Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Cách xem phương vị phòng ngủ –

Theo phong thủy, việc quan sát xem một người ngủ ở vị trí nào là có thể cho thấy vận thế và tính cách người đó. Vị trí kê giường và mối quan hệ giữa hai vợ chồng cũng có mối liên quan khăng khít với nhau. Phòng ngủ phía Tây Phòng ngủ ở phía chính Tây

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong thủy, việc quan sát xem một người ngủ ở vị trí nào là có thể cho thấy vận thế và tính cách người đó. Vị trí kê giường và mối quan hệ giữa hai vợ chồng cũng có mối liên quan khăng khít với nhau.

Phòng ngủ phía Tây

Phòng ngủ ở phía chính Tây, đầu giường lại hướng về phía Tây khiến gia chủ thường hay ngủ nướng, người chồng thường lơ là, lạnh nhạt với vợ. Vì vậy, cần cố gắng kê giường ngủ sát vào hướng Bắc, hoặc đầu giường quay về hướng Đông, hướng Nam hoặc chuyển phòng ngủ về vị trí trung tâm căn nhà. Phương vị này có tác dụng thúc đẩy, làm tăng nguồn năng lượng, đặc biệt với người tuổi Dậu.

Phòng ngủ phía Bắc

phong-thuy-phong-ngu

Tại vị trí này, trường khí trong phòng quá thịnh cho thấy vận thế tiền tài và tình yêu đều do cần cù, chịu khó, chịu khổ mà có được. Nếu để lò sưởi ở hướng chính Bắc sẽ làm suy giảm tiền tài và sự nghiệp. Người phụ nữ ở trong căn phòng hướng này đa số thường rất đôn hậu, biết giữ gìn gia đạo.

Phòng ngủ chính Đông Bắc

Nếu phòng ngủ của hai vợ chồng được đặt theo hướng này, họ sẽ thường xuyên phải chuyển nhà, hoặc người chồng thường hay thay đổi công việc, rất lãng phí về mặt tiền bạc. Vì vậy, cần giữ cho căn phòng luôn gọn gàng, sạch sẽ để có thể nâng cao tài vận và sức khỏe, hơn nữa còn có thể có được tài sản bất ngờ. Phòng ngủ ở hướng Đông Bắc thường mang lại may mắn cho những người tuổi Sửu và tuổi Dậu.

Phòng ngủ phía Đông

Chứa đựng nguồn năng lượng vô hạn, phòng ngủ phía Đông rất thích hợp với những người trẻ tuổi. Người nằm ngủ ở vị trí này sẽ có một cuộc sống vô cùng năng động, tuy nhiên họ lại thiếu kiên nhẫn và dẽ nóng giận. Phòng ngủ hướng về phía Đông thường đem lại may mắn cho người sinh năm Mão.

Phòng ngủ phía Đông Nam

Phòng ngủ phía Đông Nam cho thấy tình cảm vợ chồng luôn hòa thuận, có mối nhân duyên rất tốt đẹp. Những người tuổi Thìn, Tỵ nên chọn căn phòng ngủ có hướng Đông Nam là tốt nhất.

Phòng ngủ phía Nam

Phòng ngủ phía Nam thể hiện mối quan hệ vợ chồng luôn hòa thuận, vui vẻ. Ánh sáng trong phòng luôn tràn trề, vợ chồng sẽ hòa thuận, quan tâm lẫn nhau, nhưng rất khó gặp may mắn về tài vận, bới vậy không nên chơi chứng khoán hay mua trái phiếu. Phòng ngủ ở hướng này có thể đem đến trí tuệ và vẻ đẹp cho người tuổi Ngọ.

Phòng ngủ phía Tây Nam

Phòng ngủ phía Tây Nam thể hiện vận khí của hai vợ chồng luồn được hanh thông. Tính cách hai vợ chồng thường rất ổn định, thể hiện rõ nhất là ở người phụ nữ. Người vợ thường rất cần cù, chịu khó, ít kêu ca phàn nàn nhưng lại mau già. Phương vị này đem lại may mắn cho người tuổi Mùi, Thân.

Phòng ngủ ở giữa căn nhà

Ở vị trí này, người phụ nữ thường là mẹ hiền, vợ đảm. Ở giữa tượng trưng cho bậc đế vương, vì vậy người nằm ở vị trí này rất có thể trở thành nhân vật lớn, có quyền uy.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách xem phương vị phòng ngủ –

Quẻ Quan Âm: An Lộc Sơn Mưu Phản

Quẻ Quan Âm thứ 56 dựa trên tích An Lộc Sơn mưu phản, nói sự việc nên được giữ nguyên hiện trạng, chờ đợi đến khi thời cơ chính mùi, quý nhân xuất hiện
Quẻ Quan Âm: An Lộc Sơn Mưu Phản

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 56 được xây dựng trên điển cố: An Lộc Sơn mưu phản trong cuộc loạn An Sử nổi tiếng trong lịch sử nhà Đường.

Quẻ này trung bình, quẻ thuộc cung Sửu. Ý quẻ nói rằng những việc mưu cầu thì nên nhẫn nại chờ đợi thời cơ đến hẵng hành động. Bắt tay thực hiện ngay lúc này thì uổng phí công sức, chi bằng giữ nguyên hiện trạng, chờ đợi quý nhân phù trợ xuất hiện thì hãy tiếp tục liệu tính, như vậy mới tốt đẹp.

Điển cố quẻ Quan Âm: An Lộc Sơn mưu phản

An Lộc Sơn (703 – 757), người Doanh Châu sống vào đời Đường. Cha của An Lộc Sơn là người dân tộc Hồ, họ Khang, mẹ là người dân tộc Đột Quyết, tên ban đầu là A Lạc Sơn (còn có tên là Yết Lạc Sơn), có nghĩa là “chiến đấu”. An Lộc Sơn khi nhỏ đã mất cha, theo mẹ ờ với người Đột Quyết. Sau đó mẹ của An Lộc Sơn tái giá với An Diên Yến, anh trai của tướng quân dân tộc Đột Quyết An Ba Chú, vì thế An Lộc Sơn mới mang họ An, tên là Lộc Sơn.

Năm mười ba tuổi, An Lộc Sơn gia nhập quân đội, chưa đến bốn năm, đã làm đến chức Bình Lư tướng quân. Năm bốn mươi tuổi, ông một bước thăng lên Bình Lư quân Tiết độ sứ, là một trong những chức thống soái quân sự cao nhất canh giữ biên cương lúc bấy giờ.

Sau khi An Lộc Sơn được làm Tiết độ sứ, đã ra sức tìm kiếm các loài chim thú quý hiếm, trân châu ngọc quý, đưa đến cung đình lấy lòng Đường Huyền Tông. Đường Huyền Tông cho rằng An Lộc Sơn có lòng trung với mình, nên phong cho Lộc Sơn làm Quận vương, cho xây dinh phủ tráng lệ cho An Lộc Sơn ờ Trường An. Sau khi An Lộc Sơn chuyển vào Vương phủ, Đường Huyền Tông còn cho người đến uống rượu nghe nhạc cùng An Lộc Sơn, để Dương Quý Phi nhận An Lộc Sơn làm con.

Sau khi Tể tướng Lý Lâm Phủ bị bệnh qua đời, người anh cùng họ của Dương Quý Phi là Dương Quốc Trung nhờ vào thế lực của ngoại thích đã được nhận chức Tể tướng. Dương Quốc Trung vốn là tên vô lại, An Lộc Sơn coi thường Dương Quốc Trung, Dương Quốc Trung cũng rất căm ghét An Lộc Sơn, giữa hai người đã phát sinh mâu thuẫn, Dương Quốc Trung nhiều lần nói với Đường Huyền Tông rằng An Lộc Sơn có ý đò làm phản, nhưng Đường Huyền Tông không tin.

Tháng mười năm 755, An Lộc Sơn đã chuẩn bị xong xuôi, quyết định tạo phản. Lúc này, vừa hay có một quan viên từ Trường An đến Lạc Dương. An Lộc Sơn làm giả chiếu thư của Đường Huyền Tông từ Trường An gửi đến, triệu tập các tướng sĩ tuyên bố rằng: “Đã nhận được mật lệnh của hoàng thượng, muốn ta lập tức đem quân vào kinh diệt Dương Quốc Trung” Và như vậy, mười lăm vạn bộ binh và kỵ binh đã xuất phát từ vùng Bình Nguyên ở Hà Bắc, như một cơn lốc cuồn cuộn tiến về, trống chiêng vang dậy. Một dải Trung Nguyên đã hơn một trăm năm không có chiến tranh, dân chúng đã mấy đời không nhìn thấy cảnh chém giết, nên quan viên ờ ven đường người thì bỏ chạy, người thì đầu hàng.

Phản quân của An Lộc Sơn tiến thẳng theo hướng nam, hầu nhừ không gặp phải sự kháng cự nào.

Chẳng bao lâu, phản quân đã vượt sông Hoàng Hà, chiếm tĩnh Lạc Dương. Sau khi Đồng Quan thất thủ, Đường Huyền Tông vội vàng chạy về Thành Đô. An Lộc Sơn liền tự xưng vương, đổi tên nước là “Yên”.

An Lộc Sơn vốn có bệnh ở mắt, từ khi khởi binh đến lúc này, thị lực dần dần giảm sút, sau cùng hai mắt bị mù. Lại thêm mắc chứng ung nhọt, nên tính tình ngày càng tàn bạo, với những người hầu hạ bên cạnh, chỉ cần hơi phật ý, không bị đánh đập cũng bị mắng chửi. Chỉ cần có một chút sai sót, liền bị giết ngay. Sau khi An Lộc Sơn xưng đế, những chuyện các tướng tĩnh bàn bạc, đều được Nghiêm Trang truyền đạt lại. Nghiêm Trang tuy được trọng dụng, nhưng cũng thường xuyên bị An Lộc Sơn đánh đập. Hoạn quan Lý Trư Nhi thường hầu hạ y phục cho An Lộc Sơn là người bị đánh nhiều nhất, nên vô cùng bất mãn. Đoàn thị được An Lộc Sơn sủng áỉ, sinh được một người con trai, tên là “Khánh Ân”, rất được yêu mến, An Lộc Sơn luôn muốn cho Khánh Ân thay thế vị trí của thái tử An Khánh Tự. An Khánh Tự cũng lo mình bị phế truất. Vì thế, Nghiêm Trang và An Khánh Tự, Lý Trư Nhi liên kết với nhau, mưu hại An Lộc Sơn.

Đêm ngày mùng năm tháng giêng năm Chí Đức thứ 2 (tức năm 757), ba người bí mật lẻn vào phòng ngủ của An Lộc Sơn. Lý Trư Nhi tay cầm cây đao lớn lao thẳng vào trong màn, nhằm trúng bụng của An Lộc Sơn đang nằm trên giường đâm mạnh một nhát, kết thúc cuộc đời của An Lộc Sơn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: An Lộc Sơn Mưu Phản

Xem bói tình duyên 12 con giáp: Tuổi Dần, tuổi Mão

Để thuận vợ thuận chồng, gia đình hài hòa, êm ấm bạn không nên quên tham khảo xem bói tình duyên 12 con giáp để biết bạn hợp với con giáp nào.
Xem bói tình duyên 12 con giáp: Tuổi Dần, tuổi Mão

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để thuận vợ thuận chồng, gia đình hài hòa, êm ấm bạn không nên quên tham khảo xem bói tình duyên 12 con giáp để biết bạn hợp với con giáp nào thuộc tháng sinh nào.  
Bạn đang tìm bạn đời nhưng không biết nên chọn theo tiêu chí nào, tướng tá ra sao. Bài viết này sẽ giúp bạn xem các tiêu chí lựa chọn bạn đời phù hợp nhất dựa theo tuổi và tháng sinh của mỗi người.
  Theo bài viết sau, bạn sẽ có thể tự xem bói tình duyên qua 12 con giáp dựa trên tháng sinh của mình.   Sau đây là hôn nhân hợp duyên của nam và nữ theo tháng sinh của 12 con Giáp. Tháng sinh ở đây là tháng theo Âm lịch.
 

3. Xem bói tình duyên tuổi Dần: Hôn nhân người tuổi Dần theo tháng sinh


Người sinh tháng Giêng

  Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Thìn sinh tháng 9 hay tuổi Hợi sinh tháng 8.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Mão sinh tháng 9 hay tuổi Mùi sinh tháng 3.
 

Người sinh tháng Hai
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Tý sinh tháng 6 hay tuổi Dần sinh tháng 9.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Tị hay tuổi Tuất sinh tháng 3.  

Người sinh tháng Ba


Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Mão sinh tháng 1 hay tuổi Tuất sinh tháng 7.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Mão sinh tháng 5 hay tuổi Thân sinh tháng 2.
 

Người sinh tháng Tư
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Tị sinh tháng 2 hay tuổi Thân sinh tháng 10.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Tuất sinh tháng 6 hay tuổi Dậu sinh tháng 5.  

Người sinh tháng Năm
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Tuất sinh tháng 2.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Sửu sinh tháng 2 hay tuổi Tị sinh tháng 5.
 

Người sinh tháng Sáu
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Tý hay tuổi Sửu sinh tháng 10.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Mão sinh tháng 7 hay tuổi Mùi sinh tháng 2.  

Người sinh tháng Bảy
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Sửu sinh tháng 5 hay tuổi Dần sinh tháng 11.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi tuổi Mão sinh tháng 7 hay tuổi Mùi sinh tháng 2.
 

Người sinh tháng Tám
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Sửu sinh tháng 2 hay tuổi Hợi sinh tháng 5.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Mão sinh tháng 12 hay tuổi Thân sinh tháng 6.
 

Người sinh tháng Chín
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Tị sinh tháng 4 hay tuổi Mùi sinh tháng 10.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Tý sinh tháng 3 hay tuổi Dần sinh tháng 2.
 

Người sinh tháng Mười
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Mão sinh tháng 10 hay tuổi Hợi sinh tháng 2.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Thân sinh tháng 8 hay tuổi Tuất sinh tháng 10.  

Người sinh tháng Mười một
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Tý sinh tháng 11 hay tuổi Mùi sinh tháng 2.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Dần sinh tháng 7 hay tuổi Thìn sinh tháng 1.
 

Người sinh tháng Chạp
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Tý hay Thân sinh tháng 1.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Mão sinh tháng 2 hay Mùi sinh tháng 3. 

Bạn có thể xem thêm về tuổi Dần: TẠI ĐÂY
   
xem boi tinh duyen tuoi dan tuoi mao
 

4. Xem bói tình duyên tuổi Mão: Hôn nhân người tuổi Mão theo tháng sinh
 

Người sinh tháng Giêng 
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Mùi sinh tháng 8 hay tuổi Mão sinh tháng 12.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Tị sinh tháng 3.
 

Người sinh tháng Hai
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Dần sinh tháng 12 hay tuổi Thìn sinh tháng 8.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Sửu sinh tháng 9.
 

Người sinh tháng Ba
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Thân sinh tháng 6 hay tuổi Mùi sinh tháng 9.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Hợi sinh tháng 2.
 

Người sinh tháng Tư
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Tuất sinh tháng 1.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Sửu sinh tháng 4.  

Người sinh tháng Năm
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Thân sinh tháng 9.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Dần sinh tháng 3 hay tuổi Dậu sinh tháng 9.  
xem boi tinh duyen
 

Người sinh tháng Sáu


Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Mùi sinh tháng 10.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Dậu sinh tháng 3.  

Người sinh tháng Bảy
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Dần sinh tháng 6 hay tuổi Hợi sinh tháng 10.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Tý sinh tháng 7 hay tuổi Sửu sinh tháng 1.
 

Người sinh tháng Tám
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Sửu sinh tháng 5.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Tý sinh tháng 12.
 

Người sinh tháng Chín
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Dần sinh tháng 1 hay Dậu sinh tháng 2.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Tị sinh tháng 9.
 

Người sinh tháng Mười
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Mão sinh tháng 5.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Tị sinh tháng 4.
 

Người sinh tháng Mười một
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Tuất sinh tháng 8.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Tị sinh tháng 4.
 

Người sinh tháng Chạp
 

Đàn ông nên kết hôn với người phụ nữ tuổi Tuất sinh tháng 1 hay tuổi Dậu sinh tháng 3.
 
Phụ nữ nên kết hôn với người đàn ông tuổi Dần sinh tháng 10.

Bạn có thể xem thêm tuổi Mão: TẠI ĐÂY

Minh Minh 
 
  Xem bói tình duyên 12 con giáp: Tuổi Tý, tuổi Sửu
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tình duyên 12 con giáp: Tuổi Dần, tuổi Mão

Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Canh Ngọ

Tử vi trọn đời người sinh ngày Canh Ngọ thất thích hợp làm việc trong lĩnh vực học thuật hoặc nghệ thuật. Hôn vận của mệnh chủ kém, tình cảm dễ đi dễ đến.
Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Canh Ngọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi trọn đời người sinh ngày Canh Ngọ thất thích hợp làm việc trong lĩnh vực học thuật hoặc nghệ thuật. Hôn vận của mệnh chủ kém, tình cảm dễ đi dễ đến.


Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Canh Ngo hinh anh
 
Ngày Canh Ngọ tọa địa chi chính cung, tạo nên tính cách nhân - tín - trí. Đường đời mệnh chủ tất gặp Dậu Kim, nên kết hợp Ất Mùi. 
  Mệnh chủ ngày Canh Ngọ lương thiện, ôn hòa, do vậy họ có nhiều bạn bè, ít bị hiềm khích. Ngoài ra, trụ ngày Canh Ngọ thành thật, tôn trọng người xung quanh, luôn có cái nhìn khách quan đối với mọi việc. Cùng coi tử vi trọn đời của mệnh này:
2 điều Phật dạy cách hiếu thảo với mẹ cha tưởng dễ mà khó
Hiếu thuận với cha mẹ là nghiệp lành lớn nhất của đời người, là phúc báo mà Phật giáo khuyên nên làm nhất trên đời. Vậy, thế nào là hiếu thảo với cha mẹ? Có
Người sinh ngày Canh Ngọ làm việc có nguyên tắc riêng, nghiêm túc tuân thủ các quy định, vậy nên luôn nhân được sự công nhận của đồng nghiệp và cấp trên trong công việc. Họ cần có chí tiến thủ rõ ràng để đạt được thành tựu trong sự nghiệp. Mệnh chủ thích hợp làm việc trong lĩnh vực học thuật hoặc nghệ thuật.   Xem tử vi trọn đời người sinh ngày Canh Ngọ thấy hôn vận kém, tình cảm dễ đến dễ đi. Nam mệnh cả đời phong lưu, nhận được nhiều sự giúp đỡ từ vợ. Nữ mệnh long đong, khổ cực về chồng, điều này dễ dẫn đến hôn nhân không hạnh phúc, chuyện ly dị khó tránh khỏi.
Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Canh Ngo hinh anh 2
 
Bát tự trụ ngày Canh Ngọ thích hợp kết hôn với người sinh ngày: Giáp Dần, Giáp Thìn, Giáp Ngọ, Giáp Tuất, Ất Sửu, Ất MÃo, Ất Tỵ, Ất Mùi, Bính Thìn, Bính Ngọ, Bính Thân, Bính Tuất, Đinh Sửu, Đinh Tỵ, Đinh Mùi, Đinh Dậu, Mậu Thìn, Mậu Thân, Kỷ Mùi, Kỷ Dậu, Canh Tý, Canh Dần, CAnh Thân, Tân Hợi, Tân Mão, Tân Dậu, Nhâm Dần, Nhâm Thìn, Nhâm Tý, Quý Mão, Quý Hợi.
Tìm cách khai vận cho 12 chòm sao trong kỳ thi Quốc gia
=> ## cung cấp thông tin Tử vi trọn đời chuẩn xác theo Lịch vạn sự

Chi Nguyễn

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Canh Ngọ

Những con giáp bị ám ảnh trời nắng

Cô nàng tuổi Dần, tuổi Mão và tuổi Tỵ vì lo xa hay quá chăm chút cho nhan sắc mà trở nên ám ảnh, sợ hãi trời nắng gắt.
Những con giáp bị ám ảnh trời nắng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dưới cái nắng gay gắt của mùa hè, những nàng giáp này rất sợ phải đi ra ngoài. Trong trường hợp bất khả kháng, họ tự trang bị “đồ nghề” tối tân nhất nhằm tránh được ảnh hưởng của bức xạ mặt trời.

1. Cô nàng tuổi Dần

Bình thường, các nàng tuổi Dần đi đến đâu cũng dễ trở thành tâm điểm của mọi sự chú ý. Trước khi đi ra ngoài, con giáp này thường mất khá nhiều thời gian để chọn và phối đồ một cách tỉ mỉ. 

tuoi-dan-8769-1437979359.jpg

Mỗi khi hè về, khi phải đi ra nắng, người tuổi Dần không bao giờ quên trang bị những “vũ khí” cần thiết để chống chọi lại mức nhiệt quá cao như kem chống nắng, áo váy, mũ nón, kính bảo vệ… Nếu không có những đồ vật cần thiết này, họ rất sợ phải ra ngoài đường.

2. Cô nàng tuổi Mão

Khác với người tuổi Dần, lý do mà cô nàng tuổi Mão trang bị kín mít những món đồ bảo hộ khi ra đường chính là sợ bị đen da và hại sức khỏe. Với con giáp biết lo xa và chu đáo này, thời trang không quan trọng bằng thời tiết. Họ mặc gì, mặc gì đều có sự tính toán tỉ mỉ để bảo vệ sức khỏe cũng như dung nhan của mình.

3. Cô nàng tuổi Tỵ

Vốn không phải là tuýp người quá chú trọng hình thức bề ngoài, mọi việc làm của các nàng tuổi Tỵ chỉ tuân theo những quy tắc khoa học để có được cuộc sống yên bình và “dễ thở”. Do đó, bất kể trời nắng hay mưa, con giáp này đều chuẩn bị sẵn sàng những vật dụng cần thiết để đối phó tối ưu nhất. Điều đó giải thích tại sao họ lại kín mít từ đầu đến chân khi đi ra ngoài trời nắng. 

4. Cô nàng tuổi Ngọ

Dù được mệnh danh là “chân chạy” khắp đó đây, không ngại nắng mưa để được tung tăng bay nhảy bên ngoài bầu trời tự do nhưng dưới cái nắng gắt của ông mặt trời, các nàng tuổi Ngọ vẫn phải có chút “kiêng nể”.

tuoi-ngo-4298-1437979359.jpg

Nếu không trang bị kín mít, sau mùa hè, các nàng tuổi Ngọ sẽ lại buồn bực với làn da nâu đen lẫn lộn lại không hề mềm mịn tẹo nào. Để tránh tình trạng này, dù thích hay ghét, họ đều phải tuân thủ nguyên tắc kín mít như “khủng bố” khi ra ngoài đường dưới cái nắng như đổ lửa.

Mr.Bull (theo MGSP)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp bị ám ảnh trời nắng

Những kiêng kị cần biết trong ngày Tam nương sát

Không chỉ là tín ngưỡng, những kiêng kị trong ngày Tam nương cũng có những cơ sở khoa học nhất định.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong một tháng, luôn có 6 ngày Tam nương rơi vào những ngày mùng 3, mùng 7, 13, 18, 22 và 27 âm lịch. Tương truyền, những ngày này là ngày sinh và ngày mất của ba nàng "hồng nhan họa thủy" trong lịch sử nên mang đến nhiều điều xui xẻo. Còn người phương Tây lại cho rằng những ngày đó, mặt trăng sẽ di chuyển qua một “vùng trời” mới. Năng lượng xao động trong những ngày này ảnh hưởng đến toàn bộ sự sống trên trái đất, khiến nhiều người cảm thấy "khó ở".

Việc kiêng hay không kiêng, tránh hay không tránh ngày Tam nương là tùy tâm tín ngưỡng của một người. Với những người vẫn giữ quan niệm: "Có thờ có thiêng, có kiêng có lành", dưới đây là hai việc quan trọng nên tránh để khỏi chuốc lấy thất bại.

1. Không nên làm việc lớn

Trong ngày Tam nương, người ta thường tránh làm những khởi sự quan trọng như xuất hành, khai trương, động thổ xây nhà, cưới hỏi,…

Không chỉ là vấn đề duy tâm, trong Thiên Văn học hiện đại cũng chỉ ra rằng vũ trụ thường xuyên xảy ra những vụ va chạm giữa các thiên hà, làm phát sinh những bức xạ, những tia vũ trụ mà ảnh hưởng của nó đến trái đất là rất lớn, chi phối đời sống của sinh vật nói chung và con người nói riêng. Những ngày Tam nương chính là những ngày mặt trăng chuyển sang vùng mới. Vì vậy tránh ngày xấu cũng chính là tránh những thời điểm không tốt của sự vận động vũ trụ và khí quyển. 

 nhung kieng ki can biet trong ngay tam nuong sat - 1

2. Thận trọng khi đi ra ngoài đường

Năng lượng dao động làm con người bị ảnh hưởng không nhỏ. Thời tiết xấu sẽ làm cho con người ta khó chịu, cơ thể mất cân bằng, làm mọi việc kém minh mẫn và hiệu quả. Trái lại nếu thời tiết thuận lợi sẽ làm cho cơ thể khoẻ mạnh, trí não hưng phấn và là tiền đề cho mọi việc trôi trảy, đạt hiệu quả cao.

Do vậy, hãy thận trọng khi lái xe trong những ngày này để tránh tai nạn. Ngoài ra, hạn chế các chuyến leo núi, leo rừng,....

 nhung kieng ki can biet trong ngay tam nuong sat - 2
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những kiêng kị cần biết trong ngày Tam nương sát

Mãn nguyện khi ngủ mơ thấy lửa

Mơ thấy lửa có ý nghĩa gì? Lửa tượng trưng cho điềm lành, xóa tan mọi u ám, báo hiệu cho thấy bạn sẽ thoát ra khỏi những điều bực bội, khó chịu và gặt hái được
Mãn nguyện khi ngủ mơ thấy lửa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mơ thấy lửa có ý nghĩa gì? Lửa tượng trưng cho điềm lành, xóa tan mọi u ám, báo hiệu cho thấy bạn sẽ thoát ra khỏi những điều bực bội, khó chịu và gặt hái được nhiều thành công.


► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác

Nếu mơ thấy lửa đốt cháy khiến bạn bỏng, thường là điềm báo có vấn đề phiền não. Nhưng nếu chỉ mơ thấy lửa mà không bị thiêu đốt lại là điềm báo có tin tốt.
 
Mơ thấy dập tắt lửa hoặc thoát khỏi bị lửa thiêu, điềm báo cho biết bạn sẽ thành công, vượt qua được mọi trở ngại.
 
Mơ thấy ngọn lửa nhỏ lách tách trong lò sưởi, điềm báo bạn được thỏa ước nguyện, trong lòng cảm thấy ấm áp.
 
Mơ thấy đốt nhà hay đồ vật gì có giá trị, điềm báo bạn phải kiềm chế cơn giận, nếu không hãy chuẩn bị gánh lấy những hậu quả nghiêm trọng.

Man nguyen voi giac mo ve lua hinh anh
Ảnh minh họa
Mơ thấy một ngọn lửa trong lò cháy bừng bừng là điềm tốt, báo có hy vọng mới sau một thời gian thất vọng chán nản.
 
Mơ thấy lửa cháy bốc lên sáng cả nhà, thường là điềm thi đậu.
 
Mơ thấy lửa bốc cháy mùi nồng nặc, điềm báo bạn sắp phát tài.
 
Mơ thấy lửa cháy nhà mình, thường là điềm gia vận hưng vượng.
 
Mơ thấy mình chứng kiến tòa nhà cao ốc bị cháy, điềm báo sẽ có bạn thân hoặc bà con nài xin mình giúp đỡ.
 
Mơ thấy lửa cháy trên đồi thường là điềm có danh vọng.
 
Mơ thấy lửa cháy trên mặt nước, điềm báo mọi sự tốt lành.
 
Mơ thấy lửa cháy trên mặt sông, điềm báo gia đình vui vẻ.
 
Mơ thấy lửa cháy trên mặt trăng, mặt trời, là điềm được quý nhân giúp đỡ.
 
Mơ thấy lửa cháy trong lò, sẽ có hạnh phúc bất ngờ.
 
Mơ thấy ngọn lửa nhỏ sắp tắt thường là điềm có chuyện buồn lo.
 
Mơ thấy lửa đỏ mà không cháy, điềm báo bạn sẽ thắng được kẻ muốn ám hại mình.
 
Mơ thấy lửa sáng rực, là điềm tài lợi vào nhà.
 
Mơ thấy đám cháy trước mặt mình, thường là điềm tình duyên gặp trở ngại, có ai đó muốn ngăn cản hai bạn đến với nhau.
 
Mơ thấy cháy nhà mà bạn thoát ra được, điềm báo thoát được cạm bẫy trong tình trường.
 
Mơ thấy cháy nhà mình nhưng dập tắt được bằng nước: nếu nước có vòi, là điềm báo tình duyên có kết thúc có tốt đẹp; nếu nước lan rộng áp đảo được lửa, là điềm tình duyên đầm ấm.
 
Mơ thấy nước từ sông rạch dâng lên, tràn vào đám cháy, mang ý nghĩa điềm hạnh phúc đến nhà.
 
Mơ thấy cháy rừng, điềm báo làm ăn thịnh vượng.

Theo Giải mã giấc mơ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mãn nguyện khi ngủ mơ thấy lửa

Những câu nói hay về nụ cười mang lại niềm vui trong cuộc sống

Những câu nói hay về nụ cười mang lại niềm vui trong cuộc sống. Cuộc sống như một tấm gương vậy nếu bạn cau mày thì nó cũng cau mày
Những câu nói hay về nụ cười mang lại niềm vui trong cuộc sống

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những câu nói hay về nụ cười mang lại niềm vui trong cuộc sống. Cuộc sống như một tấm gương vậy nếu bạn cau mày thì nó cũng cau mày, bạn mỉm cười nó sẽ mỉm cười với bạn vì thể hãy đừng cau mày nữa hãy luôn nở nụ cười để cuộc sống này tươi đẹp hơn.

Với những câu nói hay về nụ cười trong bài viết dưới đây bạn sẽ hiểu hết lợi ích của nụ cười trong bộ bề cuộc sống này.

Những câu nói hay về nụ cười mang lại niềm vui trong cuộc sống

Mỗi lần bạn mỉm cười với một người, thì đó là một hành động của tình yêu, một món quà cho người đó và là một điều tốt đẹp Mother Teresa

—-

Tôi đã mỉm cười ngày hôm qua. Tôi đang mỉm cười ngày hôm nay và khi ngày mai đến, tôi sẽ mỉm cười. Vì đơn giản, cuộc sống quá ngắn để ta khóc về mọi thứ Santosh Kalwar

—-

Bạn sẽ tìm thấy giá trị đích thực của cuộc sống, nếu như bạn nở một nụ cười Charles Chaplin

—-

Cuộc sống như một tấm gương, bạn cau mày thì nó cũng cau mày lại với bạn, hãy mỉm cười… nó cũng sẽ mỉm cười với bạn Herbert Samuels

Nụ cười luôn thường trực trên môi tôi, nó sẽ không bao giờ chết. Tôi đang đứng đây với nó để chờ đợi bạn, cho đến khi bạn ở bên tôi Freida Martinez

Bạn sẽ không bao giờ thấy nuối tiếc với những điều ý nghĩa đã làm bạn mỉm cười Bei Maejor

Hãy lấy nụ cười của chúng ta để thay đổi thế giới, nhưng đừng để thế giới thay đổi nụ cười của chúng ta.
Một nụ cười có thể làm bừng sáng một ngày đen tối nhất.
Mỗi người trong chúng ta đều có một vết thương lòng, một số người giấu trong đôi mắt, một số khác lại giấu nó trong nụ cười Nylle

Một nụ cười là khoảng cách ngắn nhất giữa hai tâm hồn.
Nếu bạn chỉ có duy nhất một nụ cười hãy dành nụ cười đó cho những người bạn yêu thương Maya Angelou.

Cô ấy cười không có nghĩa là cô ấy hạnh phúc. Cô ấy cười vì cô ấy đang tràn ngập hy vọng, niềm tin và sự mạnh mẽ.
Hãy để chúng ta gặp nhau với nụ cười rạng rỡ trên môi, nụ cười là sự khởi đầu của tình yêu Mother Teresa

Hãy bắt đầu một ngày mới với nụ cười, ít ra nó cũng là một sự khởi đầu tốt đẹp

Nụ cười là chiếc chìa khóa duy nhất mở được trái tim của người khác.

Phương thuốc tốt nhất trên thế giới này mà không có các tác dụng phụ khác đó là nụ cười. Tôi mong rằng thứ thuốc hữu hiệu ấy luôn luôn có trong bạn.

Đôi khi bạn phải luôn phải mỉm cười, hãy nghĩ rằng: mọi thứ rồi sẽ ổn, gạt đi nước mắt và hãy tiếp tục bước đi.

Mỉm cười và hãy cho mọi người thấy rằng bạn đã trở thành một người mạnh mẽ hơn bạn của ngày hôm qua.

Hãy luôn hạnh phúc bởi bạn sẽ không bao giờ biết rằng có những người đã yêu nụ cười của bạn mất rồi!

Đôi khi nụ cười được bắt nguồn từ những niềm vui, nhưng có lúc niềm vui có được là nhờ nụ cười Thích Nhất Hạnh

Hãy đếm tuổi của bạn bằng số bạn bè chứ không phải số năm. Hãy đếm cuộc đời bạn bằng nụ cười chứ không phải bằng nước mắt John Lennon

Hãy cười, thậm chí dù đó là nụ cười buồn bã, bởi còn đáng buồn hơn nụ cười buồn bã là sự bi thảm vì không biết phải cười thế nào.

Để thật sự cười, anh phải có thể lấy nỗi đau của mình ra và “chơi” với nó! Charlie Chaplin.

Trèo cao ngã đau, trèo thấp ngã cũng đau.

Không bao giờ bán đứng bạn bè khi chưa được giá.

Đời là bể khổ mà chúng sanh thì thường… không biết bơi!

Có công mài sắt có ngày… chai tay.

Khả năng là vô hạn, thủ đoạn là vô biên.

Điếm nhất thế gian
Gian nhất thế giới.
Yêu cho đến chết, lết thì hết yêu.

Dù bạn không trắng nhưng người khác vẫn phải kiếm tìm.

Một lần ngã là một lần… đau!

Từ đôi bàn tay trắng, tui tạo nên… vô số nợ.

Có khi nào trên đường đời tấp nập
Tôi vô tình vấp phải xấp đô la.

Thuận vợ thuận chồng… con đông mệt quá.

Đẹp trai, nhà giàu, có… xe đạp riêng.

Quýnh nhau là tinh thần thể thao
Đạp nhau xuống ao là tinh thần bơi lội.

Hồng Nhan Bạc Triệu.

Không phải ai xăm mình cũng xấu, nhưng những người xấu đều xăm mình.

Cây nghiêng không sợ… chết đứng.

Bình tĩnh tự tin không cay cú
Âm thầm chịu đựng trả thù sau.

Thằng cho vay là thằng dại.
Thằng trả lại là thằng ngu!

Mập đẹp, ốm dễ thương, cao sang, lùn quý phái, bình thường mới… thấy ghê.

Sông Cầu nước chảy loanh quanh
Rượu uống thì ít nước canh thì nhiều.

Làm thì lương tâm bị cắn rứt, nhưng không làm thì lương tháng bị cắt đứt.

Bố mẹ cho tiền ăn học, không học được thì cố mà ăn thôi.

Cả đời em làm gì cũng chậm, mỗi cái cần chậm thì lại nhanh.

Bờ ao có con chuồn chuồn
Mắt nó rất buồn nhưng mặt nó vui.

Ai bảo chăn trâu là khổ
Tôi chăn nàng còn khổ hơn chăn trâu.

Học hành thì ấm vào thân
Ði ngủ thì ấm từ chân lên đầu.

Yêu ai cứ để trong lòng
Yêu thêm vài đứa đề phòng rủi ro.

Tài năng có hạn
Khốn nạn vô cùng.

Ra đường thấy vịt cũng lùa
Thấy duyên cũng bén
Thấy chùa cũng tu!

Đất lành chim đậu. Ðất không lành đất… nhậu chim luôn!

Chim khôn chọn cây lành mà đậu
Gái khôn kiếm chồng nhậu mà nhờ.

Việc hôm nay hãy… để ngày mai.

Yếu dùng mưu
Ngu dùng sức.

Và để xua tan cái mệt nhọc sau những giờ làm việc căng thẳng hãy truy cập vào Xemnoituong.com bạn sẽ được chia sẻ về những câu nói hài hước nhất trong cuộc sống nhé. Và sẽ mang lại cho bạn một ngày mới tràn đây lạc quan.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu nói hay về nụ cười mang lại niềm vui trong cuộc sống

Có nên quan hệ trong đêm giao thừa?

Lòng người rộn ràng, không khí háo hức tưng bừng là lý do nhiều lứa đôi chọn thời điểm này để quan hệ trong đêm giao thừa. Tuy nhiên có nên
Có nên quan hệ trong đêm giao thừa?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lòng người rộn ràng, mừng vui, không khí háo hức tưng bừng, đất trời thiêng liêng, tươi đẹp là lý do nhiều lứa đôi, nhất là những cặp vợ chồng trẻ, chọn thời khắc giao thời ấy để "xông giường".
 

Hái lộc đầu năm dễ rước “vong” vào nhà? Nghi lễ cúng giao thừa ngoài trời: Nhà chung cư có nhất thiết phải tiến hành? Theo quan niệm của nhiều người, Tết cổ truyền là những ngày thiêng liêng nhất trong suốt một năm. Cùng rất nhiều quan niệm kiêng kỵ, “chuyện ấy” cũng được liệt vào “danh sách đen”, tối kỵ trong những ngày đầu năm. Tuy nhiên, nhiều người có cái nhìn tân tiến hơn lại cho rằng, “yêu” trong thời gian đất trời chuyển giao từ năm cũ sang năm mới, trong tiếng nhạc mừng vui đón giao thừa sẽ khiến đời sống vợ chồng thực sự thăng hoa.  
Co nen quan he trong dem giao thua hinh anh
 

Tối kỵ “yêu” ba ngày Tết

  Theo quan niệm của nhiều người, ngày rằm, mùng 1 và đặc biệt là những ngày Tết cổ truyền là thời gian cấm chuyện chăn gối vợ chồng. Theo đó, Tết là quãng thời gian thiêng liêng, là lúc tổ tiên, ông bà về nhà đoàn tụ với con cháu. Chính vì thế, trong nhà có người làm “chuyện ấy” sẽ khiến cả không gian thành kính bị uế tạp, là bất kính với “người trên”. Đặc biệt, những người theo đạo Phật thường lên chùa thắp hương những ngày này lại càng khắt khe hơn. Theo thời gian, tư tưởng ấy đã ăn sâu vào nếp nghĩ, vào hành động của nhiều người.   Cuốn Tố Nữ kinh (một cuốn sách nói về nghệ thuật ân ái của Trung Quốc) cũng cho rằng, nên “ngủ chay” trong những ngày này. Nếu phạm phải, người nam sẽ ảnh hưởng lớn đến sức khỏe. Sách này giải thích: “Phạm vào cấm kỵ này, con cái sinh ra sẽ bị thương tổn còn người nam thì không còn cương dương lên được. Trong cơ thể lúc đó, lửa dục thiêu đốt tâm can làm cho nước tiểu có máu đỏ hay vàng sẫm, nhiều khi còn bị di tinh”.  

"Xông giường” đêm giao thừa mới thăng hoa

  Trái ngược với những suy nghĩ và quan niệm trên, không ít cặp vợ chồng lại cho rằng, quan hệ trong đêm giao thừa, tức là thời điểm thiêng liêng nhất, chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, sẽ khiến cuộc “yêu” thêm thăng hoa. Thời điểm đó sẽ đảm bảo cả ba tiêu chí: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Tức là lòng người thì rộn ràng, mừng vui, quên hết giận hờn mà yêu nhau thắm thiết, không khí thì háo hức tưng bừng, đất trời cũng thiêng liêng, tươi đẹp. Bởi thế, nhiều lứa đôi, nhất là những cặp vợ chồng trẻ, chọn cho mình thời khắc giao thời ấy để “khai tình, xông giường”.   “Có rất nhiều người quan niệm, chuyện yêu ngày đầu năm mới sẽ lợi bất cập hại. Tuy nhiên, năm nào cũng vậy, chúng tôi thường chọn thời khắc đầu năm để xông giường. Chẳng biết có phải vì thế mà cuộc sống vợ chồng suốt cả năm luôn ngọt ngào, mỹ mãn không. Nhưng điều chắc chắn rằng, yêu đêm giao thừa mang lại cảm xúc rất mới mẻ”, anh Nguyễn Viết Trung (Đồng Nai) tâm sự.
Co nen quan he trong dem giao thua hinh anh 2
 
  Theo các chuyên gia, rất khó để khẳng định, “yêu” vào thời điểm đầu năm là tốt hay không tốt. Bởi thực tế, đêm ân ái đầu năm cũng là cơ hội để các cặp đôi làm mới mình, cải thiện sự nhàm chán, đơn điệu trong quan hệ tình dục, nhất là những cặp vợ chồng kết hôn nhiều năm.   Thậm chí, không ít cặp vợ chồng suốt cả năm trời thường xuyên “cơm chẳng lành canh chẳng ngọt”, nhân ngày đầu năm không khí vui tươi, lòng người phơi phới, “chuyện yêu” sẽ khiến cảm xúc thăng hoa, mọi khúc mắc vợ chồng cũng vì thế mà được gỡ bỏ. Thế nên, chuyện "yêu" lúc này không chỉ là sự đồng điệu về xúc cảm mà còn là mối dây gắn kết tâm hồn hai người.   Tuy nhiên, bên cạnh cái thuận, việc “yêu” trong thời gian này cũng phải đối mặt với không ít “cái nghịch”. Cả chục ngày dồn sức cho công việc cơ quan, sau đó lại chạy đôn chạy đáo chuẩn bị Tết, tất bật với dọn dẹp nhà cửa khiến sức khỏe của hai vợ chồng giảm sút. Chưa kể, không ít quý ông sa đà với tiệc rượu mừng tất niên, ảnh hưởng không nhỏ đến “cuộc yêu”. Người xưa đã có câu “tửu hậu cấm dục”, nghĩa là sau khi uống rượu say không được sinh hoạt tình dục.   Đặc biệt, vào thời khắc canh năm là quãng thời gian trước bình minh. Nếu “yêu” vào lúc này, hai bên sẽ không được nghỉ ngơi và sẽ làm cho cơ thể mất đi cân bằng, giảm sức đề kháng.   “Dù trong thời gian nào, chuyện ấy chỉ thực sự thăng hoa khi cả hai người đủ sức khỏe. Vì thế, để quan hệ vợ chồng trở nên ngọt ngào hơn trong thời gian này, không nên ăn quá no, uống quá say, tâm trạng phải hoàn toàn thoải mái mới mong cuộc yêu thêm trọn vẹn”, vị chuyên gia nhấn mạnh.
► Mời các bạn xem thêm: Những phong tục kì lạ, hấp dẫn trên thế giới

Theo Gia đình & Cuộc sống 9 điều kiêng kị phong thủy phòng ngủ để có cuộc sống hôn nhân viên mãn 5 mẹo phong thủy vượng phu khiến chồng càng ngày càng yêu
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có nên quan hệ trong đêm giao thừa?

Những màu sắc nhà bếp giúp tinh thần thêm phần phấn chấn

Làm thế nào để khi đi làm về dù mệt mỏi bạn vẫn thích vào bếp chuẩn bị bữa tối?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi chúng ta đều cảm nhận được màu sắc theo những cách khác nhau và mỗi người lại có 1 sở thích riêng để trang trí nhà bếp theo ý thích. Tuy nhiên, có một điều bất ngờ là khi một số màu sắc tưởng là u ám và tối nhưng lại có thể làm cho chúng ta cảm thấy tuyệt vời hơn.


Nhà bếp quyến rũ hơn khi được trang trí thêm màu vàng nhũ cho một số đồ vật vốn đơn giản. Ngoài ra, có rất nhiều phương pháp để tạo điểm nhấn với gam màu này giúp căn bếp thêm phần thú vị hơn chỉ là để nấu ăn.


Mọi người thường e ngại khi sử dụng thép không gỉ vì trông nó có vẻ công nghiệp quá nhưng một khi bạn kết hợp chúng với các màu sắc tinh tế và đẹp mắt như màu trắng, xám hoặc đen sẽ giúp không gian nhà bếp trở nên độc đáo hơn.


Màu đen không phải là gam màu tươi tắn gì nhưng lại khiến cho nhà bếp trông rất phong cách. Tùy thuộc vào sở thích của mình để chọn lựa màu sắc, tuy nhiên, đừng vội bỏ qua màu đen vì nó sẽ góp phần tạo nên vẻ thanh lịch và sang trọng cho góc yêu thích của các bà nội trợ này.


Một số màu sắc như đỏ tía thường khó hài hòa với các không gian khác trong nhà. Nhìn qua thì chúng thường mang vẻ cũ kĩ tuy nhiên một khi bạn là người yêu thích phong cách vintage hay truyền thống thì đừng bỏ qua gợi ý này. Màu này sẽ đẹp hơn khi kết hợp với các chi tiết màu bạc và vàng. Những phụ kiện kim loại sáng bóng sẽ mang lại vẻ sự tinh tế cá tính hơn cho nhà bếp có tông màu đỏ tía chủ đạo.


Màu lam ngọc thực sự rất đẹp và hợp để làm tông màu chủ đạo cho nhà bếp phong cách sang chảnh. Vẻ huyền bí của căn bếp màu này kết hợp với các chi tiết màu vàng kim loại giúp cho những thiết kế kiểu này trông hoàn hảo và sang trọng hơn bao giờ hết.


Đôi khi màu xám đen này lại được chọn là màu chủ đạo cho thiết kế để vẻ ngoài độc đáo của nó mới thực sự gây ấn tượng mạnh tới cảm xúc của gia chủ.


Căn bếp màu trắng luôn mang lại cho bạn những cảm xúc vô cùng tuyệt vời vì mỗi lần vào bếp bạn sẽ cảm nhận được điều gì đó tươi mới, thuần khiết như đang vây quanh mình. Để ấn tượng hơn, hãy thử thay đổi màu sắc ánh sáng theo tâm trạng như xanh lá cây hoặc xanh nước biển. bạn sẽ bất ngờ vì những hiệu ứng ánh sáng này.


Nếu bạn muốn nhà bếp của bạn có cảm giác thoải mái, gần gũi và ấm cúng hãy sử dụng gỗ. Vẻ đẹp tự nhiên từ gỗ khiến từng đồ vật trong bếp trở nên độc đáo và lung linh hơn.


Đôi khi, bạn không cần phải sử dụng gỗ ở khắp mọi nơi trong nhà bếp mới được xem là ấm cúng. Trong thực tế, một vài điểm được ốp gỗ là đủ, không những thế cách này còn mang lại sự tương phản rất thanh lịch và đẹp mắt.


Màu trung tính là một lựa chọn tối ưu nếu bạn muốn thích vẻ thân thuộc, gần gũi của nó hơn là sự thể hiện cá tính riêng. Bạn có thể tạo điểm nhấn cho căn bếp bằng những màu sắc nổi bật của những phụ kiện trong bếp.


Màu sắc còn cần phù hợp với phong cách của nhà bếp. Ví dụ, một nhà bếp mộc hoặc đơn sơ như thế này lại cần đồ vât mang vẻ cổ điển có màu như xanh khói, gỗ tự nhiên hoặc màu be.


Một nhà bếp hiện đại phù hợp với sự kết hợp với màu sắc đậm như màu cam hoặc màu vàng. Sự kết hợp của màu xám và màu vàng là sự lựa chọn khá phổ biến trong xu hướng hiện nay. Những màu sắc này làm cho nhau nổi bật một cách tuyệt vời mang lại sự vui vẻ và tươi sáng nhưng không kém phần bí ẩn.


Với nhà bếp dạng trong suốt thì không cần phải chọn lựa màu sắc gì quá đặc biệt. Tuy nhiên, hãy làm sàn nhà bằng màu sắc yêu thích vì chúng sẽ được phản quang lên mặt gương của nhà bếp.


Nhà bếp sang trọng mang phong cách đồng quê thường được trang trí gam màu trung tính. Tuy nhiên, bạn có thể trồng cây xanh, hoa cỏ trong chậu nhỏ để tạo sự tương phản đẹp mắt này.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những màu sắc nhà bếp giúp tinh thần thêm phần phấn chấn

Kỳ lạ giấc mơ về ngón tay, ngón chân

Trong giấc mơ của bạn xuất hiện những ngón tay, điều này biểu tượng cho tài khéo léo của bản thân khi vận dụng đôi tay vào những công việc cụ thể. Đó cũng có
Kỳ lạ giấc mơ về ngón tay, ngón chân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

thể là cách thức giao tiếp không bằng mà lời bằng hành động.

  Nếu bạn mơ thấy những ngón tay của mình rơi xuống, điều này ám chỉ rằng bạn đang chế ngự hoặc sai khiến người khác. Có thể bạn mất đi sự am hiểu về cuộc sống vốn xô bồ và nhộn nhịp bên ngoài.   Mơ thấy những ngón tay của mình bị thương hoặc bị chặt đứt, biểu thị rằng bạn lo lắng về khả năng của bản thân trong việc thực thi mệnh lệnh hoặc trong hoàn cảnh nào đó.

Ky la giac mo ve ngon tay, ngon chan hinh anh
Ảnh minh họa
  Mơ thấy một ngón tay chỉ vào bạn, nghĩa là bạn đang tự khiển trách mình.   Mơ thấy ngón tay út, tượng trưng cho sức mạnh tinh thần, trí thông minh và khả năng giao tiếp.   Mơ thấy ngón tay trỏ ám chỉ bạn là người có quyền lực.   Mơ thấy ngón tay giữa, biểu thị cho tính chăm chỉ, thận trọng, thực tế và tinh thần dám làm dám chịu.    Mơ thấy ngón áp út, tượng trưng cho sự thành công, tính đại chúng và khả năng sáng tạo. Ngón này còn thể hiện sự hòa hợp trong hôn nhân.
 
Thấy những ngón chân của bạn trong mơ, tượng trưng cho thái độ của bạn trước cuộc đời. Đó có thể là niềm lạc quan, sự tự tin và ý chí phấn đấu vươn lên trong cuộc sống hoặc ngược lại.   Ngoài ra, ngón chân cũng có thể tượng trưng cho từng khía cạnh nhỏ của cuộc sống và cách bạn giải quyết chúng ra sao.   Mơ thấy những móng chân của bạn đang mọc, biểu tượng cho sự hiểu biết của bản thân bạn được mở rộng một cách đặc biệt.   Mơ thấy bạn làm tổn thương những ngón chân của chính mình hoặc có một cục chai hay bị trầy xước trên đó, ám chỉ rằng bạn đang lo lắng về việc tiến lên phía trước như thế nào.   Mơ thấy ai đó đang hôn ngón chân bạn, ám chỉ rằng họ đang cố đoán chắc và xác nhận lần nữa sự tiến bộ của bạn.
Theo Bí ẩn điềm chiêm bao

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kỳ lạ giấc mơ về ngón tay, ngón chân

Vật phẩm phong thủy cầu tài lộc –

Ngoài Tỳ Hưu và Thiềm Thừ – hai linh vật phong thủy đứng đầu về khả năng chiêu tài khí, tạo may mắn về tài lộc trong kinh doanh, thì bên cạnh đó vẫn còn những vật phẩm phong thủy khác được cho là rất linh thiêng trong việc nâng cao vận khí về tài lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nội dung

  • 1 như sau:
  • 2 5. Cá chép – Mở rộng đường khoa bảng, công danh
  • 3 6. Ngựa – Biểu tượng cho kinh doanh phát đạt
  • 4 7. Thuyền buồm – Công việc làm ăn thuận buồm xuôi gió
  • 5 8. Voi – Linh vật hút tài lộc số một

như sau:

5. Cá chép – Mở rộng đường khoa bảng, công danh

Truyền thuyết kể rằng: “Vào một năm nọ, nạn hạn hán hoành hành vì số Rồng quá ít, không đủ làm mưa điều hoà cho cả nhân gian. Ngọc Hoàng thượng đế liền tổ chức một cuộc “Thi Rồng” nhằm tuyển chọn các con vật đủ khả năng, phẩm chất làm Rồng cứu nhân độ thế. Khi chiếu Trời ban xuống, vua Thuỷ Tề loan báo cho tất cả các cư dân dưới nước tham gia vào cuộc thi. Cuộc thi có ba kì. Mỗi kì vượt qua một đợt sóng. Con vật nào đủ sức, đủ tài, vượt được cả ba đợt thì mới được hóa Rồng.

20chepnhat

Trong một tháng trời, đại diện của bao nhiêu loài thuỷ tộc đến thi đều bị loại cả vì không con nào vượt được cả ba đợt sóng. Sau có cá Rô nhảy qua được một đợt nhưng cũng bị rơi ngay. Rồi đến Tôm nhảy qua được hai đợt, ruột, gan, vây, vẩy, râu, đuôi, đã gần hoá Rồng, nhưng đến lượt thứ ba vì sức đã đuối nên bị ngã xuống, khiến lưng còng lại đến tận ngày nay.

Đến lượt Cá Chép vào thi thì gió thổi ào ào, mây kéo ầm trời. Chép ta vượt luôn một hồi qua ba đợt sóng, và lọt vào cửa Vũ môn. Khi đó, Cá Chép được hoá thân, vẩy, đuôi, râu, sừng mọc ra, vóc dáng bỗng trở nên oai linh, giống hệt thần Rồng. Sau khi hoá Rồng, Chép phun nước làm gió táp, mưa sa, cứu độ muôn loài thoát khỏi hạn hán, sự sống hồi sinh”.

Vì vậy, Cá Chép được coi như một biểu tượng cực kỳ may mắn. Nên nếu nhà có trẻ nhỏ bắt đầu đi học, nên tìm mua một con Cá Chép phong thủy bằng ngọc hoặc đồng để cầu may mắn thuận lợi cho bé trong con đường học hành, thi cử.

Theo học thuyết Phong Thủy, sự kích hoạt cho dòng “Thủy” tại căn nhà nơi ta sinh sống là một trong những điều tối quan trọng. Trong khi đó, Cá Chép được cho là linh vật số 1 trong việc kích thích “nguồn Thủy” tại nơi nó trấn giữ.

Vì thế mà người đời cho rằng Cá Chép đem đến vận may, hoá giải sát khí, bệnh tật và tai hoạ. Cá Chép nếu để trong nhà sẽ mang lại sự may mắn, thịnh vượng, còn để ở bàn làm việc sẽ mang lại thành công sự nghiệp, thăng quan tiến chức.

6. Ngựa – Biểu tượng cho kinh doanh phát đạt

Ngựa là con vật rất trung thành, không những thế ngựa còn là hình ảnh của sự kiên nhẫn, bền bỉ, may mắn và thuận lợi. Người xưa cũng thường dùng ngựa để chúc tụng nhau trong hành sự hay làm ăn, ví dụ như: “Mã đáo thành công”.

Một trong những biểu tượng Ngựa Phong Thủy thường thấy là hình ảnh Ngựa phi nước đại (hay “Lộc Mã”). Biểu tượng này tượng trưng cho sự phát đạt trong kinh doanh, sự nhanh nhạy và tăng tiến trong tiền tài. Ngựa phi nước đại còn hàm ý về sự đi xa, nên rất thích hợp cho những người hay đi công tác lâu ngày hoặc bôn ba đây đó. Đây là một vật khí không thể thiếu cho những doanh nhân thường xuyên đi xa. Trong trường hợp này, nên đặt ngựa ở hướng Tây, Tây Bắc hoặc Đông Bắc để tăng cường cát khí cho các sao tốt ở các hướng này.

2_KYJG

Ngoài ra, chúng ta cũng thường nhìn thấy biểu tượng Ngựa kéo của cải. Với biểu tượng này, Ngựa sẽ đem của cải về nhà, tiền của vào như nước. Vì vậy, nên đặt Ngựa kéo của cải ở phòng khách, bàn làm việc và chú ý quay đầu ngựa vào phía trong nhà.

Nhiều người cũng quan niệm bày Ngựa Phong Thủy trên bàn làm việc, bàn học hoặc tại vị trí của huyệt tài vị trong nhà, hướng đầu ngựa ra cửa chính hoặc cửa sổ sẽ đem lại Đại Cát.

Đối với những ai thích dùng Ngựa Phong Thủy, xin được mách một vài điểm lưu ý như sau:

•Người tuổi Tý tránh dùng biểu tượng hay tranh ảnh ngựa.

•Không được đặt ngựa trong bếp, trong nhà tắm.

•Nếu đặt nhiều con ngựa, thì Tam mã – 3 con, sẽcó tác dụng phát huy Thổ khí trong “Vận Tám” nên còn có tác dụng bổ trợ phong thủy cho văn phòng. Lục mã – 6 con, thì rất tốt cho việc sinh tài lộc. Bát mã – 8 con phi nước đại tượng trưng cho sao Bát Bạch rất vượng khí, nên sẽ đem lại nguồn tài lộc dồi dào, vô tận cho gia chủ.

•Ngựa không được dùng trong việc hóa giải sát khí.

•Dùng Ngựa Phong Thủy khi bạn đang cầu mong tài lộc, phát đạt trong kinh doanh, tăng tiến về tiền tài, và các dự án được hoàn thành sớm trước dự kiến.

7. Thuyền buồm – Công việc làm ăn thuận buồm xuôi gió

Theo phong thủy, thuyền buồm được xem là biểu tượng của thành công trong kinh doanh. Bởi vì nó tượng trưng cho Gió (một trong hai yếu tố quan trọng nhất của Phong Thủy – gió, nước), mang lại nhiều cuộc giao dịch kinh doanh tốt đẹp và thu được nhiều lợi nhuận. Sau biểu tượng rồng, hình ảnh thuyền buồm là biểu tượng được giới doanh nhân Trung Quốc ưa chuộng nhất.

lbj1373274469

Để kích hoạt vận may trong kinh doanh, bạn hãy đặt một chiếc thuyền buồm trên bàn làm việc hay gần cửa ra vào sao cho chiếc thuyền di chuyển theo hướng đi vào bên trong văn phòng, công ty.

Không nên để thuyền buồm hướng ra ngoài cửa, vì như thế nó lại mang ý nghĩa là thuyền buồm mang tiền bạc ra khỏi nhà.

Trong phong thủy, thuyền buồm lộng gió chở đầy vàng đến cho bạn được xem là thuận lợi nhất. Do đó, bạn có thể mua thuyền buồm rồi chất đầy trong lòng thuyền những nén vàng và tiền xu cổ Trung Quốc, sau đó đặt vào những vị trí như đã nêu trên.

8. Voi – Linh vật hút tài lộc số một

Voi là con vật hay giúp đỡ con người. Ngay cả trong Phật giới cũng có thờ Thần Đầu Voi. Truyền thuyết cho rằng voi được sinh ra từ các mảnh vụng tan ra của sao Dao Quang. Vì thế, voi được coi là loài vật vô cùng linh thiêng. Mặt khác, voi là loài vật to lớn mạnh mẽ, nên bày voi trong nhà, thì vận nhà được bình ổn, người trong nhà làm ăn thuận lợi.

1363598483-voi-2

Với Voi đồng hoặc đá thì tác dụng chính của nó là Hút Tài Lộc, nhất là nhà mà mở cửa, cửa sổ nhìn thấy ao, hồ, sông, biển thì càng có hiệu quả cao.

Với Voi bằng gồm sứ, thường được dùng để hóa giải các cấu trúc nặng nề như dầm nhà , xà nhà đè xuống.

Thủy là biểu tượng của tiền của, nếu đặt một con voi đồng hoặc đá cỡ vừa trong nhà với dụng ý “hút Thủy” thì đại tài, tiểu tài sẽ đến, trong nhà luôn có điềm lành. Còn nếu đặt ở nơi có tài vị thịnh, thì cả nhà được lộc cát lâu bền.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vật phẩm phong thủy cầu tài lộc –

Khoảng cách giữa các ngón tay tiết lộ bạn cởi mở hay khép kín

Rất đơn giản, bạn chỉ cần xòe bàn tay và xem khoảng cách giữa các ngón tay là rộng hay hẹp thôi nhé!
Khoảng cách giữa các ngón tay tiết lộ bạn cởi mở hay khép kín

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

khoang-cach-giua-cac-ngon-tay-tiet-lo-ban-coi-mo-hay-khep-kin

A

Khoảng cách lớn

B

Khoảng cách nhỏ

C

Không có khoảng cách

Mộc Trà (theo Quiz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khoảng cách giữa các ngón tay tiết lộ bạn cởi mở hay khép kín

Chọn hướng cửa hàng hợp mệnh gia chủ

Cần căn cứ vào tuổi của chủ nhà để chọn hướng cửa hàng đúng phong thủy.
Chọn hướng cửa hàng hợp mệnh gia chủ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Tý
- Kỵ tọa Nam (Mùi sơn) hướng Bắc
- Hướng tốt: tọa Đông hướng Tây, tọa Bắc hướng Nam, tọa Tây hướng Đông.

Người tuổi Sửu
- Kỵ tọa Đông (Thìn sơn) hướng Tây
- Hướng tốt: tọa Bắc hướng Nam, tọa Tây hướng Đông, tọa Nam hướng Bắc.

Người tuổi Dần
- Kỵ tọa Bắc (Sửu sơn) hướng Nam, tọa Tây (Trung sơn) hướng Đông.
- Hướng tốt: tọa Đông hướng Tây, tọa Nam hướng Bắc, tọa Bắc hướng Đông.

Mệnh gia chủ và hướng cửa hàng quyết định sự thành bại của việc kinh doanh

Người tuổi Mão
- Kỵ tọa Tây (Dậu sơn) hướng Đông
- Hướng tốt: tọa Bắc hướng Nam, tọa Nam hướng Bắc, tọa Đông hướng Tây.

Người tuổi Thìn
- Kỵ tọa Nam (Mùi sơn) hướng Bắc
- Hướng tốt: tọa Tây hướng Đông (trừ tọa Tây hướng Tuất), tọa Bắc hướng Nam, tọa Đông hướng Tây.

Người tuổi Tỵ
- Kỵ tọa Tây (Thìn sơn) hướng Đông
- Hướng tốt: tọa Nam hướng Bắc, tọa Bắc hướng Nam.

Người tuổi Ngọ
- Kỵ tọa Bắc (Tý sơn) hướng Nam
- Hướng tốt: tọa Đông hướng Tây, tọa Tây hướng Đông, tọa Nam hướng Bắc.

Người tuổi Mùi
- Kỵ tọa Tây (Tuất sơn) hướng Đông
- Hướng tốt: tọa Bắc hướng Nam, tọa Nam hướng Bắc, tọa Đông hướng Tây.

Người tuổi Thân
- Kỵ tọa Nam (Mùi sơn) hướng Bắc
- Hướng tốt: tọa Bắc hướng Nam, tọa Đông hướng Tây, tọa Tây hướng Đông.

Người tuổi Dậu
- Kỵ tọa Đông (Thìn sơn) hướng Tây
- Hướng tốt: tọa hướng Bắc hướng Nam, tọa Nam hướng Bắc, tọa Tây hướng Đông.

Người tuổi Tuất
- Kỵ tọa Bắc (Sửu sơn) hướng Nam
- Hướng tốt: tọa Nam hướng Bắc, tọa Tây hướng Đông, tọa Đông hướng Tây.

Người tuổi Hợi
- Kỵ tọa Tây (Tuất sơn) hướng Đông
- Hướng tốt: tọa Bắc hướng Nam, tọa Đông hướng Tây, tọa Nam hướng Bắc.

(Theo Phong thủy cửa hàng kinh doanh)

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn hướng cửa hàng hợp mệnh gia chủ

Các gò lòng bàn tay và lá số tử vi

Toàn bộ lòng bàn tay chia thành 9 gò. Đặc điểm mỗi gò là một trong những yếu tố quan trọng khi coi bói chỉ tay bởi nó cũng cho biết phần nào lá số tử vi của
Các gò lòng bàn tay và lá số tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Toàn bộ lòng bàn tay chia thành 9 gò. Mỗi gò lòng bàn tay đại diện cho phương diện nhất định trong tính cách và cuộc đời con người.


Đặc điểm mỗi gò lòng bàn tay là một trong những yếu tố quan trọng khi coi bói chỉ tay, bởi qua đó hé lộ phần nào lá số tử vi của mỗi người.

Cac go long ban tay va la so tu vi hinh anh
9 gò lòng bàn tay

1. Gò Mộc tinh

Gò Mộc tinh nằm dưới ngón trỏ, đại diện cho uy tín và giá trị bản thân. Người tự tin với chính mình thường có gò Mộc tinh nhô cao. Ngoài ra, nếu phạm vi phần nhô lên rộng, có nghĩa là giỏi giao tiếp và khẳng khái. Nếu gò này nhô cao hơn hẳn so với những gò còn lại, chứng tỏ là người tham vọng, thích nắm quyền lực.
 
2. Gò Thổ tinh

Gò này nằm ở phía dưới ngón giữa, đại diện cho tinh thần trách nhiệm và tính nham hiểm. Nếu gò này không phát triển càng tốt. Gò Thổ Tinh lớn biểu thị cuộc sống cô đơn, chán ghét thực tại, không thích cho đi. Nếu gò này nhỏ biểu thị người có kiến thức phong phú, thích triết học.
 
3. Gò Hỏa tinh thứ nhất
 
Gò này nằm ở điểm gập của ngón tay cái, đại diện cho lòng dũng cảm, tinh lực, sức chiến đấu và bản năng tự vệ. Nếu gò này bằng phẳng thể hiện sự nhát gan, nhưng nếu quá phát triển lại có khuynh hướng thô bạo.
 
4. Gò Kim tinh

Gò Kim tinh nằm ở đốt xương thứ ba của ngón cái, nơi cơ thịt khá phát triển. Gò này là đại diện  cho sự nhiệt tình với cuộc sống. Mức độ phát triển của nó trực tiếp phản ánh tinh lực và sức sống của một người.

Sức khỏe, sức sống, tính dục, lạc thú trong cuộc sống đều do hình dạng và tính đàn hồi của gò Kim tinh quyết định. Nếu gò này nhô cao hon các gò khác, lại tròn đầy biểu thị tính dục rất mạnh, tính cách tương đối thô tục. Nếu gò này quá mờ nhạt lại biểu hiện một cơ thể suy nhược. Nếu phát triển vừa phải biểu thị tính tình hòa thuận, ấm áp.
 
5. Gò Địa
 
Gò Địa cùng với ngón tay giữa là hai nơi đại biểu cho ý thức và tiềm thức của con người. Độ nhô cao của gò này biểu thị năng lực quan sát sắc sảo, sức cuốn hút, hấp dẫn đối với người khác. Nếu gò này lõm xuống chứng tỏ đây là người thiếu sức phản kháng.
 
6. Gò Thái dương
 
Gò này nằm ở phía dưới ngón áp út, có liên quan đến sức sáng tạo, khả năng thưởng thức nghệ thuật và sự dao động tình cảm. Gò này tròn đầy là biểu hiện của người có nhân sinh quan rõ ràng, tính tình hoạt bát. Nếu gò này không phát triển cho thấy người đó không hứng thú với nghệ thuật hoặc nếu quá phát triển thì có nghĩa là luôn cho mình là giỏi giang.
 
7. Gò Thủy tinh
 
Gò Thủy tinh nằm ở phía dưới ngón út, đại diện cho khả năng giao tiếp. Người có gò Thủy tinh phát triển thường nhiệt tình, bao dung, độ lượng. Nếu gò này không phát triển lại là dấu hiệu của việc không quan tâm tới mọi người xung quanh nhưng phát triển mạnh nhất so với các gò khác lại là người nói nhiều.
 
8. Gò Hỏa tinh thứ hai
 
Gò này nằm ở vị trí rìa lòng bàn tay, giữa gò Thủy tinh và gò Nguyệt. Gò này đại biểu cho sự chính trực, đạo đức, biểu đạt dũng khí của niềm tin, cũng có thể biểu hiện lòng kiên nhẫn và nhẫn lại.
 
9. Gò Nguyệt  
 
Gò Nguyệt nằm ngay sát cổ tay, có liên quan đến sức tưởng tượng và tiềm thức, đại biểu cho cảm tính và trực giác, cũng có thể biểu hiện mức độ tài năng sáng tạo nghệ thuật. Nếu nó kéo dài xuống cổ tay tất là người có khuynh hướng tâm linh hoặc thích gần gũi với thế giới tự nhiên. Nếu gò này quá phát là người sống tình cảm, nếu gò này không phát là người nghèo sức tưởng tượng.   10. Vùng bình nguyên Hỏa tinh
 
Vùng bình nguyên Hỏa tinh hay còn gọi là đồng bằng Hỏa tinh, nằm ở vị trí trung gian giữa 9 gò trong bàn tay. Gò này đại diện cho khả năng kiểm soát tình cảm. Nếu vùng này rộng, dày, rõ ràng biểu thị tính cách nóng vội, dễ nổi giận, nhưng nếu vùng này mỏng, sâu, hõm thì biểu thị sự thiếu tự tin hoặc không có sức ảnh hưởng.
 
Theo Ngôn ngữ của bàn tay  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các gò lòng bàn tay và lá số tử vi

Mơ thấy thần tiên là điềm lành

Thần tiên vốn là những biểu tượng may mắn, tượng trưng cho vẻ đẹp và lòng tốt. Những vị thần này còn mang ý nghĩa là
Mơ thấy thần tiên là điềm lành

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Thần tiên vốn là những biểu tượng may mắn, tượng trưng cho vẻ đẹp và lòng tốt. Những vị thần này còn mang ý nghĩa là "thần hộ mệnh" có sức mạnh phi thường, hay giúp đỡ người tốt, loại bỏ những điều xấu xa, độc ác. Do đó, giấc mơ về thần tiên thường là điềm báo tốt đẹp. 


Mo thay than tien la diem lanh hinh anh
Mơ thấy thần tiên thường là điềm báo tốt đẹp
  Nếu mơ thấy thần tiên giáng thế hay tiên nữ kiều diễm thường là điềm báo bạn sẽ gặt hái được nhiều thành công trong cuộc đời, được thăng tiến trong công việc, có nhiều mối quan hệ tốt đẹp, đời sống hôn nhân hạnh phúc.   Mơ thấy tiên nữ nhảy múa với những nhịp điểu uyển chuyển, êm ái làm say đắm lòng người thường là điềm có chuyện vui đến nhà.

Nếu thấy mình được thần tiên vuốt ve hay xoa đầu trong giấc mơ thường là điềm báo được quý nhân che chở. Mơ thấy được thần tiên ban phước lành thường là điềm gia vận bắt đầu hưng thịnh. 
  Nếu bạn mơ thấy mình đi lễ bái thần, phật ở chùa chiền, miếu mạo thường là điềm báo mọi việc sẽ được thuận lợi. Mơ thấy làm lễ rước thần, thánh hay đón bài vị thường là điềm được tiền của.    Thấy mình được hầu chuyện với thần thánh trong mơ thường là điềm báo bạn sẽ gặp được rất nhiều may mắn. Mơ thấy lập điện thờ thần thánh thường là điềm gia đình yên vui, hòa thuận. Mơ thấy thần thánh đến nhà hoặc hiện trên mái nhà thường là điềm sắp sinh quý tử. 

Thần thánh là biểu tượng của sự linh thiêng, sáng suốt. Mơ thấy các vị thần thường là điềm may mắn, báo trước những sự việc tốt đẹp sẽ đến với bạn trong cuộc sống hiện thực.   Thần Jupiter là biểu tượng cho sự thành công, tính lạc quan, lòng bao dung và sự phóng khoáng. Mơ thấy thần Jupiter là điềm may mắn báo rằng bạn sẽ luôn nhận được sự giúp đỡ, che chở của mọi người và sớm đạt được thành công trong công việc.   Khi mơ thấy thần lùn giữ của, điều đó có ý nghĩa rằng bạn luôn có một trí tưởng tượng phong phú. Nó sẽ khiến cuộc sống của bạn trở nên vui vẻ hơn và giúp bạn tiến xa hơn nữa trong công việc.   Thần mục đồng là biểu tượng của tình yêu và sự thấu hiểu. Mơ thấy vị thần này có nghĩa là bạn sẽ sớm có được một người luôn yêu thương, thấu hiểu và sẻ chia cùng bạn.

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy thần tiên là điềm lành

Luận giải vận số của người tuổi Hợi theo giờ sinh

Sinh giờ Tý, người tuổi Hợi thường có diện mạo thanh tú, thông minh, đa tài và có sức lôi cuốn người khác giới.
Luận giải vận số của người tuổi Hợi theo giờ sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sinh giờ Tý (23-1h): Sinh giờ này người tuổi Hợi thường có diện mạo thanh tú, thông minh, đa tài và có sức lôi cuốn người khác giới.

(Ảnh minh họa)

Sinh giờ Sửu (1-3h): Sửu mệnh Thổ khắc chế Hợi mệnh Thủy. Sinh giờ này là người có lối sống tiêu cực, hám tài, trọng danh và coi nhẹ tình nghĩa.

Sinh giờ Dần (3-5h): Sinh giờ này là người có tính cách hung bạo, coi thường người khác, khó làm nên việc lớn.

Sinh giờ Mão (5-7h): Hợi mệnh Thủy sinh Mão mệnh Mộc. Người sinh giờ này có số may mắn, mưu sự đại thành, tài lộc dồi dào.

Sinh giờ Thìn (7-9h): Thìn mệnh Thổ khắc chế Hợi mệnh Thủy. Là người nổi tiếng, thích hư vinh, ưa sự hào hoa, hay được người đời xu nịnh.

Sinh giờ Tỵ (9-11h): Hợi mệnh Thủy khắc chế Tỵ mệnh Hỏa. Người tuổi Hợi sinh vào giờ này có sao Bạch Hổ chiếu mệnh nên có số phát đạt, về già mọi sự bình thường.

Sinh giờ Ngọ (11-13h): Hợi mệnh Thủy khắc chế Ngọ mệnh Hỏa. Người có quyền chức, tuy nổi danh nhưng lại dễ bị hao tiền tốn của.

Sinh giờ Mùi (13-15h): Mùi mệnh Thổ khắc chế Hợi mệnh Thủy. Người tuổi Hợi sinh vào giờ này tuy thông minh, đa tài nhưng bị sao Bạch Hổ chiếu mệnh nên bị phá tài, trong đời khó tránh khỏi tai họa.

Sinh giờ Thân (15-17h): Thân mệnh Kim sinh Hợi mệnh Thủy. Là người khéo léo, đa tài, giỏi biện luận, số có danh tiếng.

Sinh giờ Dậu (17-19h): Dậu mệnh Kim sinh Hợi mệnh Thủy. Người sinh giờ này vận thế đại vượng nhưng do Dậu - Hợi xung hình nên dễ gặp chuyện phiền phức, hay bị tiểu nhân quấy phá.

Sinh giờ Tuất (19-21h): Là người có cuộc sống tương đối bình yên.

Sinh giờ Hợi (21-23h): Do phạm phải sao Thái Tuế nên người sinh giờ này có sự nghiệp thăng trầm. Ngoài ra, do bị sao Chỉ Bối nhập cung mệnh nên cần hết sức cẩn trọng trong việc kết giao bạn bè.

(Theo Nhân duyên & tướng cách đàn bà) 

 

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải vận số của người tuổi Hợi theo giờ sinh

Tứ yếu - Thập dụ - Bát pháp

Bài viết trích ra từ bản dịch Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư của tác giả Vũ Tài Lục. Đây là một bài viết rất hay!
Tứ yếu - Thập dụ - Bát pháp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trích dẫn từ sách Tử vi đẩu số toàn thư của cụ Vũ Tài Lục dịch và bình chú

Các sao phân phối đóng tại 12 cung, biến hoá vô cùng. Có bốn điểm trọng yếu để phân biệt:

a) Cát hung

b) Hư thực

c) Chủ khách

d) Cường nhược

Cát – Hung: Sao có sao thiện, sao ác, thiện là cát tinh, ác là hung tinh. Hung hay cát không phải chỉ căn cứ trên tính chất mỗi vị sao mà còn căn cứ trên chỗ đứng của nó đúng hay sai, miếu địa hay hãm địa.

Hư thực thế nào?

Sao tốt lâm miếu địa mới là thực cát, thực cát thì không hung dù gặp hung cũng chẳng sợ. Sao xấu rơi vào hãm địa mới là thực hung, thực hung thì không cát, dù gặp cát cũng khó lòng giải. Sao tốt ở hãm địa là hư cát, hư cát là không tốt, còn có thể biến cát thành hung. Sao xấu ở miếu địa là hư hung, hư hung là không hung, còn có thể biến hung thành cát.

Chia chủ khách ra sao?

Lấy các sao ở bản phương làm chủ, các sao tại cung tam hợp hay xung chiếu là khách. Nếu như bản phương không có chính tinh tức không có chủ thì phải mượn sao ở cung xung chiếu làm chủ, các sao cung tam hợp làm khách.

Cường nhược đây ý nói cường nhược trong tương quan chủ khách. Khách với chủ đều tốt là khách chủ tương đắc hay khách chủ đều xấu là một bầy bạo nguợc thì khỏi phải đặt vấn đề cường nhược. Chủ khách vừa hung vừa cát thì phải xét chủ mạnh hay khách mạnh. Nếu chủ mạnh thì khách theo chủ, nếu chủ yếu thì khách kéo chủ đi. Cát cường cát thắng, hung cường hung thắng.

Thập dụ là gì?

Là mười điều căn bản cho việc xem số ở mỗi cung cùng với các cung tam hợp và cung xung chiếu:

  1. Bản phương tốt (cát) “do nội tự cường” mạnh từ bên trong mạnh ra.
  2. Bản phương xấu (hung) là “tòng căn tự phát” hư từ gốc rễ.
  3. Cung xung chiếu tốt là “nghênh xuân tiếp phúc” chờ xuân đón phúc.
  4. Cung xung chiếu xấu là “đương đầu ác bổng” giơ đầu chịu búa đập.
  5. Cung tam hợp tốt là “tả hữu phùng nguyên”, lắm chân tay giúp đỡ.
  6. Cung tam hợp xấu là “tả hữu thụ địch”, địch từ bên phải, bên trái đánh tới.
  7. Lân phương (cung đằng trước đằng sau) tốt là “lưỡng lân tương phù” hai bên hàng xóm phù trợ.
  8. Lân phương xấu là “lưỡng lân tương vũ”, hai bên hàng xóm mưu hại.
  9. Cả bốn cung cùng tốt là “ Thiên tường vân tập” mây ngũ sắc kéo về chầu.
  10. Cả bốn cung cùng xấu là “tứ diện sở ca” bị vây tứ phía không lối thoát.

Bát pháp là tám lối định cách cục khi xem sổ. Mệnh ai cũng thế, đều có cách cục ví như hình vuông, hình tròn, to, nhỏ, đẹp, xấu, lành vỡ của đồ vật. Cách cục của mệnh nói cho hết thì nhiều vô cùng nhưng đây dùng lối quy nạp để đưa thành tám lối. Chia ra như sau:

A. Thành phá tứ pháp:

Phàm mệnh thân bản phương có sao tốt gặp các sao khác ở cung tam hợp và xung chiếu nếu gặp:

  • Khoa Quyền Lộc Quí thì kể như cách cục thành, đáng phê mấy chữ “giao long đắc vận vũ” (con rồng gặp mây nước).
  • Nếu gặp tứ hung Hỏa Linh, Dương Đà thì kể như phá cách loại “miêu nhi bất tú” (chỉ nẩy mầm mà mầm không xanh tốt).
  • Nếu vừa gặp tứ hung lẫn tứ cát thì kể như trong thành có phá, chẳng khác chi “bạch khuê hữu điềm” (viên ngọc trắng bị vết nứt, vết mẻ).
  • Cả tứ hung lẫn tứ cát đều không thì kể là cách chưa thành nhưng không bị phá, chờ xem hạn ra sao giống như “hỗn kim phác ngọc” (vàng còn lẫn các khoáng chất tạp nhạp, ngọc chưa được lấy ra khỏi đá).

B. Cứu khí tứ pháp:

Phàm mệnh thân cung mà các cung xung chiếu tam hợp đều có hung nếu:

  • Gặp Lộc Quí Quyền Khoa là cứu cách, hạn hán lâu ngày được cơn mưa “cửu hạn phùng cam vũ”.
  • Gặp Hỏa Linh Dương Đà là khí cách (bỏ đi), cây gỗ mục không thể khắc đẽo làm gì được “hủ mộc nan điêu”.
  • Gặp vừa tứ cát vừa tứ hung là vừa cứu vừa khí cách, giống như ăn gân gà “thực kê lặc”.
  • Không gặp cả tứ cát lẫn tứ hung là cách “thủ tàu bão khuyết” nấn ná đợi thời.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tứ yếu - Thập dụ - Bát pháp

Những điều cấm kỵ trong phong thủy phòng ngủ nên tránh –

Không gian phòng ngủ của mỗi người chiếm khá nhiều thời gian của một ngày và ảnh hướng tới sức khỏe, đời sống. Trong đó, phong thủy phòng ngủ rất quan trọng đối với việc hình thành khí hưng thịnh trong phòng. Ngoài ra, còn có câu hỏi " Giường ngủ có

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không gian phòng ngủ của mỗi người chiếm khá nhiều thời gian của một ngày và ảnh hướng tới sức khỏe, đời sống. Trong đó, phong thủy phòng ngủ rất quan trọng đối với việc hình thành khí hưng thịnh trong phòng.

Ngoài ra, còn có câu hỏi ” Giường ngủ có giúp làm bạn giàu có?”. Câu trả lời là có nếu bạn nằm ngủ quay đầu về hướng tài lộc dựa theo con số bát quái cá nhân. Tuy nhiên, tốt nhất là bạn nên quên đi hướng phong thủy tốt nhất của mình cho đến khi bạn tìm được vị trí kê giường chính xác nhất. Nguyên tắc chuẩn luôn luôn là kê giường đúng phong thủy trước tiên, sau đó mới tính đến hướng phong thủy cá nhân.

Vì vậy, nên chú ý những điều cấm kỵ trong phòng ngủ cần tránh để mang lại thịnh vượng và hạnh phúc cho gia đình. Dưới đây, là những điều cấm kỵ trong phong thủy phòng ngủ nên tránh để mang lại may mắn phúc lộc đầy nhà và phòng tránh rủi ro.

Nội dung

  • 1 Đầu giường kiêng kỵ để xà ngang ép đỉnh
  • 2 Đầu giường kiêng hướng thẳng vào cửa phòng
  • 3 Đầu giường kiêng chiếu thẳng vào nhà xí
  • 4 Đầu giường kiêng chiếu thẳng vào bếp đun
  • 5 Giường ngủ kiêng kê sát vào bếp đun
  • 6 Đầu giường kiêng kê sát vào cửa sổ
  • 7 Đầu giường kiêng không kê sát vào tường
    • 7.1 Đầu giường kiêng chiếu thẳng vào gương
  • 8 Giường ngủ kiêng chiếu thẳng vào ống khói
  • 9 Giường ngủ kiêng cầu thang ép đỉnh
  • 10 Một số lưu ý khác về vấn đề đặt giường ngủ đúng cách

Đầu giường kiêng kỵ để xà ngang ép đỉnh

Đầu giường có xà ngang ở trên gọi là huyền trâm sát, chủ tổn nhân khẩu. Vì thế, nếu đầu giường có xà ngang ép đỉnh sẽ không có lợi cho sức khỏe của bạn.

Nếu giường kê trong phòng ngay dưới dầm ngang sẽ hình thành cảm giác như luôn bị đè nén, trong thuật xem phong thủy gọi là “hung hình”. Dầm ngang nằm bất kỳ bên trên nơi nào của giường đều ảnh hưởng tới sức khỏe. Nếu dầm ngang vắt ngang qua đầu giường sẽ làm bạn luôn cảm thấy nhức đầu, đồng thời tính tình cũng trở nên khô khan. Cần chuyển giường tới vị trí khác không có dầm chạy qua hoặc làm trần giả che lấp dầm ngang.

Đầu giường kiêng hướng thẳng vào cửa phòng

Trong trường hợp ấy, có thể kê giường ra chỗ khác để tránh chiếu thẳng vào cửa phòng. Nếu không thể xê dịch được giường thì có thể làm như sách cổ đã ghi, đặt 1 tấm bình phong giữa cửa phòng với đầu giường để ngăn cách.

Đầu giường hướng thẳng ra cửa phòng thuộc loại “Hung khí xung” dễ gây mất ngủ, tinh thần hay hoảng hốt đồng thời trí nhớ giảm sút, dễ phạm sai lầm, không phân biệt rõ đúng sai. Chuyển đầu giường ra chỗ khác, tốt nhất đầu giường kê lệch một góc với cửa phòng, tránh đối diện. Nắng chiếu vào đầu giường hoặc để đầu giường có nguồn sáng mạnh chiếu vào gọi là “Hung quang”. Đầu giường bị nắng chiếu vào thường gây cho bạn hay cáu kỉnh, nóng nảy, các nguồn sáng mạnh khác chiếu vào đầu giường sẽ ảnh hưởng không tốt tới “số đào hoa” của bạn. Tốt nhất bạn nên chọn xem ngày tốt xấu trong tháng để thay đổi vị trí đầu giường. Nếu không được có thể đan giấy kính lọc phản quang, sau đó mắc rèm che nắng cho đầu giường của bạn.

Đầu giường kiêng chiếu thẳng vào nhà xí

Nếu cửa toilet hướng thẳng vào đầu giường, bạn đã phạm phải “hung vi”. Do toilet luôn tỏa ra mùi xú uế và tiếng nước dội rửa làm bạn khó ngủ và làm thần kinh bạn luôn căng thẳng. Nên chuyển vị trí đầu giường ngược lại đồng thời luôn chú ý đóng kín cửa toa lét và thông gió để giảm mùi xú uế.

Đầu giường kiêng chiếu thẳng vào bếp đun

Trước phòng ở có bếp đun, tâm thống cước tật. Lửa bếp rừng rực, khói mỡ khi xào nấu xông vào rất không thích hợp với sức khỏe sẽ sinh ra các chứng bệnh như đau tim, thổ huyết và đau chân.v..v..

Giường ngủ kiêng kê sát vào bếp đun

Bếp đun là nơi sinh hỏa nấu thức ăn, rất nóng bức vì thế không được kê sát với giường ngủ.Giường ngủ kê sát vào bếp đun có tường ngăn cách rất không nên.

Phương pháp bổ cứu là xê giường ngủ tới 1 chỗ khác của phòng ngủ làm như thế có thể hóa giải được nhiều tai nạn và bệnh tật, đau đớn. Ngoài ra, xin chú ý: giường ngủ cũng không nên kê sát vào nhà xí.

Đầu giường kiêng kê sát vào cửa sổ

Trong phong thủy học đầu giường kê sát vào cửa sổ thì không tốt, rất không thích hợp đối với an ninh của gia đình. Trừ một số trường hợp đặc biệt, nếu không đầu giường nên cố gắng tránh sát vào cửa sổ.

Đầu giường kiêng không kê sát vào tường

Đầu giường không nên lộ không, điều đó có nghĩa là đầu giường không kê sát vào tường, không có chỗ dựa, không có chỗ che chở, thế thì hung nhiều cá ít. Nếu 2 đầu giường đều không kê sát vào tường thì càng kiêng kỵ.

Nếu quả thật đầu giường không kê sát tường được thì cuối giường phải kê sát vào tường, cũng có thể bổ cứu được. Ngoài ra, có 1 số cách có thể bổ cứu đó là đặt 1 cái tủ ở trên đầu giường cạnh vách tường.

Đầu giường kiêng chiếu thẳng vào gương

Trong phong thủy học gương dùng để ngăn sát có tác dụng phản xạ sát khí xông thẳng vào cho nên gương (dù không phải là gương bát quái) hay gương lõm, không thể để chiếu thẳng vào mình, nhất là không thể chiếu thẳng vào đầu giường mình. Bởi vì, bản chất của gương là chuyển động, đánh mất đi sự yên tĩnh cho không gian nghỉ ngơi của bạn.

Giường ngủ kiêng chiếu thẳng vào ống khói

Ống khói làm cho chủ giường khó sinh nở. Vì thế giường ngủ không nên chiếu thẳng vào ống khói. Nếu xảy ra trường hợp này thì phải kê giường ngủ ra chỗ khác, để khi ngủ trên giường không nhìn thấy ống khói là được. Ngoài ra, có thể cân nhắc che chở cửa sổ để tránh nhìn thấy ống khói, đỡ giật mình. Không nói đến phong thủy chỉ riêng nhìn khói bốc lên cũng đã có hại cho sức khỏe rồi.

Giường ngủ kiêng cầu thang ép đỉnh

Giường ngủ đặt ở dưới chân cầu thang là không nên, dù cầu thang ở bên phòng ngoài. Không nói về phong thủy học, chỉ riêng tiếng bước chân đi lên xuống cầu thang cũng làm cho người ta khó ngủ.

Một số lưu ý khác về vấn đề đặt giường ngủ đúng cách

Và thiết kế cũng được coi là điều cốt lõi. Đơn giản mà nói, thiết kế hấp dẫn và không màu mè là tốt nhất, giữ được sự yên tĩnh cho nơi bạn ngủ.

Sử dụng hoa tươi hoặc cây cảnh trong thiết kế phòng ngủ sẽ làm giảm ham muốn tình dục đối với những người đã lập gia đình. Vì thế không nên đặt hoa tươi và cây cảnh trong phòng ngủ.

Một điều quan trọng khác là trong lúc nằm ngủ trên giường bạn không nên nhìn thấy hoặc nghe thấy tiếng nước chảy, đó có thể xuất phát từ chậu rửa mặt hoặc bồn cầu…

Bày quá nhiều cây cảnh, hoa tươi trong phòng ngủ vợ chồng có thể làm giảm ham muốn tình dục. Treo/đặt gương gần giường ngủ gây ra nhiều ảnh hưởng không tốt cho giấc ngủ.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều cấm kỵ trong phong thủy phòng ngủ nên tránh –

Thay đổi phong thủy trong nhà bằng cây và hoa

Một bình hoa ở vị trí nhất định trong nhà có thật sự cải thiện cuộc sống của bạn? Những người thực hành nghệ thuật phong thủy cổ xưa sẽ trả lời bạn rằng: Chắc chắn có!

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các chuyên gia phong thủy tin rằng việc sử dụng và bố trí các đồ vật nhất định trong nhà hoặc phòng làm việc có thể chống lại năng lượng tiêu cực, thúc đẩy năng lượng tích cực trong cuộc sống của bạn.

Ít người biết cây và hoa đóng vai trò lớn trong việc điều khiển năng lượng vũ trụ có lợi, chưa kể cây trồng trong nhà còn có tác dụng lọc không khí, tăng hàm lượng oxy, chống lại ảnh hưởng của trường điện từ tạo ra từ các thiết bị điện tử. Chúng tạo ra môi trường tốt để phát triển hài hòa mối quan hệ giữa các thành viên trong nhà.

1. Các loại cây và hoa có ý nghĩa phong thủy

Cây cối có tác dụng điều hòa dòng chảy năng lượng tích cực, đặc biệt là các cây thân gỗ. Màu xanh của cây tượng trưng cho sự phát triển, hòa bình và hợp tác. Vì vậy, cây được trồng trong nhà với tác dụng mang đến sự bình tĩnh, giảm căng thẳng và tạo ra môi trường yên tĩnh và hài hòa.

Khi đặt ở các góc lõm của nhà, cây lá nhọn và dài sẽ giúp ngăn cản năng lượng trì trệ xuất hiện ở đây. Ngược lại, cây tán rậm rạp có lá tròn sẽ làm mềm năng lượng ở các góc nhọn. Cây cảnh trong phòng ngủ sẽ tạo ra môi trường yên tĩnh. Nhà bạn có một hành lang dài? Hãy đặt các chậu cây bụi ở hai bên để giảm bớt tốc độ chảy quá nhanh của năng lượng. Còn nếu thấy lo ngại về vấn đề an ninh bạn có thể thử đặt các chậu xương rồng trên ngưỡng cửa sổ.

thay đổi phong thủy trong nhà bằng cây và hoa

Phong thủy dựa trên những cảm giác mà bông hoa gợi lên như cái đẹp, sự duyên dáng và nét tinh tế.

Dưới đây là một số loại cây trồng và hoa được các chuyên gia phong thủy khuyên sử dụng:

- Tre: Có ý nghĩa may mắn, cây tre đặc biệt tốt để bày trong nhà bếp, phòng tắm nhằm mang lại sự giàu có, tình yêu, sức khỏe và hạnh phúc.

- Cây xương rồng. Thực vật có gai nhọn và lá nhọn này dùng nhiều trong các góc lõm để kích hoạt các năng lượng trì trệ.

- Hoa cẩm chướng: Màu đỏ cải thiện tính lãng mạn, màu  hồng cho hưởng thụ tình dục, và màu trắng để giúp bạn có động lực.

- Hoa thược dược: Những bông thược dược đỏ tươi sẽ mang lại cuộc sống lãng mạn và cải thiện tình hình tài chính của gia chủ.

- Cây huyết rồng: Loại cây lá nhọn này giúp di chuyển năng lượng đình trệ ở góc nhà hoặc phía cuối của trần dốc.

thay đổi phong thủy trong nhà bằng cây và hoa Cúc đồng tiền màu đỏ mang lại may mắn về tình yêu và tiền bạc.

- Cây lá bỏng: Cũng được biết đến như một cây trồng có tác dụng ổn định tài chính.

- Hoa loa kèn: Nếu bạn có một không gian quá bận rộn thì hoa loa kèn có thể sử dụng để tạo ra ảnh hưởng êm dịu hơn trong khu vực đó.

- Hoa sen: Được cho là tốt cho cặp vợ chồng nào đang mong có con.

- Hoa hồng: Mang đến các cơ hội tốt về tình yêu và tiền bạc.

- Hoa tulip: Màu đỏ là sự lãng mạn, hồng là niềm vui còn màu trắng sẽ thúc đẩy nhiệt huyết của bạn.

- Cây dây nhện: Loại cây trồng này sẽ mang đến không gian thoải mái và thoáng đãng trong nhà.

2. Hoa cắm lọ hoặc hoa trồng chậu

Thay đổi phong thủy trong nhà bằng cây và hoa

Khi bạn chưng hoa tươi trong nhà đòi hỏi phải chăm sóc cẩn thận, tránh hoa bị úa, héo hoặc khô.

Một lọ hay một chậu hoa tươi đều có ý nghĩa tích cực như nhau. Tuy nhiên, cả hai đều đòi hỏi phải được chăm sóc tốt vì hoa héo sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến năng lượng phong thủy. Bỏ các bông hoa hoặc lá héo ngay lập tức. Chú ý tưới nước trước khi đất khô cạn nhưng cũng không để cây sũng nước lâu hơn 24 giờ. Ngắt bỏ lá và bông hỏng, cắt một chút gốc hoa mỗi hai ngày, thay nước trong bình để kéo dài tuổi thọ hoa. Khi hầu hết hoa trong bình bị héo thì bỏ chúng đi càng sớm càng tốt.

3. Hoa khô hoặc hoa giả

thay đổi phong thủy trong nhà bằng cây và hoa

Tốt nhất nên mua hoa giả làm từ lụa hoặc giấy.

Hoa khô và hoa giả không hữu ích như hoa tươi nhưng nếu như bạn không có lựa chọn nào khác thì có nó còn tốt hơn là không có gì. Có người cho rằng hai loại hoa này là biểu tượng của cái chết và sự phân rã. Tuy  nhiên nếu bạn không thấy ý nghĩa tiêu cực này thì vẫn có thể sử dụng chúng, chỉ cần chú ý mua hoa bằng lụa hoặc giấy và tránh xa hoa nhựa hoặc vải. Giữ hoa sạch bằng cách phẩy bụi hoặc giặt qua với nước, tránh để hoa rụng, gãy vào bình chứa hoặc bị phai màu do ánh nắng.

4. Chọn chậu và bình

Hình dáng và chất liệu của chậu và bình có thể tăng thêm hiệu quả phong thủy của cây trồng và hoa. Bạn có thể kết hợp giữa ý nghĩa các loại cây, hoa với hình dáng chậu, bình và đặt vào các góc nhất định của nhà để có được lợi ích lớn nhất cho mình.

thay đổi phong thủy trong nhà bằng cây và hoa

Bình hình tròn mang lại sự hòa hợp giữa các thành viên trong gia đình.

Bình thủy tinh, bình cong có ý nghĩa phong thủy về tiền bạc. Chậu gỗ cao tốt cho sự phát triển nghề nghiệp. Hình tam giác hoặc màu tím sẽ giúp những nỗ lực của bạn được công nhận trong khi chậu và bình kim loại tròn có ý nghĩa hướng tới sự lãng mạn và hòa hợp, còn nếu là màu đỏ và bằng bạc thì sẽ mang tới nhiều may mắn về tiền bạc. Sự kết hợp giữa bình màu trắng với hoa màu hồng hoặc đỏ đặt trong phòng ngủ mang đến tình yêu cho vợ chồng. Chậu hoặc bình bằng đất sét sẽ giúp các thành viên trong nhà gắn bó hơn, đặc biệt là khi nó có hình dáng giống như cái bát.

Hữu Nguyên
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thay đổi phong thủy trong nhà bằng cây và hoa

Tránh xa những người có nét tướng cực xấu kẻo rước thêm phiền phức

Nốt ruồi dưới mắt hay còn gọi là nốt ruồi giọt lệ, người có nốt ruồi ở dưới mắt thường gặp phải chuyện thương tâm, đau buồn, khiến cho lệ phải rơi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Tướng mũi
 
Tướng mũi ảnh hưởng nhiều đến tổng thế gương mặt, như vậy cũng có kiêng kị. Tục ngữ có câu “Mũi dại, lái phải chịu đòn” là ám chỉ điều này, mũi tốt nhất là nên thẳng, không nên lệch hay cong vẹo.
 
2. Đuôi lông mày cụp
 
Theo cổ nhân, “bát tự mi” – lông mày hình chữ bát là đặc trưng của người có tâm can không tốt, mưu sâu kế hiểm. Cũng có thể là người không chuyên chính trong chuyện tình cảm, có chút dâm tục. Câu tục ngữ “Mi phân bát tự, tham hoa liễu” là ngụ ý điều này.
 
3. Lông mày xếch (hình bát tự ngược)
 
Kiểu lông mày này cho thấy người này tâm địa độc ác nhưng suy nghĩ lại đơn giản (hữu dũng vô mưu), người ta gọi kiểu lông mày này là lông mày hình hổ.   Lông mày của nam giới thì đậm nhưng thô, lông mày của nữ giới thì mảnh và nhạt. Nếu lông mày dày và thô, dài (cả nam và nữ) thì người này thường hung ác, âm địa ác độc.   4. Lông mày đậm và thô – là người trường thọ
 
Tất nhiên, người có kiểu lông mày này thì khá là trường thọ, bởi vậy không nên nhổ hoặc tỉa bớt. Đặc biệt là có vài sợi dài hẳn hơn so với những sợi khác, những sợi này gọi là “Thọ mi”. Thọ mi càng dài thì càng tốt, thọ mi kị nhất là nhổ hoặc cắt bớt, mặc dù có phần vướng (che khuất tầm nhìn) thì cũng không nhổ, nếu không sẽ bị giảm thọ.   5. Lông mày thưa và ít
 
Những người như vậy sẽ không có anh em hoặc nếu có thì cũng rất ít. Hậu duệ của người này cũng khó phát triển được, không gặp may mắn, tài chính kém.   6. Mắt không nên lệch
 
Người mắt lệch thường là người có tâm địa bất chính, không được mọi người yêu mến.

Nhung net tuong xau kieng ki theo dan gian hinh anh 2
Mắt lệch là người có tâm địa bất chính
  7. Nốt ruồi dưới mắt
 
Những vị trí nốt ruồi trên mặt cũng mang nhiều ý nghĩa. Nốt ruồi dưới mắt hay còn gọi là nốt ruồi giọt lệ, người có nốt ruồi ở dưới mắt thường gặp phải chuyện thương tâm, đau buồn, khiến cho lệ phải rơi.
  8. Con gái kị mắt “Tứ bạch”   “Tứ Bạch” tức là mắt có nhiều lòng trắng, lòng đen bé, 4 phía lòng đen lộ lòng trắng. Người xưa cho rằng, con gái mà có cặp mắt như vậy thì rất xấu bởi vậy mới có câu: “Lợn kia trắng mắt thì nuôi, người kia trắng mắt chớ chơi mà phiền”.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tránh xa những người có nét tướng cực xấu kẻo rước thêm phiền phức

Tử vi tháng 6 năm 2016 của 12 con giáp

Những con giáp bội thu cả tiền và tình trong tháng 6 có người tuổi Hợi, người tuổi Tuất và người tuổi Mão. Xem tử vi tháng 6 của 12 con giáp
Tử vi tháng 6 năm 2016 của 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Bước sang tháng 6, vận may của người tuổi Hợi tăng đột biến, làm gì cũng cảm thấy thuận lợi vô cùng vì gặp được bạn hiền, quý nhân phù trợ. Không những có nhiều cơ hội tăng lương mà lĩnh vực đầu tư cũng sinh lời lớn, được một tháng “bội thu”. 


Chỉ ra 3 con giáp trọng tình cảm, coi tình bạn là trên hết Điểm mặt những con giáp dễ nổi nóng như Trương Phi 5 con giáp có sự nghiệp thành công rực rỡ nửa cuối năm 2016
1. Tuổi Hợi   Bước sang tháng 6, vận may của người tuổi Hợi tăng đột biến, làm gì cũng cảm thấy thuận lợi vô cùng vì gặp được bạn hiền, quý nhân phù trợ. Không những có nhiều cơ hội tăng lương mà lĩnh vực đầu tư cũng sinh lời lớn, được một tháng “bội thu”.    Vận may của con giáp này lớn tới mức mua vé số cũng có thể trúng thưởng, tham gia bốc thăm trúng thưởng khi đi mua sắm kiểu gì cũng có giải mang về.    Về phương diện tình cảm, những chú Heo xinh xắn, đáng yêu, tính tình lại lạc quan, hòa đồng nên chẳng khó khăn trong việc thu hút đối tượng khác giới, vận đào hoa vì thế cũng tăng. Tình yêu như được chắp thêm đôi cánh, rất có thể đám cưới linh đình sẽ được diễn ra trong tháng.  
Tu vi thang 6 nam 2016 cua 12 con giap hinh anh
 

Bí kíp bỏ túi để 12 con giáp đỗ đầu mọi kỳ thi Top 3 nàng giáp có kĩ năng chụp ảnh “tự sướng” ảo tung chảo Giật mình với tỷ lệ trở thành người thứ 3 của 12 con giáp
2. Tuổi Tuất
  Những tháng gần đây, vận khí của người tuổi Tuất không mấy lý tưởng, công việc có phần bình ổn hơn nhưng tình cảm lại thăng trầm vô độ.   Nhưng kể từ tháng 6, thời vận chuyển biến tích cực, được quý nhân giúp đỡ, cơ hội kiếm tiền, làm giàu tăng vọt. Nhưng nên nhớ, làm việc gì cũng cần thận trọng, lắng nghe ý kiến, lời khuyên của người khác, tránh cố chấp, bảo thủ để rồi tự mình đánh mất cơ hội tốt.   Tình cảm trong tháng 6 phát triển rực rỡ, mọi khúc mắc, mâu thuẫn giữa đôi bên đều được giải quyết êm đẹp. Tình yêu đến mang theo những niềm vui bất tận, vận khí hanh thông vô cùng. Vậy mới nói, bạn chính là con giáp bội thu cả tiền và tình trong tháng này.   
Tu vi thang 6 nam 2016 cua 12 con giap hinh anh
 
3. Tuổi Mão   Người cầm tinh con Mèo tính tình hào sảng, phóng khoáng, trí tuệ lại thông minh, lanh lợi hơn người. Bước vào tháng 6, tài vận của họ đạt mức đỉnh điểm, buôn may bán đắt, nhận tin vui thăng chức tăng lương, đầu tư thu lời ồ ạt.    Phương diện công việc hứa hẹn những thành công bất ngờ. Sau bao nỗ lực cố gắng, năng lực bản thân được khẳng định, cấp trên đánh giá cao và sẽ đề bạt thăng tiến. Tình hình tài chính khả quan, làm đâu thắng đó, lãi mẹ đẻ lãi con, xóa bay áp lực tiền bạc.    Nhưng nên nhớ, lấy tích lũy làm phương châm hàng đầu, lấy tiết kiệm làm lối sống cơ bản, có như vậy vận khí tốt lành mới theo bạn lâu dài được.   Khi khúc mắc về tài chính, công việc đã được giải quyết đâu vào đó, tình cảm của bạn ắt thăng cấp, gia đình hạnh phúc, đôi lứa tiến tới hôn nhân viên mãn.  
► Tham khảo thêm những thông tin về: Lịch vạn niên và Lịch âm dương chuẩn xác nhất

Ngọc Điệp

Người tuổi nào không giàu sang thì phú quý trong 3 năm tới?
Trong 3 năm tới, nhờ vận khí vượng mà những con giáp dưới đây không thăng quan cũng phát tài phát lộc, tình duyên lí tưởng.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi tháng 6 năm 2016 của 12 con giáp

6 lỗi phong thủy ngầm phá hoại hôn nhân

Ai cũng muốn có một cuộc hôn nhân mỹ mãn, toại nguyện nhưng không phải lúc nào cũng được. 6 lỗi phong thủy phá hoại hôn nhân dưới đây có thể là lý do, hãy khắc
6 lỗi phong thủy ngầm phá hoại hôn nhân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bất luận là ai, đều muốn có một cuộc hôn nhân mỹ mãn, toại nguyện nhưng không phải lúc nào cũng được như vậy. 6 lỗi phong thủy phá hoại hôn nhân dưới đây có thể là lý do, hãy khắc phục ngay nhé.


6 loi phong thuy ngam pha hoai hon nhan hinh anh 2
 
1. Nhà khuyết góc Tây Nam, Tây Bắc: trong phong thủy truyền thống, góc Tây Nam của căn nhà tượng trưng cho nữ chủ nhân, góc Tây Bắc tượng trưng cho nam chủ nhân, nếu thiếu một trong hai thì hôn nhân không hòa hợp, gia đình lục đục, vợ tiếm quyền chồng hoặc chồng lấn át vợ.   2. Nhà bếp bừa bộn là lỗi phong thủy phá hoại hôn nhân mà a cũng phải biết, vì vị trí này đại diện cho nữ chủ nhân. Nếu nơi đâu lộn xộn, đặc biệt là cống thoát nước bị tắc thì nữ chủ nhân sẽ mắc bệnh phụ khoa, vợ chồng có tình cảm ngoài luồng.   4 mẹo phong thủy đánh bật kẻ thứ 3 Sau ly hôn, thay đổi phong thủy để có khởi đầu mới tốt đẹp
3. Bố trí phòng ngủ hoặc nội thất nhà bất quy tắc sẽ mang đến thị phi, vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn, hôn nhân trục trặc. Không nên ở trong nhà hoặc phòng có hình đa giác, không bày trí nội thất bất đối xứng, rối mắt, đường dây điện cũng phải quy hoạch có trật tự.
  4. Bố trí nhiều hoa tươi trong nhà cũng không có lợi cho phong thủy hôn nhân, đặc biệt là không nên trưng hoa héo, hoa ở đào hoa vị (chính Nam, chính Đông, chính Tây, chính Bắc). Vì như vậy sẽ chiêu dụ đào hoa, có người thứ 3 xen vào gia đình.
6 loi phong thuy ngam pha hoai hon nhan hinh anh 2
 
5. Màu sắc phòng ngủ quá mạnh sẽ tạo ra những xung đột không đáng có trong đời sống vợ chồng. Nên chọn màu sắc nhu hòa, an tường, tạo cảm giác nhẹ nhàng và thoải mái.
  6. Giường ngủ đặt ở vị trí hung là cấm kị trong phong thủy hôn nhân. Không kê giường quá gần cửa sổ nếu không sẽ mắc họa đào hoa bên ngoài, không đặt giường đối diện nhà vệ sinh, cửa ra vào sẽ bị ảnh hưởng bởi sát khí.  
=> Xem bói tử vi để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

5 cải thiện nhỏ trong phòng ngủ khiến chồng yêu vợ hơn

Hóa giải nhân duyên không thuận lợi từ gốc đến ngọn
Trình Trình

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 6 lỗi phong thủy ngầm phá hoại hôn nhân

Vật phẩm phong thủy tốt lành để sớm sinh quý tử –

Trong cuộc sống. rất nhiều người đã biết dùng đến vật phẩm phong thủy “Kỳ lân biếu con” và ngọc sơn (núi cẩm thạch) với ý nguyện sớm sinh được quý tử, … Trong cuộc sống. rất nhiều người đã biết dùng đến vật phẩm phong thủy “Kỳ lân biếu con” và ngọc s

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong cuộc sống. rất nhiều người đã biết dùng đến vật phẩm phong thủy “Kỳ lân biếu con” và ngọc sơn (núi cẩm thạch) với ý nguyện sớm sinh được quý tử, …

Trong cuộc sống. rất nhiều người đã biết dùng đến vật phẩm phong thủy “Kỳ lân biếu con” và ngọc sơn (núi cẩm thạch) với ý nguyện sớm có con cái cho gia đình thêm đông đúc, nhưng vẫn còn những mẹo phong thủy khác để sớm có tử tức được lưu truyền trong dân gian như sau:

image_41690_KY_lan_cuoi

1. Liên sinh quý tử
Với những người sốt ruột muốn có con ngay, hãy sử dụng miếng ngọc bội cổ mang tên “liên sinh quý tử”. Hình dạng của miếng ngọc bội này là 1 cậu bé ngồi trên lá sen hoặc tay cầm bông sen (loại này còn có tên là “trì hà đồng tử”) “liên” là hoa sen, lá sen nhưng lại đồng âm với chữ “liên” là liền ngay, nên tấm ngọc bội mang ý nghĩa cầu chúc có con sớm.

2. Miên miên qua điệt

“Qua” có nghĩa là quả dưa, “điệt” là dưa nhỏ. Hình ảnh giàn dưa leo trái to, trái nhỏ và trái nhỏ thì nhiều hàm ý là “con cháu đầy đàn”. Cho nên khắc hình tượng “con cháu đầy đàn” trên cẩm thạch, người đeo sẽ nhanh chóng sinh con, vẽ trên tranh thì treo trong phòng ngủ.

“Điệt” là hài âm cho “điệp” (bướm). Từ đó, hợp lại thành “qua điệp”. Hình ảnh phú quý đồng tử tay cầm bướm, chân đạp dưa là hàm ý con cháu đầy đàn, phú quý cát tường.

3. Bầu bí đầy đàn

Giàn bầu bí dây leo chằng chịt, quả to quả bé treo lủng lẳng là biểu tượng 1 gia đình sum họp, con đàn cháu đống.

Người ta khắc họa hình giàn bầu trĩu quả trên đá ngọc làm bùa cho những đôi vợ chồng hiếm con, nếu vẽ thành tranh thì treo trong nhà, với ý cầu chúc đẻ nhiều con.

4. Thạch lựu

image_41691_thach_luu_ND

Để có nhiều con, có thể sử dụng viên bạch ngọc tạc hình quả lựu. Hình quả lựu ở đây được bổ làm đôi, 1 nửa lộ ra rất nhiều hạt, mang ý nghĩa “lựu khai bách tử” (tức là lựu nở nhiều con). Việc mang tặng bức tranh “lựu khai bách tử” cho đôi vợ chồng mới cưới, được coi là lời cầu chúc tốt đẹp.
5. Cát khánh hữu dư

Treo tranh có hình 2 đứa trẻ tay cầm khánh, tay cầm cá. Khánh với ý nghĩa là “cát khánh” (điều vui mừng, tốt lành), cá biểu tượng là “hữu dư” (có dư).

6. Phú quý đồng tử

Là tranh 2 đứa trẻ khả ái tay cầm kim câu thiêm tài tiến bảo, sau lưng là cây phú quý đầy tiền vàng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vật phẩm phong thủy tốt lành để sớm sinh quý tử –

Nằm lòng những ngày kiêng cắt tóc để tránh xui xẻo

Cắt tóc là một công việc làm đẹp nhưng không phải lúc nào cũng có thể tiến hành công việc này. Nếu không muốn gặp xui xẻo thì tránh cắt tóc vào ngày này.
Nằm lòng những ngày kiêng cắt tóc để tránh xui xẻo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cắt tóc là một công việc làm đẹp nhưng không phải lúc nào cũng có thể tiến hành công việc này. Nếu không muốn gặp xui xẻo thì tránh cắt tóc vào những ngày dưới đây.


Việc cắt vào thời gian nào tưởng chừng chỉ là một việc nhỏ, không ảnh hưởng gì đến cuộc sống của chúng ta. Nhưng trong dân gian có nhiều điều kiêng kỵ xung quanh mái tóc được lưu truyền từ rất lâu không phải ai cũng biết.

Nam long nhung ngay kieng cat toc de tranh xui xeo hinh anh
Ảnh minh họa
Không biết xuất hiện từ bao giờ, nhưng quan niệm không cắt tóc đầu tháng, không cắt tóc trước kỳ thi, hoặc bà bầu không được cắt tóc vào những ngày mùng 1 hay 15 đã lưu truyền từ rất lâu trong dân gian. Nhưng có phải khi cắt tóc vào những ngày này thì chúng ta sẽ gặp đại họa hay không?  

Kiêng cắt tóc đầu tháng

  Từ xưa, ông bà ta rất kiêng việc cắt tóc vào đầu tháng. Vì nếu cắt tóc vào khoảng thời gian này sẽ khiễn cả tháng bị tiền tài hao hụt. Nên vào những ngày này, các tiệm cắt tóc thường cho nhân viên nghỉ vì số lượng khách ra vào rất ít.   Tuy nhiên, những điều kiêng kỵ này hoàn toàn không có cơ sở khoa học nào vì hầu hết chỉ được lưu truyền trong dân gian, cho đến nay thì còn rất ít người kiêng kỵ điều này.
 

Không cắt tóc trước kỳ thi

 

Ngoài việc rủ nhau lên chùa cầu may trước kì thi, hay sờ đầu tượng rùa ở Quốc Tử Giám, các bạn học sinh, sinh viên còn truyền tai nhau rằng không được cắt tóc, gội đầu trước kì thi để có thể được điểm cao.   Theo dân gian vì tóc đóng vai trò giống như ăng ten của não bộ có vai trò thu nhận và phát kiến thức giúp các bạn học sinh, sinh viên vượt qua kì thi một cách dễ dàng. Nên khi cắt tóc đi, khiến sự tiếp thu của não bộ bị đình trệ, dẫn đến kết quả thi không được như mong muốn.   Tuy nhiên, rất dễ nhận thấy rằng đây là một quan niệm hết sức hoang đường, vì việc cắt tóc và tiếp thu kiến thức không có bất kì mối quan hệ nào với nhau. Nếu các sĩ tử muốn đạt điểm tốt trong kì thi, hãy lập cho mình một kế hoạch học tập thật khoa học và có chế độ ăn uống đầy đủ thì sẽ đạt được kết quả như mình mong muốn.

 

Bà bầu không được cắt tóc vào ngày mùng 1 và 15 hàng tháng

  Ông bà xưa cho rằng mái tóc gắn liền với sinh mệnh con người, nên khi mang thai nếu người mẹ cắt tóc sẽ rút ngắn cuộc đời của đứa trẻ, do đó người ta rất kị việc bà bầu đi cắt tóc.   Nhưng trong thực tế, phụ nữ khi mang thai nếu cắt tóc ngắn sẽ giúp họ thoải mái hơn nhiều.
Nam long nhung ngay kieng cat toc de tranh xui xeo hinh anh
Ảnh minh họa
Bên cạnh đó, việc bà bầu đến tiệm làm tóc để gội đầu hay làm đẹp đều không ảnh hưởng đến thai nhi. Tuy nhiên, cần hạn chế việc tiếp xúc với các loại thuốc nhuộm hay tẩy tóc vì trong những chất này chứa nhiều thành phần độc hại ảnh hưởng đến sức khỏe thai nhi.

 

Vào tháng cô hồn không được cắt tóc

  Theo dân gian, tháng cô hồn là khoảng thời gian do Diêm Vương mở cửa để những vong hồn có thể trở về dương gian để thăm viếng gia đình của mình. Việc cắt tóc vào ngày này khiến cơ thể bị suy yếu, dễ bị ma quỷ xâm nhập, quấy rối.   Nhưng thực chất, đây chỉ là những việc được dân gian truyền miệng chứ không dựa trên bất kì cơ sở khoa học nào. Vì vậy chúng ta không cần phải quá kiêng kỵ trong việc cắt tóc vào tháng cô hồn.   Bài viết chỉ mang tính chất tham khảo.

ST.

Kiêng kị đầu năm: Không đỗ xe chắn ngang cửa nhà 9 điều kiêng kị phong thủy phòng ngủ để có cuộc sống hôn nhân viên mãn 4 điều kiêng kị cho bé sơ sinh mà bà mẹ bỉm sữa nào cũng cần biết Giật mình với 18 kiêng kị phong thủy của nữ giới 9 điều kiêng kị bạn cần biết để có một chuyến du lịch đẹp như mơ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm lòng những ngày kiêng cắt tóc để tránh xui xẻo

Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã - Huế

Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã là ngôi thiền viện đầu tiên được xây dựng ở miền Trung, thuộc thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Hòa Thượng Thích Thanh Từ sáng lập
Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã - Huế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã nằm giữa hai miền đất nước, nơi mảnh đất Thần Kinh, Bạch Mã hiển hiện trầm hùng, kỳ vỹ mà ôn hòa, như mang theo cái mát lành của Cao nguyên Đà Lạt về trên xứ Huế.

Thiền Viện cách trung tâm thành phố Huế khoảng 30km về hướng Nam, theo quốc lộ 1A vừa đến cầu Truồi ngay bên phía tay phải có bản chỉ dẫn Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã. Thiền viện tọa lạc trên địa bàn xã Lộc Hòa, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Vượt qua đường tàu lửa men theo đường làng đi giữa một bên là sông Truồi hiền hòa, một bên là cảnh làng quê thấp thoáng dưới những mãnh vười cây cổ thụ xanh tươi. Cảnh quan Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã hiện ra giữa núi rừng soi bóng xuống lòng Hồ Truồi ảnh hiện như một đóa hoa lung linh của đại ngàn.

– đã chính thức cử hành Lễ Đặt Đá, khởi công xây dựng vào ngày 30/3/2006 (nhằm ngày mùng 2 tháng 3 năm Bính Tuất), là ngày giỗ Đệ nhị Tổ thiền phái Trúc Lâm.

Về cảnh sắc Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã nhìn gần, nhìn xa đều rất ngoạn mục. Có mây phủ đầu non mờ mờ ảo ảo, khi thì trầm mặc, lúc lại bồng bềnh khách trần thế dẫu có lắm phiền muộn mỗi khi đã đến đây cũng thấy tâm hồn mình nhẹ nhàng hơn và thong dong tự tại cùng mây nước. Nhiều người địa phương cho biết, giữa mùa hè nóng nực là vậy nhưng nếu lưu chân lại khu vực này vào ban đêm, khách phải đắp thêm tấm chăn nhẹ mới êm giấc nồng.

Để đến được ngôi chùa lẩn khuất sau cánh rừng nguyên sinh, khách phải thêm 10 phút trên đò vượt hồ Truồi. Nhiều người thoáng nghe phải thêm chặng đò thường ái ngại, nhưng đừng quá lo lắng vì dọc đường bạn sẽ mải miết ngắm nước hồ xanh ngọc bích, chiêm ngưỡng những cù lao nguyên sơ giữa hồ nước với những tượng Phật bằng đá sừng sững…

Khi đò vừa cập bến, khách thăm thiền viện sẽ tiếp tục “chinh phục” 174 bậc đá để đến tiếp cổng tam quan lộng gió, uy nghi đứng ngay bên đỉnh núi. Nhìn hàng loạt bậc thang cao ngất có khi sẽ làm chùn bước khách bộ hành. Nhưng khi “hút” vào trò chơi, 174 bậc thang hết vèo, để rồi ngỡ ngàng khi ngoảnh lại từ tầm cao “với tới mây” là cảnh vật sơn thủy hữu tình hiện ra một cách kỳ vỹ.

Sau khi vào Đại Hùng Bảo điện, nơi thờ Phật tổ Như Lai – tòa tịnh thất, thắp hương cầu nguyện, du khách có thể tỏa ra để đi thăm 20 hạng mục khác nhau. Tôi dám cá rằng, đi đến đâu, chiếc máy ảnh trên tay của bạn sẽ phải “nóng” đến đó để ghi lại những hình ảnh về hệ thống kiến trúc độc đáo mang đậm phong cách Phật giáo. Không chỉ “mãn nhãn” mà bạn còn được “mãn nhĩ” nhờ những chiếc chuông gió vi vu không ngừng vang vọng. Không gian trầm lắng, tiếng chuông chùa trầm ấm rền vang. Một không khí linh thiêng, an lạc tỏa khắp núi rừng.

cu lao
Cù lao đặt tượng phật Thích Ca cao 24m, nặng 1.500 tấn bằng đá

Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã là địa điểm du lịch tham quan chiêm bái và tu học pháp môn thiền của người dân Huế và du khách khắp nơi, thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã hàng tuần đón hàng trăm du khách đến chiêm bái và nghe giảng đạo thiền. Trúc Lâm Bạch Mã chốn bình yên tĩnh lặng của tâm mà sống động, dạt dào tình tự của dòng chảy sự sống vô tận. Dòng thiền Trúc Lâm đang sống dậy trong lòng người dân xứ Huế. Hồn thiên Yên tử – suối thiền Trúc Lâm đang hòa quyện với nét thiền Hương Ngự lặng lẽ đánh thức tâm thức người dân xứ Thiền Kinh trở lại với nguồn tâm “cư trần lạc đạo”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã - Huế

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd