Mơ thấy sát hại người khác: Đang chịu đựng áp lực tình cảm –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Sau dịp tết Nguyên đán Bính Thân, mọi hoạt động đều trở lại thường nhật. Trong những công việc thường ngày, thì việc xây dựng được nhiều người chủ trương tiến hành.
Vật đổi sao dời. Sau mỗi năm thì vận khí phong thủy của các phương vị sẽ khác đi. Nên trước khi xây dựng, tu sửa hoặc sử dụng vật khí phong thủy để hóa giải những yếu tố bất lợi, hay thúc đẩy vận khí đều phải được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng.
Thái tuế đóng Bính Thân, Cửu tinh lưu niên sẽ là Nhị hắc Cự môn. Khi Nhị hắc nhập trung cung, theo quỹ tích phi tinh, tám tinh diệu còn lại bay tới 8 hướng khác nhau (Tam bích đến Tây Bắc, Tứ lục tới Tây, Ngũ hoàng tới Đông bắc, Lục bạch tới Nam, Thất xích tới Bắc, Bát bạch tới Tây Nam, Cửu tử tới Đông, Nhất bạch tới Đông Nam), tạo nên những vấn đề cát hung, may mắn và bất lợi khác nhau.

Tinh bàn Cửu tinh năm 2016
Dưới đây là phần liệt kê những phương vị bất lợi và cát lợi trong năm 2016.
Hướng Bắc: Tại phương vị này phi tinh Thất xích bay tới. Thất xích là một sao hung tinh, tặc tinh, đặc biệt sao này suy khí trong thời kỳ vận 8 nên tránh việc khởi công động thổ tại phương vị này. Dễ xảy ra tình trạng mất trộm, hao hụt tài sản, bị thương tích đột ngột do các vật dụng bằng kim loại.
Đặc biệt vào giai đoạn tháng 5 âm lịch, phi tinh tháng là Thất xích, giúp cường hóa hung tinh này. Cần đề phòng mất trộm, tai nạn, thương tích đột ngột. Nếu hướng nhà ở phương vị này nên đặc bể cá cảnh để hóa giải những bất lợi kể trên.
Hướng Nam: Tại phương vị này phi tinh Lục bạch bay tới. Sao này là một trong tam đại cát tinh nhưng ở thời kỳ vận 8 thì sao này là một sao sát khí, nên không đem lại may mắn và vinh quang khi đắc lệnh. Nếu khởi công động thổ tại phương vị này dễ bị các vấn đề rắc rối liên quan tới pháp luật, kiện tụng, hình pháp lôi thôi và các bệnh về dường hô hấp. Đặc biệt vào tháng 6 âm lịch, nguyệt phi tinh là Lục bạch sẽ cường hóa tính chất bất lợi ở phương vị này.
Nên đặt bể cá, hoặc các bình chứa nước tại phương vị này trong căn nhà để hóa giải sát khí.
Hướng Tây Nam: Hướng này là vị trí của sao Bát bạch chiếu tới trong năm. Bát bạch là một trong những cát tinh rất tốt, đặc biệt hơn nó lại là sao vượng khí đương lệnh. Nhưng gặp lưu niên Thái tuế Bính Thân thì phương vị này là phương vị gặp Thái tuế. Nên vì lẽ đó may mắn cát lợi của sao này đưa lại không được bao nhiêu. Đặc biệt Thái tuế ở phương vị Tây Nam, địa chi là Thân, thuộc tính là Canh Kim, dễ gây ra những tai nạn thương tích. Đặc biệt không được động thổ khởi công ở phương vị này.
Nếu nhà ở phương vị này nên đặt tượng của các con giáp như Tị, Tý, Thìn, để tạo thế nhị hợp, tam hợp với Thái tuế, hóa giải kết dứt điều hung hại, mang lại cát lợi và may mắn.
Ngoài ra vì Thái tuế thuộc Kim nên có thể sử dụng các vật phẩm, đồ đặc mang tính Thủy để chế giải
Hướng Đông Bắc: Tại hướng này, phi tinh Ngũ hoàng bay tới. Đối với vận 8 thì Ngũ hoàng là một sao sát khí, và sao này được coi là một đại sát tinh, gây nên các tai họa về nhiều mặt, thị phi hình pháp, ảnh hưởng sức khỏe, hao tiền hại của. Cũng tại phương vị này xung đột với Thái tuế lưu niên nên tối hung. Tuyệt đối không nên khởi công động thổ tại phương vị này.
Nhà ở hướng Đông Bắc nên treo các vật khí bằng kim loại trước cửa nhà như xâu tiền 6 đồng, hồ lô kim loại, chuông gió đồng. Vì Ngũ hoàng thuộc hành Thổ, dùng những vật khí kim loại, tạo ra thế Thổ - Kim tương sinh hóa giải những luồng sát khí tại phương vị này.
Hướng Tây Bắc: Sao Tam bích sẽ tới phương vị này, vì là sao thất lệnh nên sao này gây ra những vấn đề thị phi, miệng tiếng, xung đột cãi vã, và các bệnh liên quan tới gan, mật. Không nên, động thổ, khởi công hay sửa chữa gì tại phương vị này.
Nếu nhà tại hướng này nên treo đèn lồng đỏ, vì Tam bích hành Mộc, tương sinh cho Hỏa khí, chế giải điều hung họa, nguy hiểm.
Hướng Đông: Tại phương vị này sao Cửu tử bay tới, Cửu tử là sao sinh khí trong vận 8, sẽ mang lại may mắn đặc biệt về công danh, tiền bạc. Nên động thổ khởi công tại phương vị này, sẽ rất cát lợi.
Nhà ở phương vị chính Đông nên treo đèn lồng đỏ, hoặc trồng cây, đặt chậu cây cảnh trước nhà để thúc đẩy vận khí may mắn do sao Cửu tử đưa lại. Vì Cửu tử thuộc hành Hỏa, gặp Mộc và Hỏa đều thịnh vượng, hanh thông.
Hướng Tây: Phi tinh Tứ lục bay tới, kết hợp với vận tinh Nhất bạch của vận 8 tạo nên tổ hợp nhất tứ đồng cung. Nhất bạch – Tham lang – Văn xương, Tứ lục – Văn khúc. Tổ hợp sao này đặc biệt cát lợi cho vấn đề học tập, nghiên cứu, khoa cử đại phát. Nên tu sửa, khởi tạo tại phương vị này.
Hướng Đông Nam: Sao Nhất bạch bay tới phương vị này, kết hợp với địa bàn nguyên đán (Cung Tốn, thuộc Tứ lục), tạo nên tổ hợp nhất tứ đồng cung thuận lợi phát đạt cho sự nghiệp học hành và khoa cử. Nên tu sửa khởi tạo.
Như vậy Lưu niên Thái tuế Bính Thân có hai phương vị đại phạm tuyệt đối không nên khởi công, động thổ hay xây dựng và sửa chữa đó là Đông Bắc, Tây Nam.
Hiện tượng: Tủ lạnh chính đối với bếp ga. về bố cục cũng là tương khắc thủy hỏa bời vì tủ lạnh cũng thuộc thủy.

Phương pháp hóa giải: Bạn hãy rời vị trí tủ lạnh sang chỗ khác không để cho cửa tủ lạnh chính đối với bếp ga. cách càng xa càng tốt.
1. Hội Kén Rể
Thời gian: tổ chức vào ngày mùng 2 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm tổ chức: làng Đường Yên, xã Xuân Nộn, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn nữ tướng Lê Thị Hoa thời hai Bà Trưng
Nội dung: Theo truyền thuyết xưa, nữ tướng Lê Thị Hoa từng tham gia đánh giặc Nam Hán và được hai Bà Trưng sắc phong "Nữ sử anh phong". Bà trở về làng cùng nhân dân lập ấp, phát triển canh nông. Để ghi nhớ công lao của bà, nhân dân Đường Yên đã tổ chức hội kén rể với nghi thức và những trò chơi dân gian hết sức độc đáo để chọn rể hiền cho nữ tướng. Mở đầu hội là lễ vinh quy bái tổ của nữ tướng Lê Hoa. Sau phần lể là màn trình diễn độc đáo của 2 chàng trai trong phần thi kén rể. Họ phải trổ tài kể vè, giới thiệu bản thân, cấy lúa, cày ruộng, câu ếch, bắt lợn, "chõng chó" (chọc cho chó sủa vang lên).
2. Hội Đánh Cá Làng Me
Thời gian: tổ chức vào ngày mùng 2 tới ngày mùng 10 tháng 2 âm lịch (chính hội vào ngày 4 tháng 2).
Địa điểm: làng Me, xã Tích Giang, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây cũ (nay thuộc Hà Nội).
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Thần Tản Viên (hay gọi là Đức thánh Tản).
Nội dung: trong hội, người dân làng Me tổ chức hội thi đánh cá để dâng tiến lên Ngài. khi chuẩn bị thi người trực tiếp dự thi sẵn sàng nơm, chũm, vó... Trên tay chờ hiệu lệnh xuống ao thi tài. sau khi một cụ cao niên có uy tín trong làng làm lễ khấn xin phép thành hoàng làng, lập tức lệnh đánh cá được bắt đầu với một hồi trống ngũ liên làm hiệu. Chỉ chờ có vậy, những người dự thi nhất loạt nhảy xuống ao đánh cá. Tiếng trống thúc, tiếng reo hò trên bờ, cộng với tiếng xé nước ùm ùm dưới ao tạo nên không khí tưng bừng của ngày hội. Cuộc thi đánh cá diễn ra đến qua 1 giờ chiều thì kết thúc. Sau khi công bố giải thưởng, số cá đánh được trong hội thi được đem chia đều cho tất cả người dân trong làng để làm tiệc cá. Theo tâm niệm của người dân, phần cá được chia chính là phần lộc đem lại may mắn trong suốt một năm trong mỗi gia đình.
3. Hội Miếu Ông Địa
Thời gian: Tổ chức vào ngày 2 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: 125 đường Lê Lợi, phường 3, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh.
Đối tượng suy tôn: Vía Thổ địa Phúc Đức Chính Thần và nhiều vị Thần dân gian khác.
Nội dung: Miếu Ông Địa là lễ hội tiêu biểu trong các lễ hội miếu ở thành phố Hồ Chí Minh và Nam bộ với các nghi thức:"gióng trống khai trang" thông báo vào lễ, "mời trầu" bằng điệu hát bóng rỗi để thỉnh Thần vè dự lễ, diễn tuồng hài "Địa Nàng" với nhân vật ông Điah và nàng tiên với ý nghĩa phê phán thói hư tật xấu trong xã hội hương thôn xưa. Tiếp đó các nghệ nhân dân gian trình diễn các màn múa mâm vàng, mâm bạc và múa đồ chơi. Kết thúc hội là nghi thức phát lộc.
Bên cạnh những sát khí về hình thể loan đầu tồn tại những dạng sát tinh thuộc dạng lý khí. Những sát tinh này chúng ta không thể nhìn thấy được, cầm nắm được, hay cảm nhận được. Như những luồng sóng điện từ, sóng truyền thanh, truyền hình, sóng viễn thông hay từ phổ của Trái đất, trường khí mà sát tinh lý khí này tạo ra gây những ảnh hưởng vô cùng bất lợi đối với cư nhân trong dương trạch.
Mặc dù không cầm nắm, đo đếm, nhìn thấy được nhưng trên cơ sở tính toán nghiên cứu về phong thủy và thực nghiệm nhiều lần trong thực tiễn cuộc sống, con người ta đã rút ra những quy luật về nó.
So với sát khí về hình thể thì sát tinh lý khí đơn giản hơn, chủ yếu có mấy dạng, nhưng uy lực gây họa của nó không hề nhẹ, nhất là khi nó cộng hưởng với sát khí hình thể càng tạo nên nhiều nguy cơ cho người ở trong căn nhà.
Trong Thái dương hệ của chúng ta có một hành tinh là Mộc tinh. Mộc tinh là hành tinh thứ năm trong hệ Mặt trời tính từ Mặt trời trở ra, theo thuyết Nhật tâm của Bruno, cũng là một quan điểm khoa học hoàn toàn đúng đắn về vũ trụ, thiên văn.
Người xưa, đã quan sát kỹ lưỡng chu kỳ chuyển động của Mộc tinh, và ghi chép lại thành hệ thống những kiến thức khoa học thiên văn. Ta có thể dễ dàng tìm thấy các thông tin về hành tinh này trong Sử ký của Tư Mã Thiên thời Tây Hán hoặc trước đó nữa. Mộc tinh chuyển động quanh Trái đất theo một quỹ đạo có chu kỹ là 12 năm, hệ quả của nó tạo ra từ quá trình này là trường khí của nó tạo ra lực hút, sự tương tác mạnh yếu khác nhau tại các phương vị trên Trái đất, và quá trình tương tác này sẽ có những yếu tố may rủi họa phúc khác nhau. Người ta đã biểu diễn chu kỳ này bằng hệ thống 12 địa chi, 12 trực…Mộc tinh còn được gọi một cái tên rất quen thuộc đó là Thái tuế.
Các môn khoa học dự đoán như Tử vi đẩu số, Tứ trụ Tử bình đều đặt vấn đề nhập hạn Thái tuế rất quan trọng. Nhà đẩu số Thiệu Vĩ Hoa có nói: “Hợp Thái tuế thì may mắn cát lợi, xung Thái tuế tất có điều hung họa”. Trong Tử vi người ta hay có câu: “Gặp Thái tuế không có hỷ cũng có họa”.
Đối với Phong thủy, gặp Thái tuế thường mang lại những điều bất lợi, có thể gặp những điều xấu bất ngời, họa vô đơn chí, hao tiền tốn của, gia đạo lục đục, tai nạn bệnh tật… Người ta có câu: “Động thổ trên đầu Thái tuế”. Nghĩa là tại các phương vị khác nhau, mỗi khi Thái tuế nắm lệnh tại phương vị đó sẽ gặp nhiều bất lợi, ai làm nhà, xây dựng…cũng đều hết sức kiêng dè. Câu nói trên còn dùng để chỉ những người thiếu hiểu biết, vô minh, liều lĩnh, hồ đồ. Thái tuế được tính như sau.
Năm Tý – Thái tuế ở Chính Bắc
Năm Sửu, Dần – Thái tuế ở Đông Bắc
Năm Mão – Thái tuế ở Chính Đông
Năm Thìn, Tị - Thái tuế ở Đông Nam
Năm Ngọ - Thái tuế ở Chính Nam
Năm Mùi, Thân – Thái tuế ở Tây Nam
Năm Dậu – Thái tuế ở Chính Tây
Năm Tuất, Hợi – Thái tuế ở Tây Bắc.
Tại các phương vị Thái tuế, người ta kiêng kỵ động thổ, xây dựng. Nếu như căn nhà mà đã xây dựng trước đó, người ta cũng hạn chế hoạt động, để máy móc rung chuyển tại các phương vị đó. Thái tuế được coi là một là một một sát tinh có uy lực mạnh nhất, đứng đầu sát tinh về lý khí.
Đối với Thái tuế không có cách chế giải, người ta chỉ thường né tránh nó, tránh động thổ, khởi công, xây dựng, đào bới, san lấp, tu sửa ở các phương vị này.

Chòm sao Đại Hùng trong vũ trụ còn gọi là chòm sao Bắc Đẩu, chòm sao này có dạng hình cái gáo, được hợp thành bởi 9 vì sao trong đó có các sao Thiên Toàn, Thiên Khu, Thiên Lộc, Thiên Quyền, Ngọc Hành, Khai Dương, Dao Quang, Tả phù, Hữu Bật. Đó chính là hệ thống Cửu tinh trong Phong thủy Huyền không…Chòm sao này có chu kỳ chuyển động và tạo ra những trường khí và lực hấp dẫn khác nhau, con người sống trên Trái đất và đương nhiên cũng chịu những lực tác động vô hình đó
Sao Ngọc Hành còn gọi là sao Ngũ Hoàng, Liêm Trinh, là một trong những đại sát tinh của trạch vận, sao này mang hành Thổ, khi thất lệnh sẽ gây ra nhiều tai họa bệnh tật, người ta gọi là Ngũ hoàng sát, Liêm trinh sát, Mậu kỷ sát, Chính quan sát. Nếu Ngũ hoàng trùng lặp với Thái tuế thì sát khí lại càng mạnh
Khi Ngũ hoàng nhập trung cung là Hoàng cực đóng tại chính vị, ngôi vị tôn quý. Khi bay ra 8 cung còn lại thì sẽ tạo ra những ảnh hưởng hung họa. Cụ thể:
Phương Khảm: Phương vị chính Bắc, chủ về bệnh tiết niệu, tai, thận, bệnh đường huyết, phụ nữ gặp tai nạn thai sản
Phương Cấn: Phương vị Đông Bắc, chủ về bệnh đường ruột, dạ dày, chân trái bị thương, bệnh khớp, trẻ nhỏ suy nhược, đau đầu, chóng mặt
Phương Chấn: Phương vị chính Đông, đau đầu, đau lưng, tai nạn xe cộ, vì tiền mang họa
Phương Tốn: Phương vị Đông Nam, chủ về đốt sống cổ, bệnh thần kinh, bệnh ngoài da, con cái học kém
Phương Ly: Phương vị chính Nam, chủ về bệnh mắt, tim, não, huyết áp không ổn, chóng mặt, tai nạn đổ máu, cãi cọ, kiện tụng
Phương Khôn: Phương vị Tây Nam, chủ về người mẹ mắc bệnh tỳ vị, đau vai phải, tranh chấp ruộng đất, tai nạn đổ máu
Phương Đoài: Phương vị chính Tây, chủ về chịu hình phạt, mang tiếng xấu, đau thắt lưng trái, bị kim loại tổn thương, ngộ độc thực phẩm
Phương Càn: Phương vị Tây Bắc chủ về người cha mắc bệnh, đau đầu, kiện cáo, đau chân phải, đau tim, bệnh não
Trung cung: chủ bệnh tim, gia đình bất hòa, lở loét, gặp tai nạn bỏ mạng
Ngũ hoàng sát có một đặc tính là thích tĩnh, nên tại những phương vị này nên hạn chế các hoạt động, tránh đặt các máy móc rung động lớn. Nếu như căn nhà đã xây mà Ngũ hoàng tới hướng, có thể đặt các vật khí phong thủy bằng kim loại để hóa giải sát khí này vì Thổ sinh Kim, nên sát khí của hung tinh này bị chiết giảm và hóa giải.
Ngoài ra, nếu động thổ, khởi công tại phương vị có Ngũ hoàng lưu niên, Ngũ hoàng tháng, ngày có thể dùng những ngày Giáp, Ất thuộc Mộc, hoặc Canh, Tân thuộc Kim để hóa giải, đó là về thiên can, ngoài ra có thể sử dụng các ngày có địa chi Dần – Mão – Thìn (Tam hội Mộc cục), Hợi – Mão – Mùi (Tam hợp Mộc cục), Thân – Dậu – Tuất (Tam hội Kim cục), Tỵ - Dậu – Sửu (Tam hợp Kim cục) để hóa giải sát khí

Như hình vẽ trên năm 2006 Bính Tuất thì Ngũ hoàng lưu niên bay đến phương vị chính Tây, nếu khởi công tại đó thì sẽ phạm Ngũ hoàng
Tam sát chia ra làm hai loại bao gồm
Dần – Ngọ - Tuất (Hỏa cục)
Tị - Dậu – Sửu (Kim cục)
Hợi – Mão – Mùi (Mộc cục)
Nếu chọn ngày xây dựng hay khởi công động thổ và những năm, tháng, ngày, giờ tam hội cục đối nghịch là sẽ phạm tam sát về thời gian.
Ví dụ cụ thể: Năm Thân thuộc tam hợp Thân – Tý – Thìn (Thủy cục) mà lại tiến hành khởi công vào các tháng, hoặc ngày, hoặc giờ Tị - Ngọ - Mùi (Tam hội cục Hỏa), Thủy, Hỏa đối khắc nên phạm tam sát về thời gian. Các trường hợp khác cũng tương tự như vậy.
Ví dụ: Năm Mũi, thuộc tam hợp Hợi – Mão – Mùi (Mộc cục) mà động thổ tại phương vị chính Tây có các tam hội cục Thân – Dậu – Tuất (Kim cục) nên trường hợp này gọi là phạm tam sát về phương vị.
Để tránh tam sát về phương vị, kinh nghiệm dân gian ta thường nói rằng, năm dương bào gồm có các địa chi dương Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất thì đại lợi theo hai hướng Tây – Đông
Các năm âm, gồm các địa chi âm Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi thì đại lợi ở các phương vị Nam – Bắc.
Tam sát thường gây ra bốn hậu quả có thể xảy ra
+ Tai nạn bất ngờ, như tai nạn lao động, hoặc tai nạn giao thông
+ Kiện tụng
+ Hao tài
+ Sức khỏe bị ảnh hưởng: Bắc (Xương cốt, sức khỏe giới tính, đường tiết niệu, thận, tử cung, bàng quang), Nam (Tim, huyết quản, huyết áp, trúng gió), Đông (Kinh lạc, gan, mật), Tây (Đường hô hấp, miệng, mũi, da).
Hóa giải tam sát bằng những biện pháp sau:
![]() |
| Tuổi Hợi |
Tuổi Ất Hợi (1935, 1995)
- Ngày, giờ nên tránh: Ất Hợi, Ất Tỵ, Tân Hợi
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Tân Tỵ
Tuổi Đinh Hợi (1947, 2007)
- Ngày, giờ nên tránh: Đinh Hợi, Đinh Tỵ, Quý Hợi
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Quý Tỵ
Tuổi Kỷ Hợi (1959)
- Ngày, giờ nên tránh: Kỷ Hợi, Kỷ Tỵ, Ất Hợi
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Ất Tỵ
Tuổi Tân Hợi (1971)
- Ngày, giờ nên tránh: Tân Hợi, Tân Tỵ, Đinh Hợi
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Đinh Tỵ
Tuổi Quý Hợi (1983)
- Ngày, giờ nên tránh: Quý Hợi, Quý Tỵ, Kỷ Hợi
- Ngày, giờ đặc biệt nên tránh: Kỷ Tỵ.
Theo Đời người qua 12 con giáp
![]() |
Sắc: Số cô độc, vất vả, khắc cha mẹ, trung niên gặp nhiều tai ương nhưng cuối đời cát tường.
Sách: Lương thiện, đức hạnh, gia cảnh tốt, có nhân duyên tốt, trung niên thành công, phát tài, phát lộc.
Sam: Thật thà, mau miệng, đa tài, nhanh trí. Nếu kết hợp với người mệnh cát sẽ gặp cát, kết hợp với người mệnh hung sẽ gặp hung.
Sản: Thuở nhỏ vất vả, trung niên cát tường, cuối đời hưng thịnh, phú quý, gia cảnh tốt.
San: Trung niên vất vả, cuối đời hạnh phúc. Nếu là nữ sẽ gặp nhiều tai ương, số tái giá hoặc ở góa.
Sao: Số vất vả, tình yêu khó thành, trung niên vất vả, cuối đời cát tường.
Sĩ: Tính khí ôn hòa, đa tài, nhanh trí, trung niên luôn ưu tư, vất vả, cuối đời cát tường.
![]() |
| Cái tên thể hiện sức sống mãnh liệt |
Sinh: Trí dũng song toàn, số xuất ngoại, có nhiều tiền tài, số 2 vợ, trung niên phát tài, phát lộc.
Soái: Tính tình quyết đoán, số khắc cha mẹ, trung niên thành công, hưng vượng, cuối đời vất vả.
Sơn: Số cô độc, không cha, không mẹ, thuở nhỏ gian nan, trung niên thành công, hiếm muộn con cái, là người phù hợp với các công việc liên quan đến kỹ thuật.
Song: Đa tài, số thanh nhàn, trung niên sống bình dị, cuối đời cát tường. Nếu là nữ thì khắc chồng, khắc con, vẻ ngoài sung sướng nhưng nội tâm đau khổ.
Sử: Cả đời phúc lộc tràn đầy, trung niên gặp nhiều tai ương, cuối đời phát tài phát lộc, con cháu ăn nên làm ra.
Sự: Là người nhạy cảm, cuộc đời thanh nhàn. Tuy sự nghiệp không thành nhưng cuối đời vẫn được hưởng phúc lộc.
Sư: Số khắc cha mẹ, tuổi trẻ gian khó, trung niên lắm tai ương, cuối đời cát tường.
Sứ: Tính tình ôn hòa, hiền hậu, số hay ưu tư, vất vả, nếu ra ngoài sẽ gặp phúc, được tài lộc. Gia đình trên dưới hòa thuận, cuối đời cát tường.
Sung: Là người điềm đạm, hiền hậu, số bôn ba vất vả nhưng nếu xuất ngoại sẽ đại cát. Trung niên thành công, phát tài, phát lộc.
Sủng: Đa tài, số thanh nhàn, phú quý, trung niên cát tường. Là phụ nữ sẽ có số sát chồng, khắc con cái.
Sửu: Cuộc đời thanh nhàn, bình dị, số 2 vợ, trung niên cát tường
Theo Tên hay thời vận tốt
Có những người nội tâm không ai nhìn thấu, tuy rằng bề ngoài kiên cường nhưng trong lòng lại rất yếu đuối, bị tổn thương cũng chỉ có thể tự mình chịu đựng, chỉ cần người khác mở lời xin lỗi là lập tức đồng cảm, tha thứ. Trong 12 cung hoàng đạo, thì 3 chòm sao nữ vị tha dưới đây xứng đáng được phong là “thánh nữ”.
![]() |
![]() |
Chùa Chân Tiên (Chùa Báo Thiên) được dựng vào đời vua Lý Thánh Tông ( thế kỷ 12 ). Đến thế kỷ thứ 18 Chùa bị di rời ra thôn An Phụ ( khu vực Hỏa Lò ) lấy tên là Chân Tiên nhằm giữ lại địa danh gốc của chùa ở thôn Tiên Thị , giáp thôn Chân Cầm. Khi thực dân Pháp xây trại giam Hỏa Lò đã chuyển chùa Chân Tiên về chỗ ở hiện nay ở 151 phố Bà Triệu, phường Lê Đại Hành, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội.
Chùa đã tu sửa nhiều lần. Chùa quay mặt về hướng Tây, tam quan chùa sát đường Bà Triệu. Bên trong có Tam bảo, nhà thờ tổ, nhà thờ Quan Âm, điện mẫu, trai phòng, vườn tháp nhà tưởng niệm anh Hùng liệt sỹ.
Hiện nay, trong chùa còn giữ được một số mảng chạm khắc trên kiến trúc, tượng, di vật, đồ tự, đồ tự khí mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 18, 19.
Chùa Chân Tiên cùng với đình Phụ Khánh (là một cụm di tích tại 151 phố Bà Triệu) đã được Bộ Văn hóa và Thông tin xếp hạng di tích lịch sử, nghệ thuật ngày 2 – 3 -1990.
Ví dụ như người gù, bướu (hình dáng cơ thể), người què, người nói lắp (cà lăm), người cận thị, viễn thị là có tật.
Những bộ sao tật ghi nhận được tương đối ít, không liệt kê được hết các tật.
- Vượng, Kình, Đà hay Hình: lưng có tật, có thể là lưng gù, nghiêng về phía phải hay trái.
- Mã, Đà hay Tuần, Triệt: có tật ở chân tay có thể là què chân dài chân ngắn, tay cán xẻng, tay lọi. chân hay to nhỏ không đều, có thể cụt một chân một tay, hoặc mất bàn chân, bàn tay.
- Việt Đại Tiểu hao: So vai, vai cao, vai thấp. Khôi. Việt gặp Hình cũng có nghĩa này.
- Tướng, Hình: có tật ở trên đầu, có thể là đầu méo, đầu to hay thật nhỏ, đầu hói hết tóc. . .
- Phục, Hình: nói ngọng.
- Tuế, Đà, Riêu, Cái: nói lắp (cà lăm).
- Vũ Riêu, Việt, Toái: câm.
- Sát Kình, Đà, Linh, Hỏa: tật gù lưng.
- Cự Hỏa hay Linh: miệng méo.
- Ky, Riêu: sứt môi.
- Phượng, Kiếp, Kình: điếc.
- Trì, Kình: mũi sống trâu, mũi lệch.
- Nhật, Nguyệt gặp Riêu, Đà hay Ky: mắt có tật, có thể là cận thị, viễn thị. loạn thị. Nếu gặp cả ba thì tật nặng có thể lòa, quáng gà.
- Vũ, Tướng: có ám tật, tật kín.
- Cự, Nhật: hình dáng dị kỳ.
- Tồn, Không, Kiếp: Có ám tật mới sống lâu.
Thông thường các sao Thiên Hình, Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Hóa Kỵ, Thiên Riêu là những sao thường gây tật khi đi cùng với những bộ sao chỉ bộ phận cơ thể.
Chư tinh diệu và tổ hợp tinh diệu thể hiện diện mạo, thân hình, tính cách đặc trưng
Trung châu phái có một phương pháp riêng biệt có thể từ tinh diệu cùng tinh hệ tại mệnh cung mà giám định về diện mạo,thân hình,cũng như tính cách đặc trưng.Chúng ta (tôi?) không có khả năng gặp mặt một người,rồi lập tức nói ra toàn bộ tổ hợp tinh hệ tại mệnh cung nhưng ngược lại sau khi an xong lá số,có thể căn cứ tinh hệ mệnh cung mà giám định diện mạo ,thân hình tính cách đặc trưng,mục đích là để kiểm tra lá số có chính xác không.
Bình thường ,người xem số tử vi chỉ bằng dữ liệu năm ,tháng,ngày ,giờ sinh do người hỏi cung cấp mà lập lá số,sau đó lập tức tiến hành giải đoán đến lỗi đoán sai vận hạn,thậm chí có trường hợp còn tạo thành bi kịch.Cho nên dựa vào diện mạo ,thân hình,sinh lí đặc trưng mà kiểm định sự chính xác của lá số là việc không được xem nhẹ.Lá số không đúng,nguyên nhân có thể chia làm hai trường hợp:
Trường hợp một,đương sô cung cấp sai giờ sinh,thậm chí ngày,tháng sinh.
Trường hợp hai:hic,khó hiểu quá nên chưa dịch được,bác nào thấy đoạn này thì giúp em với,trong đó nói cái gì mà mỗi cá nhân hay mỗi giờ sinh có phân biệt ra thiên bàn, địa bàn, nhân bàn..vv,em nghĩ là nói về trường hợp giờ khe ! Cung để kiểm tra diện mạo,thân hình, tính cách thường là cung mệnh,nhưng tinh diệu tại mệnh cung chủ về hình thái tiên thiên (bẩm sinh) là chính.Nếu hình thái sau này (hậu thiên hình thái) có thay đổi đáng chú ý nào thì hẳn là phải xem tại cung an Thân.Gọi là tiên thiên hình thái,ví dụ như hình dạng khuôn mặt, con số chiều cao,độ cao thấp của cái mũi, của gò má,dị biệt của bộ lông,tóc,một số chàm bớt … bẩm sinh,nhãn thần,nhãn hình….Những đặc điểm này không thay đổi theo tuổi tác.Về phần hậu thiên hình thái,cùng với tuổi tác ,thay đổi dễ nhận thấy do sinh hoạt là béo gầy,màu da, sắc mặt,cùng với sự thay đổi do bản chất sinh lí như tước ban (tàn nhan,tàn hương),hắc chí (nốt ruồi),ám sang,thậm chí là cận thị,quáng gà(tán quang).Những đặc điểm trên có thể xem xét tại cung an Thân.Ngoài ra có một số đặc điểm thuộc về di truyền,tất phải xem xét cung phụ mẫu,cổ nhân từng gọi phụ mẫu cung là tướng mạo cung,do đó ta có thể xem xét cung phụ mẫu để tìm những đặc điểm cơ bản được di truyền từ cha mẹ (thậm chí bao gồm những bệnh tật di truyền).Do đó khi kiểm định lá số,cũng cần tham khảo phụ mẫu cung.
Tiền nhân để lại một thiên “hình tính phú” để đề cập đến hình dáng,tính cách thể hiện qua các tinh diệu,tác giả nhất nhất tiến hành chú thích cặn kẽ,có điều đáng tiếc là thiên “hình tính phú” chỉ chú trọng tinh diệu mà không đề cập đến tinh hệ ,cho nên ứng dụng vào thực tế bị hạn chế.Nói thực,ngay cả sở truyền của Trung châu Phái cũng chỉ chú trọng đến tinh diệu.Mặc dù tác giả cũng đã ghi chép lại một ít kinh nghiệm từ bản thân về phương diện kiểm định hình tính qua tinh hệ ,nhưng vẫn không được đầy đủ,hy vọng tương lai có thể bổ sung.
Chư tinh diệu cập tinh hệ hiển kì đích diện mạo thân hình tính cách đặc chinh
Để tiện lợi cho độc giả lí giải hình dáng khuôn mặt,sắc diện trước tiên tác giả xin phân ra tám loại khuôn mặt :
Viên kiểm:Mặt ngắn,trán và cằm tròn
Phương kiểm:trán và cằm vuông
Trường viên kiểm:trán và cằm tuy tròn nhưng khuôn mặt dài.
Trường phương kiểm:trán và cằm tuy vuông,nhưng khuôn mặt dài
Viên phương kiểm:trán và cằm tròn nhưng lưỡng quyền cao,mặt góc cạnh
Phương viên kiểm:trán và địa các tuy vuông ,những lưỡng quyền tròn,đầy đặn.
Thượng viên hạ phương:trán tròn,cằm vuông
Hạ viên thượng phương:trán vuông,cằm tròn.
Sắc diện phân ra sáu loại:
Tử thang sắc : đen không phải đen,trắng không phải trắng,đỏ suốt.
Hồng hoàng sắc: vàng,nhưng hơi hồng.
Hoàng bạch sắc: trắng nhưng hơi vàng.
Thanh bạch sắc: trắng xanh.
Thanh hoàng sắc: vàng nhưng hơi xanh
Tử hắc sắc: đen nhưng hơi xanh
Hoàng hắc sắc: đen nhưng hơi vàng.
Hồng bạch sắc:trắng nhưng hơi hồng.
Nguyên phu tử vi đế tọa, sanh vi hậu trọng chi dung.
Tử vi chủ nhân dáng vẻ đầy đặn,khuôn mặt bầu dục ,dù mập mà không phệ, dù gầy mà không lộ xương,đó gọi là hậu trọng chi dung.
Thiên phủ tôn tinh dã, tác thuần hòa chi thể.
Thiên phủ chủ nhân khuôn mặt vuông hoặc chữ nhật,ánh mắt thanh khí.
Môi hồng răng trắng,đẹp đẽ gọi là thuần hòa chi thể
Kim ô viên mãn, ngọc thỏ thanh kì
Kim ô chỉ thái dương,chủ nhân khuôn mặt hơi tròn,ngọc thỏ chỉ thái âm,tuy cũng thuộc loại mặt tròn hoặc bầu dục nhưng màu da không được hồng nhuận như thái dương.
Thiên cơ vi bất trường bất đoản chi tư, tình hoài hảo thiện.
Thiên cơ phần nhiều vóc dáng trung bình,nhẹ dạ,mềm lòng,nhưng cũng nóng tính,khuôn mặt xương (gầy),dài .Người miếu địa thì mặt dài hơi tròn.
Vũ khúc nãi chí cương chí nghị chi thao, tâm tính quả quyết.
Vũ khúc chủ nhân tính tình cương nghị,xử sự quyết đoán,nhưng nhãn quang không xa (không biết là nói về suy nghĩ không sâu xa hay là mắt kém)
Thiên đồng phì mãn, mục tú thanh kì.
Thiên đồng chủ nhân khuôn trường phương kiểm,hơi tròn.Thường thường thì đẫy đà,béo chắc, nhưng vẫn mi thanh mục tú.
Liêm trinh mi khoan khẩu khoát nhi diện hoành, vi nhân tính bạo, hảo phẫn hảo tranh.
Liêm trinh chủ nhân thân hình to khỏe,mi khoan,khẩu khoát,quyền lộ,xương vai lộ,khuôn mặt đầy đặn mà hơi góc cạnh.Thường thường tính cách mạnh mẽ mà hời hợt,nếu có văn diệu chuyển thành ôn hòa.
Tham lang vi thiện ác chi tinh, nhập miếu tất ứng trường tủng, xuất viên tất định ngoan hiêu.
Tham lang sinh nhân ,tính tình bất thường,tốt xấu vô định,hoặc là tâm kế,hoặc là nóng nảy mà tính xảo (xảo như trong xảo trá.),hoặc thủ đoạn viên hoạt, hay giúp người để lấy ơn,vì thế mà gọi là thiện ác chi tinh.Cư vào hãm địa,người nhỏ tiếng to.Nếu nhập miếu thì cao lớn ,đầy đặn.
Cự môn nãi thị phi chi diệu, tại miếu đôn hậu ôn lương.
Cự môn nhập miếu,thân hình mập mạp,vóc người cao vừa tầm,nếu lạc hãm thì chủ nhân gầy nhỏ,hay nói chuyện thị phi,lại đa nghi.Dù nhập miếu hay lạc hãm ,khuôn mặt cũng thuộc dạng trường phương kiểm.
Thiên tướng tinh thần, thiên lương ổn trọng.
Thiên tướng chủ nhân tính tình cẩn trọng ôn hòa,ánh mắt chánh đại mà thanh hòa.Thiên Lương chủ nhân,thân hình tuy không phong hậu viên mãn (đầy đặn),nhưng thái độ cử chỉ tự nhiên có chút cẩn trọng trang nhã.
Thất sát như tử lộ bạo hổ bằng hà
Bạo hổ bằng hà tức là không giận mà oai nghiêm , là ánh mắt cử chỉ chủ yếu của thất sát.Tử lộ là học trò của Khổng Tử,thần tình diện mạo vốn sẵn uy nghi.
Hỏa linh tự dự nhượng thôn thán vi ách.
Dự Nhượng kế hoạch ám sát Ngô vương Liêu,hóa trang biến dung,nhưng vẫn sợ người ta nhận ra giọng nói của mình,cho nên nuốt than làm cho giọng nói khàn khàn.Mệnh cung,Thân cung nếu kiến hai sao hỏa linh,thanh đới thượng dễ bị ám ách(thanh đới bộ phận chủ yếu tạo ra âm thanh),lại lắm lông ,tóc,thậm chí lông tóc quăn queo tự nhiên.
Bạo hổ bằng hà hề mục đại hung ngoan; Thôn thán vi ách hề ám ngoan thanh trầm.
Tử Lộ và Dự Nhượng đều có kết cục không tốt đẹp.Phải chú ý là luận đoán như vậy thực ra rất khái quát,là một loại khuynh hướng cơ bản về hình dáng tính cách,không thể lấy làm kết luận rộng ra ngoài tính chất hình dáng,tính cách.
Tuấn nhã văn xương, lỗi lạc văn khúc.
Văn khúc văn xương chủ nhân khuôn mặt thanh tú như tranh,nhưng văn xương nhàn nhã thông minh,văn khúc lỗi lạc đại phương (đại phương:chuyên gia,nhà chuyên môn,trong nghề…) .Giả như xương khúc cùng chiếu mệnh cung,chủ nhân thân hình đầy đặn,dù cho chính diệu mệnh cung chủ gầy nhỏ cũng chỉ có khả năng gia giảm nét đầy đặn.
Tại miếu định sanh dị chí, thất hãm tất hữu ban ngân.
Văn xương văn khúc chủ về ban điểm,bao gồm :đốm đen,mụn ruồi,các loại tàn nhang tàn hương(tước ban),chàm,bớt (ban ngân),ma điểm.Đại thể xương khúc nhập miếu dù có ban điểm nhưng không ảnh hưởng đến bề ngoài,nếu lạc hãm tất ảnh hưởng đến dung mạo.
Tả phụ hữu bật, kiến ôn lương quy mô.
Tả phù hữu bật cùng chiếu mệnh cung,hình dáng thanh tú,tả phù cũng như hữu bật đều đôn hậu.
Kình dương đà la, hữu kiểu trá thể thái.
Đà la mệnh cung,chủ nhân răng không đồng đều(hình như bao hàm cả vổ,răng vổ cổ chìa ^_^),Kình Dương mệnh cung,chủ nhiều thương tàn.Ngũ quan thiếu đoan chính,thân hình thô tráng,vẻ mặt giả trá.
Nhược phùng khôi việt, tất cụ túc uy nghi.
Thiên khôi viên kiểm, thiên việt phương kiểm, giai cụ uy nghi.
Mệnh hội tam thai, tắc thập toàn mô phạm.
Về tam thai có nhiều thuyết pháp bất đồng,tác giả sau khi so sánh thì khả tín là trường hợp tả hữu hội tử vi,hoặc tả hữu giáp thiên thủ.Chủ nhân cách này cao lớn uy nghi.
Phá quân bất nhân, bối hậu mi khoan, hành tọa yêu tà
Phá quân chủ nhân hình dáng yêu viên bối hội (yêu viên là cao lớn vạm vỡ, hai bên sau lưng ngang với ngực gọi là bối, hậu ý nghĩa là dầy,chiều dầy),ấn đường rộng (ấn đường- vùng giữa hai đầu lông mày),đi ngồi yêu tà,khuôn mặt dạng viên trường.Bản tính không nhân từ,đi ngồi gian trá,hỉ trợ người ác bất trợ người thiện.Chỉ kiến sát hình kị chư diệu mới đúng.
Tính thái như xuân, nãi lộc tồn chi thịnh đức
Lộc tồn chủ nhân má đầy mà dài,đa sấu,hình cô.Nhưng nói chuyện duyên như gió xuân.
Tình hoài tự hỏa, thành phá hao chi uy quyền.
Phá hao chỉ phá quân,phá quân chủ nhân tính tình cương liệt,hành động thì lộng hiểm (gian hành:có lẽ là hành động mờ ám,hoặc hành động mà không kỹ càng , ví dụ như theo kinh đại bảo tích: đi mà không nhìn đường là gian hành,nhìn đường mà không nhìn kỹ là gian hành)
Lộc phùng lương ấm, bão tư tài ích vu tha nhân.
Thiên Lương lộc tồn đồng cung,hoặc thiên lương hóa lộc ,cổ nhân cho rằng tổn tài,hành sự điên đảo.
Háo ngộ tham lang, sính dâm tình tử tỉnh để.
Hao chỉ phá quân,Phá quân gặp Tham Lang ,cổ nhân cho rằng chủ dâm bôn.
Văn khúc ám hợp liêm trinh, vi tham vọng chi tào lại.
Liêm trinh gặp văn khúc đồng cung,cổ nhân cho rằng tất làm tào lại trong công môn.
Nhật nguyệt khúc tương dữ thiên cơ, giai vi mĩ tuấn chi tư, nãi thị thanh kì chi cách, thượng trường hạ đoản, mục tú mi thanh.
Cổ nhân coi trọng thể thái ổn trọng,cho nên thượng trường hạ đoản tức là cách đẹp,ngày nay quan điểm thẩm mĩ thay đổi,đã khác với quan điểm của cổ nhân.
Vũ khúc tham lang, hình tiểu thanh cao nhi lượng đại.
Cách này nói về ba trường hợp :vũ khúc thủ mệnh,tham lang thủ mệnh,hoặc vũ khúc tham lang đồng cung.
Thiên đồng đà kị, phì mãn mục miễu nhi hối manh, hình sửu mạo thô.
Thiên đồng đà la đồng cung,mắt nhỏ,người béo.Nếu thấy sát kị tất dáng thô.
Hựu trị háo sát kình dương, thân thể tao thương.
Phá quân kình dương đồng cung thân thể có vết thương,bao gồm cả việc mổ xẻ.
Nhược ngộ đà la cự ám, tất sanh dị chí.
Cự ám tức cự môn.Cự môn đà la đồng cung,chủ nhân có nốt ruồi lạ,gọi là nốt rồi lạ là chỉ nốt ruồi có lông mọc hoặc nốt ruồi tự nhiên mọc ra.Tục gọi là ô quy chi loại.
Trung châu Phái chư tinh hình tính
Chư tinh hình tính:
Tử vi
Sắc mặt là tử thang sắc,lão niên (người già trên 60) chuyển thành hồng hoàng sắc.Nếu thấy hoàng bạch sắc thì nguyên nhân là do tinh diệu khác ảnh hưởng
Hình dáng trường viên hoặc hơi gầy,lưng vai đầy đặn.Vóc người cao vừa tầm.
Tính tình đôn hậu hào sảng chính trực,nhưng chí cao khí ngạo,rất chủ quan.Thiện ác tùy tâm,với lại yêu- ghét rất cường liệt.Duy chỉ thiếu quyết đoán dù có tài lãnh đạo,lại dễ cả tin.
Tử vi phá quân đồng cung,nếu gặp sát và kị tất nhãn thần như dao động bất định.
Tử vi kiến phụ ,tá chư diệu ,chủ quan nhiều mà chủ kiến ít,hình dáng tướng mạo cao lớn đầy đặn,đôi mắt hiền mà như có thần.
Tử vi tham lang đồng cung,khuôn mặt hơi dẹt.
Tử vi lộc tồn đồng cung,hình dáng tuy đầy đặn nhưng thần thái cô độc.
Thiên cơ
Sắc mặt thanh bạch,lão niên chuyển thành thanh hoàng sắc
Khuôn mặt bầu dục hơi gầy hoặc trường viên kiểm.Nhập miếu người cao béo,lạc hãm cao vừa tầm,gầy.
Thiên cơ cự môn đồng cung chủ gầy
Hội hợp cát diệu tất tốt tính,hội hợp hung sát tất láu cá.
Chủ nhân tâm từ mà tính nóng,cơ mưu đa biến,hoạt bát hiếu học,nhưng dễ rơi vào ảo tưởng.
Thiên cơ hội nhiều sát kị chư diệu ,nếu sau này giáo dưỡng không tốt dễ đi vào hạ lưu.
Thiên cơ thái âm đồng cung,mục quang linh động mà kín đáo.
Thiên cơ thiên lương đồng cung,mục quang nghiêm nghị lạnh lùng mà không nhiếp nhân.
Thiên cơ cự môn đồng cung,mục quang phù phiếm (chắc là mục quang bất định)
Thái dương
Sắc mặt hồng bạch,hồng hoàng,hoặc hơi tím hồng.
Khuôn mặt sung mãn,viên kiểm hoặc trường viên kiểm
Vào ngọ cung,chủ thân thể cao lớn,lạc hãm cung,hơi thấp,vượng cung tất cao vừa phải.
Tính rộng rãi hào phóng,không câu nệ tiểu tiết,bẩm tính thông minh.
Thái dương hóa kị,mắt có tật hoặc thường thấy chấm li ti đỏ ở con ngươi.
Thái dương cư miếu vượng,mục quang có thần.Nhưng tại ngọ cung quá vượng lại chủ mắt có tật.
Thái dương hóa kị,lại gặp sát tinh,hai mắt thì mắt to mắt bé hoặc cái cao cái thấp.
Vũ khúc
Sắc mặt thanh bạch,thanh hắc hoặc thanh hoàng.
Khuôn mặt bầu dục,hơi nhỏ (sấu là gầy ,nhỏ).
Vũ khúc cư thìn tuất hai cung,tức vào thiên la địa võng,chủ thân hình cao gầy.
Vũ khúc thất sát đồng cung tại mão cung,chủ thân hình mập mạp.Đồng cung tại dậu cung,cao vừa tầm,trừ những cung vị kể trên,tại các cung vị còn lại vũ khúc đích xác là người nhỏ tiếng to.
Tính quả cảm cương nghị,tâm trực vô độc,có tính quyết đoán nhưng nhiều ý kiến nông cạn.
Nhãn thần chính đại,nhưng nếu vũ khúc hóa kị thì thần sắc chuyển thành suy thảm,chủ không thọ.
Vũ khúc hóa kị lại thấy sát tinh,nhược chưởng (nhược chưởng chắc là vú) biến chuyển thằng bằng phẳng,chủ có bệnh ung thư.
Thiên đồng
Sắc mặt hoàng bạch.
Khuôn mặt chữ nhật hoặc chữ nhật hơi tròn.
Phàm thiên đồng tại mệnh cung,chủ nhân hình dáng đầy đặn,mi thanh mục tú, ánh mắt nhân từ.
Nếu thiên đồng hóa kị, tất ánh mắt nhu nhược, lại thêm hội sát tinh thì chủ mặt mày hốc hác,vàng vọt (phá tương).
Tính tình khiêm tốn ôn hòa, bản tính chính trực,nhát gan (pha sự còn có nghĩa là sợ phiền phức).Nhưng tư tưởng cao siêu,năng học năng thành.
Thiên đồng cự môn đồng cung,gặp hỏa tinh hoặc linh tinh,thân thể có bớt (chàm) hoặc nốt ruồi lạ.
Thiên đồng thái âm đồng cung tại Ngọ cung,kiến sát tinh thân thể doanh hoàng.
Thiên đồng đà la đồng cung,mắt nhỏ hoặc mắt chột (ba mãn nhi mục miễu, hoặc nhãn tế.)
Nữ mệnh thiên đồng thái âm đồng cung tại tý,nhãn thần lưu diễm (ý chỉ ánh mắt đẹp)
Liêm trinh
Sắc mặt vàng hoặc hoàng hắc sắc.Gặp tham lang đồng cung,tất sắc mặt hoàng bạch.
Khuôn mặt bầu dục mà nhỏ,kiến sát kị thì mặt dài cằm nhọn.Mi rộng miệng rộng,gò má cao.
Gặp thiên phủ đồng cung thì chủ mập mạp,nhưng da đen thô.
Phàm liên trinh tại mệnh cung chủ đa ngôn
Ánh mắt lộ quang,lông mày lộ cốt,lưỡng quyền lộ lăng.Nếu kiến sát kị hình diệu,tất mũi lộ khổng(hem hiểu,đoán chắc là mũi hếch),tai lộ xương.
Tính không câu nệ lễ tiết,hấp tấp gặp đâu nói đấy ,dẫn dến tranh cãi.Kiến khoa diệu,văn diệu thì thích lễ nghĩa.
Gặp thiên phủ đồng cung,chủ nội tâm khoan hậu.
Gặp tham lang đồng cung,bề ngoài đầy đặn.
Gặp thiên tướng đồng cung,ánh mắt sáng,nhưng hoặc vô định hoặc giảo hoạt
Nếu gặp thất sát đồng cung,kiến sát kị hình diệu,tất ánh mắt bạo lộ hoặc có những tia đỏ ở con ngươi
Liêm trinh phá quân đồng cung,tính thiếu nhẫn lại,mắt như trợn ra.
Thiên phủ
Sắc diện hoàng bạch.Gặp liêm trinh đồng cung tất da thô đen.
Khuôn mặt vuông hoặc phương kiểm hoặc trường phương kiểm,hoặc hơi tròn mà nhìn giống phương kiểm.
Người khá mập,lão niên phát phì,thân hình cao vừa tầm,
Ngũ quan đoanh chính,tâm tính ôn hòa trung hậu,có nghị lực,nhưng thiếu động lực.Chủ nhân đa học đa năng,cẩn trọng bảo thủ.
Ánh mắt tuấn tú nhưng không diễm lệ
Nếu hội hợp sát kị hung diệu,tất mục quang bất định.
Nữ mệnh thiên phủ ,tị đa trình đảm hình
Thái âm
Sắc mặt thanh bạch,hoặc hơi thanh hoàng, lạc hãm cung tất sắc mặt thanh hắc.
Khuôn mặt chủ đạo là tròn,hoặc viên kiểm,hoặc bầu dục mà hơi vuông.
Tính hướng nội,nhưng thông minh mẫn cảm,thích dùng tâm kế,đa tư đa lự.Bề ngoài đoan trang ôn hòa,thần sắc gian nhã (gian:cứng cỏi,nhã: nhàn nhã,dịu dàng).
Nếu thái âm hội đào hoa,tất ánh mắt mơ màng,hoặc mắt có diễm quang.Tục ngữ gọi là đào hoa nhãn.
Thái âm gặp xương khúc hội hợp,ngũ quan tuấn tú thanh kì,nhưng ánh mắt phù đãng(bay bổng,lướt nhẹ).
Tham lang
Sắc mặt thanh bạch hoặc thanh hoàng
Khuôn mặt bầu dục hoặc viên phương lộ cốt.
Người miếu địa thì thân hình cao lớn mập mạp,nếu hãm địa ,thì người nhỏ tiếng to mà hào sảng,tính tình bất thường
Dù lạc hãm hay miếu địa thì tính tình cũng chủ suy nghĩ sâu xa,yêu ghét bất định.Hành sự nóng nảy,không chịu yên tĩnh.Thích thủ đoạn tinh vi.
Phàm tham lang nhập mệnh,chủ có nhiều đam mê,nhìn thêm tinh hệ mà định tính chất.Nếu như hội văn diệu, tất thi tửu phong lưu,yêu thích văn nghệ.Nếu hội đào hoa chư diệu thì đa tham hoa tửu (hoa tửu:uống rượu có kỹ nữ hầu rượu),nếu hội sát diệu,tất nghiện thuốc nghiện rượu.
Nhãn thần mơ màng,nữ mệnh thì ánh mắt lưu lệ (đẹp) nhưng thiếu chính đại.
Nếu hội xương khúc chuyển ra ánh mắt giảo trá.
Nếu hội không diệu,ánh mắt lại thành trong sáng,chính trực.
Tham lang lạc hãm,gặp dương đà,lại thêm hóa kị chủ mặt có ba ngân ban chí (ba ngân là vết sẹo,dấu vết; ban:lang lổ; chí:nốt ruồi)
Tham lang cư tý cung,gặp được đà la,nam nữ ánh mắt đều có diễm quang (ánh mắt tươi sáng đẹp)
Cự môn
Sắc mặt thanh hoàng,lạc hãm thì thanh hắc.Nếu nhập miếu lại gặp thái dương đồng cung hoặc hội chiếu,tất sắc mặt hồng hoàng.Lạc hãm mà gặp thái dương đồng cung hoặc hội chiếu,sắc mặt thanh hắc hơi hồng.
Khuôn mặt chữ nhật hoặc bầu dục.
Thông thường hình dáng gầy nhỏ hoặc vừa tầm.Trừ tại tị ngọ cung có thái dương hội chiếu chủ mập mạp.
Tâm tính trung hậu nhưng đa nghi.Khuôn mặt thanh tú,ăn nói lưu loát,hữu chánh nghĩ cảm (tinh thần vì công lý,thấy cảnh bất bình ra tay tương trợ ^_^),đa học thiểu tinh,vô sự mà lòng vội gấp (vô sự mà cũng lo âu),hành động tâm tính vô định.
Nếu cự môn hóa kị,tất hay nói thị phi sau lưng (đa bối thị phi),dù không có ác ý nhưng dẫn đến bằng hữu phân tranh.
Cự môn gặp đà la đồng cung,chủ người có nốt ruồi lạ.
Thiên tướng
Sắc mặt thanh bạch hoặc thanh bạch đới vàng.
Khuôn mặt phương kiểm hoặc hơi tròn.
Thường thường vóc dáng trung bình,sau trung niên có khả năng chuyển sang mập mạp.
Tướng mạo đôn hậu,ngũ quan đoan chính,cử chỉ ổn trọng,
Bản tính hảo bão bất bình,lời nói thành thật,rộng lượng khảng khái,tạo cảm giác an tâm,nhưng cảm tình dễ bị kích thích.
Nhãn quan trong sáng rõ ràng,vẻ mặt hòa nhã.
Nhưng nếu gặp vũ khúc ,phá quân hoặc gặp thất sát,kình dường,đà la hội chiếu ,lại thêm phùng kị hình ,không kiếp,tất ánh mắt thường buồn rầu mơ màng.
Thiên Lương
Sắc mặt hoàng bạch
Khuôn mặt chữ nhật.Mũi thẳng gò má cao,người hơi thấp.Nếu cư Tị cung thì lại cao gầy.Cư ngọ cung thấp mập.
Tướng mạo ổn trọng,thư thái.
Tính tình chính trực vô tư,gặp việc thì quả cảm quyết đoán.
Gặp thái dương đồng cung,lại thấy xương khúc,chủ thông minh xuất chúng,nhưng hiếu thắng.
Gặp thiên cơ đồng cung,thông kim bác cổ (hiểu biết rộng,thông hiểu mọi việc xưa nay),giỏi đối đáp.
Ánh mắt sáng,nếu cư ngọ cung :sáng mà sắc,ánh mắt bức nhân.Nếu vào hãm cung,lại gặp đào hoa chưa diệu,tất ánh mắt diễm lệ.
Gặp thiên hình,kình dương đồng cung,ánh mắt mơ màng.
Thất sát
Sắc mặt hồng hoàng hoặc hoàng bạch
Khuông mặt chữ nhật,đa số hơi nhỏ (sấu:nhỏ hoặc gầy).
Dáng người vừa tầm,gầy béo bất nhất.
Mắt to,ánh mắt không nộ mà uy
Tính nóng,bề ngoài có vẻ quyết đoán mà nội tâm nhiều do dự.
Hội cát diệu ánh mắt uy mà hòa;hội hung diệu ánh mắt uy mà sắc bén.
Nếu tứ sát đều chiếu,gặp thêm hình kị ,thân hình có nhiều thương tật.Cổ nhân cho rằng bị gù lưng,căn cứ kinh nghiệm thì do bệnh bại liệt trẻ em mà thành tàn tật.
Phá quân
Sắc mặt thanh hoàng
Khuôn mặt bầu dục
Phá quân vào mệnh,chủ lưng dày,mày rộng,đi ngồi yêu tà.Hoặc phá tương (hốc hác vang vọt),hoặc cận thị,hoặc nói lắp,hoặc lúc sinh thường khó khăn,hoặc sinh thiếu tháng.
Vóc dáng trung bình hoặc hơi thấp.Gầy béo bất nhất.
Phá quân nhập miếu tất tâm địa trung hậu thiện lương
Phá quân vào vượng địa,bản tính chính trực,xử sự có nghị lực,có sở trường khai sáng.
Phá quân lạc hãm ,tính cương khó hòa hợp,thích tranh đua cãi cọ (hảo cường hảo tranh), thậm chí thích hành động lộng hiểm
Người miếu địa thì mắt sáng,lạc hãm mắt đục.
Chư tinh ảnh hưởng
Văn xương:Chủ nhiều tước ban (tàn hương,tàn nhang),mập,sắc mặt hoàng bạch sắc. (E nghĩ chữ chủ ở đây chắc nghĩa là tính chất chủ yếu về mặt nào đó không phải chủ trong “chủ nhân” vì bọn này chỉ là phụ tinh.Ví dụ như:Thất sát chủ quyền hành )
Văn khúc:chủ nhiều nốt ruồi đen,miệng góc cạnh,sắc mặt thanh hoàng hoặc thanh hoàng sắc
Tả phù hữ bật:chủ cao gầy,sắc diện hoàng bạch
Hữu bật:vóc người hơi thấp,chủ có nốt ruồi hoặc ban điểm (chấm vết,lốm đốm,bệnh nổi ban).Cằm tiêm phương (phương là vuông) hoặc tiêm viêm (viêm là tròn,đầy đặn)
Thiên khôi:chủ cằm tiêm phương hoặc tiêm viên mà nhỏ.Vóc người hơi thấp,gầy.
Thiên việt :chủ cằm vuông,mập.
Lộc tồn:chủ về viên kiểm,cằm tròn,hội sát tinh thì hình cô (hình:hình dáng),hội thiên mã thì trán vuông mà đầy đặn.
Thiên mã:Vóc người vừa tầm,không gầy.Chủ thái dương nhô cao mà đầy dặt.
Kình dương:gặp xương khúc ,tả hữu đồng cung,chủ có nốt ruồi kín hoặc vết thẹo.Khuông mặt thượng thái hạ tiểu hoặc thượng viên hạ phương mà hơi nhọn.
Đà la:không gầy,răng không đồng đều hoặc có thương tật.Khuôn mặt thượng viên hạn phương
Hỏa tinh:chủ khuôn mặt thượng tiểu hạ đại,hoặc thượng phương hạ viên mà góc cạnh.Lông tóc nhiều điểm kì lạ.
Linh tinh:chủ khuôn mặt thượng tiêm viên nhi hạ phương.Lông tóc nhiều điểm kì lạ.
Địa không :chủ mặt nhọn,thiên đình (phần giữa trán) cũng hẹp,mặt trông như hình quả hạch (quả hạch :có hình dạng giống quả trứng,ví dụ: hạt dẻ cũng là một loại quả hạch).
Địa kiếp:thiên đình không đủ,cằm không đầy đặn,cho nên nhìn nghiêng thì thấy trán vẹo,cằm vẹo.
Thiên khốc thiên hư:chủ cằm nhọn
Cô thần quả tú:đầu nhỏ
Kiếp sát:chủ trán và cằm không đầy đặn
Đào hoa chư diệu:cằm tiêm phương hoặc tiêm viên. Mắt đẹp.
Phá toái:chủ nhân hình cô
Phi liêm: chủ nhân chủy hình bất giai (bất giai:khó coi )
Kinh văn có viết: "Tam hợp minh châu sinh cung vượng, rộng bước cung quế", " Nhật (Thái Dương) tại Mão, Nguyệt (Thái Âm) tại Hợi, mệnh tại Mùi thênh thang bẻ quế cung trăng".
Ưu điểm: Nhiều sở thích, sôi nổi, giàu nhiệt huyết, có tài hoa, xử thế quang minh lỗi lạc, đường công danh rộng mở, có danh tiếng. Là mệnh nữ, tài đức kiêm toàn.
Khuyết điểm: Cung mệnh không có các sao Tả, Hữu, Xương, Khúc lại gặp Dương, Đà, Kỵ xung phá sẽ không có thành tựu, chỉ có hư danh.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
Người tuổi Mùi
Cụm từ có thể đại diện cho tuổi Mùi chính là “sự ôn hòa”. Thật vậy, con giáp này sở hữu những phẩm chất đáng quý là nhã nhặn, ôn hòa, trọng lễ nghĩa và có trái tim hiếu thuận. Họ luôn dành tặng nụ cười nhẹ nhàng cho bất cứ ai họ tiếp xúc.
Tuy biểu hiện bên ngoài khá nhẹ nhàng, thực chất bên trong họ là sự kiên trì bền bỉ đáng ngưỡng mộ. Khi yêu, họ rất nhẫn nại, không dễ dàng bỏ cuộc. Họ có thể là một người yêu hơi lặng lẽ nhưng không ngại cho đi. Đôi lúc rơi vào khó khăn hay mệt mỏi, họ vẫn sẵn sàng ở bên cạnh đối phương, vì vậy mà họ tạo được sự tin cậy tuyệt đối cho nửa kia.
![]() |
Người tuổi Dần
Cầm tinh bậc vua chúa trong rừng, con giáp này bẩm sinh đã có tài lãnh đạo. Với tính cách kiên cường, thích mạo hiểm, ý chí mạnh mẽ, trong tình yêu, họ luôn tràn đầy tự tin, có khí phách của bậc nam nhân. Thái độ nhiệt tình lại thông minh giúp họ dám bày tỏ tình cảm mà không do dự, ngần ngại.
Sự thẳng thắn, cởi mở giúp họ tạo cảm giác cực kỳ đáng tin cậy với người khác phái. Trong mối quan hệ tình cảm, một khi đã hứa, họ sẽ cố hết sức để thực hiện lời hứa với đối phương. Khi tập trung một chuyện gì đó, họ sẽ toàn tâm toàn ý dốc hết sức mình. Dù xảy ra mâu thuẫn, họ vẫn biết bình tĩnh tự suy xét lại bản thân và tìm mọi cách thắp lại ngọn lửa yêu.
Người tuổi Hợi
Đây là con người rất chín chắn và chân thật, vẻ ngoài có chút thận trọng, bên trong rất cương nghị. Vì vậy, họ cũng là người bền bỉ và trung thành trong tình yêu.
Họ là kiểu người yêu đơn giản, không thích xa hoa và có một trái tim ấm áp, lương thiện, không thích che đậy nên luôn đem lại cảm giác an toàn cho đối phương. Trong tình yêu, con người này cực kỳ tinh tế, nhẫn nại và chân thành, không có mưu mô hay toan tính, luôn hết lòng cho đi và vun đắp tình yêu của mình, dù đứng trước sóng gió cũng không dễ dàng nói bỏ cuộc.
Khang Ninh (theo Meiguoshenpo)
![]() |
![]() |
Mộc Trà (theo Buzz)
| ► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về giải mã giấc mơ, thế giới tâm linh huyền bí có thật? |
Màu sắc phòng khách không nên quá tối, bất kể là màu trần nhà, tường, nền hay thảm, sôpha, rèm cứa đều có một số nguyên tắc.
Bình thường trần nhà nên cao và sáng, màu trắng sữa nhạt là đẹp nhất, không nên dùng màu tối, cũng không nên gắn gương. Màu trần nhà nhất định phải nhạt hơn màu nền nhà, biểu thị “thiên thanh địa trọc” (trời trong đất đục), như vậy về thị giác mới không có cảm giác đầu nặng chân nhẹ. Mầu sắc của các vật dụng khác cũng nên lấy màu nhạt làm chủ, nhưng không được vượt quá 75%, còn có thể dùng tranh chữ tên người hoặc những bức tranh có ý nghĩa để che lấp chỗ trống.

Về điều hòa màu sắc chỉnh thể mà nói:
Phòng khách là Càn Trạch (nằm ở phía Tây Bắc hướng sang Đông Nam) cần phải sáng, cố gắng sử dụng hệ thống phần lớn là màu trắng, như vậy sẽ giúp cho người sống trong nhà thông minh sáng suốt, thanh tú tao nhã. Nếu sử dụng màu tối quá một nửa tổng diện tích thì dễ làm cho con người trỏ nên tối tăm, ngốc nghếch, càng bất lợi cho nam giới.
Phòng khách là Đoài Trạch (nằm ở phía Tây hướng sang Đông) thì sáng sủa là thích hợp nhất, nhưng không nên quá sáng, tức là màu trắng không được vượt quá tổng diện tích phòng khách, nếu không gia đình sẽ âm thịnh dương suy.
Phòng khách là Cấn Trạch (nằm ờ phía Đông Bắc hướng sang Tây Nam) không được quá rộng rãi, có thể sử dụng nhiều màu như màu trắng, màu vàng nhạt, màu cà phê.
Phòng khách là Li Trạch (nằm ở phía Nam hướng sang Bắc) không nên để quá nhiều không gian trống nếu không sẽ làm cho người trong nhà dễ cáu giận, bực bội.
Phòng khách là Khảm Trạch (nằm ở phía Bắc hướng sang Nam) nên sử dụng màu sắc có tính lạnh và yên tĩnh, màu không nên quá tươi, nếu không sự nghiệp và công việc của người trong nhà sẽ gặp nhiều bất lợi.
Phòng khách là Khản Trạch (nằm ở phía Tây Nam hướng sang Đông Bắc) vật dụng nên nhiều và bằng chất liệu dày nặng, nên sửa dụng màu vàng hoặc hệ thống màu sắc nguyên bản, tốt nhất nên tránh phòng khách hẹp.
Phòng khách là Tôn Trạch (nằm ở phía Đông Nam hướng sang Tây Bắc) nên ngắn và rộng, có thể dùng hệ thống màu xanh lá cây, tốt nhất trang trí nhiều cây cỏ, hoa lá.
Phòng khách là Chấn Trạch (nằm ờ phía Đông hướng sang Tây) nên ngắn mà rộng, có thể dùng hệ thống màu xanh lá cây, mầu xanh da trời, nhưng nên chú ý không được vượt quá một nửa tổng diện tích phòng khách, nếu không dễ làm cho người thông minh nhanh nhẹn trở nên chậm chạp, ít nói.
Toàn: Đa tài, nhanh trí, hình dung quý phái. Trung niên vất vả nhưng dễ thành công, phát tài phát lộc, danh lợi song toàn.
Tồn: Bản tính cương trực, thông minh, con cháu ăn nên làm ra. Trung niên vất vả, cuối đời phát tài phát lộc.
Tôn: Tuấn tú, đa tài, phúc lộc song toàn, thành công hưng vượng, gia cảnh tốt.
Tống: Tài năng, trí dũng song toàn, cuộc đời thanh nhàn, trung niên gặp khó khăn, cuối đời phát tài, phát lộc.
Tông: Trí dũng song toàn, danh lợi trọn vẹn đôi đường, phú quý, trung niên cát tường, cuối đời hưng vượng, quan lộ mở rộng.
Trà: Trung niên vất vả, cuối đời cát tường hưng vượng.
![]() |
| Tên vần T |
Trác: Là người tài năng, trí dũng song toàn, đi xa gặp quý nhân, trung niên thành công, hưng vượng, gia cảnh tốt.
Trạch: Tính tình hiền hậu, nếu xuất ngoại sẽ cát tường, con cháu ăn nên làm ra. Trung niên thành công, cuối đời hưởng phúc.
Trân: Mau miệng, đa tài, số cô độc, không nơi nương tựa, trung niên thành công, hưng vượng.
Trần: Là người hoạt bát, tính tình cương trực, đa tài, trung niên nghèo khổ, cuối đời hưng vượng.
Trang: Thật thà, nhanh nhẹn, cả đời bôn ba vất vả nhưng dễ phát tài, phát lộc, cuối đời được hưởng phú quý.
Trạng: Ưu tư, vất vả, có tài nhưng không gặp thời, trung niên gặp lắm tai ương, cuối đời cát tường.
Tranh: Đa tài, nhanh trí, có số thanh nhàn, phú quý, phúc lộc song toàn. Nếu xuất ngoại sẽ phát tài, phát lộc.
Trát: Thông minh, nhanh nhẹn, cuộc đời thanh nhàn, vinh hoa phú quý. Trung niên thành công, phát tài, phát lộc, số có 2 vợ.
Tri: Lý trí, thông minh, số thanh nhàn, phú quý. Trung niên thành công, hưng vượng, đường quan lộ và tiền tài rộng mở.
Trí: Tính tình thật thà, trung niên bôn ba vất vả, cuối đời thành công, phát tài, phát lộc.
Trị: Xuất ngoại sẽ gặp phúc, được tài, ái tình trắc trở, lắm bệnh, đoản thọ. Nếu là nữ có thể gặp nhiều tai ương bất hạnh.
Triết: Là người đa sầu, đa cảm, số cô quả, cô đơn, trung niên vất vả.
Triều: Bản tính thông minh, trí dũng song toàn, trung niên thành công, hưng vượng, có số xuất ngoại.
Triệu: Khắc bạn đời, hiếm muộn con cái, trung niên thành công, phát tài phát lộc. Số xa quê mới được thành công.
Trình: Học thức uyên thâm, số thanh nhàn, phú quý, đường làm quan rộng mở.
Trinh: Thanh tú, hiền hậu, trung niên thành công, phát tài, phát lộc, có 2 con thì cát tường, vinh hoa phú quý.
Trợ: Thanh nhàn, phú quý, có số 2 vợ. Trung niên thành công, phát tài, phát lộc, cuối đời ưu tư, lo lắng.
Trọng: Tính tình cương nghị, linh hoạt, nhạy bén. Trung niên có họa lớn, cuối đời hưởng phúc, được nhờ vợ.
Trụ: Đa tài nhanh trí, thanh tú lanh lợi, chịu thương chịu khó, trọng nghĩa khí, thành công, hưng vượng.
Theo Tên hay thời vận tốt
Nếu ngón trỏ dài hơn ngón vô danh cho thấy người đó biết. chăm sóc gia đình, biết lo lắng cho anh chị em trong nhà, không vì lợi ích bản thân mà quên tình thân. Họ có thế xử lý công việc khôn khéo, không tự tư tự lợi.
Nhưng khuyết điểm chính là khi đối diện với người khác giới họ lại hiền như khúc gỗ, không lãng mạn, khiến cho người kia cảm thấy thất vọng. Nếu ngón vô danh dài hơn ngón trỏ cho thấy đây là người biết quan tâm chăm sóc nguời khác giới, còn đối với người nhà họ lại rất lạnh nhạt, không biết thể hiện tình cảm ấm áp. Hơn nữa do dễ tin người, cho nên họ dễ bị người lừa dối, tổn thất trong tạo dựng sự nghiệp hoặc tốn thất về mặt tài sản, phải cẩn thận đề phòng.

So sánh ngón tay và bàn tay
Ngón tay có thể cho thấy trạng thái tinh thần của một người thế nào, bàn tay có thế hiển thị những yêu cầu vật chất ra sao. Hai mặt này kết hợp với nhau mới có thể hình thành nên tướng cách bàn tay. Nếu ngón tay dài hơn bàn tay cho thấy tính cách quá hướng nội, hơn nữa còn quá xem trọng yêu cầu tinh thần. Người này muốn đi tìm tự do tâm linh, kiến thức văn hóa và đi sâu vào nghiên cứu một lĩnh vực nào đó, trở thành nghệ sỹ tinh anh được mọi người tôn trọng, quan hệ xã hội của họ cũng vì thế mà tốt hơn. Nếu phần bàn tay dài hơn ngón tay cho thấy tính cách hướng ngoại, xem trọng xã giao, tận tâm tận lực vì công việc, dũng cảm khắc phục mọi khó khăn cho tới khi giành được thành công. Khuyết điểm chính là không có người bên cạnh, quan hệ nhân thế lãnh đạm.
Tóm lại, nếu ngón tay dài hơn bàn tay cho thấy người đó rất nhạy cảm, rất thích suy xét vấn để, hơn nữa đối với mọi người cũng rất thân thiện, có nhân duyên nhất định. Người có bàn tay này có tham vọng rất lớn, nhưng đồng thời cũng thích câu nệ tiểu tiết, thiếu hành động quyết đoán. Nếu là ngón tay và bàn tay đều ngắn cho thấy tư duy cực kỳ lý tính, thực thế, không thích những chuyện không tưởng, chí vùi đầu vào thực tế, vì vậy mà có khả năng hành động nhất định. Khuyết điếm chính là không dễ chung sống hòa thuận, rất dễ đắc tội với người khác.
Các đường chỉ tay và tính cách
Khi xem tay, nghiên cứu chỉ tay cũng rất quan trọng. Chỉ tay có thể phản ánh được bản chất bất biến của con người. Chỉ tay có rất nhiều hình dạng khác nhau, được chia thành ba loại chính:
Chỉ tay hình lưu động: Chỉ tay hình này chiếm tỷ lệ lớn. Người này có tính thích nghi và tính điều hòa bản thân rất tốt, là người ôn hòa, có đặc tính đa dạng. Khuyết điểm chính của họ là mặc dù thông minh, có tài, nhưng lại khá lạnh nhạt, khả năng thực thi ý tưởng không cao.
Chỉ tay hình xoáy nước: Chỉ tay hình xoáy nước này tương đối nhỏ. Người có bàn tay này rất có cá tính nhưng lại là người khá ngoan cố. Họ thích làm việc theo cách của mình và luôn tỏ ra cố chấp, là kiểu người chú trọng tính sáng tạo, không thiên theo tình hình và biến đổi của môi trường xung quanh.
Chỉ tay hình núi: Chi tay kiểu này rất ít gặp. Đây là kiểu người hiện thực, chịu khó phấn đấu, có thể thể hiện được tài năng riêng của mình. Người có đường chỉ tay nhô lên ở chính giữa như hình núi còn theo chủ nghĩa lý tưởng.
Vì sao giường ngủ gần cửa ra vào phòng ngủ được đánh giá là phong thủy xấu?
Bởi vì cửa ra vào thường có dòng chảy năng lượng mạnh mẽ hoặc ùa vào đột ngột. Nguồn năng lượng này có thể rất đáng lo ngại, quá năng động so với không gian cần sự yên tĩnh như phòng ngủ. Để tạo ra phong thủy tốt cho phòng ngủ, bạn cần phải có năng lượng “bổ dưỡng” nhất, thư giãn và gợi cảm xung quanh giường ngủ.
Thế nào là giường ngủ gần cửa ra vào phòng ngủ?
Giường ngủ gần cửa ra vào là chiếc giường được kê dựa vào bức tường có cửa ra vào, hoặc dựa vào bức tường gần cửa ra vào.
Cách hóa giải:
Nếu cách sắp xếp trong phòng ngủ của bạn không cho phép kê giường sang một vị trí khác, bạn cần phải tạo ra năng lượng bảo vệ mạnh mẽ xung quanh giường ngủ. Nói cách khác, bạn cần phải tạo ra vách ngăn mềm mại nhưng rõ ràng giữa năng lượng “xộc” vào qua cửa phòng ngủ và năng lượng của giường ngủ.
Bạn có thể làm được điều này với những giải pháp trang trí đơn giản giữa giường ngủ và cửa ra vào. Nhà đẹp xin đưa ra 3 ví dụ điển hình như sau:
– Một chiếc bàn đầu giường với hiệu ứng thị giác mạnh mẽ: Thêm một chiếc đèn ngủ với ánh sáng có khả năng khuếch tán rộng và một vài phụ kiện trang trí khác trên bàn để bảo vệ năng lượng xung quanh giường ngủ của bạn.

– Một chiếc kệ/tủ đồ thấp: Giải pháp phong thủy này rất tuyệt vời vì nó giúp bạn tạo ra nguồn năng lượng giống như cái kén, bao bọc lấy giường ngủ, bảo vệ nó một cách tuyệt đối khỏi cửa ra vào. Bạn sẽ phải lựa chọn thật khôn ngoan để hình dáng và phong cách của kệ/tủ đồ hài hòa với phong cách nội thất phòng ngủ.

– Một vách ngăn di động: Nếu không gian phòng ngủ của bạn không cho phép tích hợp các giải pháp trên, bạn luôn có thể tìm đến một vách ngăn di động. Ưu điểm của giải pháp này đó là bạn có thể điều chỉnh vách ngăn ở vị trí mong muốn và có thể cất gọn khi không dùng đến.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Hiện tượng: Cửa nhà vệ sinh thông thẳng giường sẻ ảnh hường nghiêm trọng đến vệ sinh môi trường trong phòng ngủ, uế khí sẽ bay vào phòng ngủ làm tổn hại đến sức khỏe người trong nhà.

Phương pháp hóa giải: Để hóa giải sát khí này hãy đặt một hức bình phong để hóa giải. Nếu không thể đặt bức bình phong thì nơi ngưỡng cửa có thế đặt một chuỗi đồng tiền Ngũ Đế và treo thêm tấm rèm vải dài để hóa giải. Nếu có thể, tốt nhất điểu chỉnh cửa nhà vệ sinh sao cho không xông thẳng vị trí giường ngủ để hóa giải triệt để.
Điều nên hiểu:
Ti Hưu là loài mãnh thú dùng để tránh tà thời cồ đại, hình dáng giống như con báo. đầu rồng, thân sư tử, có cánh, con đực là Tì, con cái là Hưu. Trong nhà đạt Ti Hưu có những tác dụng sau:
1. hóa giải âm tà sát khi.
2. Thu cát tránh hung.
3. Sinh tài (của cải) vượng khí.
4. Còn có thề hóa giải sát khí lộ xông, sát khí cột điện, sát khí ba góc.
5. Ti Hưu còn có thể kết hợp vài đồng tiền Ngũ Đế để tăng hiệu quả thu về của cải.
Phòng vệ sinh là nơi có nhiều uế khí, vì vậy cần đặt ở vị trí khuất, không được đôi diện với cửa của các phòng khác.

Đối với phong thủy nhà ở, để nhà vệ sinh không đem đến những điều hung dữ, tốt nhất đặt nó ở phương vị Tây Bắc, Đông Nam hay là hướng Đông (nhìn từ điểm trung tâm của căn phòng). Đồng thời, cần phải tránh với phương vị nam nữ chủ nhân sinh niên tương xung (ví dụ như người sinh năm Mão, cần phải tránh mở hướng Đông).
Pháp thoại này, Thế tôn muốn đề cập đến hai phương diện đối lập với sự lợi hại trong những hiện tượng mới phát sinh. Người con Phật phải nhận thức được hai mặt của vấn đề khi nó còn trong trứng nước
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana. Rồi vua Pasenadi nước Kosala đi đến, sau khi chào hỏi, ngồi xuống một bên, bạch Thế Tôn:
Tôn giả Gotama có tự cho mình đã chứng Vô thượng chính đẳng chính giác không?
Thưa đại vương, nếu ai có thể nói là mình đã chứng vô thượng chính đẳng chính giác, thời người ấy phải chính là Ta. Thưa Đại vương, Ta đã chứng Vô thượng chính đẳng chính giác.
Thưa Tôn giả Gotama, có những vị Sa môn, Bà la môn là giáo chủ, hội chủ, sư trưởng có tiếng tăm, có danh vọng, được quần chúng tôn sùng như các ngài Purana Kassapa, Nigantha Nàtaputta….Khi con hỏi các vị ấy “Có tự xem là đã chứng vô thượng chính đẳng chính giác không?”, thì họ trả lời là không tự xem đã chứng Vô thượng chính đẳng chính giác. Vậy tại sao tôn giả Gotama trẻ tuổi, sinh sau đẻ muộn và chỉ mới xuất gia lại tự cho mình như vậy?
Thưa Đại vương, có bốn loại tuổi trẻ không nên khinh thường, không nên miệt thị vì họ là trẻ. Thế nào là bốn? Đó là vị vương tử trẻ tuổi, một con rắn trẻ tuổi, một ngọn lửa trẻ tuổi và một vị Tỷ kheo trẻ tuổi.
Thưa Đại vương, bốn loại trẻ tuổi này không nên khinh thường, không nên miệt thị vì chúng là trẻ.
(ĐTKVN, Tương Ưng Bộ I, chương 3, phẩm Thứ nhất, phần Tuổi trẻ, VNCPHVN ấn hành 1993, tr.159)
Đứng về phương diện chín chắn và kinh nghiệm trong cuộc sống xưa nay xã hội vẫn dành cho người già một địa vị trang trọng. Tuy nhiên, về phương diện tài năng, nhất là những tài năng xuất chúng thì bất luận tuổi tác, bởi thiên tài vốn thiên bẫm, là phước báo riêng của mỗi người. Do vậy, chẳng có ai ngỡ ngàng trước chuyện tuổi tác của thiên tài cả.
Vì thế, với tuệ giác của Thế tôn, Ngài thấu rõ bản chất của bốn nhóm đối tượng đặc biệt, rất lợi hại, rất nguy hiểm dù cho còn trẻ tuổi, sự nghiệp mới manh nha. Một vị vương tử trẻ tuổi nhưng đã tiềm ẩn bên trong một đại đế quyền uy, đứng trên muôn dân, cai trị toàn thể thiên hạ. Một con rắn nhỏ nhưng là rắn độc thì phải tránh xa nến không muốn mất mạng. Một ngọn lửa nhỏ là khởi đầu của trận đại hỏa hoạn, thiêu rụi tất cả. Vị Tỷ kheo trẻ tuổi nhưng với thiện căn nhiều đời, giới hạnh viên mãn đã ẩn tàng bên trong một bậc Đạo sư, một đấng giác ngộ.
Pháp thoại này, Thế tôn muốn đề cập đến hai phương diện đối lập với sự lợi hại trong những hiện tượng mới phát sinh. Người con Phật phải nhận thức được hai mặt của vấn đề khi nó còn trong trứng nước.
Khuynh hướng của xã hội hiện nay là trẻ hóa, nhất là trẻ hóa đội ngũ lãnh đạo là một chuyển biến tích cực, năng động, kích thích sự phấn đấu vươn lên để tự thể hiện mình của giới trẻ. Giáo hội cũng đang có những động thái trẻ hóa hàng ngũ lãnh đạo nhưng xem ra vẫn còn quá dè dặt. Giữa hai thế hệ già và trẻ bao giời cũng có những lợi thế và những hạn chế riêng. Tuy vậy, phải tin tưởng vào sức trẻ, dìu dắt và nâng đỡ đồng thời giao phó trách nhiệm cho lớp trẻ chính là thực hiện di huấn của Thế tôn. Thế nên, chúng ta không nên xem thường hay nghi ngờ thế hệ trẻ, một khi họ đã đầy đủ những tố chất của sự trưởng thành.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
Những vần thơ hay về nắng và gió. Nắng và gió là những hiện tượng tự nhiên nhưng từ lâu đã gieo vào lòng người những vần thơ hữu ý.
Gửi đến các bạn yêu nắng những bài thơ về nắng mới nhất của xemboituong.com. Tùy mỗi người khác nhau mà nắng có thể đem lại cho họ những cung bậc cảm xúc khác nhau, tuy nhiên, nắng luôn là một điều gì đó thật đặc biệt trong tâm hồn của mỗi con người, đôi lúc, tự nhiên ta lại thèm những tia nắng chiều đến lạ…
Mời các bạn cùng xem qua những áng thơ tình viết về nắng sau đây, chúc các bạn xem thơ vui vẻ!
Nắng Chiều
Có phải mắt em trong chiều biếc
Cho anh thương nhớ ngẩn ngơ lòng
Sợi nắng hoàng hôn vương mái tóc
Buông chùng tơ liễu giữa thu không
Thuở ấy giấu lòng một tiếng thương
Ôm ấp mộng mơ cõi miên trường
Ngoài hiên lá đổ chờ trăng sáng
Khe phòng trăn trở một niềm vương
Mùa đến mùa đi mùa lại qua
Thu qua thu lại thu đi xa
Xác xơ cành lá, xơ xác phố
Niềm nỗi riêng mang vẫn mặn mà
Bên ấy chiều nay có vui không?
Chắc vẫn mây xanh, vẫn nắng hồng
Nhớ chăng một người thời xa đó?
Buồn nắng buồn mưa mãi chờ trông
Chờ Mưa
Em ngồi đợi cơn mưa mùa hạ
Góc quán quen nắng gắt trưa hè
Ký ức nào, cơn mưa rất lạ
Của một thời hai đứa chung cheNgười thành phố thưa dần nắng cháy!
Gái cố đô đong đếm hạt sầu
Sông ngàn tuổi con sông còn chảy
Mây mười lăm bạc trắng mái đầuEm tìm anh, dư tình thuở ấy
Anh nơi nào sao chẳng về đây
À đây rồi, cơn mưa đầu hạ
Mưa rì rào nghiêng ngả hàng câyKý ức cũ khô cằn bỏng rát
Ngột ngạt buồn, nắng đổ mồ hôi
Nắng hanh khô hương tình cũ nát
Mưa không về, nắng mãi người ơi…
Gởi Nắng Về Em
Phương ấy bây chừ rét phải không?
Nơi anh vẫn phủ màu nắng hồng
Xót xa xin gởi về thương nhớ
Mong em ấm lại tháng ngày đôngSáng nghe đài báo nơi ấy gió
Giá rét phong sương ngập trắng trời
Đêm về song cửa lưa thưa tuyết
Vắng rồi, em có thấy chơi vơi?Anh nhớ tháng ngày mình bên nhau
Ngồi nghe em kể chuyện mai sau
Đi qua mùa đông đầy sương giá
Bây giờ buốt lạnh một niềm đauChiều nay nắng rơi đầy trước ngõ
Nhờ gió gởi về nơi phương xa
Dẫu biết em đang bên ai đó
Quên rồi cái thuở cuộc tình ta…
Đêm Trở GióĐêm sầu lặng lẽ ngắm trăng thanh
Lanh quanh góc phố ngó mây đùa
Chiếc áo mong manh khơi lòng lạnh
Đêm nay gió trở, gió giao mùaChẳng biết người đâu, ta lang thang
Đi tìm nhung nhớ cuộc tình hoang
Hương đời tám nẻo người rẽ lối
Biết dạt về đâu mảnh trăng vàngVề đâu ơi hỡi lạc về đâu
Mình ta lạc bước giữa đường câu
Tình nghĩa khi xưa nay gạn đục
Người chẳng tiếc chi buổi sơ đầuGió trở nguyệt gầy trôi lênh đênh
Sao trời rạng sáng nỗi buồn tênh
Mơ màng trời đất bình yên nhỉ
Ai biết lòng ta thấy chênh vênhChùm thơ hay về ngày chủ nhật
Thơ Buồn Về Gió: Mùa Qua PhốXuân giã biệt, đưa hạ về bên phố
Gió trở chiều, lá đổ não nề hiên
Ta loay hoay trăn trở với muộn phiền
Lòng thổn thức một nỗi buồn chưa dứtDòng tĩnh lặng tràn về miền ký ức
Nghe mơ hồ khoan nhặt tiếng thời gian
Phố im lìm lặng lẽ đón mùa sang
Ta òa vỡ nhớ bóng hình Tôn nữCon đường này ngày xưa em vẫn bước
Lá xạc xào ru điệu khúc thu ca
Mùa năm nào đã in dấu em qua
Nay xa vắng nhưng bóng hình còn đóHương tóc ấy có phải về theo gió?
Đêm dạt dào, bỏ ngỏ khúc mùa sang
Rồi nhận ra duyên phận đã lỡ làng
Nửa cô quạnh, nửa khuất mình bối rối!
Gió Giao Mùa
Phượng hồng lại ẩn vào cây
Trả khung trời ấy hao gầy cho tôi
Mây chiều hoang vắng đơn côi
Hồn nghe từng phút bồi hồi trong thơLụa là tôi dệt đường tơ
Quên đi cái thuở ban sơ hoang hồng
Hạ tàn nhạt nắng bên song
Cây sơ xác lá – hồn phong rêu hồnTrả tôi về với cô đơn
Trả tôi về với nỗi buồn ngày xưa
Chiều nay trời đổ cơn mưa
Heo may vừa đến lá mùa Thu khơiHôm qua người ấy đi rồi
Trong tôi từng tiếng mưa rơi chạnh lòng
Gió Lạnh Về
Anh ơi gió lạnh đã về rồi
Người còn biền biệt chốn trùng khơi
Năm tháng lạnh lòng mong mỏi đợi
Dẫu biết ngày về còn xa xôiPhố vắng mình tôi bước bơ vơ
Ru bao thương nhớ viết dòng thơ
Nhờ gió gửi về phương xa ấy
Hẹn người sẽ đọc ở trong mơLạnh lẽo đông về thêm lạnh lẽo
Hoàng hôn nắng đổ lạnh hoàng hôn
Đông qua lặng lẽ rồi đông chết
Mà bóng người xưa vẫn hững hờAnh hỡi, anh ơi! Lòng tôi rét
Đêm về bóng nguyệt xé hồn côi
Một mình tôi khóc nỗi phân đôi
Anh ơi! Gió lạnh sắp về rồi….
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
1. Quan gặp thương, tức dụng thần là chính quan, kị thần là thương quan.
Tứ trụ có kị thần thương quan khắc dụng thần, nếu có chính ấn thì có thể chế áp được thương quan và hỗ trợ chính quan. Vì vậy ta gọi chính ấn là cứu ứng của chính quan.
2. Quan gặp sát, tức dụng thần chính quan và thiên quan hỗn tạp không rõ ràng.
Dụng thần là quan phải rõ rang, thanh khiết. Có năm can âm là thương quan có thể hợp mất thất sát, ví dụ can ngày ất gặp bính là thương quan, bính có thể hợp mất tân sát, còn lại canh quan ; ất có thể hợp mất canh sát, còn lại tân quan. Có năm can dương là kiếp tài và năm can âm là thương quan hợp mất sát, giữ lại chính quan.
3. Quan gặp hình xung, tức dụng thần chính quan trong địa chi bị hình xung mà thương tổn.
Khi dụng thần bị hình xung thương tổn thì phải xem trong Tứ trụ có hay không có hợp cục để hoá hình. Ví dụ can ngày bính gặp chi tí thuỷ, trong tí tàng can quý là chính quan. Dụng thần chính quan bị ấn hình hại, có hợi, mùi và mão hợp thành cục, hoặc có dần,thìn, mão hợp thành cục, hoặc có dần, thìn, mão họp thành hội cục, hoặc có tuất, mão lục hợp, tức có thể hợp chặt kỵ thần, cứu được dụng thần chính quan. Khi dụng thần bị xung phá cũng phải xem trong Tứ trụ có hợp cục để hóa xung không. Ví dụ can ngày bính gặp chi tý thuỷ, trong tí tàng quý là chính quan. Dụng thần chính quan vì bị ngọ phản xung mà gốc rễ không chắc chắn. Nhờ có mùi và ngọ thành lục hợp, hợp chặt kị thần nên dụng thần chính quan được cứu . Cho nên quan hình xung thì hợp cục có thể giải cứu.
1. Tài gặp kiếp, tức dụng thần là tài, kị thần là kiếp tài.
Tứ trụ có kỵ thần kiếp tài khắc dụng thần, nếu trong mệnh cục có thực thần thì có thể xì hơi kiếp tài để sinh cho tài tinh. Cho nên thực thần là cứu ứng thứ nhất của tài tinh. Tứ trụ có kị thần kiếp tài khắc dụng thần, nếu trong mệnh có quan tinh thì quan tinh có thể chế áp kiếp tài, bảo vệ tài tinh. Cho nên quan tinh cũng là cứu ứng của tài tinh.
5. Tài gặp sát, tức dụng thần là tài tinh, kị thần là thất sát.
Tứ trụ có thất sát xì hơi tài tinh là kị thần, nếu trong mệnh cục có thực thần để áp chế thất sát, sinh tài tinh thì dụng thần là tài tinh cũng được cứu . Trong Tứ trụ có thất sát xì hơi tài tinh làm kị thần, năm can âm thương quan có thể hợp chặt thất sát để bảo hộ tài tinh. Ví dụ can ngày ất gặp năm là thất sát, thương quan bính có thể hợp chặt thất sát để cứu tinh. Năm can dương kiếp tài cũng có thể hợp chặt thất sát để bảo hộ tài tinh. Ví dụ can ngày gặp canh là thất sát, kiếp tai ất có thể hợp chặt thất sát chống lại sự hình khắc để bảo vệ tài tinh. Cho nên khi thất sát là kỵ tài thì thương quan của năm can âm và kiếp tài của năm can dương sẽ bảo về tài tinh, ứng cứu cho dụng thần.
1. An gặp tài, tức dụng thần là ấn tinh, kị thần là tài tinh.
Khi trong Tứ trụ đều có ấn tinh và tài tình mà cần hợp mất tài tinh, giữ lại ấn tinh, nếu có kiếp tài sẽ có thể chế áp tài tinh để giữ lại ấn tinh. Cho nên kiếp tài cũng là cứu tinh của dụng thần ấn tinh. Khi trong Tứ trụ cả ấn tinh và tài tinh cùng xuất hiện mà đòi hỏi làm mất tài tinh và giữ lại ấn tinh, nếu có hợp cục hợp mất tài tinh, còn ấn tinh không bị khắc chế là được cứu. Can ngày dương có thể hợp mất tài tinh, giữ lại ấn tinh, ví dụ can ngày giáp gặp quý là ấn, gặp kỉ tài là hợp. Năm can âm kiêu thần cũng có thể hợp chặt chính tài, đều là cứu ứng dụng thần chính ấn.
2. Thực thần gặp kiêu, tức dụng thần là thực thần, kị thần là kiêu thần.
“Dụng thần là thực thần, không thể bị cướp mất”, đó là nguyên tắc. Trong Tứ trụ kiêu thần và thực thần rất kị nhau, khi gặp nhau thì kị thần cần bị chế hoá. Thất sát sẽ có thể chế hoá kị thần để biến nguy thành an. Cho nên gọi thất sát là cái cứu ứng dụng thần thực thần. Tứ trụ có kiêu thần cướp đoạt thực thần, nếu có tài tinh cũng có thể chế áp được kiêu thần để hộ vệ thực thần. Nên thiên tài cũng là cứu ứng thực thần.
3. Thực thần gặp sát ấn , tức thực thần là dụng thần, kị thần là ấn tinh.
Tứ trụ thực thần bị chế sát, có ấn tinh đến giúp để chế áp thực thần bảo hộ kiếp sát, nếu có tài tinh thì có thể làm mất ấn tinh, giữ lại thực thần. Tài tinh trở thành cứu ứng của dụng thần thực thương trong điều kiện có ấn tinh.
4. Tài gặp thương sát , tức dụng thần là tài, kị thần là thất sát.
Tứ trụ có thương quan sinh tài, sát đến để hóa tài làm kị thần, nếu có hợp cục hợp mất thất sát để bảo hộ tài thì tốt. Năm can dương kiếp tài có thể hợp mất thất sát, ví dụ can ngày giáp gặp canh là sát, kiếp sát ất hợp mất canh sát. Năm can âm thương quan cũng có thể hợp mất thát sát, ví dụ can ngày ất, gặp tân là sát, nếu có bính thương thì sẽ hợp mất tân sát. Nên ta nói năm can dương kiếp tài và năm can âm thương quan đều là cứu ứng của dụng thần tài tinh.
10. Quan gặp thương (cách kình dương), sát gặp thực (cách kình dương), tức quan sát dụng thần, thương thực là kị thần .
Tứ trụ có quan mà không có kình dương thì không vinh hiển, có sát mà không có kình dương thì không có uy, kị gặp chế phục quá mức . Tứ trụ có nhiều ấn tinh thì có thể bảo hộ cho quan tinh hoặc thất sát, lại có thể ràng buộc được thực thương, khiến cho quan sát vừa được chế lại vừa được giúp đỡ, vừa được hổ trợ, quyền uy không ai cản nổi. Cho nên ấn tinh có lực là cứu ứng của quan sát.
11. Quan gặp thương (lộc cách ) , tức dụng thần là quan, kị thần là thương.
Tứ trụ quan tinh có lộc thì chức cao vinh hiển, rất kị gặp thương quan, nếu trong Tứ trụ có hợp cục để hợp mất thương quan thì có thì có thể bảo vệ được quan tinh . Năm can dương có thể hợp mất thương quan, ví dụ can ngày giáp gặp nhâm là kiêu, nhâm có thể hợp mất đinh thương quan ; năm can âm là thất sát, cũng có thể hợp mất thương quan, ví dụ can ngày ất gặp tân là sát, tân có thể hợp mất bính thương. Cho nên ta nói năm can dương và năm can âm là thất sát có thể hợp mất thương quan, chúng trở thành thần bảo hộ của dụng thần chính quan.
12. Tài gặp sát (lộc cách ) , tức dụng thần là tài , kị thần là thất sát.
Khi Tứ trụ có dụng thần là tài không nên gặp thất sát đến để hóa, cái hợp mất thất sát có thể bảo hộ được tài tinh. Năm can dương kiếp tài có thể hợp mất thất sát, ví dụ can ngày giáp gặp canh là sát, ất kiếp sát có thể hợp mất canh sát ; năm can âm thương quan cũng có thể hợp mất thất sát, ví dụ can ngày ất gặp tân là sát, bính thương có thể hợp mất tân sát. Cho nên nói năm can dương kiếp tài và năm can âm thương quan có thể kết hợp mất sát để bảo hộ tài, nó là cứu ứng của dụng thần tai tinh. Kết quả của sự cứu ứng đạt được nhiều hay ít rất khó nắm được chính xác, độc giả có thể thông qua những bàn luận ở phía trên, đồng thời có thể từ các ví dụ nói về sự cứu ứng khi dụng thần bị hình xung khắc hại để hiểu rõ.