Tướng người phụ nữ đa tình –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Hoa
Đặt một bình hoa tươi ở cạnh phía Đông của bàn làm việc. Không nên để hoa làm tràn ngập hoặc che khuất tầm nhìn của bạn, đồng thời thay hoa khác khi hoa trong bình bắt đầu héo.
Hoa tạo ra năng lượng dương rất tốt, khuyến khích bạn hăng say làm việc.
Cây
Đặt một cây nhỏ tươi tốt ở góc Đông
![]() |
| Nên đặt cây ở góc Đông Nam |
Pha lê
Đặt một miếng pha lê tròn ở góc Tây
Đèn
Khi bố trí bất kỳ loại đèn nào ở hướng
Máy tính
Tất cả các thiết bị văn phòng bằng kim loại nên đặt ở một chỗ riêng, thuộc hướng Tây hoặc Tây Bắc của bàn làm việc.
Bạn nên nhớ đặt những vật thấp ở bên phải và vật cao hơn ở bên trái.
Theo Sách Phong Thủy để thành công trong công việc và kinh doanh
Đặt tượng Phật và bài trí bàn thờ Phật sao cho đúng nghĩa lễ, tập tục không hề đơn giản chút nào. Việc sắm lễ cúng bái cùng cần biết những phép tắc nhất định trong đạo Phật.
Không gian thờ cúng, không gian mang tính tâm linh trong nhà ở luôn cần đặt yếu tố gần gũi và giáo dục truyền thống lên hàng đầu để kết nối các thế hệ và giữ vững gia phong nề nếp gia đình.Với những ngưòi theo đạo Phật thì tín ngưỡng thờ cúng luôn được coi trọng. Cách bài trí bàn thờ Phật và tượng Phật cũng có những quy tắc phong thủy nhất định.
Lập bàn thờ Phật là một công việc rất tốt, tạo nhiều phúc nghiệp, nhưng công việc đó không hề đơn giản chút nào. Theo như tập tục hàng ngàn năm nay, khi bài trí thờ cúng tượng Phật nên lưu ý những điều sau:
Người thờ Phật phải có thành tâm, nhất thiết phải ăn chay vào ngày mùng 1 và ngày rằm. Vì hiểu theo cách thông thường Phật ăn chay, thấy được ích lợi của việc chay tịnh thì không thể phổ độ cho một chúng sinh thờ mình suốt ngày ăn mặn đựợc, nhất là sát sinh.
Điều kiện thứ hai là người lập bàn thờ Phật không thể cúng dàng Phật bằng xôi gà, bằng thịt của động vật, vì Phật không hưởng thụ những thứ đó. Về hướng bàn thờ tốt nhất là quay theo cổng chính của căn nhà bạn, có trường hợp cũng có thể quay bàn thờ Phật về hướng xấu so với trạch mệnh của thân chủ, một phần để hóa giải hướng đó.
Thứ ba là bài vị tổ tiên không được đặt cao hơn bàn thờ Phật sẽ phạm xung, vì hiểu một cách đơn giản theo dân gian Phật đã đạt được sự giải thoát, là bậc Đại giác, không thể ở thấp hơn chúng sinh. Thực ra chúng sinh cũng là Phật nhưng chưa giác ngộ, làm vậy là để trọng Phật. Có rất nhiều nhà thờ ảnh các thần cùng với ngài Quan Âm Bồ Tát, đó là không đúng cách, coi ngài là một vị thần cũng không đúng, nên người thờ Phật nên quy y để hiểu được những điều căn bản nhất về việc thờ cúng cho đúng với đạo, không được tùy tiện hiếu theo suy nghĩ chủ quan của mình mà có tà kiến về việc thờ, việc cúng. Nếu không làm được những điều kiện đó thì chúng ta nên cẩn trọng ở việc lập bàn thờ Phật.
Việc sửa soạn lễ cúng Phật những quy định cần tuân thủ là:
Hương, hoa tươi, quả chín, oản phẩm, xôi chè không được sắm sửa lễ mặn chư cỗ tam sinh (trâu, dê, lợn), thịt mồi, gà, giò, chả. Không nên sắm sửa vàng mã, tiền âm phủ để dâng cùng lên bàn thờ Phật.
Hoa tươi lễ Phật là: Hoa sen, hoa huệ, hoa mẫu đơn, hoa ngâu, không dùng các loại hoa tạp, hoa dại.
Trước ngày dâng hương làm lễ Phật cần- chay tịnh trong đời sống sinh hoạt ngày thường: Ăn chay, kiêng giới, làm việc thiện.
Người Việt Nam đã quen chọn số lẻ m 3, 5, 7, 9) lúc thắp nhang, nhưng cũng có trường hợp người ta đốt cả nắm nhang chứ không chú trọng vào ý nghĩa con số. Còn theo lý giải của nhà Phật cho rằng, số lẻ mang nhiều ý nghĩa linh thiêng hơn.
Con số 3 thì có nhiều quan niệm khác nhau:
Nén hương cũng có thêm một ý nghĩa đặc biệt khác nữa, đó là thắp hương để nhớ đến sự vô thường. Vô thường là không vĩnh viễn, tất cả đều giả tạm, cho nên lúc nén hương tắt cháy thì cũng tượng trưng cho đời người tắt, ngắn ngủi vô thường… Tàn tro của hương nhắc nhở chúng ta chớ để thời gian trồi qua, uổng phí tháng ngày.
Trong nghi lễ Phật giáo, hương là một trong sáu lễ vật dâng cúng, gồm có:
Tuy nhiên nhiều người không rõ về ý nghĩa sâu xa của việc cúng Phật nên bày biện đủ thức ăn uống như yến tiệc, không những uổng phí mà lại còn làm sai lạc ý nghĩa.
Theo quan niệm của Phật giáo, lòng thành thể hiện qua làn khói hương nghi ngút, không cần cỗ bàn yến tiếc tiệc thịt cá linh đình vì đúng ý nghĩa sự cúng Phật thì chỉ nên dùng hương thơm, đèn sáng, hoa tươi, trái ngọt, nưóc trong là đủ. Phật không phải ở trên bàn thờ, trong những pho tượng, mà là ở trong tâm của con người. Ngoài những nén hương dùng ngọn lửa nóng để đốt cháy lên, chúng ta còn có thể dùng đức tin của mình thắp lên những nén tâm hương – tức là hương từ trong tâm.
Bởi vậy mới có năm thứ hương dùng để cúng dường chư Phật:
Rất nhiều gia đình, cửa hàng hay nhà hàng đặt tượng Quan Âm Bồ Tát cùng các tượng khác như Quan đế. Như vậy rất không tốt, bởi những lý do sau:
Nếu trong nhà hàng, cửa hàng ăn uống thờ Quan Âm Bồ Tát sẽ không thích hợp bởi Quan Âm Bồ Tát vốn thanh tịnh, tinh khiết và ăn chay. Khi dâng đồ cúng Quan Âm Bồ Tát thường chỉ cần hoa tươi và hoa quả. Bởi vậy nếu đật tượng Quan Âm Bồ Tát cùng các tượng Thần khác sẽ không tốt khi cúng đồ mặn.
Thờ Phật tại gia bảo hộ bình an và cũng có những quy tắc nhất định:
Tượng Phật đem về nhà không nên coi là đồ cổ hay vật báu mà cất giữ cẩn thận, như vậy sẽ ảnh hưởng tới mọi thành viên trong gia đình.
Không nên đặt tượng trong phòng ngủ, bỏi lễ Phật phải uy nghi nghiêm túc. Nơi để bàn thờ Phật cũng vậy, nhà có điều kiện nên để một phòng riêng yên tĩnh, thoáng đãng, trai tịnh.
Không nên mua quá nhiều tượng về nhà, chỉ cần một pho hoặc ảnh Phật là đủ, thành tâm thành ý niệm cầu hằng ngày.
Tranh ảnh Phật không nên cuộn tròn lại, không được để xuống dưối ghế, không được ngồi lên trên…
Tượng cũ bị mờ mắt hoặc tay nên tô vẽ, lau chùi lại, vào các ngày rằm và mùng có thể dùng nước thơm tắm tượng. Nếu tượng hỏng thì thỉnh cầu các tăng rước thỉnh thả sông, thay bằng pho khác, nhờ chuyển lên chùa khai quang cẩn thận, không được tùy tiện vứt bỏ.
| ► Tra cứu Lịch âm dương, Lịch vạn niên nhanh chóng và chuẩn xác nhất tại Lichngaytot.com |
![]() |
![]() |
![]() |
Tết Trung Thu: Nguồn gốc và ý nghĩa
![]() |
| Tuổi Sửu |
![]() |
| Tuổi Ngọ |
![]() |
| Tuổi Tý |
![]() |
| Tuổi Thân |
Thiết kế phong thủy nhà bếp và nhà vệ sinh tốt và tiện lợi là đặc biệt quan trọng trong ngôi nhà. Có những nguyên tắc mà gia chủ nên tham khảo để bố trí bếp và nhà vệ sinh thuận tiện, dễ sử dụng nhưng vẫn đảm bảo về phong thủy đ đón tài lộc và gia tăng sức khỏe cho cả gia đình.
1. Phong thủy nhà bếp đối diện nhà vệ sinh:
Bồn rửa bát trong bếp nên bố trí ở hướng Bắc, Đông hoặc Đông Nam là phù hợp phong thủy nhất. Còn bếp, bạn có thể sắp xếp phù hợp với mệnh gia chủ hoặc các hướng Đông hoặc hướng Đông Nam cũng rất tốt.

Thiết kế phong thủy phòng bếp và phòng vệ sinh tốt và tiện lợi
3. Không thiết kế bếp và nhà vệ sinh ở trung tâm nhà
Nếu theo quan niệm phong thủy thì khi bạn thiết kế xây dựng nhà ở, sẽ không nên thiết kế để nhà vệ sinh hoặc phòng bếp ở chính giữa, vị trí trung tâm của ngôi nhà. Phòng vệ sinh là nơi nhiều vi trùng, khí không tốt, nếu được đặt vào vị trí trung tâm thì sẽ khiến cho cả căn nhà đều bị ám khí không tốt, liên quan đển cả vận khí của cả gia đình.
Còn phòng bếp, trong phong thủy cũng không được để ở vị trí chính giữa ngôi nhà, lý do là khi nấu nướng sẽ gây tiếng ồn, rồi cả mùi dầu mỡ sẽ bay khắp các phòng, làm ảnh hưởng đến sức khỏe của các thành viên trong gia đình. Vì vậy tốt nhất không nên thiết kế bếp ở chính giữa ngôi nhà.
Vị trí trung tâm của ngôi nhà cần thiết kế sao cho yên tĩnh và đẹp mắt nhất , vì nơi này là điểm nhấn quan trọng cho cả căn nhà, nên sắp xếp đẹp nhất để làm cho cả căn nhà thoáng đãng và lạ mắt hơn. Nhà bếp và nhà vệ sinh tuyệt đối không đặt giữa nhà để làm ảnh hưởng đến phong thủy cả ngôi nhà.
Thời Bắc thuộc, Thanh Hóa được gọi là Cửu Chân, sau này gọi là Ái Châu. Đến thời nhà Lý, Ái Châu mới được đổi tên thành phủ Thanh Hoa, tên gọi này tồn tại đến triều Nguyễn. Do kiêng tên húy của bà Hồ Thị Hoa (vợ vua Minh Mạng, mẹ vua Thiệu Trị) nên Thanh Hoa được đổi gọi là Thanh Hóa.
Thanh Hóa là tỉnh lỵ của tứ sơn: Bỉm Sơn - Nghi Sơn - Sầm Sơn - Lam Sơn. Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú viết: “Thanh Hoa… các triều trước vẫn gọi là một trấn rất quan trọng. Vẻ non sông tươi tốt chung đúc nên sinh ra nhiều bậc vương tướng, khí tinh hoa tụ họp lại, nảy ra nhiều văn nho. Đến những sản vật quý cũng khác mọi nơi. Bởi vì đất thiêng thì người giỏi nên nảy ra những bậc phi thường…”.

Từ thời vua Hùng dựng nước Văn Lang đến khi kết thúc triều đại phong kiến cuối cùng - nhà Nguyễn - vào năm 1945, nhiều dòng họ vua, chúa đều khởi nguồn, phát tích từ đất Thanh Hóa (Ái Châu) mà ra. Đặc biệt, đất Thanh Hóa đã sinh ra hai vị hoàng đế - anh hùng dân tộc: Vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) đánh thắng quân xâm lược Tống vào cuối thế kỷ 10 và vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) đánh thắng quân Minh vào đầu thế kỷ 15.
