Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tướng tóc phản ánh tính cách con người

Xem tướng tóc cũng là một trong những kiểu xem tướng khá phổ biến. Chủ nhân của những chất tóc khác nhau sẽ mang những đặc điểm tướng cách khác biệt.
Tướng tóc phản ánh tính cách con người

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Xem tướng tóc cũng là một trong những kiểu xem tướng khá phổ biến. Chủ nhân của những chất tóc khác nhau sẽ mang những đặc điểm tướng cách khác biệt.

  1. Đặc điểm người có mái tóc dày  
Tuong toc phan anh tinh cach con nguoi hinh anh goc
 
Một trong những đặc điểm nổi bật về tính cách của người có tướng tóc dày là dịu dàng, bình dị nhưng rất trọng tình trọng nghĩa, cư xử khéo léo, dễ được mọi người yêu mến, kính trọng.   Thêm nữa, người này thật thà, cởi mở, bề  ngoài tuy mạnh mẽ nhưng bên trong tâm hồn cũng khá mềm yếu, dễ rung động.    Họ làm việc cẩn trọng, tỉ mỉ nên không khó để đạt được thành công. Bên cạnh đó, họ dễ dàng nắm bắt điểm mạnh hay yếu của người khác để áp dụng trong công việc. Đó cũng là người có tài lãnh đạo thiên bẩm.   2. Đặc điểm người có mái tóc mỏng  
Tuong toc phan anh tinh cach con nguoi hinh anh goc
 
Người tóc mỏng không chủ động trong các tình huống, nhất là khi tiếp xúc với người lạ. Suy nghĩ của người này có phần tiêu cực. Tính cách hướng nội, trầm lắng, ít khi thể hiện cảm xúc hay cá tính của mình ra bên ngoài. Nhưng một khi ai đó làm họ giận, họ sẵn sàng nổi cơn thịnh nộ, chẳng ai ngăn cản nổi.    Ngoài ra, người này ít tham vọng, làm việc gì cũng chỉ mong được yên ổn, không thích bon chen với đời. Đôi khi, họ thiếu sự bền bỉ, có thể bỏ cuộc giữa chừng khi chưa thỏa mãn về thành tích. Dẫu vậy, họ nhạy cảm, nhất là về khoản tiền bạc. Cho nên, tốt hơn hết đừng bao giờ có vay mà không trả họ, kẻo tình bạn lâu năm cũng sớm kết thúc sau đó.   3. Đặc điểm người có mái tóc cứng  
Tuong toc phan anh tinh cach con nguoi hinh anh goc
 
Chủ nhân của tướng tóc cứng thường thẳng thắn, không ngại khó ngại khổ để phấn đấu vươn lên, chinh phục mục tiêu. Đôi khi vì cương trực quá mức nên dễ làm mất lòng người khác, thậm chí người ta còn cho rằng bạn bảo thủ, cố chấp.   Tính cách người này mạnh mẽ, độc lập, cái gì cũng phải rõ ràng trắng đen. Càng rơi vào hoàn cảnh khó khăn, họ càng mạnh mẽ và tìm mọi cách để vượt qua.    Thêm nữa, người này giàu lòng cảm thông, biết chia sẻ và giúp đỡ mọi người xung quanh. Nên dù có ăn nói bỗ bã nhưng ai nấy đều quý mến.   Màu tóc “tố” tính cách về bạn siêu chuẩn Đàn ông tóc xoăn hay thẳng dễ ngoại tình hơn? Râu và tóc “tố cáo” điều gì trong tính cách bạn
4. Đặc điểm người có mái tóc mềm, óng mượt
  Người này thuộc tuýp hướng nội, không thích nơi ồn ào, xô vồ. Trái lại, họ tự tạo ra thế giới riêng cho mình, nơi ấy bình yên và trầm lắng vô cùng.    Tính cách người này ôn hòa, điềm đạm, giàu lòng cảm thông. Thêm nữa, họ chăm làm việc, hiếm khi than thân trách phận, nên ai nấy cũng yêu mến.    Nhược điểm của người này là đôi lúc bị yếu tố bên ngoài tác động, dễ thay đổi ý kiến. Đến khi nhìn lại kết quả không như mong muốn lại cảm thấy hối tiếc, muộn phiền.  
Tuong toc phan anh tinh cach con nguoi hinh anh goc
 
5. Đặc điểm của người có mái tóc xơ, thô   Tính tình người này hào phóng, lòng tự trọng cao và chúa ghét bị người khác ép buộc. Thậm chí có người còn thể hiện tính cách gia trưởng, độc đoán.    Người này còn rất mạnh mẽ, không sợ khó sợ khổ, càng khó khăn càng trở nên mạnh mẽ, quyết tâm càng cao độ.    Nếu có thêm đặc điểm là màu tóc đen nhánh thì người này rất quyết đoán, dám làm dám chịu, quyết tâm chinh phục mục tiêu tới cùng. Thêm nữa, tài lãnh đạo của họ cũng nhạy bén, thường được giao phó công việc quan trọng.  
Tuong toc phan anh tinh cach con nguoi hinh anh goc
 
6. Đặc điểm của người có mái tóc xoăn   Người tóc xoăn thường khá bướng bỉnh và kỹ tính. Họ không thích bị người khác giáo huấn hay ép buộc phải làm cái này cái khác.    Thêm nữa, người này còn tự cao tự đại, lúc nào cũng cho mình là giỏi giang, tài ba. Khi thấy có ai khác giỏi hơn lại sinh lòng đố kị.   
► Xem thêm: Tính cách 12 chòm sao và trắc nghiệm vui những điều liên quan đến bạn

Ngân Hà

Quan sát tướng mặt của người khó thành công, dễ thất bại
Theo quan điểm nhân tướng, vầng trán nhỏ, gồ ghề, nhiều đường vân ngang dọc, nhiều nốt thâm đen thì cuộc đời gặp không ít trở ngại. Vận khí trước năm 30 tuổi ở
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng tóc phản ánh tính cách con người

Ban công hợp phong thủy với 5 gợi ý dễ không tưởng

Dưới đây là 5 gợi ý nhỏ để đảm bảo ban công hợp phong thủy, đón lành nghênh cát, mang tới nhiều điều tốt lành cho vận trạch.
Ban công hợp phong thủy với 5 gợi ý dễ không tưởng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhà có ban công là một trong những điểm rất tốt lành về phong thủy, càng tốt hơn nữa nếu chủ nhân biết cách bố trí hợp lý.

Ban cong hop phong thuy voi 5 goi y de khong tuong
 
Ban công là nơi đón nắng đón sáng quan trọng, cũng là nơi lưu thông khí trong nhà. Không quá khi nói rằng phong thủy ban công chính là phòng tuyến đầu tiên của phong thủy nhà ở, ban công lành ắt nhà cũng được hưởng thêm cát khí. Vì thế không thể qua loa sơ sài, hãy nhớ 5 lưu ý dưới đây để áp dụng vào ban công nhà mình.  

1. Hướng ban công tốt là Đông hoặc Nam
 

Phong thủy học thường khuyến khích làm nhà theo hướng tọa Bắc triều Nam tức là quay lưng về hướng Bắc, nhìn thẳng về hướng Nam. Đây được gọi là hướng chính thất, phương vị đón được ánh sáng sung túc nhất, được mặt trời soi rọi rực rỡ nhất kể cả vào mùa đông.    Hơn nữa vị trí này còn đón được gió Đông Nam, đông ấm hè mát, đường nào cũng lợi. Hướng ban công đẹp nhất là Nam, gia đình toàn vẹn, ấm no dồi dào. Nếu không thì ban công hướng Đông cũng khá ổn, đúng hướng mặt trời mọc, thịnh vượng, tươi mới, không lo tối ám.
 

2. Ban công nên bố trí thoáng đãng, nhẹ nhàng

  Rất nhiều người biến ban công thành nhà kho chứa đồ, thượng vàng hạ cám đều chất chồng nơi đây. Lâu ngày không dọn bụi bặm bám đầy, không những ảnh hưởng tới sự lưu thông của không khí mà còn lặng lẽ rước vận xui vào nhà. Hoặc có người muốn biến ban công thành nơi nghỉ ngơi nên bày rất nhiều đồ đạc trang trí như bàn ghế, tủ, bồn cây xanh thậm chí là cả giường, khiến không gian chật chội, ngột ngạt, che khuất ánh sáng.   Để tránh tình huống như vậy, hãy dọn dẹp sạch sẽ ban công, trang trí đơn giản hào phóng, chú trọng việc đón sáng đón khí. Ban công càng thoáng đãng thì phong thủy càng tốt.
Xem thêm bài viết Nâng cao phong thuỷ ban công với những trang trí nhỏ
 

3. Ban công không nên quay thẳng ra đường phố


Ban cong hop phong thuy
 
Ban công hướng ra phía ngoài, bị đường phố xông thẳng tới là cách cục cực kì không tốt. Trên đường có rất nhiều xe cộ lao tới như mãnh hổ khiến từ trường trong nhà bị nhiễu loạn, đặc biệt xe cộ di chuyển còn tạo ra tạp âm gây bất lợi đối với cảm xúc, lâu dần sản sinh ảnh hưởng tiêu cực tới sức khỏe.   Để có ban công hợp phong thủy, khi xây nhà hay mua nhà nên lưu ý tới điểm này. Nếu không may phạm lỗi thì có thể hóa giải bằng cách trồng những chậu cây xanh nho nhỏ ở ban công để chặn sát khí; bố trí rèm ban công và thường xuyên buông rèm, cản bớt tạp âm cùng hình sát. Phòng ngủ không nên đặt gần ban công để đảm bảo yên tĩnh.  

4. Ban công kị xung đột với kiến trúc sừng nhọn

  Phía trước ban công có kiến trúc sừng nhọn xung đột là cách cục bất lợi, khí xấu xuyên thẳng từ bên ngoài qua ban công tiến vào nhà, phá hỏng bố cục phong thủy nhà ở, nhẹ thì trạch vận không vượng, nghiêm trọng hơn thì tan cửa nát nhà.   Phong thủy vô cùng bài xích những kiến trúc sắc nhọn vì chúng có hình sát, mang tới cảm giác nguy hiểm. Ban công là nơi đón dương khí mà bị hình sát chiếu thẳng vào thì quả thật không thể coi nhẹ. Nếu ban công nhà mình đối diện với kiến trúc nhọn như tháp, cột điện, góc tường,…. thì hãy sử dụng các vật phẩm phong thủy hóa sát để hóa giải.  

5. Ban công không thích hợp đối diện cửa lớn


phong thuy ban cong dep
 
Nhà có ban công và cửa chính đối diện là thế hung nên tránh, tài vận đều vào cửa trước ra cửa sau, bị gió thổi đi Ở trong ngôi nhà có cách cục phong thủy xấu này sự nghiệp của chủ nhân thường không tốt, công việc có nhiều trở ngại, tài chính bấp bênh đặc biệt là vận Thiên Tài cực kém.    Nếu có thể hãy tránh thiết kế nhà phạm phải lỗi phong thủy này. Nếu vô tình phạm thì cần sử dụng các biện pháp hóa giải lỗi phong thủy “cửa đối cửa”. Cụ thể là dùng bình phong che chắn, treo rèm ở ban công, đặt xây xanh hóa sát hay đặt thảm ở cửa hóa giải thế hung.   Thực chất, muốn có ban công hợp phong thủy không hề khó, chỉ cần tỉ mỉ, chỉn chu một chút là sẽ bố trí được ngay. Với người chưa có kinh nghiệm, những lưu ý ở trên tuy nhỏ, đơn giản song lại vô cùng hữu ích.
Đừng dại gì bày 5 đồ vật không nên để ở ban công Phong thủy ban công - đừng thờ ơ Những lưu ý quan trọng trong phong thủy cho ban công phòng khách Thái Vân
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ban công hợp phong thủy với 5 gợi ý dễ không tưởng

Lễ hội trong ngày 24 tháng 9 âm lịch - Hội Đua Voi Ở Tây Nguyên

Hội Đua Voi Ở Tây Nguyên được tổ chức vào ngày 24 tháng 9 âm lịch tại Buôn Đôn hoặc cánh rừng thưa ven sông Sêrêpốk (Đắk Lắk).

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ hội trong ngày 24 tháng 9 âm lịch - Hội Đua Voi Ở Tây Nguyên

Lễ hội trong ngày 24 tháng 9 âm lịch - Hội Đua Voi Ở Tây Nguyên

Hội Đua Voi Ở Tây Nguyên

Thời gian: tổ chức vào ngày 24 tháng 9 âm lịch.

Địa điểm: Buôn Đôn hoặc cánh rừng thưa ven sông Sêrêpốk (Đắk Lắk).

Nội dung: Lễ hội đua voi được tổ chức tại một khu đất trống, khá bằng phẳng, ít cây của vườn Quốc gia Yok Đôn hoặc một cánh rừng thưa ven sông Sê-rê-pốk. Voi dàn hàng ngang khoảng 10 con hoặc nhiều hơn. Trong sự reo hò, cổ vũ của khán giả, đàn voi đua như hăng hái hơn. Chúng đưa vòi lên cao rồi hạ xuống chào mọi người.  Sau một hồi tù và vang lên báo lệnh xuất phát, đàn voi bật dậy chạy thẳng về phía trước. Đường đua thường khoảng 400-500 mét, đua đường dài khoảng 1-2km. Hai anh nài voi, tiếng địa phương gọi là mơ-gát, ngồi trước và sau điều khiển voi chạy đúng đường và giữ sức bền, tăng tốc...  Khán giả phần đông là người bản địa ăn mặc thổ cẩm sặc sỡ hoa văn đứng hai bên đường hò hét tạo nên một không khí náo nhiệt. Theo người dân địa phương, trước khi vào cuộc đua, voi được đưa đến những đồng cỏ xanh tốt và tẩm bổ thêm bằng các loại củ. Trong thời gian này, voi không làm nặng để dưỡng sức. Vì vậy, khi vào đấu trường, con voi nào cũng rất khỏe mạnh, sung sức.  Người M’nông và một số dân tộc ở Tây Nguyên rất quý voi như người Khmer ở Nam bộ quý con bò. Theo truyền thống, con voi thể hiện sức mạnh của bộ tộc, sự sung túc của gia đình. Chỉ có những gia đình giàu có mới có voi được thuần dưỡng từ voi rừng. Hiện nay, chỉ có Tây Nguyên mới còn voi, nhưng số lượng cá thể đang bị giảm sút đáng kể.   Giới trẻ ở đây trở nên xa lạ với phương thức thuần voi của cha ông ngày xưa mà chủ yếu là chăm sóc và điều khiển voi. Những người thuần voi vì thế càng trở nên hiếm hoi theo thời gian. Hiện nay, công việc này chủ yếu là người lớn tuổi, có vài chục năm kinh nghiệm. Huyền thoại về thuần dưỡng voi rừng là N’Thu K’Nul, ông sinh năm 1828, mất khi đã thọ được 110 tuổi, ông có danh hiệu là “Vua săn voi” (khun-ju-nốp) do Hoàng gia Thái Lan ban tặng. Ông được xem là người khai sinh nghề săn bắt và thuần dưỡng voi ở Buôn Đôn, một người tù trưởng đầy quyền lực và được nhiều dân tộc kính phục lúc bấy giờ. Theo người dân địa phương, trong đời ông đã thuần dưỡng khoảng 170 con voi rừng, có người lại nói ông thuần dưỡng đến hàng trăm con; trong đó, có một con bạch tượng-loài vật hiếm có. Hiện nay, khu mộ của ông được giữ gìn kỹ lưỡng. Mộ được kết hợp giữa kiến trúc của người M’Nông và người Lào-hai dân tộc chính ở địa phương vào thời điểm đó. Đó như một biểu tượng của truyền thống sức mạnh đoàn kết các dân tộc anh em. Phần mộ là những chi tiết hình khối đơn giản, trang trí búp sen ở bốn góc và đỉnh. Cạnh mộ Vua săn voi là ngôi mộ hình tháp, có mái nhọn cách điệu nhà rông. Ngôi mộ này do vua Bảo Đại xây dựng cho hậu duệ của N’Thu K’Nul là R’Leo K’Nul, gọi ông bằng cậu. Người ta hay nhầm tưởng ngôi mộ hình tháp là của N’Thu K’Nul. Khu lăng mộ này được nhiều du khách đến chiêm ngưỡng để hiểu rõ hơn về những con người xuất chúng. Về sau, có một số hậu duệ khác của N’Thu K’Nul nối nghiệp, nhưng số lượng voi thuần dưỡng ít hơn và tay nghề kém hơn.  Quần thể du lịch Buôn Đôn là một không gian đặc trưng, là cái hồn của Tây Nguyên với những cánh rừng già, những con sông cuồn cuộn chảy và những hồ nước lưng chừng trời, lưu giữ nhiều chứng tích lịch sử hình thành vùng đất này. Buôn Đôn thuộc xã Krông Na, huyện Buôn Đôn, cách TP Buôn Mê Thuột khoảng 42km.  Đến đây, du khách có dịp thưởng thức cồng chiêng, cưỡi voi.Cá trên sông Sê-rê-pốk và hồ Lắk là những đặc sản quý của vùng này. Ai đến đây cũng phải tìm cho bằng được các loại cá bản địa để thưởng thức vì vị ngon và lạ bởi vị trí hiểm trở của nơi chúng sinh trưởng đã tạo sự khác biệt giữa cá sông, hồ Tây Nguyên với cá sông, hồ ở đồng bằng...


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ hội trong ngày 24 tháng 9 âm lịch - Hội Đua Voi Ở Tây Nguyên

Ba vật trang trí không nên đặt trên bàn học hoặc bàn làm việc

Khi bạn cảm thấy thành tích học tập hoặc hiệu quả làm việc ngày càng xuống dốc thì nên xem lại bàn học, bàn làm việc của mình có phạm lỗi phong thủy khi bày trí không nhé.
Ba vật trang trí không nên đặt trên bàn học hoặc bàn làm việc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thông thường, vấn đề bố cục bàn học hay bàn làm việc thường chú trọng nguyên tắc “Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ”. Khoảng trống bên trái của bàn nên nhỏ hơn bên phải mới tốt. Đồng thời, các vật đặt phía bên phải bàn không nên quá nhiều và cần thấp hơn các vật đặt bên trái. Ngoài ra, nếu muốn trang trí thêm cho chiếc bàn của mình, bạn không nên chọn ba thứ sau đây để tránh ảnh hưởng xấu.

ba-vat-trang-tri-khong-nen-dat-tren-ban-hoc-hoac-ban-lam-viec

Không đặt cây lá nhọn hoặc có gai

Rất nhiều người thích đặt cây xanh trên bàn học, bàn làm việc, đặc biệt là các loại cây lá nhỏ, nhọn và xương rồng. Xét ở một khía cạnh nào đó, chúng có tác dụng làm sạch không khí, lại mang tới tâm trạng vui tươi cho chủ nhân khi nhìn ngắm. Tuy nhiên trong phong thủy học, thực vật có lá nhọn hoặc có gai không thích hợp đặt trên bàn học, bàn làm việc vì chúng có thể mang lại sát khí, dễ khiến chủ nhân gặp nhiều chuyện thị phi, tranh chấp, học hành hay làm việc luôn gặp trở ngại và không thuận lợi.

Không đặt các vật có hình dạng kỳ dị

Đồ thủ công mỹ nghệ thường được các bạn trẻ yêu thích lựa chọn trang trí cho bàn học hay bàn làm việc. Điều này không có vấn đề gì nhưng không nên tùy tiện bày trí. Thông thường những vật có hình thù kỳ dị, dù có thể phá cách và sáng tạo nhưng lại là đại kỵ trong phong thủy. Chúng dễ đem đến sát khí nghiêm trọng cho chủ nhân, sinh ra nhiều chuyện tranh chấp, tổn hại vận thế, thậm chí có thể gây thương tích.

Không đặt hoa lá giả

Hoa được xem là vật trang trí được nhiều người ưa thích, nhưng hoa tươi hoa thật thì khó giữ được lâu, chi phí lại không nhỏ, vì vậy hoa giả thường được chọn thay thế để tô điểm cho bàn học, bàn làm việc. Tuy giá rẻ và không sợ khô héo nhưng nó lại khiến không gian của bạn thiếu sinh khí. Không những thế, bầu sinh khí vốn để cân bằng từ trường xung quanh con người vô tình bị những cành cây và hoa lá giả “hấp thu” không ít, từ đó khiến vận thế chủ nhân trở nên suy yếu, dễ bị tiểu nhân ganh ghét, ám hại.

Khang Ninh (theo meiguoshenpo)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ba vật trang trí không nên đặt trên bàn học hoặc bàn làm việc

Lễ xin dâu có những ý nghĩa gì? và thủ tục tiến hành.

Lễ này rất đơn giản: Trước giờ đón dâu, nhà trai cử một hai người, thường là bà bác, bà cô, bà chị của chú rể đưa một cơi trầu, một be rượu đến xin dâu, báo trước giờ đoàn đón dâu sẽ đến, để nhà gái sẵn sàng đón tiếp
Lễ xin dâu có những ý nghĩa gì? và thủ tục tiến hành.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong tục này có nhiều ý nghĩa hay:Mặc dù hai gia đình đã quy ước với nhau từ trước về ngày giờ và thành phần đưa đón rồi, nhưng để đề phòng mọi sự bất trắc, mọi tin thất thiệt, nên mới định ra lễ này, biểu hiện sự cẩn trọng trong hôn lễ. Thời gian này chú rể và cha mẹ chú rể rất bận rộn không thể sang nhà gái, nên nhờ người đại diện sang báo trước như bộ phận "Tiền trạm".
Để trong trường hợp vạn nhất hoặc do thời tiết, hoặc do trở ngại giao thông, gần qua giờ quy ước mà đoàn đón dâu chưa đến, nhà gái biết để chủ động làm lễ gia tiên hoặc phái người sang nhà trai thăm dò. Trường hợp hai gia đình cách nhau quá xa hoặc quá gần, hai gia đình có thể thoả thuận với nhau miễn là bớt lễ này, hoặc nhập lễ xin dâu và đón dâu làm một.
Cách nhập lễ xin dâu và đón dâu tiến hành như sau:Khi đoàn đón dâu đến ngõ nhà gái, đoàn còn chỉnh đốn tư trang, sắp xếp lại ai đi trước, ai đi sau, trong khi đó một cụ già đi đầu họ cùng với một người đội lễ (một mâm quả trong đựng trầu cau, rượu... ) vào trước, đặt lên bàn thờ, thắp hương vái rồi trở ra dẫn toàn đoàn vào làm lễ chính thức đón dâu. Lễ này phải tiến hành rất nhanh. Thông thường nhà gái vái chào xong, chủ động xin miễn lễ rồi một vị huynh trưởng cùng ra luôn để đón đoàn nhà trai vào. 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ xin dâu có những ý nghĩa gì? và thủ tục tiến hành.

Top những con giáp là tín đồ của ‘shopping’ –

Con giáp nào là tín đồ của shopping? Tuổi Hợi, Sửu và Dần dẫn đầu trong danh sách những người sống mà không thể thiếu shopping. Vậy củ thể là như thế nào? Những con giáp khác thì sao? Chúng ta cùng đọc bài viết sau để hiểu rõ nhé! Top những con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Con giáp nào là tín đồ của shopping? Tuổi Hợi, Sửu và Dần dẫn đầu trong danh sách những người sống mà không thể thiếu shopping. Vậy củ thể là như thế nào? Những con giáp khác thì sao? Chúng ta cùng đọc bài viết sau để hiểu rõ nhé!

Nội dung

  • 1 Top những con giáp là tín đồ của shopping
    • 1.1 Thứ 1: Tuổi Hợi
    • 1.2 Thứ 2: Tuổi Sửu
    • 1.3 Thứ 3: Tuổi Dần

Top những con giáp là tín đồ của shopping

Thứ 1: Tuổi Hợi

Luôn muốn nắm bắt mọi xu thế của cuộc sống, đặc biệt là về thời trang, người tuổi Hợi sẵn sàng “nhịn ăn để mặc”. Nếu để tuột khỏi tầm tay những món đồ đắt giá yêu thích như quần áo, giày dép, túi xách… con giáp này sẽ mất ăn mất ngủ, tự trách bản thân quá chậm chạm và không quyết đoán.

3-2086-1410225398

Để chứng tỏ cho mọi người thấy khả năng sành sỏi về hàng hiệu của mình, người tuổi Hợi có thể tiêu cả núi tiền đã tích lũy bấy lâu mà không chớp mắt. Đơn giản vì họ nghĩ vất vả kiếm tiền là để có được niềm vui. Vậy nên, tiêu tiền sao cho bản thân cảm thấy hạnh phúc mới thực sự là cách tận hưởng cuộc sống tươi đẹp này.

Thứ 2: Tuổi Sửu

Người tuổi Sửu dường như không có “sức đề kháng” với những thứ xinh đẹp, dễ thương. Do đó, dù sở hữu kho quần áo, phụ kiện “khủng”, con giáp vẫn sẵn sàng tiêu tiền vào thú vui shopping mà không lo lắng tình trạng “viêm màng túi” ngay sau đó.

Suu-6280-1410131213

Nếu rảnh rỗi, dù tâm trạng vui hay buồn, người tuổi Sửu sẽ chọn cách shopping để giết thời gian. Họ cuồng shopping tới mức ngay cả trong mơ cũng luôn thấy mình trong trạng thái sắm sửa đồ đạc và các món phụ kiện yêu thích.

Theo người tuổi sửu, tiền bạc vốn dĩ chỉ là công cụ để biến cuộc sống thêm tươi đẹp và vui vẻ hơn. Nếu cứ ky bo, toan tính quá nhiều sẽ nhanh già và thấy nhàm chán.

Thứ 3: Tuổi Dần

Đây là con giáp rất coi trọng chất lượng cuộc sống và biết cách hưởng thụ thỏa đáng với công sức họ bỏ ra. Do đó, họ chủ động tìm trăm phương nghìn kế để biến cuộc đời trở nên tươi đẹp và sung túc hết mức có thể.

dan-3122-1406244354

Cộng với tính ưa sĩ diện và thích thể hiện, người tuổi Dần không ngần ngại chi ra món tiền lớn để thỏa mãn thú vui shopping. Chỉ cần quan sát những thứ mặc trên người hoặc phương tiện đi lại của họ, bạn sẽ thấy ngay  con giáp này là tín đồ cuồng mua sắm tới cỡ nào.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top những con giáp là tín đồ của ‘shopping’ –

Những bí quyết phong thủy cho việc dọn dẹp sự bừa bộn –

Do Thái cực kết nối tất cả các cung của bát quái đồ, nên nó ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực trong cuộc sống. Sự bừa bộn ở Thái cực sẽ góp phần tạo ra năng lượng yếu hay đứt quãng khắp ngôi nhà; vì thế phải làm mọi việc có thể để giữ khu vực quan trọng này

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

sạch sẽ, được chiếu sáng tốt, gọn gàng, ngăn nắp và hấp dẫn mọi giác quan.

images919142_miennam

Khi đã xử trí được khu vực Thái cực của ngôi nhà, hãy xem bạn có thể tạo ra bao nhiêu khoảng không ở khu trung tâm của mỗi phòng. Trong một ngôi nhà quá bừa bộn, thay đổi đơn giản này có thể tạo không gian cho năng lượng mới mà bạn cần để giải quyết chỗ bừa bộn còn lại.

Hay dùng bát quái đồ để xác định khu vực cần giải quyết tiếp theo. Tìm những nơi bừa bộn nhất và xem chúng có thể ảnh hưởng đến cung nào trong bát quái đồ. Bất cứ quái nào liên quan đến một lĩnh vựt cuộc sống mà bạn cảm thấy bế tắc hay không thể tiến triển đều có thể phải chú ý dọn dẹp.

Nếu bạn thật sự gặp rắc rối khi giải quyết một khu vực bừa bộn, hãy thử rung chuông, lẳc trống hay gỗ cồng treo phía trên. Những rung động của âm thanh vang vọng giúp kích hoạt năng lượng bị mắc kẹt và là phương pháp phong thủy để xua hết khí lưu cũ  ra khỏi không gian. Nếu ngôi nhà không có chuông hay trống lắc, hãy đưa cho cậu con trai ba tuổi của bạn một nắp nồi đã dùng ba năm và chiếc thìa gỗ để gõ hãy khuyến khích cậu bế gây tiếng ồn tùy thích ở những chỗ có hàng đống đồ đạc cần dọn sạch.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những bí quyết phong thủy cho việc dọn dẹp sự bừa bộn –

Nguồn gốc và ý nghĩa của Thiềm Thừ –

Thiềm thừ là con vật huyền thoại cóc vàng có 3 chân, nó là biểu tượng của Thần tài, của sự may mắn về kinh doanh và tiền bạc. Bài viết sau đây nói về Nguồn gốc và ý nghĩa của Thiềm Thừ. Truyền thuyết Cóc vàng phong thủy vốn là yêu tinh, được tiên ông

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiềm thừ là con vật huyền thoại cóc vàng có 3 chân, nó là biểu tượng của Thần tài, của sự may mắn về kinh doanh và tiền bạc. Bài viết sau đây nói về Nguồn gốc và ý nghĩa của Thiềm Thừ.

Nội dung

  • 1 Truyền thuyết
  • 2 Ý nghĩa về phong thuỷ
  • 3 Vị trí đặt Thiềm thừ
    • 3.1 Đặt ở tài vị
    • 3.2 Thiềm Thừ tránh Hỏa, cần Thủy
    • 3.3 Đặt theo loại Thiềm Thừ
    • 3.4 Đặt ở vị trí sạch sẽ, sáng sủa, có thực vật xanh
  • 4 Cách khai quang điểm nhãn cho Thiềm Thừ

Truyền thuyết

Cóc vàng phong thủy vốn là yêu tinh, được tiên ông Lưu Hải thu phục, theo tiên ông Lưu Hải để tu hành nên không làm hại nhân gian như trước, mà ngược lại dùng phép thuật của mình đi khắp nhân gian để nhả tiền giúp đỡ mọi người, để thể hiện sự phục thiện, sự cải tà quy chánh với tiên ông Lưu Hải.

Cóc vàng phong thủy thường ngậm đồng tiền cổ trong miệng, tượng trưng cho việc cóc mang tài lộc vào nhà. Người Hoa từ xưa tới nay đều tin rằng, nếu họ nhà cóc ở dưới giếng, dưới ao, hồ sau nhà bạn, thì gia đình bạn có thể tránh khỏi những nguy hiểm rình rập. Như vậy cóc biểu tượng linh thiêng trong phong thủy về tài lộc và yên lành.

Do đó, mọi người hay dùng đón Cóc tài lộc để chiêu tài, chuyển hung hóa cát trong phong thủy nhà cửa, hoặc để tặng cho bà con bạn bè thân hữu khi có dịp hỷ sự.

Nếu có dịp đi mua sắm ở khu vực chợ lớn sài gòn, bạn sẽ thấy rất nhiều gia đình người HOA, chưng hình tượng của thiềm thừ tại hai bên cửa ra vào, bàn thờ thổ thần, thần tài, hay nhiều nơi khác trong nhà để chiêu tài khí tạo may mắn trong việc kinh doanh cho gia chủ về tài lộc, công danh và sức khỏe.

Ý nghĩa về phong thuỷ

Trong phong thủy Cóc ba chân là biểu tượng rất may mắn vì nó có thể đem lại tài lộc cho gia chủ. Hình ảnh cóc ba chân ngậm tiền xu trong miệng tượng trưng cho việc cóc rước tài lộc vào nhà và được gọi là thiềm thừ.

Thiềm Thừ thông nhân tính, vì thế khi khai quang tốt nhất chỉ nên có một mình gia chủ. Thiềm Thừ sau khi được khai quang, nhìn thấy ai đầu tiên sẽ mãi mãi “phù hộ” cho người đó. Vì thế, có người dùng rất tốt nhưng đem tặng cho người khác thì lại không linh là vì lí do này.

Vị trí đặt Thiềm thừ

Đặt ở tài vị

Thiềm Thừ có quan hệ chặt chẽ tới tiền tài, không thể tách rời nên đặt ở tài vị là tốt nhất, mang tới hiệu quả chiêu tài, thúc tài lớn nhất. Căn cứ vào ngũ hành bản mệnh, bát tự của gia chủ để xác định tài vị theo phương hướng của chính rồi bày Thiềm Thừ ở đó.

Thiềm Thừ tránh Hỏa, cần Thủy

Thiềm Thừ tuy rằng đại diện cho tài vận, nhưng cũng là một loại sinh vật sống dưới nước, cần có Thủy nuôi dưỡng, nên đặt ở vị trí có Thủy vượng để thúc tài hiệu quả. Nhưng tránh đặt Thiềm Thừ đối diện bể cá hay hồ nước, vì tài hóa Thủy mà chảy đi mất. Cũng vì cần nước nên Thiềm Thừ kị Hỏa, Thủy Hỏa tương khắc sẽ phá tài vận.

Đặt theo loại Thiềm Thừ

Có hai loại là Kim Thiềm Thừ và Thiềm Thừ. Mỗi loại bày theo một phương khác nhau mới đem lại kết quả tốt. Kim Thiềm Thừ là con cóc ba chân ngậm đồng tiền trong miệng thì nên quay vào trong nhà, mang tiền về nhà. Thiềm Thừ không ngậm tiền thì nên đặt hướng ra ngoài, ngụ ý mang của vào nhà.

Đặt ở vị trí sạch sẽ, sáng sủa, có thực vật xanh

Lưu ý khi bày Thiềm Thừ là muốn phát huy tối đa công dụng phong thủy thì phải đảm bảo nơi đó sạch sẽ, thoáng đãng và có cây xanh. Thủy Mộc tương sinh, trợ lực rất lớn, cây càng xanh tốt thì tài vận của gia đình càng thịnh vượng.

Cung phựng Thiềm Thừ chỉ cần chén nước sạch, ít hoa quả là đủ. Mỗi ngày Rằm phải đổi nước, thay quả một lần.

Cách khai quang điểm nhãn cho Thiềm Thừ

1, Chon một ngày đẹp, tắm rửa sạch cho Thiềm Thừ.

2, Lấy nửa thùng nước giếng, lấy tiếp nửa thùng nước mưa.

3, Đổ vào đồ chứa đã chuẩn bị từ trước, đồ chứa đó phải sạch sẽ.

4, Đặt Thiềm Thừ vào nước ngâm 3 ngày 3 đêm.

5, Sau khi lấy ra dùng khăn bông sạch lau khô Thiềm Thừ.

6, Lấy một chút nước CHÈ vẩy vào mắt Thiềm Thừ – đây còn gọi là khai quang điểm nhãn.

7, Thiềm Thừ thông nhân tính, vì thế khi khai quang tốt nhất chỉ có mình ở đó, Thiềm Thừ sau khi khai quang người đầu tiên nó nhìn thấy là bạn sẽ mãi mãi “phù hộ“ bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguồn gốc và ý nghĩa của Thiềm Thừ –

Xem tướng hàm răng –

Hàm răng nói lên tính cách của một người. Hàm răng và nụ cười vẫn luôn là những tiêu chuẩn không thể thiếu để thẩm định vẻ đẹp của một người. Qua hàm răng ta còn có thể coi bói xem được chủ nhân là người thế nào. 1. Coi bói qua hàm răng hạt lựu Phụ n

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hàm răng nói lên tính cách của một người. Hàm răng và nụ cười vẫn luôn là những tiêu chuẩn không thể thiếu để thẩm định vẻ đẹp của một người. Qua hàm răng ta còn có thể coi bói xem được chủ nhân là người thế nào.

1. Coi bói qua hàm răng hạt lựu

coi_boi_voi_ham_rang_hat_luu

Phụ nữ có răng hạt lựu là đẹp nhất. Đặc điểm của kiểu răng này là có hình dạng giống như hạt lựu, ngắn, vuông và xít nhau, hơn nữa răng lại trắng và chắc. Chủ nhân hàm răng này là người thông minh. Là con trai thì có quý phúc; là con gái thì hiền thục, lấy được chồng giàu sang, cuộc sống an nhàn, hạnh phúc trọn đời.

2. Coi bói qua hàm răng rồng

coi_boi_voi_ham_rang_rong

Nam giới có răng rồng là đẹp nhất. Đặc điểm của kiểu răng này là răng cửa rất dài và trắng, hàm răng có hơn 32 chiếc. Cộng với dáng hình cao lớn, mặt, mũi và tai đều dài thì gọi là “long hình”, chủ nhân chắc chắn là người đại phú đại quý.

3. Coi bói qua hàm răng hổ

coi_boi_voi_ham_rang_ho

Đặc điểm của răng hổ là răng nanh (cạnh răng cửa) ở hàm trên mọc nhô hẳn ra. Người có răng như vậy, nếu miệng đẹp, sắc môi tươi tắn, răng nanh lại trắng, dài và sáng thì chắc chắn thành đạt khi ở tuổi thiếu niên, đặc biệt rất thích nếu theo đuổi con đường nghệ thuật, điện ảnh.

4. Coi bói qua hàm răng trâu

coi_boi_voi_ham_rang_trau

Đặc điểm của răng trâu là răng cửa trắng, dài, to và đều, hàm răng hơn 32 chiếc. Chủ nhân của hàm răng này phúc nhiều hơn quý, con cháu đều tài giỏi.

5. Coi bói qua hàm răng quỷ

coi_boi_voi_ham_rang_quy

Đặc điểm của răng quỷ là răng nanh và răng cửa khấp khểnh, không đều nhau, môi vẩu, lộ răng. Người có kiểu răng này sống giả dối, hành vi và lời nói thiếu thành thật.

6. Coi bói qua hàm răng chó

coi_boi_voi_ham_rang_cho

Răng cửa không đều nhau, răng nanh lại dài và nhọn là đặc điểm của tướng răng chó. Chủ nhân là người có tính tình quái gở, nói năng hoang đường, làm việc gì cũng không thành công.

7. Coi bói qua hàm răng thưa

coi_boi_voi_ham_rang_thua

Đặc điểm của răng thưa là răng trên rộng dưới hẹp, kích cỡ không đều nhau, các răng mọc cách nhau. Người có hàm răng như vậy là người nói năng luyên thuyên, thường gây chuyện thị phi. Học cũng không biết cách chi tiêu và nắm giữ tài chính. Trong gia đình, họ khắc mẹ, sống bất hiếu.

8. Coi bói qua hàm răng vẩu

coi_boi_voi_ham_rang_thua

Đặc điểm của răng vẩu là hàm răng trên hoặc răng cửa mọc không đều, chồng lên nhau và nhô ra ngoài. Chủ nhân của hàm răng này thời trẻ hay gặp thất bại, cả đời vất vả. Trong gia đình, họ khắc với bố .


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng hàm răng –

Bí kíp tìm chân mệnh thiên tử trong mùa hè

Nếu bạn vẫn đang còn độc thân, còn chưa thoát kiếp “ế” thì hãy chú ý tới một vài bí kíp phong thủy tình yêu để có thể tìm ra “chân mệnh thiên tử” ngay trong
Bí kíp tìm chân mệnh thiên tử trong mùa hè

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu bạn vẫn đang còn độc thân, còn chưa thoát kiếp “ế” thì hãy chú ý tới một vài bí kíp phong thủy để có thể tìm ra “chân mệnh thiên tử” ngay trong mùa hè này.

  1. Phương pháp phong thủy   Tìm kiếm đào hoa vị: 
 
Nếu cửa nhà ở hướng chính Đông thì đào hoa vị ở phía Đông Bắc, nếu cửa nhà ở hướng chính Tây thì đào hoa vị ở phía Đông Nam, nếu cửa nhà ở hướng chính Nam thì đào hoa vị ở phía Tây Nam, nếu cửa nhà ở hướng chính Bắc thì đào hoa vị ở hướng Tây Bắc. Cửa nhà phía Đông Bắc thì đào hoa vị ở hướng Đông, cửa nhà hướng Tây Nam thì đào hoa vị ở chính Nam, cửa nhà hướng Tây Bắc thì đào hoa vị hướng chính Bắc, cửa nhà hướng Đông Nam thì đào hoa vị  ở hướng chính Tây. 

Bi kip tim chan menh thien tu trong mua he  hinh anh
Ảnh minh họa
 
Căn cứ vào phương vị của cửa chính ngôi nhà mà bạn xác định được phương vị đào hoa, sau đó bố trí cho hợp lý.   Bố trí đào hoa vị: 
 
Tốt nhất là tại vị trí đào hoa vị đặt giường ngủ của mình để nhận được nhiều vận khí nhất, chuyện  tình cảm với người khác giới cũng được cải thiện. Hoặc tại đào hoa vị có thể đặt những bình hoa tươi, ưu tiên những loài hoa có màu hồng vì những loài hoa này có tác dụng tăng cường vận đào hoa tốt nhất.    Sử dụng thực vật để tăng vận đào hoa tại đào hoa vị:
 
Đối với người độc thân có thể đặt cây lan trong phòng riêng. Cây văn trúc và cây mã đề cũng có tác dụng thúc đẩy vận đào hoa rất tốt.
2. Phương pháp dùng vật biểu tượng
 
Vật biểu tượng này cần phải phối hợp với phong thủy khi sử dụng. Dùng vật biểu tượng có thể là đặt để hoặc đeo những đồ vật có tác dụng thúc đẩy vận đào hòa, gia tăng vận trình tình cảm. Đặt vật biểu tượng trong văn phòng hoặc phòng ngủ đều rất tốt nhưng tốt nhất là mang vật biểu tượng bên mình.    Vật biểu tượng có thể là cây thủy tinh, quả cầu thủy tinh hoặc thất tinh cầu để chiêu vận đào hoa.
 
3. Phương pháp tướng mạo   Đây là một phương pháp không thể bỏ qua trong thời đại ngày nay.

Bi kip tim chan menh thien tu trong mua he  hinh anh
Ảnh minh họa
  Với đàn ông, muốn chiêu vận đào hòa thì mặt mũi phải sáng sủa, không để tóc che trán, tóc tai gọn gàng. Tóc dài không chỉ bất lợi cho vận đào hoa mà bất lợi cho cả tài vận.   Đối với phụ nữ: Ngoài việc để lộ trán thì có thể sử dụng 2 phương pháp dưới đây.
 
Một là cũng có thể sử dụng gam màu hồng phấn như bộ đồ màu hồng phấn hoặc soi môi màu hồng, càng nhiều màu hồng phấn càng tốt.
 
Hai là đeo những món phụ kiện, trang sức có màu hồng phấn nhưng pha lê màu hồng phấn để đạt hiệu quả cao nhất.   Người độc thân nên nhớ rằng phòng ngủ của mình, vị trí giường ngủ bị bao vây bởi Cô Tinh vị. Cô tinh vị là nơi cô thần quả túc, tạo bất lợi cho vận trình tình cảm nên phải chú ý tới những phương pháp hóa giải để có thể làm tăng vận đào hoa.
► Bói tình yêu để biết nhân duyên của hai người

Lichngaytot.com
Phương pháp phong thủy khai vận đào hoa trong tiết Mang Chủng
Tiết Mang Chủng là một trong 24 tiết khí hàng năm, cũng được xưng tụng là tiết khí đào hoa, có tác dụng rất tốt đối với chuyện tình cảm. Hãy tham khảo các
Vận đào hoa tới tấp chỉ nhờ điều chỉnh chuyện ăn uống
Nước hoa quả hay rượu vang ngoài tác dụng làm món khai vị thì cũng thể hiện được sự lãng mạn, tạo ra bầu không khí tràn ngập tình yêu.
Vĩnh biệt đời độc thân bằng dây kết cát tường phong thủy
Bạn hi vọng bản thân tràn đầy hấp dẫn, nhân duyên tốt đẹp nhưng lại không biết mẹo phong thủy thúc đẩy đào hoa? Vậy ## mách nhỏ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí kíp tìm chân mệnh thiên tử trong mùa hè

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Bí Pháp Bố Cục Huyền Không Phi Tinh Của Họ Từ

Bày bố Cục thế cho Huyền Không Phi Tinh là bí mật trong bí mật của họ Từ, nay đem tiết lộ nơi đây mong là cái duyên lưu giữ Dịch Học.
Bí Pháp Bố Cục Huyền Không Phi Tinh Của Họ Từ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phương vị Nhất Bạch dùng một loại thực vật sắc xanh lục là tốt nhất.
Phương vị Nhị Hắc dùng các tấm đồng là tốt nhất.
Phương vị Tam Bích dùng gạch ngói lấy từ lò bếp ra là tốt nhất. ( Đồ gốm).
Phương vị Tứ Lục dùng thực vật sắc xanh lục là tốt nhất.
Phương vị Ngũ Hoàng dùng sáu đồng tiền cổ là tốt nhất.
Phương vị Lục Bạch dùng đồng hồ hình vuông là tốt nhất. (Phát tiếng chuông)
Phương vị Thất Xích dùng đồng hồ hình tròn là tốt nhất. (Phát tiếng chuông)
Phương vị Bát Bạch dùng đồng hồ hình tam giác là tốt nhất. (Phát tiếng chuông)
Phương vị Cửu Tử dùng loại thực vật có lá sắc đỏ là tốt nhất.
Chú ý : Trên đây là lúc các trạch có chín sao bay vào các phương để bày cục thế, như thế sẽ tăng cao được Trạch Khí có uy mãnh trợ giúp, có thể biến hung trạch thành cát, nếu là cát trạch thì càng thêm hiệu quả !


Lợi Dụng Màu Sắc Ngũ Hành Để Hóa Sát Và Thôi Vận: 


Màu sắc cũng có phân biệt thành thuộc tính âm dương ngũ hành, có thể dùng vào hóa giải hình trạng, ở phương vị có sát khí hữu hình hoặc vô hình, đều có thể dùng điều phối bổ sung Tứ Trụ Dụng Thần, thường rất hiệu quả.
Kim Sát hoặc Kỵ Thần Tứ trụ thuộc Kim: - Dùng màu đỏ, màu tía khắc kim; hoặc dùng màu đen, màu xanh dương tiết thoát nó.
Mộc Sát hoặc Kỵ Thần Tứ Trụ thuộc Mộc : - Dùng màu trắng, xám để khắc nó; có thể dùng màu đỏ màu tía để tiết thoát.
Thủy Sát hoặc Kỵ Thần Tứ Trụ thuộc Thủy : - Dùng màu vàng, cam để khắc nó; có thể dùng màu xanh màu lục để tiết thoát.
Hỏa Sát hoặc Kỵ Thần Tứ Trụ thuộc Hỏa : - Dùng màu đen, xanh dương để khắc nó; có thể dùng màu vàng màu cam để tiết thoát.
Thổ Sát hoặc Kỵ Thần Tứ Trụ thuộc Thổ : - Dùng màu xanh, lục để khắc nó; có thể dùng màu trắng, màu xám để tiết thoát.

Họ Từ Nói Rằng :

Đối với cuộc sống hiện đại, các thành phố công nghiệp, thương nghiệp cư dân tập trung khá đông làm cho bị ô nhiễm ánh sáng, âm thanh, từ trường rất lớn, bệnh viễn thành ra cũng ô nhiễm, khó mà dùng các hóa sát truyền thống, để mà chế hóa. Đối với ô nhiễm ánh sáng, tất nên dùng các vật ngăn cách, làm cho giảm bớt cường độ để giải quyết, như đặt màn che, tấm kính mờ, treo rèm cửa sổ đậm màu ngăn bớt. Đối với ô nhiễm âm thanh, có thể dùng loại rèm hai lớp hoặc các vật liệu cách âm.
Đối với các ô nhiễm điện từ trường lớn hoặc ô nhiễm sóng vi ba, có thể dùng các loại tường ngăn hay tấm ngăn cửa sổ bằng tấm lưới kim loại để ngăn cản. Đối với ô nhiễm tia X thì dùng các tấm có tráng chì để ngăn cách. Dùng Hồ Lô, thủy tinh cầu, kính gương phản xạ, la bàn để hóa sát. Song song với các vật phẩm hóa sát thì nên dùng thêm các vật phẩm thúc đẩy trợ giúp. Có một nguyên tắc là đối với các vật hóa sát thì nên đặt trực tiếp tại nơi có sát khí, còn với các vật phẩm thúc đẩy hỗ trợ thì nên đặt theo phương vị tương hợp sẽ đạt hiệu quả cao hơn.

Tác giả : Từ Bồi Di


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí Pháp Bố Cục Huyền Không Phi Tinh Của Họ Từ

Phong thủy phòng ngủ giúp an thần, tĩnh tâm

Một phòng ngủ hợp phong thủy sẽ đem lại cho gia chủ sức khoẻ, tình yêu, cuộc sống…

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một phòng ngủ có phong thủy tốt là nơi luôn tồn tại và thúc đẩy một dòng chảy hài hòa giữa dưỡng sinh và khoái hoạt. Đó là nơi luôn cút hút, hấp dẫn, kích thích và cũng giúp bạn luôn duy trì sự bình tĩnh trong cùng một thời điểm. Cũng là nơi luôn chứa sự vui vẻ, thú vị và hạnh phúc, cho bạn một giấc ngủ ngắn nhanh chóng, một giấc ngủ đêm tốt hay là nơi tạo nên một tình yêu nồng nàn!

Để tạo ra một phòng ngủ có phong thủy tốt, bạn có thể dùng các thủ thuật phong thủy thực tế cơ bản sau:

Mẹo 1.  Đưa  TV, máy tính hay thiết bị tập thể dục ra khỏi phòng ngủ

 Phong thủy phòng ngủ giúp an thần, tĩnh tâm - 1

Sức mạnh phong thủy phòng ngủ của bạn bị phá hủy khi có sự tồn tại của các loại đồ vật này. Bên cạnh việc tạo ra EMFs cao (nguy hiểm cho sức khỏe của bạn), chúng sẽ mang lại sự căng thẳng, tạo ra sự mất tập trung và gây ra ảnh hưởng xấu đối với các mối quan hệ (với chính mình hoặc người thân của bạn).

Mẹo 2. Thường xuyên mở cửa sổ, sử dụng máy lọc không khí chất lượng cao để luôn đảm bảo phòng ngủ của bạn trong lành và đầy đủ oxy.

Hãy luôn quan tâm và để ý đến không khí trong phòng ngủ của bạn. Thật khó để có một phong thủy phòng ngủ nếu như không khí mỗi khi bạn hít thở không sạch sẽ, luôn chứa đầy các chất ô nhiễm. Hãy nhớ rằng trồng cây trong phòng ngủ không tốt cho phong thủy vì vậy chỉ để cây nếu phòng ngủ của bạn đủ lớn và nhớ để cách xa giường ra nhé. Sử dụng tinh dầu cũng là một cách hay giúp bạn có một bầu không khí trong lành và thơm mát trong phòng ngủ, nhưng tốt nhất bạn nên sử dụng các loại tinh dầu tinh khiết (đã được hóa lành tính) thay vì sử dụng các loại dầu thơm (nhưng lại độc hại).

Mẹo 3. Hãy thực hiện theo 3 thủ thuật phong thủy cơ bản cho giường của bạn, đó là:

- Giường của bạn dễ dàng tiếp cận từ hai phía

- Hai bên giường có bàn bên cạnh

- Tránh đặt giường đối mặt trược tiếp với cửa ra vào.

Một cái giường đẹp và cân bằng là yếu tố rất quan trọng trong việc tạo ra một phòng ngủ phong thủy hoàn hảo. Một tấm nệm đẹp, chất lượng, một đầu giường vững chắc và một tấm thảm, chăn tơ tằm cũng quan trọng trong việc tạo ra năng lượng hài hòa.

Mẹo 4. Sử dụng gam màu nhẹ nhàng để tạo ra một sự cân bằng phong thủy trong phòng ngủ của bạn.

Trang trí trong phòng ngủ luôn giúp bạn có một giấc ngủ ngon cũng như giảm bệnh. Màu sắc phong thủy cho phòng ngủ được coi là "màu da", từ nhạt đến trắng và đến màu nâu sô cô la. Vì thế, các màu trong gam này sẽ là lựa chọn tốt nhất cho việc lựa chọn đồ vật trang trí phòng ngủ.

Mẹo 5.  Hãy chọn các bức tranh nghệ thuật cho phòng ngủ một cách cẩn thận và khôn ngoan, ví dụ như một hình ảnh mang năng lượng mạnh mẽ.

Lời khuyên phong thủy tốt nhất cho phòng ngủ là hãy chọn hình ảnh bạn muốn nhìn thấy trong cuộc sống của mình; hình ảnh với sự thúc đẩy, phát triển, đẹp và tràn ngập hạnh phúc. Trừ khi bạn thích một cuộc sống buồn bã và cô đơn, nếu không đừng bao giờ treo những hình ảnh buồn và cô đơn trong phòng ngủ của bạn. Tốt nhất là hãy treo những hình ảnh liên quan đến cảm xúc, tình yêu, hạnh phúc, sự thân mật, vv

Mẹo 6. Hãy đảm bảo phòng ngủ của bạn luôn có nhiều tầng ánh sáng, có thể sử dụng các thiết bị điều chỉnh ánh sáng

Ánh sáng thích hợp là rất quan trọng, vì ánh sáng chính là chất dinh dưỡng số 1 và là biểu hiện mạnh nhất của năng lượng. Ánh sáng phát ra từ nến luôn là ánh sáng tốt nhất cho phòng ngủ của bạn, nó tạo ra một bầu không khí thân mật, ấm áp và thoải mái. Khi mua nến, hãy kiểm tra để chắc chắn mua những cây nến không chứa độc tố nhé!

Mẹo 7. Hãy đóng tất cả các cửa trong phòng ngủ vào ban đêm, cũng như cánh cửa tủ quần áo, cửa phòng tắm hoặc cửa phòng ngủ.

Điều này sẽ cho phép tạo ra và thúc đẩy năng lượng để nuôi dưỡng, tăng cường sức khỏe của bạn, cũng như các mối quan hệ của bạn. Hãy luôn giữ các tủ trong phòng ngủ của bạn sạch sẽ và có trật tự, điều này sẽ tạo ra bầu không khí thanh bình và yên tĩnh trong phòng ngủ của bạn. Hơn nữa, hãy tìm hiểu sự tương tác giữa các cửa ra vào và cửa sổ trong phòng ngủ của bạn và chắc chắn rằng sức mạnh năng lượng tạo ra không thoát ra khỏi phòng ngủ của bạn, mà là nuôi dưỡng, củng cố và phát triển nó.

Ý tưởng về một phòng ngủ có phong thủy hoàn hảo có thể mang lại những hình ảnh khác nhau đối với mỗi người khác nhau, nhưng tất cả đều sẽ có một điểm chung, đó là mang đến khoái lạc và kì ảo mơ mộng. Trong một phòng ngủ có phong thủy tốt, mỗi một chi tiết đều phản ánh rõ ràng về tình yêu, sức khỏe và sự thư giãn, thoải mái.

Theo Trần Thị Thúy (Khám phá)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy phòng ngủ giúp an thần, tĩnh tâm

Khả năng kì lạ của những "người tìm mạch nước"

Trên thế giới vẫn còn nhiều người có khả năng kì lạ đến khoa học cũng phải bó tay. “Người tìm mạch nước” là một trường hợp như thế.
Khả năng kì lạ của những "người tìm mạch nước"

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trên thế giới vẫn còn nhiều người có khả năng kì lạ đến khoa học cũng phải bó tay. “Người tìm mạch nước” là một trường hợp như thế.

Raoul Derosiers, một thương nhân người Canada, được ghi nhận với khả năng nhìn xuyên thấu mặt đất bằng chính đôi mắt của mình, mà không dùng bất cứ một phụ kiện hỗ trợ nào.

Kha nang ki la cua nhung nguoi tim mach nuoc hinh anh
 
Với hơn 600 vụ tìm kiếm, ông không bao giờ tìm sai một mạch nước nào. Ông chỉ cần đi đi lại lại và dừng đúng chỗ mình thấy xương sườn đau. Ông được gọi là “người tìm mạch nước”. Tuy nhiên, đến nay chưa ai đưa ra được lời giải thích về khả năng đặc biệt này của Derosiers.
 
Năm ấy, Derosiers đến thăm một trang trại của người anh em học ở Quebec. Người anh em này than phiền rằng việc thiếu nước trầm trọng đang ảnh hưởng khá nhiều đến công việc chăn nuôi gia súc của ông. Ít tháng sau, trong lúc hai người đang đi dạo dọc theo một cánh đồng phía sau những kho thóc, một cơn đau xương sườn khủng khiếp lại đến với ông Derosiers. Trong cơn đau, ông nói: “Tôi có cảm giác mình đang đứng trên một mạch nước ngầm, một mạch nước rất dồi dào là khác. Nó sâu khoảng 2,1 mét và chảy qua một lớp đá dày chừng 7,5 cm.”
 
Điều không tưởng đã xảy ra, đúng tại chỗ đó, người ta phát hiện một mạch nước ngầm. Mạch nước chảy ra một lớp đá dày chừng 7,5 tới 10 cm. Sau đó, ông Derosiers được các chuyên gia địa chất Mỹ mời đến Washington D.C trình diễn khả năng đặc biệt của mình. 
 
Ông Derosiers cũng tham gia một cuộc kiểm chứng do báo Washington Post tổ chức. Thử thách mà ông Derosiers phải trải qua là “tìm mạch nước” cho một doanh trại quân đội ở Washington để tìm nước phục vụ quân lính. Phóng viên của tờ Washington Post có trao đổi trước với ông Derosiers là trước đó doanh trại này đã đào nhiều giếng mà vẫn không có nước, nhờ cả bên địa chất, chụp ảnh vệ tinh, vậy mà đào xuống vẫn không thấy nước đâu.
 
Mọi người tò mò, hồi hộp theo từng bước dò của ông Derosiers. Không quá khó khăn, ông Derosiers đã cho kết quả đầy ngạc nhiên. Ông đã tìm ra 2 mạch nước rồi từ đó đào được 2 giếng phục vụ quân lính. Ông Derosiers kể: “Cái mạch nước tôi tìm ra chỉ cách bản đồ địa chất người ta cung cấp có 1,5 m”. Bán tính bán nghi, họ cho đào mạch nước theo vị trí ông Derosiers chỉ. Đúng! Đúng là có 2 mạch nước. Sự thực đó không thể phủ nhận. “Công nghệ mới”?
 
Ở Việt Nam cũng có “thần nước” Trần Huy Hoàng, ở xóm 12, xã Quỳnh Giang, Quỳnh Lưu (Nghệ An). Theo lời kể, chỉ cần 2 thanh sắt dài khoảng 50cm cầm trên tay ông Hoàng có thể xác định chính xác chỗ nào có mạch nước ngầm hay không.

Kha nang ki la cua nhung nguoi tim mach nuoc hinh anh
 
Năm 1995, cuộc sống của người dân xã Quỳnh Thanh bị đảo lộn vì không có nước ngọt sử dụng, người dân ở đây đã tìm đủ mọi cách mà vẫn không tìm ra mạch nước ngọt đâu cả, mọi sinh hoạt đều dùng bằng nước mặn. Hằng ngày người dân phải đi gánh nước ngọt từ xã khác về để ăn uống.  Nghe tin đồn về ông “thần nước” ở Quỳnh Giang, thế là người dân đã đến tận nhà mời ông Hoàng cầu xin giúp đỡ. Với hai thanh sắt được cầm trên tay, sau một giờ đồng hồ ông đã tìm ra 10 mạch nước ngầm, giúp dân ở đây có nước sử dụng.
 
Ông từng vào tận Đồng Nai, Sài Gòn để tìm nước giúp dân. Rồi ông ngược đường trở về vùng miền núi xã Hương Thọ (Hương Khê – Hà Tĩnh) để dò mạch nước. Kết quả, ông đã tìm ra một mạch nước lớn trong núi đá giúp cả xã dùng không bao giờ bị hết nước. Ở đã ở tuổi ngoài 70, ông Hoàng vẫn không thể nhớ nổi mình đã bắt trúng bao nhiêu mạch nước ngầm ở dưới lòng đất.
 
Đối với người dân thì những chuyện trên thuộc lĩnh vực mê tín, song đối với các nhà khoa học chuyên nghiên cứu những khả năng đặc biệt của con người thì hoàn toàn mang tính khoa học thuần túy. 
 
Các nhà khoa học lý giải rằng, mỗi con người, mỗi sự vật trên trái đất đều có một loại sóng đặc biệt mà khoa học chưa tìm ra được bằng máy móc thông thường. Khi sự vật mất đi, khi con người tan biến vào cát bụi thì loại sóng bí ẩn đó vẫn lưu lại trên trái đất có thể hàng trăm, hàng nghìn năm. 
 
Năng lượng bộ não con người là vô tận, con người mới chỉ khám phá được một phần rất nhỏ, song đối với một số người, vì những lý do nào đó, do bệnh tật, tác động của ngoại cảnh, nội lực đã khai mở được phần bí ẩn của bộ não, mà phần bí ẩn này có khả năng giải mã được những loại sóng đặc biệt đó. Hiểu một cách đơn giản thì chiếc tivi hoặc chiếc radio có thể giải mã được các tần số sóng, nhà ngoại cảm có thể ví như chiếc tivi hay chiếc radio vậy.    
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khả năng kì lạ của những "người tìm mạch nước"

Đeo nhẫn ngón nào mang lại tài vận, sức khỏe và tình duyên?

Đeo nhẫn ngón cái sẽ tăng vận may trong sự nghiệp; ngón áp út với mong muốn tình yêu thuận lợi.
Đeo nhẫn ngón nào mang lại tài vận, sức khỏe và tình duyên?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Ngón cái - Sự quyền uy và vận may cho sự nghiệp

Theo thuật phong thủy, đeo nhẫn ngón tay cái sẽ giúp chủ nhân của nó thêm sang trọng, quyền lực và gặp nhiều may mắn thăng tiến trong sự nghiệp.

IMG-2234-7444-1405035043.jpg

Điều này giải thích tại sao vua chúa thời xưa thường đeo nhẫn ngọc, vàng hoặc gỗ ở ngón tay cái. Nó tạo hình ảnh quý phái, sang trọng, đầy quyền uy cho họ.

2. Ngón trỏ - Tăng may mắn trong thi cử và sự nghiệp

Ngón trỏ được coi là một trong những ngón linh hoạt nhất trên bàn tay. Đeo nhẫn bằng đá thạch lựu ở ngón tay này sẽ giúp bạn vượt qua mọi kỳ thi một cách xuất sắc với nhiều may mắn bất ngờ. Nếu đã đi làm, công việc của bạn sẽ được thuận lợi và có nhiều cơ hội thăng quan tiến chức.

ngon-tro-7638-1405035043.jpg

3. Ngón giữa - Tăng cường sức khỏe và sự tự tin

Trong phong thủy, ngón tay giữa là nơi tập trung và phát huy nhiều năng lượng nhất. Do đó, khi đeo  nhẫn ở ngón này, bạn sẽ có sức khỏe dồi dào và gặp nhiều may mắn trong cuộc sống. Chất liệu nhẫn phù hợp là kim cương hoặc thạch anh.

Ngoài ra, nó giúp bạn củng cố niềm tin, tinh thần trách nhiệm cho công việc, tự tin hơn trong giao tiếp.

4. Ngón áp út - Sự thuận lợi và may mắn trong tình yêu

Thông thường mọi người đeo nhẫn ở ngón áp út để thể hiện rằng mình đã đính hôn hoặc kết hôn. Bởi vậy, ngón tay này được coi như một hình ảnh đại diện của tình yêu và hôn nhân.

deo-nhan-the-hien-tinh-cach7-j-3630-9203

Nếu muốn được trải nghiệm tình yêu thuận lợi, may mắn với kết thúc có hậu, bạn có thể theo nhẫn bằng chất liệu đá tourmaline nhiều màu hoặc thủy tinh hồng.

5. Ngón út - Trí tuệ thêm minh mẫn, tránh kẻ xấu hãm hại

Ngón út là hình ảnh đại diện của trí tuệ và sự may mắn. Đồng thời nó còn có ý nghĩa về việc giữ và thực hiện lời hứa. Vì mọi người thường dùng ngón này để ngoắc tay hứa hẹn.

31czZgLYsVL-4102-1405035044.jpg

Theo đó, đeo  nhẫn bằng chất liệu thủy tinh tím ở ngón tay út sẽ giúp bạn tăng cường trí tuệ thông minh, tư duy sáng tạo và tránh bị kẻ xấu hãm hại sau lưng.

Mr.Bull

1376614679384-8594-1404769915-4723-9501-

Hướng ngủ nào tốt cho sức khỏe, sự nghiệp và tài vận?

Ngủ hướng Bắc sẽ giúp bạn tránh tình trạng mất ngủ; hướng Nam cực kỵ cho sức khỏe lẫn tài vận.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đeo nhẫn ngón nào mang lại tài vận, sức khỏe và tình duyên?

Tứ Hóa Lộc-Quyền-Khoa-Kỵ

Định nghĩa chữ HÓA Lộc Quyền Khoa Kỵ đều có chữ HÓA ở trước. Hóa là chuyển biến, chuyển động, chuyển hóa. Cho nên Tứ hóa không thể xem là một tinh diệu và tứ hóa chỉ là hiện tượng biến hóa. Tỉ dụ, Liêm Trinh đứng với Hóa Lộc, làm Hóa Lộc có thể làm biến hóa khí chất của Liêm Trinh.
Tứ Hóa Lộc-Quyền-Khoa-Kỵ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cũng như năng lượng mặt trời ra 4 mùa xuân hạ thu đông. Tứ hóa lấy thứ tự xuân hạ thu đông vì vậy chúng đi theo thứ tự Lộc – Quyền – Khoa – Kỵ, không thể đặt lộn Kị Khoa Quyền Lộc.

Luận về Hóa Lộc

Hóa Lộc thuộc Mộc ví như mùa xuân hướng ra bốn phía mà phát triển. Xuân là mùa sinh sôi nảy nở, vậy thì Hóa Lộc tương trưng mùa xuân cũng sinh sôi nảy nở.

Xuân tượng vạn vật đều phát triển, mọi sự tốt tươi nên Hóa Lộc cũng mang tính hài hòa, tiêu đi những tranh chấp, chế hóa tai nạn.

Sách viết: “Hóa lộc, thực lộc bất khuyết, phát triển thuận lợi” vậy nên đặc tính cơ bản của Hóa Lộc là phát triển. Người Hóa Lộc ko nhất định là thông tuệ chỉ có khả năng hài hòa phát triển cũng không nhất định là người tài hoa.

Luận về Hóa Quyền

Hóa quyền thuộc Hỏa đới Thổ, ví như mùa hè, như lửa bốc, tính chất mãnh liệt. Mùa hè ngũ hành thuộc Hỏa, vạn vật đến hè thì xanh tốt vinh vượng.

Mùa xuân mới chỉ là mầm mống, nếu không đủ sức sống tất nhiên bị đào thải, còn tồn tại tức là sức mạnh. Bởi thế, Hóa quyền chủ về tự tín và làm việc đắc lực. làm việc đắc lực đi đôi với vất vả gian khổ cho nên Hóa quyền cũng tượng trưng cho vất vả chiến đấu. Ngoài ra, đôi khi Hóa quyền trở thành tự phụ vì tự tín tâm quá cao.

Mùa hè nắng chói chang, quang minh do đó tính tình Hóa quyền chính trực. Hỏa chủ Lễ cho nên Hóa quyền khi đối xử tỏ ra lịch lãm, khuôn phép tuy nhiên cũng lại dễ xung động.

Luận về Hóa khoa

Hóa khoa thuộc Kim, mùa thu là mùa của thâu liễm với ý nghĩa nội liễm hàm súc mang ý vị văn chương và trí tuệ, tài hoa tiềm ẩn mà ko lộ, bởi vậy nên tâm cơ không gian trá.

Hóa khoa tượng thu Kim trong ngũ thường là chữ Nghĩa. Bởi vậy, người có Hóa Khoa thường liêm khiết, một lòng một dạ, khuynh hướng bảo thủ nên ít khi hoạnh phá, nhưng được kính nể.

Luận về sao Hóa kị

Hóa Kị trong ngũ hành là Thủy, tượng về sự tuyệt diệt của vạn vật trong thời kỳ phải ẩn tàng. Hóa kị ví như mùa đông, bề ngoài cây cối trơ trụi nhưng bên trong là sức sống mãnh liệt để tạo biến đổi, thay thế đợi mùa xuân tới bung ra. Hóa kị là lúc phải chịu sự thanh toán triệt để, thoát thai hoán cốt. Vì phải biến hóa nên thông minh linh xảo.

Mùa đông ngũ hành thuộc thủy. Thủy chủ về trí tuệ. Mùa đông chủ về ẩn tàng. Trí tuệ mà ẩn tàng thì ý nghĩ khó đoán ra, bởi vậy người Hóa kị thường hay mưu mô, đôi lúc gian trá, đầu óc quyền biến vô thường. Thủy chủ động nên thường xuyên xoay chuyển, xoay chuyển quá độ thành ra bội phản.

Tác động của Tứ Hóa

Tứ Hóa tác dụng rất lớn đối với các chủ tinh đến mức có thể làm biến đổi luôn tính chất của chủ tinh mà chúng đứng cùng. Thái dương đi với Hóa Quyền khác hẳn Thái dương đứng với Hóa Khoa hay Hóa Lộc. Trên lá số có Tứ Hóa cố định.

Nhưng tiểu hạn mỗi năm cũng phải tính cả ảnh hưởng phụ của Tứ Hóa do hàng can của năm tiểu hạn. Như vậy, người Trung Quốc cũng tính luôn cả lưu Tứ Hóa.

Hóa Lộc trong tử vi khoa kể như một sao trọng yếu về tiền bạc dù nó đứng với sao nào thì tính chất tài lộc vẫn thế, chỉ thay đổi theo mức độ hơn kém nhiều ít.

Sao tiền bạc còn có Lộc Tồn nữa, được Lộc Tồn thành ra “Điệp Lộc” hay “Song Lộc”, tiền bạc thêm sức lưu thông để phấn phát, nếu chỉ Hóa Lộc không thôi thì chỉ là tích súc.

Hóa Quyền mang tính chất quyền lực, quyền lực ưa đi đôi với địa vị, có địa vị rồi mới có quyền lực. Địa vị ở đây xin đừng hiểu đơn thuần như chức vị.

Hóa Quyền ở đại hạn, hay Hóa Quyền ở tiểu hạn, hay Hóa Quyền ở mệnh cung mà được thêm Hóa Quyền lưu thêm tiểu hạn càng tốt.

Hóa Quyền ngoài tính chất quyền lực còn có tác dụng gây chí phấn đấu, tạo tính tích cực và tính ổn định. Tỉ dụ, Thiên Cơ vốn là sao hiếu động không ổn định nhưng một khi gặp Hóa Quyền thì tình trạng động trên giảm hẳn thành ra linh hoạt phát huy với kế hoạch rõ ràng.

Hóa Quyền cũng mang đến khả năng quản lý vững chắc. Hóa Quyền hợp với Hóa Lộc, Hóa Khoa. Hóa Quyền đứng với Hóa Kị dễ bị chiêu oán ganh ghét.

Trường hợp có thêm những sao khác để biến ra quyền uy tuyệt đối dù kẻ ganh ghét oán hận cũng chẳng làm gì được lại khác.

Hóa Khoa cơ bản tính chất là danh dự và tham vọng. Vì thế Hóa Khoa cần Văn Xương Văn Khúc để thành cái thế “Khoa danh đồng hội” bảng vàng ghi tên, nhất là đối với xã hội ưa chuộng khoa bảng.

Còn xã hội thương nghiệp thì Thái Âm Hóa Khoa hay Vũ Khúc Hóa Khoa hay Thiên Phủ Hóa Khoa cũng tạo nên thanh vọng. Xã hội thương nghiệp, những tài tinh Vũ Khúc, Thái Âm, Thiên Phủ đứng bên Hoá Khoa đẹp hơn Xương Khúc.

Hóa Khoa ở một vị thế nào đó hoặc một sự kết hợp với các sao khác có thể chỉ là hư danh và tự mãn thôi. Hóa Kị trong tử vi khoa tính chất rất phức tạp, Hóa kị có 2 mặt tốt và xấu rõ rệt và khi tác dụng cũng ác liệt. Tỉ dụ Thái Dương dễ gây tiếng tăm, nổi đình nổi đám nhưng đứng với Hóa Kị thì sự ganh ghét đố kị cũng thật ghê gớm.

Nguồn Tử vi


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tứ Hóa Lộc-Quyền-Khoa-Kỵ

Mơ thấy hoa sẽ có nhiều niềm vui

Có thể bạn đã từng thấy những bông hoa trong giấc mơ của mình, nhưng không hiểu hết được ý nghĩa ẩn sau giấc mơ ấy. Hãy thử một lần khám phá, rất nhiều điều
Mơ thấy hoa sẽ có nhiều niềm vui

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

thú vị đang chờ bạn.

Hoa cúc

Mo thay hoa se co nhieu niem vui hinh anh
Giấc mơ về hoa cúc: may mắn và thịnh vượng




Hoa cúc là biểu tượng cho sự tươi mới, vẻ đẹp trong trắng, ngây thơ, tinh khiết và giản dị.
  Thật tuyệt vời nếu bạn mơ thấy đang đi dạo trên những cánh đồng hoa cúc. Giấc mơ này không chỉ mang đến cho bạn những phút giây lãng mạn quý giá mà còn đem đến những dự báo tốt lành bởi hai điều: may mắn và thịnh vượng.   Ngoài ra, nó còn ngầm cho biết có thể có ai đó sẽ đề nghị giúp bạn, cùng bạn vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.   Nếu thấy những đóa cúc vạn thọ trong mơ, cũng đồng nghĩa với sức khỏe và sự trường thọ sẽ đến với bạn.   Thấy những đóa hoa cúc zinnia trong mơ, đồng nghĩa với việc tiếng cười, tình bạn và niềm vui sẽ ngập tràn trong cuộc sống tương lai của bạn. Ngoài ra, nó còn ngụ ý niềm vui trong mùa hè.   Hoa hồng

Mơ thấy hoa bay trước gió, bạn đang có được tình yêu trọn vẹn.
 
Mơ thấy mình gom nhặt hoa hồng thường là điềm về cuộc sống ngập tràn niềm vui và tiếng cười.
 
Mơ thấy tặng hoa hồng cho người khác, nghĩa là bạn sẽ được thương yêu chân thành và sâu sắc.
 
Mơ thấy được nhận hoa hồng của người khác tặng, mang ý nghĩa hứa hẹn những thành công lớn trong lĩnh vực xã giao.
 
Mơ thấy hoa hồng nở với làn hương phảng phất, niềm vui mới sẽ đến bên bạn.
 
Hãy cẩn trọng hơn trong các mối quan hệ nếu bạn mơ thấy hoa hồng giả. Loại hoa này dự báo về mối quan hệ đố kị, ganh ghét và thiếu trung thực.

Hoa huệ

Những cánh hoa huệ trắng muốt là biểu tượng của sự trong sạch, thanh cao. Chính vì vậy, loài hoa này thường được chọn để thờ cúng trong những dịp lễ tết. Nếu bạn mơ thấy chúng, cũng có nghĩa tài lộc, may mắn sắp vào nhà. Mơ thấy hoa huệ nở, là điềm báo đại phát tài.   Tuy nhiên, ở một khía cạnh nào đó, mơ thấy hoa huệ còn mang điềm bị phụ bạc.

Hoa lan

Mo thay hoa se co nhieu niem vui hinh anh 2
Giấc mơ về hoa lan mang lại niềm vui

Là loài hoa đa dạng về màu sắc và hương thơm, lại rất biết chiều lòng người, mặc dù  không dễ trồng nhưng người ta sẵn sàng “chăm như chăm con mọn” chỉ để đợi đến ngày hoa lan khoe sắc. Vì lẽ đó, giấc mơ về loài hoa này luôn mang niềm vui đến cho mọi người.   Nằm mơ thấy hoa lan là điềm sinh con gái quý.   Mơ thấy cài hoa lan trên tóc, điềm báo có người đến xin dạm hỏi.   Mơ thấy hoa lan rụng hoặc rơi lác đác trên sân, điềm báo có đám cưới trong nhà.

Hoa mai

Theo quan niệm của người phương Tây, hoa mai biểu thị sự vô tình, nhưng trong văn hóa của người Việt, hoa mai là một trong bốn loài cây tượng trưng cho khí phách của người quân tử (tùng, cúc, trúc, mai).    Mơ thấy hoa mai cũng là một điềm lành. Mơ thấy hoa mai nở rộ, là điềm báo bước vào con đường thành công.

(còn nữa)

Theo Giải mã giấc mơ

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy hoa sẽ có nhiều niềm vui

Phật dạy 15 nguyên tắc đảm bảo sống vui, sống an lành (phần 2)

Phật giáo thâm sâu, triết lý thông tuệ, những nguyên tắc cuộc sống dưới đây là những đúc kết kinh nghiệm từ ngàn đời, chỉ có tự mình trải qua mới thực sự thấu
Phật dạy 15 nguyên tắc đảm bảo sống vui, sống an lành (phần 2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

hiểu.


Phat day 15 nguyen tac dam bao song vui, song an lanh phan 2 hinh anh
 
6. Nguyên tắc 80/20   Phật giáo cho rằng, 80% thời gian cố gắng phía trước chỉ có thể đạt được 20% thành quả, 80% thành quả thực ra lại ở 20% thời gian cố gắng phía sau. Bởi thế, theo đuổi là phải kiên trì, tận lực là phải không buông xuôi. Nếu vì đã cố gắng lâu những chưa thu được kết quả như mong muốn mà bỏ cuộc, vì thiếu tin tưởng mà buông xuôi thì cố gắng phía trước uổng phí, thành quả lẽ ra có được lại vụt mất.   Hãy luôn nghĩ rằng, 80% cố gắng phía trước không chỉ để thu được 20% thành quả mà còn là bàn đạp để chỉ cần bỏ ra 20% cố gắng phía sau đã thu được 80% thành công.    7. Nguyên tắc bằng lòng   Vân Cốc thiền sư từng nói, người biết giá trị tất đáng giá ngàn vàng, người không biết giá trị nhất định phải đói khổ. Vận mệnh có thể cải biến và thay đổi con người nhưng con người cũng có thể xoay chuyển số mệnh. Phải đề cao giá trị bản thân, đề cao giá trị của người khác để nâng cao chất lượng cuộc sống.    Vì sao Văn Thù Bồ Tát lại cầm kiếm trên tay? Thiên long bát bộ - hộ pháp thần trong Phật giáo
8. Nguyên tắc gián tiếp
  Đề cao giá trị vật chất và giá trị tinh thần của bản thân phải thực hiện thông qua gián tiếp đề cao giá trị của người khác. Ví như, đề cao sự tự tôn của bản thân thì trước tiên phải đề cao sự tự tôn của người khác. Người có thành tựu, tất là phải thông qua thành tựu của người khác.    Xã hội là một chỉnh thể hợp nhất, người với người tạo thành cộng đồng, không thể vì lợi ích của bản thân mà phủ nhận lợi ích của người khác bởi lợi ích của người và lợi ích của ta nhất định có liên quan tới nhau.   9. Nguyên tắc bố thí  
Phat day 15 nguyen tac dam bao song vui, song an lanh phan 2 hinh anh
 
Bố thí chính là cho đi, là nghiệp lành mà người nên tích. Tất cả những việc tốt người làm sẽ lại được báo ứng trên chính mình. Nên cho đi là nhận lại, cho đi là được thêm. Người tích phúc thì hưởng phúc, tích oán thì nhận oán, nhân quả ở đời, luân hồi ở đời đều không thoát nổi vòng xoay này.

10. Nguyên tắc không màng báo đáp   Người bố thí không cần hồi báo, người cho đi không cần nhận lại ấy mới là bố thí chân chính. Vì càng không mong cầu báo đáp thì hồi báo càng lớn. “Thiện có thiện báo, ác có ác báo, không phải không báo, thời điểm chưa tới”. Con người sống trên đời làm việc thiện là cho chính mình, không phải vì người khác.  Tư vấn: Giải đáp những thắc mắc về nguyên tắc thờ Phật tại gia Ngày đại cát đại lợi để dâng hương lễ Phật Nỗi khổ lớn nhất và niềm vui lớn nhất của đời người
Trình Trình

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phật dạy 15 nguyên tắc đảm bảo sống vui, sống an lành (phần 2)

Bí quyết chinh phục người tuổi Sửu

Nếu muốn theo đuổi người tuổi Sửu, hãy đến với họ bằng tình cảm chân thành. Người tuổi này khi yêu thường hết mình, do đó họ rất mong gặp được người chân thành
Bí quyết chinh phục người tuổi Sửu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

để có thể tin cậy.

Tuy người tuổi Sửu không quá chú trọng đến hình thức bên ngoài nhưng nếu biết làm đẹp, bạn sẽ gặp thuận lợi hơn trong việc duy trì tình cảm. Nên nhớ, tình yêu của các bạn cần được cả 2 bên vun đắp.

 
Để theo đuổi nam giới tuổi Sửu

Để theo đuổi đàn ông tuổi Sửu, bạn nên chủ động bật đèn xanh để họ biết được tình cảm của bạn. Nam giới tuổi này thường khá nhút nhát và bị động. Do đó, họ rất cần một người bạn gái biết chủ động để tình yêu có thể tiến nhanh hơn. Tuy nhiên, không phải vì thế mà bạn trở nên nóng vội. Sự vồn vã có thể sẽ khiến anh chàng sợ hãi.

Nam giới tuổi Sửu thường có khát vọng chiếm hữu rất lớn, họ thậm chí còn không muốn giới thiệu người yêu với bạn bè của mình. Các bạn gái không giỏi làm việc nhà thì cũng đừng nên hi vọng sẽ chinh phục được chàng trai tuổi này. Tốt nhất, hãy học hỏi để biết thêm nhiều điều nữa từ mẹ của mình rồi hãy nghĩ đến chuyện cưa chàng. Khi nói chuyện với chàng trai tuổi Sửu, bạn có thể đề cập đến những ước mơ nhưng đừng nên nói những điều hoang tưởng, không thiết thực. Chàng trai của bạn sẽ không thích những phụ nữ tiêu xài hoang phí, không biết chăm lo, tính toán đến kinh tế gia đình.

Để theo đuổi nữ giới tuổi Sửu

Nữ giới tuổi Sửu thường rất nhiệt tình. Tuy nhiên, không phải vì thế mà họ dễ dàng trong tình yêu. Nếu muốn theo đuổi cô gái tuổi này, bạn sẽ phải thật kiên nhẫn vì họ thường là người không hay để lộ tình cảm của mình ra bên ngoài cho dù trong lòng họ có thể rất thích.

(Theo Phong thủy ứng dụng Tình yêu nồng thắm)

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết chinh phục người tuổi Sửu

Ý nghĩa những con số trong phong thủy

Là con số của các vị thần thánh, của hoành đồ, được hiểu như là con trai của cõi trời. Số một tượng trưng cái đỉnh tối thượng, đỉnh núi cao – độc nhất không còn ai khác nữa. Chúng ta, con người không thể nắm giữ vị trí này lâu dài, vì nó có thể đơn độc và hiểm nghèo, bởi chúng ta không phải là thần thánh. Chỉ có thần thánh mới có thể nắm giữ vị trí này mãi mãi.
Ý nghĩa những con số trong phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Số Một (1)

Là con số của các vị thần thánh, của hoành đồ, được hiểu như là con trai của cõi trời. Số một tượng trưng cái đỉnh tối thượng, đỉnh núi cao – độc nhất không còn ai khác nữa. Chúng ta, con người không thể nắm giữ vị trí này lâu dài, vì nó có thể đơn độc và hiểm nghèo, bởi chúng ta không phải là thần thánh. Chỉ có thần thánh mới có thể nắm giữ vị trí này mãi mãi.

Số hai (2)

Tượng trưng là một cặp, một đôi, một con số hạnh phúc (song hỷ) và điều hành thuận lợi cho những sự kiện như sinh nhật, cưới hỏi, hội hè. Số hai tượng trưng sự cân bằng âm dương kết hợp tạo thành thái lưu hay là nguồn gốc của vạn vật. Các câu đối đỏ may mắn thường được dán trước cửa nhà cổng chính vào dịp đầu năm mới.

Số ba (3)

Được xem là con số vững chắc, như kiếng ba chân là một hình thức vững chắc nhất. Người Hồng Kông có câu “ba với ba là mãi mãi” (bất tận) và biểu tượng hy vọng trường thọ. Phong thủy dùng nhiều lĩnh vực số học trong việc bài trí các đồ vật và con số ba là con số đặc biệt hữu dụng cho việc tăng thêm vẻ vững chắc khi đập mắt vào và sự hài hòa của một môi trường.

Số bốn (4)

Là sự hình thành của hai đôi. Hai cặp chắc hẳn phải tốt lành, thuận lợi nhưng trong cách phát âm tiếng Hồng Kông nó giống như chữ “tử” (chết). Vì thế sự kết hợp này không được tốt đẹp lắm. Thuật phong thủy tìm cách tránh bất cứ sự bài trí có liên quan đến con số bốn.

Số năm (5)

Tượng trưng cho danh dự, uy quyền, quyền lực. Số năm còn có nghĩa là năm hướng (Bắc, Nam, Đông, Tây và Trung tâm) là năm ngọn núi thiêng liêng của Hồng Kông. Số năm tượng trưng cho trường thọ và bất diệt. Con số năm cũng là sự kết hợp với căn nhà bằng vàng, nắm giữ sự thịnh vượng và hạnh phúc cho mỗi gia đình. Số năm là một con số tuyệt vời dùng trong việc bài trí phong thủy.

Số sáu (6)

Là gấp đôi của số ba và như thế là điềm lành, thuận lợi. Ba cộng thêm sáu là chín và cùng nhau tạo thành nhóm ba con số may mắn. Một sự bài trí dùng bất cứ đồ vật có 6, 9, 3 món đều tốt cho việc hòa giải những khu vực xấu hoặc những nơi hướng xấu.

Số bẩy (7)

Là con số có sức mạnh kỳ diệu với những nguồn gốc truyền thuyết sâu sắc. Đó là 7 sao và cây gươm 7 sao dùng trong nghi lễ đạo Lão, tượng trưng cho sức mạnh đẩy lùi ma quỷ trong phong thủy, một sự bài trí 7 món đồ vật được ban cho một sức mạnh kỳ bí và một cảm giác của sự bất khả xâm phạm.

Số tám (8)

Cũng là con số có nhiều sự quan hệ tôn giáo, là tám điều bất tử trong đạo Lão và bát chánh trong Phật giáo. Một cửa sổ hình bát giác hoặc bình cắm hoa tám mặt và một bát quái (thường được treo trước ngưỡng cửa) cũng tốt, có thể ngăn chặn những ảnh hưởng xấu trước khi chúng muốn xâm nhập vào nhà.

Số chín (9)

Và cuối cùng là con số chính, là con số hạnh phúc, an lành, thuận lợi. Tiếng Hồng Kông, số chín đồng âm với từ “trường thọ và may mắn”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa những con số trong phong thủy

Ý nghĩa sao Ân Quang - Thuộc chòm sao phúc tinh

Người có Ân Quang bao giờ cũng có thiện tâm, chính tâm, chủ làm lành, không hại ai cho nên ít bị người hại, tin tưởng vào phúc đức và nhân quả.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Ân Quang - Thuộc chòm sao phúc tinh

Ý nghĩa sao Ân Quang - Thuộc chòm sao phúc tinh

Hành: Mộc

Loại: Phúc Tinh

Đặc Tính: Phúc Đức, Trường Thọ

Tên gọi tắt thường gặp: Quang

Là một phụ Tinh. Một trong sao bộ đôi Ân Quang và Thiên Quý. Gọi tắt là bộ Quang Quý. Phân loại theo tính chất là Phúc Tinh. Sao này là sao tốt.

Ý Nghĩa Ân Quang Ở Cung Mệnh:

Tính Tình: Ân Quang thủ hay chiếu mệnh:

Tính nhân hậu, lòng từ thiện, sự hên, may mắn.

Sự thành tín với bạn bè.

Sự hiếu để đối với cha mẹ.

Sự chung thủy với vợ, chồng.

Sự tín ngưỡng nơi đấng linh thiêng, khiếu tụ.

Người có Ân Quang bao giờ cũng có thiện tâm, chính tâm, chủ làm lành, không hại ai cho nên ít bị người hại, tin tưởng vào phúc đức và nhân quả, được thần linh che chở cho một cách vô hình. Đây là sao của những đệ tử nhà Nho, nhà Phật.

Người có Ân Quang thủ mệnh có yếu tố nội tâm để trở thành phật tử hay ít ra là cư sĩ. Ở ngoài đời thì là bậc quân tử, được thiên hạ quý chuộng nhờ đức hạnh xử thế, nhờ thiện tâm sẵn có.

Cùng với Tả Hữu, Thiên Quan quý nhân và Thiên Phúc quý nhân. Ân Quang chủ sự may mắn thịnh đạt, do sự phù trợ của trời, của người trong nhiều công việc. Tất cả các sao kể trên hợp thành một đoàn phúc tinh, ban nhiều lợi ích từ bạn bè, xã hội, người trên, kẻ dưới và linh thần. Đây là người có đức lớn, có hậu thuẫn rộng rãi.

Phúc Thọ Tai Họa:

Ân Quang có nghĩa là giảm bớt nhiều bệnh tật tai họa, đem lại nhiều may mắn và sống thọ. Ân Quang tượng trưng cho phúc đức của trời ban cho, sự che chở của Trời Phật hay Linh Thiêng cho con người, biểu hiện cho sự giúp đỡ của Trời, còn Tả Phù, Hữu Bật biểu hiện cho sự giúp đỡ của người đời.

Ý Nghĩa sao Ân Quang Ở Cung Phụ Mẫu:

Được cha mẹ thương yêu.

Có thể có cha mẹ nuôi đỡ đầu.

Ý Nghĩa sao Ân Quang Ở Cung Phúc Đức:

Sao Ân Quang là phúc tinh, tọa thủ ở cung Phúc Đức rất thích hợp.

Được thần linh che chở, ước gì được nấy, sống thọ, họ hàng đoàn kết, đùm bọc nhau. Khi chết, được người hiến đất chôn cất.

Ý Nghĩa sao Ân Quang Ở Cung Điền Trạch:

Được hưởng di sản (nhà, đất) của tổ phụ, của cha mẹ để lại.

Được người hiến nhà, hiến đất cho ở.

Ý Nghĩa sao Ân Quang Ở Cung Quan Lộc:

Hay giúp đỡ đồng nghiệp, lấy chí thành mà đãi người.

Được thượng hạ cấp quí trọng, nâng đỡ.

Được chỗ làm, nghề nghiệp đúng sở thích.

May mắn trong quan trường, sự nghiệp.

Ý Nghĩa sao Ân Quang Ở Cung Nô Bộc:

Được tôi tớ đắc lực và trung tín.

Có bạn bè tốt quí mến, giúp đỡ tận tình.

Được nhiều thuộc quyền phò tá.

Được nhiều nhân tình thương yêu.

Ý Nghĩa sao Ân Quang Ở Cung Thiên Di:

Sinh phùng thời, được may mắn, hên ở xã hội.

Được xã hội giúp đỡ, quý nhân phù trợ làm nên.

Ý Nghĩa sao Ân Quang Ở Cung Tật Ách:

Ít bệnh tật, tai họa.

Có bệnh thì chóng khỏi, gặp thầy giỏi, thuốc hay.

Ý Nghĩa sao Ân Quang Ở Cung Tài Bạch:

Thường được người giúp đỡ tiền bạc, của cải.

Thường được nhiều may mắn về tiền bạc.

Có thể được hưởng di sản.

Ý Nghĩa sao Ân Quang Ở Cung Tử Tức:

Có con hiếu với cha mẹ và được cha mẹ thương yêu.

Có thể lập con nuôi để làm phúc.

Có sách cho là có con thánh thần.

Ý Nghĩa sao Ân Quang Ở Cung Phu Thê:

Phúc trời cho được thể hiện bằng:

Hôn nhân vì tình.

Vợ chồng hòa thuận và thương yêu nhau, chịu đựng được nghịch cảnh mà lòng dạ sắt son: đó là trường hợp những người biết thủ tiết.

Ở vậy nuôi con, không tục huyền, không tái giá.

Ý Nghĩa sao Ân Quang Ở Cung Huynh Đệ:

Anh chị em hòa thuận và giúp đỡ lẫn nhau.

Có anh nuôi chị em nuôi.

Có thể có anh chị em kết nghĩa.

Tóm lại, sao Ân Quang là sao rất hay về nhiều phương diện, hữu ích cho bất luận cung nào, cho bất luận tai họa hay hỷ sự nào. Những ý nghĩa trên càng chắc chắn hơn, càng có tác dụng mạnh mẽ hơn nếu được thêm phúc tinh khác đi kèm chẳng hạn như:

Tả Phù, Hữu Bật, Tràng Sinh, Đế Vượng, Thiên Giải, Địa Giải, Giải Thần, Hóa Khoa, Thiên Quan, Thiên Phúc, Thiên Thọ, Tứ đức.

Việc tiếp giáp với Ân Quang cũng tốt, tuy không bằng Ân Quang tọa thủ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Ân Quang - Thuộc chòm sao phúc tinh

Các chòm sao nam thích làm tình với kiểu phụ nữ nào?

Bình thường thì đứng đắn nhưng khi thân mật thì 12 chòm sao nam của chúng ta cũng rất biết tình tứ đấy nhé. Cùng xem các chàng trai hoàng đạo thích kiểu quyến
Các chòm sao nam thích làm tình với kiểu phụ nữ nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bình thường thì đứng đắn, đàng hoàng nhưng khi thân mật thì 12 chòm sao nam của chúng ta cũng rất biết tình tứ đấy nhé. Cùng xem các chàng trai hoàng đạo thích kiểu quyến rũ nào.


Cac chom sao nam thich lam tinh voi kieu phu nu nao hinh anh
 
Bạch Dương
  Chủ động, trực tiếp và nhiệt tình, chòm sao nam cuồng nhiệt như Bạch Dương luôn thích những điều hấp dẫn, cuốn hút, mới mẻ. Nên chẳng cần phải chuẩn bị cầu kì làm gì, chỉ cần có cảm xúc là mọi sự thuận theo tự nhiên, bất cứ cô nàng nào khơi dậy được sự đam mê của Bạch Dương là cuộc vui bắt đầu.
Kim Ngưu   Chòm sao nam Kim Ngưu rất chú trọng tới tư thái cùng dáng vẻ nên người có thể gây hứng thú cho chàng ta chắc chắn phải là cô gái có khuôn mặt đẹp, khí chất tốt, hiền lành thùy mị.   Song Tử   Trong 12 chòm sao nam thì Song Tử đặc biệt thích cảm giác mới mẻ nên những người trái dấu thường thu hút họ. Đó là cô nàng đặc biệt hiền lành hay quá mức mãnh liệt, chưa có kinh nghiệm hay chinh chiến tình trường đã lâu đều được.   Cự Giải   Ngược lại, Cự Giải thích sự quen thuộc, chòm sao nam này luôn muốn có cảm giác an toàn và ấm áp nên nhất định phải qua tìm hiểu kĩ càng mới có thể tiến tới chuyện phong hoa tuyết nguyệt.
3 cô nàng hoàng đạo càng lớn tuổi càng hấp dẫn 5 chòm sao nam dại gái nhất vòng tròn hoàng đạo 5 cô nàng hoàng đạo thích mê nụ hôn cuồng nhiệt

Sư Tử
  Người phụ nữ biết ca ngợi và dựa dẫm vào Sư Tử là tuyệt nhất, cả khi yêu đương lẫn khi thân mật tình tứ. Đừng quá chủ động nhưng cũng đừng quá nhút nhát, Sư Tử rất thích những cô nàng biết tiến biết lui.   Xử Nữ   Yêu cầu an toàn của Xử Nữ cực kì cao nên trong bất kì tình huống nào, họ chỉ thân mật với người phụ nữ được pháp luật thừa nhận, danh chính ngôn thuận mà bên nhau.   Thiên Bình   Không khí, âm nhạc, rượu ngon là những thứ không thể thiếu trong cuộc vui của Thiên Bình, họ thích những cô gái hơi có chút e thẹn, phong nhã.   Thiên Yết   Theo đuổi thân mật cực đoan, cảm giác chinh phục nên Thiên Yết thích phụ nữ gợi cảm, có thể dễ dàng khơi gợi cảm xúc nguyên thủy của họ.   Nhân Mã   Tùy tâm tùy tính, Nhân Mã là chàng trai hoàng đạo có thể thể hiện cảm xúc thân mật ở bất kì đâu với một cô nàng nóng bỏng, hoang dã.
Cac chom sao nam thich lam tinh voi kieu phu nu nao hinh anh
 
Ma Kết
  Có lập trường và thích an toàn, Ma Kết rất thích những cô nàng chuẩn mực và biết cách ca ngợi.   Bảo Bình   Tính cách của Bảo Bình hướng họ tới những cô nàng mạnh mẽ, phóng khoáng và sexy hết cỡ. Đó là những người có thể cùng Bảo Bình sáng tạo những cuộc thân mật đỉnh cao.
Song Ngư   Yêu và yêu là yếu tố tiên quyết mà chàng trai Song Ngư yêu cầu, đừng quá chủ động cũng đừng quá cứng nhắc, thật tự nhiên và thoải mái là được.
Bật mí 4 chòm sao nam cực siêu chuyện chăn gối
Trình Trình

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các chòm sao nam thích làm tình với kiểu phụ nữ nào?

Xem tướng móng tay theo Đông y –

Đông y cho rằng khi cơ thể bị bệnh thì móng tay sẽ thay đổi. Điều này phù hợp với quan điểm “thường biến” và “đột biến” tướng pháp về móng tay. Móng tay thay đổi bất thường về hình dạng, màu sắc, cấu trúc khi cơ thể mắc một số bệnh. Ví dụ: - Vết trắn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đông y cho rằng khi cơ thể bị bệnh thì móng tay sẽ thay đổi. Điều này phù hợp với quan điểm “thường biến” và “đột biến” tướng pháp về móng tay.
Móng tay thay đổi bất thường về hình dạng, màu sắc, cấu trúc khi cơ thể mắc một số bệnh. Ví dụ:

ptg00831901

– Vết trắng: Cơ thể thiếu kẽm, bệnh gan hoặc thận.
– Móng giòn dễ gãy: Cơ thể thiếu sắt, móng sẽ phẳng hoặc cong vểnh lên bệnh ở thận.
– Móng vàng: Bệnh phế quản mạn tính.
– Móng trắng đục: Bệnh sơ gan.
– Móng tay xanh: Cơ thể nhiễm độc đồng hay kim loại bạc.
– Móng tay bị bong da ở cuống móng: Bệnh cường tuyến giáp.
– Móng bị phình to ra do bệnh tim phổi. Vì thiếu oxy đã lâu.

Mặt khác móng tay bị “đột biến” do đang dùng lâu ngày các thuốc. Móng biến sang màu xanh vàng: Thuốc sốt rét.
– Móng có vệt trắng chạy ngang: Thuốc ức chế tăng sinh.
– Móng có màu nâu: Thuốc tetracilin…

Như vậy khi hình dạng móng do bệnh ngũ tạng, do nấm móng hay do thuốc thì phải lưu ý về mặt tướng pháp để xét tính cách con người. Ví dụ:

– Móng hình tam giác cụt: Dấu hiệu người nóng nảy, hay gây sự và bản tính cô” chấp.
– Móng tay hình thang (dưới to trên đầu nhỏ): Dấu hiệu óc tưởng tượng quá thái (bệnh hoang tưởng).

Nếu dưới nhỏ trên to: Tính kín đáo, dè dặt, cứng cỏi và tự trọng cao.

– Móng cứng: Tính nóng.
– Móng quắp: Tính ích kỷ, tham lam, ganh tỵ.
– Móng đục màu, dày, bề ngang rộng: Tính nghi kỵ, xảo quyệt.
– Móng hồng: Tính nóng nảy, hăng hái.
– Móng bóng láng: Tư cách lịch sự, thanh nhã.
Như vậy xem tướng móng tay cần thận trọng lắm mới được. Ta cứ xem trên móng khi biết chắc chắn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng móng tay theo Đông y –

Mơ thấy châu chấu: Nơi ở sẽ xuất hiện bệnh truyền nhiễm –

Châu chấu bay đến đâu, nơi đấy không còn màu xanh sự sống, tượng trưng tốc độ lan nhanh của bệnh truyền nhiễm. Mơ thấy châu chấu bay thành đàn, có nghĩa là nơi ở sẽ xuất hiện bệnh truyền nhiễm. Mơ thấy châu chấu bị tiêu diệt, nghĩa là bệnh truyền nhi
Mơ thấy châu chấu: Nơi ở sẽ xuất hiện bệnh truyền nhiễm –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy châu chấu: Nơi ở sẽ xuất hiện bệnh truyền nhiễm –

Thạch anh tóc vàng mang ý nghĩa gì –

Thạch anh tóc vàng - viên đá quý nhất trong họ hàng thạch anh. Ý nghĩa của thạch anh tóc vàng là biểu tượng của sự phát triển, sinh sản, sự thịnh vượng, thăng tiến, giúp chủ nhân thăng hoa trong đường tình duyên, hạnh phúc lứa đôi được yên ấm, bền vữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thạch anh tóc vàng – viên đá quý nhất trong họ hàng thạch anh. Ý nghĩa của thạch anh tóc vàng là biểu tượng của sự phát triển, sinh sản, sự thịnh vượng, thăng tiến, giúp chủ nhân thăng hoa trong đường tình duyên, hạnh phúc lứa đôi được yên ấm, bền vững. Bài viết sau tìm hiểu Thạch anh tóc vàng mang ý nghĩa gì?

Nội dung

  • 1 Thạch anh tóc vàng là gì
    • 1.1 Độ cứng Thạch anh tóc vàng
  • 2 Đánh giá chất lượng vòng thạch anh tóc vàng qua hiệu ứng quang học tóc vàng kim
  • 3 Tiêu chí đánh giá chất lượng vòng tay thạch anh tóc vàng
    • 3.1 Tiêu chuẩn về màu sắc
    • 3.2 Tiêu chuẩn về độ trong
    • 3.3 Tiêu chuẩn về kiểu cắt
  • 4 Ý nghĩa của thạch anh tóc vàng
    • 4.1 Ý nghĩa phong thủy
    • 4.2 Ý nghĩa mặt tâm linh và tôn giáo
    • 4.3 Ý nghĩa sức khỏe

Thạch anh tóc vàng là gì

Thạch anh tóc vàng thực chất là một biến thể của họ đá thạch anh (họ nhà thạch anh được phân ra làm nhiều loại như thạch anh hồng, thạch anh tím, thạch anh tóc v.v…). Chúng là đá thạch anh nhưng có lẫn các tinh thể ru-tin, các tinh thể ru-tin này hình giống như những sợi tóc, nên còn được gọi là tinh thể tóc. Tên khoa học của thạch anh tóc vàng là Rutilated Quartz.

Độ cứng Thạch anh tóc vàng

Thạch anh tóc vàng có độ cứng là 7/10 (tính theo thang độ cứng Mohs). Như vậy, chúng là loại đá rất bền, không ngại va chạm mạnh, khó vỡ hơn hầu hết các loại đá tự nhiên khác.

Đánh giá chất lượng vòng thạch anh tóc vàng qua hiệu ứng quang học tóc vàng kim

Một chiếc vòng tay thạch anh tóc vàng có đẹp hay không. Điều kiện quan trọng nhất là hiệu ứng quang học ánh kim (tóc vàng kim) của chúng. Vậy hiệu ứng quang học ánh kim này là gì?

Những sợi tóc (ru-tin) có một đặc điểm rất thú vị, đó là dưới ánh sáng ban ngày hoặc ánh đèn điện neon, chúng sẽ phản quang và phát ra những tia sáng lấp lánh như những thỏi vàng 18k. Người ta gọi hiệu ứng này là “hiệu ứng quang học ánh kim” hay “hiệu ứng quang học tóc vàng kim”.

Tùy vào đặc tính của sợi tóc ru-tin như sợi tóc mỏng hay dày, vàng đậm hay vàng nhạt, có lẫn tạp chất hay không v.v…, mà ánh sáng phản quang sẽ có mức độ “lung linh” khác nhau. Vì vậy, khi chọn một chiếc vòng thạch anh tóc vàng, bạn hay lưu ý đặc điểm này. Bằng mắt thường của mình, đưa chiếc vòng ra ánh sáng, hoặc rọi dưới ánh đèn, sau đó quan sát mức độ “lung linh” của chúng để xác định hiệu ứng quang học.

Tiêu chí đánh giá chất lượng vòng tay thạch anh tóc vàng

Các chuyên gia về trang sức đưa ra 3 tiêu chuẩn chung để đánh giá chất lượng một chiếc vòng tay thạch anh tóc vàng, bao gồm: tiêu chuẩn về màu sắc, tiêu chuẩn độ trong và tiêu chuẩn kiểu cắt

Tiêu chuẩn về màu sắc

Hay nói cách khác, một chiếc vòng tay thạch anh tóc vàng có màu sắc như thế nào là đạt tiêu chuẩn? Một chiếc vòng nhìn tổng quát bằng mắt thường có màu sắc vàng đều, hài hòa cân đối, không nhạt quá, các sợi ru-tin không có sắc nâu là đạt tiêu chuẩn về màu sắc. Tuy nhiên, nếu màu vàng đậm mà tươi, sáng sẽ được đánh giá cao hơn hẳn.

Tiêu chuẩn về độ trong

Cũng giống như nhiều loại đá khác, một chiếc vòng thạch anh tóc vàng cũng được đánh giá qua tiêu chuẩn độ trong. Các hạt đá khi quan sát bằng mắt thường không có các tạp chất, bọt khí, có thể nhìn xuyên qua, trong như pha lê thì có thể đã đạt đến tiêu chuẩn 4A. Nếu kỹ hơn, dùng kính lúp soi kỹ viên đá, cũng không phát hiện tạp chất thì sản phẩm đó có thể đạt tiêu chuẩn là 5A.

Những sản phẩm vòng thạch anh tóc vàng đục, có nhiều tạp chất, thường không được đánh giá cao nên giá thành sẽ rẻ hơn rất nhiều.

Tiêu chuẩn về kiểu cắt

“Tiêu chuẩn về kiểu cắt” là một thuật ngữ trong ngành trang sức đá quý. Nói đơn giản, là khi quan sát chiếc vòng đá thạch anh tóc vàng, quan sát các hạt đá, có tròn đều hay không và có bị méo mó hay không. Tiêu chuẩn về kiểu cắt của một chiếc vòng thạch anh tóc vàng chất lượng phải là tròn đều, bề mặt được mài dũa sáng bóng, người nghệ nhân khi mài phải làm sao để bề mặt đá hấp thụ được ánh sáng nhằm phát huy tối đa hiệu ứng quang học ánh kim.

Ý nghĩa của thạch anh tóc vàng

Ý nghĩa phong thủy

Ý nghĩa đầu tiên của thạch anh tóc vàng được các chuyên gia phong thủy chứng minh chính là năng lượng phát triển mạnh mẽ của loại đá quý này. Thạch anh tóc vàng hợp với mệnh Kim, mệnh Thổ bởi chúng có màu vàng.

Kết tinh tinh khí trong đất trời từ hàng nghìn năm, năng lượng trong thạch anh tóc vàng có khả năng mang lại cho con người cảm giác sảng khoái, tinh thần minh mẫn, suy nghĩ lạc quan và tích cực hơn. Đồng thời, chúng cũng giúp chủ nhân thăng hoa trong đường tình duyên, hạnh phúc lứa đôi được yên ấm, bền vững.

Năng lượng của thạch anh tóc vàng có hiệu quả nhất trong việc tập trung trí óc, thúc đẩy hoạt động năng nổ, rất thích hợp với người làm việc kinh doanh, nghiên cứu khoa học và sáng tạo.

Đặc biệt, chiếu theo luật ngũ hành, thạch anh tóc vàng là viên đá của những người mệnh Thổ. Theo đó, chúng sẽ bảo vệ chủ nhân mệnh Thổ khỏi những tai họa, mang lại may mắn và giữ họ luôn khỏe mạnh, tránh xa mọi bệnh tật, đau khổ.

Ý nghĩa mặt tâm linh và tôn giáo

Không chỉ mang ý nghĩa phong thủy sâu sắc, trong lĩnh vực tôn giáo và tâm linh, thạch anh tóc vàng bã mía cũng đem lại những tác dụng nhất định. Người ta tin rằng loại đá quý này có khả năng kết nối giữa sự sống và linh hồn đồng thời giải mã bí ẩn của những giấc mơ.

Theo quan niệm tâm linh của phương Đông, loại đá này toát ra trường năng lượng chống lại ám khí, xua tan những điều không may mắn. Đối với người phương Tây, thạch anh tóc vàng lại giúp chống bùa ngải và xua đuổi ma quỷ.

Ngoài ra, tác dụng mầu nhiệm và ý nghĩa của thạch anh tóc vàng còn được nhận đinh bởi các chuyên gia trị liệu, các thiền sư và những người làm việc trong lĩnh vực tâm linh, tôn giáo. Theo đó, những người tập yoga chuyên nghiệp cho rằng thạch anh tóc vàng có khả năng kích thích não bộ, cải thiện hệ thống tiêu hóa, giúp họ tập trung cao độ, cân bằng giác quan và thu hút được nguồn năng lượng của vũ trụ ví vậy họ thường chọn mua những mẫu vòng tay thạch anh. Trong khi đó, các thiền sư thường kết hợp sử dụng loại đá quý này khi thiền định để đạt được cảnh giới cao hơn trong quá trình tập luyện.

Ý nghĩa sức khỏe

Theo các tài liệu nghiên cứu về tâm thần học, thạch anh tóc vàng có ý nghĩa rất tích cực trong việc điều trị các vấn đề về tâm thần và chứng mất trí nhớ. Đồng thời, loại đá này còn góp phần làm giảm sự lo lắng, tăng cường khả năng tập trung, sự quyết đoán, lòng dũng cảm trong cuộc sống. Thường xuyên đoe trang sức có gắn thạch anh tóc vàng sẽ giúp giảm bớt sự cô đơn, hỗ trợ điều trị chứng trầm cảm, lấy lại sự lạc quan và niềm vui trong cuộc sống.

Một số chuyên gia thôi miên cũng sử dụng thạch anh tóc vàng để giúp người bệnh thoát khỏi những ám ảnh về lỗi lầm trong quá khứ đồng thời điều hào cảm xúc tốt hơn, khiến họ được giác ngộ và tìm ra chân lý cuộc đời.

Các nhà khoa học cũng đá tìm ra tác dụng của thạch anh tóc vàng trong việc điều trị chứng rố loạn tiêu hóa, phục hồi sinh lực, tăng cường chức năng cho hệ miễn dịch, điều hòa hệ hô hấp, ổn định huyết áo và hỗ trợ hấp thụ dinh dưỡng tốt hơn. Từ xa xưa, những người La Mã đã biết dùng loại đá quý này để trị các bệnh liên quan đến tiêu hóa, dạ dày và bệnh thận hiệu quả.

Mặt khác, ý nghĩa của thạch anh tóc vàng còn được chú ý đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh. Chúng giúp những người thiếu quyết đoán trở nên sáng suốt và tỉnh táo hơn trước những lời dụ dỗ ngon ngọt của các nhân viên bán hàng. Đồng thời giúp họ không bị lọc lừa hay lợi dụng để làm lợi cho đối thủ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thạch anh tóc vàng mang ý nghĩa gì –

Phân tích bổ mệnh

Một bài viết hay về phương thức bổ mệnh, cải vận hữu ích. Mời các bạn cùng đọc.
Phân tích bổ mệnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trời sụp có thể vá, xưa có thuyết Nữ Oa vá trời

Áo rách có thể vá, do có thợ hàn nối

Tình cảm đổ vỡ có thể hàn gắn, do có thuyết "gương vỡ lại lành"

Mệnh không tốt có thể bổ cứu.

Vì sao mệnh có thể bổ cứu?

Vậy phương pháp bổ mệnh như thế nào?

Người xưa dạy chúng ra rằng: "Bán bần bổ mệnh".

Nguyên lý đơn giản, chỉ có điều khó có thể thực hiện được.

Ví dụ: Bạn lâm vào tình cảnh nghèo khó, thậm chí trong tay chỉ có 2 chiếc bánh ăn không đủ no. Có một người đi đến xin bạn 1 chiếc, bạn tức giận nói: "Tôi chỉ có 2 chiếc, ăn còn không đủ no, sao có thể cho được?".

Lời nói không sai, nhưng sau khi bạn ăn xong 2 chiếc bánh cũng chỉ khoảng 3 tiếng sau là lại đói. Nếu lúc đó, bạn không do dự cho đi 1 chiếc bánh, ông trời thấy bạn là người nhân từ biết đâu sẽ ban cho bạn thật nhiều bánh và không bao giờ lo bị đói nữa.

Phương pháp này tuy đơn giản nhưng không phải ai cũng làm được. Có rất nhiều người nói rằng "đợi tôi phát tài, tôi sẽ làm việc thiện". Việc thiện không phải là chỉ có tiền mới làm được, làm việc thiện phải gặp dịp. Khi cơ hội làm việc thiện đến nhưng bạn lại bỏ lỡ, cho dù bạn có lòng bù đắp cũng đã không kịp nữa.

