vì việc ày mà hai vợ chồng thường xuyên cãi cọ.
Sau cùng bà mẹ đồng ý chuyển bàn thờ lớn ấy đi, thay bằng một chiếc bàn thờ nhỏ, đặt ở một vị trí thích hợp, tránh hướng Tây Bắc, hướng Tây Nam, từ đó hai vợ chồng người con không những không cãi cọ mà còn nhanh chóng sinh con. Sau khi sinh con xong, phát hiện bát tự của đứa trẻ cần Hỏa, mà vị trí của bàn thờ vừa khéo cũng nằm ở hướng Đông.
Bày bàn thờ chủ yếu chia thành thiên bộ thần và địa chủ thần, thiên bộ thần chỉ Quán Âm Bồ Tát hoặc thiên thần như đại thần tài (Mahakana)...
Thờ các thần như Thiên bộ, Bồ Tát bộ thậm chí phật bộ thần đều chọn dùng các pháp khí, dùng pháp khí bằng dồng thích hợp hơn cả. Đồ cúng có thể dùng đồ đồng màu vàng kim, nhang hương, cốc thờ, đều nên chọn các vật bằng đồng.
Còn thổ địa thần thuộc linh thần thấp, trong lục đạo chúng sinh, các thần dưới Thiên bộ thường là người chết mà không đạt được đến Thiên bộ hoặc không thể đầu thai nhưng bản thân khi tại thế lại tích lũy phúc đức hoặc có tu trì, sau khi chết đương nhiên vẫn còn lưu lại ở trần thế một thời gian, vì vậy được làm thần thố địa, có thể cai quản một tòa nhà hoặc một khu đất. Đây là lý do vì sao có thần thổ địa.
Thần thổ địa khi đạt được một thứ nguyên hoặc một thời không nào đó, công đức đã hoàn thành sẽ rời bỏ nơi cư trú cũ để được đầu thai. Trong cuộc sống hằng ngày những khu đất được cúng bái đều là chỉ cúng bái thần thổ địa.
Những đồ vật dùng để cúng bái địa chủ thần, đồ sứ là hợp nhất bởi gốm sứ thuộc Thổ, đồ cúng bái cũng nên chọn loại có hương hơm. Thần thổ địa thích những đồ ăn có hương thơm. Lý tưởng nhất đương nhiên là thức ăn ngọt hoặc rượu và những loại thịt ăn thường ngày, bởi vì thần thổ địa cũng có những sở thích giống của con người.
Nếu bàn thờ chỉ cúng bái thiên bộ thần, chỉ nên cúng bánh ngọt rượu hoặc các hoa quả khác, không nên cúng bằng các loại thịt cá.
Thông thường, những người chưa quy y, tốt nhất nên đặt bàn thờ hướng Bắc Nam, hướng Tây Đông, bàn thờ cao chừng 4 thước, đương nhiên tốt nhất không nên để tựa vào nhà vệ sinh hoặc áp vàc bên dưới dầm ngang nhà, đó là những hạn chế thường phải lưu ý.
Vạn vật của vũ trụ được quy về 5 phương diện, được gọi là ngũ minh, ngũ âm. Trong vũ trụ những thứ tốt đẹp, có lợi cho chúng sinh đều được gọi là minh, còn hỗn độn không chi tiết gọi là âm, đây chính là ý nghĩa chân chính của ngũ minh theo Phật giáo.
Dùng nguyên tắc trên để xác định vị trí của bàn thờ vừa có tác dụng cúng bái thần vừa phù hợp với hiệu ứng phong thủy:
Lễ nghi Phật giáo có thuật ngữ gọi là “ngũ minh cụ túc”, đó là phải cúng dường một đôi hoa mãn, tức hoa tươi và trúc phú qúy, một đôi trường minh đăng tức là đèn sáng suốt 24 giờ, thêm hương là hoàn thành lễ phẩm cúng dường đơn giản nhất.
Nếu thờ cúng tài thần, có thể cúng rượu van3 bánh ngọt, sôcôla, nhưng cần chú ý sau đó phải ăn hết đồ cúng mới tạo ra được hiệu ứng.
Theo góc nhìn của kiến trúc hiện đại, ban công thường là không gian mở, chỉ ngăn cách với không gian trong nhà bằng 1 tấm kính, do vậy rất dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường.
|
Lưu ý khi chọn hướng cho ban công nhà bạn |
► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Tý | Sửu | Dần | Mão |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Thìn | Tỵ | Ngọ | Mùi |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Thân | Dậu | Tuất | Hợi |
Tuệ Anh
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác |
![]() |
Trong giấc mơ của phụ nữa, ếch có thể là chàng hoàng tử cải trang |
Bạn đọc Vương Hải Dương (Thường Tín, Hà Nội) hỏi, anh sinh năm 1976. Phòng khách nhà anh sử dụng gạch lát màu đen có phù hợp không ? Lưu ý, nhà không được lớn lắm, là nhà tường gạch, xà gỗ, mái ngói ?
Chuyên gia phong thủy Phạm Cương, Công ty Cổ phần Nhà Xuân cho biết, theo quan niệm phổ biến hiện nay, những người sinh năm 1976 mang mệnh Thổ thường lo ngại lát đá màu đen mang hành Thủy vì sợ Thổ khắc Thủy.
Tuy nhiên, đây là quan niệm chưa đúng. Bởi theo quy luật phong thủy, sàn nhà tượng trưng cho trời mang tính âm, trần nhà tượng trưng cho đất mang tính dương. Vì vậy, việc chọn màu tối cho sàn nhà và màu sáng cho trần về cơ bản là phù hợp với đạo âm dương của trời đất.
Với những căn nhà có diện tích hạn chế, chật chội về phong thủy được đánh giá là mang tính âm. Nếu lát sàn màu tối thì âm tính. Lời khuyên trong trường hợp này là nên sử dụng màu sắc sáng sủa làm cho không gian có cảm giác rộng rãi, sáng sủa và sạch sẽ hơn.
Đá mã não đem lại sức khỏe, sự hưng thịnh và trường thọ. Đồ trang sức đá Mã Não làm cho chủ của nó trở nên dễ mến trong giao tiếp và biết ăn nói, cũng như bảo vệ chủ chống lại kẻ thù thâm độc. Bài viết sau đấy nói về Ý nghĩa, cách phân biệt trang sức mã não.
Nội dung
– Về bản chất đá mã não chính là một biến thể của thạch anh. Bằng cách hấp thụ năng lượng có hại, đá mã não có thể giúp bảo vệ chống lại những xung năng lượng, đem lại sự an toàn cho chủ sỡ hữu. Đá mã não rất được ưa chuộng ở các nước Châu âu và Ấn Độ, loại đá phong thủy này được xem là sự biểu tượng của sức khỏe, sự hưng thịnh và trường thọ.
– Với ý nghĩa là loại đá hộ mệnh, mang mã não như mang một lá bùa may mắn và hạnh phúc cho con người, ngày nay đá mã não được ứng dụng rất nhiều trong việc chế tạo các loại trang sức như: mặt dây chuyền Phật bản mệnh bằng đá mã não, nhẫn đá mã não, vòng tay Phật bản mệnh bằng đá mã não
– Việc đeo trang sức bằng đá mã não có thể làm giảm tính bảo thủ, áp lực, hóa giải những sự cãi vã, mâu thuẫn đem lại sự bình yên và may mắn.
– Đàn ông đeo nhẫn mã não, mặt đá mã não sẽ giúp họ trở nên quyến rũ hơn trong mắt phụ nữ.
– Mang mã não chứa nước có tác dụng tăng cường khả năng giao tiếp, ngoại giao giỏi và tang cường khả năng ứng xử linh hoạt.
– Người Ai Cập cổ đại tin rằng, khi đi giữa sa mạc, việc ngậm một viên mã não có tác dụng vượt qua những cơn khát nước.
– Đá mã não chính là biểu tượng của chòm sao Kim ngưu và Song tử trong 12 cung hoàng đạo.
Tinh thể mã não là một tinh thể tuyệt vời để làm cân bằng và hài hòa cơ thể, tinh thần và cả tâm linh. Nó cũng làm sạch và ổn định tâm trí, loại bỏ sự tiêu cực.
Mã não kích thích và củng cố khả năng phân tích, giúp suy nghĩ rõ ràng và lý trí hơn cũng như làm ta tập trung hơn vào một nhiệm vụ hiện thời. Hơn nữa, nó cũng cho ta quyền đến gần và lấy cảm hứng từ vùng đất tâm linh.
Tinh thể mã não rất tinh tế thán phục khi được dùng với người đang mang thai vì nó làm dịu những cơn đau, giúp cả người mẹ và đứa bé bình tâm cũng như cân bằng lại trong suốt thời gian có thai. Sau khi sinh, tinh thể mã não ngăn tình trạng lệch dạ con.
Loại tinh thể này đặc biệt hiệu quả với cổ họng, nhưng nó cũng có khả năng cân bằng chakra tim, trán và đỉnh đầu.
Đây là loại tinh thể giúp bình tâm, cho ta sự yên lặng và thanh bình cần thiết để đạt đến một khả năng nhận biết tâm linh cao hơn.
Mã não xanh còn giúp củng cố và tăng nhanh quá trình lành các khớp xương cũng như giảm viêm khớp. Nó làm dịu mắt cũng như giúp cho các bệnh về da có liên quan đến rát đỏ.
Có sự tương thích với chakra gốc cột sống nên loại tinh thể này rất tiện lợi để giữ tỉnh táo và thiết lập kết nối mạnh mẽ với mặt đất. Nó rất tốt để xua tan những nỗi sợ hãi và có thể được đeo trên người nhằm tạo ra một vòng bảo vệ chắc chắn.
Mã não đỏ còn được dùng để “đốt”, hủy hoặc chuyển hóa cái cũ, mở đường cho cái mới. Nếu bạn muốn thay đổi triệt để một điều gì đó trong cuộc sống, đây là tinh thể bạn sẽ cần để “đốt” những chướng ngại vật đang chắn đường. Tinh thể này cũng rất tốt khi bạn muốn nạp năng lượng và cảm thấy mệt mỏi.
Sau đây là một số dấu hiệu cơ bản giúp bạn nhận biết được một chiếc vòng tay mã não thật
Trong một chiếc vòng tay mã não thật, chúng ta thường thấy các viên mã não có màu sắc đồng nhất và ngay cả các đường vân cũng giống y hệt nhau trông rất bắt mắt. Tuy nhiên, mã não thật không bao giờ xảy ra điều này. Mỗi viên mã não sẽ có một màu sắc, độ trong cũng như vân đồng tâm khác nhau và không thể có chuyện giống y như nhau được.
Người ta thường làm giả đồng loạt để giảm chi phí đồng thời chất lượng đá trông đẹp mắt nhất. Vì thế vòng mã não giả luôn có các viên đồng nhất đặc điểm với nhau.
Khi ta sờ hoặc cho đá chạm vào da thì sẽ thấy một cảm giác vô cùng mát lạnh như nước biển vậy. Đồng thời nếu để đá lâu trên da thì dần dần nhiệt độ nó cũng giảm và nếu bỏ ra thì tính chất mát lạnh của đá từ từ quay trở lại. Điều này có thể lý giải do tính chất truyền nhiệt rất tốt của mã não thật.
Còn mã não giả, cho dù làm tinh vi tới đâu, cho dù có giả được đặc tính mát lạnh đi nữa thì tính truyền nhiệt như trên kia cũng rất khó mà làm được. Và đây là dấu hiệu được rất nhiều người dùng để nhận biết mã não thật – giả.
Khó vỡ
Mã não có độ cứng rất cao (7/10 điểm). Vì thế mọi tác động vật lí thông thường không thể làm đá hư hại gì được. Bạn chỉ cần lấy một con dao thép cạo hoặc cứa lên đá mã não, nếu màu sắc bị bong ra hay bị nứt vỡ thì có thể khẳng định đó là mã não giả.
Mỗi vật chất đều cho một độ khúc xạ khác nhau nhưng mã não thì đặc biệt hơn. Khi tiến hành đo độ khúc xạ bằng máy móc chuyên dụng, ta có thể thu được 2 kết quả khác nhau từ mã não thật, do mã não thuộc dạng tinh thể ẩn.
Nhiều loại mã não có thể làm giả nhưng độ khúc xạ thì không thể làm được. Nhưng để đo độ khúc xạ hơi khó khăn nên vẫn ít người sử dụng nếu chỉ mua vòng mã não có giá thành không cao. Nhưng nếu bạn cần tìm mua vòng tay mã não thật có giá trị lớn thì nên thử cách phân biệt này.
Đây là cách chính xác nhất để biết vòng mã não bạn mua có phải đồ thật không. Chỉ cần đến trung tâm hoặc viện kiểm định đá quý là có thể biết chính xác kết quả rồi. Tuy nhiên, nó chỉ áp dụng khi bạn mua loại vòng có giá cao, bởi vì chi phí kiểm định cũng tốn một khoản tương đối rồi.