Tục xưa ít biết về ngày Tết Đoan Ngọ trong văn hóa của người Việt
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Sinh ngày Tý: Người tuổi Tỵ sinh ngày này có sao Tử Vi chiếu mệnh, cuộc đời nhiều may mắn, mọi sự thuận lợi. Tuy có nạn nhưng không bị tổn hại lớn.
![]() |
(Ảnh minh họa) |
Sinh ngày Sửu: Được sao Hoa Cái chiếu mệnh nên là người hiền thục, thông minh, có năng lực trong lĩnh vực kỹ thuật và nghệ thuật. Tuy nhiên, bị sao Bạch Hổ chiếu mệnh nên phải thận trọng trong mọi chuyện.
Sinh ngày Dần: Là người khỏe mạnh, có số may mắn, mưu sự đều thành, kinh doanh phát đạt.
Sinh ngày Mão: Số ít may mắn, hay gặp khó khăn, trở ngại, buồn nhiều hơn vui.
Sinh ngày Thìn: Sinh vào ngày này là người hay lo nghĩ nhưng gia đình êm ấm. Đề phòng mắc bệnh kinh niên.
Sinh ngày Tỵ: Là người có cuộc sống không yên ổn, thành đạt muộn. Bị sao Chỉ Bối chiếu mệnh, cần thận trọng trong việc kết giao bạn bè.
Sinh ngày Ngọ: Người tuổi Tỵ sinh giờ này có số vui vẻ. Tuy có lúc gặp chuyện buồn phiền nhưng được sao Thái Dương chiếu mệnh nên gặp hung hóa cát.
Sinh ngày Mùi: Sinh vào ngày này số phận không thuận lợi, gia đình thường không hòa thuận.
Sinh ngày Thân: Là người ít may mắn, hay gặp chuyện tranh cãi, may được quý nhân phù trợ nên vận xui được hóa giải.
Sinh ngày Dậu: Nhờ có sao Thiên Tướng chiếu mệnh nên số có địa vị, quyền lực, tiền của dồi dào, buôn bán phát đạt, mọi việc thuận lợi.
Sinh ngày Tuất: Số phải bôn ba, vất vả và ít gặp may mắn. Sức khỏe không tốt nhưng nhờ sao Nguyệt Đức chiếu mệnh nên có bệnh sẽ khỏi.
Sinh ngày Hợi: Người sinh ngày này bị sao Dịch Mã chiếu mệnh nên cuộc đời thiếu ổn định, thường nay đây mai đó, gặp nhiều vất vả.
(Theo Nhân duyên & tướng cách đàn bà)
– Xem bói biển số xe phong thủy từ lâu đã được dân kinh doanh đặc biệt coi trọng. Họ tin rằng, biển số xe hợp phong thủy và hợp mệnh sẽ mang tới nhiều sự may mắn và phát đạt.
![]() |
![]() |
CON SỐ |
Ý NGHĨA |
01 - Thiên địa thái bình | 41 - Đức vọng cao thượng |
02 - Không phân định | 42 - Sự nghiệp bất thành |
03 - Tấn tới như ý | 43 - Hoa trong mưa đêm |
04 - Bị bệnh | 44 - Buồn tủi, khổ đau |
05 - Trường thọ | 45 - Vận tốt |
06 - Cuộc sống an nhàn, dư dả | 46 - Gặp nhiều chuyển biến |
07 - Cương nghị, quyết đoán | 47 - Khai hoa nở nhụy |
08 - Ý chí kiên cường | 48 - Lập chí |
09 - Lúc lên voi khi xuống chó | 49 - Nhiều điều xấu |
10 - Vạn sự kết thúc | 50 - Một thành một bại |
11 - Gia vận tốt lành | 51 - Thịnh yếu xen kẽ |
12 - Ý chí mềm yếu | 52 - Biết trước được việc |
13 - Tài chí hơn người | 53 - Nội tâm ưu sầu |
14 - Nước mắt khổ đau | 54 - May rủi song hành |
15 - Đạt được phước thọ | 55 - Ngoài tốt trong khổ |
16 - Quý nhân hỗ trợ | 56 - Thảm thương |
17 - Vượt qua mọi khó khăn | 57 - Cây thông trong vườn tuyết |
18 - Có chí thì nên | 58 - Khổ trước sướng sau |
19 - Đoàn tụ ông bà | 59 - Mất phương hướng |
20 - Sự nghiệp thất bại | 60 - Tối tăm không ánh sáng |
21 - Thời vận lên xuống, thăng trầm | 61 - Danh lợi đầy đủ |
22 - Tiền vào như nước, tiền ra như giọt sương mai | 62 - Căn bản yếu kém |
23 - Mặt trời mọc | 63 - Đạt được vinh hoa phú quý |
24 - Tài lộc đầy nhà | 64 - Cốt nhục chia cắt |
25 - Thông minh, nhạy bén | 65 - Phú quý trường thọ |
26 - Biến hóa kỳ dị | 66 - Trong ngoài không hòa nhã |
27 - Dục vọng vô tận | 67 - Đường danh lợi thông suốt |
28 - Tâm lý bất an | 68 - Lập nghiệp thương gia |
29 - Dục vọng lớn nhưng khó thành | 69 - Đứng ngồi không yên |
30 - Chết đi sống lại | 70 - Diệt vong thế hệ |
31 - Tài dũng được chí | 71 - Tinh thần khó chịu |
32 - Cầu được uớc thấy | 72 - Suối vàng chờ đợi |
33 - Gia môn hưng thịnh | 73 - Ý chí cao mà sức yếu |
34 - Gia đình tan vỡ | 74 - Hoàn cảnh gặp bất trắc |
35 - Bình an ôn hòa | 75 - Thủ được binh an |
36 - Phong ba không ngừng | 76 - Vĩnh biệt ngàn thu |
37 - Hiển đạt uy quyền | 77 - Vui sướng cực đỉnh |
38 - Ý chí mềm yếu, thụ động | 78 - Gia đình buồn tủi |
39 - Vinh hoa phú quý | 79 - Hồi sức |
40 - Cẩn thận được an | 80 - Gặp nhiều xui xẻo |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
► Cùng bói cung hoàng đạo để tìm những điều thú vị về bạn |
![]() |
Ảnh minh họa |
► Lịch ngày tốt gửi tới bạn đọc công cụ xem tướng và xem bói tử vi để biết tính cách, số mệnh của mình |
Chùa Giác Lâm được biết đến qua các tên gọi: Cẩm Sơn, Sơn Can hay Cẩm Đệm. Đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất của Thành phố Hồ Chí Minh. Chùa là tổ đình của phái Thiền Lâm Tế tông ở miền Nam Việt Nam. Giác Lâm là một trong những ngôi chùa được xây dựng sớm nhất ở đất Gia Định – Sài Gòn còn tồn tại đến ngày nay
Chùa Giác Lâm được cư sĩ Lý Thụy Long người Minh Hương quyền tiền xây dựng vào mùa xuân năm Giáp Tý (1744). Ban đầu chùa có tên là Sơn Can, về sau được gọi là Cẩm Sơn do chùa tọa lạc trên gò Cẩm Sơn. Ngoài ra, chùa còn được gọi là chùa Cẩm Đệm vì cư sĩ Thụy Long có tên riêng là Cẩm và làm nghề đan đệm bán, đươc dân địa phương gọi là ông Cẩm Đệm. Vào năm 1774, Thiền sư Phật Ý – Linh Nhạc (trụ trì chùa Từ Ân) đã cử đệ tử của mình là Thiền sư Tổ Tông – Viên Quang (gọi tắt là Viên Quang) về trụ trì chùa, đồng thời đổi tên chùa thành Giác Lâm.
Chùa Giác Lâm đã trải qua ba lần trùng tu: lần đầu tiên vào năm 1798 – 1804, lần thứ hai vào năm 1906 – 1909 và lần trùng tu thứ ba được hoàn thành đầu năm 1999.
Chùa Giác Lâm hiện nay có lối kiến trúc chữ Tam, gồm 3 dãy nhà ngang nối liền nhau: chính điện, giảng đường và nhà trai (nhà Ông Giám). Cổng tam quan của chùa chỉ mới được xây dựng vào năm 1955. Mái chùa gồm 4 vạt và các sống mái đều thẳng. Khu giảng đường và tăng xá phía bên phải chùa được khởi công vào năm 2007.
Chùa có hai tam quan. Tam quan cũ được xây dựng năm 1955. Tam quan mới được xây dựng năm 1999, sát đường Lạc Long Quân, cách tam quan cũ khoảng 80m. Hai cổng đều xoay mặt về hướng Nam. Hai bên cột trụ tam quan cũ có câu đối bằng chữ Hán
“Giác ngộ quảng khai từ thiện đồng lai quy hướng tổ
Lâm truyền phổ nhuận ngộ mê cộng hưởng tuệ vi đình.”
Kết cấu kiến trúc của chùa là hai nếp nhà tứ trụ bố trí theo kiểu trùng thềm điệp ốc. Khu Tam Bảo bao gồm chánh điện, trai đường và giảng đường, bố cục trên một mặt bằng hình chữ nhật, chiều rộng 22m, chiều dài 65m, xây trên nền cao khoảng 1m so với vườn chùa. Trước chánh điện có sân hình chữ nhật, ngang 20m, rộng 10m. Trước sân là sân vườn, có miếu nhỏ đặt tượng Bồ tát Quán Thế Âm bằng đá màu. Đặc biệt ở sân vườn có cây bồ đề cao lớn do ngài Narada (Srilanka) tặng.
Đằng sau chính điện là bàn thờ Tổ và các vị Hòa thượng đã trụ trì tại chùa Giác Lâm. Đối diện với bàn thờ Tổ là các bàn thờ Phật Chuẩn Đề, Phật A Di Đà, và sau cùng là bàn thờ Thập Điện Diêm Vương. Thời kì chống Pháp chống Mĩ, nơi này được dùng làm cơ sở hậu cần, nuôi chứa cán bộ, làm công tác trinh sát nội thành.
Phía trước chùa là bảo tháp xá lợi gồm 7 tầng hình lục giác. Tháp được khởi công xây dựng từ năm 1970 đến năm 1975 thì tạm nhưng cho đến 1993 mới được tiếp tục hoàn thành.
Trong chùa có 113 pho tượng cổ trong đó chỉ có 7 pho là tượng đồng còn lại đều là tượng gỗ. Tượng trong chùa có nhiều tượng có giá trị như: Tượng Phật A Di Đà, Phật Thích Ca, Di Lặc Bồ Tát; Thế Chí Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, bộ tượng Cửu Long (đúc bằng đồng)…Chùa Giác Lâm là nơi chứa đựng nhiều tư liệu quý báu về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc tôn giáo. Ngày xuân nơi đây đón hàng ngàn khách thập phương và du khách quốc tế đến lễ phật tôn kính và chiêm ngưỡng nét cổ kính uy nghiêm của chùa.
Ngày 16-11-1988, chùa Giác Lâm được Bộ Văn hóa công nhận Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia. Đây là một trong những điểm văn hóa có sức thu hút mạnh mẽ du khách trong lẫn ngoài nước tới chiêm bái.
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
► Xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
=> Bói tình yêu để biết nhân duyên của hai người |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
a, nuôi cấy giống cây, các vật lễ thần, hương liệu, các thực phẩm có tố chất thực vật.
Những người mệnh hoặc hành trong tứ trụ nhiều Hỏa thường thích hướng Nam. Có thể thích hợp với những nghề nghiệp và lĩnh vực kinh doanh có liên quan đến các phương diện như: Chiếu sáng, phát sáng, quang học, nhiệt độ lớn, dễ cháy, các loại dầu, các loại cồn, thực phẩm nóng, thực phẩm, cắt tóc, mỹ phẩm hóa trang, trang sức trên người, văn nghệ, văn học, dụng cụ văn phòng phẩm, học sinh văn hóa, văn nhân, tác giả, tác phẩm, biên tập, nhà giáo, hiệu trưởng, thư ký, xuất bản, công vụ, giới chính trị…
Những người mệnh hoặc hành trong tứ trụ nhiều Thổ thường thích nơi trung tâm, bàn địa. Có thể thích hợp với những nghề nghiệp và lĩnh vực kinh doanh liên quan đến các phương diện như: Đất đai, bất động sản, nông thôn, gia súc, vải vóc, quần áo, đồ dệt, chất liệu đá, vùng núi, xi măng, kiến trúc, buôn bán nhà ở, áo mưa, ô dù, các vật phẩm có chứa nước, đồ phông bạt,đồ cổ, người trung gian, luật sư, quản lý, buôn bán, thiết kế, cố vấn, làm về tang lễ, xây dựng bia mộ, quán lý nghĩa trang, tăng ni…
Những người mệnh hoặc hành trong tứ trụ nhiều Thủy thường thích hướng Bắc. Có thể thích hợp với những nghề nghiệp và lĩnh vực kinh doanh liên quan đến các phương diện như: Hằng hải, các loại dung dịch lạnh khó cháy, băng tuyết, các loại cá, thủy sản, thủy lợi, đông lạnh, đóng băng, đánh bát, dọn rửa, nước chảy, càng khâu, bể bơi, ao hổ, phòng tắm, buôn bán thực phẩm nguội, phiêu du, lướt sóng: các tính chất thuộc Thủy: lưu động, tính liên tục, dễ thay đổi, tính chất mang tính âm, sạch sẽ, làm việc trên biển, du lịch, biểu diễn, vận động, hướng dẫn viên, dụng cụ đồ chơi, ảo thuật, phóng viên, trinh thám, công ty du lịch, dụng cụ cứu hỏa, dụng cụ câu cá, ngành y học, kinh doanh dược phẩm, bác sỹ , y tá, bói toán…
Những người mệnh hoặc hành trong tứ trụ nhiều Kim thường thích hướng Tây. Có thể thích hợp với những nghề nghiệp và lĩnh vực kinh doanh có liên quan đến các phương diện như: Vật liệu tơ lụa hoặc các vật liệu đồ dùng kim loại, các đồ cứng chắc, quyết đoán, võ thuật, kiên định, quản lý, ô tô, giao thông, tiền tệ, công trình, giống cây, khai khoáng, đại diện dân ý, chặt gỗ, cơ khí…
Xuất xứ là do một vài người làm, rồi bắt trước nhau, dần dần là truyền ra thành phong tục. Nguyên ngày xưa, ta chưa có những thứ vải mỏng mịn bán rộng rãi trong dân gian, thị trường toàn những vải thô bố lại nhuộm nâu, thô cứng, trẻ sơ sinh da còn non mặc dễ bị xây xát, hài nhi càng mặc đồ mới càng đau yếu. Nhà nghèo không sẵn tiền mua đã đành, nhà giàu cũng xin áo cũ cho trẻ sơ sinh là vì lẽ ấy.
Trẻ thì chóng lớn, quần áo thì lâu mới rách, chỉ vài tháng sau đã quá cỡ, người ta không nỡ phá đi dùng vào việc khác nên cất giữ lại, dành cho em út. Vì vậy, người cho áo cũng cảm thấy vinh dự được người khác quý mến con mình và coi đứa bé sắp ra đời cũng có phần hơi hướng của mình.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Vì vậy đôi khi ta thấy có những ngôi nhà, nơi phòng khách hoặc phòng ngũ đều có trang trí một hoặc nhiều “bình hoa” từ loại vừa đến loai to cao với đũ màu sắc để chiêm ngưỡng…
Thực ra việc chưng bình hoa hoặc biếu tặng bình hoa cho nhau trong những dịp người thân hoặc bạn bè “về nhà mới” với mục đích đầy ý nghĩa tốt đẹp là: Mong cho người thân, hoặc bạn bè của mình được “bình an”, bình an trong chữ bình, đây là cách chơi chữ mang hàm ý tốt đẹp của người châu á chúng ta từ xưa đến nay…
Nhưng ít ai biết được “bình hoa” đã ảnh hưởng đến xem phong thủy như thế nào trong cuộc sống của chúng ta, nhất là việc gây cho chủ nhà ngoại tình trong hôn nhân, khi đặt bình hoa rỗng (không có nước) trên “Đào hoa vị”, như vậy “Đào hoa vị “ trở thành “Đào hoa sát” mà các chuyên gia phong thủy đã dày công tìm ra. Vì vậy ta cần phải biết mà tránh, để khỏi gây mất hạnh phúc gia đình.
1. Phương pháp hóa giải “Đào hoa sát”
- Không đặt bình hoa rỗng trên Đào hoa vị
- Không đặt bể cá không có nước trên Đào hoa vị.
- Nếu không, chủ nhà sẽ có chuyện ngoại tình, không sao bỏ được.
2. Cách tìm Đào hoa vị (Vị trí Đào hoa)
- Nhà hướng Nam, thuộc Hỏa: Thì Đào hoa vị nằm ở hướng Tây.
- Nhà hướng Tây, Tây Bắc, thuộc Kim: Thì Đào hoa vị nằm ở hướng Bắc.
- Nhà hướng Bắc, thuộc Thủy: Thì Đào vị nằm ở hướng Đông.
- Nhà hướng Đông, Đông Nam, thuộc Mộc: Thì Đào hoa vị nằm ở hướng Nam.
- Nhà hướng Tây Nam, Đông Bắc, thuộc Thổ: Thì Đào hoa vị nằm ở hướng Tây.
Chúng ta có thể dùng la bàn đứng ở giửa nhà, thi có thể tìm ra 4 vị trí này. Hướng Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu (Bằc, Nam, Đông, Tây) như trên là 4 hướng chính của Đào hoa vị, 4 hướng này là Đào hoa vị chung tùy theo hướng nhà.
3. Đối với người chưa kết hôn hoặc muộn kết hôn
Người chưa kết hôn hoặc muộn kết hôn, mà muốn gặp Đào hoa vận, thi ngoài 4 hướng chính như trên, cần phải kết hợp năm sinh của một người mới có thể định ra Đào hoa vị của người đó. Mà nên đặt một số vật kích thích tại vị trí này, có thể làm cho vận đào hoa càng mạnh, có thể làm quen được với người bạn đời lý tưởng:
- Tuổi: Hợi, Mẹo, Mùi: Hướng Tý (Bắc) là Đào hoa vị.
- Tuổi: Tỵ, Dậu, Sửu: Hướng Ngọ (Nam) là Đào hoa vị.
- Tuổi: Dần, Ngọ, Tuất: Hướng Mẹo (Đông) là Đào hoa vị.
- Tuổi: Thân, Tý, Thìn: Hướng Dậu (Tây) là Đào hoa vị.
Sau khi biết Đào hoa vị của mình thì tốt nhất NÊN:
- Đặt bể không có cá, nhưng đầy nước lên Đào hoa vị.
- Đặt bình hoa có nước, trong đó chưng hoa tươi, hoặc cây xanh loại trồng trong nước, lên Đào hoa vị.
Hình dáng bình hoa: Tốt nhất là hinh tròn. Bởi vì hình tròn tượng trưng cho sự viên mãn, đầy đủ. Ngoài đặt bình hoa ra, có thể đặt một số con vật tượng trưng cho điềm lành như chim bồ câu, hoặc bức tượng ông tiên.
4. Chọn màu sắc bình hoa theo từng phương vị
Màu sắc bình hoa: Đa số bình hoa đèu có hoa văn màu sắc sặc sỡ, như vậy trong trường hợp này chỉ cần tìm những màu chủ đạo của bình hoa. Bình hoa có màu sắc nhã nhặn thì càng đơn giản.
- Đào hoa vị ở hướng Đông: Đặt bình hoa màu xanh lục.
- Đào hoa vị ở hướng Nam: Đặt bình hoa màu Đỏ, Tím, Cam.
- Đào hoa vị ở hướng Tây: Đặt bình hoa màu Vàng kim (Vàng óng), màu Trắng.
- Đào hoa vị ở hướng Bắc: Đặt bình hoa màu Đen, Xám.
Sau đó cắm hoa tươi vào bình, và bạn sẽ thấy mình sẽ gặp vận đào hoa trong một thời gian không xa.
► Mời các bạn đọc những câu nói hay về cuộc sống và suy ngẫm |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
Đây là quẻ Quan Âm thứ 94 được xây dựng trên điển cố: Bá Nha phỏng hữu hay Bá Nha thăm bạn.
Quẻ hạ thuộc cung Tuất. Mọi việc cần phải có người giúp đỡ mới thuận buồm xuôi gió. Đối với việc không liên quan tới mình, càng không nên tự ý xen vào. Chờ đợi lúc gặp được cao nhân chỉ dẫn, mọi việc mới tốt đẹp.
Thừ quái yếu phùng tri kỷ chi tượng. Phàm sự thủ thường tắc cát dã.
Bá Nha là quan Đại phu của nước Tấn thời kỳ Chiến Quốc, là bậc thầy nỏi tiếng về đàn cầm, được người đời tôn xưng là “cầm tiên”.
Một lần, Bá Nha phụng mệnh Tấn Vương đi sứ nước sở. Vào ngày mười lăm tháng tám, ông đi thuyền đến Giang Khẩu ờ Hán Dương, gặp sóng gió, bèn dừng lại dưới chân một ngọn núi nhỏ. Đến tối, sóng gió dần dần yên trớ lại, mây tan trăng hiện, cảnh sắc tươi đẹp say đắm lòng người. Ngắm vầng trăng vằng vặc giữa trời, cảm hứng của Bá Nha trỗi dậy, ông bèn lấy ra cây đàn vẫn mang theo bên mình, say sưa gảy. ông đàn hết khúc nọ đến khúc kia, đúng lúc đang chìm đắm trong tiếng nhạc, bỗng thấy có một người đứng bất động bên bờ. Bá Nha giật mình, ngón tay bật mạnh, chỉ nghe “tưng” một tiếng, một dây đàn đã đứt. Bá Nha đang thắc mắc người ở bên bờ vì sao lại đến, thì nghe người đó nói lớn rằng: “Tiên sinh, ngài chớ nên ngờ vực, tôi là người hái củi, về nhà muộn, đến đây nghe thấy ngài đang dạo đàn, cảm thấy tiếng đàn rất tuyệt diệu, không thể không đứng lại nghe!”
Dưới ánh trăng, Bá Nha nhìn kỹ, thấy bên cạnh người đó đang đặt một gánh củi khô, đúng là một tiều phu. Bá Nha liền hỏi: “ông đã hiểu được tiếng đàn, vậy ông thử nói xem, khúc nhạc mà tôi đàn là khúc gì?” Người đó cười đáp: “Tiên sinh, khúc nhạc mà ngài vừa đàn là khúc Khống Tử khen ngợi Nhan Hồi, chỉ tiếc là khi đàn đến câu thứ tư thì dây đàn bị đứt!”
Người hái củi trả lời hoàn toàn chính xác, Bá Nha rất vui, vội mời người gánh củi lên thuyền trò chuyện.
Người gánh củi nhìn thấy cây đàn của Bá Nha, liền nói: “Đây là đàn dao cầm! Nghe nói là do họ Phục Hy làm ra!” Rồi ông kể rõ nguồn gốc của cây đàn dao cầm. Sau đó Bá Nha lại đàn thêm mấy khúc, mời ông giải thích ý nghĩa của những khúc đàn ấy. Khi tiếng đàn của Bá Nha vút cao, hùng tráng, người gánh củi nói: “Tiếng đàn này thể hiện khí thế hùng vĩ của núi cao.” Khi tiếng đàn trờ nên thanh tân thông đạt, người gánh củi lại nói: “Tiếng đàn này đang nói về dòng nước triền miên”.
Bá Nha nghe vậy hết sức vui mừng, những ý tứ mà mình dùng tiếng đàn để biểu thị, trước kia không ai có thể nghe hiểu được, mà người tiều phu ngay trước mặt này lại hiểu. Không ngờ tại chốn hoang sơn này, lại gặp được kẻ tri âm mà mình tìm kiếm đã lâu không thấy. Hỏi ra mới biết tên người gánh củi là Chung Tử Kỳ, Bá Nha bèn cùng Tử Kỳ uống rượu. Hai người càng nói chuyện càng tâm đầu ý hợp, liền kết làm anh em, hẹn nhau vào mùa thu hàng năm sẽ đến đây gặp gỡ.
Trung thu năm sau, Bá Nha theo đúng lời hẹn đến Giang Khẩu ở Hán Dương, nhưng ông đợi mãi, đợi mãi vẫn không thấy Chung Tử Kỳ đâu, vì thế ông bèn dạo một khúc đàn để gọi bạn tri âm. Nhưng đợi rất lâu vẫn không thấy có người đến. Ngày hôm sau, Bá Nha hỏi thăm một ông lão về tung tích của Chung Tử Kỳ, ông lão nói cho Bá Nha biết rằng, Chung Tử Kỳ đã không may mắc bệnh qua đời. Trước lúc lâm chung, Tử Kỳ có dặn lại rằng, phải đặt phần mộ ở bên sông, để đến kỳ gặp mặt vào ngày mười lăm tháng tám, lại được nghe tiếng đàn của Bá Nha.
Bá Nha nghe vậy, hết sức đau buồn, ông đến trước mộ của Chung Tử Kỳ, buồn bã dạo khúc đàn “Cơo sơn lưu thủy”. Đàn xong, ông giật đứt dây đàn, thở dài một tiếng, rồi đập cây đàn dao cầm mà mình yêu thích lên phiến đá xanh vỡ tan. ông đau đớn mà nói rằng: “Người tri âm duy nhất của ta đã không còn trên đời này nữa, vậy ta còn biết đàn cho ai nghe đây?”
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Hoạt động của thần khí con người không thể nhìn thấy, nó ẩn giấu và không thể điều khiển được. Do đó cần tìm ở trong tâm, phải đoán từ hình thể, như vậy mới lộ rõ ở giữa lông mày và mắt hoặc vận hành giữa ngũ tạng.
Thường nói: Người thông minh thì thần khí của họ ở 2 mắt, nếu đức hạnh đều có đủ thì thần khí giấu trong tim. Cũng chính là nói thần khí hiển lộ ra qua hình thể, giống như ánh sáng của mặt trời và mặt trăng, ánh sáng của nó ẩn giấu trong mặt trời và mặt trăng. Mắt sáng thì thần trong, nếu mắt đục thì thần đục.
Ngũ tạng hiển lộ: Mắt, lưỡi, mũi, môi, tai
Ngũ quan ứng với gan là mắt, quản về gân mạch, móng tay, chân.
Ngũ quan ứng với tim là lưỡi, quản về khí huyết và lông tóc.
Ngũ quan ứng với phổi là mũi, quản về da và hô hấp.
Ngũ quan ứng với tỳ là miệng, chủ về cơ thịt.
Ngũ quan ứng với thận là tai, chủ về gân cốt và răng.
Cảnh giới của mộng là thần ở trong tim, nó vận động ở trong phạm vi ngũ tạng, Lục phủ và tai, mắt. Sự vật ở trong mộng thường là do suy nghĩ quá nhiều hoặc gặp việc khó giải quyết. Do đó, các sự vật gặp trong giấc mộng thường xảy ra bên cạnh mình mà không vượt quá bản thân mình.
Chính vì vậy thiền sư Bạch Nhãn nói: mộng có ngũ cảnh. Một là cảnh hư, hai là cảnh thực, ba là cảnh quá khứ, bốn là cảnh hiện tại, năm là cảnh tương lai. Thường thì thần tình xao động sẽ sinh ra mộng cảnh. Thần yên ổn thì không có mộng cảnh. Có thể nói mộng cảnh là do động và tĩnh của con người sinh ra.
Liên quan đến hình mạo thanh tú của con người, hoặc ngạo nghễ, hoặc trắng sáng, hoặc chắc chắn, lông mày mắt nhô cao, mắt phát ra ánh sáng đều là do thần khí ở trong biểu hiện ra bên ngoài.
Thần thanh và hòa, sáng trong là tướng phú quý. Thần đục, nhu nhược, khiếp sợ là tướng bần cùng. Người chân thật và điềm tĩnh thường có thần khí bình hòa.
Trong Ngọc quản chiếu thần cục nói: Người vui vẻ và yên tĩnh thì thần sẽ yên ổn. Người nông nổi và vội vàng thì thần không yên. Do đó người quân tử biết tu dưỡng bản tính của họ, thay đổi thần khí nóng vội. Khí không nóng vội thì hình yên, do đó sẽ không có người có hình thể yên mà thần khí không đủ.
Lại nói: Khí thực chất là chỉ sự biến hoá của âm dương. Không thể phân biệt nóng lạnh của con người thì rất khó luận đoán. Chỉ là có sự biến hoá của khí, thần sinh ra theo khí, nhưng hàm nghĩa của nó không giống nhau.
Khí biến hoá mà có hình, thần cũng chính là sản sinh ra từ trong hình thể. Khí biến hoá được sinh ra, thần thì không. Khí biến hoá mà mất đi, thần thì vẫn tồn tại. Người đắc đạo thì không nhiễm bụi trần, không bị các sự việc làm lay động là người biết thần. Biết thần có chức năng giống như tạo hoá, do đó họ mới là thánh nhân, chí nhân, thần nhân. Do đó, hình của con người là có thể nhìn thấy nhưng thần lại giấu trong nội tâm, hiển lộ ra giữa lông mày và mắt nhưng không mất đi bản chất nguyên thủy của nó.
Hình thế của con người thì hình “cổ” là tốt nhất”, “thanh” là hơi kém, hình “tàng” lại kém hơn, sau đó là đến hình “mị”. Nếu hình thần lưu tán, hỗn đục thì thần bị u mê, đến bước này thì không còn là phú quý. Nếu sừng sững uy nghiêm là “cổ”. Thần trong sáng đáng yêu là “thanh”. Thần tính lơ đãng, nhìn khó phân biệt là “mị”.
Người thông minh có thể sẽ thành thần tiên. Người hình “mị” tuy quý nhưng phần lớn là kẻ nịnh bợ người khác, cũng không đáng để nói đến. Như sáng mà không sáng, đẹp mà không đẹp là lưu tán. Như say mà không say, như ngủ mà không phải ngủ là hỗn đục.
Con người mất đi tinh linh, không coi trọng thần, coi vạn vật là như nhau thì mãi mãi không hiểu được đạo lý trong đó.
Nếu bạn là người thích tiếp đãi, tụ tập bạn bè, bộ sofa lớn làm từ gỗ hàng và đệm đơn giản sẽ khiến bạn ưng ý. Bộ gối dựa màu sắc tươi vui sẽ tăng sự sinh động cho căn phòng.
![]() |
Sự kết hợp giữa miếng gỗ đơn giản và các thanh sắt hoặc ống nước tạo nên giá để đồ, kệ đặt tivi mang phong cách công nghiệp. |
![]() |
Từ những thùng hàng, bạn có thể xếp đặt thành kệ để đồ hai mặt và làm vách ngăn tương đối giữa phòng khách và bếp ăn. |
![]() |
Băng ghế tưởng chừng lỗi mốt lại biến thành bàn trà cho không gian tiếp khách nhỏ. |
![]() |
Những con tiện gỗ mang lại nét cổ điển cho góc bày đồ trang trí dọc lối đi. |
![]() |
Nếu cần một bàn nhỏ cạnh sofa để ly rượu hoặc bình cây trang trí, bạn có thể tự đóng với vài miếng gỗ nhỏ. |
![]() |
Kiểu đôn không đắt tiền nhưng hợp làm bàn để đồ trong phòng khách hoặc nơi đọc sách. |
![]() |
Kệ để đồ ba tầng tiện lợi, nhỏ gọn có thể đặt được ở nhiều vị trí khác nhau. |
![]() |
Từ chiếc ngăn kéo cũ kỹ, bạn có thể chế lại thành chiếc tủ đồ hoặc đôn ngồi mang phong cách cổ điển. |
![]() |
Những ngăn kéo bất ngờ ẩn dưới kệ để đồ làm từ gỗ tái chế. |
Mai Vân (Theo Amazing Interior Design)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
![]() |
![]() |
![]() |
► Xem thêm: Quiz vui để biết những điều thú vị về bạn |
Chúng ta đang sống giữa mùa hè rực nắng với những chuyến du lịch đến khắp mọi nơi. Dù bạn đi đâu thì cũng hãy nhớ kĩ những lưu ý phong thủy này để có một chuyến du lịch thật tuyệt vời nhé. Mùa hè cũng là mùa du lịch, mùa nghỉ dưỡng, ai cũng mong muốn kì nghỉ của mình được suôn sẻ và vui vẻ. Hôm nay Lịch ngày tốt sẽ chia sẻ với các bạn một vài lưu ý về phong thủy, hy vọng sẽ giúp cho chuyến đi của các bạn được thuận lợi và thành công như ý muốn.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
► Mời bạn đọc: Những câu nói hay về tình yêu và suy ngẫm |
![]() |
thủy tốt để mang lại sự may mắn tài lộc trong cuộc sống chúng ta ?
Dựa trên nguyên lý của 64 Quẻ Khí Kinh Dịch, các con số được tính toán trong Tổng hòa của cả một dãy số chứ không riêng gì 1 vài con số.
Với mỗi Mệnh đều có những Quẻ khí Đặc trưng bao hàm Ý nghĩa và Giá trị khác nhau sử dụng với mục đích khác nhau. Tuy nhiên, nó đều được nằm trong 1 quy luật hết sức chặt chẽ.
– Một Sim số hợp phong thủy phải hội đủ các yếu tố như sau:
+ Một Sim số có phong thủy tốt phải là con số Cân bằng Âm Dương
+ Một Sim số tốt phải là con số Tương Sinh giữa Ngũ hành của Dãy Số với Ngũ hành của Người Sử dụng
+ Một Sim số tốt phải là con số chứa Vượng khí, may mắn, tốt lành, đại cát
+ Một Sim số tốt phải có Quái khí hàm chứa các yếu tố tương hỗ cho Người dùng, ứng với Quẻ khí mang điềm Cát ( Cát tường)..
– Người Mệnh Mộc nên dùng số có Quẻ khí: Phong Lôi Ích, Bát Thuần Chấn, Sơn Lôi Di.
Mạng Mộc gồm có các tuổi: Nhâm Ngọ1942 & Quý Mùi1943; Canh Dần1950 & Tân Mão1951; Mậu Tuất1958 & Kỷ Hợi1959; Nhâm Tý1972 & Quý Sửu1973; Canh Thân 1980 & Tân Dậu1981; Mậu Thìn1988 & Kỷ Tỵ1989.
– Người Mệnh Hỏa nên dùng số có Quẻ khí: Bát Thuần Tốn, Lôi Phong Hằng, Thiên Phong Cấu, Lôi Thủy Giải, Hỏa Phong Đỉnh…
Mạng Hỏa gồm có các tuổi:Giáp Tuất 1934 & Ất Hợi 1935; Mậu Tý 1948 & Kỷ Sửu 1949; Bính Thân 1956 & Đinh Dậu 1957; Giáp Thìn 1964 & Ất Tỵ 1965; Mậu Ngọ 1978 & Kỷ Mùi 1979; Bính Dần 1986 & Đinh Mão 1987.
– Người Mệnh Kim nên dùng số có Quẻ khí: Phong Sơn Tiệm, Sơn Trạch Tổn, Thủy Sơn Kiểm, Bát Thuần Đoài…
Mạng Kim, gồm có các tuổi: Nhâm Thân 1932 & Quý Dậu 1933; Canh Thìn 1940 & Tân Tỵ 1941; Giáp Ngọ 1954 & Ất Mùi 1955; Nhâm Dần 1962 & Quý Mão 1963; Canh Tuất 1970 & Tân Hợi 1971; Giáp Tý 1984 & Ất Sửu 1985.
– Người Mệnh Thổ nên dùng số có Quẻ khí: Trạch Hóa Cách, Phong Hỏa Gia Nhân, Lôi Hỏa Phong, Sơn Hỏa Bỉ.
Mạng Thổ gồm có các tuổi: Mậu Dần 1938 & Kỷ Mão 1939; Bính Tuất 1946 & Đinh Hợi 1947; Canh Tý 1960 & Tân Sửu 1961; Mậu Thân 1968 & Kỷ Dậu 1969; Bính Thìn 1976 & Đinh Tỵ 1977; Canh Ngọ 1990 & Tân Mùi 1991.
– Người Mệnh Thủy nên dùng số có Quẻ khí: Trạch Địa Tụy, Sơn Thiên Đại Súc, Lôi Thiên Đại Tráng…
Mạng Thủy gồm có các tuổi: Bính Tý 1936 & Đinh Sửu 1937; Giáp Thân 1944 & Ất Dậu 1945; Nhâm Thìn 1952 & Quý Tỵ 1953; Bính Ngọ 1966 & Đinh Mùi 1967; Giáp Dần 1974 & Ất Mão 1975; Nhâm Tuất 1982 & Quý Hợi 1983.
Ví dụ: Người tuổi mạng Mộc hợp nhất số điện thoại có số cuối là 1, vì Thủy (1) sinh Mộc là quan hệ tương sinh.
Ngược lại: người tuổi mạng Mộc không hợp với số có số cuối là 6,7, vì Kim(6,7) khắc Mộc: quan hệ tương khắc.
Năm sinh (âm lịch) | Từ tháng năm đến tháng năm (theo dương lịch) | Cung Mạng | Nên lựa số có số tận cùng: | ||
Năm Sinh |
Tuổi | T: tương sinh | C: cùng cung mạng | ||
1975 | ẤT MÃO | 11/02/1975 -> 30/01/1976 | THỦY | T:6,7; | C: 1 |
1976 | BÍNH THÌN | 31/01/1976 -> 17/02/1977 | THỔ | T: 9: | C: 0,2,5,8 |
1977 | ĐINH TỴ | 18/02/1977 -> 06/02/1978 | THỔ | T: 9; | C: 0,2,5,8 |
1978 | MẬU NGỌ | 07/02/1978 -> 27/01/1979 | HỎA | T: 3,4; | C: 9 |
1979 | KỶ MÙI | 28/01/1979 -> 15/02/1980 | HỎA | T: 3,4; | C: 9 |
1980 | CANH THÂN | 16/02/1980 -> 04/02/1981 | MỘC | T:1 | C:3,4 |
1981 | TÂN DẬU | 05/02/1981 -> 24/01/1982 | MỘC | T:1 | C:3,4 |
1982 | NHÂM TUẤT | 25/01/1982 -> 12/02/1983 | THỦY | T:6,7; | C: 1 |
1983 | QUÝ HỢI | 13/02/1983 -> 01/02/1984 | THỦY | T:6,7; | C: 1 |
1984 | GIÁP TÝ | 02/02/1984 -> 19/02/1985 | KIM | T: 0,2,5,8 ; | C: 6,7 |
1985 | ẤT SỬU | 20/02/1985 -> 08/02/1986 | KIM | T: 0,2,5,8 ; | C: 6,7 |
1986 | BÍNH DẦN | 09/02/1986 -> 28/01/1987 | HỎA | T: 3,4; | C: 9 |
1987 | ĐINH MÃO | 29/01/1987 -> 16/02/1988 | HỎA | T: 3,4; | C: 9 |
1988 | MẬU THÌN | 17/02/1988 -> 05/02/1989 | MỘC | T:1 | C:3,4 |
1989 | KỶ TỴ | 06/02/1989 -> 26/01/1990 | MỘC | T:1 | C:3,4 |
1990 | CANH NGỌ | 27/01/1990 -> 14/02/1991 | THỔ | T: 9: | C: 0,2,5,8 |
1991 | TÂN MÙI | 15/02/1991 -> 03/02/1992 | THỔ | T: 9; | C: 0,2,5,8 |
1992 | NHÂM THÂN | 04/02/1992 -> 22/01/1993 | KIM | T: 0,2,5,8 ; | C: 6,7 |
1993 | QUÝ DẬU | 23/01/1993 -> 09/02/1994 | KIM | T: 0,2,5,8 ; | C: 6,7 |
1994 | GIÁP TUẤT | 10/02/1994 -> 30/01/1995 | HỎA | T: 3,4; | C: 9 |
1995 | ẤT DẬU | 31/01/1995 -> 18/02/1996 | HỎA | T: 3,4; | C: 9 |
1996 | BÍNH TÝ | 19/02/1996 -> 06/02/1997 | THỦY | T:6,7; | C: 1 |
1997 | ĐINH SỬU | 07/02/1997 -> 27/01/1998 | THỦY | T:6,7; | C: 1 |
1998 | MẬU DẦN | 28/01/1998 -> 15/02/1999 | THỔ | T: 9: | C: 0,2,5,8 |
1999 | KỶ MÃO | 16/02/1999 -> 04/02/2000 | THỔ | T: 9; | C: 0,2,5,8 |
2000 | CANH THÌN | 05/02/2000 -> 23/01/2001 | KIM | T: 0,2,5,8 ; | C: 6,7 |
2001 | TÂN TỴ | 24/01/2001 -> 11/02/2002 | KIM | T: 0,2,5,8 ; | C: 6,7 |
2002 | NHÂM NGỌ | 12/02/2002 -> 31/01/2003 | MỘC | T:1 | C:3,4 |
2003 | QÚY MÙI | 01/02/2003 -> 21/01/2004 | MỘC | T:1 | C:3,4 |
1. Nam tuổi Tý và nữ tuổi Ngọ
Chàng trai tuổi Tý thận trọng, thích giảng đạo lý và tuân theo những nguyên tắc nhất định. Trong khi đó, cô nàng tuổi Ngọ lại thích tự do bay nhảy và làm lãnh đạo.
![]() |
Nếu cặp đôi này bên nhau, họ không thể tránh khỏi mâu thuẫn. Đặc biệt, sau khi kết hôn, cả hai đều cảm thấy áp lực và khó chịu với đối phương. Chuyện đứt gánh giữa đường là điều khó tránh khỏi.
2. Nam tuổi Sửu và nữ tuổi Mùi
Con trai tuổi Sửu tính khí nóng lạnh thất thường, chỉ cần chút tác động nhỏ là tâm trạng đã biến đổi 180 độ. Họ cuồng nhiệt, phá cách và thích những điều mới lạ, bất ngờ. Ngược lại, con gái tuổi Mùi đa sầu đa cảm, mong muốn đối phương mang lại cảm giác an toàn tuyệt đối cho mình.
![]() |
Khi mới bắt đầu yêu, hai tính cách trái chiều này có vẻ “hút” nhau mạnh. Tuy nhiên, theo thời gian, đặc biệt là sau khi kết hôn, tình cảm đôi bên đều phai mờ vì cho rằng hai tính cách quá khác biệt.
3. Nam tuổi Dần và nữ tuổi Thân
Chàng trai tuổi Dần nóng tính, bướng bỉnh, không thích bị áp đặt hay ràng buộc và đặc biệt kém lãng mạn. Cô gái tuổi Thân lại thích nghe những lời đường mật, muốn người khác cưng chiều và mang lại nhiều lãng mạn thú vị cho mình.
![]() |
Có thể nói, đây là cặp đôi oan gia, gặp nhau là nảy sinh mâu thuẫn nếu không ai chịu nhường nhịn. Khi đã kết hôn thì cuộc hôn nhân đó thực sự biến thành thảm họa cho cả đôi bên.
Xem tiếp
Mr.Bull (theo Dyxz)
![]() |
► Xem bói theo khoa học tử vi để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình |
Bài này dịch và chú bởi anh tuetvnb tại diễn đàn Lý số Việt Nam.
Trong Tử vi, 14 chính tinh chi phối rất mạnh mẽ trên toàn lá số. Nắm được bản chất và đặc tính của 14 chính tinh là mấu chốt của việc luận đoán. Xưa nay các sách đều viết rất nhiều, tuy nhiên cũng rất cần tham khảo thêm nhiều quan điểm. Tôi dịch phần “thập tứ chủ tinh tính chất” của nhà nghiên cứu nổi tiếng Vương Đình Chi để cùng tham khảo.
Vương Đình Chi là nhà nghiên cứu Lý Học nổi tiếng ở Hồng kông, nhưng sở trường nhất là Tử Vi, ông theo quan điểm của Trung Châu phái. Đọc Tử vi của Vương ĐÌnh Chi, về cơ bản cũng không ngoài nguyên lý chung của Tử vi, tuy nhiên cách nhìn nhận, lập luận và đánh giá có đôi chút khác biệt, vì thế tôi có thêm vào đôi lời bàn luận sau mỗi phần dịch để sáng tỏ thêm.
Vì kém về ngôn ngữ nên chắc sẽ có nhiều lỗi dịch thuật, mong được chỉ giáo.
Các đặc tính của tinh diệu dưới đây bao gồm các tình chất cơ bản của tất cả 14 chính tinh. Chỉ nêu những nét chính yếu, cần cái gì, kỵ cái gì. Bên trong cũng chỉ ra một ít cách cục đặc biệt như Nhật nguyệt phản bối, Mã đầu đới tiễn v.v.. Mặc dù không nhiều lắm nhưng nếu cẩn thận hiểu được thì cũng biết được đôi chút phép tắc cơ bản của Tử vi đẩu số.
Tử vi thuộc Âm Thổ, là Chủ tinh Bắc đẩu, hóa là Đế Quân, thường là chủ tinh ắt sẽ cần “Quần thần củng chiếu”. Chính vì thế mà Tử vi nhất định phải được Quần thần củng chiếu mới là thượng cách, nếu không thế, chỉ là cách cục bình thường.
Quần thần ở đây là: Phủ Tướng, Phụ Bật, Xương Khúc, Khôi Việt. Nếu như hội hợp được Phủ Tướng ắt sẽ mạnh mẽ, có tài, có thế. Là tượng của Đề Hoàng nên cần sự trợ sức của Phụ Bật, nêu có trợ lực, lòng dạ cũng rộng rãi.
Nếu có Xương Khúc cùng hội hợp, thì có học thức, có trí tài, cũng có khả năng làm giảm nhẹ cái tính cao ngạo, chủ quan của Tử Vi. Khôi việt hội hợp thì cá nhân gặp nhiều cơ hôi, có khả năng gia tăng địa vị.
Nếu như Quần Thần xa lánh, trở thành Cô Quân, chủ quan quá sâu, tâm cao khí ngạo mà mừng giận thất thường, không khéo đối xử với người.
Nếu gặp Không vong, Hoa cái thường có tư tưởng độc tài. Gia Tứ Sát là vua vô đạo, thuộc hạ cách, nếu thêm Phúc cung không tốt thì là người hèn mọn dung tục.
Phụ Bật, Xương Khúc, Khôi Việt là bộ sao Lục cát, đối với Chủ tinh có sự trợ giúp rất lớn.
Chủ tinh ở đây là Tử Vi, Thiên Phủ, còn người sinh ban đêm là Thái Âm nhập miếu, sinh ban ngày là Thái Dương nhập miếu, nhưng phải được đối diện nhau, nếu chỉ thấy một thì không mạnh mẽ.
Nhất là Tả Hữu Khôi Việt, nếu như chỉ gặp một sao thì giống như không gặp.
Lời bàn: Vương tiên sinh cho rằng Tử vi tuy thân là Đế tinh, nhưng cái LỰC của Tử vốn là do Quần Thần mang lại, cho nên nếu được Quần thần củng chiếu thì mới là thượng cách, bằng không thì chỉ bình thường. Ngoài ra, Vương tiên sinh còn cho rằng một trong những tính xấu cảu Tử vi chính là Tâm tính cao ngạo, chủ quan. Nếu không có sự trợ giúp của Văn tinh, quý tinh mà lại gặp hung sát tinh ắt là sẽ thành kẻ thô lậu. Quan điểm của Vương tiên sinh về các sao đi từng cặp như Tả Hữu, Khôi Việt cho rằng phải đủ cả cặp mới có tác dụng, nếu đơn lẻ một mình thì tác dụng giảm sút, coi như không có.
Về phần phân định Âm Dương, Vương tiên sinh cũng có quan điểm hơi khác, vì như Tử vi, các sách đều cho là Dương Thổ, nhưng Vương tiên sinh lại cho rằng Tử vi thuộc Âm Thổ, ấy cũng là điều bất cập.
Thiên Cơ thuộc Âm Mộc, là sao thứ nhất của chòm Nam Đẩu, giống như Mưu thần, thích việc cơ biến, khi thiện, khi ác. Nếu được Xương Khúc, Long Trì Phượng Các, cùng Hóa Khoa thì thông minh tuyệt đỉnh, có khả năng dụng thành chính đạo. Nếu chẳng gặp được cát diệu, mà lại gặp Hóa Kỵ, Sát tinh cùng với các sao bất lương thì tính chất của Thiên Cơ trở thành Bất lương, gian trá. Có thể thấy rằng Thiên Cơ đối với các phụ tinh là sát tinh thì đặc biệt nhạy cảm.
Hóa Quyền có khả năng tăng cường tình ổn định của Thiên Cơ, cũng gia tăng khả năng đối kháng với sát tinh là Hóa đẹp nhất vậy. Hóa Khoa gia tăng khả năng thông minh tài trí của Thiên Cơ, cũng là sao Hóa rất tốt đối với Thiên Cơ. Hóa Lộc thì làm cho cái trí mưu của Thiên Cơ chỉ thích sử dụng trong kinh doanh, là kẻ chỉ thích kiếm tiền.
Hóa Kỵ làm cho Thiên Cơ trở thành mưu lợi, chỉ thích đi ngang về tắt.
Thiên cơ lâm Phúc đức cung mà gặp Sát tinh thì cũng không nặng lắm. Tâm chẳng được nhàn, nhiều dự định, toan tính. Nếu gia Hóa Kỵ thì tâm phiền mà thường nông cạn.
Thiên Cơ vốn được gọi là sao “Thiện Biến” cho nên tình cảm thường thay đổi mạnh, hoặc tư tưởng thay đổi mạnh. Thường là sao biến đổi mạnh thì ắt sẽ rất nhạy cảm với sát tinh, cho nên rất cần Hóa Quyền để tăng độ ổn định. Mà Thiên Cơ lại vốn có bản chất của mưu thần, bởi vậy khá thích hợp với vai trò phụ tá.
Lời bàn: Vương tiên sinh rất coi trọng Tứ Hóa, bởi vậy nên cho rằng Tứ Hóa có thể cải biến được tinh chất của các tinh diệu, cụ thể là Thiên Cơ. Quan điểm của Vương tiên sinh đánh giá Thiên Cơ là sao rất cơ biến, có khả năng thích nghi cao, có khi thiện, có khi ác, phụ thuộc vào hệ thống các sao phụ tinh hội hợp. Đặc biệt ông cho rằng nếu Thiên Cơ cư Phúc cung, có khẳ năng chế sát, hóa giải tác dụng xấu của một số sát tinh khi hội hợp vào Phúc Cung.
Thái Dương thuộc Dương Hỏa, là sao chủ tại trung thiên, là sao của quan lộc, chủ quý. Là chủ tinh của người sinh ban ngày, rất tốt nếu cư cung Quan Lộc.
Phán đoán sự cát hung của Thái Dương, trước hết phải xem các vị trí miếu vượng, cư các cung Dần Mão Thị Tỵ Ngọ Mùi là cung miếu vượng.
Thích hợp với người sinh ban ngày, người sinh ban ngày gặp Thái Dương miếu vượng thì rất đẹp, nếu lạc hãm thì giảm nhiều sự tốt đẹp. Người sinh ban đêm nếu có gặp Thái Dương miếu vượng cũng bình thường, mà nếu lạc hãm thì hung. Lại phải xem kỹ các Phụ tinh là Sát tinh hội hợp để luận đoán cát hung của Thái Dương.
Thái Dương chủ quý, Hóa Quyền, Hóa Khoa càng tăng thêm tính chất quý hiển của Thái Dương, nhưng cần lưu ý là tại xã hội hiện đại thì chuyện Tài Phú rất quan trọng, cho nên cái sự thanh quý của Thái Dương chưa hẳn đã toàn mỹ. Bởi thế Thái Dương rất cần Hóa Lộc, nếu có Hóa Lộc, Lộc Tồn hội hợp là chân mệnh của Phú Quý vậy.
Thái Dương chiếu khắp vạn vật, cho mà không nhận, cư tại Ngọ cung là cách Nhật Lệ Trung thiên, rực rỡ mà rất thịnh, có khả năng danh lớn hơn lợi, cũng chưa hẳn là kết cấu đẹp. Trong cái ánh sáng ấm áp của Thái Dương, người ta rất thoải mái. Cho nên cần xem xét kỹ tất cả các đặc tính của tinh diệu, được ở trong cái ánh sáng ấm áp của Thái Dương thì là đại phúc hậu vậy.
Thái dương ở trên trời vận hành không ngừng, chiếu sáng mặt đất, cho nên Thái Dương chủ về ĐỘNG, cho mà không nhận. Cho nên các lời bàn về Thái Dương xưa này đều giống nhau ở chỗ cho rằng Thái Dương quan trọng ở chỗ “Quý”, trước phải có “Quý” (danh tiếng) rồi sau mới giầu có. Chẳng qua, nếu không luận như thế thì Thái Dương cũng có một điểm là có bản chất cái Danh lớn hơn cái Lợi. Nhất là Thái Dương càng sáng thì càng rõ bản chất này.
Lời bàn: Đối với Thái Dương, Vương tiên sinh cho rằng chỉ thực sự Quý đối với người sinh ban ngày, ngoài việc xem xét các phụ tinh hội hợp thì việc đặt ra vấn đề đồi với người sinh ban ngày hay ban đêm cũng được Vương tiên sinh rất coi trọng. Bàn về chữ Quý của Thái Dương, Vương tiên sinh đã có ý kiến rất thực tế khi gắn với xã hội hiện đại, cổ nhân thì cho rằng Quan Quý là đứng đầu, nhưng Vương tiên sinh không đánh giá cao cái Quan Quý mà lại xa rời Thực Lộc của Thái Dương, cho rằng đó là điều không toàn mỹ lắm. Khác với cổ nhân, Vương tiên sinh cho rằng Thái Dương là người có tinh thần quảng bác “cho mà không nhận”, trong khi đó cổ nhân thì lại cho rắng Thái Dương có tính chuyên quyền. Riêng điểm này thì không mấy đồng tình với Vương tiên sinh, bởi lẽ Thái Dương vốn là Thuần Dương, dương cương đến cùng cực, thì cái việc lấn át, chuyên quyền không phải là không có.
Vũ Khúc thuộc Âm Kim, là sao thứ 6 của chòm Bắc đẩu, lấy hành động kiếm tiền làm chính, tính cách thì cương liệt, quyết đoán.Rất tốt nếu cư Quan lộc, Tài bạch cung, nếu lâm vào cung Mệnh và các cung Lục thân thì không tốt, ngại vì tính cương khắc thái quá.Người Vũ khúc tính cứng rắn, cho nên rất ngại Dương Đà cũng như Thiên Hình vì tính cô khắc càng tăng.
Sao Vũ Khúc đối với Tứ Hóa cũng đặc biệt nhạy cảm, gặp Hóa lộc thì rất tốt vì Vũ khúc là tài tinh, Hóa lộc cùng một tính, nên tài khí càng vượng, cũng có thể giảm nhẹ tính cương khắc của Vũ Khúc. Hóa quyền, Hóa kỵ gia tăng tính chất cương liệt của Vũ khúc cho nên đồi với Vũ khúc không được tốt lắm. Nếu gặp Hóa kỵ, cứng quá ắt gãy, vì thế Vũ Khúc – Hóa kỵ thường thường là Bại cục ở chỗ đó.
Người Vũ khúc tính cô khắc, cho nên cần Văn Xương, Văn Khúc cùng hội hợp để trung hòa, cũng giống thế – rất cần Thiên Phủ đồng cung. Thiên Phủ là tài khố (kho tiền), hai tài tinh gặp nhau là một sự kết hợp rất tốt, nếu lại có Hóa Lộc, Lộc Tồn thì càng đẹp.Tương đối mà nói, Vũ Phá với Vũ Tướng là hai tổ hợp khó hoàn mỹ, chủ yếu là do Phá Quân gia tăng tình ĐỘNG, lúc này việc gặp Lộc tinh mới tỏ ra rất quan trọng. Trong Tứ Sát, Vũ khúc sợ nhất Hỏa Linh, bất luận là tính chất nào của Vũ Khúc cũng đều không tốt khi gặp hai sao Hỏa Linh. Vũ khúc ngoại trừ sợ Hỏa Linh ra, đôi khi cũng không tốt nếu gặp Xương Khúc, nhất là gặp một mình Văn Khúc (đương nhiên Văn Khúc – Hóa kỵ thì càng tệ) “song khúc hội” nhất định sẽ có khuyết điểm. Cần lưu ý trong Đẩu số có một cách là Linh Xương Đà Vũ là bại cục.Vũ khúc là tài tinh, nhưng có khá nhiều khuyết hãm, vì thế không nên cừa nhìn thấy Tài đã cho là tốt.Nhưng Vũ khúc lại có hành động tương đối cao thượng, cho nên rất tốt nếu gặp được Khôi Việt cùng với Thiên Cơ hội hợp.
Lời bàn: Vương tiên sinh thật chí lý khi luận rằng “Vũ khúc tuy là tài tinh nhưng có quá nhiều khuyết điểm, vì thế chớ thấy TÀI mà cho là tốt”, chẳng thế mà cái cách Linh Xương Đà Vũ vốn dĩ xưa này là Bại cách, tối hung. Vương tiên sinh cho rằng Vũ Khúc có một đặc tính cố hữu là Cô Khắc, nhưng bản chất của cái việc Cô Khắc này là do tính cương cường mà ra, từ đó có thể suy ra rằng nếu Vũ Khúc được các phụ tinh là văn tinh, quý tinh trợ giúp thì có thể chế ngự được cái tính cô khắc cương cường của Vũ Khúc. Luận Tử vi như thế, xưa nay quả là hiếm có. Qua lời luận của Vương tiên sinh, cũng có thể thấy rằng cái sự phối hợp với nhau mới là quan trọng, một tinh tú đơn lẽ không làm nên được điều gì, mà cái sự cát hung phần nhiều làm nên ở các phụ tinh, tá tinh vậy.
Thiên Đồng thuộc Dương Thủy, là sao thứ tư trong chòm Nam Đẩu, ví như Phúc tinh, chủ hưởng thụ và ý chí.
Nếu có Hóa Lộc cũng với cát tinh hội hợp thì tốt, nhưng cũng ngại vì tham hưởng thụ mà thành mềm yếu. Nguyên do lúc này gặp được hoàn cảnh tốt một số ít sát tinh cũng đủ kích động, gặp sự kích động này Thiên Đồng dễ thành tựu lớn nên người ta cũng thêm khó khăn vất vả. Chỉ thấy sát mà không thấy lộc, thì là không tốt đối với Thiên Đồng. Thiên Đồng cũng rất ưa Hóa Quyền, vì có thể tăng cường ý chí, bằng như hội đủ Lộc Quyền Khoa Kỵ, mà sát diệu không nặng nề thì cũng chủ phú quý song toàn. Ngại nhất là Thiên Đồng Hóa Kỵ là cách cục xấu.Thiên Đồng tuy là Phúc tinh, nhưng cái Phúc ấy cũng có khuyết điểm, hơn thế nữa phải đắc Lộc mới thực sự là Phúc. Tuy nhiên, khi đắc Lộc trừ phi có cách cục đặc biệt tốt, không thì vẫn phải trải qua một đoạn gian khổ, có lúc rất vất vả, cũng không phải là tốt. Nếu không phải như đã luận thì trừ phi có cách cục rất khác lạ. Thông thường Thiên Đồng đều có một điểm là “vãn vận” (vận muộn), cho dù Thiên Đồng được đánh giá là Phúc, cũng có lúc nhầm lẫn.
Lời bàn: Xem ra quan điểm của Vương tiên sinh chú trọng nhiều vào vấn đề tài lộc, chính vì thế mà rất đề cao các Lộc tinh, tuy nhiên đối với Thiên Đồng thì ngoài cái đặc tính cố hữu, còn cần phải xem xét thêm cái vị trí miếu vượng của nó. Ở đây, một đặc tính quan trọng của Thiên Đồng mà Vương tiên sinh chỉ nhắc đến một cách mơ hồ, đó là tính canh cải thất thường. Vương tiên sinh cho rằng Hóa Quyền có thể giải trừ được cái tính canh cái hay thay đổi của Thiên Đồng. Phần phân tích về việc Thiên ĐỒng hội Lộc tinh, lập luận của Vương tiên sinh rất sắc bén, cho rằng không phải là điều tốt, hé lộ quan điểm về việc kích động hoàn cảnh của sát tinh. Tuy nhiên, so với quan điểm của cổ nhân thì có lẽ tình chất cảu Thiên Đồng chưa được Vương tiên sinh nêu rõ ràng lắm.
Liêm trinh thuộc Âm Hỏa, là sao thứ 5 của chòm Bắc Đẩu, hóa khí là Tù tinh, chủ về tình cảm và lý trí, lại có tên là Thứ Đào Hoa. Liêm trinh gặp thiện thì thành thiện, gặp ác sẽ thành ác.Liêm trinh là một sao có sự biến hóa tốt xấu khá lớn, nhất định phải chú ý cẩn thận.
Nếu gặp Hóa Lộc thì tốt, chủ về tình cảm hòa hợp, ngại gặp Hóa Kỵ, chủ về tình cảm tan vỡ, hoặc gặp tai ương về máu huyết. Cùng với Sát Phá Tham hội hợp, tất sẽ rất cần Lộc tinh cùng hội mà sát tinh không được cường mạnh, thì cũng có thể gọi là tốt. Nếu không gặp cát tinh mà lại gặp hung tinh thì hình thương khó tránh. Được Thiên phủ cùng hội hợp, lại thêm Xương Khúc (văn xương, văn khúc) và Lộc tinh, có khả năng phát huy cái mặt tốt lành của Liêm trinh, đó là cách cục đẹp nhất của Liêm trinh. Cùng với Thiên tướng hội hợp, mà Thiên tướng vốn tốt lành, cũng là cách đẹp. Hội hợp với Tử Vi, Thiên Phủ không gặp ác tinh thì rất đẹp. Các tổ hợp trên đây gọi là “Gặp thiện thì theo thiện”. Liêm trinh chủ về tâm tư tình cảm, nếu tốt thì tình cảm phong phú, là người cao nhã vui tính, Xấu thì tự tư tự lợi, thậm chí không thể khống chế được tình cảm của chính mình, Liêm Trinh là sự phản ảnh sâu sắc tinh thần, khi suy đoán cần phải hết sức cân nhắc, đặc biệt là khi Liêm Trinh mang nặng tính đào hoa và tình cảm.
Lời bàn: Đoạn này không thấy Vương tiên sinh nhắc đến sự tương tác của Liêm trinh với Hóa Quyền, Hóa Kỵ, bởi một trong những đặc tính quan trọng của Liêm trinh là Tù tinh, vì thế mà khi gặp Quyền Kỵ tính chất sẽ thay đổi rất mạnh mẽ. Vương tiên sinh có lẽ đã quá chú trọng vào đặc tính Đào Hoa của Liêm, cho rằng đấy là sự ảnh hưởng mạnh mẽ, quan điểm này cũng cần phải suy ngẫm thêm.
Thiên Phủ thuộc Dương Thổ, là chủ tinh của chòm Nam Đẩu, giống như kho tiền. Nguyên nhân là do quan hệ của Chủ tinh, cho nên cũng cần “quần thần đồng hội”, so sanh với tử vi thì tính cách bảo thủ hơn, sức khai sáng không bằng, cũng không có cái mạnh mẽ quyết liệt chủ quan của Tử vi. Dễ đối xử với người hơn Tử vi. Nếu được quần thần đồng hội, lại thêm gặp được Lộc tinh, chủ về khả năng vừa công vừa thủ, quyết đoán lớn lao. Nếu chẳng gặp được Hóa lộc hoặc Lộc tồn, thì là người hành sự cẩn trọng, lợi cho việc giữ gìn cơ nghiệp. Nếu không có Lộc tinh mà lại gặp được các cát tinh khác, giống như rời xa quần thần, mà biểu hiện của Thiên phủ là tiến thoái khó khăn, nếu gặp sát tinh thì chỉ nên nấn ná đợi thời cầu tài. Đóng ở Tài Bach, Quan lộc cung thì hoàn hảo, bởi vì xã hội ngày nay người người cầu tài theo mệnh, miễn là Mệnh cung, Phúc Đức cung không kém, chỉ là mánh khóe cầu tài quá khích mà thôi. Nhưng nếu đóng ở Mệnh cung thì dễ phát triển thành gian trá, phù thịnh.Thiên Phủ là Nam Đẩu, Tử vi là Bắc đẩu. Tử vi chủ lãnh dạo, chủ phát tán, chủ quý. Thiên Phủ chủ cất giấu, chủ phú, chủ giữ gìn cơ nghiệp, nói một cách tương đối là đầy đặn. Trừ phi là Thiên phủ gặp cách xấu đặc biệt (gặp sát tinh chẳng gặp Lục Cát, lại chẳng gặp Khoa Lộc, gặp toàn sao tạp bất lương) còn không dù có gặp “gian” cũng chẳng lộ ra là “gian”.
Lời bàn: Tính của Phủ vốn ôn lương hòa hoãn, tuy sức khai sáng không bằng Tử vi, nhưng cũng là chủ tinh. Cho nên lập luận rằng rất cần Quần thần hội hợp là rất sắc bén. Qua quan điểm của Vương tiên sinh thì thấy rằng vai trò của Phụ tinh vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, trong đoạn này, cái lập luận về tính “gian” của Phủ là hoàn toàn mới mẻ. Bởi cổ nhân xưa nay vẫn cho rằng Thiên Phủ ôn lương, do vậy nếu nói rằng “nhược cư vu mệnh cung, tắc khả năng phát triển vi gian trá, xu viêm phụ thế” thì có vẻ như hơi khiên cưỡng. Đành rằng Thiên Phủ “phù thịnh bất phù suy” nhưng chưa hẳn đã đến nỗi phát triển thành gian trá. Điều này nên xem xét cẩn trọng.
Thái Âm thuộc Âm Thủy, là sao ở trung thiên, chủ tinh của người sinh ban đêm. Miếu vượng tại Dậu Tuất Hợi Tý Sửu, hợp với người sinh ban đêm, nếu người sinh ban ngày mà lại có Thái âm lạc hãm, thì tức là không hợp.
Thái dương chủ phát tán, chủ quý, còn Thái âm thì chủ thu giấu, chủ phú, cho nên Thái Âm cũng bao gồm ý tứ của Tài tinh, nhưng cái Tài tinh này so với Vũ Khúc có điểm khác nhau. Vũ khúc lá hành động cầu tài, mà Thái âm thì thuộc kế hoạch, mang tính chất phụ tá. Có lúc lại có khả năng nắm giữ quyền lực tiền tài, giống như Thái Dương, cần sự trung hòa.Cho nên khi Thái âm cư ở cung hãm, mà được Tả Hữu Khúc Xương Lộc Quyền tương hội thì vẫn là đẹp, Thái Âm miếu vượng mà hội được cát tinh thì Hóa Kỵ không hại được.Nhưng tổ hợp của Thái Âm không ổn định, nếu lại gặp Xương Khúc thì trại lại, lại bị tình cảm lãnh đạo. Nếu lại gặp Sát tinh thì có thể trở thành trò đùa của quyền lực.So với Thái Dương, Thái Dương chủ Động, chủ phát xạ, chủ truyền bá, chủ quý. Còn Thái Âm chủ Tĩnh, chủ thu nhận, chủ Phú. Nhưng nếu như thu nhận quá thịnh, thì sẽ là người nhiều tâm kế, lòng dạ thâm sâu, rất khác biệt so với Thái Dương. Chính là do Thái Dương tự mình tỏa sáng, tỏa nhiệt, Nhưng Thái Âm thì ngược lại, được diếu sáng bởi Thái Dương, nếu không có Thái Dương chiếu đến, thì Thái âm tối đen như mực.Dùng cách ví von mà nói, thì có một sự khác biệt giữa Thiên phủ “thâm trầm”, khác với Thái Âm là “Âm Sâm” (Âm Sâm có nghĩa là ảm đạm).
Lời bàn: Trong đoạn này Vương tiên sinh đã căn cứ vào tính chất Âm-Dương của 2 sao Thái Âm – Thái Dương để lập luận. Thái Âm vốn dĩ xưa nay vẫn được coi là Tài tinh, theo Vương tiên sinh thì tính Tài của Thái Âm chính là do đặc tính “Thu liễm” mà ra, bởi vậy về mặt tư tưởng, Thái Âm tham lam hơn, không quảng bác như Thái Dương. Đặc biệt, trong đoạn này Vương tiên sinh đã thể hiện hai quan điểm. Thứ nhất, Vương cho rằng Thái Âm cần phải có ảnh sáng của Thái Dương mới huy hoàng được, bởi vậy nếu được đắc cách Nhật Nguyệt thì mới thự sự hoàn mỹ. Thứ hai, Vương cho rằng “Thái Âm miếu vượng thì Hóa Kỵ không làm gì được”, đây chính là điểm khác biệt của Trung Châu Phái khi an Hóa Kỵ cùng với Thái Âm cho tuổi Canh. Điều này xưa nay vẫn tranh cãi, tuy nhiên ta có thể rút ra một điều rằng, cho dù An Hóa Kỵ với Thái Âm, hay Hóa Khoa với Thái Âm, thì tuổi canh gặp cách này vẫn là đẹp.
Tham lang thuộc Dương Mộc, khí thuộc thủy, ví như Tình Dục và Vật Dục, còn gọi là Chính Đào Hoa, nếu được chế hóa thì vẫn có thể tốt. Nếu được chế hóa, tình dục vật dục đặt được cân bằng, mà lại được cát tinh hội hợp thì là cao cách vậy. Nếu không được chế hóa mà lại gặp sát tinh hội hợp, không cần biết là thiên về tình dục hay vật dục, nhưng đều có khuyết điểm.
Hóa Lộc gia tăng vật dục còn Hóa kỵ thì giảm bớt dục vọng. Tử Tham mà được Tả Hữu Xương Khúc là được chế hóa, Vũ Tham mà được Hỏa Linh là được chế hóa, nếu lại hội được Cát Tinh, Cát Hóa, có thể làm đại tướng, uy chấn biên cương.Liêm Tham ngộ Không, Thiên hình, Hóa kỵ là được chế hóa, có khả năng tình dục mạnh, thơ rượu phong lưu mà biến thành văn nghệ, nghệ thuật.Nếu không được chế hóa mà lại gặp Kình Dương, Đà La thì vì sắc mà rước họa.
Tham lang cũng là chủ biến, nhưng cái biến của nó là “đổi thang mà không đổi thuốc” (chỉ thay đổi cái vỏ bề ngoài mà bản chất thì không đổi), mượn màu son phấn để che giấu toan tính.Tham Lang cũng là một tay giao tiếp đối đáp thiện nghệ, nhưng cái ứng đối của nó phần nhiều là ở tửu sắc phong lưu. Cũng đôi khi thích các sự vật thần bí, thuộc loại quỷ quỷ quái quái, nhưng cái sở thích của nó là loại đông tây thần bí, mà tịnh không phải là nghiên cứu chuyên sâu.Cũng dựa trên tính chất tương đối của Tham Lang, nếu gặp được Xương Khúc, ngộ Không, cũng với Thiên Hình có thể phát huy tiềm năng nghệ thuật của Tham Lang.
Lời bàn: Vương tiên sinh có đưa ra quan điểm về các cách chế hóa đối với sao Tham Lang trong từng trường hợp. Tuy nhiên dường như Vương tiên sinh không coi trọng các tính chất về tài khí của Tham Lang, ngay cả khi gặp Hỏa linh, điều này có khác so với các quan điểm xưa nay. Có một điều mới ở đây là Vương tiên sinh cho rằng Thiên Hình có thể chế giải được tính dâm của Tham Lang, cũng cần phải xem xét.
Thuộc Âm Thổ, khí thuộc Âm Kim, là sao thứ hai trong chòm Bắc Đẩu.
Trong đẩu số, Cự môn là ám tinh, nhất định phải có Thái Dương miếu vượng hội chiếu, hoặc Lộc Quyền hội hợp mới có thể giải được tính ám của Cự Môn. Nếu không có Thái Dương hội chiếu hoặc Lộc Quyền cứu giải, Cự Môn sẽ đem lại thị phi, nghi kỵ.
Cự môn còn được ví như tài ăn nói, nếu cát thì nói hay, giỏi biện, nếu hung thì ăn nói giảo hoạt. Nếu hội Thái Dương hãm, Hình Kỵ thì dễ rước cái họa khẩu thiệt, thậm chí kiện cáo. Năng lực đối kháng sát tinh của Cự môn rất yếu, cho nên tuyệt không nên gặp sát tinh, rất cần cát tinh cùng với Hóa Lộc, Hóa Quyền, cải hóa được Cự Môn, không chỉ ăn nói tuyệt vời mà thậm chí còn có thể trở thành nghề nghiệp, có thể làm luật sư, diễn thuyết gia, thuộc hàng có đẳng cấp, lại có khả năng truyền bá, tiếp thị tài ba. Nếu được cách cục thích hợp phối hợp thì phú quý không thiếu.
Cự môn còn biểu trưng của chướng ngại lớn, che lấp tất cả mọi thứ. Trong đời người có thể có một giai đoạn gian khổ đối với lịch trình, hoặc một giai đoạn thương tâm đối với chuyện cũ. Hoặc biểu trưng cho người thích nói, dùng ngôn từ che giấu người khác, biểu hiện là người thao thao bất tuyệt, thích tranh luận. Nếu như cách cục tốt (Như đắc Hóa Quyền lại gặp Xương Khúc), có học thức lại có sức biểu đạt tốt, như vậy đương nhiên tuyệt không phải là phường nói hão.Kỳ thực, tại hiện đại, Cự môn được đánh giá cao hơn so với cổ đại nhiều lắm, bởi vì hiện thời là cần phải bao quát, tiếp thị xã hội. Từ việc cạnh tranh tổng thống của nước Mỹ đến một nhân viên tiếp thị, đều cần đến việc ăn nói linh hoạt (bất kể là nói thật hay không thật). Tóm lại là những người ăn nói rất tốt, tuyệt không thể thiếu Cự môn.
Lời bàn: Vương tiên sinh đánh giá rất cao khả năng ăn nói của Cự Môn vì nó hợp với xã hội hiện đại, tuy nhiên cần phải nhớ rằng chỉ thực sự tốt khi Cự Môn đắc cách hội Quyền Lộc, Xương Khúc. Đoạn Vương tiên sinh luận rằng “Trong đời người có thể có một giai đoạn gian khổ đối với lịch trình, hoặc một giai đoạn thương tâm đối với chuyện cũ” thật là sắc bén. Duy chỉ có điều, chưa thấy Vương tiên sinh phân tích về tính Tài khí của Cự Môn.
Thuộc dương thủy, là ngôi thứ hai trong chòm Nam đẩu, hóa khí lá Ấn tinh, được ví như cái ấn đeo của Hoàng Đế, cho nên nếu ở trong tay Hoàng đế anh minh thì là cứu tinh của nê dân, mà trong tay Hôn quân bạo chúa thì tàn hại bách tính – giúp cho phường hung bạo. Bởi vậy, bản chất của Thiên tướng là gặp Cát thì Thiện, gặp Hung thì Ác. Thiên tướng hoàn toàn chịu hoàn cảnh của bên ngoài mà biến hóa, khi luận đoán phải hết sức cẩn thận.
Trong Tứ Sát, Thiên tướng sợ nhất Hỏa Linh, cho nên có thuyết nói rằng “Thiên tướng Hỏa linh trùng Phá, tàn chướng” – (Thiên tướng Hỏa linh mà gặp Phá, tàn tật), có khả năng có cố tật, hoặc thân thể yếu đuối nhiều bệnh tật.
Đoán sự cát hung của Thiên tướng tất phải xem xét Lân cung (hai cung bên cạnh bản cung), như Cự Môn Hóa Kỵ giáp bên sẽ thành cách “Hình Kỵ giáp Ấn” (do Thiên Lương là Hình) – không tốt. Như Cự Môn Hóa Lộc, là cách “Tài Ấm giáp Tướng” (Thiên Lương là Ấm), là một kết cấu đẹp của Thiên Tướng. Đương nhiên vẫn chủ yếu là xem sự phân bố của Lục Cát, Lục sát mà đoán định.
Một đặc trưng lớn nhất của Thiên Tướng là “không có tính cách” (đây là một thuật ngữ dùng trong luận đoán, không có nghĩa là người có Thiên tướng thủ mệnh không có tính cách).
Cho nên trong mưới bốn chính tinh chỉ có Thiên tướng là rất coi trọng Lân cung, bị ảnh hưởng rất mạnh từ hai cung bên cạnh bất luận là Hình Kỵ giáp, Tài Ấm giáp, hay Dương Đà giáp.
Giáp Hỏa Linh, giáp Khoa Quyền, cũng như giáp Khôi Việt … đều có ảnh hưởng mạnh đến Thiên Tướng. Tại lá số mà Thiên tướng gặp cách giáp cung, đôi khi lại biểu hiện tính cách không thể làm chủ bản thân, như vẫn nói là “hình thể giống người mạnh” (thành ngữ – ý nói về cái hình thì trông giống người mạnh, mà không phải là mạnh).
Thiên Tướng cũng có tính chất tương tự như Thiên Cơ. Đều dựa phần nhiều vào phụ tá.
Lời bàn: đoạn luận về Thiên tướng này của Vương tiên sinh chưa thật sắc xảo lắm. Có lẽ Vương tiên sinh quá coi trọng cái sự ảnh hưởng của Lân cung đến Thiên Tướng. Gần như các quan điểm của Vương tiên sinh đều trái ngược với những nhận xét của cổ nhân về Thiên tướng. Theo “đẩu số toàn thư” thì bản chất của Thiên Tướng vốn là Ấn tinh (ấn là con dấu, con triện), biểu thị cho uy quyền, tài lộc hơn thế nữa với nhận xét về tính tình của Thiên Tướng “kiến nhân nan hữu trắc ẩn chi tâm, kiến nhân ác hữu bất bình chi khí” (gặp người khó thì động lòng trắc ẩn, gặp kẻ ác thì nổi sự bất bình), thì càng không thể nhận xét rằng “thiên tướng là sao không có tính cách”. Tính cách “gặp thiện theo thiện, gặp ác theo ác” của Thiên tướng không thể hiện rõ ràng lắm. Với các nhận xét về cách cục của Thiên tướng như ở trên chưa được thuyết phục lắm, ví như cách Hình Kỵ giáp Ấn mà bảo rằng Thiên Lương là Hình thì thật là chưa chính xác vậy, hơn thế nữa, bản chất của Hình Kỵ khi giáp Ấn không phải do Ấn tinh tạo nên, mà bất cứ sao nào khi gặp các cách GIÁP như Giáp hình kỵ, Giáp Dương Đà, Giáp Không Kiếp cũng đều xấu vậy, không hẳn chỉ có Thiên tướng. Dịch đoạn này cảm thấy nghi ngờ, không chắc có phải là quan điểm của Vương tiên sinh hay chỉ là do người sau thêm thắt vào? Người đọc cũng cần tham khảo và chắt lọc thêm vậy. Ngoài ra, một đặc tính về Tài của Thiên tướng chưa thấy được nhắc đến, vì Tướng và Phủ luôn trong tam hợp cho nên mới có câu “Phủ Tướng triều viên, nãi vi y lộc chi thần”, là thần của y lộc. Có lẽ đây cũng là một thiếu sót chăng?
Thuộc Dương Thổ, là ngôi thứ 3 trong chòm Nam đẩu, hóa khí là ẤM TINH, nhưng cũng lại hóa vì HÌNH TINH. Nguyên nhân Thiên Lương hóa khí là Hình tinh là do nó lại có tính chất “cương khắc cô kỵ”, nếu như lúc này mà lại gặp Thiên Hình cung Kình Dương thì tình cương khắc sẽ mạnh lên, cho nên cách này là không tốt.
Nhưng Thiên Lương cũng có tính chất của cái bóng che chở, tức là ẤM (hán việt: Ấm tức là cái bóng che chở của cha mẹ, bề trên, bởi Lương là biểu trưng của Phụ Mẫu). Ấm (tính chất) tức là tiêu tai đặc trưng lớn nhất là “tiên phá hậu lập” (trước phá đi rồi sau mới lập thành), trước đắng mà sau mới có vị ngọt. Nhưng mà trước phải có tai vạ thì sau mới phát huy được tính chất của Thiên Lương. Tuy nhiên, cuối cùng thì cái Hung cũng sẽ tiêu tán hết, nhưng độ biến hóa họa phúc của đời người quá lớn, cũng không phải là điều tốt.
Thiên Lương rất tốt nếu gặp Hóa Lộc, nhưng cũng tốt nếu là Hóa Khoa, lúc ấy sẽ cái mặt tốt đẹp lương thiện của Thiên Lương sẽ biểu hiện mạnh mẽ nhất. Nếu được Phụ Bật Xương Khúc cùng hội hợp thì lại càng có khả năng phát huy cái tình chất “ẤM” của Thiên Lương, càng về sau càng mạnh. Thiên Lương có khả năng tiêu tai giải khó, sở dĩ Thiên Lương cũng hay làm nên cái sự “tiêu tai” là bởi Thiên Lương chủ quý, nên có thể hóa khí thành khoa tinh.
Trong cách cục Thiên Lương – Hình Kỵ: Cái ánh sáng màu sắc của Thiên Lương Hình Kỵ thì ít, mà cái sự âm u của Thiên Lương Hình KỴ thì nhiều. Tại sao lại chiếu sáng?
Đại khái là nếu được Thái Dương miếu vượng chiếu rọi thì tỏa sáng, hoặc đắc khoa quyền hội lợp mà tỏa sáng (đương nhiên nếu lại được thêm Thái dương miếu vượng hòa cùng Khoa Quyền chiếu sáng nữa thì cực tốt). Thứ nhì là nếu gặp được Thái Âm thì cũng tốt nhưng trường hợp này Thiên Lương trở nên thâm trầm, nội liễm (thâu nhận vào bên trong). Nếu như những điều ở trên hoàn toàn không có, Thiên Lương trở nên lén lén lút lút, soi mói bắt bẻ, không hợp với người khác. Lúc này sẽ phát huy đầy đủ cái tính Hình của Thiên Lương.
Lời bàn: Dịch đến đây, mới thấy được Vương tiên sinh giải thích vì sao Thiên Lương lại hóa khí là Hình Tinh. Cũng là một ý kiến mới, khi ông cho rằng Thiên Lương có thêm tính chất Cương-Khắc-Cô-Kỵ. Nhưng trên thực tế, và theo các tài liệu, quan điểm khác thì dường như tính chất này không rõ ràng lắm, có phần mờ nhạt. Nhưng ở đây, Vương tiên sinh rất coi trọng cái cách Thiên Lương gặp Hình Kỵ, có lẽ đây là quan điểm riêng của ông, cũng là một điều cần chiêm nghiệm. Tất nhiên, là tính chất của Thiên Lương cũng như bất kể một sao nào, đều phụ thuộc vào cái sự miếu hãm của nó, chứ không hẳn chỉ có đắc cách như Vương tiên sinh nhận xét. Cái điều Vương tiên sinh luận rằng “tiên phá hậu lập” rất xuất sắc, bởi vì Lương là Ấm tinh, vốn là thừa hưởng của tiền nhân để lại, ở đời mấy ai giữ được, nếu không phải là nội lực tự cường. Việc Lương gây nên sự biến đổi họa phúc lớn của đời người, chưa hắn chỉ có thế, có lẽ cần xem xét thêm các điều kiện khác nữa chăng.
Thuộc âm kim, là ngôi thứ 5 của chòm Nam đẩu, là chiến tướng trên trời.Là kẻ xung phong hãm trận, giết giặc trên chiến trường, vì thế Thất sát mang theo tính chất cương khắc.
Thất sát không nên gặp Hình Kỵ vì sợ rằng quá cô khắc, nếu mà lại hội thêm sát tinh nữa, thì đời người càng thêm gian khổ.
Chế được cái tính cương khắc của Thất Sát, chỉ có Lộc tinh ở Tỵ (1), hội Hóa Lộc hay Lộc tồn đều tốt, có thể làm cho cái tính cương khắc của Thất sát hóa thành chuyên nghiệp, hoặc công nghệ, trong cái sự phân công rất tinh tế của xã hội hiện đại, người chuyên nghiệp cũng tương đương với khái niệm giầu có.
Ngoại trừ Lộc tinh ra, để chế hóa cái tính ác của Thất sát là Tử vi, gọi là “hóa sát vi quyền” (biết SÁT thành QUYỀN). Khi Thất sát và Tử vi cùng gặp nhau hoặc đối cung với nhau mà được quần thần cùng hội vào, lại tránh được sát tinh phá phách thì mới là hợp cách. Giống như Đại tướng nhận lệnh của Để tọa, khí khái phi phàm, nếu lại hội thêm được Lộc tinh thì phú quý khỏi phải bàn. Nếu có sát tinh trùng phá, thì khả năng là sẽ trở thành mệnh của một nhà công nghiệp.
Thất sát là tướng quân, trực tiếp nhận mệnh của hoàng đế xuất ngoại đánh trận, nhưng phía sau có quân quyền, hoàn toàn phụ thuộc vào chuyện quân lương mà thành sự, vì thế mà Thất sát rất cần gặp Lộc (rất tốt nếu gặp cả song Lộc). Mà Thất sát vốn là đại tướng nên ưa độc đoán độc hành, vì thế mà Tả Hữu Xương Khúc đối với Thất Sát cũng không quan trọng lắm. Cũng giống như Vũ Khúc, Khôi Việt tương đối quan trọng đối với Thất sát.
Thất sát cũng giống như Tham Lang, đều là chủ BIẾN, nhưng phúc độ của Sát lớn hơn Tham Lang vậy.
(1) Câu này hơi tối nghĩa, nguyên văn viết là “ Hóa Thất Sát đích cương khắc, duy Lộc tinh tỵ” – Chữ TỴ trong văn bản này là Chi Tỵ trong 12 địa chi, nhưng như thế không có nghĩa, ngờ rằng là nhầm với chứ TỴ nghĩa là TRÁNH ĐƯỢC.
Lời bàn: Đối với Thất Sát, điểm quan trọng là cái tính CƯƠNG KHẮC, Vương tiên sinh đã phân tích rằng “không nên gặp Hình Kỵ vì sợ quá cô khắc, nếu gặp thêm sát tinh thì đời người là càng thêm gian khổ”, lý luận của Vương tiên sinh rất sắc bén, cổ nhân đã có câu “Thất Sát – Thiên Hình, cương táo nhi cô”, trở nên cứng rắn, khô khan mà lại cô độc. Đương nhiên là cuộc đời sẽ vì thế mà kinh lịch gian tân. Tuy nhiên, cái sự lập luận ấy cần phải dựa trên tính lý của Sát mà luận, chứ chỉ căn cứ vào cái chuyện ví von Sát là chiến tướng mà phân tích, thì e rằng sẽ rơi vào chuyện suy diễn thường tình. Và cũng cần phải xem xét thêm luận điểm cho rằng Lộc tinh có thể giải trừ được cái tính cương khắc của Sát, điều này chưa hẳn đúng lắm, bởi Lộc tinh tuy có thể biến cái sự sát phạt của Thất sát thành tài phú, nhưng cái tính cương cường thì khó lòng vì thế mà mất đi được. Có thể trong xã hội hiện đại tiền bạc có thể đánh bóng con người, nhưng cái tính cương khắc của tinh diệu thì khó lòng cải biến được, cũng là điều cần suy ngẫm.
Phá quân thuộc dương Thủy, là sao thứ 7 trong chòm Bắc đầu. Tính chất “chiến tướng” tương tự như Thất sát nhưng khác làở chỗ: Thất sát là tướng mà Phá quân là tiên phong, do vậy Phá quân hóa khí là Hao.
Bởi Phá quân “năng công bất năng thủ”– hợp với thế tiến công hơn phòng thủ, nên Phá quân tọa mệnh so với Thất sát có tính “động” nhiều hơi. Dù cho hội được tử vi thì cũng không thể vì thế mà “hóa phá vi quyền”– Tử vi dụng Phá quân thành quyền tinh được, ngược lại tính động của Phá quân còn làm ảnh hưởng đến tính ổn định của Tử vi.
Phá quân gặp sát tinh mà không có cát tinh phù trợ, có thể bị hình thương trên thân thể.
Phá quân tốt nhất bản thân Hóa lộc, tốt nhì là hội được Lộc. Khi đó sẽ cải thiện bản tính động. Với Hóa quyền cũng có thể tương tự như trên nhưng không tốt bằng Hóa lộc.
Nếu được phụ tá tinh và cát tinh hội chiếu, tránh được sát tinh thì là tổ hợp tốt nhất cho Phá quân, khi đó Phá Quân có thể vừa “công”, vừa “thủ”, gặp vận đích thực là chiến tướng, cách cục này không phải nhỏ.
Phá Quân cũng là chiến tướng, nhưng so với Thất Sát thì kém một bậc, sở dĩ Thất Sát có thể thụ mệnh Hoàng Đế một cách đường đường chính chính, nhưng Phá Quân mà trực tiếp thụ mệnh Hoàng Đế liền có điểm không hợp, vì thế tổ hợp Tử Vi Phá Quân tốt đẹp khi tính chất ổn định của Tử Vi được duy trì.
Không có Lộc thì Phá quân như chiến tướng bị hao tổn, không có hậu phương, chung cuộc cũng bại hoặc bị hạ thấp. Chính thế nên muốn phòng trừ cái việc “chiến tướng bị hao tổn” thì quan trọng phải tậm trung tâm lực vào chỉ một việc. Phá Quân thủ mệnh không thể là người nhàn nhã, lắm ý niệm.
Lời bàn: Về Phá Quân thì cũng có nhiều quan điểm trái chiều nhau. Ở đây, có lẽ Vương tiên sinh quá coi trọng hình ảnh “chiến tướng” khi đem so sáng với Thất sát, nhưng có lẽ về bản chất thì Phá Quân khổng hẳn thê. Sở dĩ Tử vi không làm cho Phá hóa Quyền được là chính vì cái tính phản nghịch của nó. Khác với Thất Sát chỉ là “thừa hành chính lệnh”. Trong quan điểm của Vương tiên sinh thì cho rằng Phá Quân cần hội nhiều cát tinh mới quý, tuy nhiên cần phải xem xét trong trường hợp Văn tinh, vì Phú nói “Phá quân hội văn tinh nhất sinh bần sĩ”. Phá quân vốn là “nghi loạn bất nghi trị” hợp với thời loạn hơn là lúc yên ổn, có lẽ vì thế mà một số quan điểm cho rằng phải được sát tinh đắc cách phò trợ mới tốt, như Phá đắc Không Kiếp vậy. Tuy nhiên, theo quan điểm của một số nghiên cức thì thấy rằng, Phá đắc sát tinh, tuy có thể phấn phát nhất thời nhưng chắc chắn sẽ phải trả giá, cũng không phải là điều tốt. Như thế, có nghĩa là Phá thể hiện tính cô độc cực cao, chẳng hợp với nhóm nào. Cũng nên chiêm nghiệm.
Trong một bài giảng nhân dịp Rằm tháng 7, thầy Thích Thiện Thuận đã giúp nhiều người khai tâm, mở trí có cơ hội tiếp cận với Phật Pháp một cách gần gũi hơn. Thầy cho biết không cần tới ngày Xá tội vong nhân mà bất cứ lúc nào chúng ta cúng phải hướng thiện như là một cách để người thân của mình được siêu thoát.
Chúng ta sinh ra trong cõi đời này bị ái dục chi phối nên mới có duyên kết thân làm cha làm mẹ làm vợ làm chồng làm anh em con cái của nhau. Tình thân này cho đến khi nhắm mắt xuôi tay vẫn theo ta không đi được đâu, không siêu thoát được. Cho nên họ dù đã qua đời nhưng tâm trí vẫn cứ quanh quẩn theo mình, chính vì lẽ đó khi chúng ta phát thiện tâm, tu tập bằng cách ăn chay hay niệm Phật hay là trì giới, bố thí thì những vong linh đó sẽ bắt chước, phát tâm theo chúng ta. Điều này rất quan trọng vì lúc họ làm theo tức là họ mới có cơ hội chuyển nghiệp, điều đó mới đảm bảo họ thoát được cảnh giới tối tăm hiện tại hay không.
Tham khảo: Vong hồn, cô hồn thực sự có hay không?
![]() |
![]() |
![]() |
Theo luận giải lá số tử vi, người tuổi Sửu sinh vào tháng 4 âm lịch là người thông minh, kiên cường, ham chức quyền, số ít may mắn, phải bôn ba, vất vả, hay bị người khác chỉ huy, quản thúc, ít tài lộc, tuổi thọ không cao.
Người tuổi Sửu sinh tháng này thường có tài năng, nhất là đối với lĩnh vực văn học nghệ thuật. Họ có sức khỏe tốt, đời sống vật chất đầy đủ nhưng hay buồn phiền về gia đình.
![]() |
Là người có tính tự lập cao, có năng lực làm việc tốt, tinh thần luôn vui vẻ, cuộc sống ung dung tự tại, đi đến đâu cũng bình yên vô sự. Tuy nhiên, sự nghiệp thành công muộn.
Là người thông minh, kiên cường, ham chức quyền, số ít may mắn, phải bôn ba, vất vả, hay bị người khác chỉ huy, quản thúc, ít tài lộc, tuổi thọ không cao.
Là người đa cảm, sống thiếu thực tế, số ít may mắn; phải lập nghiệp xa nhà và gặp nhiều trắc trở.
Luận giải tử vi trọn đời, người tuổi Sửu sinh vào tháng 6 âm lịch là người có tài, năng động, sôi nổi, ham học hỏi nghiên cứu; được nhiều người giúp đỡ trong công việc và cuộc sống; nửa đời lận đận, nửa đời như ý.
Là người tính cách gia trưởng, cuộc sống tương đối yên ổn, gặp được nhiều cơ hội thăng tiến trong sự nghiệp, cả đời phong lưu, con cháu có hiếu.
Là người có sức khỏe tốt, có tài, thi cử đỗ đạt. Số được hưởng phúc tổ tiên, tuy không giàu nhưng cả đời bình an, được nhiều người mến mộ.
Là người ôn hòa, thông minh, có tri thức, tuy không giỏi giao tiếp nhưng rất giỏi kiếm tiền. Số gặp hung hóa cát, mưu sự như ý, cuộc sống thuận lợi.
Là người tự lập sớm, ý chí kiên cường. Thời trẻ phải chịu phong sương, thiếu thốn nhưng về sau sự nghiệp phát triển vững chắc, tài lộc dồi dào.
Người này có tầm nhìn xa trông rộng, có khả năng giải quyết tốt mọi việc. Cả đời tuy giàu sang nhưng không có công danh.
Là người cứng rắn, hiếu thắng, sống không thực tế, công danh khó thành. Tuy nhiên, cửa nhà yên ổn, sống đời bình dị.
Mời bạn đọc xem thêm bài viết: Dựa vào tháng sinh tìm ra người dư dả tiền bạc từ trung vận
(Theo Nhân duyên & tướng cách đàn bà)