Câu chuyện dưới đây có thể sẽ cho bạn sự gợi ý sâu sắc.

Thời nhà Minh cố 3 tú tài là Trương Đại Lang, Lý Nhị Lang và Ngô Tam Lang cùng lên kinh ứng thí. Khi đi đến Hàng Châu họ nghe nói có một vị được mệnh danh là Trại Gia Cát xem tướng giỏi và chính xác liền cùng nhau đến tìm xem tướng. Trại Gia Cát nói: lần lên kinh ứng thí này có 2 người đỗ đạt cao, duy có cậu (chỉ tay vào Ngô Tam Lang) không những không đỗ mà e rằng sẽ gặp họa trên đường đi mà vong mạng.

Ngô Tam Lang sợ hãi hỏi: "Vậy tôi phải làm thế nào?"

"Hãy lập tức quay về, may ra sẽ được chết ở quê nhà". Người xưa kỵ nhất chết nơi đất khách quê người, nghĩ vậy Ngô Tam Lang đành phải quay ngựa ngày đêm không nghỉ để về nhà.

Một hôm, khi đi qua một con suối, Ngô Tam Lang gặp một người phụ nữ mang thai, trên lưng cõng một đứa bé chừng 3-4 tuổi muốn nhảy xuống nước tự sát. Ngô Tam Lang vội vã hỏi tại sao lại làm như vậy? Người phụ nữ nói rằng bố chồng đưa cho cô một đĩnh bạc, bảo đi mua gạo. Ông chủ bán gạo nói đó là đĩnh bạc giả. Nếu cô không mua được gạo về chắc chắn sẽ bị bố chồng đánh đập hành hạ, quẫn trí nên cô muốn nhảy xuống nước tự sát.

Sau khi nghe xong Ngô Tam Lang liền bảo "Chị hãy đưa bạc cho tôi xem thử!". Sau khi xem đĩnh bạc, Ngô Tam Lang nói: "Tôi thấy đĩnh bạc này không phải là giả. Chị hãy đến một tiệm gạo khác mua thử xem sao! Nếu ông chủ nói là bạc giả thì chị quay lại đây tự sát cũng chưa muộn!". Người phụ nữ nghe lời Ngô Tam Lang mang bạc đi mua gạo.

Ngô Tam Lang đi một chặng đường dài, mệt mỏi muốn tìm chỗ nghỉ ngơi. May mắn bên đường có một ngôi đình hóng mát liền xuống ngựa vào nghỉ và ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Bỗng nhiên Ngô Tam Lang nghe thấy có người gọi to tên mình, giật mình tỉnh giấc chạy ra ngoài nhìn xung quanh nhưng không thấy một bóng người. Ngô Tam Lang nghĩ rằng có thể là mình nằm mơ, định quay lại ngôi đình nằm nghỉ tiếp. Lúc này ngôi đình hóng mát bỗng nhiên đổ sụp xuống. Ngô Tam Lang hoảng sợ nghĩ lại nếu như ban nãy không có người gọi mình tất sẽ bị đè chết. Anh chàng tú tài thông minh biết rằng bản thân đã qua được kiếp nạn nên vội vàng quay lại kinh ứng thí. Đi đến Hàng Châu lại tìm đến Trại Gia Cát hỏi rằng: "Tôi đã thoát khỏi kiếp nạn, nay có thể tiếp tục lên kinh ứng thí được không?".

Trại Gia Cát kinh ngạc nói: "Cậu không những có thể được đề tên bảng vàng, sau này còn được hưởng phú quý, trường thọ. Chỉ mới có mấy, ngày mà tướng của cậu lại có sự thay đổi nhanh như vậy, ta thật không hiểu nổi. Không biết mấy ngày gần đây cậu có làm việc thiện nào không?".

Sau khi suy nghĩ hồi lâu, Ngô Tam Lang đem câu chuyện gặp người phụ nữ mang thai muốn tự sát kể lại cho Trai Gia Cát nghe và nói rằng vì muốn cứu mẹ con người phụ nữ đó nên đã ngầm tráo đổi đĩnh bạc.

"Vậy là đúng rồi! Cậu một lần đã cứu sống 3 mạng người, chẳng trách có chuyện kỳ lạ như vậy. Chúc mừng cậu! Lần này chắc chắn cậu sẽ đứng đầu bảng vàng, vinh hoa phú quý, hưởng thọ thiên thu".

Câu chuyện trên nói rõ một điều rằng, làm việc thiện phải có cơ duyên. Nếu bạn cầm 10 lạng hay thậm chí 100 lạng bạc đi cứu tế người khác cũng không bằng 1 đĩnh bạc có thể cứu 3 mạng người.

Nếu đổi là bạn, bạn có đồng ý đem bạc thật đổi lấy bạc giả không. Bạn thừa thông minh biết rằng nếu làm như vậy là ngốc nghếch. Nhưng bạn cũng nên biết ràng, cứu người như cứu hỏa, không thể chần chừ do dự.

Do đó, hành thiện người người đều biết, nhưng chỉ có điều đôi khi bạn bị chính trí thông minh của mình làm lỡ mất cơ hội.

Trong xã hội ngày nay, nhiều người bị chính trí thông mình của mình lừa gạt, kết quả làm những việc thân bại danh liệt, điều này trách ai đây? Lẽ nào trách mệnh?

Có người bị cổ phiếu cầm tù, có người bị bất động sản chi phối có người thì lại bị sự nghiệp, công xưởng cuốn vào vòng quay bất tận...

Nếu bạn hỏi họ: "Vì sao lại bị trói buộc như vậy?". Lúc đầu, chính là vì họ quá thông minh, muốn phát tài. Nếu đem tiền đi gửi ngân hàng đâu có bị rơi vào cảnh như vậy. Nhưng họ sẽ tự hỏi rằng: "Gửi tiền ngân hàng liệu sinh được bao nhiêu tiền lãi?".

Đúng là: Tự cho mình là thông minh, tự rơi xuống hố do mình đào lên, thật đáng tiếc vậy.

Bất luận mệnh tốt hay xấu, bổ cứu như thế nào nhưng khi đại nạn đến, số kiếp là điều khó tránh. Nếu không mọi người đều tìm cách bổ cứu hết, thế gian nào có sự việc bi thảm?

Tóm lại, đạo bổ mệnh chỉ có thể tìm trong sự sửa chữa sai lầm của chính bản thân mình, đi vào quỹ đạo chính xác, hoặc có thể tránh được đại họa, khiến cho bản thân có được cuộc sống bình thường, hạnh phúc, vui vẻ, Cũng có khi là được xem thế giới biến đổi thế nào, nhìn thấy con cháu ngày trưởng thành, hy vọng được yên lòng nhắm mắt xuôi tay, rời xa người thân, về nơi Tây phương.

Mệnh lý không thể không tin, nhưng cũng không nên quá mê tín. Mê tín khiến cho bản thân mê lầm mà mất đi ý chí kiểm soát.

Con người nếu biết được mệnh của mình không tốt mà có thế tránh xa điều xấu, không làm việc ác, nếu có gặp hung họa cũng không đến nỗi gây họa dẫn đến vong mạng. Nguyên nhân là do được ông trời phù hộ, hoặc chư thần bảo vệ, Bồ Tát siêu độ.

Người biết mệnh mình tốt lại ỷ vào gia thế hiển hách, cậy tiền cậy thế, không từ thủ đoạn làm việc ác, coi người khác không ra gì, làm cho người người phẫn nộ rằng gặp điềm cát cũng không phải là tốt, nhất là đề phòng vui quá hóa buồn, cuối cùng tất sẽ gặp báo ứng

Trời có đạo trời, thần có đạo thần, ai dám hành sự trái với đạo trời sẽ chẳng thể lộng hành được lâu.

(Bát tự luận đoán tuần hoàn - Phan Tử Ngư)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phân tích bổ mệnh

Ý nghĩa sao Điếu Khách - Là một bại tinh

Sao Tử Vi gặp sao Điếu khách: Thiên về nam khách, khách bí mật, khách bao che, bao che cho khách, trách nhiệm với khách. khách gánh vác trách nhiệm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Điếu Khách - Là một bại tinh

Ý nghĩa sao Điếu Khách - Là một bại tinh

Hành: Hỏa

Loại: Bại Tinh

Đặc Tính: Phá hoại tài sản, bệnh tật, tang tóc (nhỏ), thích chơi bời, cờ bạc, hay nói, khoe khoang, khoác lác, khinh người

Tên gọi tắt thường gặp: Khách

Là một phụ tinh. Sao thứ 11 trong 12 sao thuộc vòng sao Thái Tuế theo thứ tự: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức, Điếu Khách, Trực Phù. Thuộc bộ hay cách Mã Khốc Khách (Thiên Mã, Thiên Khốc, Điếu Khách).

Ý Nghĩa Của Sao Điếu Khách trong lá số tử vi:

Hay nói, nói năng không giữ lời - hay khoe, khoác lác (như Lâm Quan) - khinh người - liến thoắng, ham chơi đặc biệt là mê cờ bạc - chủ bệnh tật, đau yếu, tai nạn, hao tài, tang khó

Liếng thoắng, ham chơi đặc biệt là mê cờ bạc.

Ý nghĩa sao Điếu Khách  ở các cung:

Ở Mệnh, Quan: Khách, Phá Toái, Tuế Phá: du đãng, cờ bạc, phóng đãng - Khách, Quan Phù : cờ bạc - Khách, Khốc, Mã: gặp thời vận tốt

Ý Nghĩa sao Điếu Khách Ở Cung Quan Lộc:

Công danh hay gặp trắc trở, nay đây mai đó.

Gặp các sao Thiên Mã, Thiên Khốc thì làm nên.

Ý Nghĩa sao Điếu Khách Ở Cung Tật Ách:

Hay gặp tai nạn té ngã, chuyện phiền lòng.

Gặp các sao Tang Môn, Hóa Kỵ, tự sát.

Ý Nghĩa sao Điếu Khách Ở Cung Tài Bạch:

Tài lộc ra vào thất thường, không ổn định.

Điếu Khách Khi Vào Các Hạn:

Điếu Khách gặp Tang: Thường có tang.

Điếu Khách gặp Hỏa: Tang nhỏ, tang xa.

Sao Điếu Khách có tác dụng chế hóa Hỷ Thần, làm cho Hỷ Thần mất giá trị.

Các bộ sao khi đi cùng sao Điếu Khách:

Sao Tử Vi gặp sao Điếu khách: Thiên về nam khách, khách bí mật, khách bao che, bao che cho khách, trách nhiệm với khách. khách gánh vác trách nhiệm.

Liêm Trinh - Điếu khách: Thiên về nữ khách. Khách dò xét, theo dõi. Còn chủ khách thâm giao, khách lâu dài. Còn chủ số làm viễn khách dài lâu.

Vũ Khúc - Điếu Khách:  Khách qua đường, khách không thâm giao. Kỵ gặp thêm KÌNH CÔ QUẢ khách chủ dễ xung đột mâu thuẩn vì tài sản. Khách tham nhũng, khách hỏi thăm tài sản

THAM VŨ đóng đất Võng La. Gặp loài TANG ĐIẾU một nhà càng hung

Thiên Phủ - Điếu Khách: Khách già, còn chủ nhiều khách, đông khách. Lợi cho những người làm các công việc liên quan đến người già như lão khoa.

Thiên Tướng - Điếu Khách: Khách chủ tương trợ lẫn nhau,  Khách đi xem, khách xem xét. Khách nhờ cậy tương trợ.

Phá Quân - Điếu Khách:  Khách bỏ đi hoặc bỏ khách. Khách quậy phá. Cá biệt là gắn bó, khách gắn bó… Hợp với những người chinh chiến, viễn chinh đi thám hiểm… Bỏ, thôi không còn thăm viếng nửa. Nhưng trước đó thường hay thăm viếng.

Rất kỵ gặp thêm Hung Sát tinh. Thất Sát - Điếu Khách: Mất khách. Hoặc đoạt khách giành khách. Còn chủ khách chiếm đoạt. Khách chạy làng đưa đến mất khách. … Hợp với những người chinh chiến, viễn chinh đi thám hiểm… vì công việc của họ là khám phá. Rất kỵ gặp thêm Hung Sát tinh. Tham Lang - Điếu Khách: Trung niên khách, thiên về nam khách. Khách thăm dò tìm hiểu, khách do thám. Khách tham nhũng, khách bày tỏ lòng ham muốn. Thiên Cơ - ĐiếU Khách:  Khách hiền. Khách cật vấn. Khách đi một mình. Lợi cho công việc tư vấn. Thiên Đồng - Điếu Khách:  Khách trẻ con . Khách đi đôi, đi cặp. Kinh doanh, dịch vụ có liên quan đến trẻ con cần gặp khách này. Cùng với khách… như cùng đi, cùng vui chơi với khách… như trong các dịch vụ hướng dẫn du lịch. Thiên Lương - Điếu Khách: Khách hiền. Khách lương thực. Mua bán lương thực thực phẩm cần gặp khách nầy. Thái Dương - Điếu Khách:  Nam khách. Khách công khai. Khách ban ngày, Khách công khai là gì? Đó là những người tự nhiên mà đến để mua bán, coi, xem, được mời để tham gia, tham sự việc gì đó. Thái Âm - Điếu Khách: Nữ khách. Khách âm thầm. Khách ban đêm. Khách âm thầm là gì? Cũng đến để mua bán...nhưng âm thầm lặng lẽ. Mua bán cái gì  không ai biết. Cự Môn - Điếu Khách: Khách có đệ tử đồng môn bè bạn đi theo. Khách phản đối hay cãi. Rất kỵ gặp thêm Hung Sát tinh. Sao Tuần Gặp Sao Khách: Khách đến, còn chủ tôn trọng khách. Khách quan trọng. Khách trung thành. Triệt gặp Khách:  Khách ra về, còn chủ xem thường khách. Tốt là Khách quý được miễn trừ, khách ngoại lệ. Thiên khôi gặp sao Khách: Khách quí, Khách cũ. Rất kỵ gặp HÌNH lại có thêm KỴ. Thiên Việt gặp Khách: Khách mới. Khách quí. Rất kỵ gặp HÌNH lại có thêm KỴ. Kình Dương gặp Khách: Đi với Hỉ tinh khách khen ngợi. Đi với Kị tinh, HÌNH tinh, Thị phi tinh, CỰ, PHÁ xung đột với khách. Khách nầy hợp với chiến binh. Còn chủ nghênh đón khách. Thượng khách. Khách ngồi trên. Đà La gặp Khách:  Chủ lôi kéo khách. Hướng dẫn khách. Xấu là Cản trở khách. Nghênh đón khách. Xấu ta không nên đi làm khách. Khách hạng hai. Kỵ gặp  Kị tinh, Hình tinh, Thị phi tinh, Cự, Phá xung đột với khách. Hợp với chiến binh. Lộc Tồn gặp Khách: Một sao hỏi thăm, một sao thăm viếng. Tính chất thăm hỏi cực mạnh. Lộc tồn thiên về hỏi thăm có còn đó không? Có mạnh khỏe không, vì trong lòng LỘC TỒN tồn tại nỗi nhớ nhung nên vấn an. Sao Điếu Khách thiên về chia xẻ nỗi buồn khi có sự cố. Khách tồn tại, khách lâu dài. Lực Sỹ gặp Khách: Khách đợi chờ. Đợi chờ khách. Kẻ đợi chờ. Đường Phù gặp Khách: Khách công đường. Kỵ gặp nhiều sao quan sự lại thêm xung đột dễ làm khách của ông quan tòa. Khách dụ dỗ, thổi phồng. Sao Lưu ĐIẾU KHÁCH chú ý các trường hợp lưu sao Khách nhập tại Điền, Tài nếu tại đó có sẵn Sát tinh dễ gặp khách không mời mà đến là đạo chích. Để tiện cho bạn nghiên cứu, hôm nay treo tấm hình các sao lưu động năm Kỷ Sửu. Đại Hao gặp Khách:  Chủ nhiều khách, khách lớn, khách quan trọng. Trao đổi với khách. Đây là cách mua bán quan trọng. Mua bán vật quan trọng có KHÔI (tùy theo tâm trạng vật đó là báu vật, đất đai, nhà cửa. Có giá trị khi có VŨ KHÚC.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Điếu Khách - Là một bại tinh

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd