Phong thủy nữ tuổi Mậu Ngọ –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Khánh Linh (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Khánh Linh (##)
1. Những điều lưu ý
- Khi chọn ngày để làm lễ nhập trạch, cần chọn ngày không xung với tuổi của gia chủ, không phạm Tam Sát, không phạm Ngũ Hoàng.
- Về cách thức đặt bát hương thì có thể tham khảo thêm các sách như Ngọc Hạp Ký, Thông Thư…
- Khi chuyển nhà thì phải đích thân gia chủ chuyển đồ sang nhà mới, có thể nhờ người khác trợ giúp nhưng phải tự tay cầm bài vị, bát hương cúng gia thần, tổ tiên và các thành viên khác trong gia đình.
- Thời gian chuyển nhà tốt nhất là vào buổi sáng, không nên tiến hành vào buổi trưa hoặc lúc mặt trời sắp lặn, đặc biệt cấm kỵ việc chuyển nhà vào buổi tối.
- Khi nhập trạch phải đặt bát hương, bài vị tổ tiên trước khi sắp xếp các đồ dùng, vật dụng khác trong nhà.
![]() |
Ảnh minh họa |
Nguồn: TRUNG CHÂU TỬ VI ĐẨU SỐ TAM HỢP PHÁI - NGUYỄN ANH VŨ dịch.
Tương truyền, Tử Vi Đẩu Số có nguồn gốc từ Khâm Thiên Giám của triều đại nhà Đường, ở Lạc Dương, Trung Châu.
Trung Châu là tên một vùng đất cổ, tức "Trung Thổ", "Trung Nguyên". Theo nghĩa rộng, "Trung Châu" là chỉ toàn nước Trung Hoa, còn gọi là "Thần Châu", "Hoa Hạ". Nghĩa ban đầu của "Trung Châu" là chỉ vùng đất thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay, hay thuộc lưu vực sông Hoàng Hà. Vì vùng đất này ở giữa Cửu Châu thời cổ đại nên có tên gọi này. Phần lớn thời gian trong lịch sử, vùng đất này là trung tâm văn hóa, chính trị, và Kinh Tế của Trung Quốc. Thời cổ, Lạc Dương là vùng đất trọng yếu của Trung Châu tọa lạc ở bờ nam sông Hoàng Hà, miền tây tỉnh Hà Nam, phía Bắc dựa núi Mang Sơn, phía nam đối diện Long Môn, phía tây liền với Tần Lĩnh, phía đông là vách núi Tung sơn, ở giữa là một vùng bình nguyên. Nơi này địa hình hiểm yếu, đất đai phì nhiêu, nguồn nước dồi dào; trong lịch sử, đây là vùng đất mà các binh gia phải chiếm lấy, còn là nơi lý tưởng để lập quốc đô. Bắt đầu từ năm 770 TCN, trước sau đã có chín vương triều là Đông Chu, Đông Hán, Tào Ngụy, Tây Tấn, Bắc Ngụy, Tùy, Đường, Hậu Lương, và Hậu Đường, chọn nơi này làm kinh đô, vì vậy Lạc Dương được gọi là "Cửu Triều Cố Đô".
Vào thời Đường, thiên văn học và chiêm tinh học từ phía Tây Vực du nhập vào Trung Quốc đã thúc đẩy Tinh Mệnh Học của Trung Quốc phát triển một bước lớn, từ đó lịch pháp và bát tự sinh thần trở thành nhân tố trọng yếu trong Tinh Mệnh Học. Những hoạt động sôi nổi này chủ yếu tập trung ở Lạc Dương, Trung Châu.
Trong số các Đạo kinh truyền lại từ đời Đường có Bắc Đẩu Kinh, Nam Đẩu Kinh, Phật thuyết bắc đẩu thất tinh Diên Mệnh kinh, trong đó đã có những ghi chép tường tận về phương pháp bài bố sao mệnh chủ và sao thân chủ như trong Tử Vi Đẩu Số. Theo quan niệm của đương thời, sao mệnh chủ và sao thân chủ luôn là mấu chốt quan trọng của kiếp số nhân sinh, vì vậy Đạo Giáo có "Kì an lễ đẩu", "Kì nhương khoa nghi" (một loại nghi lễ cúng sao trong đạo giáo). Trong bắc đẩu kinh còn đề cập 12 cung, "Giáp cát trợ tinh", cho đến các cách cục hung dẫn đến các loại mệnh vận tai kiếp như trong Tử Vi Đẩu Số. Điều này cho thấy 3 cuốn kinh kể trên có liên quan mật thiết đến Tử Vi Đẩu Số sau này. Nếu các bản chú giải kinh văn thời ấy còn lưu truyền cho đến ngày nay, có lẽ chúng ta sẽ biết yếu quyết của Tử Vi Đẩu Số vào thời ấy tường tận hơn. Hiện tượng chọn Tử Vi làm sao tôn quý nhất trong 14 chủ tinh có nguồn gốc từ Bắc Đẩu Kinh, Nam Đẩu Kinh, trong đó ẩn chứa khái niệm "số" trong Huyền Học, hậu thế gọi là "Tử Vi Đẩu Số" thực sự có hàm ý uyên nguyên của nó.
Sau thời Bắc Tống, các hệ thống tinh mệnh học dần dần hoàn thiệt, Ngũ Tinh Thuật (Thất Chính Tứ Dư) và Tử Bình thuật đã phát triển thành 2 lưu phái Tinh Mệnh học lớn ở Trung Quốc. Trong đó, Ngũ Tinh thuật phái Cẩm Đường là chi phái Thất Chính Tứ Dư nổi tiếng nhất thời ấy, nguồn gốc xuất phát từ Mật Tông, tổ sư là Nhất Hạnh(CN. năm 683 - 727), người đời Đường, tên tục là Trung Trục, có sách truyền lại là Hư Thục Ngũ Tinh nguyên lưu; truyền đến tăng Xuân ở núi Thanh Thành, Xuân truyền cho tăng Phổ Trừng ở Giang Tây, Trừng truyền cho Tứ Minh tăng Huệ Minh ở Chiết Giang, Minh truyền lại cho quốc sư nước Liêu là Gia Luật Sở Tài. Gia Luật là một dòng họ quý tộc nổi tiếng đời Liêu, có rất nhiều người làm quan lớn và văn nhân học sĩ. Ba quyển Tinh Mệnh Tổng Quát là do Hàn Lâm học sĩ Gia Luật Thuẩn biên soạn. Sách sử không ghi tên ông, cho nên trong Tứ Khố đề yếu nghi là sách thác danh, nhưng trong quyển đầu ghi: "Nguyên Tự" thiên Gia Luật Thuần viết vào niên hiệu Thống Hòa thứ 2 (CN, ngày 10, tháng 9 năm 984); Văn Hồ các thư mục ghi là một bộ, không phân chia số sách; Lục Trúc Đường thư mục chia làm 5 sách, nhưng không ghi số quyển; bộ sách này thấy chép trong Vĩnh Lạc đại điển và Tứ Khố toàn thư, ngoài nhân gian không có truyền bản nào khác. Ngoài ra, bộ Hư Thục Ngũ Tinh nguyên lưu còn được chùa Thiên Giới cất giữ một bản; vào niên hiệu Hồng Vũ thứ 6, truyền lại cho Thương Quý Đổng. Truyền bản ngày nay phần nhiều là Cẩm Đường Ngũ Tinh, Chỉ Kim Hư Thục Ngũ Tinh Thiên Cơ thất ngũ phú. Do đó có thể thấy phái Cầm Đường là một phân chi Tinh Tông quan trọng. Còn có thể khảo chứng thư tịch Tinh tông trong bộ sách Trương Quả tinh tông chép trong Tứ Khố toàn thư, và Tinh Mệnh tố nguyên do Trương Quả trước tác, thân thế Trương Quả có ghi chép trong Tân Đường truyện - Phương Kĩ truyện. So sánh đối chiếu với phương pháp đoán mệnh của Thất Chính Tứ Dư, người ta thấy có nhiều dấu vết diễn biến thành Tử Vi Đẩu Số ngày nay.
Trong suốt khoảng thời gian từ đời Tống đến đầu đời Nguyên, Tử Vi Đẩu Số hầu như im hơi lặng tiếng, người ta không tìm thấy một văn bản nào khác liên quan đến Tử Vi Đẩu Số. Hiện chỉ lưu giữ được 1 bản chép tay sách các cổ quyết của Tử Vi Đẩu Số đời Nguyên.
Đến đời Minh, giai đoạn cuối thời kì chấp chính của Chu Nguyên Chương, vị vua khai quốc triều Minh này đã hạ lệnh cấm dân gian không được học thiên văn, cho nên Tinh tông mệnh lí học dần dần bị chìm trong bóng tối, mãi đến niên hiệu Gia Tĩnh thứ 26 (CN năm 1547) mới giải trừ luật cấm học thiên văn.
Tinh tông mệnh lí học thoát khỏi lệnh cấm này, dần dần từng bước hoàn thiện hệ thống. Tên gọi "Tử Vi Đẩu Số" sớm nhất được thất trong Tục Đạo Tạng, do Trương Quốc Tường, Chính Nhất thiền sư đời thứ 50 của đạo giáo, tập thành vào thời Minh Thần Tông niên hiệu Vạn Lịch thứ 35 (1607), trong đó có 3 quyển Tử Vi Đẩu Số, không rõ tác giả, căn cứ nội dung của 3 quyển Tử Vi Đẩu Số này thì đúng là thuật "Thập Bát Phi Tinh". Đầu đời Thanh, trong Tử bộ thuật số của Tứ Khố toàn thư, tổng cộng ghi nhận được 50 loại thuật số, bao gồm cả "Thập Bát Phi Tinh" và "Tử Vi Đẩu Số". Cũng chính vì vậy mà một số học giả cho rằng Tử Vi Đẩu Số là hình thức cải cách của "Thập Bát Phi Tinh" được thu thập trong Tục Đạo Tạng.
Tuy triều Minh cấm dân gian học thiên văn, nhưng cơ cấu triều đình vẫn có một cơ quan chuyên trách về khí tượng và thiên văn, gọi là "Khâm Thiên Giám", cho nên môn học thuật này vẫn phát triển trong cung đình hoàng gia. Vì nhân tố hoàn cảnh thời đại, Đẩu Số bị khoác lên một bức màn che, làm tăng vẻ thần bí của nó. Tử vi Đẩu Số bắt nguồn từ ngũ tinh thuật, do xuất phát từ Khâm Thiên Giám đời Đường ở Lạc Dương, Trung Châu, nên còn gọi là "Khâm Thiên Giám Bí Cấp".
Sách Tử Vi Đẩu Số toàn thư và Tử Vi Đẩu Số toàn tập đều đề do Trần Đoàn cuối đời Ngũ Đại sáng tác, trong dân gian thì lưu truyền thuyết Lữ Đồng Tân truyền Tử Vi Đẩu Số cho Trần Hi Di. Trần Hi Di lại mang Tử Vi Đẩu Số truyền cho các đồ đệ của mình, trong suốt mấy trăm năm, Tử Vi Đẩu Số mang hình thức bí truyền từ đời này sang đời sau, đây là một trong những nguyên nhân khiến sách Tử Vi Đẩu Số xuất hiện rất hiếm hoi.
Khoảng niên hiệu Gia Tĩnh đời Minh, La Hồng Tiên, một nhà kham dư gia ở Cát Thủy, Giang Tây, khắc in và lưu truyền sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư. Về sau Phan Hi Doãn, hiệu là Phụ Tử Tử ở Giang Tây, biên tập sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Tập, và hậu thích của Phan Hi Doãn là Dương Nhất Vũ ở Quan Tây, Phúc Kiến tăng bổ.
Hiện nay hai bản TVĐS này là tư liệu hàng đầu để nghiên cứu TVĐS cổ đại, nhưng đều là bản khắc vào thời kì Đồng Trị đời Thanh. Xét về nội dung thì biết được hai bản này về đại thể thì đại đồng tiểu dị, và không phải do một người biên soạn.
Vào khoảng cuối đời Minh đầu đời Thanh, toán học và Thiên Văn Học phương tây theo các giáo sữ Mục Ni Các, Thang Nhược Vọng, Nam Hoài Nhân, v.v... truyền vào Trung Quốc. Theo đó, Tinh Tông mệnh lí học và Trạch Cát thuật lại hưng khởi, càng làm cho khoa Tử Bình hưng thịnh hơn. Khoa Tử Bình đồng thời cũng hấp thu tinh hoa của Tinh Tông mệnh lí học. Việc ứng dụng các thần sát cũng xuất hiện nhiều trong khoa Tử Bình, còn khoa Tử Vi Đẩu Số thì ít người biết đến, nên càng mang sắc thần bí.
Trước năm 1950, phương thức đoán mệnh ở Đài Loang phần lớn chỉ dùng khoa Tử Bình. Sau đó trên thị trường lưu truyền cuốn Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư, do Trúc Lâm thư cục xuất bản vào năm 1958, sách đề do Hi Di Trần đoàn trước tác, ban đầu chi làm 2 tập, về sau in gộp thành một tập.
Trong khoảng thời gian từ 1947 - 1955, toàn Đài Loan không có thêm bộ TVĐS nào khác. Mãi đến giữa tháng 2, năm 1966, Phúc Châu Xuất Bản Xã mới xuất bản Thập Bát Phi Tinh Sách Thiên Tử Vi Đẩu Số toàn tập, đề tác giả là Đại Tống Hoa Sơn Hi Di Trần Đồ Nam, người tăng bổ là Bạch Ngọc Thiềm. Chủ của bộ sách cổ này là Thiết Bản Đạo Nhân Trần Nhạc Kì.
Điều đáng chú ý là, sách này ở phần phàm lệ của tác giả đề rằng:" Tử Vi Đẩu Số truyền thế, chia ra hai phái Nam Bắc, sách này thuộc Bắc Phái, là chính thống chân truyền, ứng nghiệm vô song, còn Nam Phái là bản lưu truyền trong dân gian, do hậu nhân ngụy thác tên của Hi Di, không ứng nghiệm, là ngụy thư gạt người..."
Bản sách này tự xưng thuộc Bắc phái, thực ra so với bản Thập Bát Phi Tinh Sách Thiên Tử Vi Đẩu số Toàn Tập do Tập Văn thư cục xuất bản năm 1971, nội dung hoàn toàn tương đồng, chỉ khác là không có câu kể trên.
Giữa TVĐS toàn thư và TVĐS Toàn tập có nhiều chỗ khác biệt, như sau:
(1) Mệnh Chủ:
Trong TVĐS Toàn Thư lấy địa chi cung mệnh làm chủ. Còn trong TVĐS toàn tập thì lấy địa chi năm sinh làm chủ.
(2) Tứ Hóa:
Năm CAnh và năm Nhâm phương pháp an khác nhau. Trong quyển 2 TVĐS toàn thư, phương pháp an của năm Canh là "Nhật Vũ Đồng Âm"; nhưng trong quyển 4 thì lại có mục cổ lệ, phương pháp an là "Nhật Vũ Đồng Tướng"; phương pháp an của năm Nhâm là "Lương Vi Phủ Vũ". Trong TVĐS toàn tập, phương pháp an của năm Canh là "Nhật Vũ Âm Đồng"; phương pháp an của năm nhâm là "Lương Vi Phụ Vũ".
(3) Hỏa Tinh, Linh Tinh:
Trong quyển 2 của TVĐS toàn thư, chỉ lấy địa chi của năm sinh làm chủ, không thấy nói phải phối hợp với giờ sinh hay không; nhưng theo cổ lệ ghi trong quyển 4 thì lại thấy rất rõ ràng là không phối hợp với giờ sinh (ngoài ra, bản đầu tiên còn ghi người sinh năm Tị Dậu Sửu thì Hỏa Tinh ở cung Mão, Linh Tinh ở cung Tuất); phương pháp an trong TVĐS toàn tập là lấy địa chi năm sinh phối hợp với giờ sinh.
(4) Độ sáng của sao:
Trong quyển 2 và quyển 3 của Tử Vi Đẩu Số toàn thư có liệt kê thành 1 bảng các sao ở 12 cung có 7 cấp độ sáng: miếu, vượng, đắc địa, lợi ích, bình hòa, không đắc địa, hãm. Trong TVĐS toàn tập không có bảng liệt kê này, nhưng có "Vượng cung hãm địa cát hung chi đồ" và "Thập nhị cung Lộc Quyền Khoa Kỵ miếu vượng luận"
(5) Đại Hạn:
Trong TVĐS toàn thư, khởi đại hạn là dương nam âm nữ lấy ttru7o7co1 cung mệnh 1 cung (tức là cung phụ mẫu), đi thuận; âm nam dương nữ thì từ sau cung mệnh một cung (tức cung huynh đệ), đi nghịch. Còn trong TVĐS toàn tập, khởi đại hạn từ cung mệnh rồi mới đi thuận hay đi nghịch.
(6) Lưu niên Thái Tuế Thần Sát:
Trong Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư, lưu niên thái tuế thần sát chỉ có "Tứ Phi tinh quyết Tang Hổ Khách Phù", tức là chi an năm thần sát của "lưu niên Thái Tuế thập nhị chi Thần Sát". Trong Tử Vi Đẩu Số toàn tập, lưu niên Thái Tuế thần sát thì an 11 cát thần, 47 hung sát, tổng cộng 58 thần sát.
TVĐS toàn thư và TVĐS toàn tập đều có ghi phương pháp an lưu niên tam cát thần "Thiên Đức, Nguyệt Đức, Giải Thần", phà phi thiên tam sát "Tấu Thư, Tướng Quân, Trực Phù".
(7) Thiên Không và Địa Không:
Trong TVĐS toàn thư lấy địa chi giờ sinh đi nghịch và đi thuận để an Thiên Không, Địa Kiếp. Còn TVĐS toàn tập thì lấy Thiên Không của TVĐS toàn thư gọi thành Địa Không; còn lấy địa chi của năm sinh an một sao khác trước Thiên Không một cung. Do đó có thể biết, Thiên Không và Địa Kiếp của TVĐS toàn thư chính là Địa Không Địa Kiếp của TVĐS toàn tập; còn Thiên Không của TVĐS toàn tập khác với Thiên Không của TVĐS Toàn Thư.
Có một số sao thần sát trong hai cuốn đều có cách an và có giải thích (như Thiên Mã, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hồng Loan, Thiên Không, Địa Kiếp, Hóa Kị, Thiên Thương, Thiên Sứ, Thiên Hình, Thiên Riêu, Thiên Khốc, Thiên Hư); có một số sao thần sát trong 2 cuốn đều có phương pháp an nhưng không có giải thích (như Thiên Hỉ, Tam Thai, Bát Tọa, Đài Phụ, Phong Cáo, Long Trì, Phượng Các, Tiệt Không, Tuần Không); có một số sao trong TVĐS toàn thư không có, nhưng trong TVĐS toàn tập có phương pháp an (như Thiên Tài, Thiên Thọ, Thiên Quan, Thiên Phúc, Ân Quang, Thiên Quý, Cô Thần, Quả Tú, Kiếp Sát, Hoa Cái, Đào Hoa Sát, Đại Hao, Phá Toái, Địa Không).
Điều đáng ngạc nhiên là, có một số sao như Giải Thần, Thiên Vu, Phỉ Liêm, Thiên Nguyệt, Âm Sát, trong TVĐS toàn thư lẫn TVĐS toàn tập đều không có, nhưng hiện nay sách TVĐS nào cũng thấy.
Hai Bộ Sách TVĐS toàn thư và TVĐS toàn tập có một điểm chung, đó là đều đề cập đến La Hồng Tiên. Theo truyền thuyết, vào đời Minh, La Hồng Tiên từng chỉnh lí Đẩu Số, nhưng về sau sự phát triển cũng không có chứng cứ rõ ràng. Hai bản TVĐS toàn thư và toàn tập lưu truyền trong dân gian vào khoảng cuối triều Minh đầu triều Thanh, nhưng thời bấy giờ dường như ít người xem trọng TVĐS, cho nên phát triển khá chậm, trong khi đó khoa Tử Bình lại rất thịnh hành. Lúc sách TVĐS được đưa vào Đạo Tạng, Đẩu Số vẫn im hơi lặng tiếng (xét về mặt văn bản). Mãi đến năm 1911, TVĐS tuyên vi của Quan Vân Chủ Nhân (thuộc Bắc Phái) mới tái hệ thống, chú giải, bình luận TVĐS một lần nữa.
Năm 1950, xuất hiện hai nhân vật khá quan trọng trong lịch sử phát triển TVĐS, đó là Thiết Bản Đạo Nhân và Hà Mậu Tùng (cao thủ Tam Hợp Phái). Tư tưởng của một phái muốn phát huy ảnh hưởng, thu nhận môn đồ, trước thư lập thuyết là điều bắt buộc, nhưng trong số môn đồ phải có người dương danh thiên hạ mới càng quan trọng, trong 2 người kể trên, Hà Mậu Tùng lão tiên sinh đúng là có đủ 2 điều kiện này. Đại đệ tử của ông là Tử Vân, nhờ trước thư lập thuyết, nói những điều tiền nhân chưa nói, ngày nay đã trở thành nhất đại tông sư trong giới nghiên cứu đẩu số.
Trong khoảng thập nhiên 50 của thế kỷ 20, TVĐS danh gia Lục Bân Triệu (cao thủ Tam Hợp Phái) đến Hương Cảng công khai trương bảng đoán mệnh, độ chính xác khá cao khiến ông nổi tiếng như cồn, ông còn mở lớp dạy, về sau những bài giảng của ông được xuất bản với tên Tử Vi Đẩu Số Giảng Nghĩa. Trong thời kì này còn có một người nổi danh trước Lục Bân Triệu là Trương Khai Quyển, biệt hiệu "Vô Muộn Trai Chủ", với cuốn Tử vi Đẩu Số mệnh lý nghiên cứu, được Vương Đình Chi xưng tụng là cao thủ Bắc Phái.
Vào thập niên 60 của thế kỷ 20, trong giới nghiên cứu Đẩu Số ở Đài Loan xuất hiện một người tên là Trương Diệu Văn, đại tông sư của "Thái Phái". Vốn là tiến sĩ kinh tế học, vào khoảng những năm 1966 trở về trước ông ở Nhật Bản dạy học, tự xưng mình là truyền nhân đời thứ 13 của Minh Đăng phái (tức Thấu Phái). Năm 1967 ông trở về Đài Loan, mang TVĐS của Thấu Phái truyền bá tại Đài Loan. Phái Đẩu Số này có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của TVĐS ở Đài Loan giai đoạn này. Các bản dịch Đẩu Số từ tiếng Nhật sang tiếng Hán cũng dần dần xuất hiện, thời kì đầu có A Bộ Thái Sơn, về sau có Bảo Lê Minh, v.v... đều là các tác gia thuộc nhóm nghiên cứu đẩu số Đông Dương.
Đương thời, có rất nhiều bản dịch TVĐS của A Bộ Thái Sơn xuất hiện ở Đài Loan, cho nên ông khá nổi tiếng. Ông là người trong thấu phái, Đẩu Số của ông đương nhiên theo phương pháp "quá tiết khí".
Tương truyền người sáng lập Thấu Phái là một phụ nữ đời Minh tên Mai Tố Hương.
Thấu phái gọi Đẩu Số là "Tử Vi chiêm tinh thuật"; phái này thần thoại hóa các "tinh diệu", lấy bối cảnh cuộc chiến tranh giữa nhà Ân và nhà Chu thời viễn cổ, mang các nhân vật trong Phong Thần diễn nghĩa gán vào các tinh diệu. Đặc điểm của Thấu phái là vấn đề "quá tiết khí" khi khởi mệnh bàn. Đến khoảng giữa thập niên 80 của thế kỉ trước, do giới nghiên cứu Đẩu Số ngày càng tăng và càng chuyên sâu hơn, đương thời, quan điểm này của Trương Diệu Văn bị khá nhiều học giả Đẩu Số công kích. Do đó Thấu Phái Đẩu Số lưu truyền đến ngày nay ko còn như trước kia, phần lớn đều bỏ không dùng nguyên tắc "quá tiết khí".
Khoảng giữa thập niên 70 của thế kỉ trước, TVĐS ở Đài Loan dần dần thịnh hành. Trong số các nhân vật xuất hiện vào thời kì này có một người đáng được đề cập, đó là Lương Tương Nhuận, ông là lão tiền bối trong giới nghiên cứu Tử Bình, các tác phẩm về TVĐS của ông cũng rất có giá trị, phần nhiều viết chung với bà Lương Thiên Lan.
Trước năm 1981, trong giới nghiên cứu Đẩu Số còn có ba người khác nổi tiếng khác là Lục Dị Công, Khổng Nhật Xương, Chung Trực Lâm.
Có thể nói trước thập niên 80 của thế kỉ 20, TVĐS giống như đang ở trong thời kì tiềm phục, cho đến năm 1982, TVĐS tân thuyên của Tuệ Tâm Trai Chủ ra đời, giới nghiên cứu Đẩu Số mới nổi cơn sóng gió mạnh kéo dài hơn 10 năm. Trong quá trình này, nhiều phương diện bí truyền ẩn tàng của TVĐS đã được đưa ra ánh sáng.
Người gây ảnh hưởng sớm nhất ở giai đoạn này có thể nói là Tuệ Tâm Trai Chủ, tên tuổi của bà có ấn tượng rất sâu trong phần lớn độc giả ở Đài Loan và Hương Cảng. Trước năm 1980, người học Đẩu Số phần nhiều tham dự các lớp học nhỏ là chính, nhưng từ lúc Tuệ Tâm Trai Chủ bắt đầu bàn luận Đẩu Số trên báo, giống như đã thổi vào Đẩu Số một luồng sinh khí mới. Tuệ Tâm Trai Chủ đã sử dụng ngôn ngữ thường ngày dễ hiểu để giải thích Đẩu Số, khiến những điều cổ truyền khó hiểu trở thành rất dung dị. Bộ sách TVĐS tân thuyên có thể nói là rất thành công, về sau bà viết thêm nhiều cuốn khác cũng đều thành công. Sự thành công của bộ sách TVĐS tân thuyên không phải là ngẫu nhiên, nó đã làm cho độc giả thời ấy có thể tự lập mệnh bàn và tự mình phân tích từng cung. Nhưng do bà dùng cách giải đoán từng cung cho dễ hiểu, nên cũng khiến người đọc dễ hiểu lầm về kĩ thuật và quy tắc luận đoán Đẩu Số. Tóm lại, đối tượng của bà là đại chúng phổ thông, vì vậy có mặt hạn chế, không đi sâu vào sự tinh tế của Đẩu Số, nhưng cũng không phải là không có tuyệt kĩ.
Từ lúc Đẩu Số bắt đầu được xem trọng, nhiều tác phẩm Đẩu Số ra đời, thuyết của các nhà trăm hoa đua nở. Một số thì giảng giải tâm pháp cổ truyền, một số thì chủ trương Đẩu Số và Tử Bình phối hợp tham chiếu, một số thì thần bí hóa, mang Đẩu số gộp chung với tôn giáo, một số khác thì tuyên bố mình được truyền bí pháp chép tay của tiên sư, v.v... Trung số này đáng chú ý có những người sau đây:
- Ngô Tình, đáng tiếc sách của ông này hầu như đã tuyệt bản, rất khó mua trên thị trường. Ông phê bình Đẩu Số cổ truyền rất nghiêm túc. Một số đặc điểm trong sách của ông như: Phần lớn các sao nhỏ trong Đẩu Số ông đều không dùng tới, Thiên Thương và Thiên Sứ theo thuyết cổ truyền có thể đoán sinh tử, ông cho rằng chỉ hù dọa người ta; thuyết "miếu, vượng, lợi, hãm" cũng không dùng, v.v... Thuyết của ông toàn bộ trọng điểm nằm ở sự biến hóa của tứ hóa, cho rằng Hóa Lộc và Hóa Kị mới là nhân tốt quyết định. Đồng thời ông còn nhấn mạnh mình có "bí kíp ngàn năm bất truyền". Thuyết của ông ngày nay ảnh hưởng mạnh trong lưu phái Phi Tinh trong Bắc Phái TVĐS.
- Sở Hoàng, phải kể là người đầu tiên công khai phương pháp bày bố tinh bàn trên bàn tay, trước ông, các sách Đẩu Số phần lớn đều chỉ căn cứ vào "cổ quyết". Ông trước thư lập thuyết, chủ trương Đẩu Số và Tử Bình phối hợp tham chiếu, trong Đẩu Số còn ứng dụng một số nguyên lí đoán mệnh của Tử Bình. Trong thuyết tương sinh tương khắc, tác giả còn sáng tạo ra lí luận "Lạp Hoàn", dùng để giải thích vận tác giữa các tinh diệu với phép tắc bát tự, cũng được cho là thành một pháo.
- Chính Huyền Sơn Nhân, là người sáng lập ra thuyết "thiên địa nhân TVĐS", nói Đẩu Số là do "thần tiên" dạy cho ông. Chính Huyền Sơn Nhân viết rất nhiều sách Đẩu Số, trong đó nói nhiều về quá trình và tinh thần cầu đạo của ông. Chính Huyền Sơn Nhân mang các sao trong TVĐS liên hệ với chư vị tiên nhân ở trên trời, thần bí hóa TVĐS đến cực độ. Đồng thời, chủ trương "Cung can phi xuất tiên thiên tứ hóa tinh".
- Phan Tử Ngư trương bản đoán mệnh khá sớm, học trò rất đông, trước tác cũng không ít, phải kể là rất thịnh hành một thời. Đặc sắc trong các trước tác Đẩu Số của ông là lời đoán mệnh phán như đinh đóng cột.
- Tử Vân là học trò của Hà Mậu Tùng, một cao thủ Tử Vi Đẩu Số thời kì đầu. Năm 1987, ông xuất bản cuốn Đẩu Số dữ nhân sinh, làm chấn động giới nghiên cứu Đẩu Số ở Đài Loan và Hương Cảng. Trong cuốn Đẩu Số dữ nhân sinh, Tử Vân tự thuật quá trình nghiên cứu Đẩu Số của mình, và thuyết minh quan điểm của ông về tính chất và ứng dụng của 12 cung. Trong thời gian này, sách Đẩu số liên tục được xuất bản với số lượng lớn, nhưng phần nhiều chẳng có cống hiến gì. Riêng sách của Tử Vân tiên sinh được cho là đã bổ sung những chỗ trống trong Đẩu số cổ truyền. Ngày nay trong giới nghiên cứu Đẩu Số, người được tôn là bá chủ về phương diện kĩ thuật luận đoán chính là Tử Vân tiên sinh. Nhất là vào năm 1990, trong Đẩu số luận hôn nhân, Tử Vân tiên sinh đã đưa ra thuyết "Thái Tuế nhập quái pháp" và nguyên tắc "Tương khê", đã giải quyết vấn đề kĩ thuật mà cả trăm năm nay không cách nào giải thích, nhờ vậy cũng đã giải quyết chỗ khiếm khuyết trong bộ Hiện đại Tử Vi của nhóm Liễu Vô Cư Sĩ. Thuyết này đã biết Đẩu Số thành một phương pháp chỉ ra xu thế và phương hướng của mệnh vận; từ đó Đẩu Số có cách để phân biệt những người sinh ra cùng một giờ có mệnh vận khác nhau. Đây đúng là một bước đột phá trong lịch sử phát triển TVĐS.
Vai trò của Tử Vân tiên sinh rất quan trọng trong hệ phái Tam Hợp. Về cơ bản, phương pháp luận Đẩu Số của ông cũng tương tự như Vương Đình Chi, lấy truyền thống làm chính tông, làm khung giá cho phép luận đoán, lấy bối cảnh thực tế để diễn giải, tổng hợp cổ kim, và rất chú trọng phương diện tâm lí, sinh lí, nhân tính để ứng dụng trong luận đoán.
Trước năm 1989, Tử Vân đã cho ra đời bộ Đẩu Số luận danh nhân, các sách này đã gây sự chú ý trong giới nghiên cứu Đẩu Số, va đã có uy danh. Năm 1990, trong lúc thị trường chứng khoán của Đài Loan đang từ thịnh chuyển thành suy, phong trào đầu tư vào cổ phiếu bị giảm mạnh, Tử Vân lại hoàn thành cuốn Đẩu Số luận cầu tài, sách này đưa ra phương pháp luận đoán mới, bổ sung phép đoán của tiền nhân, cho rằng, hễ tiền có được nhờ đầu cơ hay đầu tư, cần phải xem cung phúc đức. Tức là, tiền kiếm được không do sức lực hay trí lực của bản thân thì không xem ở cung tài bạch. Trong cuốn đẩu số luận hôn nhân, về phương diện lí luận và thực tế luận đoán của Đẩu Số, đều có sự phát triển mang tính đột phá.
Ngày nay, địa vị của Tử Vân trong giới nghiên cứu Đẩu Số ở Đài Loan được xếp ngang hàng với Vương Đình Chi của Trung Châu Phái ở Hương Cảng. Học trò của ông cũng rất đông, trong số đó nổi tiếng nhất là Liễu Vô Cư Sĩ và Tuệ Canh. Ngày nay ở Đài Loan tên tuổi Liễu Vô Cư Sĩ cũng khá lớn.
Trong số những người còn lại phải kể đến Khôn Nguyên và Vu Ngoan Dã Nông, thực ra đây chỉ là một người, "Vu Ngoan Dã Nông" là biệt danh mà sau này ông ít dùng đến. Khôn Nguyên có nhiều bút danh như Hoàn Hữu Thủy Ngân, Lam Thần, Trịnh Giả Học. Trước tác Tử Vi Đẩu Số của ông có bộ Tử Vi Đường Áo khá nổi tiếng.
Kế đến là Phál Quảng Cư Sĩ và Nam Bắc Sơn Nhân, trong hai người thì Pháp Quảng Cư Sĩ trước tác nhiều hơn, ông có một bộ tùng thuy Truy Tung Chính Thống Đẩu Số, khá thịnh hành vào thời điểm đó, hơn nữa còn có tính liên tục khá mạnh, kéo dài cho đến ngày nay. Còn Nam Bắc Sơn Nhân, tên thật là Đồng Bành Niên, đương thời lấy danh nghĩa "Chính Tông Bác Phải TVĐS" để đoán mệnh, tác phẩm xuất bản không nhiều, chỉ có một quyển Chính Tông TVĐS toàn thư mà thôi.
Bắt đầu từ năm 1984, TVĐS bước vào thời đại mới, có thể quy công cho một nhóm người, trong số đó có 2 nhân vật trung tâm là Hoàng Trung Lâm, và Chu Vi. Nhờ nỗ lực của họ, Đẩu Số hiện đại hóa dần dần rõ nét, lí thuyết mệnh lí mang tính khoa học bắt đầu được xây dựng. Hoàng Trung Lâm có bút danh là Liễu Vô Cư Sĩ, vốn là một kí giả, về sau ông nghiên cứu mệnh lí và bắt đầu viết sách đẩu số vào năm 1981. Năm 1984 ông viết cuốn Tử Vi luận mệnh, làm cho ông có tiếng nói trong giới nghiên cứu đẩu số. Cuốn sách này khá thành công, sau đó trong khoảng thời gian từ năm 1985 đến 1986 ông đã hoàn thành bộ sách quan trọng 7 quyển là Hiện đại tử vi, đây là bước đầu tiên quan trọng trong công cuộc hiện đại hóa Đẩu Số.
Nội dung cuốn Tử Vi luận mệnh chủ yếu là phê phán các tác phẩm của các đại sư thời đó, và từ những luận chứng của mình, tác giả đã đưa ra quan niệm và kĩ thuật luận mệnh mới. Đương nhiên lúc đó các đại sư cũng phản kích dữ dội. Sau cuốn TV mệnh luận, LVCS trở thành nhân vật ưu tú mới trong giới nghiên cứu Đẩu Số. Nhờ phương pháp luận và mô thức khảo cứu hiện đại, Liễu Vô Cư Sĩ còn được coi là nhân vật trí thức phát biểu về mệnh lý truyền thống.
Bộ hiện đại tử vi ra đời từ năm 1985 đến 1986, tổng cộng gồm 7 tập. Về tác giả, ngoài Liễu Vô Cư Sĩ, còn có giáo sư Hứa Hưng Trí, thuật sĩ Tuệ Canh, Quách tiên sinh, Tượng Sơn Cư Sĩ, Phi Vân Cư Sĩ,...
Trong bộ hiện đại Tử Vi (HĐTV) có một phần gọi là "Tử Vi quảng trường", tức là phần đăng thư do độc giả gửi đến và giải đáp của các tác giả, đây cũng là một sáng kiến, và cũng là nhân tố khiến bộ sách này có sức ảnh hưởng khá lớn vào lúc đó. Bộ HĐTV mỗi tập đều có đặc sắc, nhất là tập 7, có nhiều quan niệm đáng chú ý. Điều đáng được nhắc đến là nỗ lực hiện đại hóa Đẩu Số của bộ sách này. Trong đó đưa ra quan điểm cần nhấn mạnh tính thời đại trong việc tìm hiểu bản chất của Đẩu Số. Một số vấn đề khác còn đợi sự nỗ lực của hậu học. Phương hướng của phái Hiện Đại là sử dụng logic để khảo nghiệm mệnh lý, từ đó xác nhận khả năng và chỗ hạn chế của đẩu số, đây là bước tiến lớn trong việc hiện đại hóa đẩu số. Vì trước đó, quan niệm của người luận mệnh đẩu số là: bất kể sự tình nào cũng đều có thể dựa vào mệnh bàn mà đoán ra, dù mệnh tạo có quan hệ với người khác hay không. Nhưng trong bộ HĐTV lại phủ định nguyên tắc bành trướng này, chủ trương rằng, đối với những sự vật mà bản thân mình có thể quyết định được, Đẩu Số mới có thể luận đoán, nếu mệnh tạo không có quan hệ gì với người khác thì không cách nào luận đoán, trừ phi ở trong mối quan hệ với họ. Đây là thành tựu lớn của bộ Hiện Đại Tử Vi, tuy chỉ hoàn thành một nửa trước. Về nửa sau liên quan đến "điều kiện ở trong mối quan hệ" thì phải đợi sư phụ của ông là Tử Vân giảng giải.
Vào tháng 3 năm 1985, trong giới nghiên cứu Đẩu Số xảy ra một sự kiện lớn, đó là sự xuất hiện của bộ sách "thiên cổ bí cấp" gọi là Hoa Sơn Khâm Thiên Tứ Hóa Tử Vi Đẩu Số phi tinh bí nghi, là bí truyền của Tố Tâm Lão Nhân truyền lại cho Sái Minh Hoành. Sự xuất hiện của nó tạo thành một trào lưu cực lớn về sau, ban đầu được rao bán trên tạp chí Tinh tướng với giá một vạn năm ngàn nguyên (đơn vị tiền tệ của Đài Loan), sau giá nâng lên tới ba trăm vạn nguyên.
Phi Tinh phái là một chi của Bắc phái TVĐS cũng nổi rộ lên trong thời kì này, hiện đang rất thịnh hành ở Đài Loan và Trung Quốc lục địa. Đại biểu nổi tiếng hiện nay là Lương Nhược Du mà sự phụ của Lương Nhược Du là Chu Thanh Hà, một cao thủ tiền bối của Phi Tinh Phái, nội dung TVĐS của phái này sẽ được trình bày đầy đủ trong Trung Châu Tử Vi Đẩu Số - Tứ Hóa Phái của cùng tác giả Nguyễn Anh Vũ.
Có nhiều người cho rằng TVĐS Phi Tinh phái là do người cận đại phát minh. Sở dĩ có sự hiểu lầm này, là do họ cứ nghĩ rằng TVĐS phi tinh bí nghi của Sái Minh Hoành là căn nguyên Phi Tinh phái. Rất nhiều người cho rằng TVĐS của Phi Tinh phái là do Sái Minh Hoành tự sáng chế ra.
Thực ra, trước khi TVĐS phi tinh bí nghi lưu truyền rộng rãi, lí luận TVĐS của Phi Tinh phái đã xuất hiện từ lâu. Vả lại, Phi Tinh Phái cũng có nhiều phân chi, Sái Minh Hoành cũng là một chi phái trong số đó, nhưng là phái được nhiều người biết đến vào thời kì này.
Ngoại trừ các bậc tiền bối như Ông Phúc Dụ, Phương Ngoại Chân, Từ Tăng Sinh, và Lương Nhược Vọng (học trò Sái Minh Hoành)... còn có một số người ít ai biết đến ở Trung Quốc lục địa, nhưng cũng là cao thủ truyền dạy theo truyền thống Bắc Phái Phi Tinh. Ngay như ở Đài Loan, chỉ nói số đồng môn cùng lứa với Sái Minh Hoành, ít nhất cũng có năm người. Hơn nữa, Sái Minh Hoành trong quyển 1 của Khâm Thiên tứ hóa TVĐS phi tinh bí nghi cũng có nói, "bí nghi" là do ông tập đại thành truyền thống Phi Tinh TVĐS. Cho nên, phải nói "bí nghi" là sở học của ông được truyền thừa mới đúng. Ví dụ như "Phi Tinh chuyển yết quan quyết" trong Khâm Thiên tứ hóa TVĐS phi tinh bí nghi (Phan Tử Ngư gọi là "Phi Yến Quỳnh Lâm", ông được bí truyền từ TQ lục địa) đã lưu truyền rộng rãi trước khi "bí nghi" xuất hiện, rất nhiều phái xem nó là "bí bảo".
Tử Vi đẩu số của bắc phái Phi Tinh (hay còn gọi là Tứ Hóa Phái) có nhiều truyền thừa khác nhau, lí luận của các chi hệ đều đại đồng tiểu dị. Đương nhiên, trong đó cũng có xuất hiện tư duy mới. Như "Đồng bộ đoán quyết" của Phương Ngoại Nhân chính là phát hiện độc đáo, nhưng nếu nghiên cứu tỉ mỉ nội chung của nó, chúng ta sẽ phát hiện kết luận của Phương Ngoại Nhân không tách rời lí luận cơ bản của Bắc Phái Phi Tinh, Phương Ngoại Nhân cũng nói thẳng, "Đồng bộ đoán quyết" chỉ là suy luận ra từ nền tảng truyền thống, chứ không phải là phát minh nguyên lý gì.
Tử Vi Đẩu Số đang trong giai đoạn hưng khởi, sự xuất hiện một nguồn tư liệu mới đã gây thêm hứng thú cho giới nghiên cứu Đẩu Số. Truyền thống Bắc Phái Phi Tinh đặc biệt ở chỗ vận dụng tứ hóa khác với truyền thống của Tam Hợp Phái. Phái này cho rằng sau khi lập xong mệnh bàn tiên thiên, trong 12 cung đều có thiên can riêng, thiên can của cung mệnh ngoại trừ dùng để tương phối với địa chi (nạp âm) để tính toàn bày bố 14 chính tinh, nó còn được dùng để bày ra một bộ tứ hóa, như vậy mệnh bàn tiên thiên sẽ thêm một tầng biến hóa, việc luận đoán cũng theo đó mà thâm sâu hơn. Càng tinh vi hơn là, không phải chỉ có cung mệnh phi xuất một bộ tứ hóa, mà 11 cung còn lại cũng vậy.
Trước tác của các cao thủ nổi tiếng trong Bắc Phái Phi Tinh gồm có Sái Minh Hoành, Tử Dương, Từ Tăng Sinh, Phương Ngoại Nhân, Khuyến Học Trai Chủ, Lương Nhược Du,v.v... đều có cống hiến đã kể. Phương pháp luận mệnh của họ khá phức tạp, nếu có điều kiện các bạn nên tìm hiểu trong Trung Châu Tử Vi Đẩu Số - Tứ Hóa Phái của cùng tác giả Nguyễn Anh Vũ.
Cũng trong khoảng thời gian này Vương Đình Chi xuất hiện và tự xưng mình là truyền nhân của phái Trung Châu, công nhận Tử vi Đẩu Số Giảng Nghĩa của Lục Bân Triệu là truyền bản của Khâm Thiên Giám Bí Cấp, và tiết lộ nội dung bí truyền Tử Vi Tinh Quyết của môn phái Trung Châu. Ảnh hưởng của Vương Đình Chi khá lớn ở Hương Cảng, về sau lan rộng qua Đài Loan, Singapore, Bắc Mĩ, v.v... kéo dài cho đến ngày nay. Phương pháp luận mệnh của ông là nội dung chủ yếu của bộ Trung Châu Tử Vi Đẩu Số - Tam Hợp Phái mà chúng tôi biên soạn để giới thiệu đến bạn đọc ở đây.
Nhờ sự thành công của bộ Hiện Đại Tử Vi, một số tác giả cũng bắt đầu viết sách, như Đường Sơn Dật Sĩ, Tuệ Canh, v.v... Trong số đó, các công trình của Tuệ Canh Thuật Sĩ là có ảnh hưởng nhất. Tác phẩm của Tuệ Canh là Tử Vi Đẩu Số khai vận toàn tập, trong đó quan niệm và ứng dụng của 12 cung, cho tới tính chất các tinh diệu đều được ông giảng giải rất tinh tế. Đây là sự kiện xảy ra sau năm 1988.
Cũng trong khoảng thời gian này, có một số học giả mới cũng trước thư lập thuyết, trong đó cũng có vài người đáng chú ý, như Ngô Đông Tiều trong Đẩu số tân quan niệm, Trần Thế Hưnh trong Tử Vi Đẩu Số đạo luận, Phúc Canh trong Đẩu Số tâm lí học, Tượng Sơn Cư Sĩ trong Thiên Tinh Đẩu Số bí cấp và Thiên Tinh Đẩu Số chân cơ điển phạm. Nhưng sách này phần lớn thảo luận về đặc tính cơ bản của tinh diệu và các cách cục, cũng có thành tựu.
Trong thời gian này, Liễu Vô Cư Sĩ mang Tử Vi Đẩu Số tuyên vi và Tử Vi Đẩu Số toàn tập ra chú giải; sau đó ông còn đem hết tâm lực ra để hệ thống hóa phương pháp Đẩu Số của mình, lúc này Liễu Vô Cư Sĩ đã dần dần có những quan điểm khác với sư phụ của mình là Tử Vân. Ông đề xuất một số điều, ví dụ như: Bỏ Lộc Tồn, Thiên Mã và các sao cấp 2; ông còn đề xuất: phế bỏ Hóa Quyền và Hóa Khoa, tứ hóa chỉ còn Hóa Lộc và Hóa Kị; ngoài ra còn có một số nguyên tác "khoa học thích dụng tính".
Lúc này TVĐS lộ rõ sức quyến rũ của nó. Ngày nay, có thể nói TVĐS chia thành hai dòng chính:
- Một là, chủ yếu lấy tinh diệu để luận đoán, gọi chung là Tam Hợp Phái (hay Nam Phái). Trong số các chi lưu thuộc Tam Hợp Phái, thì phái Trung Châu Vương Đình Chi là có hệ thống hoàn bị nhất.
- Hai là, chủ yếu lấy "tứ hóa" để luận đoán, gọi chung là Tứ Hóa Phái (hay Bắc Phái). Trong số các chi lưu thuộc hệ phái Tứ Hóa, thì Khâm Thiên Môn là có hệ thống nghiêm cẩn nhất.
Riêng tại Trung Hoa lục địa, trào lưu nghiên cứu thuật số nói chung, TVĐS nói riêng, cũng khá rầm rộ. Các lưu phái Tử Vi Đẩu Số ở đây phần lớn đều có khuynh hướng tổn hợp hai dòng chủ lưu kể trên. Đáng kể nhất có:
- Tử Vi phái do Vũ Quảng Thịnh sáng lập, chủi trương dung hợp tinh hoa của các phái hệ, với nguyên tắc "Đơn giản và trực tiếp thâm nhập chủ đề". Lí luận đẩu số của ông rất có giá trị tham khảo.
- "Kì Môn Phái", đại biểu hiện nay là Đại Đức Sơn Nhân với bộ Tử Vi Đẩu Số tinh thành, v.v... Ông chủ trương lấy các nguyên tắc của bản môn làm nền tảng, và cũng dung hợp tinh hoa của các phái để luận đoán.
► Cùng đọc: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm |
![]() |
Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định: tên gọi ảnh hưởng đến tinh thần cũng như sự nghiệp sau này của đứa trẻ. Trong muôn vàn chuẩn bị khi đón bé chào đời, đừng quên nghĩ đến một cái tên.
Vừa lọt lòng mẹ, con đã được đặt cho một cái tên. Cái tên ấy theo con suốt cả cuộc đời. Tên có thể là niềm tự hào, hãnh diện, là nguồn động viên, nâng mỗi bước con đi. Nhưng cũng có người lại cảm thấy xấu hổ, tủi thân, thậm chí tức giận mỗi khi ai đó gọi tên mình, hoặc khi nghĩ đến người đã đặt tên cho mình.
Cái tên nói lên tính cách con người. Hay con người tự rèn luyện mình cho giống với cái tên mình?
Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định: tên gọi ảnh hưởng đến tinh thần cũng như sự nghiệp sau này của đứa trẻ. Trong muôn vàn chuẩn bị khi đón bé chào đời, đừng quên nghĩ đến một cái tên.
Những công chúa theo mẹ lên rừng
1. DIỆU ANH – Con gái khôn khéo của mẹ ơi, mọi người sẽ yêu mến con
2. QUỲNH ANH – Người con gái thông minh, duyên dáng như đóa quỳnh
3. TRÂM ANH – Con thuộc dòng dõi quyền quý, cao sang trong xã hội
4. NGUYỆT CÁT – Hạnh phúc cuộc đời con sẽ tròn đầy
5. TRÂN CHÂU – Con là chuỗi ngọc trai quý của bố mẹ
6. QUẾ CHI – Cành cây quế thơm và quý
7. TRÚC CHI – Cành trúc mảnh mai, duyên dáng
8. XUYẾN CHI – Hoa xuyến chi thanh mảnh, như cây trâm cài mái tóc xanh
9. THIÊN DI – Cánh chim trời đến từ phương Bắc
10. NGỌC DIỆP – Chiếc lá ngọc ngà và kiêu sa
11. NGHI DUNG – Dung nhan trang nhã và phúc hậu
12. LINH ĐAN – Con nai con nhỏ xinh của mẹ ơi
13. THỤC ĐOAN – Hãy là cô gái hiền hòa đoan trang
14. THU GIANG – Dòng sông mùa thu hiền hòa và dịu dàng
15. THIÊN HÀ – Con là cả vũ trụ đối với bố mẹ
16. HIẾU HẠNH – Hãy hiếu thảo đối với ông bà, cha mẹ, đức hạnh vẹn toàn
17. THÁI HÒA – Niềm ao ước đem lại thái bình cho muôn người
18. DẠ HƯƠNG – Loài hoa dịu dàng, khiêm tốn nở trong đêm
19. QUỲNH HƯƠNG – Con là nàng tiên nhỏ dịu dàng, e ấp
20. THIÊN HƯƠNG – Con gái xinh đẹp, quyến rũ như làn hương trời
21. ÁI KHANH – Người con gái được yêu thương
22. KIM KHÁNH – Con như tặng phẩm quý giá do vua ban
23.VÂN KHÁNH – Tiếng chuông mây ngân nga, thánh thót
24.HỒNG KHUÊ – Cánh cửa chốn khuê các của người con gái
25. MINH KHUÊ – Hãy là vì sao luôn tỏa sáng, con nhé
26. DIỄM KIỀU – Con đẹp lộng lẫy như một cô công chúa
27. CHI LAN – Hãy quý trọng tình bạn, nhé con
28. BẠCH LIÊN – Hãy là búp sen trắng toả hương thơm ngát
29. NGỌC LIÊN – Đoá sen bằng ngọc kiêu sang
30. MỘC MIÊN – Loài hoa quý, thanh cao, như danh tiết của người con gái
31. HÀ MI – Con có hàng lông mày đẹp như dòng sông uốn lượn
32. THƯƠNG NGA – Người con gái như loài chim quý dịu dàng, nhân từ
33. ĐẠI NGỌC – Viên ngọc lớn quý giá
34. THU NGUYỆT – Tỏa sáng như vầng trăng mùa thu
35. UYỂN NHÃ – Vẻ đẹp của con thanh tao, phong nhã
36. YẾN OANH – Hãy hồn nhiên như con chim nhỏ, líu lo hót suốt ngày
37. THỤC QUYÊN – Con là cô gái đẹp, hiền lành và đáng yêu
38. HẠNH SAN – Tiết hạnh của con thắm đỏ như son
39. THANH TÂM – Mong trái tim con luôn trong sáng
40. TÚ TÂM – Ba mẹ mong con trở thành người có tấm lòng nhân hậu
41. SONG THƯ – Hãy là tiểu thư tài sắc vẹn toàn của cha mẹ
42. CÁT TƯỜNG – Con là niềm vui, là điềm lành cho bố mẹ
43. LÂM TUYỀN – Cuốc đời con thanh tao, tĩnh mịch như rừng cây, suối nước
44. HƯƠNG THẢO – Một loại cỏ thơm dịu dàng, mềm mại
45. DẠ THI – Vần thơ đêm
46. ANH THƯ – Mong lớn lên, con sẽ là một nữ anh hùng
47. ĐOAN TRANG – Con hãy là một cô gái nết na, thùy mị
48. PHƯỢNG VŨ – Điệu múa của chim phượng hoàng
49. TỊNH YÊN – Cuộc đời con luôn bình yên thanh thản
50. HẢI YẾN – Con chim biển dũng cảm vượt qua phong ba, bão táp.
Những chàng trai theo cha xuống biển
1. THIÊN ÂN – Con là ân huệ từ trời cao
2. GIA BẢO – Của để dành của bố mẹ đấy
3. THÀNH CÔNG – Mong con luôn đạt được mục đích
4. TRUNG DŨNG – Con là chàng trai dũng cảm và trung thành
5. THÁI DƯƠNG – Vầng mặt trời của bố mẹ
6. HẢI ĐĂNG – Con là ngọn đèn sáng giữa biển đêm
7. THÀNH ĐẠT – Mong con làm nên sự nghiệp
8. THÔNG ĐẠT – Hãy là người sáng suốt, hiểu biết mọi việc đời
9. PHÚC ĐIỀN – Mong con luôn làm điều thiện
10. TÀI ĐỨC – Hãy là 1 chàng trai tài dức vẹn toàn
11. MẠNH HÙNG – Người đàn ông vạm vỡ
12. CHẤN HƯNG – Con ở đâu, nơi đó sẽ thịnh vượng hơn
13. BẢO KHÁNH – Con là chiếc chuông quý giá
14. KHANG KIỆN – Ba mẹ mong con sống bình yên và khoẻ mạnh
15. ĐĂNG KHOA – Con hãy thi đỗ trong mọi kỳ thi nhé
16. TUẤN KIỆT – Mong con trở thành người xuất chúng trong thiên hạ
17. THANH LIÊM – Con hãy sống trong sạch
18. HIỀN MINH – Mong con là người tài đức và sáng suốt
19. THIỆN NGÔN – Hãy nói những lời chân thật nhé con
20. THỤ NHÂN – Trồng người
21. MINH NHẬT – Con hãy là một mặt trời
22. NHÂN NGHĨA – Hãy biết yêu thương người khác nhé con
23. TRỌNG NGHĨA – Hãy quý trọng chữ nghĩa trong đời
24. TRUNG NGHĨA – Hai đức tính mà ba mẹ luôn mong con hãy giữ lấy
25. KHÔI NGUYÊN – Mong con luôn đỗ đầu
26. HẠO NHIÊN – Hãy sống ngay thẳng, chính trực
27. PHƯƠNG PHI – Con hãy trở thành người khoẻ mạnh, hào hiệp
28. THANH PHONG – Hãy là ngọn gió mát con nhé
29. HỮU PHƯỚC – Mong đường đời con phẳng lặng, nhiều may mắn
30. MINH QUÂN – Con sẽ luôn anh minh và công bằng
31. ĐÔNG QUÂN – Con là vị thần của mặt trời, của mùa xuân
32. SƠN QUÂN – Vị minh quân của núi rừng
33. TÙNG QUÂN – Con sẽ luôn là chỗ dựa của mọi người
34. ÁI QUỐC – Hãy yêu đất nước mình
35. THÁI SƠN – Con mạnh mẽ, vĩ đại như ngọn núi cao
36. TRƯỜNG SƠN – Con là dải núi hùng vĩ, trường thành của đất nước
37. THIỆN TÂM – Dù cuộc đời có thế nào đi nữa, mong con hãy giữ một tấm lòng trong sáng
38. THẠCH TÙNG – Hãy sống vững chãi như cây thông đá
39. AN TƯỜNG – Con sẽ sống an nhàn, vui sướng
40. ANH THÁI – Cuộc đời con sẽ bình yên, an nhàn
41. THANH THẾ – Con sẽ có uy tín, thế lực và tiếng tăm
42. CHIẾN THẮNG – Con sẽ luôn tranh đấu và giành chiến thắng
43. TOÀN THẮNG – Con sẽ đạt được mục đích trong cuộc sống
44. MINH TRIẾT – Mong con hãy biết nhìn xa trông rộng, sáng suốt, hiểu biết thời thế
45. ĐÌNH TRUNG – Con là điểm tựa của bố mẹ
46. KIẾN VĂN – Con là người có học thức và kinh nghiệm
47. NHÂN VĂN – Hãy học để trở thành người có học thức, chữ nghĩa
48. KHÔI VĨ – Con là chàng trai đẹp và mạnh mẽ
49. QUANG VINH – Cuộc đời của con sẽ rực rỡ, vẻ vang
50. UY VŨ – Con có sức mạnh và uy tín.
Bài viết của giáo sư TRẦN QUANG ĐÔNG
ĐÔI LỜI GIỚI THIỆU
Một thân chủ gặp việc chẳng lành, hoặc gặp việc phân vân khó giải quyết, tìm thầy Tử vi nhờ xem dùm, để từ đó có thể đưa ra quyết định. Sau khi đưa ngày, giờ tháng năm sinh ra, Thầy bấm tay, một lúc rồi nói. Đa số là dựa theo nét mặt và câu trả lời rồi nói tiếp, nói láo bốn phần, dựa theo nói năm phần may ra đúng ba phần. Thân chủ dễ tính vội cho là thần thánh.
Sự thực thân chủ muốn biết thầy có học đến trình độ sơ cấp về Tử vi hay không cứ hỏi ngay một lúc bằng này câu hỏi. Nếu đoán đúng 3 câu là tạm được. Nếu sai 3 câu là chưa học đến trình độ sơ đẳng.
Thí dụ: một nữ thân chủ 30 tuổi hỏi:
- Cha mẹ còn hay mất? Cha mất trước hay mẹ mất trước?
- Có mấy anh chị em? Anh em trai nhiều hay chị em gái nhiều?
- Học tới đâu?
- Lập gia đình năm nào? Đã có mấy còn? Những năm nào có con?
- Chồng là người thế nào? Làm nghề gì?
Tùy theo câu trả lời của thầy sẽ biết thầy có là người nói láo hay không. Chúng tôi xin minh xác trước rằng, mình chưa học đến trình độ sơ đẳng của khoa Tử vi. Mà chỉ tìm hiểu lịch sử khoa Tử vi, cùng những diễn biến trong Việt Nam sử và Trung quốc sử về khoa này. Những thư tịch mà tôi nghiên cứu trong thư viện tại Đông Kinh là những thư tịch người Nhật tịch thu của Trung hoa trong các cuộc Hoa chinh trước đây. Một số thư tịch tại thư viện Trung ương Đài bắc rất giá trị lại khác hẳn những sách của VN. Tại VN sách Tử vi bằng chữ Hán chép tay rất nhiều, phải khó khăn lắm mới cô đọng được.
Chúng tôi xin trình bầy ra đây để thức giả khỏi lầm lẫn khoa thiên văn Tử vi với những anh thầy bói nói láo. Cả gan hơn nữa những anh này còn dám viết sách lịch Tử vi vào đầu năm nữa.
Giáo sư TRẦN QUANG ĐÔNG
I. Nguồn gốc khoa Tử vi
Cho đến nay khoa Tử vi do ai đặt nền móng đầu tiên, lịch sử không chứng minh được rõ ràng. Căn cứ vào bộ Tử vi Đại toàn do các văn thần nhà Thanh dâng lên cho vua Càn Long (1736-1796) vào niên hiệu Càn Long thứ 41, bài tựa có chép:…”Bọn thần vâng tra cổ sử, chỉ biết Tử vi có từ đời Đông Tấn vào niên hiệu Vĩnh Hưng nguyên niên (304 sau Tây lịch) nhưng chưa đặt căn bản. Đến đời Tống, Thái Tổ cho mời đạo sĩ Trần Đoàn ở núi Phú Sơn vào chầu. Tiên sinh dùng khoa Tử vi tính vận hạn cho triều thần trăm sự đều đúng cả…” (Tử vi Đại toàn quyển 1 trang 14).
Xem như vậy thì khoa Tử vi có từ trước năm 963 là năm Tông Thái tổ mời Trần Hi Di tiên sinh vào cung xem vận mạng. Nhưng Khoa Tử vi do Trần Hi di tiên sinh và đệ tử của ông đặt căn bản nghiên cứu, nên sau này ông được tôn là Tổ sư.
Bộ sách Triệu Thị Minh Thuyết Tử vi kinh, do chính con cháu nhà Tống chép một đoạn kỳ thú về sự gặp gỡ giữa Hi Di tiên sinh và Tống Thái hậu. Nhờ khoa Tử vi mà Hi Di tiên sinh biết trước sau này hai người con của Tống Thái Hậu làm vua:
…”Cuối đời Hậu Châu ly loạn, Thái Hậu cho Thái tổ và Thái tông (Tức Triệu Khuông Dẫn và Khuông Nghĩa) vào hai chiếc thúng gánh trên vai chạy loạn. Khi qua núi Phú Sơn thì gặp Hi Di tiên sinh. Tiên Sinh hỏi niên canh bát tự của Thái tổ, Thái tông rồi bấm số, nói với Thái hậu:
- Bà phúc đức lắm hai người con sau này đều là đấng minh quân bình thiên hạ.
Thái hậu tạ ơn:
- Ngài nói chi lời nhạo báng? Con tôi đang đói khổ đây. Ngài có gì cứu giúp không?
Tiên sinh đáp:
- Sau này hai con bà đều làm vua bà thiếu gì dịp ban ơn mưa móc cho thiên hạ. Giang sơn này của bà cả. Bây giờ bà bán cho tôi hòn núi này đi, để lấy 10 lượng vàng mà tiêu.
Thái hậu đồng ý vì nghĩa rằng ông đạo điên, có ai đi mua núi bao giờ đâu?
Bà xé vạt áo Thái Tổ, Thái Tông cột vào chiếc đũa bỏ vào ống đũa làm văn tự đưa cho Hi Di tiên sinh.
Sau khi thống nhất giang sơn, vào niên hiệu Càn Đức nguyên niên (963) quan địa phương báo về rằng: Có đạo sĩ Hi DI ở núi Phú Sơn đuổi quan thu thuế về, và nói rằng núi này Thái Hậu đã bán cho ông ta. Thái Tổ hỏi lại sự tích Thái hậu nhất nhất thuật lại sự việc. Thái tổ cảm cái ân tặng 10 nén hạt Phú Sơn. Triều thần cho là bậc kỳ tài, xin đón về kinh hỏi việc quá khứ vị lai. Tháng 10 năm ấy tiên sinh về triều. Thái Hậu, Thái tổ và văn thần võ tướng được ngài tính theo khoa Tử vi cho biết hết quá khứ, vị lai. Tiên sinh có dâng lên Thái Tổ sách Tử vi Tinh nghĩa. Từ đấy các bậc vương hầu trong hoàng tộc đều được học khoa này, mỗi đời thêm vào các kinh nghiệm, điền khuyết những chỗ chưa đủ. Bậc Đế vương học khoa Tử vi để biết kẻ trung người nịnh mà dụng người,… (Triệu Thị Minh Thuyết Tử vi kinh quyển 1 trang 28).
II- Các môn phái Tử vi Trung hoa
Khoa Tử vi lưu truyền từ đời Tống (960) đến đời Thanh (1644) trải qua 684 năm, trong gần 7 thế kỷ đó khoa Tử vi đã chia ra làm ba rõ rệt.
Vua Càn Long có tham vọng thống nhất lại cho đúng. Nhưng cho đến nay sách vở thất tán, nên khoa này tại Trung Hoa không phổ thông và tinh vi như Việt Nam. Ba phái Tử vi đó là:
Sau đây chúng tôi xin lược trình qua sự xuất hiện của các phái.
1- Phái Triệu Gia
HI DI tiên sinh truyền sách Tử vi Tinh Nghĩa cho Tống Thái Tổ. Thái Tổ truyền lại cho các bậc Vương, Hầu trong hoàng tộc. Khoa Tử vi lưu truyền trong hoàng tộc đời Tống giữ một sắc thái đặc biệt có thể tóm lược như sau:
Khoa Tử vi lưu truyền trong tôn thất nhà Tống, đời đời ghi chú thêm các kinh nghiệm. Sau khi nhà Tống mất con cháu vẫn còn giữ được di thư. Người sau dùng chữ Triệu là họ của nhà Tống mà gọi phái này.
Sau đây là một vài câu chuyện còn ghi chép trong bộ sách Triệu Thị Minh Thuyết Tử vi Kinh.
Sau khi Tông Thái tổ thống nhất giang sơn cho nghĩa đệ là Trịnh ân ra trấn cõi ngoài. Ngài xem số thấy Trịnh âN sắp bị đại nạn e khó thoát chết. Số Trịnh ân Thiên Tướng, Tướng quân thủ mệnh tại Tý. Mà năm ấy đại hạn gặp Tuần, tiểu hạn gặp Triệt. Lưỡng tướng tối kị ngộ Tuần, Triệt. Huống hồ lưỡng Tướng gặp cả Tuần lẫn Triệt, Ngài xuống chiếu gọi Trịnh ân về kinh đợi qua năm sẽ cho ra trấn thủ lại. Không ngờ khi Trịnh ân về kinh thì xảy ra vụ gian thần mượn quyền Thái Tổ giết chết. Thái Tổ giết chết bọn gian thần trả thù cho nghĩa đệ, bồi hồi vì cố cưỡng lại số cứu nghĩa đệ mà rốt cuộc nghĩa đệ vẫn không thoát khỏi số. Vợ Trịnh ân là một võ tướng trí dũng tuyệt vời tên là Đào Tam Xuân, đã giúp Thái tổ dựng lên đại nghiệp. Thái Tổ đang ân hận nghĩa đệ bị giết, lại lo việc Tam Xuân vây hãm kinh đô, không cách thoát. Hoàng đệ là Triệu Khuông Nghĩa tính số tử vi rồi nói:
- Số của Hoàng huynh có cách: Tử Phủ Vũ Tướng dầu có Tả Hữu Khoa Quyền Lộc Tang Hổ, nhưng năm nay hạn ngộ Tuần, đế vô sở quyền, nên mới bị Quý phi mượn lệnh mà giết mất Trịnh ân. Bây giờ bị vây, tôi xem số của Đào Tam Xuân, Vũ khúc, Phá quân thủ mệnh tại Tý ngộ Lộc tồn Kiếp, Không, tại Thiên Di. Cung Quan Tử, Tham Lộc. Cung Tài Liêm Sát Tả Hữu Khoa. Hiện tại đây không ai có thể thắng nàng. Cái cách Kiếp, Không đắc địa của nàng là khắc tinh của cách Tử Phủ Vũ Tướng của hoàng huynh. Muốn lầm cho êm truyện này, phải tuân theo điều kiện sau: Tam Xuân có Vũ Phá thủ Mệnh, tính tình nhẹ dạ. Theo Tử vi thì chỉ có Thiên lương chế được tính ác của Phá quân, Lộc tồn chế được tính điên của Phá quân. Tôi xin đề cử Cao Hoài Đức, người có Thiên Lương thủ Mệnh tại Tý ngộ Khốc, Hư và Lộc tồn cư Thiên di tại Ngọ với Thái dương, ra thuyết phục Đào Tam Xuân.
Thái tổ chuẩn tấu. Quả nhiên Cao hoài Đức thuyết phục Đào tam Xuân rút binh. Về sau con cháu Trịnh ân phò nhà Tống cho đến khi mất nghiệp vò tay quân Mông Cổ.
Một lần khác, phải đề cử tướng ra trấn thủ biên cương Tống đế được các quan đề cử hai người. Triều đình tranh luận liên tiếp mấy ngày không kết quả. Sau cùng Tống đế tính số Tử vi thấy:
- Trương quang Đăng có cách Tử Phá thủ Mệnh Tả Hữu phù trì tại Mùi nhưng năm sau Đại hạn, Tiểu hạn trùng phùng ngộ Liêm Tham tại Hợi chắc chắn là chết. Nếu cử Đăng đi thì qua năm lại phải cử người khác.
- Dương Văn Quảng, tuổi Giáp, mệnh lập tại Dần, có Hình, Mã, được cách Tử Phủ Vũ Tướng, sách Tử vi nói rằng: “Hình Hổ cư Dần, Hổ đới kiếm hùng, tương phùng Đế cách, ư Giáp Kỷ nhân uy vũ trấn, động”. Nghĩa là: Thiên hình, Bạch hổ ở Dần Hổ đeo kiếm hùng. Người tuổi Giáp, Kỷ uy vũ trấn động.
Đó là cách “Mã đầu đới kiếm trấn ngự biên cương”. Vì vậy Tống đế quyết định cử Dương Văn Quảng ra trấn biên ải.
Quả nhiên năm sau Trương Quang Đăng chết. Khi nhà Tống mất nghiệp, con cháu còn lưu truyền công phu nghiên cứu Tử vi của họ Triệu qua bộ Triệu Thị Minh Tuyết Tử vi kinh.
2- Phái Hà Lạc
Sai khi Hi Di tiên sinh qua đời, đệ tử của ông chia ra làm hai phái. Phái đi về phương Nam chịu ảnh hưởng của khoa bói toán, nên đời sau gọi là phái Hà lạc. Họ thêm vào một số sao mới mà trong Tử vi chính nghĩa kinh không có. Cách an sao của họ cũng khác với HI Di tiên sinh, Những sao họ thêm vào, với tính cách quái dị, vô lý của khoa bói dịch, như: Thiên giải, Địa giải, Giải thần, Thiên quan, Thiên phúc, Thiên Tài, Thiên Thọ, Thiên y, Thiên Trù, Quán sách, Thiên xá…
Vòng Thái tuế có 5 sao, họ thêm vào 7 sao nữa thành 12 sao.
Đa số người của phái này dùng khoa Tử vi làm kế sinh sống, nên không bao giờ họ truyền cho nhau hết cái tinh vi. Bao giờ họ cũng giữ lại một số bí thuật. Đôi khi họ còn truyền sai cho nhau nữa. Vì vậy lâu ngày phái này bị mất hẳn gốc. Kinh nghiệm của họ thực nhiều, nhưng họ không truyền cho nhau thì đâu còn giá trị nữa. Các thầy Tử vi Tầu sang VN dạy lại cho người VN, họ vốn dĩ đã bị học lại không đúng với chính kinh, khi truyền lại họ còn dạy sai và dạy thiếu nữa, thì hỏi sao khoa tử vi VN không có những chỗ bế tắc khó giải thích.
Công trình của phái này còn chép trong bộ Tử vi âm Dương chính nghĩa nam tông.
3- Phái âm Dương
Học trò của Hi Di tiên sinh đi về phương bắc đã bị ảnh hưởng của âm Dương sinh khắc ngũ hành. Phía này có khuyết điểm là quá chú ý vào âm Dương sinh khắc mà quên mất tinh yếu của khoa Tử vi là Thiên văn. Đầu đời Mih một nhân vật quan trọng của phái này làm quân sư cho Minh Thái Tổ. Đó là Lưu bá ôn. Trọn đời Minh (1368-1643) phái này được trọng dụng. Kinh nghiệm của phái này rất nhiều, nhưng tiếc rằng đi quá xa với chính tinh nên không thành đạt cho lắm. Công phu của phái này còn lưu truyền bộ Tử vi âm Dương Chính nghĩa, Bắc Tông.
Niên hiệu Sùng Chinh thứ 16 nhà Minh (1643), Lý tự Thanh đem quân đốt phá Bắc kinh, thì bộ sách trên thất truyền. Sau Vĩnh Vương bị Ngô tam Quế thắt cổ ở Vân Nam, y có lưu giữ một bộ. Ngô tam Quế bị diệt, bộ này lọt vào tay các văn thần nhà Thanh.
4- Bộ Tử vi Đại toàn
- Niên hiệu Càn Long thứ 38 nhà Thanh, nhà Vua thấy danh sĩ thiên hạ xúm vào bài bác mình, chê bai Thanh triều làm giòng dõi mọi sợ phương Bắc mới tập trung những nhà học giả lại phong cho mỗi người một tước đặt dưới quyển Kỷ Duân, là việc trong viện Tử khố toàn thơ. Công việc của viện là tập trung tất cả sách vở, học thuật trong thiên hạ lại chú giải, ấn hành cho dân gian học. Bộ này được gọi là Tứ bộ bị yếu. Gồm có 4 bộ cả sách Tử vi trong thiên hạ lại chú giải thành bộ Tử vi Đại toàn, gồm 9 cuốn như sau:
Đặc biệt cuốn thứ nhì có nói đến khoa Tử vi tại VN, là công trình nghiên cứu của nhà Trần. Cuốn thứ 8 chép lại nguyên văn của sách “Đông A di sự” đời Trần.
5- Khoa Tử vi Trung hoa ngày nay
Có nhiều lý do giải thích tại sao khoa Tử vi Trung hoa ngày nay lại không thịnh hành và được nhiều người nghiên cứu đến nơi đến chốn như Việt Nam điều đó chúng tôi sẽ trình bày trong một bài sau.
KHHB số 74G1
![]() |
![]() |
Chùa Đồng Quang nằm trong một đoạn ngõ hẹp sau khi bước qua dưới cổng tam quan của ngôi Đạo quán ở số 119 trên phố Tây Sơn, đối diện với gò Đống Đa. Đứng trên gác tam quan trước kia có thể nhìn thấy miếu Trung Liệt trên gò ở bên kia phố. Chùa, quán và miếu góp phần tạo thành quần thể di tích rộng lớn của trận Đống Đa oai hùng. Đáng tiếc rằng cả quán lẫn chùa nay đã bị các nhà dân xây sát đến mức không thể sát hơn. Năm 1990 chùa được xếp hạng Di tích Lịch sử Nghệ thuật Kiến trúc.
Chùa Đồng Quang xây từ giữa thế kỷ 19. Theo văn bia thì khu đất xây dựng chùa xưa là nơi giao chiến giữa quân Tây Sơn và quân địch Mãn Thanh. Thời Thiệu Trị, quan Tổng đốc Hà Nội là Đặng Hầu đã cho thu táng những thi hài chết trong trận Đống Đa ở đầu đường cuối ngòi thành 12 gò, lấy nhân công và tiền của hai trại Thịnh Quang và Nam Đồng để làm mộ điện tế lễ vong hồn những người tử trận.
Đến năm Tự Đức thứ 4 (1851), quan Kinh lược Nguyễn Văn Giai khi cho mở đường, mở chợ ở vùng này lại thấy có nhiều xương khô nên cho đắp thêm một gò mộ nữa (tức gò Đống Đa ngày nay). Ông kêu gọi các nhà hảo tâm góp tiền dựng thêm 5 gian nhà nữa để tế lễ. Đây chính là tiền thân của chùa Đồng Quang.
Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm cho biết vào thời gian này Hà Nội bị vỡ đê, có mấy pho tượng Phật trôi dạt đến, mọi người cho rằng ứng với việc làm chùa mới, sau đó sư các chùa cúng thêm 6 pho tượng nữa, dân làng đặt tượng thờ và gọi là chùa Đồng Quang (chùa của hai trại Nam Đồng và Thịnh Quang). Những năm sau đó như 1886, 1915, 1956 và 1999, chùa tiếp tục được trùng tu, xây dựng để có quy mô như ngày nay.
Chùa có kiến trúc hình chữ Đinh (亭), bao gồm tiền đường và thượng điện. Trong khuôn viên chùa Đồng Quang còn có tự đàn, sau mở rộng xây thêm dần các nhà tả vu, hữu vu, nhà tổ và vườn tháp mộ bên cạnh thượng điện. Cả ba sân trước, giữa và sau đều lát gạch đỏ trên những diện tích khá nhỏ.
Cổng chính cũ nay đã mất, mặt trước chùa không còn gì ngoài các cột nghi môn bị tường bít xây áp chắn. Sân trước có nhiều cây nhỏ và tượng Quán thế âm Bồ tát. Nhà tiền đường rộng 5 gian, bờ nóc đắp hổ phù đội toà sen, có rồng chầu hai bên. Kiến trúc vì mái kiểu chồng rường, giá chiêng, hạ kẻ, phần trên của hai vì hồi theo kiểu kẻ chuyển. Nền chùa lát gạch vuông và được đắp khá cao so với mặt sân.
Thượng điện ba gian chạy dọc, vì kèo chồng rường, giá chiêng, xây bệ cao dần để bài trí tượng Phật. Chùa có 37 tượng Phật, sau này có thêm 14 tượng Mẫu và 4 tượng ở gian thờ vua Quang Trung. Ngoài ra có 7 cửa võng sơn son thếp vàng, 5 khám thờ, 14 bia đá và 2 quả chuông. Tất cả đều mới được trùng tu, kể cả vườn tháp mộ bên mé phải.
Phần lớn các cổ vật trong chùa Đồng Quang đều có niên đại muộn. Nghệ thuật trang trí thể hiện ở các cốn rường, kẻ, câu đầu theo các đề tài hổ phù, rồng lá, mây lá, vân mây, riềm mái có hoa giấy, mai lão, trúc lão. Hai cốn nách vì giữa chạm nổi rồng ẩn trong mây, thuộc phong cách nghệ thuật điêu khắc gỗ của thế kỷ 20.
Chùa Đồng Quang đã được Nhà nước xếp hạng Di tích Lịch sử Nghệ thuật Kiến trúc ngày 27/12/1990.
1. Vị trí để tủ lạnh
![]() |
Ảnh minh họa |
Theo phong thủy học, vị trí bài trí tủ lạnh tốt nhất trong ngôi nhà là phòng bếp. Tủ lạnh vốn thuộc hành Kim, phòng bếp lại là nơi Hỏa vượng, mà Hỏa khắc Kim. Vì vậy, để tủ lạnh trong bếp sẽ có tác dụng làm cân bằng tính Hỏa. Nhưng cần chú ý, tủ lạnh không kê đối diện hoặc gần bếp vì khí nóng từ bếp và hơi lạnh từ tủ lạnh xung khắc với nhau sẽ gây ảnh hưởng sức khỏe của gia chủ. Ngoài ra, nó còn có thể khiến những người trong gia đình không hòa thuận.
Người thuộc mệnh Thủy nếu sự nghiệp thiếu thuận lợi, nên kê tủ lạnh ở nơi làm việc. Trong đó có thể để nước, bia, nước đá để sự nghiệp được thăng tiến và tài vận hanh thông. Ngoài ra người mệnh Thủy cũng có thể kê thêm một chiếc tủ lạnh khác trong phòng khách để hỗ trợ cho mệnh của mình.
Những người mệnh Mộc nên kê tủ lạnh ở chỗ khuất của ngôi nhà. Trong các quán bar, người ta thường kê tủ lạnh trong tủ gỗ. Đối với những người không hợp với Kim, đây là một cách tuyệt vời để hóa giải ảnh hưởng xấu từ tủ lạnh.
Không đặt tủ lạnh đối diện với cửa bởi điều này có thể khiến tài lộc của gia chủ không ổn định.
2. Cách lựa chọn màu tủ lạnh
![]() |
Ảnh minh họa |
Tủ lạnh là đồ dùng không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, nhưng đối với một số người, nó lại kị về mệnh. Để bài trí tủ lạnh hợp phong thủy, màu tủ lạnh hợp với mệnh của gia chủ bạn nên màu sắc tủ lạnh phù hợp một mặt có thể hóa giải tác dụng không mong muốn với người xung khắc Kim, đồng thời lại có tác dụng hỗ trợ với người hợp mệnh Kim.
Theo thuyết ngũ hành, Kim tương ứng với màu trắng, Mộc tương ứng với màu xanh lá cây, Thủy tương ứng với màu đen và xanh lam, Hỏa tương ứng với màu đỏ và tím, Thổ tương ứng với màu vàng và nâu. Người kị với Kim có thể lựa chọn tủ lạnh có màu đỏ, tím hoặc xanh lá cây để hạn chế tính Kim của tủ lạnh. Người hợp với Kim nên chọn tủ lạnh màu trắng, vàng, nâu để tăng thêm vận may.
3. Tủ lạnh không được để trống
![]() |
Ảnh minh họa |
Tủ lạnh là nơi chứa thức ăn cho cả gia đình. Nếu tủ lạnh luôn đầy thức ăn, ngụ ý chủ nhân không phải lo lắng về cơm ăn áo mặc. Tủ lạnh trống có nghĩa là tình hình kinh tế không khả quan, bởi vậy tủ lạnh nên để đầy thức ăn.
4. Dọn dẹp tủ lạnh định kỳ
Tủ lạnh có liên hệ mật thiết với tài vận của gia chủ, do vậy chủ nhân cần thường xuyên lau chùi sạch sẽ tủ lạnh. Như vậy mới khiến tài lộc sinh sôi.
5. Không đặt đồ điện hoặc đồ vật trên nóc tủ lạnh
Có người để tiết kiệm không gian, đã đặt lò vi sóng, lò nướng hay máy xay sinh tố lên nóc tủ lạnh. Chưa nói về góc độ phong thủy, thì về khoa học, sóng điện từ do các thiết bị điện này phát ra đã ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe người sử dụng.
Ngoài ra cũng không để đồ vật trên tủ lạnh. Nhiều người có thói quen tiện tay để đồ vật lên tủ lạnh, lâu ngày nóc tủ lạnh sẽ trở thành nơi chứa đồ. Việc này tưởng là vô thưởng vô phạt, nhưng thực ra nó lại ảnh hưởng đến sự tụ tài. Vì vậy tủ lạnh tốt nhất là nên lau chùi sạch sẽ, cả bên trong lẫn bên ngoài.
6. Không đặt tủ lạnh trong phòng ngủ
Ngày nay mọi người có xu hướng có nhiều hơn một chiếc tủ lạnh trong nhà để tiện sử dụng. Tuy nhiên, tránh để tủ lạnh trong phòng ngủ vì chúng ảnh hưởng tới người sống ở bên trong trong các vấn đề liên quan tới suy nghĩ gay gắt, tính tình kì lạ và cũng có thể gây cản trở, nhấn chìm những may mắn trong sự nghiệp.
Hy vọng các bạn có thể ứng dụng những thuật phong thủy đơn giản này để có một căn bếp và tủ lạnh hợp phong thủy, mang lại thuận lợi và những điều tốt đẹp cho gia đình bạn.
Tổng hợp
Văn Khấn trong tang lễ – Lễ Triệu lịch Điện Văn được dùng trong lễ Triệu tịch Điện văn là lễ cúng cơm trong 100 ngày
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.
– Con lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại vương
– Con kính lạy ngài Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân
– Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ tỷ
Hôm nay là ngày……tháng……….năm………..
Con trai trưởng (hoặc cháu đích tôn) là………
Vâng theo lệnh của mẫu thân (nếu là mẹ hoặc phụ mẫu nếu là cha), các chú bác, cùng anh rể, chị gái, các em trai gái dâu rể, con cháu nội ngoại kính lạy.
Nay nhân ngày lễ cúng cơm trong trăm ngày theo nghi lễ cổ truyền.
Kính dâng lễ mọn biểu lộ lòng thành.
Trước linh vị của: Hiển……………chân linh.
Xin kính cẩn trình thưa rằng:
Than ôi! Thương nhớ phụ thân, bỏ về cõi thọ
(hoặc Thương nhớ mẫu thân, bỏ về cõi thọ)
Gót thừa vân, nghĩ đã xa khơi;
Lòng ái nhật, nghĩ càng tủi hổ.
Lưng cơm bát nước, miếng trân cam, tỏ dạ kính thành;
Sớm rượu trưa trà, đạo thần hôn, giữ lòng ái mộ.
Ngậm ngùi, hồn phách biết về đâu;
Tưởng tượng bóng hình còn mãi đó.
Ôi! Thương ôi!
Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
Lấy chồng xem tuổi đàn bà, làm nhà xem tuổi đàn ông, xem hướng nhà theo tuổi người đàn ông trụ cột trong gia đình là truyền thống lâu đời của người Việt. Lịch Ngày Tốt xin hướng dẫn xem hướng nhà tốt xấu cho nam giới tuổi Dần, mời các bạn tham khảo.
![]() |
![]() |
![]() |
Hành: Mộc
Loại: Phù tinh
Đặc Tính: Chăm chỉ, cẩn thận, cần cù, nuôi nấng, duy trì
Là một phụ Tinh. Sao thứ 12 trong 12 sao thuộc vòng sao Trường Sinh theo thứ tự: Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.
Sao Dưỡng ở Mệnh là người có tính tình chăm chỉ, cẩn thận, cần cù, có tên riêng, tên đặc biệt, tên cúng cơm, biệt danh, biệt hiệu, có sự thay đổi tên họ.
Ý Nghĩa Dưỡng Ở Cung Phúc Đức:
Làm con nuôi họ khác.
Lập con nuôi, đỡ đầu cho người khác.
Ý Nghĩa Dưỡng Ở Cung Tử Tức:
Có con nuôi hoặc có cho con nhờ người khác nuôi hộ.
Có con đỡ đầu hay có khi nuôi con riêng của chồng, vợ.
Ý Nghĩa Dưỡng Ở Cung Huynh Đệ:
Có anh em kết nghĩa.
Có anh chị em nuôi hay dị bào.
Sao Dưỡng Khi Vào Các Hạn:
Nếu gặp các sao bệnh tật nặng có nghĩa đau phải nằm nhà thương.
Đau yếu lâu khỏi nếu Hạn rơi vào cung Tật.
Giờ Dần là khoảng thời gian từ 3h đến 5h. Người sinh giờ Dần tương khắc với người thân, một đời nhiều dằn vặt nhưng có đại tài nên trưởng thành muộn, hậu vận đắc cách, xem như là khổ tận cam lai. Về vận trình tình duyên của người sinh giờ Dần, xin tham khảo bài viết dưới đây để biết thêm chi tiết.
![]() |
![]() |
![]() |
họ cũng sẽ nhanh chóng vượt qua và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao phó.
![]() |
(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa) |
Những ngành nghề đòi hỏi tài năng, sự sáng tạo cũng rất phù hợp với họ. Tuổi Thìn ở mọi lĩnh vực đều được đánh giá cao và được đền đáp xứng đáp. Họ thường được ghi nhận là những người tiên phong trong các công việc khó nhọc.
Tuy nhiên, một số người tuổi Thìn lại không thể làm việc độc lập. Họ cần sự trợ giúp từ nhiều người mới có thể hoàn thành nhiệm vụ.
Người tuổi Thìn làm gì cũng suy xét thấu đáo, vì vậy những công việc lao động chân tay đều không phù hợp với họ. Nếu làm việc ở các lĩnh vực nghệ thuật, chính trị, học thuật họ sẽ cống hiến hết mình và cũng dễ đạt được thành công.
Những người này thường dùng tiền làm phương tiện để thực hiện các mục đích của mình. Chính vì vậy mà trong suốt cuộc đời họ sẽ phải cần đến rất nhiều những khoản tiền lớn. Lời khuyên dành cho họ là nên đầu tư vào cổ phiếu hoặc thị trường bất động sản để không ngừng nâng cao gia sản của mình.
(Theo 12 con giáp về sự nghiệp cuộc đời)
![]() |
Mơ thấy rượu dự báo gia vận của bạn sẽ hưng thịnh |
Chiêm bao thấy rượu là điềm báo gia đình của bạn sẽ được sung túc, yên vui.
Nếu bạn chiêm bao thấy rượu màu đỏ là cát mộng. Dự báo, bạn đang có sức khỏe dồi dào.
Tuy nhiên, nếu nữ giới chiêm bao thấy rượu trắng là điềm ám chỉ, nhan sắc của bạn đang bị xuống cấp. Công việc tuy bận rộn nhưng hãy dành thời gian chăm sóc bản thân mình.
Bạn hãy lên kế hoạch cho những ngày nghỉ ngơi sắp tới nếu trong giấc mơ đêm qua bạn thấy cảnh cho rượu vào thùng. Sau một thời gian bận rộn, bạn sắp có những ngày thảnh thơi đầy thú vị.
Nếu chiêm bao thấy rượu cất vào trong chai, dự báo tài lộc đang đến gần với bạn.
Tuy nhiên, nếu chiêm bao thấy bị say rượu là điềm ám chỉ, sắp tới có thể bạn sẽ gặp phải chuyện không vui. Hãy chú ý tới mọi chuyện gần đây và tìm cách khắc phục.
