Đoán tính cách qua đôi mắt –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
![]() |
![]() |
► Xem bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết đường tình duyên, hôn nhân của bản thân |
![]() |
![]() |
![]() |
Tý | Sửu | Dần |
![]() |
![]() |
![]() |
Mão | Thìn | Tị |
![]() |
![]() |
![]() |
Ngọ | Mùi | Thân |
![]() |
![]() |
![]() |
Dậu | Tuất | Hợi |
Alexandra V (Tổng hợp)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nếu bạn đang tìm kiếm một ngôi nhà để mua hoặc thậm chí chỉ để thuê, bạn bắt buộc phải lưu tâm đến một số kiêng kỵ phong thủy trước khi đưa ra quyết định cuối cùng.
Phần đông những người đang thuê nhà đều thiếu sự coi trọng đúng mực đối với tầm quan trọng của phong thủy của chính ngôi nhà mình đang sống. Trên thực tế, bản thân ngôi nhà luôn có ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực trong cuộc sống của họ, chẳng hạn như lĩnh vực tài lộc, sức khỏe, mối quan hệ, sự nghiệp... theo một cách nào đó.
Chính vì vậy, Nhà đẹp sẽ cho các bạn một số lời khuyên phong thủy đáng giá sau đây:
1. Tránh ngôi nhà ở gần đường cao tốc và tháp điện cao thế
![]() |
Bạn nên tìm một ngôi nhà có vị trí xa đường cao tốc và tháp điện cao thế, vì nó sẽ ảnh hưởng đến sự nghiệp và sự giáo dục của những người sống trong nhà.
Nếu cửa chính của ngôi nhà đối diện với đường cao tốc, nó có thể ngăn chặn nguồn ánh sáng mặt trời và về lâu về dài, nó có thể khiến bạn có cảm giác bất an.
Nếu ngôi nhà của bạn bị bao quanh bởi những tháp điện cao thế, bạn cùng các thành viên trong gia đình có thể gặp phải nhiều vấn đề về sức khỏe do ảnh hưởng xấu của lượng bức xạ quá lớn.
2. Tránh ngôi nhà ở gần chùa, đền, nhà thờ, bãi tha ma và bệnh viện
![]() |
Chùa chiền, đền thờ, nhà thờ, bãi tha ma và bệnh viện là những nơi có nguồn khí âm rất mạnh mẽ. Vì thế, nếu bạn sống gần những địa điểm trên, nó có thể gây ra sự bất lợi, rủi ro trong cuộc sống cũng như khiến bạn phải chịu đựng nhiều vấn đề sức khỏe rất nghiêm trọng.
3. Tránh ngôi nhà/tòa nhà tối tăm hoặc cô lập
Sống trong một ngôi nhà tối tăm và u ám sẽ rất dễ thu hút ảnh hưởng xấu và nguồn năng lượng tiêu cực. Nếu năng lượng âm quá mạnh sẽ không có chỗ cho năng lượng dương, vì vậy, phong thủy khuyên con người không nên sống trong những ngôi nhà như vậy. Bạn cũng nên tránh chọn một ngôi nhà đứng một mình hoặc quá cô lập.
4. Tránh ngôi nhà ở gần đồn cảnh sát
Hãy bỏ qua những ngôi nhà ở gần đồn cảnh sát. Lý do là bởi nguồn năng lượng đại diện của nơi này sẽ cuốn bạn vào những vụ kiện tụng và ảnh hưởng đến sự nghiệp của bạn.
![]() |
5. Tránh ngôi nhà bị bao vây bởi các tòa nhà cao tầng
Nếu bạn sống trong một ngôi nhà bị kìm kẹp bởi những tòa nhà cao tầng xung quanh, nguồn ánh sáng tự nhiên sẽ bị hạn chế làm cho ngôi nhà trở nên tối tăm, ẩm thấp và hiển nhiên là thu hút nguồn năng lượng âm nhiều hơn. Kiểu nhà này sẽ có hại đến sức khỏe của những người sống bên trong.
Khi mua nhà hay thuê nhà, giá cả không phải là tất cả mà còn phải quan tâm đến yếu tố phong thủy để bạn và người thân được sống thật thoải mái trong tổ ấm của mình.
Theo Khám phá
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
![]() |
![]() |
► Xem tử vi 12 cung hoàng đạo được cập nhật liên tục, chuẩn xác tại Lichngaytot.com! |
Người tuổi Tuất mệnh Mộc là những người sinh năm Mậu Tuất 1958, 2018...
![]() |
(Ảnh minh họa) |
Người tuổi Tuất mệnh Mộc có thể trở thành bạn bè hoặc cấp dưới đáng tin cậy. Họ cũng có khả năng chịu đựng khó khăn, gian khổ. Khi đã xác định được mục tiêu họ sẽ tiến lên không ngừng nghỉ. Họ có khả năng hợp tác với người khác để làm nên sự nghiệp chung.
Là người rất có năng lực làm việc nhưng họ không phải là người có tài ăn nói. Họ cũng là người không thể giữ yên lặng trong thời gian dài. Tuy nhiên, vì không có khả năng biểu đạt nên họ thường chỉ có thể nói rất thẳng thắn ý kiến của mình về mọi việc. Nếu không làm được như vậy, họ sẽ cảm thấy rất cô độc.
Nữ giới tuổi Tuất mệnh Mộc thường có tính cách khá mạnh mẽ, không thích hợp với vai trò "nội tướng" trong gia đình.
Nếu được sao tốt tương trợ, họ sẽ được hưởng phúc đức, tốt số và có thể sẽ được giàu sang. Nếu không được sao tốt tương trợ, tuy họ có được danh tiếng tốt nhưng thường không ổn định, nguyện vọng và kế hoạch đã định ra sẽ khó mà thực hiện được.
(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)
Theo phong tục xưa của Trung Quốc: vào tiết Hàn Thực 3/3 mọi người không nổi lửa mà chỉ ăn đồ nguội đã chuẩn bị sẵn từ hôm trước. Hàn thực có nghĩa là thức ăn nguội.
Ngày nay, người Việt Nam vào tiết Hàn Thực vẫn nổi lửa nấu nướng bình thường và thường làm bánh trôi – bánh chay để tượng trưng cho tết Hàn Thực. Chính vì vậy tết này còn được gọi là Tết Bánh Trôi – Bánh Chay.
Mâm lễ cúng ngày Tết Hàn Thực gồm: Hương, hoa, trầu cau và 5 (hoặc 3 bát) bánh trôi, 5 (3 bát) bánh chay dâng lên bàn thờ.
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
- Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
- Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành hoàng, ngài Bản xứ Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.
- Con kính lạy Cao Tằng Tổ khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Thúc Bá, Đệ Huynh, Cô Di, Tỷ Muội họ nội họ ngoại.
Tín chủ (chúng) con là:............... Ngụ tại:…………
Hôm nay là ngày……………gặp tiết Hàn Thực, tín chủ chúng con cảm nghĩ thâm ân trời đất, chư vị Tôn thần, nhớ đức cù lao Tiên tổ, thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, đốt nén tâm hương, dâng lên trước án.
Chúng con kính mời ngài Bản cảnh Thành hoàng Chư vị Đại Vương, ngài bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân, Ngũ phương, Long Mạch, Tài thần giáng lâm trước án chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật.
Chúng con kính mời các cụ Tổ Khảo, Tổ Tỷ, chư vị Hương linh gia tiên nội ngoại họ..................... cúi xin thương xót con cháu giáng về linh chứng giám tâm thành thụ hưởng lễ vật.
Tín chủ con lại kính mời các vị vong linh các vị Tiền chủ, Hậu chủ ngụ trong nhà này, đất này đồng lâm án tiền, đồng lai hâm hưởng, phù hộ cho toàn gia chúng con luôn luôn mạnh khỏe, mọi sự bình an, vạn sự tốt lành, gia đình hòa thuận, trên bảo dưới nghe.
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
Ngồi hướng ra cửa, không nên ngồi quay lưng ra cửa bởi vì trong phong thủy, điều này đem lại ý nghĩa rất xấu. Bạn sẽ thua trong bất cứ cuộc vận động nào để củng cố địa vị và quyền lực. Hoặc bạn có thể bị đồng nghiệp, nhân viên phản bội hay rất khó quản lý họ.
![]() |
Vị trí ngồi cũng ảnh hưởng đến sự thành công trong công việc |
Sau lưng phải là bức tường kiên cố, vững chắc. Không nên ngồi quay lưng với cửa sổ.
Dành một khoảng không gian rộng, thoáng hơn ở trước mặt bạn. Nếu có thể, hãy tạo một vùng không gian ít nhất cách khoảng 90cm trước mặt bạn. Hoặc ngồi ở vị trí có cửa sổ bên trái hay phía trước mặt.
Để kích hoạt góc Bắc (chủ về nghề nghiệp) của ngôi nhà hoặc văn phòng, điều quan trọng là bạn phải định hướng cho chính xác. Đứng giữa văn phòng và dùng la bàn để xác định hướng Bắc. Chia vùng không gian văn phòng thành 9 ô bằng nhau sẽ giúp bạn xác định dễ dàng khu vực phía Bắc.
Theo Sách Phong Thủy để thành công trong công việc và kinh doanh
Bài viết chép lại của tác giả Quách Ngọc Bội trên tuvilyso.org
Phép lập lá số tử vi đẩu số thủ công
1. Xét duyệt lại ngày sinh và giờ sinh.
a. Diện tích lãnh thổ của Trung Quốc rất rộng lớn, đối với ngày giờ sinh ở những địa phương không thuộc Trung Nguyên, phương pháp là dùng ngày giờ âm lịch của địa phương nơi sinh ra.
b. Bắc Kinh là 120 độ kinh đông, Quảng Châu là 113 độ kinh đông; mỗi độ 4 phút đồng hồ, như vậy người sinh ở Quảng Châu vào lúc 14h00, hoán chuyển thành thời gian Bắc Kinh thành ra 13h32'.
c. Theo Tử Vân tiên sinh nói, rất ít người sinh ra mà được đối chiếu chỉnh sửa ngày giờ cho chính xác, rõ hơn xin xem trong sách "Đẩu Số luận huynh đệ".
2. Vấn đề tháng Nhuận.
Tháng Nhuận đại thể lấy cùng tháng đó mà bài bố an sao, như tháng 10 Nhuận thì dựa vào tháng 10 mà bài bố; ngoai ra cứ phỏng theo như thế.
3. Định ngũ hành Dần thủ
Giáp Kỷ <Bính>; Ất Canh <Mậu>; Bính Tân <Canh>; Đinh Nhâm <Nhâm>; Mậu Quý <Giáp>.
4. An Mệnh Thân cung
Dần cung khởi tháng Giêng, đếm nghịch đến tháng sinh "Mệnh"; đếm thuận đến tháng sinh "Thân" (QNB chú: chắc ghi nhầm nhầm lẫn thuận với nghịch, tháng với giờ - tôi dịch nguyên văn.). An xong xuôi Mệnh Thân cung rồi sau đó có thể bài bố các cung vị khác.
5. Định ngũ hành Cục cùng với khởi Đại Hạn
Lấy Thiên Can Địa Chi của vị trí sở tại của Mệnh cung để tìm ra Ngũ hành Cục.
Ngũ hành Cục có tác dụng để khởi Đại Hạn: Dương nam âm nữ thuận đáo; âm nam dương nữ nghịch hành.
6. Định sao Tử Vi và Thiên Phủ
Định sao Tử Vi: phương pháp căn cứ vào ngày sinh chia cho số cục của ngũ hành cục.
[Ngũ hành cục số] ÷ [số ngày sinh] = thương số
6.1 Nếu chia chẵn, thì thương số tức là vị trí tọa lạc của sao Tử Vi. Như sinh ngày 27, Mộc tam Cục, thì thương số là 9, từ cung Dần khởi 1, đếm thuận đến 9 là cung Tuất, Tử Vi an tại Tuất.
6.2 Nếu không thể chia chẵn (tức là phép chia có số dư), thì lấy ngày sinh mà cộng thêm một số tự nhiên nhỏ nhất để có thể chia chẵn cho Cục số. Như sinh ngày 27, Kim tứ Cục, thì (27+1)÷4=7, lúc này từ Dần đếm thuận đến 7 là cung Thân, mà vốn dĩ sử dụng 27 cộng thêm 1, cho nên phải lùi lại 1 cung, tức là ngày 27 của Kim tứ Cục thì Tử Vi ở tại cung Mùi.
Chú: nếu như số tự nhiên mà được cộng thêm là số lẻ thì mới lùi ngược lại, còn là số chẵn thì tiến thuận, công thêm số nào thì lùi/tiến đúng bằng số ấy cung.
Định xong sao Tử Vi có thể định sao Thiên Phủ, mối quan hệ của chúng là 2 sao này đối xứng qua trục Dần Thân.
7. An các Chính Tinh cấp Giáp còn lại
Khẩu quyết:
Tử Vi, Thiên Cơ tinh nghịch hành,
Cách nhất Dương, Vũ, Thiên Đồng tình;
Hựu cách nhị vị Liêm Trinh đệ,
Không tam tiện thị Tử Vi tinh.
Thiên Phủ, Thái Âm thuận Tham Lang, (câu này viết nhầm chữ Âm thành Dương, QNB đã sửa lại)
Cự Môn, Thiên Tướng dữ Thiên Lương;
Thất Sát không tam Phá Quân vị,
Cách cung vọng kiến Thiên Phủ hương.
8. Miếu hãm của tinh diệu
(QNB chú: nguyên văn không ghi gì cả).
9. An lục sát cùng lục cát tinh
- Tả Phụ "Thìn" cung khởi chính nguyệt, thuận hành chí sinh nguyệt;
Hữu Bật "Tuất" cung khởi chính nguyệt, nghịch hành chí sinh nguyệt.
- Văn Xương "Tuất" cung khởi Tý thì, nghịch hành chí sinh thì;
Văn Khúc "Thìn" cung khởi Tý thì, thuận hành chí sinh thì.
- An Thiên Khôi, Thiên Việt
Khẩu quyết:
Giáp Mậu Canh ngưu dương < Việt >,
Ất Kỷ thử hầu < Việt > hương.
Bính Đinh trư kê < Việt > vị,
Nhâm Quý thỏ xà < Việt > tàng.
Lục Tân phùng mã < Việt > hổ,
Thử thị quý nhân hương.
- Kình Đà theo việc định Lộc Tồn của Thiên Can năm sinh rồi sau đó an bài, không nói rườm rà.
- An hai sao Hỏa Linh <lấy Địa Chi năm sinh và giờ sinh để tìm được>
Dần Ngọ Tuất: Hỏa < Sửu >, Linh < Mão > khởi giờ Tý thuận hành
Thân Tý Thìn: Hỏa < Dần >, Linh < Tuất > khởi giờ Tý thuận hành
Tị Dậu Sửu: Hỏa < Mão >, Linh < Tuất > khởi giờ Tý thuận hành
Hợi Mão Mùi: Hỏa < Mậu >, Linh < Tuất > khởi giờ Tý thuận hành
Quyết viết:
Dần Ngọ Tuất nhân sửu mão phương,
Thân Tý Thần nhân dần tuất dương;
Tị Dậu Sửu nhân mão tuất vị,
Hợi Mão Mùi nhân dậu tuất phòng.
(QNB chú: Hỏa Linh họ đều cho đi thuận cả, có khác biệt với Tử Vi Việt).
-
Địa Không từ < Hợi > cung khởi giờ Tý, nghịch hành đến giờ sinh,
Địa Kiếp từ < Hợi > cung khởi giờ Tý, thuận hành đến giờ sinh.
10. Khởi an Tứ Hóa theo thiên can năm sinh, không nói rườm rà. Chú: phái Tử Vân dùng can Quý thì Thái Dương hóa Khoa (QNB chú: dịch nguyên văn, có lẽ viết nhầm chữ Âm thành Dương).
11. An các tạp diệu còn lại
-
Thiên Hình < Dậu > cung khởi tháng Giêng, thuận hành đến tháng sinh;
Thiên Diêu < Sửu > cung khởi chính nguyệt, thuận hành đến tháng sinh.
Quyết viết:
Thiên Diêu sửu thượng thuận chính nguyệt,
Thiên Hình dậu thượng chính nguyệt luân;
Đếm đến tháng sinh đều dừng bước, liền an Hình Diêu hai tinh thần.
-
Hồng Loan < Mão > cung khởi Tý, nghịch hành tới Chi năm sinh;
Thiên Hỉ < Dậu > cung khởi Tý, nghịch hành tới Chi năm sinh.
Quyết viết:
Hồng Loan mão thượng Tý niên khởi,
Nghịch hành số chí sinh niên chỉ;
Đối cung ký thị Thiên Hỉ tinh,
Vận hạn mệnh phùng thiên hữu hỉ.
< Hai sao này vĩnh viễn ở tại đối cung >
- Hàm Trì < Đào Hoa sát >
lấy Chi năm sinh an bài, quyết viết:
Dần Ngọ Tuất, thỏ tòng mao lý xuất;
Thân Tý Thìn, kê khiếu loạn nhân luân;
Hợi Mão Mùi, thử tử đương đầu tọa;
Tị Dậu Sửu, dược mã nam phương tẩu.
- Thiên Mã
Căn cứ Chi năm sinh, quyết viết:
Thân Tý Thìn nhân mã cư dần,
Dần Ngọ Tuất nhân mã cư thân;
Hợi Mão Mùi nhân mã cư tị,
Tị Dậu Sửu nhân mã cư hợi.
- An Tam Thai, Bát Tọa
Lấy ngày sinh để an bài, quyết viết:
Tam Thai, Tả Phụ thuận sơ nhất,
Số chí sinh nhật thị Thai cung.
Bát Tọa, Hữu Bật nghịch sơ nhất,
Số chí sinh nhật định kỳ tung.
- An Long Trì, Phượng Các
Lấy Chi năm sinh để an bài, quyết viết:
Long Trì, khởi Tý thuận hành Thìn,
Sinh niên tiện thị phúc nguyên chân;
Phượng Các, Tuất thượng nghịch số Tý,
Ngộ chí sinh niên thị cát niên.
(Long trì từ Thìn khởi, hô Tý đếm thuận đến chi năm sinh. Phượng Các từ Tuất khởi, hô Tý đếm nghịch đến Chi năm sinh).
- An Thai Phụ, Phong Cáo
Khúc tiền tam vị thị Thai Phụ, Khúc hậu tam vị Phong Cáo hương.
(Vị trí thứ 3 trước Văn Khúc là Thai Phụ, Vị trí thứ 3 sau Văn Khúc là Phong Cáo).
Khởi lệ: Giả như Văn Khúc tai Tý thì cung Dần an Thai Phụ, vị trí thứ 3 sau Khúc chính là Tuất cung an Phong Cáo. Ngoài ra phỏng theo như thế, nhưng lấy bản cung của Văn Khúc mà khởi số.
- An Thiên Quý, Ân Quang
Quyết viết:
Văn Xương thuận số chí sinh nhật,
Thối hậu nhất bộ thị Ân Quang;
Văn Khúc thuận số chí sinh nhật,
Thối hậu nhất bộ Thiên Quý tràng.
QNB chú: không rõ là ở chỗ Thiên Quý bị chép nhầm chữ "nghịch" thành ra "thuận" hay là có sự khác biệt an sao với cách chúng ta vẫn dùng.
- An Cô Thần, Quả Tú
Lấy chi năm sinh để an bài, quyết viết:
Dần Mão Thìn nhân an Tị Sửu < tị cô >
Tị Ngọ Mùi nhân phạ Thân Thìn < thân cô >
Thân Dậu Tuất nhân cư Hợi Mùi < hợi cô >
Hợi Tý Sửu nhân Dần Tuất điền < dần cô >
QNB chú: xem cách chú thích trong bài này để rõ hơn về cách chú thích của họ trong bài quyết an Khôi Việt.
- An Thiên Hư Thiên Khốc
Quyết viết:
Thiên Khốc, Thiên Hư, khởi ngọ cung,
Ngọ cung khởi Tý, lưỡng phân tung;
Khốc nghịch tị hành hư thuận vị,
Sinh niên tầm đáo tiện cư trung.
Khởi lệ: phàm mệnh đều lấy 12 Chi năm sinh làm chủ. Giả như người sinh năm Thìn, thì từ Ngọ cung khởi năm Tý, nghịch hành qua Tị cung, cho đến Dần cung là đếm tới Thìn, liền an Thiên Khốc. Lại từ Ngọ cung khởi năm Tý, thuận hành qua Mùi cung cho đến Tuất là đếm tới Thìn, liền an Thiên Hư. Ngoài ra phỏng theo như thế. Như người sinh năm Tý thì Khốc Hư nhị tinh đều liền an tại cung Ngọ.
- An Đại Hao sát
Lấy Chi năm sinh để an bài, quyết viết:
Thử kỵ dương đầu thượng,
Ngưu sân mã bất canh.
Hổ hiềm kê uế đoản,
Thỏ oán hầu bất thanh.
Long tăng trư diện hắc,
Xà kinh khuyển ngọa khuẩn.
Hữu nhân phạm thử sát,
Tài thực tán linh đình.
=
Chuột ghét Dê trên đầu
Trâu giận Ngựa chẳng cày
Hổ ngại Gà mỏ ngắn
Mèo oán Khỉ không kêu
Rồng hận Lợn mặt xám
Rắn sợ Chó nằm thiu
Có người phạm Sát ấy
Của cải tiêu tán luôn.
QNB chú: sao Đại Hao này được an với Địa Chi tuổi, khác với Đại Hao theo vòng Lộc Tồn/Bác Sĩ, cũng khác với Đại Hao an theo Địa Chi trong môn Thất Chính Tứ Dư.
- An Tang Môn, Bạch Hổ, Điếu Khách, Quan Phù
Lấy chi năm sinh để an bài, quyết viết:
Thái tuế nhất niên nhất thế hoán,
Tuế tiền thủ tiên thị Hối Khí.
Tang Môn, Quán Sách cập Quan Phù,
Tiểu Hao, Đại Hao, Long Đức Kế.
Bạch Hổ, Thiên Đức liên Điếu Khách,
Bệnh Phù cư hậu tu đương ký.
* Phương pháp và nguyên tắc của việc định cung vị trọng điểm (lấy việc đầu tư làm thí dụ):
a, Muốn dùng việc đầu tư ròng để kiếm tiền, cung vị trọng điểm tất định tại cung Phúc Đức.
b, Xem xét thật kỹ mức độ cát hung của tam đại phúc đức cung, so sánh tính toán tương quan nặng nhẹ của chúng.
c, Tam đại Kị giao hội mạnh hơn so với lưỡng đại Kị, lưỡng đại Kị mạnh hơn so với nhất đại Kị.
Lộ trình tương tự, xem cho kỹ tác dụng mạnh yếu của Lộc tinh, cũng với so sánh như thế.
d, Bất luận là cát hay hung, miễn là tạo thành được "Cách cục", đều lấy tác dụng của "cách cục" mà so sánh sự mạnh mẽ. Bởi vì mức độ của cát hung, đầu tiên lấy cái việc thành cách của "cách cục" ra để mà luận. Khi không thành "các cục", sẽ tùy thuộc vào Lộc cát Kị hung để so sánh tính toán mức độ mạnh mẽ của chúng.
e, Mức độ của cát với hung, còn cần phải chú ý tới cung vị trọng điểm cùng các tình huống miếu vượng hãm nhược của các Tinh diệu ở tam phương. Tinh diệu ở vượng cung thì Lộc cát rất tốt đẹp, còn hãm địa thì Lộc cát cũng chỉ là hư phát. Ở vượng cung thì Kị hung là yếu tố xung kích, chỗ hãm địa thì Kị hung cực kỳ hiểm ác.
* Vận hạn của một người nào đó khi tiến nhập niên phần sáng sủa lại có đới hung sát thì <sự sáng sủa là do chỉ trông cậy vào mỗi cường vượng của chủ tinh mà nói> sẽ thường gặp phải những phán đoán sai lầm lớn.
* Đẩu số luận mệnh, khi gặp cát hung hỗn tạp, sẽ không vì cái hung mà làm tổn hại đến cái cát, cũng sẽ không vì cái cát mà làm giảm cái hung của nó. Bởi vậy mà mệnh bàn xuất hiện cát hung tương bạn thì nhất định phải "Cát hung phân đoạn" (Phân chia rõ cát hung mà phán đoán).
* Bản đại hạn mà hung ác, nhưng đại hạn sau lại tốt đẹp, sẽ khiến cho cuối đại hạn này có xu hướng chuyển sang tốt dần lên, lại tham chiếu tình huống của 3 năm lưu niên cuối cùng của bản đại hạn sẽ càng nghiệm.
* Luận đoán lưu niên của Đẩu số, nhất định phải căn cứ trên cát hung sở thuộc của đại hạn, coi như là căn cứ quyết định. Vừa lưu niên Tứ Hóa tinh, lại vừa lưu niên Kình Đà Lộc Tồn, thông thường đối với đại hạn sản sinh ra tác dụng dẫn động, mà tác dụng ấy thường thường hướng vào các tinh diệu của cung vị lưu niên (bao hàm tam hợp phương) làm ảnh hưởng càng thêm trọng yếu. Ngoài ra cần xem và xâu chuỗi mối quan hệ nhân quả của các năm liên tiếp gần hạn lưu niên đó để mà suy đoán cho kỹ tính chất liên quan trước sau. Dựa vào phân tích ở tại thời gian một năm nào đó trước đấy là "nhân" và ở tại thời gian một năm sau đó có khả năng phát sinh "quả".
Tiền nhân hậu quả của tính liên tục loại này, cùng với phép luận của lưu niên dẫn động đại hạn, có thể lấy mà phân tích mệnh bàn đẩu số, từ trạng thái tĩnh dẫn đến trạng thái động, từ đó có thể tìm hiểu sự tình diễn biến tiền nhân hậu quả.
* 30 năm đầu thì chú trọng vào tiên thiên Mệnh cung, 30 năm sau chú trọng vào Thân cung (ước chừng từ giữa đến nửa cuối đại hạn thứ 3 là bắt đầu tính).
* Ở trong đẩu số truyền thống, luận đoán nam mệnh, ngoại trừ các cách cục ở Mệnh Thân cung, thì còn phải lấy 2 cung Tài Quan làm trọng điểm. Nhưng với nữ mệnh, ngoại trừ Mệnh Thân cung thì lấy 2 cung Phu Tử làm trọng điểm.
* Nếu như muốn đi sâu vào nghiên cứu phán quyết đối với mệnh bàn, nhất thiết đầu tiên là bắt buộc phải thông thuộc và thấu triệt tính chất của tinh diệu, cùng với tác dụng "cách cục" của tổ hợp các tinh diệu đặc thù tạo thành. Nếu chỉ dùng sự dẫn động cát hung của Tứ Hóa, hiện tượng cát hung của sự suy luận thường giới hạn ở biểu hiện bên ngoài mà thôi, chứ đối với bản chất của nó thì rất khó mà thâm nhập lý giải.
* Người bình thường chỉ khán đại hạn mà không để ý đến khuyết tật thói xấu của tiên thiên Mệnh cung với các cung vị tiên thiên khác của nó, rồi cho rằng một ngày nào đó hành nhập đại hạn thì có thể bỏ mặc bàng quan với tương quan cung vị của tiên thiên, thì đó là quan điểm trái với thực tế khách quan.
* Diện tích lãnh thổ của Trung Quốc to lớn trải rộng, trong việc bài bố mệnh bàn của những người sinh ra ở các địa khu không thuộc Trung Nguyên thì phương pháp là: Đem thời gian tại địa phương nơi sinh ra, từ dương lịch hoán đổi thành âm lịch. Thời Thần của lúc sinh là hoán chuyển theo "giờ địa phương" (tức là Địa Chi giờ sinh lấy theo giờ địa phương nơi sinh).
Thêm một phương pháp: Bắc Kinh là 120 độ kinh đông, tra cứu xem độ số của địa phương nơi sinh ra là bao nhiêu độ kinh, sau đó lấy thời gian Bắc Kinh hoán chuyển thành thời gian địa phương nơi sinh. Như Quảng Châu là 113 độ kinh đông, thì giảm trừ đi 8 độ, mỗi độ là 4 phút đồng hồ, cho nên phải chậm đi 28 phút đồng hồ.
* Ở trong lý luận ứng dụng của Tứ Hóa tinh, cần phải chú ý đến: kết quả "liên Kị" mạnh hơn so với với "liên Lộc"; hay là "liên Lộc" mạnh hơn so với "liên Kị". Trong lý luận, đại hạn hiện tại cùng với song Kị của tiên thiên giao hội thì cung vị của song Kị giao hội sẽ có tác dụng rõ ràng mạnh mẽ. Cái đạo lý này, đồng dạng có thể ứng dụng đối với việc luận tam hóa "Khoa Quyền Lộc". Đặc biệt là hai sao Kị đó đối với cung vị nào đó của tiên thiên mà hình thành tác dụng giao hội thì, chính là hàm nghĩa, Kị tinh của đại hạn này xuất ra, tất nhiên sẽ phải đối với cung vị tiên thiên này tạo thành tác dụng kị hại rất rõ ràng mạnh mẽ. Lấy sự thụ hại tổn thất của cung vị tiên thiên đó để mà làm lúc phân biệt, nhưng cần khảo sát sự cường nhược của tinh diệu ở cung vị đó làm căn cứ luận đoán.
* Vận hạn nhập "cung không" thì, vận mệnh thông thường đều luận là nhược.
* Loại tác dụng tiếp diễn của hành vận <phép tắc dẫn động liên tục>, bất kể là tính lành hay tính ác, đều có thể hiện ra rõ ràng mạnh mẽ về tính xu thế của nó, vì vậy cũng đều lần lượt tham gia các bước phát triển về sau. Tính liên tục ấy tại hai đại hạn thì sẽ có tác dụng hiển lộ tính xu thế ở đại hạn đầu và kết quả cát hung thông thường biểu hiện tại đại hạn thứ hai. Nếu như tính liên tục tại ba đại hạn thì tính xu thế ảnh hưởng sẽ càng lớn, kết quả cát hung biểu hiện tại đại hạn thứ ba và biểu hiện mạnh hơn ở đại hạn thứ hai.
* Câu <Lộc phùng xung phá, cát xứ tàng hung> của Đẩu Số, hàm chứa cái sự xung chiếu của Sát tinh và Kị tinh đối với Lộc tinh, nhưng cát hung phía sau của Kị Sát tinh xung phá Lộc tinh thì thường là dựa vào <cung vị sự việc> mà có chỗ khác biệt: Bản hạn cung mà vượng, Kị <hàm Sát> xung hai cung <Tài Quan> thì không xung không... (QNB chú: chữ gì đó bị mất). Nếu bản cung mà nhược yếu thì <Tài Quan> đã bị Lộc Kị xung lại luận đoán là bất lợi. Nhưng Kị <Sát> Lộc xung chiếu các cung lục thân cùng với cung Nô Bộc, Tật Ách thì chủ nhân đều bất lợi.
* Trên mệnh bàn chỉ hội cát mà <lục sát hoàn toàn không hội chiếu>, loại tổ hợp mệnh bàn này, ảnh hưởng trực tiếp tích cực: là một dạng cả đời sự nghiệp bày ra không có trở ngại, cách cục không bị phiền nhiễu bởi các biến hóa; nhưng đối với mặt tiêu cực thì bởi vì không thấy chư sát kị tinh, khiến cho mệnh cách ở trong mệnh lý tiên thiên là không được trang bị <ý thức về sự gian khổ>. Dạng mệnh cách này nếu như ở vào những người với những công việc ổn định, khuôn phép, sáng cắp ô đi tối cắp về thì dần dần cũng tiến tới được thành quả nhất định; nhưng đối với những công việc mang tính khai phá hoặc chiếm lĩnh, sáng tạo, thì không phải khả năng mà mệnh cách này có được.
* Về tiêu chuẩn cách cục <cát hung tương bạn> nếu mà ứng với nó thì sẽ tiên thịnh hậu suy (trước thì tươi tốt thinh vượng nhưng càng về cuối càng suy vi sút kém).
* Đối với Thân cung tại vận hạn hậu thiên, một khi đã bị <dẫn động>, sẽ khiến cho tâm lý của đương số xuất hiện <sự điều chỉnh tác dụng> phù hợp.
* Trong luận đoán cát hung, mọi thứ đều cần lấy <cách cục> làm trọng, cũng chính là do <cách cục> hình thành sau cùng nên nhất định trước tiên phải khán cách cục. (Chú thích: cát cách > hung tượng; hung cách > cát tượng. Cát cách; hung cách cùng tồn tại là cát hung tham bán, sẽ cần phải khán sự dẫn động của Thiên Can vận hạn).
* Đẩu số <Tam Thai> lý luận, ngay trong hung hạn liên tục 3 cung: ba hạn lưu niên <hoặc đại hạn> thì thường hội tại cái cung hạn thứ hai dần biểu lộ hung tượng, trễ nhất thì ở cung hạn thứ ba sẽ hoàn toàn hiển lộ hung tượng.
* Các sao Bắc đẩu: cương (mạnh mẽ); khoái (nhanh chóng); nguyên lai (vốn dĩ sẵn có)
các sao Nam đẩu: nhu (mềm dẻo); mạn (chậm); tân lai (vừa mới xảy đến).
* Cách cục ở Mệnh Thân cung, chính thị đại biểu cho tình hình tính chất đặc biệt về mệnh lý của đương số đó, kết quả chính là thánh hiền, tài năng, ngu đần hay là bất tài.
* Lục sát, tuy rằng liệt vào nhóm hung tinh sát diệu, nhưng sáu sao này ngoài tính chất dẫn hung thành ác, hoặc là có thể chuyển hung thành cát, thường thường dựa vào các tinh diệu cấp Giáp, có thể không dựa vào sự cường vượng mà được <chế sát vi dụng> để mà luận định.
* Thân cung đối với vận thế sau thời kỳ trung niên, có ảnh hưởng điều chỉnh tương đối lớn. Một người nào đó suốt cuộc đời cho đến trước lúc già cuối đời, càng từng trải càng tốt hay càng hỗn tạp bó buộc càng hỏng, sự cường vượng hay yếu nhược và cát hung của Thân cung chính vốn có tác dụng điều chỉnh mạnh mẽ tương xứng.
* Căn cứ vào Mệnh cung làm lý luận đầu mối then chốt tổng quát cho mệnh bàn, sau khi một người nào đó đi vào vận trình đại hạn, cần phải suy luận ở bản cung vận hạn, cũng cần lấy cách cục của mệnh cung tiên thiên làm cơ sở, tiếp đó hãy đánh giá xem đại hạn đó tinh diệu có khả năng phát sinh ảnh hưởng hay không. Giả dụ như người "Sát Phá Lang" mà hạn vận hậu thiên lại đi đến cung cũng gặp cách cục loại ấy thì anh ta đương nhiên sẽ có những khuynh hướng lớn của sự thay đổi hoàn cảnh. Giả dụ như người "Cơ Nguyệt Đồng Lương" mà khi nhập hạn vận "Sát Phá Lang" thì anh ta trong loại hạn kiểu này sẽ có khuynh hướng chủ biến động ở trong vận trình, dù cho có cả sự thay đổi hoàn cảnh, nhưng biến động của anh ta sẽ gặp phải là rất ít. Cùng là loại hạn vận tại cung vị "Sát Phá Lang" nhưng mà do sự không giống nhau của đương số nên không thể có cùng một loại nhận định, chỉ cần hạn nhập cung vị loại nào, đều chủ có sự biến động hoàn cảnh lớn nhỏ tương ứng.
* "Phép tắc liên tục dẫn động" chẳng qua chỉ là một loại phương pháp suy đoán đối với một sự việc nào đó. Lợi dụng phương pháp này, có thể giúp lý giải quá trình và những động thái biến hóa của sự việc. Nhưng bản chất cát hung của sự việc lại không đơn giản chỉ là áp dụng phương pháp này mà có thể phân biệt rõ ràng được.
Có thể ứng dụng quan niệm [Biểu, Lý] trong lý luận của Đông Y để mà giải thích về Mệnh lý đẩu số đối với Mệnh Thân và tác dụng của Thái Tuế (QNB chú: theo Đông Y thì cặp [Biểu, Lý] gắn liền với lý luận cặp Âm Dương, Biểu là biểu lộ bày tỏ biểu hiện ra bên ngoài, Lý là nội tại ở bên trong). Cách cục của Mệnh Thân hình thành bộ khung và phong cách biểu hiện của một cá nhân, cho nên nó thuộc về [Biểu], còn cung vị Thái Tuế ví như sự ảnh hưởng mạnh tới mức độ nào đó, thường thường là động lực căn bản của các mưu đồ hành vi tư tưởng, mà cái động lực căn bản đó chính là thông qua biểu hiện tác phong hành sự của Mệnh Thân cung mà biểu lộ ra bên ngoài. Cho nên, ảnh hưởng của cung vị Thái Tuế thuộc về [Lý].
Trong kinh tế học có câu danh ngôn nói [sự vận động của kinh tế, chính là bị thao túng điều khiển bởi một bàn tay vô hình nào đó], thực ra thì đối với mệnh lý mà nói, sự hưng suy khởi phục của cả cuộc đời một cá nhân, cũng là một phần thuộc về ở tự bản thân mình điều tiết, nhưng vừa tự điều tiết vừa có sự thao túng điều khiển bởi một bàn tay vô hình nào đó.
Tương tự thì loại [cung vị Thái Tuế] thuộc về cung vị có tính ẩn tàng của [Lý], cách cục tinh diệu của nó chính là như bàn tay vô hình tự điều tiết kia. Vô hình trung mưu chước thao túng lại thông qua Mệnh Thân cung và vận trình đại hạn mà xuất hiện phong cách hành sự. Đối với biểu hiện hành vi của một đương số thì cách cục cung vị Thái Tuế có ảnh hưởng tác dụng mang tính mấu chốt.
Đây là một hạng mục quan niệm, trên thực tế, cùng loại này thuộc về ảnh hưởng tác dụng của [Lý] lại vốn có ảnh hưởng của tính chất mấu chốt của cung vị có tính chất đặc biệt, [cung vị Thái Tuế] chỉ là một trong số đó, cũng không phải là cung vị duy nhất.
(Trích từ "Đẩu Số đàm Phụ Mẫu tình" của Tử Vân, P036)
Trước khi vận dụng "Thái Tuế nhập quái tượng", đối với với tính chất tác dụng của Thiên Can năm sinh và Thiên Can vốn có của cung vị, nếu sử dụng quan niệm "Biểu Lý" của Đông Y để mà thuyết minh, thì Thiên Can năm sinh chính là "Biểu", còn Thiên Can cung vị chính là "Lý". Tác dụng ảnh hưởng của "Biểu" thường thường biểu hiện qua những xử sự cá nhân của chỗ Thái Tuế của người ấy tọa thủ, còn biểu hiện của "Lý" chính là đem Thái Tuế nhập cung và giữa nó với mệnh tạo (đương số) sản sinh ra một mối quan hệ hỗ động lợi hại ghê gớm ở một mức độ nào đó thì biểu thị cho thấy tình hình.
Lấy mệnh bàn của ông chủ Lâm (nam mệnh, nông lịch năm 1936 tháng 2 ngày 7 giờ Tị) làm ví dụ để thuyết minh. Năm Giáp Thìn (1964) sinh con trai, cùng với phụ thân anh ta sống chung với nhau, thân tình giữa cha con không hề sút kém, chẳng qua là trong sự tham gia công việc nhà máy với phụ thân anh ta sau này thì cách xử sự e rằng hiếm khi thấy nhận được sự đồng thuận của cha anh ta. Rồi năm Bính Ngọ (1966) sinh con gái, vì năm sinh có can Bính khiến cho Liêm Trinh hóa Kị tại Tuất là Mệnh cung của cha cô ta, cung Tuất lại xung hội vào Ngọ và Thìn có chư sát tinh, hơn nữa lại có cả Kình Đà của năm Bính tại Ngọ và Thìn cung. Bởi vậy đối với mối quan hệ thân tình cha và con gái xem ra biểu hiện dường như không thể nào mà tốt đẹp được. Nhưng bởi vì cung Ngọ vốn có Thiên Can khiến cho Liêm Trinh hóa Lộc vào Tuất là Mệnh cung, và Phá Quân hóa Quyền tại Thân là Thân cung, còn Vũ Khúc hóa Khoa ở Dần cung là cung Quan Lộc. Bởi vậy mà cô ta đi làm ở nhà máy của cha mình, biểu hiện công tác của cô thường nhận được sự ưng thuận đồng tình trọn vẹn.
(Trích từ "Đẩu số luận tử nữ" của Tử Vân, P256).
Thái Tuế của người khác nhập cung, nếu như các tinh diệu cấp Giáp ở chỗ sở tọa của Thái Tuế cùng với tinh diệu của cung Mệnh của đương số tạo thành hiện tượng sinh khắc khác biệt, tương sinh thì hợp, tương khắc thì không hợp.
(Trích từ "Đẩu số luận tử nữ" của Tử Vân, P256).
Quan niệm
Luận đoán mỗi một hiện tượng mệnh lý của các hạng mục cung vị, nhất định cần phải kết hợp tham khảo với Mệnh cung (hoặc bản cung Đại hạn) mà luận đoán. Cung Nô Bộc tiên thiên mà tốt, cung Nô Bộc đại hạn hội sát kị hung tinh, nhưng cung Mệnh tiên thiên ở trong vận trình này mà nhận được cát hóa khiến cho cách cục của cung Mệnh tăng cát, đồng thời bản cung đại hạn lại hội cát diệu, tự nhiên sẽ khiến cho tính hung của cung Nô Bộc đại hạn giảm hẳn đi.
Vẫn theo mệnh lý mà nói, vận trình lúc về già cao tuổi, trong trường hợp đi vào đại hạn có cách hung, nếu bất cập thì nên rút lui, còn xuất đầu lộ diện thì e rằng chẳng có gì tốt đẹp đâu.
Với mệnh lý mà nói, có thể trong hoàn cảnh thời thế tạo anh hùng với người bộc lộ tài năng, tự nhiên phải vốn có sẵn một chút điều kiện mệnh lý chính xác tương xứng. Một người thành công, dĩ nhiên có điều kiện mệnh lý của họ, nhưng cũng nhất định cùng với hoàn cảnh thời đại của xứ sở của anh ta có liên quan, chứ cũng chẳng phải là hoàn toàn do nhân tố mệnh lý tạo thành.
Tổ hợp tinh diệu của Mệnh Thân cung tạo thành cát cách, ở Thiên Di cung lại có nhóm cát tinh tụ tập, dạng đương số kiểu này cả một đời vận trình gặp được không chỉ là sự thuận lợi chẳng có sự ngăn trở, mà còn dễ dàng nhận được sự dìu dắt đề bạt của quý nhân. Nói cách khác, dẫu không được quý nhân đề bạt, chủ yếu là dựa vào sự phân định nghiên cứu những dấu hiệu mệnh lý biểu hiện ở Mệnh Thân cung và Thiên Di cung. Ngược lại, nếu như người mà tổ hợp ở Mệnh Thân với Thiên Di cung mà kém đẹp, trong đời khó mà gặp được quý nhân đề bạt, mà dẫu cho có may mắn gặp được quý nhân khen ngợi đề bạt thì cũng e rằng là chẳng dễ có được cách cư xử tốt đẹp.
Lời nói đầu
Cận đại có rất nhiều người tìm hiểu mệnh lý đẩu số, thường đem những bài ca phú của các bậc tiên hiền, mà họ thuộc như cháo chảy, mỗi khi gặp lúc suy đoán hoạt bàn mệnh lý là thường dẫn dụng các câu văn lời phú để mà làm căn cứ luận đoán.
Thí dụ như, đàm luận về phương diện Phu Thê cung, thì khả năng gặp sự viện dẫn:
"Thái Vi phú":
Thái Âm đồng Văn Xương vu Thê cung, thiềm cung chiết quế.
(Thái Âm cùng với Văn Xương ở cung Phu Thê thì như bẻ cành nguyệt quế cung trăng, ám chỉ việc lấy vợ đẹp lại là con nhà danh giá, được nhờ vợ mà công danh thăng tiến).
Hay là như:
Thái Âm hợp Văn Khúc vu Thê cung, hàn lâm thanh dị.
(Thái Âm hội hợp với Văn Khúc ở cung Thê thì như giới hàn lâm thanh cao khác thường, cũng ám chỉ tương tự như trên).
Dường như người mà cung Phu Thê có cách cục loại này, chẳng những trong đời sẽ lấy được vợ xinh đẹp như các mỹ nhân tiểu thư, mà sau khi cưới được người vợ vượng phu ích tử, khiến cho con đường quan lộ được đắc ý, từng bước thăng tiến cao, việc buôn bán cũng như sự nghiệp đều như chim hồng chim hộc bay cao, của cải sinh sôi dồi dào.
Lại như "Ngọc Thiềm phát vi luận":
Thiên Diêu Phu Thê cung tắc tà dâm nhi đam tửu;
Sát lâm Phu Thê cung, định Phu Thê bất hòa.
(Thiên Diêu đóng ở cung Phu Thê thì tà dâm và mê hoa luyến tửu; Sát tinh lâm vào cung Phu Thê thì xác định là vợ chồng bất hòa).
"Nữ Mệnh Cốt Tủy phú":
Tam phương tứ chính hiềm phùng sát,
Cánh tại Phu cung họa hoạn thâm
Nhược trị bản cung vô chính diệu,
Tất chủ sinh ly khắc hại chân.
(Tam phương tứ chính mà gặp sát tinh
Gặp thêm ở tại cung Phu là tai họa càng nặng
Nếu gặp bản cung mà vô chính diệu
Thì nhất định chủ sinh ly khắc hại).
Nếu căn cứ vào những thuyết pháp này, người nam mà có cách hung ở cung Phu Thê thì không những là kẻ phóng đãng tham luyến tửu sắc, mà hôn nhân cũng chắc chắn còn bị xáo trộn kiểu chó nhảy gà bay. Nữ mệnh thì không những trong quãng thời gian trung niên chủ bị hôn nhân có sự sinh ly tử biệt, mà còn cả một đời cũng phải trải qua những chuỗi ngày khó nhọc.
Bởi vì quan niệm mệnh lý truyền thống cho rằng, một cá nhân mà cung Phu Thê có dạng như thế nào thì nhất định là trong cuộc sống hôn nhân sẽ xuất hiện những trạng thái tình huống đúng với dạng đó. Nếu cung Phu Thê cát, tất nhiên cả đời hôn nhân sẽ mỹ mãn, tình thâm nghĩa nặng, sát cánh kề vai. Còn như cung Phu Thê hung, nếu không nửa đường đứt gánh vì phải chịu tang người phối ngẫu, thì cũng là chia lìa đôi ngả, đường ai nấy đi.
Nếu căn cứ quan niệm mệnh lý dạng này của Tử Vi truyền thống để mà luận đoán tình hình hôn nhân của một cá nhân thì hoàn toàn phụ thuộc vào cung Phu Thê. Như thế thì chỉ cần người nào đó có cùng mệnh bàn lá số (cùng năm cùng tháng cùng ngày giờ sinh, hoặc là người có tổ hợp mệnh bàn tương tự gần giống) sẽ gặp những tình huống phát sinh như sau:
Thứ nhất, lý ứng vào cùng năm (tuổi) kết hôn hoặc ly hôn.
Thứ nhì, lý ứng về tình hình hôn nhân tương đồng, hoặc đều có nhân duyên mỹ mãn, hoặc cùng là các đôi vợ chồng bất hòa.
Thứ ba, đều có sự tương đồng về sinh ly hay tử biệt, cũng đều có số lần tái hôn và kết quả tái hôn tương đồng với nhau.
Nhưng căn cứ vào kinh ngiệm tích lũy mà bút giả biết, ảnh hưởng của cung Phu Thê dĩ nhiên là cung vị trọng yếu của luận đoán cát hung về hôn nhân. Nhưng nên biết là nó không phải cung vị trọng điểm duy nhất của đời sống hôn nhân trên thực tế.
Bút giả cho rằng, cung Phu Thê ấy, lý ứng tiêu biểu cho một người đương số ấy. Trong một dạng "hình thái ý thức" của hôn nhân và tình cảm nam nữ, thường thường chi phối đương số ấy về phương diện hôn nhân và tình cảm, theo các tiêu chuẩn và quan niệm của đương số xử lý như thế nào. Cái cung vị này lại như một bàn tay vô hình nào đó âm thầm thao túng, tạo thành động lực gốc của cá nhân ấy xử lý vấn đề tình cảm hôn nhân như thế nào.
Nếu theo quan điểm này để mà tìm hiểu về cung Phu Thê, công năng của nó trong mệnh lý đẩu số chẳng qua là phản ứng của một cá nhân trong phương diện tâm lý hoặc ý nguyện về tình cảm với hôn nhân. Chứ không thể tiêu biểu cho trạng huống đời sống hôn nhân và tình cảm thực tế của một cá nhân.
Bởi vậy, trong truyền thống đối với nhận thức về tác dụng của cung Phu Thê, cũng không thể sử dụng để mô tả giải thích hết được về đời sống hôn nhân với tình cảm trên thực tế được.
Bút giả phát hiện nghiệm lý được qua vô số kinh nghiệm luận mệnh, có nhiều lá số với cung Phu Thê gần như là tương đồng về cát hung vậy mà xuất hiện kết quả về hôn nhân với tình cảm hoàn toàn không tương đồng. Một cung Phu Thê khán thấy dường như "đại cát", lý ra ứng với hôn nhân mỹ mãn, bạch đầu giai lão, nhưng mà kết quả cuối cùng thì lại là sinh ly với tử biệt. Ngược lại, cung Phu Thê có Kị sát giao xung khắp nơi đầy hung tượng, nhưng hôn nhân cả đời lại êm ả chẳng có sóng gió gì cả, thành tựu nhân duyên tốt đẹp. Cát hung của cung Phu Thê ấy, cùng với hôn nhân thực tế hình thành ví dụ thực tế trái ngược lại về mệnh lý. Phàm những người vốn có kinh nghiệm về mệnh lý, chắc cũng đều đã gặp những trường hợp như thế.
Nhưng đáng tiếc là đối với vấn đề mâu thuẫn này, trong các các tác phẩm cổ thư hình như chưa thấy đề cập, trong các tác phẩm mệnh lý đẩu số gần đây càng không thấy đàm luận. Thật không rõ là do các cao nhân tiền bối từ xưa tới giờ rốt cuộc là vì giữ kín không nói ra, hay là vì chưa từng suy nghĩ đến cái đó, hay là không có cách nào khai giải câu đố ấy mà không đi sâu hơn nữa?
Bởi vì, về cung Phu Thê, vừa không thể dùng trọn vẹn nhưng vừa phải dùng trên thực tế để khảo sát vấn đề của trạng huống đời sống hôn nhân chân thực, do đó mà trở thành thiên cổ huyền án.
Chỗ học về mệnh lý đẩu số truyền thống, dĩ nhiên có cái tinh túy của nó để khai thác lập luận, trong luận đoán mệnh lý cũng có sự mở rộng các chỗ độc đáo ở khắp nơi đều rất chuẩn tắc. Nhưng mà trong phương diện kỹ xảo suy diễn và lý luận cũng có nhiều sơ xuất thiếu xót, cứ như là cái kiểu hết giấy khó viết rõ ra được. Cái môn Đẩu Số bao nhiêu năm nay toàn là dậm chân tại chỗ mà đình trệ chẳng có bước tiến, nghiên cứu nguyên nhân của nó, thực chính là do bản thân chúng ta, không thể không khiến cho trong lòng than thở không nguôi!
Tại đây, bút giả đề xuất phương pháp ứng dụng và lý luận của "Thái Tuế nhập cung" hay là "Thái Tuế nhập quái" cùng với "Nguyên lý tương khế" (tương ứng tương hợp qua lại lẫn nhau). Khả dĩ sử dụng để giải quyết thiên cổ huyền án, nhưng một sự phát hiện với lý luận mới sơ khai thì khó mà tránh được những chỗ khiếm khuyết, do đó rất mong các tiền bối cao nhân đồng nghiệp có thể chỉ giáo, thì hậu học thật là may mắn! Môn học đẩu số cũng thật là may mắn!
Phu Thê cung và hôn nhân tình cảm
Mấy năm gần đây, tốc độ viết sách và ra sách liên tục vào mỗi năm một quyển, dù không dám nói ngoa là các công trình chắc chắn tinh tế sống động, nhưng độc giả cần hiểu cho là, trong khi đã đặt bút viết thì bút giả có thái độ rất cẩn thận tỉ mỉ.
Mỗi khi một bản sơ thảo của một quyển nào đó được hoàn thành, điều quan trọng đầu tiên là mang nhờ một hai vị chuyên gia cùng giới (đẩu số) trợ giúp duyệt bản thảo. Tra soát xem những ý chính luận đàm trong cách hành văn có gì khó hiểu, để tránh phạm vào cảnh vừa đá bóng vừa thổi còi (tự thuyết tự đạo, tức là cảnh vừa tự hát lại vừa tự khen) mà có thể gây khuyết điểm khiến độc giả không biết là đang nói những gì.
Khi bản sơ thảo của quyển "Đẩu Số luận nhân duyên" này hoàn thành, tôi cũng mời hai vị chuyên gia trong giới đẩu số là các tiên sinh Chu, Triệu trợ giúp duyệt bản thảo, nhằm mong nhận được những ý kiến khách quan. Nhân đây cũng đặc biệt xin gửi lời cảm tạ tới hai vị ấy.
Sau khi xem trọn vẹn tất cả bài viết, các ông ấy chẳng hẹn mà cùng bày tỏ rằng: Đây vừa là một quyển có lập luận so với truyền thống là mang luận điểm rất lạ mà cũng rất kỳ thú. Độc giả phổ thông, nếu như trước khi vào đọc tác phẩm mà không có một chút khái niệm nào, thì khi đọc sẽ có thể bị phương pháp suy diễn và lập luận của sự độc đáo này khiến cho xây xẩm mặt m*y, lăn quay ra đất.
Ngay sau đó, các ông ấy đưa ra một số vấn đề, yêu cầu tôi phải thuyết minh trước.
Vượt qua 12 cung vị (siêu việt thập nhị cung vị)
Triệu tiên sinh nói: "Trong cuốn <<Đẩu số luận cầu tài>> anh đã công khai xác nhận giải thích đầy đủ thông qua cái lý cung vị trọng điểm của việc đắc tài lộc không chỉ ở Tài Bạch cung mà còn ở Phúc Đức cung. Chuyện như thế khác với luận điểm truyền thống, sau đó khiến cho rất nhiều đồng đạo của giới đẩu số rất kinh ngạc. Rồi lần luận đàm này về tình cảm và hôn nhân, lại không lấy dùng <<cung Phu Thê>> như truyền thống, e rằng sắp tới sẽ tạo thành sự chấn động lớn hơn nữa. Nếu như mà không có những lời nhắn nhủ trước khi vào đàm luận các ví dụ mệnh lý thì e rằng khiến cho các độc giả theo luận điểm của quan niệm truyền thống sẽ đối với loại này sẽ cảm thấy mê hoặc, không thông suốt được!"
Chu tiên sinh cũng bổ sung nói: "Nghe qua anh giải thích mở ra về tác dụng và bản nghĩa của 12 cung vị hạng mục sự tình, cũng đã biết được rằng, với suy luận của anh về các cung vị hạng mục sự tình đó đã sớm thoát ly được ra khỏi cái vai trò khuôn mẫu vốn có 12 cung vị. Nhưng mà những điểm trọng yếu về suy luận và quan niệm dạng này, làm cho các đồng đạo mới ban đầu đọc đến cái tác phẩm này, e rằng không những là sự chấn động mà còn khiến cho cho đẩu số mệnh lý sinh ra sự hoài nghi triệt để, thậm chí vì nó mà có thể gây ra sự mất lòng tin!".
Đối với tôi (QNB chú: chữ "Tôi" ở đây tức là ông Tử Vân), mặc dù trong phương pháp suy luận và lý niệm về đẩu số có rất nhiều phương diện khác với truyền thống. Nhưng coi như là một người nghiên cứu nghiệp dư yêu thích đẩu số, trộm nghĩ truy cầu diện mạo thực sự của mệnh lý đẩu số chứ cũng bất kể là so với lý niệm và phương pháp suy luận có cái gì sai biệt lớn. Bởi vì văn minh của nhân loại vốn ngay trong quá trình tiếp diễn đều không ngừng mong muốn có những bước tiến bộ. Nếu như mà quá sùng cổ phi kim (yêu cái cổ xưa mà không lý gì đến cái hiện đại) thì là một trở ngại của sự tiến bộ, còn nếu mà quá phi cổ sùng kim (bỏ cái cổ mà sùng bái cái hiện đại) thì cũng khiến cho văn minh tạo thành sự đứt đoạn từng khúc.
Bởi vậy mà, với tôi mặc dù trong phương pháp suy luận mệnh lý đẩu số, có chút khác biệt với phương pháp truyền thống, nhưng trên cơ bản thì chút lý niệm mới của tôi vẫn là có nguồn gốc từ quan niệm đẩu số của truyền thống. Chẳng qua chỉ là đem cái quan niệm truyền thống này mà một lần nữa làm sự đột phá vào cái khuôn mẫu sẵn cũ đó để giải thích và vận dụng, khiến cho nó có thể thêm phù hợp để mà tìm hiểu cái đạo, cái lý của mệnh lý trong sự phức tạp đan xen lẫn lộn của đời người.
Triệu tiên sinh: "Trong truyền thống, nắm cát hung của cung Phu Thê thì coi như nắm được căn cứ luận đoán về hôn nhân suốt đời của đương số. Anh hình như là không thực hiện theo khán pháp loại ấy?".
Quan niệm loại này, nói một cách nghiêm túc thì cũng chẳng có cái gì là sai khác lớn. Bất quá thì nếu như đem cung vị ấy khán được đương số ấy, nó khác với một dạng "hình thái ý thức" trong tình cảm và hôn nhân, có lẽ càng thêm bổ khuyết.
Chu tiên sinh: "Nếu được thì anh có thể nó cụ thể hơn chút nữa chăng?"
Thí dụ như nói, người mà cung Phu Thê có tổ hợp "Sát Phá Lang", vì ảnh hưởng tính chất được phú cho thuộc loại cương cường rõ rệt và ảnh hưởng về tính động của nó cũng rõ rệt. Do đó mà đương số dạng này, anh ta trong sự lựa chọn đối tượng tình cảm cho mình, thường hội khuy hướng ở sự lựa chọn những người mà có cá tính tương đối mạnh và có tính linh hoạt rõ rệt. Còn nếu như là cung Phu Thê lại thuộc loại "Cơ Nguyệt Đồng Lương", anh ta sẽ có khuynh hướng lựa chọn người có cá tính hòa nhã thuộc dạng ôn hòa rõ rệt.
Hành động và biểu hiện của một cá nhân, ngoại trừ chịu sự tác động ảnh hưởng của hoàn cảnh bên ngoài, thì chủ yếu nhất vẫn chính là chịu sự dẫn dắt của quan niệm và tư tưởng của người đó. Chuyện như thế thuộc về quan niệm và tư tưởng của cá nhân cũng chính là "hình thái ý thức" của anh ta. Đem vận dụng lý luận như thế vào cung Phu Thê, đối với ảnh hưởng tác dụng của cung vị này trên mệnh bàn vốn có thì có thể thu được thêm sự ứng dụng và giải thích hợp lý và trọn vẹn hơn nữa.
Chu tiên sinh: "Có một số cung Phu Thê dường như cát, nhưng hôn nhân cũng không phải là rất tốt đẹp. Có một số cung Phu Thê dường như hung, nhưng hôn nhân cả đời lại chẳng có trở ngại. Rốt cuộc thì là do cái gì?"
Một cá nhân khi mà chưa kết hôn, thì không khỏi luôn mong chờ một cuộc hôn nhân mỹ mãn, do đó đều dựa vào cái lý tưởng trong "hình thái ý thức" để mà đi lựa chọn đối tượng. Nhưng "ý thức" của con người, trong cuộc đời thường gặp sự hiệu chỉnh và cải biến tùy rõ rệt theo tuổi tác và hoàn cảnh.
Thí dụ như nói, người ta lúc còn trẻ, gặp chuyện là hăng hái xông lên mạnh mẽ thập phần; đến khi trung niên thì xử sự ổn trọng, biết chỗ tiến thoái; đến lúc lão niên thì phong mang nội liễm (mũi kiếm đã tra vào trong bao, ý nói sống hướng nội hơn khi trẻ) chẳng mảy may chút nào với được mất. Diễn biến của thái độ xử sự dạng này, ngoại trừ do sự tăng trưởng của tuổi tác con người ra, thì thường cũng do sự biến hóa thay đổi của hoàn cảnh, khiến cho tâm thái, hình thái ý thức, của cá nhân đó nảy sinh ra sự biến hóa thay đổi hoặc là điều chỉnh cực lớn. Cho nên con người ta trong phương thức xử sự ở đời mới có những khác biệt quan trọng về giai đoạn tuổi tác.
"Hình thái ý thức" của một cá nhân trong phương diện hôn nhân cũng có những hiện tượng điều chỉnh hoặc là thay đổi theo tuổi tác kiểu đó.
Bởi vậy để mà nói, vì sao chỉ với mỗi mình cung Phu Thê tiên thiên cũng có lúc không thể xem được đối với đương số ấy về nguyên nhân của các trạng huống của hôn nhân thực tế.
Khi đem suy diễn các trạng huống hôn nhân thực tế, ngoại trừ quyết định bằng cách lấy hiên tượng cát hung của cung Phu Thê tiên thiên ra, còn phải lưu ý đến những hình thưc biểu hiên cát hung của cung Phu Thê hậu thiên lúc hành hạn như thế nào, khả năng đối với hôn nhân tạo thành ảnh hưởng ra làm sao.
Thí dụ như nói:
Thứ nhất, cung Phu Thê tiên thiên tốt đẹp, nhưng trong đại hạn sau khi kết hôn lại không ngừng khiến cho Kị tinh xung kích từ Quan vị này, khiến cho cát tượng vốn có của cung Phu Thê tiên thiên chuyển thành hung, mà khiến cho hôn nhân phải chịu sự phá hoại.
Thứ hai, cung Phu Thê tiên thiên kém đẹp, nhưng liên tục mấy đại hạn sau khi kết hôn, lại thường xuyên có Hóa Lộc chiếu vào cung vị đó, cái sự hội tụ đó khiến cho sự kém đẹp ở cung Phu Thê tiên thiên lại chuyển từ hung thành cát.
Thứ ba, cung Phu Thê tiên thiên tốt đẹp, nhưng các cung Phu Thê đại hạn sau khi kết hôn liên tục biểu hiện hung tượng thì sự hòa hợp của vợ chồng mỗi ngày một giảm đi.
Thứ tư, cung Phu Thê tiên thiên không tốt đẹp, nhưng các cung Phu Thê đại hạn sau khi kết hôn lại liên tục biểu hiện cát tượng, thì sự tương hội của hôn nhân như là chuyển thành cảnh khổ tận cam lai, càng về sau càng ngọt ngào.
Hoàn cảnh có khi cũng hội những ảnh hưởng đến sự hài hòa hay không của hôn nhân. Tục ngữ vốn có câu nói "bần cùng phu thê bách sự ai" (nghèo khó thì vợ chồng trăm sự đều bi thương). Người như thế một khi cung Phu Thê tiên hậu thiên mà kém đẹp, lại vì gia cảnh quẫn bách, thì gặp sự hung ác hóa tăng nặng thêm về quan hệ hôn nhân. Do đó mà luận hôn nhân, có khi hoàn cảnh gia đình cũng là một điều kiện mà không thể bỏ qua được.
Triệu tiên sinh: "Tảo hôn hoặc trì hôn thật rõ rệt (trên thực tế), từ xưa tới nay trong mệnh lý dường như cũng rất là trọng thị, cái đạo lý này là do đâu? Giới hạn tuổi tác của sự kết hôn sớm muộn là như thế nào?"
Thông thường đều theo hiện tượng cát hung của cung Phu Thê tiên thiên để mà phân định có hay không việc có thể kết hôn sớm hoặc là nên kết hôn muộn.
Trạng thái tâm lý của con người có thể tùy vào tuổi tác mà có sự điều chỉnh hoặc biến hóa thay đổi trước rõ rệt. Con người ta gần năm 20 tuổi đều đã có nhu cầu mạnh mẽ trong tâm lý và sinh lý về tình dục đối với người khác giới tính. Nhưng người trẻ tuổi ở cái độ tuổi này, khí huyết đương còn cương mãnh, sinh lý thì thành thục có thừa, mà tâm lý thì chưa đủ ổn định. Ở độ tuổi đó mà kết hôn thường khiến cho hai người vợ chồng trẻ đó thiếu sự tương kính với nhau, trong đời sống sinh hoạt chung thì phối hợp khó mà ăn ý.
Còn nếu kết hôn khi mà tuổi đã nhiều một chút, thì dầu cho hai vợ chồng trong sinh hoạt chung có chút khó khăn về sự ăn ý nhưng vì tuổi đã lớn một chút nên tâm lý đã chín chắn, thì cũng dễ dàng nhân nhượng mà thích ứng qua lại với nhau.
Cung Phu Thê tốt đẹp, vợ chồng cư xử với nhau dễ hòa hợp vui vẻ, tảo hôn sẽ không được như vậy. Nếu cung Phu Thê mà xui xẻo, rất cần phải kết hôn muộn mới hợp.
Tuổi của sự kết hôn sớm với kết hôn muộn, thời xưa và ngày nay có một sự chênh lệch rất lớn. Vào thời đại của lão tổ mẫu (bà cố), thông thường thì người trẻ tuổi ngoại trừ những ông có nguyên nhân đặc thù hoặc là hoàn cảnh hạn chế ra, thì thường thường vào khoảng 20 tuổi là kết hôn. Nhưng mà vào thời nay thì đâu đâu cũng thấy nam nữ đến 25, 26 tuổi mà vẫn chưa kết hôn. Xưa nay thì sự khác biệt về số tuổi kết hôn có nguyên nhân chính là do bối cảnh thời đại không giống nhau, chứ nó chẳng liên quan gì đến nhân tố mệnh lý cả.
Chu tiên sinh: "người xưa tảo hôn, người nay trì hôn, vì sao tình huống hôn nhân của người nay biến đổi nghiêm trọng hơn so với người xưa?"
Vào thời đại của bà cố ngoại thì hôn nhân của người nhi nữ là thường do mệnh lệnh của cha mẹ, theo lời mai mối mà thành hôn. Con cái được nàng dâu chính là dựa vào việc lo toan liệu làm hỉ sự thì con cái mới có vợ. Do đó hôn nhân đại sự của người nhi nữ, cũng chính là đại sự của gia đình. Cái chuyện hôn nhân như thế đã được quyết định bởi cha mẹ trong nhà, cho nên một khi có chuyện gì mà tình hình hôn biến xảy ra, dĩ nhiên là có sự định đoạt từ bàn tay quyền lực của cha mẹ ở trong nhà.
Nhưng thời đại gần đây, cái việc hôn nhân gần như là đều do người trẻ tuổi tự làm chủ đạo. Đôi thanh niên nam nữ, bất kể là trải qua một cuộc ái tình dài thượt lắm cảnh lâm li lệ rơi ướt áo trường bào hay là yêu nhau sét đánh từ cái nhìn đầu tiên, một khi đôi bên tình cảm đã ưng thuận thì có thể kết thành vợ chồng. Nhưng mà hôn nhân dạng này, cũng thường tồn tại cái sự không ưng thuận giữa đôi bên, và rồi xảy ra cái hiện tượng sống với nhau thì nảy sinh mâu thuẫn khiến cho vợ chồng đường ai nấy đi chia lìa đôi ngả.
Hôn nhân nếu nư thuộc về đại sự của gia đình, xả thân vì nó, thì người trẻ tuổi không được phép muốn làm cái gì thì làm, nên hôn nhân tự nhiên không dễ gì mà phát sinh biến đổi được. Nếu như hôn nhân chỉ dựa vào cảm tính của đương sự chỉ vì bản thân thì tính ổn định của hôn nhân rõ ràng là bạc nhược đó mà.
Triệu tiên sinh: "Xưa nay, đối với việc cùng lá số mà không cùng hôn nhân, hình như chưa từng có sự giải thích rõ ràng hợp lý. Anh lần này có phát biểu sáng kiến mang tính đột phá, nhưng mà sự công bố đó của anh dường như vẫn chưa phải là toàn bộ phương pháp suy luận trọn vẹn. Vì sao lại có sự bảo lưu vậy?"
Lý luận "Thái Tuế nhập quái", có thể dùng để giải thích vì sao người cùng mệnh bàn lá số (cùng năm tháng ngày giờ sinh) và nguyên nhân vì sao hôn nhân của họ không giống nhau. Do đó cũng có thể lợi dụng lồng vào phương pháp và lý luận để mà giải quyết cái huyền án mà thiên cổ lưu lại này.
Tôi chẳng kiêng dè gì mà nói, đối với phương pháp suy luận và ứng dụng của bộ lý luận này, mặc dù cũng đã từng có rất nhiều bài viết đều dẫn dụng nói rõ, nhưng những phần đã công bố có lẽ chính là như hai phần ba chiêu thức của một bộ quyền thuật, chứ không phải là toàn bộ chiêu thức.
Chẳng qua tôi rất tin tưởng rằng, đối với những người có ý chí quyết tâm về đẩu số, phải biết thu nhận được sự khai mở gì sau khi đọc kỹ cuốn này, nếu như mà dụng tâm điều tra nghiên cứu thêm thì có thể từ lý luận này mà thâm nhập sâu rộng thêm vào mệnh lý đẩu số.
Chu tiên sinh: "Trong khi thảo luận kín và giảng giải phân tích bàn bạc về trường mệnh cách ly hôn, anh thường có những suy luận và dự đoán đúng trọng tâm. Nhưng trong cuốn sách này thì dường như có ý tránh mở ra sự thảo luận về phương diện này. Mà việc này cùng với lúc bình thường anh cùng với người ta luận mệnh, cũng cố ý tránh cái chỗ luận về việc thế nào cũng ly hôn. Hình như là có cái khéo của sự dị khúc đồng công (cùng nốt nhạc nhưng trong giai điệu khác nhau, ý nói về sự khéo biến tấu), rốt cuộc thì là do cái gì?"
Trong truyền thống, người Trung Quốc thường quan niệm là khuyến khích hòa hợp chứ chẳng khuyến khích ly tán. Năm đó ân sư của tôi cũng đã đem cái sự việc ly hôn mà liệt vào một trong ba điều đại răn của việc đàm luận mệnh lý. Có thể nghe theo mà chịu sự ảnh hưởng này, do đó mà ngoại trừ những lúc tham khảo bên lề về lý học ra, đối với những sự việc mà có khả năng xảy ra ly hôn, thì tôi luôn luôn chỉ là điểm trúng thì ngừng. Nhắc nhở người ta phải cẩn thận cư xử cho phải đạo trong phương diện hôn nhân, chứ nhìn chung là không đoán chắc là sẽ ly hôn.
Tôi mặc dù cũng đồng ý với cái thuyết của người phương Tây "Một đôi vợ chồng ly hôn, có thể sau đó sẽ tạo ra 2 đôi có nhân duyên mỹ mãn". Nhưng mà tôi lại cũng cho rằng, con người ta đến lúc trung niên, có sự việc liên quan tới ly hôn, vẫn cần phải biết suy xét lo toan và xử lý thật kỹ càng. Huống chi đối với cuộc tình thứ hai, đã chắc gì nhận được sự mỹ mãn? kết hợp có hạnh phúc? Chẳng có ai có thể dám đứng ra đảm bảo được.
Một cá nhân khi đến tuổi trung niên, một khi phát hiện ra hôn nhân không được mỹ mãn thì dĩ nhiên là bị giảm mất một nửa hạnh phúc đời người rồi, nên sẽ truy tìm quyền lợi ở cuộc tình thứ hai. Nhưng đối với con cái mà nói, thì đúng là cần phải có sự cùng chăm sóc giáo dưỡng của cả cha lẫn mẹ. Nếu như mà cha mẹ ly hôn, thường gieo vào trong tâm hồn của con cái một sự ảnh hưởng xấu mà không gì có thể bù đắp lại được.
Con cái vì cớ gì mà bị ruồng bỏ, vì cái gì buộc chúng phải chịu cái chuyện như thế đến từ sự ly hôn của cha mẹ mà khiến cho cả đời bị ám ảnh vào tâm hồn!
Mỗi khi nghĩ đến chuyện này, càng không muốn xem nhẹ cái việc luận đoán về ly hôn. Mệnh lý thường gặp cái việc vì một câu nói mà có thể ảnh hưởng đến hạnh phúc hay bất hạnh của người khác. Do đó làm thế nào để đàm luận về vấn đề ấy, thường thường thì do quan niệm của người luận số bó buộc mà thôi!
* Tổ chức thương mại mậu dịch quốc tế sinh sôi nảy nở, nếu như vận hạn hoặc cung Thiên Di của bản Mệnh (cung Mệnh gốc) có Lộc tinh cát hóa, thì đúng là vừa vặn ứng với ảnh hưởng tác dụng của [phát tài ư viễn quận], do đó rất có lợi khi buôn bán ở phương xa.
* Trong suy luận về phương diện khởi đầu của một sự nghiệp mới (của đương số), ngoại trừ cung Sự Nghiệp (cung Quan Lộc) có cát tượng của Hóa Lộc dẫn động ra, khi bản cung đại hạn hoặc lưu niên được cường vượng, nếu mà khi có song Hóa Quyền hội vào cung sự nghiệp, thì cũng chủ tại vận hạn hoặc lưu niên đó sẽ khai sáng sự nghiệp mới.
* Cung vị của phía đối tác cộng sự, thông thường sẽ thấy xuất hiện tại cung Thiên Di của đại hạn hoặc lưu niên. Hoặc là ở trên hai phương vị của [Tài], [Quan]. Với sao Hóa mà có lợi cho việc hợp tác, lấy [Lộc] và [Quyền] làm trọng yếu.
* Về cơ bản, tại vận hạn mà đụng tới cung Thiên Di có Kị Sát đối xung thì không nên hợp tác sự nghiệp làm ăn.
* [Dị lộ công danh] - bắt tay vào kinh doanh và sáng lập sự nghiệp với đủ mọi thể loại mà có tính chất không giống nhau. (Hai sao Không Kiếp xuất hiện ở cung Sự Ngiệp).
* Nếu khi làm ăn buôn bán xuất hiện cạnh tranh, thì cung Thiên Di tiên hậu thiên chính là cung vị của đối thủ cạnh tranh. Cung Sự Nghiệp thì chính là cung vị quyết định sự nghiệp làm ăn được thông thuật trôi chảy hay không. Cung Tài Bạch trở thành cung vị then chốt quyết định có kiếm được tiền hay không. (Chú thích: Điền Trạch - chủ có tích trữ được tiền tài hay không; Phúc Đức - chủ có được thụ hưởng tiền tài hay không).
* Cung Thiên Di, chính là một cung vị trọng điểm của việc đàm luận về mối quan hệ nhân tế xã giao, cũng là hành động trong quan hệ nhân tế, đối với người lãnh đạo chóp bu thì chính là một mấu chốt rất trọng yếu.
* Cung Mệnh Thân tiên thiên mà cường vượng, đồng thời cung Sự Nghiệp lại thành cát cách, khi mà các Thiên Can của vận hạn liên tiếp được hóa cát lại vừa dẫn động cung Sự Nghiệp tiên thiên này, trong biểu hiện sự nghiệp của các vận trình ấy thường thường phải căn cứ vào cung sự nghiệp của tiên thiên để mà luận đoán.
* Sự nghiệp mới hoặc hoàn cảnh nghề nghiệp mới của một người, rất khó trong khoảng dăm ba năm mà làm được thăng quan tiến chức vùn vụt, của cải thu nhập to lớn. Bởi vậy nhất định phải chú ý đến cát hung của vận hạn trong tương lai, mới có thể coi như là căn cứ trọng yếu để mà xem có hay không cái lợi về sự chuyển biến của tân sự nghiệp hoặc hoàn cảnh nghề nghiệp mới.
* Bắt đầu khởi công nhà máy, xưởng sản xuất đều cần đầu tư rất nhiều tiền bạc kinh phí, mà cái dạng tiền bạc đầu tư kiểu này thu hồi vốn cũng rất chậm. Bởi vậy, đối với sự nghiệp đầu tư sản xuất thì ngoại trừ chú trọng xem 2 cung Tài Quan trên mệnh bàn có vượng hay không, còn cần phải đồng thời xem cung Điền Trạch (Tài Khố) có miếu vượng sung túc hay không.
* Về phương diện luận đoán mệnh lý sự nghiệp:
A, Mệnh lý phản ánh về các loại nghề nghiệp khác nhau, chẳng qua là có khuynh hướng theo một loại nào, nhưng quyết chẳng phải nhất định là sẽ tham gia vào ngành nghề đó.
B, Trong khi luận đoán về ngành nghề hành vận biến hóa sự hưng suy khởi phục, thì nhất định phải dựa vào tính chất ngành nghề trong thực tế đương số tham gia, thậm chí phải dựa vào chức vụ đương số đang đảm đương hay tình trạng của chức vụ để mà làm căn cứ nghiên cứu suy luận.
C, Tính chất ngành nghề của đương số tham gia thường hội tụ ảnh hưởng của hoàn cảnh gia đình cũng như do bối cảnh thời đại.
D, Không được bỏ qua tài năng bẩm phú vốn có theo mệnh lý tiên thiên cũng như tình hình tài nghệ sở học hậu thiên của đương số, cái này gọi là sự thích nghi để sinh tồn, là cái lý vượt trội thì thắng mà yếu kém thì bại vậy.
* Đầu tư ròng có thể thu được lợi nhuận hay không, phải xem cung Phúc Đức tiên hậu thiên như thế nào? Cung vị tốt đẹp thì hiển nhiên có thể khiến cho việc đầu tư sẽ kiếm được tiền, nếu mà (các cung ấy) dở thì tiền vốn sẽ một đi không trở lại. Nhưng nếu tham dự kinh doanh, ngoài việc khán hai cung Tài Quan, còn cần phải khán cát hung của cung Thiên Di tiên hậu thiên của (người) hợp tác. Cát thì hợp tác tốt đẹp, hung thì hợp tác chẳng được hài hòa, chẳng chóng thì chày cũng sẽ cãi nhau mà không được thoải mái rồi giải tán, chứ nói gì đến việc kiếm tiền được hay không.
* Kị Lộc xung vào cung Sự Nghiệp, biểu thị một dạng sóng gió của sự nghiệp, vừa có nghĩa cát hung tham bán, khi mà bản cung đại hạn hoặc lưu niên cường thì kết quả chuyển hung thành cát; khi bản cung hãm nhược thì chẳng có cách gì chế ngự được sự mất ổn định của sự nghiệp, sau cùng sẽ chuyển cát thành hung.
* Tử Vi và Thiên Hình, ảnh hưởng tính chất vốn có của nó về dụng cụ khám chữa bệnh, nếu như hội nhập Thân Mệnh hay cung Sự Nghiệp thì sẽ khiến cho có khuynh hướng về nghề nghiệp là tham gia hay có liên quan đến Y Dược.
* Hung tượng của cung Điền Trạch trên mệnh bàn (lá số), chỉ cần không quá <ứng hung> thì không nhất định phát sinh hung tượng <ảnh hưởng làm tổn hại>. Miễn là không quá dấn thân thì đủ để giảm nhiều sự thảm bại trong đầu tư buôn bán làm ăn (tức, yếu mà không cố quá thì đỡ quá cố). Đối với chức nghiệp thì chỉ cần an phận thủ thường, sẽ không gặp phải phản ứng từ hung tượng trong cung Điền Trạch. Trong phương diện buôn bán bất động sản, ngoại trừ nhu cầu cư trú của mình, không nên có đầu tư vào bất động sản hoặc các hoạt động liên quan tới bất động sản để hòng thu lợi nhuận. Nếu không sẽ đem tiền đầu tư vào đất đai vô giá trị, chẳng những tiền vốn vì vậy mà bị ứ đọng, giam hãm, chẳng đem lại lợi gì, mà thậm chí còn khiến cho tiền vốn sẽ một đi không trở lại.
* Thiên Di vượng, Điền Trạch hung <phá>, thường có phát sinh tượng ly hương.
* Kị Sát cùng đến cung Điền Trạch, thông thường người ta gặp cách ấy mà đi mua nhà thì hầu hết đều gian khổ khó khăn, phần lớn số tiền mua nhà đều là do đi vay mượn mà có.
* Buôn bán bất động sản, nếu như lấy kiếm tiền làm mục đích, trong đẩu số mệnh lý và việc mua nhà thuần túy, là có sự phân biệt với mục đích dùng để tự mình ở hoặc dùng để làm bảo đảm giá trị tiền gửi.
Buôn bán bất động sản với mục đích kiếm tiền cần coi kỹ cùng với giao dịch làm ăn, trọng điểm của nó vẫn cùng giống như Sự Nghiệp một dạng, nhất định phải chú trọng đến hai cung <Tài> <Quan> phải đẹp mới hợp.
Nếu như với tư cách tự mình dùng để ở hoặc dùng để đảm bảo giá trị tiền gửi, thì trọng điểm lại ở cung Điền Trạch.
Không được lẫn lộn, không phân biện những điều ấy.
* Cung Điền Trạch có Lộc Kị xung thì thông thường chủ bất động sản được bán ra.
* Cung Điền Trạch có vững như bàn thạch hay không, có được như tường đồng vách sắt hay không, trong mệnh lý đẩu số dùng làm điều kiện trọng yếu của sự phân biện về vận thế có khuynh bại hoàn toàn hay không.
* Điền Trạch hung mà cát hung tương tạp, thường thường biểu thị đúng thực tế về bất động sản có cát hung tham bán. Nếu có sự đầu tư, thì tốt xấu đều có cả. Mà tỉ lệ của tốt/xấu thì lại quyết định ở cát hung của cung điền trạch của đại hạn và bản cung đại hạn, cùng với điều kiện cát hung của cung điền trạch của đại hạn kế tiếp.
* Hung tượng của cung Điền Trạch đại hạn, trong phân tích suy luận việc đầu tư hay mua sắm bất động sản, cũng có nghĩa là về mặt nguồn vốn cũng không được hùng hậu đâu. Do đó, trong phương diện xây dựng mua bán bất động sản thì ngoài ý nghĩa không có đủ vốn, nhất định cần phải dựa vào khoản vay bên ngoài. Nếu như lại hi vọng vào kế mua nhà để đảm bảo giá trị tiền gửi hay là muốn lợi dụng đầu tư vào bất động sản để kiếm lợi nhuận, thì thường thường đều gặp sự trái với nguyện vọng.
* Nếu hai cung [Tài] [Phúc] của đương số mà phá bại, trong đời sống thực thế là quân nhân, công chức, viên chức, giáo viên - những người không cần sử dụng đến nguồn tiền vốn lớn trong nghề nghiệp riêng của mình. Cũng có thể là thuộc tầng lớp đơn vị phục vụ trong dân gian, với lương bổng không cao, do túng bấn với kinh tế mà khiến cho cuộc sống tương đối nghèo khổ.
* Được hay mất của việc buôn bán cổ phiếu, ngoài khán bản cung vận hạn ra thì còn phải trọng thị hai cung [Tài] [Phúc], phải có cát nhập thì mới tốt đẹp.
* <Lý Tài> của cung Phúc Đức (QNB chú: tức là ám chỉ cái Lý về sự quản về tiền tài của cung Phúc Đức), chính là rốt cuộc về sau có được tiền tài hay không, khảo sát xem (nó) như thế nào để mà vận dụng. Còn tác dụng của cung Tài Bạch lại ở phương diện biểu thị phương pháp hay thủ đoạn được áp dụng để sự cầu tài (tức, đường lối mưu cầu kiếm chác về tiền tài vật chất), cho nên cung Tài Bạch chính là biểu hiện rõ rệt cho phương thức của hành động <cầu tài>.
* Cung Tài Bạch tiên thiên có Kị Sát <Kị hoặc Sát> đồng cung, một khi gặp cung Tài Bạch của vận hạn hậu thiên đi đến chỗ có Kị Sát đồng cung thì trong thu nhập của tiền tài sẽ có chứa khuynh hướng mang <tính chất đánh bạc>.
* Khi đem tiền cho bạn bè mượn hay là đem cho vai lấy lãi, ngoài việc cần phải lưu ý đến cung Phúc Đức có khuyết điểm gì hay không, còn cần phải chú ý đến cung Nô Bộc của vận hạn có hung tượng hay không. Cung Phúc Đức nếu như bị phá, gặp hung sát, thường sẽ khiến cho khoản tiền đã cho vay một đi không trở lại.
* Cung Phúc Đức có thể cho ta thấy được tâm tính căn bản của nhu cầu đối với tiền bạc và khả năng xoay xở xử lý nó như thế nào.
* Ông nào mà tích trữ được tiền hay không, có thể dựa vào công việc nghề nghiệp hay tiền lương được lĩnh khi đi làm. Loại tiền dạng này, nhiều hay ít, khó hay dễ, có thể căn cứ vào cung Tài Bạch để luận đoán.
* Tài Bạch cung là cung vị của chỗ phát sinh ra tiền tài lợi nhuận, còn sau khi thu tiền tài lợi nhuận thì cung vị của phương thức xử lý xoay xở cũng như cách tiêu dùng thì cần xem ở Phúc Đức cung.
* Đại hạn với cung Phúc Đức của tiên thiên mà phá vào niên hạn, theo mệnh lý thì đó là chủ tiền tài lợi nhuận bị phá hao.
* Phá Quân hóa Lộc tại cung Tài Bạch, có tác dụng tính chất phú bẩm của cái mà gọi là <Điển đương chi tài> (Tiền tài của sự trông giữ cai quản / Tiền tài của sự cầm đồ / Tiền tài thông qua thế chấp), đương số có thể xứng đáng là tay lão luyện trong việc điều tiết tài chính (cung cấp vốn, tài trợ, cũng như huy động vốn,...).
* Cung Phúc Đức của tiên thiên và của đại hạn mà phá vào niên hạn, theo mệnh lý thì đó là chủ tiền tài lợi nhuận bị phá hao.
* Phá Quân hóa Lộc tại cung Tài Bạch, có tác dụng tính chất phú bẩm của cái mà gọi là <Điển đương chi tài> (Tiền tài của sự trông giữ cai quản / Tiền tài của sự cầm đồ / Tiền tài thông qua thế chấp), đương số có thể xứng đáng là tay lão luyện trong việc điều tiết tài chính (cung cấp vốn, tài trợ, cũng như huy động vốn,...).
* <Lợi nhuận tiền tài> của cung Tài Bạch, dường như có xu hướng từ sự từng trải qua vất vả cực nhọc của chính bản thân mà kiếm được. Nếu như là trải qua việc đầu tư, để người khác giúp mình kiếm tiền thì cung Phúc Đức lại trọng yếu hơn. Bởi vì cung vị này cũng đại biểu cho <phúc phận> của một cá nhân là lớn hay nhỏ, là dày hay mỏng.
* Đầu tư ròng là đã có tiền rồi, cũng là tiền của cung Phúc Đức. Bởi vậy, cung Phúc Đức mà hung thì chẳng có cách gì trông cậy vào việc từ đầu tư ròng mà thu được tiền tài lợi nhuận lớn được. Còn tiền của việc đầu tư tự kinh doanh lại đến từ tiền tài ở 2 cung Tài Quan, trường hợp này lại khó coi ở cung Phúc Đức. Những cái đó có sự khác biệt vậy!
* Luận đoán về mưu cầu tài lợi, ngoài cung Mệnh và cung Tài Bạch ra, một cung vị trong điểm khác chính là ở ngay cung Phúc Đức. Còn cung Tài Bạch thì coi như là cung vị luận đoán về <phương thức cầu tài> (phương thức gồm có: lương bổng, buôn bán, tay nghề khéo, cách kiếm tiền là chính hay bất chính,...). Cũng có thể nói cách khác: Mọi thứ lấy con người ta làm chủ, mà tích tượng mệnh lý của nó là lấy sự lao tâm lao lực để mà cầu đắc tài lợi, sẽ dùng tổ hợp tinh diệu của cung Tài Bạch để tiến hành phân định nghiên cứu. Mà tác dụng ảnh hưởng của cung Phúc Đức trên phương diện mưu cầu tiền tài lại <thuộc về dấu hiệu biểu hiện của một dạng dục vọng mạnh hay yếu đối với tiền tài>. Nếu như cung Phúc Đức mà đã cường với vượng, thì đương số có tâm thái tính nết đối với việc mưu cầu tiền tài vật chất sẽ là cực kỳ mãnh liệt. Do đó, sau khi anh ta có tiền vốn dư dả thì anh ta càng tích cực lợi dụng cái nền tảng tiền vốn này để mà sinh lợi nhuận. Người mà cung Phúc Đức nhược hãm, cho dù có tiền cũng dường nhu không có cái tâm tính mãnh liệt của dạng <dụng tài cầu tài> (dùng tiền để mưu cầu sinh ra thêm tiền).
* Tài Bạch cung kém đẹp thì việc cầu tài của đương số nếu như mà trải qua các phương thức cầu tài phải lao tâm khó nhọc thì có lẽ cũng có thể trong gian khổ mà đắc tài đắc lộc, và càng được nhiều tài lộc thì càng phải trải qua gian khổ.
* Thông thường, người có Mệnh cách mà tương tối cương cường mà lại hội sát tinh thành cách cục, thì đều vốn có sẵn cái tính mạo hiểm. Loại người này thường liều lĩnh, một khi có cơ hội là hành động đem tiền vốn tập trung đưa vào loại có <tính chất đầu cơ>.
Còn người mà Mệnh cách nhu nhược, lại không có sát tinh, cũng lại không thành cách cục, thì bản tính trời sinh là dường như rất bảo thủ. Do đó khi anh ta muốn lợi dụng <dùng tiền kiếm tiền> thì sẽ lựa chọn phương thức mà không mang tính chất vụt đến vụt đi. Cho nên phương pháp cầu tài của dạng người này là lựa chọn loại có <tính chất đầu tư>.
* Tiền tài của cung Tài Bạch, chủ về phương pháp của việc cầu tài, kiếm tiền khó hay dễ, đạt được nhiều hay ít.
Tiền tài của cung Phúc Đức, chủ về lợi dụng cái tiền tài sẵn có để lấy tiền mà đẻ ra tiền, cũng là một dạng bỏ tiền vốn ra để sinh lợi nhuận <đầu tư ròng>.
Tiền tài của cung Điền Trạch, là chủ về người đầu tư đem tiền vốn của mình có đầu nhập vào trong cái nghề kinh doanh của chính mình.
Nếu như Khố vượng thì tài tụ, biểu thị khả năng kinh tế hùng hậu giàu có của đương số, có thể thực hiện những việc đầu tư về đại ngạch mà mang tính chất lâu dài. Vì tiền vốn không ít cũng chẳng thiếu và không gặp phải lo ngại về khó khăn trong việc xoay vòng vốn, cho nên trong sự nghiệp kinh doanh thì đương số rất hiếm gặp phải khó khăn trong việc điều động tiền vốn.
Nếu như Khố vị mà bị phá mà lại muốn đầu tư sự nghiệp to lớn thì nhất định sẽ đến lúc sự nghiệp kinh doanh có xu hướng gặp phải tình huống khó khăn về xoay vòng vốn mà dẫn đến sụp đổ. Cho nên người mà Khố vị vận hạn hung sẽ không hợp với việc đầu tư kinh doanh quá lớn, càng bất lợi ở những ngành nghề sản xuất mà thu hồi vốn đầu tư quá chậm.
Hung tượng của <Mệnh với Tài cung cấu thành nên> của <Tài dữ tù cừu>, cùng với cung Phúc Đức và cung Điền Trạch bị phá tổn bại tài, là bị tài vụ ứ đọng gây ra nhưng chúng không quá giống nhau. Vấn đề tài vụ của <tài dữ tù cừu> có nguyên nhân từ mối tranh chấp kiểu <không từ thủ đoạn> gây ra. Còn cái việc Phúc Điền bị phá thì dường như thuộc về nguyên nhân do thiếu tài chính mà gây ra khốn cảnh.
Cùng một dạng vấn đề về quản lý tài sản nhưng mà lại có tính chất với nguyên nhân khác nhau rất lớn.
* Tài Bạch cung kém đẹp thì việc cầu tài của đương số nếu như mà trải qua các phương thức cầu tài phải lao tâm khó nhọc thì có lẽ cũng có thể trong gian khổ mà đắc tài đắc lộc, và càng được nhiều tài lộc thì càng phải trải qua gian khổ.
* Người mà Mệnh Thân kiến Sát Kị, được gọi là Mệnh lao lực (Lưu Vĩ Vũ).
* Người mà Mệnh Thân mà gặp nhiều sao trong số lục cát tinh, có Khoa Quyền Lộc cát hóa, có thể nói là quý khí ổn trọng rõ ràng (Đàm chú: Nếu mà Mệnh Thân cung có Đế tinh thì càng thêm nghiệm). Ngược lại, nếu người mà Mệnh Thân mà gặp ít sao trong số lục cát, lại tụ các sao thuộc lục sát, lại không có Khoa Quyền Lộc cát hóa, thì dù cho trong nhất thời có được lên vị trí cao phong vân tế hội, cũng không được bền lâu. (Lưu Vĩ Vũ)
* Với các câu phú liên quan đến chết chóc như:
A, Cự Hỏa Dương -- chung thân ải tử; (cuối đời tự vẫn)
B, Xương Linh La Vũ -- hạn chí đầu hà; (hạn đến thì đâm đầu xuống sông)
C, Xương (Khúc) Tham --- phấn thân toái cốt; (tan xương nát thịt)
D, Phá Khúc -- khủng lâm thủy dĩ sinh tai; (ngại gặp nước vì sẽ sinh tai họa)
E, Điếu Khách Tang Môn -- Lục Châu hữu trụy lâu chi ách (Nàng Lục Châu gặp tai ách phải nhảy lầu).
* Liên quan đến tự sát như:
A, cắt cổ tay, mổ rạch bụng, đâm đầu vào tường, mà thấy máu: Hồng Loan + Dương Nhận;
B, Nằm đường ray, sự cố giao thông: (không thấy ghi gì cả)
C, Uống thuốc/hóa chất: Cự Môn hội Kị Sát;
D, Ngạt khí gas, hơi độc: Kim hỏa tương khắc (Lưu Vĩ Vũ).
* Từ mệnh bàn đẩu số khán về tích tượng (dấu tích và hình tượng) của phương diện sự cố về sức khỏe. Ngoài cung Tật Ách ra, còn cần phải cân nhắc đến cung Mệnh Thân, trong kết cấu của các tinh diệu có các hung ác sát cách hay không. Rất nhiều người từ bé thì đã vì ác tật hoặc sự cố ngoài ý muốn, mà hình thành khuyết tật trở ngại cả đời, về đại thể thì cung Mệnh Thân và cung Tật Ách đều có xuất hiện kết cấu các cách hung sát và ác cách.
* Trên phương diện luận đoán về sức khỏe, cung Tật Ách tiên hậu thiên chỉ là một trong những cung vị trọng điểm, chứ không phải là căn cứ duy nhất về cung vị của vấn đề luận luận đoán sức khỏe. Các cung Mệnh Thân tiên hậu thiên và bản cung đại hạn, cũng thường có thể lấy làm căn cứ của luận đoán về tình trạng sức khỏe.
* Trên cơ bản, tinh diệu của cung lục thân, nếu mà có thể [nhu hòa] rõ rệt hay là [cương nhu tương tế] thì được coi như là lý tưởng.
* Cung Phúc Đức cũng hàm ý [Duyên Phúc] của một cá nhân là là dày hay mỏng.
* Cung Mệnh Thân tiên thiên nếu không hội cát diệu thì ít được trợ lực. Nếu như mà lại hội Kị Sát thì ứng với việc đời lại là:
A, Không chỉ thiếu đi sự trợ giúp, dìu dắt của quý nhân, mà ngay cả những người bằng vai phải lứa cũng như những thuộc hạ cũng chẳng có được nhiều trợ giúp. Loại này rất hay gây sự xích mích với lãnh đạo cũng như với đồng nghiệp.
B, Không hội cát mà chỉ hội sát, chỉ cần mệnh cung mà không cường vượng thì các Kị Sát sẽ phát huy tác dụng ảnh hưởng của kẻ tiểu nhân, loại tiểu nhân này thường sẽ những việc thành công thì chẳng đủ nhưng những việc phá bại thì có dư.
* Liêm Trinh hóa Kị viết [Tù], lại hội Lưu Hổ, lưu niên Quan Phù, thường sẽ khởi quan tụng. (Đàm chú: Cự Môn hóa Kị mà hội với hai sao Lưu đó cũng ứng nghiệm).
* Điêu khắc gia, bác sĩ ngoại khoa, thông thường thì ở Mệnh cách hội các sát diệu Kình Đà.
* Chính tinh phân làm 2 loại:
A, Tử Phủ Liêm Vũ Tướng Sát Phá Lang;
B, Cơ Nguyệt Đồng Lương Cự Nhật.
Loại A thì đầu tiên coi trọng Tả Hữu, vì loại A có thể phân làm 2 loại là [Tử Phủ Liêm Vũ Tướng] và [Sát Phá Lang]. Đối với [Tử Phủ Liêm Vũ Tướng] nếu mà không có Tả Hữu thì không thành cách [Quân thần khánh hội] chỉ được luận là cô quân, chẳng có cách nào để mà phát huy trọn vẹn tính chất đặc biệt của Đẩu chủ chủ ti hiệu lệnh. Đối với loại [Sát Phá Lang] mà không thấy Tả Hữu thì không thể thi triển được trọn vẹn tính khai mở sáng tạo của nó, mà thành ra rối loạn không ổn định.
Loại B thì trước tiên coi trọng Xương Khúc. Về phần Khôi Việt thì bất kể tinh diệu như thế nào, bất kể cách cục ra làm sao, đều mừng tương hội hoặc đồng cung với chúng. (Loại B thực sự dễ cấu thành Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân)
* Cung Điền Trạch tiên thiên tốt đẹp, thì phương pháp phân biện cát hung của cung Điền Trạch hậu thiên là: quyết định ở cát hung của bản cung đại hạn như thế nào, nếu như bản cung đại hạn mà cát, thì cát tượng của Khố của Điền Trạch thì chính là trong gian khó có được sự tích lũy; nếu như bản cung đại hạn hung thì Điền khố biểu hiện tượng là có gian khổ nữa thì cũng không cách gì tích lũy được.
* Thảo luận suy xét về vận cần kiểm tra xem Mệnh cung trước tiên. Nếu như có Kị Sát giao xung nghiêm trọng lại không thấy cát diệu, đại khái từ nhỏ đã khó có được thành tựu tốt. Cái đó là đạo lý tự nhiên. Hơn nữa, chiểu theo việc kiểm tra sự biến hóa của đại hạn, nếu như vận hạn quá yếu nhược hoặc là có Kị Sát giao xung nghiêm trọng, cũng không dễ để mà hạ quyết tâm đọc sách. Hiểu rõ những cái này sẽ dựa vào sự dẫn động của lưu niên cùng các loại kiểm soát khác để mà suy luận. (Lưu Vĩ Vũ)
Đặt bình hoa ở vị trí đào hoa (đào hoa vị) rất tốt cho đường tình duyên
Theo phong thủy, đào hoa vị là một huyệt đạo mà nếu được tác động sẽ làm tăng vận khí đào hoa của người sống trong ngôi nhà đó. Đặt bình hoa ở đúng vị trí đào hoa của mỗi người sẽ rất tốt đối với chuyện tình duyên của gia chủ:
Bình hoa cần được đặt ở vị trí đào hoa, vị trí này được xác định theo tuổi. Cụ thể:
- Đối với tuổi Dần, Ngọ, Tuất: vị trí đào hoa nằm ở hướng chính Đông, do vậy nên đặt bình hoa ở hướng chính Đông.
- Đối với tuổi Thân, Tí, Thìn: nên đặt bình hoa ở hướng chính Tây.
- Đối với tuổi Tị, Dậu, Sửu: nên đặt bình hoa ở hướng chính Nam.
- Đối với tuổi Hợi, Mão, Mùi: nên đặt bình hoa ở hướng chính Bắc.
Nếu đặt bình hoa ở vị trí đào hoa theo màu sắc thì cần tìm màu chủ đạo của bình hoa, cụ thể:
- Đào hoa ở hướng chính Đông thì nên đặt bình hoa màu xanh lục.
- Đào hoa ở hướng Tây thì đặt bình hoa màu vàng kim (vàng óng), màu trắng.
- Đào hoa ở hướng Nam nên đặt bình hoa màu đỏ, tím, cam.
- Đào hoa ở hướng Bắc nên đặt bình hoa màu đen, xám.
Theo phong thủy, bình cắm hoa tốt nhất nên được làm bằng chất liệu gốm hoặc sứ. Bình hoa bằng sứ nên đặt ở hướng Đông Bắc hoặc Tây Nam, còn bình hoa làm bằng thuỷ tinh thì nên đặt ở phía Bắc căn phòng hay ngôi nhà. Hình dạng bình hoa cũng là vấn đề rất quan trọng, bình hoa có hình dạng khác nhau thì nên đặt ở các hướng khác nhau. Các loại bình hoa hình cầu nên đặt ở hướng Bắc hoặc Tây Bắc, hình nón thì nên đặt ở phía Nam.
Phòng ngủ là nơi tốt nhất để đặt bình hoa. Trong nhà, bạn có thể đặt nhiều bình ở những hướng tốt khác nhau. Nếu bình làm bằng thủy tinh, gốm sứ đựng nhiều đá quý, thuộc hành Thổ thì bạn nên đặt bình ở trong tủ thuộc góc Thổ của phòng ngủ, tức là hướng Tây Nam. Tuy nhiên, nếu không có điều kiện, bạn đặt ở góc Đông Bắc cũng có thể chấp nhận được. Còn bình làm bằng kim loại thì nên đặt ở góc Tây hoặc góc Tây Bắc.
Đối với phái mạnh, dù đã cao tuổi hay còn thanh niên, nếu muốn thu hút sự chú ý của phái nữ thì có thể đặt một bình hoa với vài cành hoa tươi ở vị trí bên phải cửa ra vào.
Tuy nhiên, gia chủ cũng cần thận trọng và lưu ý khi đặt bình hoa trong nhà. Cụ thể:
- Không được để bình hoa rỗng trong nhà, nếu không sẽ khiến chồng hoặc vợ ngoại tình
- Cần thường xuyên thay nước hoặc bổ sung nước cho bình hoa, để nước trong bình bị hao hụt cũng sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và tài sản trong gia đình
- Nên hạn chế cắm hoa khô/hoa giả bởi sẽ làm căn nhà không có sức sống, gây nên một số trở ngại. Nếu đặt bình hoa khô/hoa giả thì phải để một lọ nước hoa ở bên cạnh.
- Hoa úa, tàn thì cần phải bỏ/thay ngay, để lâu ngày sẽ phá hỏng bầu không khí trong gia đình.
- Không gian xung quanh nơi đặt bình hoa phải đảm bảo sạch sẽ, gọn gàng.
(Theo Gia đình & Xã hội Online)
► Mời các bạn: Xem lịch âm, lịch vạn sự chuẩn xác tại Lichngaytot.com |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
Mọi người đều biết, con đường làm giàu không thể thiếu đôi bàn tay cần mẫn, nhưng có một số con giáp không bao giờ thiếu tiền tiêu, xài hết lại có. Người nào mà may mắn như vậy?
Xếp thứ 1: Tuổi rồng
Những người tuổi Rồng bình thường có vẻ rất lười. Cả ngày họ chỉ ngồi nghịch điện thoại, chơi điện tử và thỉnh thoảng mới làm việc, nhưng bản thân họ lại không cảm thấy có gì không thỏa đáng cả. Nhưng theo phong thủy, một khi họ đứng dậy hành động, sẽ tích cực hơn người bình thường, cũng có ý chí quyết tâm hơn người bình thường. Họ có khi chỉ cần dùng một nửa thời gian của bạn để hoàn thành công việc.
Xếp thứ 2: Tuổi lợn
Theo Tử vi, những người tuổi Lợn có vận may khiến người khác phải ngưỡng mộ, thậm chí là ghen tỵ. Tham ăn, lười làm, thích hưởng thụ đã có tiếng, nhưng bạn hầu như không bao giờ thấy có lúc nào họ nghèo khó. Nguyên nhân ư? Do vận quý nhân của họ mạnh. Họ có nhiều bạn bè vì tính người tuổi Lợn gặp người thì nở nụ cười niềm nở, đối đãi với người khác nhiệt tình mà rộng rãi, đương nhiên khiến người khác không khỏi cảm thấy vui vẻ muốn kết giao. Khi gặp khó khăn, có nhiều bạn bè giúp đỡ; khi gặp thuận lợi, cũng có bạn bè cùng hưởng thụ.
Xếp thứ 3: Tuổi Rắn
Lười biếng là đặc tính nổi bật nhất của những người tuổi Rắn. Mặc dù đây là điểm yếu cần khắc phục của bọn họ, nhưng điều này không hề ảnh hưởng đến tiền tài. Sức hấp dẫn mà những người tuổi Rắn mê hoặc người khác có thể bù đắp được khuyết điểm này. Họ thường không cần cố gắng nhiều cũng có thể thu được tiền tài, hoặc là rất dễ thu được tiền tài từ túi áo người khác, đặc biệt là những người khác giới.
Xếp thứ 4: Tuổi Khỉ
Những người tuổi Khỉ tính tình khó chiều, khi có việc mà họ không muốn làm hoặc không hứng thú làm thì sẽ thường làm qua quýt, không chuyên tâm. Nhìn cái cách họ làm việc, chỉ hận một nỗi không thể lấy roi ra đánh cho một trận. Nhưng đối với những việc mà họ thích, họ sẽ dốc toàn tâm toàn lực, không sợ gian khó, không nề phiền phức, không đạt được thành công không chịu dừng. Cho nên họ rất dễ giàu có sau một đêm - tất cả đều dựa vào sự hứng thú của họ.
Xếp thứ 5: Tuổi Gà
Người ta thường nói “thành công gồm 99% mồ hôi và 1% linh cảm”, nhưng những người tuổi Gà lại có thể nắm bắt được 1% linh cảm này. Bọn họ có đầu óc linh hoạt, sức sáng tạo đáng kinh ngạc. Dễ dàng vượt qua các vận hạn. Mọi việc họ đều tranh làm trước người khác, nhìn rõ hướng đi của tương lai và tìm được con đường nhanh nhất đi tới thành công cho mình nên dễ thu được cả danh lẫn lợi.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Người tuổi Tị vốn được biết đến bởi sự thông minh và bí ẩn mang nhiều nét quyết rũ riêng. Vậy tính cách người tuổi Tị có khác biệt gì khi bị ảnh hưởng bởi nhóm máu? Cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu về tính cách và cuộc đời người tuổi Tị nhóm máu AB nhé.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
NAM: Cung Khảm, sao Vân-Hớn, hạn Thiên-La: Mẫu người ngay thẳng, lạc quan, tháo vát, thích kết giao bằng hữu và nhiều tham vọng. Bởi “ Canh cô Mồ quả” nên có khi không gần cha mẹ anh em và tiền vận ba chìm bảy nổi. Người sinh tháng 6, 11 tình duyên dễ dàng hợp ý. Chỉ cần chăm chỉ học hành 4 năm đại học, có thể thảnh thơi 40 năm trong cuộc đời sau này. Nhà ở và làm ăn hạp hướng Đông Nam và Bắc. Tuổi vợ nên chọn Đinh-Mão ( 1987), Kỷ-Mão ( 1999), Canh-Ngọ (1990), Bính-Tí ( 1996).
“ Tuổi trẻ thanh xuân bước vào đời
Chớ nên buông thả tháng ngày trôi
Dấn thân học tập sau thành đạt
Danh phận rỡ ràng mới thảnh thơi.”
Năm nay thi cử đỗ đạt, tốt nghiệp ra trường sẽ tìm được việc làm thích hợp. Dẫu phải thay đổi chỗ ở hay đi làm việc xa nhà cũng nên theo hoàn cảnh, sau này mọi việc sẽ được điều chỉnh theo ý. Tình cảm yêu đương cũng thuận lợi, không có gì trắc trở. Nên bảo trì xe cộ kỹ lưỡng, trước khi lái đi xa để tránh nằm đường.
NỮ: Cung Cấn, sao La-Hầu, hạn Diêm-Vương: Mẫu người lạc quan, ngay thẳng, nhưng “Canh cô Mồ qủa” nên có khi phải sớm xa cách gia đình cha mẹ anh em. Nếu vì lý do học vấn mà đi xa là điều danh dự. Người sinh mùa Xuân, Hạ từ tình duyên cho tới công danh tài lộc đều như ý. Chỉ cần chăm chỉ học hành 4 năm ở đại học, có thể thảnh thơi 40 năm trong cuộc đời sau này.
“ Muốn cho thành đạt danh tài
Tuổi xuân học tập tháng ngày chăm lo
Ngày mai vinh hiển ấm no
Hôn nhân hạnh phúc trời cho phước đầy”
Hướng làm ăn tốt nhất là Tây Bắc, chánh Tây. Lấy chồng hạp tuổi Đinh-Mão (1987), Canh-Ngọ ( 1990) Qúy-Dậu (1993), Mậu-Thìn (1988) và Canh-Thân ( 1980). Bất luận lấy chồng năm nào, luôn luôn phải chọn ngày giờ trong các tháng 6, và 12 âm lịch là tốt nhất.
Năm nay gia đình có người ốm đau bệnh hoạn hay tang chế bà con trong tháng 1, tháng 7. Lái xe cũng phải hết sức cẩn thận đề phòng rủi ro trong 2 tháng này. Nên bảo trì xe cộ kỹ lưỡng trước khi đi xa, tránh nằm đường. Không nên đầu tư chứng khoán vì nhiều bất trắc. Nếu muốn sinh con, thì có thai sau tháng 6, để sinh con năm Giáp-Ngọ, có thể tốt cho cha mẹ trong 20 năm.
MẬU-NGỌ 36 TUỔI: (Sinh từ 7/2/1978 đến 27/1/1979).
Mệnh: Thiên Thượng Hỏa (Lửa trên trời).
NAM: Cung Tốn, sao Mộc-Đức, hạn Hùynh-Tuyền: Mẫu người thông minh thích tự lập nhưng nhiều đam mê và phóng khoáng nên đôi lúc vụng về lúng túng. Đời tha hương phiêu bạt, xa quê cha đất tổ, không nhờ người thân. Tự tay lập nghiệp mà thành nhờ năng nỗ tháo vát, tin tưởng vào các sự kiện tâm linh, siêu hình và phúc đức nhân quả của tôn giáo. Nếu bạn là con út trong gia đình, rất dễ bị mồ côi. Cho nên vì hoàn cảnh đặc biệt nào phải xa gia đình trước 30 tuổi là tốt. Nên tìm người yêu trong các tuổi Canh-Thân (1980), Mậu-Ngọ (1978), Bính-Dần (1986), Kỷ-Mùi (1979), Giáp-Tí (1984), và Ất-Sửu (1985). Hạp màu đỏ, tối kỵ màu đen. Hướng nhà cửa và kinh doanh tốt nhất là chánh Bắc, chánh Nam và Đông Nam.
“ Tha phương phiêu bạt mà nên
Tự tay lập nghiệp vững bền chí trai
Luật Trời vay trả nay mai
Tâm linh đạo đức danh tài vẻ vang”
Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm “Tam Địa Sát” không nên xây cất nhà cửa, hay cơ sở thương mãi. Mọi việc làm ăn cứ theo đường xưa lối cũ, không nên thay đổi chỗ làm, chỗ ở. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại. Tuy nhiên công vịệc làm ăn rất thành công, tốt nhất là mùa Đông. Phải bảo trì xe cộ kỹ lưỡng trước khi lái xe đi xa tránh nằm đường.
NỮ: Cung Khôn, sao Thủy-Diệu, hạn Tán-Tận: Mẫu người rất sáng trí thông minh, nhiều tài năng hào phóng, ham hoạt động, năng nỗ, thích đi xa. Đồng thời cũng thích triết, đạo lý, có tâm hồn vị tha, hướng thượng. Chọn người yêu hạp nhất trong các tuổi Quý-Sửu (1973), Mậu-Ngọ (1978), Đinh-Tị (1977) và Mậu-Thân (1968). Đại kỵ tuổi Ất-Mão (1975). Lấy chồng bất luận năm nào, luôn luôn chọn ngày giờ cưới hỏi trong các tháng 6, hay 12 âm lịch là tốt nhứt. Hạp màu đỏ, tối kỵ màu đen. Hướng làm ăn tốt nhất trên chánh Tây và Tây Bắc.
“ Thông minh sáng trí hơn người
Quyết tâm thành đạt đạo đời không hai
Đường tình cách trở lá lay
Chăm lo sự nghiệp ngày mai vui vầy
Cũng vì mình quá đa tài
Hồng nhan tri kỷ anh tài mấy ai?”
Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm “Tam Địa Sát”: không nên xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở thương mãi. Tháng 4, tháng 8, gia đình có người bệnh hoạn ốm đau, hay có tang chế bà con. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại. Mọi việc làm ăn cứ giữ nguyên tình trạng cũ, tránh khuếch trương mở rộng sẽ lâm vào tình trạng lớn thuyền lớn sóng, tiếng có miếng không. Nếu muốn sinh con út, thì nên có thai sau tháng 6, để đẻ con Giáp-Ngọ, có thể tốt cho cha mẹ 20 năm.
BÍNH-NGỌ 48 TUỔI: (Sinh từ 21/1/1966 đến 8/2/1967).
Mệnh: Thiên-Hà-Thủy (Nước trên trời).
NAM: Cung Đoài, sao Thủy-Diệu, hạn Thiên-Tinh: Mẫu người chính trực, nhiều sáng tạo, giỏi tính toán và dễ thích nghi với mọi hoàn cảnh. Tuy nhiên hay thay đổi ý kiến, mục tiêu nên công danh thăng trầm bất định. Lúc nhỏ hay đau ốm khó nuôi, cô đơn lo nghĩ. Mẫu người năng động, thích rày đó mai đây, cho nên tình duyên trong hồi tiền vận nhiều trắc trở, truân chuyên. Nếu bạn là con út trong gia đình, dễ gặp nghịch cảnh như gần mẹ xa cha hay gần cha xa mẹ. Thành thử đi học, đi làm ăn xa cha mẹ trước 30 tuổi là một điều tốt. Nếu bà vợ nhằm vào các tuổi Tân-Hợi (1971), Ất-Tị (1965), Đinh-Mùi (1967), và Nhâm-Tí (1972) thì cuộc đời bạn như hổ mọc cánh, như rồng có mây ngũ sắc, tung mây lướt gió, hưởng thụ giàu sang phú quí. Tối kỵ tuổi Bính-Thìn (1976), Kỷ-Dậu (1969). Nhà cửa và làm ăn tốt nhất là Tây Nam, Đông Bắc và chánh Tây.
“ Nhỏ thời đau ốm khó nuôi
Ly hương cách trở đơn côi một mình
Truân chuyên rồi mới hiển vinh
Niềm tin xây dựng gia đình yên vui”
Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm “Lục Hoang Oc” : không tốt khi xây cất hay chỉnh trang nhà cửa. Tuy nhiên qúy ông làm việc hãng xưởng có thể được lên chức lên lương. Qúy ông kinh doanh thương mại sẽ thành công về tài chánh. Nếu muốn thay đổi việc làm, chỗ ở hay đi xa xuất ngoại có thể thực hiện được. Tính có con năm nay cũng rất tốt.
NỮ: Cung Cấn, sao Mộc-Đức, hạn Tam-Kheo: Mẫu người năng nỗ tháo vát, suy tính kỹ lưỡng, đa năng đa hiệu. Nội trợ quán xuyến đảm đang. Qúy bà sinh ban đêm mùa Thu, Đông, cuộc sống bình yên dễ dàng. Số ly hương thành đại nghiệp, giàu sang về hậu vận. Nếu là con út trong gia đình, cha mẹ phải ly tán. Nhiều khi gần cha xa mẹ, gần mẹ xa cha. Công chuyện làm ăn trôi chảy dễ dàng, gia đạo yên vui khi lấy chồng tuổi Đinh-Mùi (1967), Mậu-Thân (1968), Quí-Mão (1963), Canh-Tí (1960), Mậu-Tuất (1958). Tối kỵ tuổi Ất-Tỵ (1965). Rất hạp với màu trắng. Hướng làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây Bắc.
“ Đa năng đa hiệu đảm đang
Nội trợ quán xuyến dễ dàng một tay
Hậu vận sáng chói tương lai
Công danh gia đạo thẳng ngay trọn đời”
Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm vào “Lục Hoang Oc”, không tốt cho việc xây cất, chỉnh trang nhà cửa và cơ sở thương mãi. Tuy nhiên, có người xuất vốn, rủ hợp tác làm ăn rất tốt. Nhờ đó công cuộc kinh doanh thắng lợi trên thương trường, tài lộc thịnh vượng.Tình trạng tài chánh được cải thiện tốt hơn. Tốt nhất là vào mùa Đông. Muốn thay đổi chỗ ở chỗ làm, hay đi xa xuất ngoại đều thực hiện được.
GIÁP-NGỌ 60 TUỔI: (Sinh từ 3/2/1954 đến 23/1/1955).
Mệnh: Sa Trung Kim (Vàng trong cát).
NAM: Cung Khảm, sao Vân-Hớn, hạn Thiên-La: Mẫu người tự tin, có óc lãnh đạo, gánh vác đa đoan, tự lập, cho nên luôn luôn có chỗ hơn người. Tuy nhiên cuộc sống thường xa gia đình cha mẹ anh em. Tình đầu trắc trở, ly hương mới may mắn. Ngoại trừ qúi ông sinh tháng 4, 8 thì tình duyên gia đạo ổn định hơn. Hậu vận sau 40 làm ăn phát đạt vững vàng. Rất hạp màu vàng, kỵ màu đỏ. Hướng nhà cửa và kinh doanh tốt nhất là Đông Nam và chánh Bắc.
“ Tánh người gánh vác đa đoan
Tự tin lãnh đạo lo toan hơn người
Anh em cha mẹ đôi nơi
Gia đình sau mới tới thời thái lai”
Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Lục Hoang Oc” không nên xây cất nhà cửa, hay chỉnh trang cơ sở thương mãi. Đầu năm không nên đầu tư chứng khoán vì nhiều bất trắc. Phải thận trọng về ngôn ngữ để tránh ngộ nhận gây miệng tiếng thị phi. Xấu nhất là tháng 4, tháng 8. Tuy nhiên gia đình có hỉ sự như có cháu nội, ngoại.
NỮ: Cung Cấn, sao La-Hầu hạn Diêm-Vương: Mẫu người siêng năng chịu khó, nhẫn nhục. Nhiều tham vọng, biết lo xa và khôn khéo. Biết tự lập và sẵn sàng gánh vác trách nhiệm. Dù trong lúc thất thế ngậm đắng nuốt cay, hay khi vinh quang rực rỡ, quí bà luôn sống không thẹn với lòng. Tiền vận trắc trở gian nan về tình duyên gia đạo. Tuy nhiên sẽ nhờ chồng nếu phu quân nhằm tuổi Quý-Tỵ (1953) hay Đinh-Hợi (1947). Ly hương lập nghiệp gặp nhiều may mắn sau 40. Hạp màu vàng, kỵ màu đỏ.
Hướng làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây Bắc.
“Siêng năng chịu khó hiền hòa
Quí bà khiêm nhượng thật thà đáng yêu
Thành công lòng chẳng tự kiêu
Giàu sang cũng vẫn quí yêu một lòng
Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Lục Hoang Oc” kỵ xây cất nhà cửa, hay chỉnh trang cơ sở thương mãi. Mọi việc làm ăn cứ giữ nguyên tình trạng cũ, tránh mở mang thêm. Tháng 1, tháng 7, gia đình có người lâm bệnh nặng hay tang chế bà con. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại sẽ gặp bất trắc. Tuy nhiên có hỉ sự như có thêm cháu nội, ngoại.
NHÂM-NGỌ 72 TUỔI: (Sinh từ 15/2/1942 đến 4/2/1943)
Mệnh: Dương Liễu Mộc (Gỗ cây dương liễu).
NAM: Cung Tốn, sao Mộc-Đức, hạn Hùynh-Tuyền: Mẫu người ham hoạt động, rày đó, mai đây. Tính tình dứt khoát, không bỏ lở cơ hội, rất hào hoa và có chí lớn. Số ly hương được sang giàu bền vững từ 36 tuổi trở về sau. Qúy ông sinh tháng 5, 7, 11 tình duyên thường dang dở nhưng đã qua rồi những tháng năm bồng bềnh trôi nổi. Bây giờ là lúc thanh vân đắc lộ, gia đạo an khang. Hướng nhà cửa và làm ăn tốt nhất là chánh Bắc, chánh Nam và Đông Nam.
“Suốt đời hoạt động hăng say
Rày đây mai đó chí trai ngang tàng
Giờ đây địa vị cao sang
Gia đình hạnh phúc vững vàng trăm năm”
Mặc dù cổ nhân nói “Thất thập cổ lai hi”, năm nay qúy ông đã 72, nhưng còn làm công chức vẫn vững vàng trong công vụ. Qúy ông kinh doanh thương mãi đang thành công trên thương trường, tài lộc phát đạt thịnh vượng. Muốn thay đổi chỗ ở hay đi xa xuất ngoại, đều thực hiện được. Gia đình có hỉ sự trùng phùng như có thêm cháu nội ngoại.
NỮ: Cung Khôn, sao Thủy-Diệu, hạn Tán-Tận: Số người năng nỗ ham hoạt động, sẵn sàng đứng đầu sóng ngọn gió, nên nữ nhân mà nam tính . Vì vậy thường cao số về đường chồng con. Ngoại trừ qúi bà sinh mùa Xuân, Đông thường thuận số dễ dàng hơn. Nhờ sáng trí thông minh, tự tin tự lập nên ly hương dễ giàu sang. Nếu lấy chồng hợp tuổi như Đinh-Sửu (1937) hay Quý-Mùi (1943) là có số nhờ chồng vinh hiển. Hướng làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây Bắc.
“Tánh người nào khác nam nhi
Đứng đầu sóng gió lắm khi dập dồn
Thông minh sáng suốt tự tồn
Chồng con hạnh phúc tâm hồn thảnh thơi”
Năm nay gia đình có người bệnh hoạn ốm đau hay tang chế bà con trong tháng 4, tháng 8. Tuy nhiên, tình trạng tài chánh rất khả quan. Gia đình có hỉ sự trùng phùng như thêm cháu nội, ngoại. Nếu muốn đi xa xuất ngoại cũng gặp hoàn cảnh thuận lợi để thực hiện.
Nguồn Vietstar
Xin Lưu ý: Đây chỉ là tài liệu tham khảo, nếu Quý khách hàng muốn có bài luận giải tử vi đúng của chính mình, xin vui lòng đóng phí ở dịch vụ Xem tử vi trọn đời để được chuyên gia gửi bài luận giải qua địa chỉ email.
Ngay thời trước cũng đã có câu: "Giá thú bất luận tài". Đáng lẽ nên vợ nên chồng, thành gia thành thất, là mừng cho cả hai gia đình, nhưng gặp phải một vài bà cô, ông bác bên nhà gái khó tính, thách cưới nào quần áo, nón dép, nào rượu bánh cau trầu, che thuốc, nào nếp tẻ, lợn gà, nào nhẫn xuyến, hoa tai, tiền mặt, lại còn tính đủ cỗ dâu cỗ cưới bao nhiêu mâm, nên nhà trai phải bỏ cuộc. Cũng có đám nhà trai phải chạy ngược chay xuôi, lo xong việc rồi kéo cày trả nợ; song, ngay từ buổi thành hôn, nghĩa vợ chồng, tình thông gia đã bị sứt mẻ, đó là mầm mống gây nhiều bất trắc về sau.
Cũng có trường hợp, nhà gái túng thiếu không đủ tự lực cung cấp cho đủ cái lệ làng "Trả nợ miệng", đòi hỏi nhà trai phải lo chu toàn. Cũng có trường hợp, bố mẹ cô dâu còn phải xuất ra gấp năm gấp mười lần và sau khi thành thân còn cho con gái, con rể nhiều thứ, nhưng cũng thách cưới cao để tránh tiếng xì xào, đàm tiếu, cho rằng con mình dở duyên rồi, nên phải cho không.
"Hay ít" là để dành cho những gia đình có học thức, không thách tiền, thách của mà thách chữ nghĩa văn chương với ý đồ chọn rể con nhà gia thế, với hy vọng tương lai con mình còn được "Lọng anh đi trước võng nàng theo sau", chứ không đến nỗi phải rơi vào những anh chàng "Vai u thịt bắp" nơi "Nước mặn đồng chua".
![]() |
Ảnh minh họa |
Nhiều bạn muốn hóa giải tứ sát cho ngôi nhà của mình nhưng không biết làm như thế nào? Sau đây chúng tôi sẽ chỉ cho các bạn cách hóa giải tứ sát cho ngôi nhà nhé!
Nội dung
Nếu từ ngôi nhà mình ở nhìn ra ngoài thấy phía trước có hai tòa nhà cao tầng rất gần mà giữa hai nhà cao tầng ấy hình thành một kẻ hở rất hẹp ,nhìn vào như chiếc búa trời chém xuống tách làm đôi sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và gây tai nạn .
Đơn giản là đặt một đôi ngựa đồng, ngựa vàng hoặc một đôi kỳ lân, đặt ở chỗ sát khí xông đến để ngăn sát.
Bạch hổ sát là bên phải nhà đang ở , hàng xóm phá thổ , hoặc bên phải nhà có một tòa nhà xây lên hoặc phá đi ảnh hưởng đến bệnh tật.
Cạnh tường bị xung sát đặt hai xâu ngũ đế bạch ngọc hoặc hai con kỳ lân cùng với hồ lô.
Đó là đất bằng có hình đường cong mà đường cong quay về phía nhà , có sức sát thương lớn gây đổ máu .
Ở các phương đặt một đôi ngựa đồng và ngũ đế bạch ngọc thì có thể hóa giải được .
Đây là một loại sát khí vô hình, phong thủy gọi là “nhất điều đạo lộ, nhất điều thương “, tức là có một hành lang thẳng và dài nối thẳng với cửa chính ngôi nhà.
Ngoài ra , ở ngoài cửa sổ có trồng trúc lá nhọn chỉa vào, cũng là thương sát .
Lấy nhà mình làm trung tâm, thấy có đường thẳng hoặc dòng sông chỉa thẳng vào nếu khi mở cửa sổ ra quan sát được, cũng là thương sát , ảnh hưởng tai nạn chảy máu , bệnh tật.
Treo rèm hạt châu hoặc làm bình phong. Hoặc ở cửa sổ treo một đôi chuông gió kỳ lân hoặc đặt kim nguyên bảo (nén tiền vàng)
* Chú thích: Ngũ đế Bạch ngọc là xâu tiền xu của 5 vị hoàng đế Trung Hoa, có kèm theo miếng ngọc màu trắng ở bên (thường là Bạch ngọc Afghanistan hoặc Ngọc Miến Điện màu trắng xanh được thắt thêm vào)
thủy, vẫn còn một số điều cần lưu ý.
1. Pha lên không thích hợp để ngăn cách phòng
![]() |
2. Chú ý với pha lê trong nhà vệ sinh
![]() |
![]() |
![]() |
Khi xem bói tay, việc xem xét cả hai bàn tay là rất quan trọng để có thể đánh giá được những thay đổi đã và đang diễn ra, từ thời thơ ấu đến khi trưởng thành.Mỗi một con người khi sinh ra đã có bàn tay khác nhau về hình dáng ,màu sắc ,vân tay và móng tay,sau đây Xem Tướng chấm net trình bày cùng các bạn các loại bàn tay và tính cách từng loại.
Cách tốt nhất phân loại theo khoa chiêm tinh (7 vì tinh tú) , có 7 gò chính.
- Mẩu người: nhỏ, tròn trịa, đầy đặn, tóc hoe và dợn, da trắng, duyên dáng và đẹp. Mặt tròn, mày rậm vòng nguyệt, mắt vui tươi, mướt ướt, dể mến và đa tình. Miệng vừa vặn, răng nhỏ đều, môi dưới dầy, nhiều râu, má lúm đồng tiền. Ngón tay ngắn, búp măng. Tướng đi đẹp. Giọng êm ái. Gó Kim tinh rộng, bầu ra. Ngón cái ngắn. Đầu ngón như giọt thịt (---> sự khoái lạc) Không có gút trên đầu ngón tay.
- Tính tình: hiền, tình cảm nồng nhiệt, thích nhục dục. Dể bị mua chuộc. Chung thủy trong đường
chồng vợ. Yêu đời.
- Mẩu người: vóc trung bình , không ốm, không mập, người cứng chắc, lâu già. Tóc râu nhiều, chơn mày cong, lông mi dài như tơ. Mắt tròn to, ướt vui vẻ, tia mắt sắt bén. Miệng rộng, môi trên
dày hơn môi dưới. Răng cửa thưa và lớn, mình nhiều lông, sớm trở nên béo phì. Sói đầu sớm.
Ngón trỏ dài hơn áp út. Gò Mộc tinh cao hơn các gò khác, thường có chử thập hay ngôi sao.
- Tính tình: thông minh, hiền hậu, háo danh, chuyên chế, ham uy quyền, có khả năng thuyết phục người giúp việc, xả giao rộng, hiếu khách, nặng tình gia đình, săn sóc vợ con chu đáo, thích ăn ngon và háo sắc. Nóng tính, thích tôn giáo, có địa vị trong xã hội.
- Mẩu người: nhỏ, ốm yếu, không đẹp. Đầu nhọn, trán trợt, tóc cao. Mặt dài, Mắt sâu nhỏ, mày cong. Ngón út thật to, lóng chót mập. Môi mỏng, miệng có khoé, cổ ngắn. Cằm dài và nhọn. Gò Kim tinh nảy nở, khum ra bìa bàn tay.
- Tính tình: hoạt động, hoật bát, lúc nói hay múa tay chân, vui tính. Tinh khôn trong giao tế, có thể
bất lương khét tiếng. Khéo léo về thủ công máy móc. Có khiếu về kịch, y khoa. Thông minh, giàu trực giác, đoán được ý nghĩ người khác. Ưa khoa học huyền bí. Buôn bán giỏi, nhung gian ngoan. Hôn nhân tốt.
- Mẩu người: vóc trung bình hay trên trung bình, cường tráng, bắp thịt cứng chắc. Mặt tròn, mắt nhỏ sắc bén. Mày rậm, tóc dài, cứng, nhiều.Trán thấp, tai nhỏ và vảnh. Mủi quặp, miệng rộng, răng to. Tiếng nói rổn rảng. Bàn tay dài vun thịt, ngón ngắn, chỉ rộng, giản dị. Ngón út ngắn, ngón trỏ đặc biệt cứng. Gó hỏa tinh nổi cao. Trí đạo và Sinh đạo cách khoản nhau.
- Tính tình: khí phách, thích vủ khí, can đảm, ít được ưa thích, lổ mảng nhưng trung thực. Trọng
phái yếu, nhưng rất ít được yêu. Đời sống nhiều nguy hiểm.
- -Mẩu người: vóc người cao & ốm. Tóc nhiều và to sợi. Tai to. Trán lớn có nhiều lớp nhăn. Mũi nhỏ gần như xẹp. Mắt sâu và rất gần nhau. Mày đen thẳng và gần nhau nhưng không dính lại. Có trái cổ to. Miệng rộng, răng thô. Ngón giửa nảy nở quá mức, các gò trên tay đều hẹp và có gạch ngang.
- Tính tình: Găp khó khăn trong các lĩnh vực, gặp lắm tay họa, nhưng có can đảm chịu đựng.
Người buồn bã, thích cô đơn, ẩn dật. Siêng năng, giỏi toán, rất có ích cho xả hội vì những phát minh. Không nghĩ tư lợi.
- Mẩu người: sắc thái sáng tỏ, hớn hở vui tươi. Vóc trung bình, đẹp trai. Trán vồ, rộng. Mắt to sáng có vết nhăn. Chơn mày vòng nguyệt. Mủi thẳng. Tai sát vào đầu. Răng đều, tóc ít. Tiếng thanh tao. Tướng sang trọng. Ngón áp cao hơn ngón trỏ. Gò Thái dương cao rộng.
- Tính tình: Thông minh, óc mỹ thuật, Lể độ và rộng rãi, hoạt bát, hạnh phúc trong đời, gặp nhiều
thàng công trong kinh doanh, nhưng gia đình không mấy hạnh phúc, thường hay ly dị.
- Mẩu người: to lớn, gân guốc. Thân thể ít lông, trán bằng, tai sát đầu, mặt tròn, mắt lồi, mủi hẹp, miệng nhỏ, môi dầy, răng to và hay hư, càm nhọn. Ngón tay mủi viết, dường như tay hay làm biếng. Gò Thái âm rộng, có gạch ngả qua bìa tay.
- Tính tình: đảng trí, mơ mộng, thích du lịch, hay nghỉ vẩn vơ, có linh tính, có óc sáng tác, tư tưởng kỳ quái.
Hoạt động của thần khí con người không thể nhìn thấy, nó ẩn giấu và không thể điều khiển được. Do đó cần tìm ở trong tâm, phải đoán từ hình thể, như vậy mới lộ rõ ở giữa lông mày và mắt hoặc vận hành giữa ngũ tạng.
Thường nói: Người thông minh thì thần khí của họ ở 2 mắt, nếu đức hạnh đều có đủ thì thần khí giấu trong tim. Cũng chính là nói thần khí hiển lộ ra qua hình thể, giống như ánh sáng của mặt trời và mặt trăng, ánh sáng của nó ẩn giấu trong mặt trời và mặt trăng. Mắt sáng thì thần trong, nếu mắt đục thì thần đục.
Ngũ tạng hiển lộ: Mắt, lưỡi, mũi, môi, tai
Ngũ quan ứng với gan là mắt, quản về gân mạch, móng tay, chân.
Ngũ quan ứng với tim là lưỡi, quản về khí huyết và lông tóc.
Ngũ quan ứng với phổi là mũi, quản về da và hô hấp.
Ngũ quan ứng với tỳ là miệng, chủ về cơ thịt.
Ngũ quan ứng với thận là tai, chủ về gân cốt và răng.
Cảnh giới của mộng là thần ở trong tim, nó vận động ở trong phạm vi ngũ tạng, Lục phủ và tai, mắt. Sự vật ở trong mộng thường là do suy nghĩ quá nhiều hoặc gặp việc khó giải quyết. Do đó, các sự vật gặp trong giấc mộng thường xảy ra bên cạnh mình mà không vượt quá bản thân mình.
Chính vì vậy thiền sư Bạch Nhãn nói: mộng có ngũ cảnh. Một là cảnh hư, hai là cảnh thực, ba là cảnh quá khứ, bốn là cảnh hiện tại, năm là cảnh tương lai. Thường thì thần tình xao động sẽ sinh ra mộng cảnh. Thần yên ổn thì không có mộng cảnh. Có thể nói mộng cảnh là do động và tĩnh của con người sinh ra.
Liên quan đến hình mạo thanh tú của con người, hoặc ngạo nghễ, hoặc trắng sáng, hoặc chắc chắn, lông mày mắt nhô cao, mắt phát ra ánh sáng đều là do thần khí ở trong biểu hiện ra bên ngoài.
Thần thanh và hòa, sáng trong là tướng phú quý. Thần đục, nhu nhược, khiếp sợ là tướng bần cùng. Người chân thật và điềm tĩnh thường có thần khí bình hòa.
Trong Ngọc quản chiếu thần cục nói: Người vui vẻ và yên tĩnh thì thần sẽ yên ổn. Người nông nổi và vội vàng thì thần không yên. Do đó người quân tử biết tu dưỡng bản tính của họ, thay đổi thần khí nóng vội. Khí không nóng vội thì hình yên, do đó sẽ không có người có hình thể yên mà thần khí không đủ.
Lại nói: Khí thực chất là chỉ sự biến hoá của âm dương. Không thể phân biệt nóng lạnh của con người thì rất khó luận đoán. Chỉ là có sự biến hoá của khí, thần sinh ra theo khí, nhưng hàm nghĩa của nó không giống nhau.
Khí biến hoá mà có hình, thần cũng chính là sản sinh ra từ trong hình thể. Khí biến hoá được sinh ra, thần thì không. Khí biến hoá mà mất đi, thần thì vẫn tồn tại. Người đắc đạo thì không nhiễm bụi trần, không bị các sự việc làm lay động là người biết thần. Biết thần có chức năng giống như tạo hoá, do đó họ mới là thánh nhân, chí nhân, thần nhân. Do đó, hình của con người là có thể nhìn thấy nhưng thần lại giấu trong nội tâm, hiển lộ ra giữa lông mày và mắt nhưng không mất đi bản chất nguyên thủy của nó.
Hình thế của con người thì hình “cổ” là tốt nhất”, “thanh” là hơi kém, hình “tàng” lại kém hơn, sau đó là đến hình “mị”. Nếu hình thần lưu tán, hỗn đục thì thần bị u mê, đến bước này thì không còn là phú quý. Nếu sừng sững uy nghiêm là “cổ”. Thần trong sáng đáng yêu là “thanh”. Thần tính lơ đãng, nhìn khó phân biệt là “mị”.
Người thông minh có thể sẽ thành thần tiên. Người hình “mị” tuy quý nhưng phần lớn là kẻ nịnh bợ người khác, cũng không đáng để nói đến. Như sáng mà không sáng, đẹp mà không đẹp là lưu tán. Như say mà không say, như ngủ mà không phải ngủ là hỗn đục.
Con người mất đi tinh linh, không coi trọng thần, coi vạn vật là như nhau thì mãi mãi không hiểu được đạo lý trong đó.
Nguồn: TRUNG CHÂU TỬ VI ĐẨU SỐ TAM HỢP PHÁI - NGUYỄN ANH VŨ dịch.
Tương truyền, Tử Vi Đẩu Số có nguồn gốc từ Khâm Thiên Giám của triều đại nhà Đường, ở Lạc Dương, Trung Châu.
Trung Châu là tên một vùng đất cổ, tức "Trung Thổ", "Trung Nguyên". Theo nghĩa rộng, "Trung Châu" là chỉ toàn nước Trung Hoa, còn gọi là "Thần Châu", "Hoa Hạ". Nghĩa ban đầu của "Trung Châu" là chỉ vùng đất thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay, hay thuộc lưu vực sông Hoàng Hà. Vì vùng đất này ở giữa Cửu Châu thời cổ đại nên có tên gọi này. Phần lớn thời gian trong lịch sử, vùng đất này là trung tâm văn hóa, chính trị, và Kinh Tế của Trung Quốc. Thời cổ, Lạc Dương là vùng đất trọng yếu của Trung Châu tọa lạc ở bờ nam sông Hoàng Hà, miền tây tỉnh Hà Nam, phía Bắc dựa núi Mang Sơn, phía nam đối diện Long Môn, phía tây liền với Tần Lĩnh, phía đông là vách núi Tung sơn, ở giữa là một vùng bình nguyên. Nơi này địa hình hiểm yếu, đất đai phì nhiêu, nguồn nước dồi dào; trong lịch sử, đây là vùng đất mà các binh gia phải chiếm lấy, còn là nơi lý tưởng để lập quốc đô. Bắt đầu từ năm 770 TCN, trước sau đã có chín vương triều là Đông Chu, Đông Hán, Tào Ngụy, Tây Tấn, Bắc Ngụy, Tùy, Đường, Hậu Lương, và Hậu Đường, chọn nơi này làm kinh đô, vì vậy Lạc Dương được gọi là "Cửu Triều Cố Đô".
Vào thời Đường, thiên văn học và chiêm tinh học từ phía Tây Vực du nhập vào Trung Quốc đã thúc đẩy Tinh Mệnh Học của Trung Quốc phát triển một bước lớn, từ đó lịch pháp và bát tự sinh thần trở thành nhân tố trọng yếu trong Tinh Mệnh Học. Những hoạt động sôi nổi này chủ yếu tập trung ở Lạc Dương, Trung Châu.
Trong số các Đạo kinh truyền lại từ đời Đường có Bắc Đẩu Kinh, Nam Đẩu Kinh, Phật thuyết bắc đẩu thất tinh Diên Mệnh kinh, trong đó đã có những ghi chép tường tận về phương pháp bài bố sao mệnh chủ và sao thân chủ như trong Tử Vi Đẩu Số. Theo quan niệm của đương thời, sao mệnh chủ và sao thân chủ luôn là mấu chốt quan trọng của kiếp số nhân sinh, vì vậy Đạo Giáo có "Kì an lễ đẩu", "Kì nhương khoa nghi" (một loại nghi lễ cúng sao trong đạo giáo). Trong bắc đẩu kinh còn đề cập 12 cung, "Giáp cát trợ tinh", cho đến các cách cục hung dẫn đến các loại mệnh vận tai kiếp như trong Tử Vi Đẩu Số. Điều này cho thấy 3 cuốn kinh kể trên có liên quan mật thiết đến Tử Vi Đẩu Số sau này. Nếu các bản chú giải kinh văn thời ấy còn lưu truyền cho đến ngày nay, có lẽ chúng ta sẽ biết yếu quyết của Tử Vi Đẩu Số vào thời ấy tường tận hơn. Hiện tượng chọn Tử Vi làm sao tôn quý nhất trong 14 chủ tinh có nguồn gốc từ Bắc Đẩu Kinh, Nam Đẩu Kinh, trong đó ẩn chứa khái niệm "số" trong Huyền Học, hậu thế gọi là "Tử Vi Đẩu Số" thực sự có hàm ý uyên nguyên của nó.
Sau thời Bắc Tống, các hệ thống tinh mệnh học dần dần hoàn thiệt, Ngũ Tinh Thuật (Thất Chính Tứ Dư) và Tử Bình thuật đã phát triển thành 2 lưu phái Tinh Mệnh học lớn ở Trung Quốc. Trong đó, Ngũ Tinh thuật phái Cẩm Đường là chi phái Thất Chính Tứ Dư nổi tiếng nhất thời ấy, nguồn gốc xuất phát từ Mật Tông, tổ sư là Nhất Hạnh(CN. năm 683 - 727), người đời Đường, tên tục là Trung Trục, có sách truyền lại là Hư Thục Ngũ Tinh nguyên lưu; truyền đến tăng Xuân ở núi Thanh Thành, Xuân truyền cho tăng Phổ Trừng ở Giang Tây, Trừng truyền cho Tứ Minh tăng Huệ Minh ở Chiết Giang, Minh truyền lại cho quốc sư nước Liêu là Gia Luật Sở Tài. Gia Luật là một dòng họ quý tộc nổi tiếng đời Liêu, có rất nhiều người làm quan lớn và văn nhân học sĩ. Ba quyển Tinh Mệnh Tổng Quát là do Hàn Lâm học sĩ Gia Luật Thuẩn biên soạn. Sách sử không ghi tên ông, cho nên trong Tứ Khố đề yếu nghi là sách thác danh, nhưng trong quyển đầu ghi: "Nguyên Tự" thiên Gia Luật Thuần viết vào niên hiệu Thống Hòa thứ 2 (CN, ngày 10, tháng 9 năm 984); Văn Hồ các thư mục ghi là một bộ, không phân chia số sách; Lục Trúc Đường thư mục chia làm 5 sách, nhưng không ghi số quyển; bộ sách này thấy chép trong Vĩnh Lạc đại điển và Tứ Khố toàn thư, ngoài nhân gian không có truyền bản nào khác. Ngoài ra, bộ Hư Thục Ngũ Tinh nguyên lưu còn được chùa Thiên Giới cất giữ một bản; vào niên hiệu Hồng Vũ thứ 6, truyền lại cho Thương Quý Đổng. Truyền bản ngày nay phần nhiều là Cẩm Đường Ngũ Tinh, Chỉ Kim Hư Thục Ngũ Tinh Thiên Cơ thất ngũ phú. Do đó có thể thấy phái Cầm Đường là một phân chi Tinh Tông quan trọng. Còn có thể khảo chứng thư tịch Tinh tông trong bộ sách Trương Quả tinh tông chép trong Tứ Khố toàn thư, và Tinh Mệnh tố nguyên do Trương Quả trước tác, thân thế Trương Quả có ghi chép trong Tân Đường truyện - Phương Kĩ truyện. So sánh đối chiếu với phương pháp đoán mệnh của Thất Chính Tứ Dư, người ta thấy có nhiều dấu vết diễn biến thành Tử Vi Đẩu Số ngày nay.
Trong suốt khoảng thời gian từ đời Tống đến đầu đời Nguyên, Tử Vi Đẩu Số hầu như im hơi lặng tiếng, người ta không tìm thấy một văn bản nào khác liên quan đến Tử Vi Đẩu Số. Hiện chỉ lưu giữ được 1 bản chép tay sách các cổ quyết của Tử Vi Đẩu Số đời Nguyên.
Đến đời Minh, giai đoạn cuối thời kì chấp chính của Chu Nguyên Chương, vị vua khai quốc triều Minh này đã hạ lệnh cấm dân gian không được học thiên văn, cho nên Tinh tông mệnh lí học dần dần bị chìm trong bóng tối, mãi đến niên hiệu Gia Tĩnh thứ 26 (CN năm 1547) mới giải trừ luật cấm học thiên văn.
Tinh tông mệnh lí học thoát khỏi lệnh cấm này, dần dần từng bước hoàn thiện hệ thống. Tên gọi "Tử Vi Đẩu Số" sớm nhất được thất trong Tục Đạo Tạng, do Trương Quốc Tường, Chính Nhất thiền sư đời thứ 50 của đạo giáo, tập thành vào thời Minh Thần Tông niên hiệu Vạn Lịch thứ 35 (1607), trong đó có 3 quyển Tử Vi Đẩu Số, không rõ tác giả, căn cứ nội dung của 3 quyển Tử Vi Đẩu Số này thì đúng là thuật "Thập Bát Phi Tinh". Đầu đời Thanh, trong Tử bộ thuật số của Tứ Khố toàn thư, tổng cộng ghi nhận được 50 loại thuật số, bao gồm cả "Thập Bát Phi Tinh" và "Tử Vi Đẩu Số". Cũng chính vì vậy mà một số học giả cho rằng Tử Vi Đẩu Số là hình thức cải cách của "Thập Bát Phi Tinh" được thu thập trong Tục Đạo Tạng.
Tuy triều Minh cấm dân gian học thiên văn, nhưng cơ cấu triều đình vẫn có một cơ quan chuyên trách về khí tượng và thiên văn, gọi là "Khâm Thiên Giám", cho nên môn học thuật này vẫn phát triển trong cung đình hoàng gia. Vì nhân tố hoàn cảnh thời đại, Đẩu Số bị khoác lên một bức màn che, làm tăng vẻ thần bí của nó. Tử vi Đẩu Số bắt nguồn từ ngũ tinh thuật, do xuất phát từ Khâm Thiên Giám đời Đường ở Lạc Dương, Trung Châu, nên còn gọi là "Khâm Thiên Giám Bí Cấp".
Sách Tử Vi Đẩu Số toàn thư và Tử Vi Đẩu Số toàn tập đều đề do Trần Đoàn cuối đời Ngũ Đại sáng tác, trong dân gian thì lưu truyền thuyết Lữ Đồng Tân truyền Tử Vi Đẩu Số cho Trần Hi Di. Trần Hi Di lại mang Tử Vi Đẩu Số truyền cho các đồ đệ của mình, trong suốt mấy trăm năm, Tử Vi Đẩu Số mang hình thức bí truyền từ đời này sang đời sau, đây là một trong những nguyên nhân khiến sách Tử Vi Đẩu Số xuất hiện rất hiếm hoi.
Khoảng niên hiệu Gia Tĩnh đời Minh, La Hồng Tiên, một nhà kham dư gia ở Cát Thủy, Giang Tây, khắc in và lưu truyền sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư. Về sau Phan Hi Doãn, hiệu là Phụ Tử Tử ở Giang Tây, biên tập sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Tập, và hậu thích của Phan Hi Doãn là Dương Nhất Vũ ở Quan Tây, Phúc Kiến tăng bổ.
Hiện nay hai bản TVĐS này là tư liệu hàng đầu để nghiên cứu TVĐS cổ đại, nhưng đều là bản khắc vào thời kì Đồng Trị đời Thanh. Xét về nội dung thì biết được hai bản này về đại thể thì đại đồng tiểu dị, và không phải do một người biên soạn.
Vào khoảng cuối đời Minh đầu đời Thanh, toán học và Thiên Văn Học phương tây theo các giáo sữ Mục Ni Các, Thang Nhược Vọng, Nam Hoài Nhân, v.v... truyền vào Trung Quốc. Theo đó, Tinh Tông mệnh lí học và Trạch Cát thuật lại hưng khởi, càng làm cho khoa Tử Bình hưng thịnh hơn. Khoa Tử Bình đồng thời cũng hấp thu tinh hoa của Tinh Tông mệnh lí học. Việc ứng dụng các thần sát cũng xuất hiện nhiều trong khoa Tử Bình, còn khoa Tử Vi Đẩu Số thì ít người biết đến, nên càng mang sắc thần bí.
Trước năm 1950, phương thức đoán mệnh ở Đài Loang phần lớn chỉ dùng khoa Tử Bình. Sau đó trên thị trường lưu truyền cuốn Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư, do Trúc Lâm thư cục xuất bản vào năm 1958, sách đề do Hi Di Trần đoàn trước tác, ban đầu chi làm 2 tập, về sau in gộp thành một tập.
Trong khoảng thời gian từ 1947 - 1955, toàn Đài Loan không có thêm bộ TVĐS nào khác. Mãi đến giữa tháng 2, năm 1966, Phúc Châu Xuất Bản Xã mới xuất bản Thập Bát Phi Tinh Sách Thiên Tử Vi Đẩu Số toàn tập, đề tác giả là Đại Tống Hoa Sơn Hi Di Trần Đồ Nam, người tăng bổ là Bạch Ngọc Thiềm. Chủ của bộ sách cổ này là Thiết Bản Đạo Nhân Trần Nhạc Kì.
Điều đáng chú ý là, sách này ở phần phàm lệ của tác giả đề rằng:" Tử Vi Đẩu Số truyền thế, chia ra hai phái Nam Bắc, sách này thuộc Bắc Phái, là chính thống chân truyền, ứng nghiệm vô song, còn Nam Phái là bản lưu truyền trong dân gian, do hậu nhân ngụy thác tên của Hi Di, không ứng nghiệm, là ngụy thư gạt người..."
Bản sách này tự xưng thuộc Bắc phái, thực ra so với bản Thập Bát Phi Tinh Sách Thiên Tử Vi Đẩu số Toàn Tập do Tập Văn thư cục xuất bản năm 1971, nội dung hoàn toàn tương đồng, chỉ khác là không có câu kể trên.
Giữa TVĐS toàn thư và TVĐS Toàn tập có nhiều chỗ khác biệt, như sau:
(1) Mệnh Chủ:
Trong TVĐS Toàn Thư lấy địa chi cung mệnh làm chủ. Còn trong TVĐS toàn tập thì lấy địa chi năm sinh làm chủ.
(2) Tứ Hóa:
Năm CAnh và năm Nhâm phương pháp an khác nhau. Trong quyển 2 TVĐS toàn thư, phương pháp an của năm Canh là "Nhật Vũ Đồng Âm"; nhưng trong quyển 4 thì lại có mục cổ lệ, phương pháp an là "Nhật Vũ Đồng Tướng"; phương pháp an của năm Nhâm là "Lương Vi Phủ Vũ". Trong TVĐS toàn tập, phương pháp an của năm Canh là "Nhật Vũ Âm Đồng"; phương pháp an của năm nhâm là "Lương Vi Phụ Vũ".
(3) Hỏa Tinh, Linh Tinh:
Trong quyển 2 của TVĐS toàn thư, chỉ lấy địa chi của năm sinh làm chủ, không thấy nói phải phối hợp với giờ sinh hay không; nhưng theo cổ lệ ghi trong quyển 4 thì lại thấy rất rõ ràng là không phối hợp với giờ sinh (ngoài ra, bản đầu tiên còn ghi người sinh năm Tị Dậu Sửu thì Hỏa Tinh ở cung Mão, Linh Tinh ở cung Tuất); phương pháp an trong TVĐS toàn tập là lấy địa chi năm sinh phối hợp với giờ sinh.
(4) Độ sáng của sao:
Trong quyển 2 và quyển 3 của Tử Vi Đẩu Số toàn thư có liệt kê thành 1 bảng các sao ở 12 cung có 7 cấp độ sáng: miếu, vượng, đắc địa, lợi ích, bình hòa, không đắc địa, hãm. Trong TVĐS toàn tập không có bảng liệt kê này, nhưng có "Vượng cung hãm địa cát hung chi đồ" và "Thập nhị cung Lộc Quyền Khoa Kỵ miếu vượng luận"
(5) Đại Hạn:
Trong TVĐS toàn thư, khởi đại hạn là dương nam âm nữ lấy ttru7o7co1 cung mệnh 1 cung (tức là cung phụ mẫu), đi thuận; âm nam dương nữ thì từ sau cung mệnh một cung (tức cung huynh đệ), đi nghịch. Còn trong TVĐS toàn tập, khởi đại hạn từ cung mệnh rồi mới đi thuận hay đi nghịch.
(6) Lưu niên Thái Tuế Thần Sát:
Trong Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư, lưu niên thái tuế thần sát chỉ có "Tứ Phi tinh quyết Tang Hổ Khách Phù", tức là chi an năm thần sát của "lưu niên Thái Tuế thập nhị chi Thần Sát". Trong Tử Vi Đẩu Số toàn tập, lưu niên Thái Tuế thần sát thì an 11 cát thần, 47 hung sát, tổng cộng 58 thần sát.
TVĐS toàn thư và TVĐS toàn tập đều có ghi phương pháp an lưu niên tam cát thần "Thiên Đức, Nguyệt Đức, Giải Thần", phà phi thiên tam sát "Tấu Thư, Tướng Quân, Trực Phù".
(7) Thiên Không và Địa Không:
Trong TVĐS toàn thư lấy địa chi giờ sinh đi nghịch và đi thuận để an Thiên Không, Địa Kiếp. Còn TVĐS toàn tập thì lấy Thiên Không của TVĐS toàn thư gọi thành Địa Không; còn lấy địa chi của năm sinh an một sao khác trước Thiên Không một cung. Do đó có thể biết, Thiên Không và Địa Kiếp của TVĐS toàn thư chính là Địa Không Địa Kiếp của TVĐS toàn tập; còn Thiên Không của TVĐS toàn tập khác với Thiên Không của TVĐS Toàn Thư.
Có một số sao thần sát trong hai cuốn đều có cách an và có giải thích (như Thiên Mã, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hồng Loan, Thiên Không, Địa Kiếp, Hóa Kị, Thiên Thương, Thiên Sứ, Thiên Hình, Thiên Riêu, Thiên Khốc, Thiên Hư); có một số sao thần sát trong 2 cuốn đều có phương pháp an nhưng không có giải thích (như Thiên Hỉ, Tam Thai, Bát Tọa, Đài Phụ, Phong Cáo, Long Trì, Phượng Các, Tiệt Không, Tuần Không); có một số sao trong TVĐS toàn thư không có, nhưng trong TVĐS toàn tập có phương pháp an (như Thiên Tài, Thiên Thọ, Thiên Quan, Thiên Phúc, Ân Quang, Thiên Quý, Cô Thần, Quả Tú, Kiếp Sát, Hoa Cái, Đào Hoa Sát, Đại Hao, Phá Toái, Địa Không).
Điều đáng ngạc nhiên là, có một số sao như Giải Thần, Thiên Vu, Phỉ Liêm, Thiên Nguyệt, Âm Sát, trong TVĐS toàn thư lẫn TVĐS toàn tập đều không có, nhưng hiện nay sách TVĐS nào cũng thấy.
Hai Bộ Sách TVĐS toàn thư và TVĐS toàn tập có một điểm chung, đó là đều đề cập đến La Hồng Tiên. Theo truyền thuyết, vào đời Minh, La Hồng Tiên từng chỉnh lí Đẩu Số, nhưng về sau sự phát triển cũng không có chứng cứ rõ ràng. Hai bản TVĐS toàn thư và toàn tập lưu truyền trong dân gian vào khoảng cuối triều Minh đầu triều Thanh, nhưng thời bấy giờ dường như ít người xem trọng TVĐS, cho nên phát triển khá chậm, trong khi đó khoa Tử Bình lại rất thịnh hành. Lúc sách TVĐS được đưa vào Đạo Tạng, Đẩu Số vẫn im hơi lặng tiếng (xét về mặt văn bản). Mãi đến năm 1911, TVĐS tuyên vi của Quan Vân Chủ Nhân (thuộc Bắc Phái) mới tái hệ thống, chú giải, bình luận TVĐS một lần nữa.
Năm 1950, xuất hiện hai nhân vật khá quan trọng trong lịch sử phát triển TVĐS, đó là Thiết Bản Đạo Nhân và Hà Mậu Tùng (cao thủ Tam Hợp Phái). Tư tưởng của một phái muốn phát huy ảnh hưởng, thu nhận môn đồ, trước thư lập thuyết là điều bắt buộc, nhưng trong số môn đồ phải có người dương danh thiên hạ mới càng quan trọng, trong 2 người kể trên, Hà Mậu Tùng lão tiên sinh đúng là có đủ 2 điều kiện này. Đại đệ tử của ông là Tử Vân, nhờ trước thư lập thuyết, nói những điều tiền nhân chưa nói, ngày nay đã trở thành nhất đại tông sư trong giới nghiên cứu đẩu số.
Trong khoảng thập nhiên 50 của thế kỷ 20, TVĐS danh gia Lục Bân Triệu (cao thủ Tam Hợp Phái) đến Hương Cảng công khai trương bảng đoán mệnh, độ chính xác khá cao khiến ông nổi tiếng như cồn, ông còn mở lớp dạy, về sau những bài giảng của ông được xuất bản với tên Tử Vi Đẩu Số Giảng Nghĩa. Trong thời kì này còn có một người nổi danh trước Lục Bân Triệu là Trương Khai Quyển, biệt hiệu "Vô Muộn Trai Chủ", với cuốn Tử vi Đẩu Số mệnh lý nghiên cứu, được Vương Đình Chi xưng tụng là cao thủ Bắc Phái.
Vào thập niên 60 của thế kỷ 20, trong giới nghiên cứu Đẩu Số ở Đài Loan xuất hiện một người tên là Trương Diệu Văn, đại tông sư của "Thái Phái". Vốn là tiến sĩ kinh tế học, vào khoảng những năm 1966 trở về trước ông ở Nhật Bản dạy học, tự xưng mình là truyền nhân đời thứ 13 của Minh Đăng phái (tức Thấu Phái). Năm 1967 ông trở về Đài Loan, mang TVĐS của Thấu Phái truyền bá tại Đài Loan. Phái Đẩu Số này có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của TVĐS ở Đài Loan giai đoạn này. Các bản dịch Đẩu Số từ tiếng Nhật sang tiếng Hán cũng dần dần xuất hiện, thời kì đầu có A Bộ Thái Sơn, về sau có Bảo Lê Minh, v.v... đều là các tác gia thuộc nhóm nghiên cứu đẩu số Đông Dương.
Đương thời, có rất nhiều bản dịch TVĐS của A Bộ Thái Sơn xuất hiện ở Đài Loan, cho nên ông khá nổi tiếng. Ông là người trong thấu phái, Đẩu Số của ông đương nhiên theo phương pháp "quá tiết khí".
Tương truyền người sáng lập Thấu Phái là một phụ nữ đời Minh tên Mai Tố Hương.
Thấu phái gọi Đẩu Số là "Tử Vi chiêm tinh thuật"; phái này thần thoại hóa các "tinh diệu", lấy bối cảnh cuộc chiến tranh giữa nhà Ân và nhà Chu thời viễn cổ, mang các nhân vật trong Phong Thần diễn nghĩa gán vào các tinh diệu. Đặc điểm của Thấu phái là vấn đề "quá tiết khí" khi khởi mệnh bàn. Đến khoảng giữa thập niên 80 của thế kỉ trước, do giới nghiên cứu Đẩu Số ngày càng tăng và càng chuyên sâu hơn, đương thời, quan điểm này của Trương Diệu Văn bị khá nhiều học giả Đẩu Số công kích. Do đó Thấu Phái Đẩu Số lưu truyền đến ngày nay ko còn như trước kia, phần lớn đều bỏ không dùng nguyên tắc "quá tiết khí".
Khoảng giữa thập niên 70 của thế kỉ trước, TVĐS ở Đài Loan dần dần thịnh hành. Trong số các nhân vật xuất hiện vào thời kì này có một người đáng được đề cập, đó là Lương Tương Nhuận, ông là lão tiền bối trong giới nghiên cứu Tử Bình, các tác phẩm về TVĐS của ông cũng rất có giá trị, phần nhiều viết chung với bà Lương Thiên Lan.
Trước năm 1981, trong giới nghiên cứu Đẩu Số còn có ba người khác nổi tiếng khác là Lục Dị Công, Khổng Nhật Xương, Chung Trực Lâm.
Có thể nói trước thập niên 80 của thế kỉ 20, TVĐS giống như đang ở trong thời kì tiềm phục, cho đến năm 1982, TVĐS tân thuyên của Tuệ Tâm Trai Chủ ra đời, giới nghiên cứu Đẩu Số mới nổi cơn sóng gió mạnh kéo dài hơn 10 năm. Trong quá trình này, nhiều phương diện bí truyền ẩn tàng của TVĐS đã được đưa ra ánh sáng.
Người gây ảnh hưởng sớm nhất ở giai đoạn này có thể nói là Tuệ Tâm Trai Chủ, tên tuổi của bà có ấn tượng rất sâu trong phần lớn độc giả ở Đài Loan và Hương Cảng. Trước năm 1980, người học Đẩu Số phần nhiều tham dự các lớp học nhỏ là chính, nhưng từ lúc Tuệ Tâm Trai Chủ bắt đầu bàn luận Đẩu Số trên báo, giống như đã thổi vào Đẩu Số một luồng sinh khí mới. Tuệ Tâm Trai Chủ đã sử dụng ngôn ngữ thường ngày dễ hiểu để giải thích Đẩu Số, khiến những điều cổ truyền khó hiểu trở thành rất dung dị. Bộ sách TVĐS tân thuyên có thể nói là rất thành công, về sau bà viết thêm nhiều cuốn khác cũng đều thành công. Sự thành công của bộ sách TVĐS tân thuyên không phải là ngẫu nhiên, nó đã làm cho độc giả thời ấy có thể tự lập mệnh bàn và tự mình phân tích từng cung. Nhưng do bà dùng cách giải đoán từng cung cho dễ hiểu, nên cũng khiến người đọc dễ hiểu lầm về kĩ thuật và quy tắc luận đoán Đẩu Số. Tóm lại, đối tượng của bà là đại chúng phổ thông, vì vậy có mặt hạn chế, không đi sâu vào sự tinh tế của Đẩu Số, nhưng cũng không phải là không có tuyệt kĩ.
Từ lúc Đẩu Số bắt đầu được xem trọng, nhiều tác phẩm Đẩu Số ra đời, thuyết của các nhà trăm hoa đua nở. Một số thì giảng giải tâm pháp cổ truyền, một số thì chủ trương Đẩu Số và Tử Bình phối hợp tham chiếu, một số thì thần bí hóa, mang Đẩu số gộp chung với tôn giáo, một số khác thì tuyên bố mình được truyền bí pháp chép tay của tiên sư, v.v... Trung số này đáng chú ý có những người sau đây:
- Ngô Tình, đáng tiếc sách của ông này hầu như đã tuyệt bản, rất khó mua trên thị trường. Ông phê bình Đẩu Số cổ truyền rất nghiêm túc. Một số đặc điểm trong sách của ông như: Phần lớn các sao nhỏ trong Đẩu Số ông đều không dùng tới, Thiên Thương và Thiên Sứ theo thuyết cổ truyền có thể đoán sinh tử, ông cho rằng chỉ hù dọa người ta; thuyết "miếu, vượng, lợi, hãm" cũng không dùng, v.v... Thuyết của ông toàn bộ trọng điểm nằm ở sự biến hóa của tứ hóa, cho rằng Hóa Lộc và Hóa Kị mới là nhân tốt quyết định. Đồng thời ông còn nhấn mạnh mình có "bí kíp ngàn năm bất truyền". Thuyết của ông ngày nay ảnh hưởng mạnh trong lưu phái Phi Tinh trong Bắc Phái TVĐS.
- Sở Hoàng, phải kể là người đầu tiên công khai phương pháp bày bố tinh bàn trên bàn tay, trước ông, các sách Đẩu Số phần lớn đều chỉ căn cứ vào "cổ quyết". Ông trước thư lập thuyết, chủ trương Đẩu Số và Tử Bình phối hợp tham chiếu, trong Đẩu Số còn ứng dụng một số nguyên lí đoán mệnh của Tử Bình. Trong thuyết tương sinh tương khắc, tác giả còn sáng tạo ra lí luận "Lạp Hoàn", dùng để giải thích vận tác giữa các tinh diệu với phép tắc bát tự, cũng được cho là thành một pháo.
- Chính Huyền Sơn Nhân, là người sáng lập ra thuyết "thiên địa nhân TVĐS", nói Đẩu Số là do "thần tiên" dạy cho ông. Chính Huyền Sơn Nhân viết rất nhiều sách Đẩu Số, trong đó nói nhiều về quá trình và tinh thần cầu đạo của ông. Chính Huyền Sơn Nhân mang các sao trong TVĐS liên hệ với chư vị tiên nhân ở trên trời, thần bí hóa TVĐS đến cực độ. Đồng thời, chủ trương "Cung can phi xuất tiên thiên tứ hóa tinh".
- Phan Tử Ngư trương bản đoán mệnh khá sớm, học trò rất đông, trước tác cũng không ít, phải kể là rất thịnh hành một thời. Đặc sắc trong các trước tác Đẩu Số của ông là lời đoán mệnh phán như đinh đóng cột.
- Tử Vân là học trò của Hà Mậu Tùng, một cao thủ Tử Vi Đẩu Số thời kì đầu. Năm 1987, ông xuất bản cuốn Đẩu Số dữ nhân sinh, làm chấn động giới nghiên cứu Đẩu Số ở Đài Loan và Hương Cảng. Trong cuốn Đẩu Số dữ nhân sinh, Tử Vân tự thuật quá trình nghiên cứu Đẩu Số của mình, và thuyết minh quan điểm của ông về tính chất và ứng dụng của 12 cung. Trong thời gian này, sách Đẩu số liên tục được xuất bản với số lượng lớn, nhưng phần nhiều chẳng có cống hiến gì. Riêng sách của Tử Vân tiên sinh được cho là đã bổ sung những chỗ trống trong Đẩu số cổ truyền. Ngày nay trong giới nghiên cứu Đẩu Số, người được tôn là bá chủ về phương diện kĩ thuật luận đoán chính là Tử Vân tiên sinh. Nhất là vào năm 1990, trong Đẩu số luận hôn nhân, Tử Vân tiên sinh đã đưa ra thuyết "Thái Tuế nhập quái pháp" và nguyên tắc "Tương khê", đã giải quyết vấn đề kĩ thuật mà cả trăm năm nay không cách nào giải thích, nhờ vậy cũng đã giải quyết chỗ khiếm khuyết trong bộ Hiện đại Tử Vi của nhóm Liễu Vô Cư Sĩ. Thuyết này đã biết Đẩu Số thành một phương pháp chỉ ra xu thế và phương hướng của mệnh vận; từ đó Đẩu Số có cách để phân biệt những người sinh ra cùng một giờ có mệnh vận khác nhau. Đây đúng là một bước đột phá trong lịch sử phát triển TVĐS.
Vai trò của Tử Vân tiên sinh rất quan trọng trong hệ phái Tam Hợp. Về cơ bản, phương pháp luận Đẩu Số của ông cũng tương tự như Vương Đình Chi, lấy truyền thống làm chính tông, làm khung giá cho phép luận đoán, lấy bối cảnh thực tế để diễn giải, tổng hợp cổ kim, và rất chú trọng phương diện tâm lí, sinh lí, nhân tính để ứng dụng trong luận đoán.
Trước năm 1989, Tử Vân đã cho ra đời bộ Đẩu Số luận danh nhân, các sách này đã gây sự chú ý trong giới nghiên cứu Đẩu Số, va đã có uy danh. Năm 1990, trong lúc thị trường chứng khoán của Đài Loan đang từ thịnh chuyển thành suy, phong trào đầu tư vào cổ phiếu bị giảm mạnh, Tử Vân lại hoàn thành cuốn Đẩu Số luận cầu tài, sách này đưa ra phương pháp luận đoán mới, bổ sung phép đoán của tiền nhân, cho rằng, hễ tiền có được nhờ đầu cơ hay đầu tư, cần phải xem cung phúc đức. Tức là, tiền kiếm được không do sức lực hay trí lực của bản thân thì không xem ở cung tài bạch. Trong cuốn đẩu số luận hôn nhân, về phương diện lí luận và thực tế luận đoán của Đẩu Số, đều có sự phát triển mang tính đột phá.
Ngày nay, địa vị của Tử Vân trong giới nghiên cứu Đẩu Số ở Đài Loan được xếp ngang hàng với Vương Đình Chi của Trung Châu Phái ở Hương Cảng. Học trò của ông cũng rất đông, trong số đó nổi tiếng nhất là Liễu Vô Cư Sĩ và Tuệ Canh. Ngày nay ở Đài Loan tên tuổi Liễu Vô Cư Sĩ cũng khá lớn.
Trong số những người còn lại phải kể đến Khôn Nguyên và Vu Ngoan Dã Nông, thực ra đây chỉ là một người, "Vu Ngoan Dã Nông" là biệt danh mà sau này ông ít dùng đến. Khôn Nguyên có nhiều bút danh như Hoàn Hữu Thủy Ngân, Lam Thần, Trịnh Giả Học. Trước tác Tử Vi Đẩu Số của ông có bộ Tử Vi Đường Áo khá nổi tiếng.
Kế đến là Phál Quảng Cư Sĩ và Nam Bắc Sơn Nhân, trong hai người thì Pháp Quảng Cư Sĩ trước tác nhiều hơn, ông có một bộ tùng thuy Truy Tung Chính Thống Đẩu Số, khá thịnh hành vào thời điểm đó, hơn nữa còn có tính liên tục khá mạnh, kéo dài cho đến ngày nay. Còn Nam Bắc Sơn Nhân, tên thật là Đồng Bành Niên, đương thời lấy danh nghĩa "Chính Tông Bác Phải TVĐS" để đoán mệnh, tác phẩm xuất bản không nhiều, chỉ có một quyển Chính Tông TVĐS toàn thư mà thôi.
Bắt đầu từ năm 1984, TVĐS bước vào thời đại mới, có thể quy công cho một nhóm người, trong số đó có 2 nhân vật trung tâm là Hoàng Trung Lâm, và Chu Vi. Nhờ nỗ lực của họ, Đẩu Số hiện đại hóa dần dần rõ nét, lí thuyết mệnh lí mang tính khoa học bắt đầu được xây dựng. Hoàng Trung Lâm có bút danh là Liễu Vô Cư Sĩ, vốn là một kí giả, về sau ông nghiên cứu mệnh lí và bắt đầu viết sách đẩu số vào năm 1981. Năm 1984 ông viết cuốn Tử Vi luận mệnh, làm cho ông có tiếng nói trong giới nghiên cứu đẩu số. Cuốn sách này khá thành công, sau đó trong khoảng thời gian từ năm 1985 đến 1986 ông đã hoàn thành bộ sách quan trọng 7 quyển là Hiện đại tử vi, đây là bước đầu tiên quan trọng trong công cuộc hiện đại hóa Đẩu Số.
Nội dung cuốn Tử Vi luận mệnh chủ yếu là phê phán các tác phẩm của các đại sư thời đó, và từ những luận chứng của mình, tác giả đã đưa ra quan niệm và kĩ thuật luận mệnh mới. Đương nhiên lúc đó các đại sư cũng phản kích dữ dội. Sau cuốn TV mệnh luận, LVCS trở thành nhân vật ưu tú mới trong giới nghiên cứu Đẩu Số. Nhờ phương pháp luận và mô thức khảo cứu hiện đại, Liễu Vô Cư Sĩ còn được coi là nhân vật trí thức phát biểu về mệnh lý truyền thống.
Bộ hiện đại tử vi ra đời từ năm 1985 đến 1986, tổng cộng gồm 7 tập. Về tác giả, ngoài Liễu Vô Cư Sĩ, còn có giáo sư Hứa Hưng Trí, thuật sĩ Tuệ Canh, Quách tiên sinh, Tượng Sơn Cư Sĩ, Phi Vân Cư Sĩ,...
Trong bộ hiện đại Tử Vi (HĐTV) có một phần gọi là "Tử Vi quảng trường", tức là phần đăng thư do độc giả gửi đến và giải đáp của các tác giả, đây cũng là một sáng kiến, và cũng là nhân tố khiến bộ sách này có sức ảnh hưởng khá lớn vào lúc đó. Bộ HĐTV mỗi tập đều có đặc sắc, nhất là tập 7, có nhiều quan niệm đáng chú ý. Điều đáng được nhắc đến là nỗ lực hiện đại hóa Đẩu Số của bộ sách này. Trong đó đưa ra quan điểm cần nhấn mạnh tính thời đại trong việc tìm hiểu bản chất của Đẩu Số. Một số vấn đề khác còn đợi sự nỗ lực của hậu học. Phương hướng của phái Hiện Đại là sử dụng logic để khảo nghiệm mệnh lý, từ đó xác nhận khả năng và chỗ hạn chế của đẩu số, đây là bước tiến lớn trong việc hiện đại hóa đẩu số. Vì trước đó, quan niệm của người luận mệnh đẩu số là: bất kể sự tình nào cũng đều có thể dựa vào mệnh bàn mà đoán ra, dù mệnh tạo có quan hệ với người khác hay không. Nhưng trong bộ HĐTV lại phủ định nguyên tắc bành trướng này, chủ trương rằng, đối với những sự vật mà bản thân mình có thể quyết định được, Đẩu Số mới có thể luận đoán, nếu mệnh tạo không có quan hệ gì với người khác thì không cách nào luận đoán, trừ phi ở trong mối quan hệ với họ. Đây là thành tựu lớn của bộ Hiện Đại Tử Vi, tuy chỉ hoàn thành một nửa trước. Về nửa sau liên quan đến "điều kiện ở trong mối quan hệ" thì phải đợi sư phụ của ông là Tử Vân giảng giải.
Vào tháng 3 năm 1985, trong giới nghiên cứu Đẩu Số xảy ra một sự kiện lớn, đó là sự xuất hiện của bộ sách "thiên cổ bí cấp" gọi là Hoa Sơn Khâm Thiên Tứ Hóa Tử Vi Đẩu Số phi tinh bí nghi, là bí truyền của Tố Tâm Lão Nhân truyền lại cho Sái Minh Hoành. Sự xuất hiện của nó tạo thành một trào lưu cực lớn về sau, ban đầu được rao bán trên tạp chí Tinh tướng với giá một vạn năm ngàn nguyên (đơn vị tiền tệ của Đài Loan), sau giá nâng lên tới ba trăm vạn nguyên.
Phi Tinh phái là một chi của Bắc phái TVĐS cũng nổi rộ lên trong thời kì này, hiện đang rất thịnh hành ở Đài Loan và Trung Quốc lục địa. Đại biểu nổi tiếng hiện nay là Lương Nhược Du mà sự phụ của Lương Nhược Du là Chu Thanh Hà, một cao thủ tiền bối của Phi Tinh Phái, nội dung TVĐS của phái này sẽ được trình bày đầy đủ trong Trung Châu Tử Vi Đẩu Số - Tứ Hóa Phái của cùng tác giả Nguyễn Anh Vũ.
Có nhiều người cho rằng TVĐS Phi Tinh phái là do người cận đại phát minh. Sở dĩ có sự hiểu lầm này, là do họ cứ nghĩ rằng TVĐS phi tinh bí nghi của Sái Minh Hoành là căn nguyên Phi Tinh phái. Rất nhiều người cho rằng TVĐS của Phi Tinh phái là do Sái Minh Hoành tự sáng chế ra.
Thực ra, trước khi TVĐS phi tinh bí nghi lưu truyền rộng rãi, lí luận TVĐS của Phi Tinh phái đã xuất hiện từ lâu. Vả lại, Phi Tinh Phái cũng có nhiều phân chi, Sái Minh Hoành cũng là một chi phái trong số đó, nhưng là phái được nhiều người biết đến vào thời kì này.
Ngoại trừ các bậc tiền bối như Ông Phúc Dụ, Phương Ngoại Chân, Từ Tăng Sinh, và Lương Nhược Vọng (học trò Sái Minh Hoành)... còn có một số người ít ai biết đến ở Trung Quốc lục địa, nhưng cũng là cao thủ truyền dạy theo truyền thống Bắc Phái Phi Tinh. Ngay như ở Đài Loan, chỉ nói số đồng môn cùng lứa với Sái Minh Hoành, ít nhất cũng có năm người. Hơn nữa, Sái Minh Hoành trong quyển 1 của Khâm Thiên tứ hóa TVĐS phi tinh bí nghi cũng có nói, "bí nghi" là do ông tập đại thành truyền thống Phi Tinh TVĐS. Cho nên, phải nói "bí nghi" là sở học của ông được truyền thừa mới đúng. Ví dụ như "Phi Tinh chuyển yết quan quyết" trong Khâm Thiên tứ hóa TVĐS phi tinh bí nghi (Phan Tử Ngư gọi là "Phi Yến Quỳnh Lâm", ông được bí truyền từ TQ lục địa) đã lưu truyền rộng rãi trước khi "bí nghi" xuất hiện, rất nhiều phái xem nó là "bí bảo".
Tử Vi đẩu số của bắc phái Phi Tinh (hay còn gọi là Tứ Hóa Phái) có nhiều truyền thừa khác nhau, lí luận của các chi hệ đều đại đồng tiểu dị. Đương nhiên, trong đó cũng có xuất hiện tư duy mới. Như "Đồng bộ đoán quyết" của Phương Ngoại Nhân chính là phát hiện độc đáo, nhưng nếu nghiên cứu tỉ mỉ nội chung của nó, chúng ta sẽ phát hiện kết luận của Phương Ngoại Nhân không tách rời lí luận cơ bản của Bắc Phái Phi Tinh, Phương Ngoại Nhân cũng nói thẳng, "Đồng bộ đoán quyết" chỉ là suy luận ra từ nền tảng truyền thống, chứ không phải là phát minh nguyên lý gì.
Tử Vi Đẩu Số đang trong giai đoạn hưng khởi, sự xuất hiện một nguồn tư liệu mới đã gây thêm hứng thú cho giới nghiên cứu Đẩu Số. Truyền thống Bắc Phái Phi Tinh đặc biệt ở chỗ vận dụng tứ hóa khác với truyền thống của Tam Hợp Phái. Phái này cho rằng sau khi lập xong mệnh bàn tiên thiên, trong 12 cung đều có thiên can riêng, thiên can của cung mệnh ngoại trừ dùng để tương phối với địa chi (nạp âm) để tính toàn bày bố 14 chính tinh, nó còn được dùng để bày ra một bộ tứ hóa, như vậy mệnh bàn tiên thiên sẽ thêm một tầng biến hóa, việc luận đoán cũng theo đó mà thâm sâu hơn. Càng tinh vi hơn là, không phải chỉ có cung mệnh phi xuất một bộ tứ hóa, mà 11 cung còn lại cũng vậy.
Trước tác của các cao thủ nổi tiếng trong Bắc Phái Phi Tinh gồm có Sái Minh Hoành, Tử Dương, Từ Tăng Sinh, Phương Ngoại Nhân, Khuyến Học Trai Chủ, Lương Nhược Du,v.v... đều có cống hiến đã kể. Phương pháp luận mệnh của họ khá phức tạp, nếu có điều kiện các bạn nên tìm hiểu trong Trung Châu Tử Vi Đẩu Số - Tứ Hóa Phái của cùng tác giả Nguyễn Anh Vũ.
Cũng trong khoảng thời gian này Vương Đình Chi xuất hiện và tự xưng mình là truyền nhân của phái Trung Châu, công nhận Tử vi Đẩu Số Giảng Nghĩa của Lục Bân Triệu là truyền bản của Khâm Thiên Giám Bí Cấp, và tiết lộ nội dung bí truyền Tử Vi Tinh Quyết của môn phái Trung Châu. Ảnh hưởng của Vương Đình Chi khá lớn ở Hương Cảng, về sau lan rộng qua Đài Loan, Singapore, Bắc Mĩ, v.v... kéo dài cho đến ngày nay. Phương pháp luận mệnh của ông là nội dung chủ yếu của bộ Trung Châu Tử Vi Đẩu Số - Tam Hợp Phái mà chúng tôi biên soạn để giới thiệu đến bạn đọc ở đây.
Nhờ sự thành công của bộ Hiện Đại Tử Vi, một số tác giả cũng bắt đầu viết sách, như Đường Sơn Dật Sĩ, Tuệ Canh, v.v... Trong số đó, các công trình của Tuệ Canh Thuật Sĩ là có ảnh hưởng nhất. Tác phẩm của Tuệ Canh là Tử Vi Đẩu Số khai vận toàn tập, trong đó quan niệm và ứng dụng của 12 cung, cho tới tính chất các tinh diệu đều được ông giảng giải rất tinh tế. Đây là sự kiện xảy ra sau năm 1988.
Cũng trong khoảng thời gian này, có một số học giả mới cũng trước thư lập thuyết, trong đó cũng có vài người đáng chú ý, như Ngô Đông Tiều trong Đẩu số tân quan niệm, Trần Thế Hưnh trong Tử Vi Đẩu Số đạo luận, Phúc Canh trong Đẩu Số tâm lí học, Tượng Sơn Cư Sĩ trong Thiên Tinh Đẩu Số bí cấp và Thiên Tinh Đẩu Số chân cơ điển phạm. Nhưng sách này phần lớn thảo luận về đặc tính cơ bản của tinh diệu và các cách cục, cũng có thành tựu.
Trong thời gian này, Liễu Vô Cư Sĩ mang Tử Vi Đẩu Số tuyên vi và Tử Vi Đẩu Số toàn tập ra chú giải; sau đó ông còn đem hết tâm lực ra để hệ thống hóa phương pháp Đẩu Số của mình, lúc này Liễu Vô Cư Sĩ đã dần dần có những quan điểm khác với sư phụ của mình là Tử Vân. Ông đề xuất một số điều, ví dụ như: Bỏ Lộc Tồn, Thiên Mã và các sao cấp 2; ông còn đề xuất: phế bỏ Hóa Quyền và Hóa Khoa, tứ hóa chỉ còn Hóa Lộc và Hóa Kị; ngoài ra còn có một số nguyên tác "khoa học thích dụng tính".
Lúc này TVĐS lộ rõ sức quyến rũ của nó. Ngày nay, có thể nói TVĐS chia thành hai dòng chính:
- Một là, chủ yếu lấy tinh diệu để luận đoán, gọi chung là Tam Hợp Phái (hay Nam Phái). Trong số các chi lưu thuộc Tam Hợp Phái, thì phái Trung Châu Vương Đình Chi là có hệ thống hoàn bị nhất.
- Hai là, chủ yếu lấy "tứ hóa" để luận đoán, gọi chung là Tứ Hóa Phái (hay Bắc Phái). Trong số các chi lưu thuộc hệ phái Tứ Hóa, thì Khâm Thiên Môn là có hệ thống nghiêm cẩn nhất.
Riêng tại Trung Hoa lục địa, trào lưu nghiên cứu thuật số nói chung, TVĐS nói riêng, cũng khá rầm rộ. Các lưu phái Tử Vi Đẩu Số ở đây phần lớn đều có khuynh hướng tổn hợp hai dòng chủ lưu kể trên. Đáng kể nhất có:
- Tử Vi phái do Vũ Quảng Thịnh sáng lập, chủi trương dung hợp tinh hoa của các phái hệ, với nguyên tắc "Đơn giản và trực tiếp thâm nhập chủ đề". Lí luận đẩu số của ông rất có giá trị tham khảo.
- "Kì Môn Phái", đại biểu hiện nay là Đại Đức Sơn Nhân với bộ Tử Vi Đẩu Số tinh thành, v.v... Ông chủ trương lấy các nguyên tắc của bản môn làm nền tảng, và cũng dung hợp tinh hoa của các phái để luận đoán.
![]() |
Những bạn gái sinh ngày: 1, 5, 8, 10, 14, 15, 17, 23, 25.
Những bạn gái sinh ngày: 4, 6, 13, 16, 22, 24, 26, 28, 31
Những bạn gái sinh ngày: 2, 7, 9, 11, 18, 20, 27, 29
Những bạn gái sinh ngày: 3, 12, 19, 30
Những bạn gái sinh ngày 21
Maruko (theo QQ)