Giấc mơ thấy mình tham gia một tiệc rượu vui vẻ, có chừng mực cũng là điềm lành báo trước những thành công trong thời gian tới của bạn.
Tuy nhiên, bạn cần thận trọng nếu mơ thấy mình chè chén quá độ. Bạn nên đề phòng những trắc trở, tổn thất bất ngờ.
Thấy uống rượu rum trong mơ, ám chỉ tằng bạn sẽ giàu sang nhưng thiếu đạo đức. Bạn đắm chìm trong thú vui và đam mê vô độ.
Mơ thấy uống rượu vang ám chỉ sự hân hoan, lễ kỷ niệm và tình bạn.
Mơ thấy bạn đang làm vỡ những chai rượu vang, tượng trưng cho sự đam mê vô độ trong con người bạn.
Thấy những chai rượu whisky biểu tượng cho sự cảnh giác, thận trong và tính bảo vệ của bạn.
Mơ thấy bạn đang uống rượu whisky một mình, tượng trưng cho tính ích kỷ của bạn và cuối cùng là mất bạn bè.
Tổng hợp
Ngày Ngưu Lang Chức Nữ hay còn gọi là ngày Thất Tịch 7/7 âm lịch gắn liền với truyền thuyết về tình yêu của đôi trai gái khiến người đời cảm động đến tận hôm nay. Theo quan niệm truyền thống, trong ngày này có những việc nên làm và không nên làm, mọi người hãy cùng xem để tránh phạm phải cấm kị.
![]() |
![]() |
Kiến thức phong thủy. Gương tiềm ẩn một dạng năng lượng rất đặc biệt, có thể rất tốt, nhưng cũng có thể cực xấu. Vì vậy cần lưu ý những điều cấm kỵ sau:
Trong phong thủy, gương tiềm ẩn một dạng năng lượng rât đặc biệt, có thể rất tốt, nhưng cũng có thể cực xấu. Nó có thể giúp đưa vận khí tốt đến với gia đình hay cơ quan bạn.
Khi bạn biết kết hợp gương với các vận dụng khác trong gia đình thì nó cũng có thể giúp căn phòng bạn trông to hơn, sáng sủa hơn, do đó làm tăng sự thịnh vượng và may mắn cho bạn, đồng thời cũng giúp xua đuổi tà khí giúp gia đình bạn sống hòa thuận và êm ấm.
Tuy nhiên, khi trang trí gương trong nhà, gia chủ cần lưu ý những điều cấm kỵ dưới đây.
Có hai đại kỵ khi treo gương trong nhà đó là treo gương đối diện ngay với cửa chính của căn nhà và đối diện với giường ngủ. Cửa chính là nơi tiếp nhận nguồn năng lượng từ ngoài vào nên nếu bạn treo gương ngay đối diện cửa thì toàn bộ năng lượng tốt sẽ bị đẩy ngược ra ngoài.
Thông thường chúng ta thích treo gương trong phòng ngủ vì sự thuận tiện, tuy nhiên nếu để gương chiếu ngay vào giường ngủ. Gương phản chiếu vào giường ngủ sẽ sản sinh ra nguồn năng lượng âm và gương được xem như người thứ ba xen vào làm đổ vỡ hoặc xáo trộn cuộc sống hôn nhân cũng như các mối quan hệ tốt trong gia đình.
Nếu nhất thiết phải đặt gương trong phòng ngủ thì tốt nhất nên đóng hoặc lấy vải che phủ gương lại trước khi đi ngủ. Thậm chí các vật có hình ảnh phản chiếu lại như tivi, máy tính, tranh bằng thủy tinh nếu đặt trong phòng ngủ cũng nên được che lại.
Một điều cấm kỵ nữa là tuyệt đối không được treo gương lên trần nhà.
Gương cũng không nên để ở những nơi mà có thể phản chiếu hình ảnh của các hóa đơn cần thanh toán, vì số lượng hóa đơn tăng lên đồng nghĩa với việc chi tiêu trong nhà cũng tăng lên.
Những nơi khác trong nhà cũng cần tránh đặt gương theo hướng đối diện như cửa nhà vệ sinh, lò sưởi, những chỗ để nhiều thứ bừa bộn. Khi những thứ này được nhìn thấy thêm một lần nữa , chúng sẽ tạo nên nguồn năng lượng không tốt ảnh hưởng đến tinh thần của mọi người.
Chúng ta cũng nên lưu ý những vật dụng như thùng rác, cống thoát nước lâu ngày dơ dáy ở phía ngoài nhà cũng không nên để gương chiếu vào, nếu không thể tránh khỏi thì chúng ta nên tìm cách che đậy những vật này lại.
Không nên treo hai gương quay mặt vào nhau, vì nguồn năng lượng sẽ bị dội qua dội lại tích tụ ở đâu trong nhà bạn.
Bạn không nên chọn gương làm méo mó hình ảnh của người soi, hoặc loại gương làm bằng những mảnh nhỏ của gốm sứ, vì loại gương này làm tiêu tan đi nguồn năng lượng tốt và làm cho mọi người cảm thấy bị lẫn lộn mọi thứ
Bên cạnh đó, bạn cũng không nên để gương dưới chân cầu thang vì khi đi xuống bạn sẽ nhìn thấy mình thiếu chân hay thiếu đầu. Nếu hàng ngày bạn cứ phải thường xuyên nhìn thấy hình ảnh không nguyên vẹn của mình bạn sẽ có cảm giác mọi thứ không toàn vẹn và hoàn mỹ như mình nghĩ.
Chùa Ưu Đàm còn có tên dân gian là chùa Bà Lồi, hay chùa Lồi. Sở dĩ có các tên này, có nguồn gốc từ một sự tích của pho tượng Bà Lồi, tức tượng nữ thần XiKa.
Chùa Ưu Đàm xuất phát từ một loài hoa Ưu Đàm bát (Udumbara) một loài hoa quý hiếm, tương truyền 3000 năm mới xuất hiện một lần, hoa xuất hiện thì kim luân vương xuất hiện. Các bô lão thủa ấy lấy cớ làng Ưu Đàm có Phật Lồi được ví như Phật xuất thế nên đặt tên làng và tên chùa là Ưu Đàm, và xuất phát từ câu chuyện tượng Bà Lồi nên chùa còn được dân gian gọi là chùa Bà Lồi, hàng năn vào mùa lũ lụt, con dân trong làng đều tập trung lên chùa để tránh lụt, họ phát hiện chùa chưa hề bị nước ngập và hình như nước càng lên thì chùa cũng nổi theo, nên từ đó chùa còn được gọi là chùa Lồi.
Chùa nằm trên một khu đất gò nổi cách trung tâm thành phố Huế khoảng 40km về hướng bắc, dọc theo con đường quốc lộ đến cầu Mỹ Chánh rồi rẽ theo đường 49B về khoảng 4km thì đến (chùa tại thôn Ưu Điềm (Đàm), xã Phong Hoà, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế). Chùa quay mặt về hướng chính Nam, trước mặt lấy cánh đồng ruộng lúa xanh tươi bát ngát làm tiền án, sau lưng có con sông Ô Lâu huyền thoại ôm lấy làm hậu chẩm.
Đến nay chưa có sách sử nào ghi lại chùa được xây dựng từ thời nào. Tương truyền thì vào khoảng thế kỷ thứ 16, khi chúa Nguyễn vào Nam lập nghiệp, bình định và vỗ an dân chúng, hầu hết các làng xã đồng loạt xây chùa dựng tượng để con dân sinh hoạt tín ngưỡng, ổn định tinh thần mà chăm lo làm ăn, chùa Ưu Đàm cũng ra đời trong thời điểm đó. Theo sách Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An (1555) có nhắc đến chùa Ưu Đàm một câu rằng “Am Ưu Đàm nở nhiều hoa Bát la” thì chắc chắn chùa này có trước thời chúa Nguyễn vào Nam lập nghiệp.
Trải qua thời gian chiến tranh, chùa được tu sửa nhiều lần. Đến năm Minh Mạng thứ 2, Tân Tỵ (1821) chùa được nhà vua ban chiếu, cấp bổng lộc để trùng tu. Năm 1954 chùa lại bị bom đạn làm hư hại và xuống cấp, con dân trong làng đã góp công góp của xây dựng lại bằng bê tông cốt thép theo mô hình kiến trúc kiểu chữ Công gồm tiền đường, chánh điện, và hậu liêu như mẫu chùa Từ Đàm cũ với chất liệu rất hiện đại kiên cố có diện tích mặc bằng khoảng 250m2 trên tổng diện tích vườn chùa khoảng 8000m2.
Theo thời gian, Chùa Ưu Đàm đã dần xuống cấp, thêm vào đó nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng của con dân trong làng ngày càng phát triển, nên đòi hỏi chùa phải có sự chỉnh trang cho phù hợp, các con dân trong làng đi làm ăn xa, cùng với những Việt kiều đồng hương đã thấu hiểu được gởi tiền về trùng tu.
Từ năm 1995 cho đến nay, chùa đã chỉnh trang, sửa chữa, làm mới một số hạng mục. Những công trình có giá trị như chánh điện, cổng tam quan, đài Quan Âm, Đoàn quán Gia đình Phật tử, nhà ở, tường thành…tất cả đã trở thành một hệ thống kiến trúc kiên cố và khang trang hơn rất nhiều.
Hiện nay, Chùa Ưu Đàm vẫn bảo lưu được một số cổ vật, pháp bảo cũng như những di chỉ xưa quý rất có giá trị văn hoá và khảo cổ như bộ tượng Bồ tát Di Lặc và Quan Âm cổ Phật được nắn bằng đất sét nhồi trấu, nồng tre sơn thếp vàng rất đẹp. Đáng chú ý hơn hết là di chỉ Chăm-pa gồm một tượng nữ thần XiKa, bức phù điều vũ nữ cũng như trụ đá Linga và biểu tượng tiểu thực khí của Totem giáo… đã gây được sự chú ý và quan tâm tới phật tử, du khách đến đây. Năm 1995, Ban Hộ tự đã cho quy tụ, và xây dựng tôn trí tượng và các phù điêu, cổ vật trên một ví trí khu đất 50m2 sát bên tả chùa, dân làng gọi đó là Am Bà Phật Lồi.
Tất cả những cổ vật, pháp bảo xưa quý trên của chùa hiện vẫn còn rất nguyên trạng và được bảo quản tốt. Chỉ có tượng nữ thần XiKa – được tạc bằng sa thạch, nhưng qua thời gian bảo quản, người ta đã cho sơn son thếp vàng, những năm 1975 đến 1980 những “đạo tặc” tưởng là vàng thật nên đã đến cưa tay, và thậm chí cưa đầu, nhưng may thay, tượng bằng đá nên đám ăn cắp đã đem trả lại cho chùa. Mặc dầu vậy, giá trị nguyên bản của pho tượng đã không còn.
Chùa Ưu Đàm được xếp vào hạng di tích lịch sử, nơi đây không chỉ là địa điểm tham quan du lịch của du khách, phật tử tìm đến mà còn là cầu nguyện, tĩnh tâm trong bộn bề cuộc sống.a
Nốt ruồi ở xương quai xanh hoặc bả vai - quản lý tài sản không tốt Nếu vị trí lõm giữa xương quai xanh và bả vai có nốt ruồi thì khả năng quản lý tài sản của người này không tốt, không có khả năng xây dựng tài chính, điều này sẽ làm cho hậu vận gặp khó khăn vì không có tích lũy. Bởi vậy, bất kể nam nữ, nếu có nốt ruồi tại vị trí này thì nên thận trọng ngay cả khi tiền đã cầm trong tay, đặc biệt là trong việc đầu tư tài chính. Nốt ruồi ở bầu ngực – người hẹp hòi, túng thiếu Nếu một trong hai bầu ngực có nốt ruồi thì người này khá hẹp hòi, “lòng lang dạ thú” và thường xuyên lâm vào cảnh túng thiếu, mối quan hệ với người khác thường không tốt, thường bị hiểu lầm hoặc bị hãm hại. Phụ nữ có nốt ruồi ở vị trí này thường rất đào hoa, tuy nhiên đào hoa quá vượng cũng khiến cho chuyện tình cảm gặp nhiều trắc trở. Nốt ruồi dưới gót chân – gặp nhiều phiền toái
![]() |
1. Sinh tài vượng vị
Trong phong thủy có nhiều phương pháp tìm tài vị. Một quan điểm cho rằng, góc chếch của cửa chính; hai là cho rằng tài vị ở vị trí khi phi tinh có tam bạch đông, tức là Nhất bạch Lục bạch và Bát bạch; ba là cho rằng, từ năm 1984 đến năm 2003 thuộc vận 7 của hạ nguyên, trong 20 năm này, tài vị vượng khi nằm ở phương Tây Bắc.
2. Tài vị ngũ dĩ
– Tài vị nên sáng sủa không nên u ám, sáng sủa là sinh khí dồi dào. Chính vì vậy tài vị có ánh sáng mặt trời hoặc ánh sáng đèn chiếu vào, điều này rất có lợi cho sinh vượng vị.
– Tài vị nên “sinh”, từ “sinh” ở đây là chỉ sinh khí, sinh sôi nảy nở, chính vì vậy mà nên đặt ở nơi tài vị những thực vật cây xanh quanh năm, đặc biệt là những cây lá to hoặc lá dày như cây cao su hoặc là cây thiết thụ của Braxin đều rất thích hợp; nhưng cũng cần lưu ý. những cây thực vật này phải dùng đất bùn để trồng, nếu mà dùng nước để nuôi dưỡng là không nên. Tài vị không nên trồng những loại cây như xương rồng có gai, nếu không thì sẽ từ “lợn lành biến thành lợn què”.
– Tài vị nên đặt gần chỗ ngồi: tài vị là nơi tụ khí tài lộc của Căn nhà, chính vì vậy nên sử dụng. Ví dụ như đặt ghê salon ở gần tài vị, khi mọi người trong nhà ngồi trong đó nghỉ ngơi nói chuyện, có thể nhiễm nhiều tài khí bên trong đó, tự nhiên sẽ làm cho căn nhà trở nên lộn xộn. Ngoài ra, nếu đặt bàn ăn ở nơi gần tài vị cũng thích hợp, bởi vì điều này sẽ khiến cho mọi người tốt hơn.
– Tài vị nên đặt gần chỗ nằm: hầu như một phần ba thời gian trong ngày của con người là dành cho việc ngủ, chính vì vậy mà cát hung của vị trí ngủ có ảnh hưởng rất lớn. Nếu vị tri ngủ đặt ở tài vị, ngủ ở chỗ đó hàng ngày tích luỹ, tự sẽ thấy có lợi cho tài vận. Có một số người hiểu lầm rằng giường ngủ là vật gia dụng nặng, có thể dễ tài vị không sinh tài, nhưng quả thực đó là làm lãng phí tài vị mà thôi.
Tài vị nên ở vị trí tốt: tài vị ở những nơi khi ngưng tụ, nếu ở đó đặt những vật cát tường, như tam tinh Phúc Lộc Thọ hoặc là những tượng Văn Vũ thần tài, thi sẽ càng thêm cát lợi, có tác dụng rất lớn.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Sternomancy là phương pháp liên quan tới việc đọc các dấu hiệu về vận mệnh, tương lai và tính cách nàng thông qua “núi đôi”. Phương pháp này được sử dụng lần đầu ở Tây Ban Nha vào thế kỷ 18, đến nay nó đã được áp dụng cho tất tần tật phụ nữ từ Á chí Âu.
1. Nàng có bộ ngực hình quả chanh
Bộ ngực gọn, săn chắc, không tròn lắm và càng nhìn càng giống… họ nhà chanh, kích cỡ lớn hay nhỏ tùy vào từng người. Trong cuộc sống thường ngày, nàng tỏ ra thanh thản, lạc quan, vui vẻ và đặc biệt rất mê… sex. Đây là mẫu phụ nữ dành cho đàn ông thích cảm giác đa dạng, mới lạ trên giường vì nàng sôi nổi, sáng tạo trong phòng ngủ, sẵn sàng tự bình phẩm bản thân và luôn mong chờ điều tương tự từ đối tác.
2. Bộ ngực hình quả táo
Bầu ngực tròn trịa, đều đặn như khuôn đúc. Nàng đích thị là người đảm đang trong vai trò của người nội trợ và làm dâu, chung thủy, hy sinh vì gia đình, còn chuyện ấy thì hơi tẻ nhạt. Khoái cảm đối với nàng rất khó nhưng vẫn cố gắng làm hài lòng bạn tình. Cuộc sống chăn gối đối với phụ nữ có bộ ngực quả táo không có gì đặc biệt, nhưng nói chung là ổn định và bền vững vì họ ghét phải thay đổi bạn tình.
3. Bộ ngực quả đào
Ngực hơi dài và phần nhũ hoa nhô nhọn. Trời phú cho nhưng cô nàng có bộ ngực hình quả anh đào nhạy cảm nhưng vô cùng kín đáo trong chuyện ấy. Nàng gần gũi, dễ hòa đồng và cũng dễ tổn thương, hay lo lắng không đâu về sự chung thủy của bạn tình. Tuy nhiên, người có bộ ngực hình quả anh đào khó có thể tự mình làm một việc gì hoàn hảo, nhưng chọn nàng làm hậu phương vững chắc cho bạn thì tuyệt vời.
4. Bộ ngực hình quả bưởi (mọi người chú ý là hình dạng chứ không phải kích cỡ nhé!)
Những cô nàng này đặc biệt yêu thích việc nấu nướng và sưu tầm món ăn ngon để phục vụ cho sở thích ăn uống của mình. Nàng thích được tán tỉnh, nhưng một khi đã “có chủ” thì hiếm ai có thể khiến nàng lung lay lần nữa.
Sex đối với nàng dường như không được mặn mà cho lắm, ăn ngủ và mua sắm xem ra thú vị hơn nhiều. Nếu bạn đang sở hữu một một nàng có bộ ngực quả dưa, hãy dành cho nàng những lời khen xứng đáng về hình thể mọi lúc mọi nơi, đặc biệt là khi bạn đang muốn chuyện ấy.
5. Bộ ngực hình quả lê
Nàng tự lập, bướng bỉnh và hay mắc sai lầm vì không mấy thông minh. Đôi khi cánh mày râu lại yêu thích đặc điểm ngây ngô này. Nàng rất đáng yêu, lãng mạn, đem lại nhiều hứng thú tình dục. Nàng ít khi từ chối cơ hội tình cảm xứng đáng dẫn đến thói trăng hoa. Do đó, hãy thận trọng với các mối quan hệ bạn bè của nàng.
![]() |
12 con giáp |
ẤT HỢI: SƠN ĐẦU HỎA
Trong tử vi Ât Hợi là con lợn rừng, thích thanh tịnh, không căng thẳng, cá tính trung hậu có tâm từ bi, không coi thường người khác.
Sơn đầu Hỏa thiêu cháy đồng cỏ hoang, lờ mờ ánh tà dương cuối chân trời phảng phất ánh mặt trời xuống núi. Là Hỏa trong đám cỏ khô sắp tàn trong tháng 9 khai hoang.
Tử vi người sinh năm Át Hợi nạp âm Sơn đầu Hỏa, hàm chứa khí thanh trong, thích thanh tịnh. Nếu hợp cách chủ là diệu đạo cao nhân, chính nhân quân tử.
Là Hỏa sắp tắt, ưa nhất Mộc tương sinh như Mậu Tuất Bình địa Mộc, Tân Mão Tùng bách Mộc, Mậu Thìn Đại lâm Mộc; Nhâm Ngọ, Quý Mùi Dương liễu Mộc, tất chủ vượng tướng.
Ngoài Mộc kể trên, còn thêm Quý Sửu Tang đố Mộc, là hiển quý nhất. Không có núi thì Mộc không có chỗ dựa, Hỏa không gặp, không thể hiển quý, có Mộc khác cũng vô dụng.
Thủy nên gặp Bính Tý Giản hạ Thủy, đây gọi là Giao quý cách. Giáp Thân, Ất Dậu Tỉnh tuyền Thủy, có Mộc tương trợ cũng chủ về cát lợi.
Không ưa Quý Hợi Đại hải Thủy, là Hợi Hợi tự hình, phạm vào chủ là người làm việc có đầu mà không có cuối, mặt khác còn chủ vợ chồng duyên mỏng.
Gặp Thổ, duy Bính Thìn Sa trung Thổ có thể có ích cho Hỏa này, những Thổ khác vô dụng.
Phàm Hỏa này không có Mộc mà có Thổ, phần nhiều chủ mệnh hạ tiện.
Nạp âm nhiều Hỏa, họa sinh bất ngò, hoặc đoản thọ. Kỵ nhất bị hình xung.
Ât lộc tại Mão, chi khác không có Mão, chủ cát lợi. Nếu có Đinh Mão, mệnh chủ càng cát lợi hơn, như gấm thêm hoa.
Ất quý tại Tý, chi khác có Tý, chủ cát lợi.
Hợi mã tại Tỵ, chi khác có Tỵ là phạm Mã thần, cuối đời phá bại. Chi khác có Dần, mã bị hình, không nên làm kinh doanh, kỵ đánh bạc, đầu cơ.
Mệnh nữ có một tình cảm đau thương, tâm tính không ổn định, dễ tức giận. Làm việc có nguyên tắc, cố chấp, sỹ diện.
Chi khác có Thân, chủ một trong ngũ quan bị thương tật.
Trong tử vi mỗi khi gặp năm Hợi, Tỵ, trong nhà không yên ổn, không hại đến bản thân cũng hại đến người nhà.
Bạn đời không nên gặp người sinh năm Canh, Tân. Nên tìm người sinh năm Mậu, Kỷ.
Ất Hợi Không vong tại Thân Dậu, chi khác không ưa Thân, Dậu.
Chi khác có Mùi, nếu tọa nhật chi chủ khắc vợ hoặc chồng.
Nêu tọa thời chi, nên nương nhờ nơi cửa Phật.
Ngưòi tuổi Hợi gặp Thân là Kiếp sát, nếu tọa nhật chi chủ khắc vợ hoặc chồng.
Mua bất động sản, không nên dùng phương thức trả góp ngân hàng hoặc cho người khác mượn thế chấp.
Nếu tọa thời chi, con cháu bần cùng nghèo khổ.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Ngọc hình trụ vuông
Là một viên ngọc hình trụ vuông, ở giữa có lỗ lớn hình tròn. Hình lỗ tròn tưọng trưng cho trời, hình vuông tượng trưng cho đất. Thường được bày bên phải bàn thờ Thần tài đất.
Ngọc bích
Ngọc bích hình tròn, giữa có lỗ tròn nhỏ. Thường được bày cạnh Thần tài để thu hút tài vượng. Bày bên trái của bàn thờ (trái với người cúng).
Cá vàng, cá chép vàng
Các nhà buôn, thương nhân, doanh nhân thường nuôi cá chép vàng để mong lãi lớn. Cá chép thường nuôi 9 con, mang ý nghĩa “trường cửu”. Nếu bể lớn có thể nuôi 19 hoặc 29 con. Treo tranh 9 con cá trong thiếu nhà hoặc văn phòng rất có lợi.
Treo tranh sơn thủy
Là loại tranh vẽ cảnh núi non sông suối, trên bầu trời có khi điểm vài đôi chim hạc (hay cò) cùng cây cỏ (thường dùng tùng hay bách). Cảnh tranh về buổi sáng dương khí thịnh sẽ mang lại sự khỏe mạnh cho gia chủ, con cháu ngoan giỏi, tài vận sẽ thăng tiến.
Vận Tài Đồng Tử
Theo truyền thuyết, Vận Tài Đồng Tử chính là Thiện Tài Đồng Tử bên cạnh Quan Thế Âm Bồ Tát, chuyên biến hiện ra rất nhiều tiền bạc, của cải giúp đở cho người nghèo. Nên sau này người ta dùng hình tượng của Thiện Tài Đồng Tử như một vị Thần chuyên đem tài lộc đến, thành thử mới có tên Vận Tài là vậy.
Vận Tài Đồng Tử trong phong thủy có nhiều hình dạng khác nhau: tượng một đồng tử gánh hai gánh vàng, tượng hai đồng tử đang đẩy xe vàng (cái này có nơi còn gọi là Thôi Xa Tiến Bảo), tượng hai đồng tử đang quay cối xay tiền, tượng đồng tử đạp trên lưng con sư tử tay cầm Hốt Như Ý… Nhưng tựu trung tất cả đều giống như nhau, với mục đích chính là chiêu tài tiến bảo.
Ngoài ra, Vận Tài Đồng Tử còn dùng trong một vài trường hợp hóa sát (nó thường đi kèm với thứ khác) như: Phản cung sát, Pháo đài sát. Đặc biệt, Vận Tài Đồng Tử rất thích hợp với nhà toàn nam giới chưa kết hôn.
Mã Thượng Phong Hầu
Vật khí này có thể là một bức tranh (rất hiếm), nhưng thường là tượng bằng đồng, hoặc là miếng ngọc bội. Với câu chữ hiểu theo nghĩa đen là “con khỉ cưỡi trên con ngựa” nên nó cũng mang hình dáng như vậy. Nhưng thực ra đây là cách chơi chữ của người Hoa, vì 2 chữ “Mã Thượng” đi chung vói nhau được hiểu là “lập tức”; còn “Phong Hầu” chính là phong quan tiến tước (“Hầu” là một tước vị rất lớn ngày xưa). Do đó ghép 2 từ lại sẽ có ý nghĩa được “lập tức thăng quan”. Vật khí này rất thích hợp cho người làm nhân viên nhà nước.
Cóc 3 chân và Lưu Hải Tiên Nhân
Theo truyền thuyết đây là một con yêu quái, được Tiên Nhân Lưu Hải thu phục và ông cũng được liệt vào trong số các vị tiên mang tài lộc đến cho dân gian. Thường thấy nhất là hình tượng cóc 3 chân dẫm lên trên các đồng tiền, cũng có loại cóc 3 chân ngồi trên một đế Bát quái có tấm liễn Tài Nguyên Quảng Tấn phía trước, có loại bằng bột đá, có loại bằng đồng. Nhưng bằng đồng là hay nhất, vì khi đặt nó ở tài vị sẽ thích hơn. Bởi trong trang thờ Thần tài, Thổ địa thường phải đầy đủ Ngũ Hành, mà cóc 3 chân bằng đồng là mang hành Kim.
Lưu Hải Tiên Nhân là vị tiên thu phục cóc 3 chân. Hình tượng của ông là một vị tiên một tay cầm sợi dây trói con cóc 3 chân, mà dây này đầu kia là một xâu tiền. Còn một hình tượng khác của ông là cầm pháp khí, dùng để trừ tà, nhưng sau lưng ông cũng có một xâu tiền hàm ý chiêu tài.
Cóc 3 chân và tượng Lưu Hải Tiên Nhân thường đặt ở phương tài vị trong nhà. Cóc 3 chân còn thường được đặt trong trang thờ Thần tài, Thổ địa với mặt cóc quay vào. Ngoài ra, cóc 3 chân còn được đặt ở các góc trong nhà (đầu quay vào). Điều này được giải thích là vì bản chất của cóc thích ở chui vào các góc, xó trong nhà nên đặt ở vị trí này với hàm ý cóc về nhà cất giấu của cải tiền bạc.
Thuyền chở vàng
Hình tượng này cũng là ngụ ý sự kích hoạt tài lộc trong nhà. Chiếc thuyền buồm thường thấy được chất đầy thỏi vàng, trên cánh buồm viết 4 chữ Nhất Phàm Phong Thuận (một chiếc thuyền buồm thuận gió) hay 4 chữ Tiền Trình Dĩ Cẩm (tương lai đẹp như gấm). Có thể là loại thuyền buồm bằng gỗ, có thể là loại bằng đồng. Nhưng nếu mua dạng thuyền gỗ theo kiểu thuyền buôn cổ Trung Hoa mới là chuẩn.
Vật này mang hàm ý như có một chiếc tàu chở đầy vàng chạy vào nhà, vào nơi làm ăn của mình, đem lại lợi lộc, của cải. Khi bài trí vật khí này, nên để mũi thuyền quay vào nhà. Nó rất thích hợp với những người làm kinh doanh và thường được bày ở các cửa hàng, nơi buôn bán.
Niên Niên Hữu Dư
Đây là bức tranh vẽ hình cá (thưòng là 8 con đỏ và 1 con đen) và hoa sen, trên viết 4 chữ Niên Niên Hữu Thực. Nhiều người giải thích cho rằng hoa sen (liên) hàm ý liên tục, cá là biểu tượng tài lộc trong phong thủy và gán ghép thành ý “tài lộc liên tục”.
Nhưng thực ra đây là câu thành ngữ xuất phát từ vùng núi Trung Quốc. Vốn dĩ ngày xưa vùng núi không gần sông biển, nên cá rất đắt đỏ, chỉ những nhà giàu có mới có tiền ăn. Cho nên người ta vẽ tranh cá và đề trên đó 4 chữ Niên Niên Hữu Thực (nghĩa là “luôn luôn no đủ”, ngụ ý ước mơ được giàu có) mà cầu mong được dư dả để có cá ăn quanh năm suốt tháng.
Lâu dần nó trở thành biểu tượng phong thủy. Và hoa sen chính là cái vẽ thêm sau này, vì hoa sen có lá thuộc dạng hình phễu, là một loại hút sóng rất mạnh, thêm vào để thu hút sự mong cầu của mình đến nhanh. Ngoài ra, sen còn là biểu tượng của sự an lành. Cho nên tranh Niên Niên Hữu Dư là biểu tượng để kích hoạt tài lộc trong phong thủy.
[highlight]Vật phẩm phong thủy dùng để cầu tài, mang lại phú quý (Phần 1)[/highlight]