Thanh Hóa là nơi phát tích của 4 triều đại phong kiến: Tiền Lê, Hậu Lê, nhà Hồ, nhà Nguyễn và hai dòng chúa là Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn.
Theo Thánh Tả Ao, đất phát vương phải là đất hợp đủ các điều kiện: “Ngũ tinh cách tú triều nguyên/Kim, mộc, thủy, hỏa bốn bên loan hoàn/Thổ tinh kết huyệt trung ương/Ấy đất sinh thánh, sinh vương đời đời. Địa danh Lam Sơn thuộc huyện Lương Giang, trấn Thanh Hóa (nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa) có hai nơi “tụ khí tàng phong”, nguyên khí hun đúc, đảm bảo đủ các tiêu chí trên. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” viết: “Ông tổ ba đời của vua Lê Lợi tên húy là Hối, một hôm đi dạo chơi đến vùng núi Lam Sơn nhìn quang cảnh quanh đó và chợt thấy có đàn chim đông đúc đang ríu rít bay lượn quanh chân núi như thể núi Lam Sơn có một lực thu hút vô hình, có sức thu phục nhân tâm nhiều như chim đàn về tổ, bèn nói: “Đây hẳn là chỗ đất tốt” và quyết định dời nhà đến ở đấy”.
Tổ nhà Lê dời về đất Lam Sơn chỉ 3 năm đã tạo sản nghiệp lớn. Họ Lê làm trưởng một phương, trong nhà lúc nào cũng có tới hơn 1.000 tôi tớ, trải các đời sau sinh ra Lê Lợi.
Cuốn sách đầu tiên đề cập đến ngôi đất phát dưới chân núi Lam Sơn chính là sách “Lam Sơn thực lục”. Sách ban đầu do Lê Thái Tổ (Lê Lợi) sai soạn và tự viết lời tựa, trong đó có câu: “Trẫm gặp đời nhiều hoạn nạn, mở nước, dựng nền, càng thấy khó khăn! May mà Trời cho, dân theo, gây nên được công nghiệp, ấy thực là nhờ ở các bậc Tổ tông tích lũy mãi nhân đức, mà đi tới cả! Trẫm nghĩ về chuyện đó mãi bèn chép vào sách, gọi là Lam Sơn thực lục (Sách ghi chuyện thực núi Lam) cốt là để trọng nghĩa đầu gốc. Và cũng để kể rõ sự nghiệp gian nan của Trẫm, truyền bảo lại cho con cháu vậy”.
Theo sách "Lam Sơn thực lục”, nhà họ Lê còn được một nhân vật kỳ bí là nhà sư cho biết một huyệt đất phát vương ở động Chiêu Nghi, cũng thuộc vùng Lam Sơn. Lê Lợi sau đó đã quyết định đem di cốt của thân phụ mình chôn ở đó, nhờ vậy mà sau này mới phát tích, trở thành đế vương.
Long mạch đế vương ở Lam Sơn
“Lam Sơn thực lục” viết: “Khi ấy nhà vua (tức Lê Lợi) sai người nhà cày ruộng ở xứ Phật Hoàng, động Chiêu Nghi. Chợt thấy một nhà sư già, mặc áo trắng, từ thôn Đức Tề đi ra, thở dài mà rằng: - Quý hoá thay phiến đất này! Không có ai đáng dặn! Người nhà thấy thế, chạy về thưa rõ với nhà vua, nhà vua liền đuổi theo tìm hỏi chuyện đó. Có người báo rằng: - Sư già đã đi xa rồi.
Nhà vua vội đi theo đến trại Quần Đội, huyện Cổ Lôi, (tức huyện Lôi Dương ngày nay) thì thấy một cái thẻ tre, đề chữ, dịch nghĩa là: “Đức trời chịu mệnh. Tuổi giữa bốn mươi! Số kia đã định. Chưa tới ... tiếc thay!”. Nhà vua thấy chữ đề mừng lắm, lại vội vàng đi theo. Khi ấy có rồng vàng che cho nhà vua! Bỗng nhà sư bảo nhà vua rằng: - Tôi từ bên Lào xuống đây, họ Trịnh, tên là sư núi Đá trắng. Hôm thấy ông khí tượng khác thường tất có thể làm nên việc lớn!
Nhà vua quỳ xuống thưa rằng: - Mạch đất ở miền đệ tử, tôi sang hèn ra thế nào xin thầy bảo rõ cho? Nhà sư nói: - Xứ Phật hoàng thuộc động Chiêu Nghi, có một khu đất chừng nửa sào, hình như quả quốc ấn. Phía tả có núi Thái Thất, núi Chí Linh (ở miền Lảo Mang); bên trong có đồi đất Bạn Tiên. Lấy Thiên Sơn làm án (ở xã An Khoái). Phía trước có nước Long Sơn, bên trong có nước Long Hồ là chỗ xoáy trôn ốc (ở thôn Như Ứng). Phía hữu nước vòng quanh tay Hổ. Bên ngoài núi xâu chuỗi hạt trai. Con trai sang không thể nói được nhưng con gái phiền có chuyện thất tiết. Tôi sợ con cháu ông về sau, có thế phân cư. Ngôi vua có lúc Trung Hưng. Mệnh trời có thể biết vậy. Nếu thầy giỏi biết láng lại, thì trung hưng được năm trăm năm.
Nhà sư nói rồi, nhà vua liền đem di cốt đức Hoàng khảo táng vào chỗ ấy. Tới giờ Dần, về đến thôn Hạ Dao Xá nhà sư bèn hóa bay lên trời! Nhân lập chỗ ấy làm điện Du Tiên. Còn động Chiêu Nghi thì làm am nhỏ (tức là nơi một Phật hoàng). Đó là gốc của sự phát tích vậy”.
Chuyện kể rằng mặc dù chôn di cốt vào ngôi đất phát đế vương ấy được Lê Lợi giữ bí mật nhưng giặc Minh vẫn biết được. Chúng đê hèn cho quân đến xứ Phật Hoàng, động Chiêu Nghi đào lấy hài cốt linh xa cha của Lê Lợi mang về treo sau một chiếc thuyền đậu giữa dòng sông để dụ Lê Lợi ra hàng, hẹn rằng nếu đến quy thuận sẽ trọng thưởng và ban quan tước lớn.
Lê Lợi sai các thân thuộc của mình gồm 14 người đi đến doanh trại của giặc lấy lại hài cốt của cha mình. Những người này đội cỏ bơi xuôi theo dòng nước, từ thượng lưu xuống, nhân lúc giặc Minh sơ hở đã lấy trộm lại được hài cốt linh xa đem về cho chủ tướng, Lê Lợi bí mật đem chôn cất ở động Chiêu Nghi như cũ.
Lam Sơn là đất cát tường, đất tụ nghĩa, đất xưng vương, mà người đứng lên đảm đương việc mở đầu nghiệp đế của nhà Lê là Lê Lợi. Tuy không liên tục, quyền bính có lúc bị ngắt quãng nhưng trước sau, xét về danh nghĩa nhà Hậu Lê là triều đại có nhiều đời vua nhất, truyền ngôi lâu dài nhất so với các triều đại trước và sau đó.
Bí ẩn vùng đất “Rồng không chân”
Các phù thủy phương Bắc nhận thấy hình thế đắc địa của vùng đất Thanh Hóa, lo sợ nơi đây sẽ xuất hiện những bậc đế vương làm thất bại tham vọng bá chủ của chúng nên đã trấn yểm, tìm mọi cách phá bỏ phong thủy xứ Thanh.
Dãy núi Đông Sơn - Hàm Rồng bắt nguồn từ làng Dương Xá men theo sông Mã uốn lượn thành 99 ngọn núi đất, núi đá nhấp nhô như một bức tường thành hình con rồng đồ sộ. Phần cuối nhô lên một ngọn tựa hình đầu rồng nên gọi là Hàm Rồng (tên chữ Long Hạm). Ở đó có động Long Quang (mắt rồng). Thông ra phía sau động có một hang nhỏ là hang mắt Rồng. Trên vòm hang mắt Rồng có một lỗ ăn thông lên trên. Mỗi khi mưa, nước màu gạch cua chảy xuống, người xưa bảo đó là nước mắt rồng. Bên phải vòm hang có một mũi đá nhô ra gọi là đỉnh Long Tỵ (mũi rồng). Mạch đá ngoằn ngoèo chạy sát chân núi rồng rồi ăn ngầm xuống dòng sông Mã tới ngọn Châu Phong là bến Hàm Rồng.
Non nước Hàm Rồng dưới bàn tay xếp đặt của tạo hóa, đã tạo nên những hình thù kỳ dị, độc đáo và đa dạng, có người ví như một “Hạ Long trên bộ”. Từ đuôi Rồng đi lên, ngọn Ngũ Hoa Phong hình năm bông sen chụm chung một gốc cắm xuống đầm lầy. Ngọn Phù Thi Sơn trông giống một người phụ nữ đang nằm ngủ đầu gối vào thân rồng, núi mẹ, núi con tròn như quả trứng. Ngọn Tả Ao trông giống người đàn ông đang nằm vắt chân chữ ngũ, đầu quay về hướng Đông. Ở sát cạnh ngọn con Mèo đang trong tư thế rình mồi, núi Cánh Tiên có 3 ngọn vút lên cao tạo thành mỏm Ba Hiệu, rồi núi Con Cá, Con Phượng, núi Đồng Thông, núi con Voi...
Hàm Rồng được phát hiện như một cõi thần tiên từ lâu qua thư tịch cổ. Sách “Đại Nam nhất thống chí”của Quốc sử quán triều Nguyễn ghi “A núi này cao và đẹp trông ra sông Định Minh, lên cao trông xa thấy nước trời một màu sắc thật là giai cảnh”. Dưới các triều đại phong kiến, Hàm Rồng bao giờ cũng là vị trí trọng yếu của xứ Thanh trong các cuộc chiến tranh giành độc lập.
Hung địa theo thuật ngữ phong thủy là đất “chu tước bi khốc” (chim cất tiếng kêu sầu), hoặc đất “bạch hổ hàm thi” (con hổ đang ngậm xác chết trong miệng), hoặc “xương long vô túc”(rồng không có chân, rồng bị tật nguyền)… Truyền thuyết cho rằng khi cưỡi diều giấy bay qua vùng núi Hàm Rồng, nhìn thấy huyệt Hàm Rồng, Cao Biền nói rằng địa thế này là hung địa “xương long vô túc”, không phải rồng không chân mà là con rồng què chân, không phải đất cực quý rồi bỏ đi. Nhưng thực tế không phải vậy. Sau đó, Cao Biền đã âm thầm quay trở lại, mang theo hài cốt cha y để táng vào huyệt Hàm Rồng (mả táng hàm rồng) mong sau này có thể phát đế vương. Song dù nhiều lần Cao Biền cho mả cha vào, bộ xương cốt cứ bị huyệt núi đùn ra, không nhận. Biết rằng đây là long mạch cực mạnh, cực quý nên y rắp tâm làm đến cùng. Biền bèn tán nhỏ xương rồi tung lên thì có muôn con chim nhỏ cùng bay đến, vỗ cánh rào rào làm xương cốt bám trên vách đá bay tứ tán hết. Biền than rằng linh khí nước Nam quá mạnh, không thể cưỡng cầu.
Cuộc chiến phong thủy “độc nhất vô nhị”
Theo mật lệnh của vua Đường, Cao Biền sau khi xem, phát hiện và trấn yểm các kiểu đất kết, đất phát, long mạch của nước Nam đã viết “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự” tấu lên nhà vua. Cao Biền trấn yểm Thanh Hóa vào thế kỷ IX thất bại. Hơn 500 năm khi giặc Minh xâm lược nước ta, một phong thủy sư nổi danh của Trung Quốc là Hoàng Phúc cũng sai người đục núi, lấp sông để hòng trấn yểm các huyệt mạch đế vương, hình thành một cuộc chiến phong thủy có một không hai trong lịch sử nước Việt.
Hoàng Phúc xuất thân Tiến sĩ, mang chức Thượng Thư, giữ việc Bố chính và Án Sát trong chiến dịch cai trị đồng hóa Việt Nam. Trong 20 năm thuộc nhà Minh (vào khoảng 1407-1427), Hoàng Phúc bắt khắp nơi lập đền miếu thờ bách thần, thổ thần, sơn thần, thần sông, thần gió... bên cạnh văn miếu. Lập Tăng cương ty và Đạo kỳ ty để truyền bá đạo Phật và Lão cùng với đạo Nho...
Sách “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim viết: “... Bọn Hoàng Phúc lại sửa sang các việc trong nước để khiến người An Nam đồng hóa với người Tàu. Lập ra đền miếu, bắt người mình cúng tế theo tục bên Tàu. Rồi từ cách ăn mặc cho chí sự học hành, cái gì cũng bắt theo người Tàu cả. Còn cái gì là di tích của nước mình như là sách vở thu nhặt đem về Tàu hết sạch. Lại đặt ra thuế lệ, bổ thêm sưu dịch để lấy tiền của, làm cho dân ta bấy giờ phải nhiều điều khổ nhục”.
Hoàng Phúc khi sang đất Việt đã mang theo cuốn “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự” để làm bản đồ nghiên cứu địa hình, địa vật nước ta. Thời xưa, sách địa lý là một tài liệu quân sự quan trọng, ghi rõ hình thể sông, núi, đồi, gò, cao điểm, hạ lưu, mạch núi, thời tiết... nên Hoàng Phúc đã tới những tới những linh địa mà Cao Biền ghi nhận. Hoàng Phúc đã xem xét và yểm nốt những đất kết lớn nào còn sót lại nhưng y cũng đã thất bại.
Bình luận về việc này, sử thần Ngô Sĩ Liên viết trong “Đại Việt sử ký toàn thư”: “Từ khi có trời đất này, thì đã có núi sông này, mà khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời, đều có số cả. Khí trời từ Bắc chuyển xuống Nam, hết Nam rồi lại quay về Bắc. Thánh nhân trăm năm mới sinh, đủ số lại trở lại từ đầu. Thời vận có lúc chậm lúc chóng, có khi thưa khi mau mà không đều, đại lược là thế, có can gì đến núi sông? Nếu bảo núi sông có thể lấy pháp thuật mà trấn áp, thì khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời có pháp thuật gì trấn áp được không?”.
Việc phá hủy long mạch tốt, huyệt đất hay của các phù thủy phương Bắc cũng chỉ như muối bỏ biển, bởi xứ Thanh vẫn đời đời sinh nhân tài hào kiệt.
Nhiều vị vua ở các triều đại phong kiến của Việt Nam và Trung Quốc sau khi chết vẫn thường để lại một số mộ giả, còn mộ thật được chôn ở một nơi khác, kín đáo và bí mật. Từ lâu khu Vĩnh Lăng ở Thanh Hóa được xem là nơi yên nghỉ của vua Lê Thái Tổ. Thế nhưng phát hiện khảo cổ học cho thấy nơi đó chỉ là mộ giả. Vào thập kỷ 70 của thế kỷ trước, một người nông dân đi vào khu rừng bạt ngàn cạnh Vĩnh Lăng đã vô tình tìm thấy một phiến đá phẳng. Lật hòn đá lên thấy có khắc dòng chữ “Vĩnh Lăng Tây Thạch Kiệt”, nghĩa là:“Hòn đá mốc ở phía Tây của Vĩnh Lăng”. Lần theo cột đá mốc phía Tây, các nhà khảo cổ đã tìm được cột mốc các phía Đông, Nam, Bắc của khu lăng mộ nhà vua. Điều đặc biệt là riêng khu cột mốc phía Tây, nơi đặt phiến đá “Vĩnh Lăng Tây Thạch Kiệt” đất có màu lạ, cây to không mọc được. Các nhà khảo cổ đã đào sâu xuống đất nơi đặt phiến đá. Thật bất ngờ, những nhát cuốc đã làm lộ ra một chiếc quách tam hợp. Sau khi nghiên cứu, tìm hiểu, các nhà khảo cổ học đã kết luận: Chiếc quách tam hợp tìm thấy chính là mộ thật của vua Lê Lợi. Lần giở lại lịch sử, mới hay, một học giả người Pháp sau khi bỏ nhiều thời gian và công sức, cuối cùng cũng đã tìm được mộ thật của vua Lê Lợi dưới phiến đá “Vĩnh Lăng Tây Thạch Kiệt”.
Hướng kê giường Tuổi Canh Tuất 1970
Năm sinh dương lịch: 1970
– Năm sinh âm lịch: Canh Tuất
– Quẻ mệnh: Chấn Mộc
– Ngũ hành: Thoa Xuyến Kim (Vàng trang sức)
– Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạchh
– Hướng tốt: Bắc (Thiên Y); Đông (Phục Vị); Đông Nam (Diên Niên); Nam (Sinh Khí);
– Hướng xấu: Tây Bắc (Ngũ Quỷ); Đông Bắc (Lục Sát); Tây Nam (Hoạ Hại); Tây (Tuyệt Mệnh);

Phòng ngủ:
Con người luôn giành 30% cuộc đời mình cho việc ngủ, nên phòng ngủ chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng.
Vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)
Gia chủ mang mệnh Kim, Thổ sinh Kim, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Thổ, là hướng Đông Bắc; Tây Nam;
Nếu tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.
Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Vàng, Nâu, đây là màu đại diện cho hành Thổ, rất tốt cho người hành Kim.
Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.
Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.
Mộ Cụ Trưởng Cần ( Nguyễn Đức Cần )
Đã lâu người đời biết đến nhà văn hóa tâm linh Nguyễn Đức Cần như một con người đặc biệt. Ông có khả năng chữa bệnh không dùng đến một vị thuốc. Tưởng chừng đó là phương pháp chữa bệnh tâm linh, mê tín nhưng đã có hàng ngàn người bệnh coi ông là ân nhân. Ba mươi năm sau khi qua đời, vẫn còn biết bao điều kỳ bí quanh ngôi mộ của ông. Có hàng chục ngàn người cứ đổ về mộ ông ngồi thiền chữa bệnh, bởi ai cũng tin ở đây có nguồn năng lượng vô hình, kỳ lạ…
Phương pháp chữa bệnh kỳ quái
Thập niên 70 – 80 của thế kỷ trước, Nguyễn Đức Cần là cái tên quá nổi tiếng. Nổi tiếng không chỉ vì cụ là một vị lương y yêu thương người nghèo mà còn là nhân vật gây chú ý trong giới nghiên cứu lĩnh vực tâm linh. Cụ chữa bệnh mà không cần tới bất cứ một vị thuốc nào. Phương pháp chữa bệnh kỳ quái này đã cứu sống, chữa khỏi cho cả nghìn người bệnh. Điều đặc biệt cụ không bao giờ lấy bất cứ đồng thù lao nào. Cho đến ngày nay cuộc đời và thân thế của cụ vẫn ẩn chứa rất nhiều điều bí ẩn mà khoa học chưa thể giải thích được.
Đúng vào đêm 30 Tết năm 1909 tại làng Đại Yên (nay thuộc Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội) con người đặc biệt Nguyễn Đức Cần được sinh ra. Sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, cụ sớm được gửi vào học tại trường Anbe Xarô Hà Nội. Mười hai tuổi thì cưới vợ nhưng chỉ vài ngày sau đó vợ cụ đã quay về nhà ngoại ở. Cuộc đời cụ bắt đầu sang một trang mới khi gia đình rơi vào cảnh kiện cáo và bố cụ sinh bệnh. Chạy chữa khắp nơi nhưng không được. Thế rồi gia đình đã mời được một thầy lang tài ba về chữa trị. Chẳng ai biết thầy lang dùng phương pháp gì mà bố cụ đã tai qua nạn khỏi. Thầy lang đó nhất mực không nhận tiền của gia đình bởi cả đời chỉ chữa bệnh lấy phúc. Để tỏ lòng biết ơn, cụ Cần đã theo thầy lang kia bôn ba hành tẩu khắp nơi cứu người chữa bệnh.
Một lần thầy lang dẫn cụ Cần lên đỉnh Mẫu (nay thuộc huyện Ba Vì, Hà Nội) để tu luyện. Theo thầy lang kia thì đây là nơi “linh khí đất trời hội tụ”, rất tốt cho việc tu luyện thần nhãn, hấp thụ dương quang và truyền dạy Tuệ quang… Khi đã lĩnh hội được đầy đủ những tinh thông của thầy mình, cụ Cần bắt đầu chữa bệnh vào những năm 1940. Người bệnh hoặc người nhà bệnh nhân đến gặp cụ, nếu được nhận lời chữa cụ sẽ cho một mảnh giấy có chữ ký của cụ về nhà là có thể chữa khỏi bệnh. Cụ chữa bệnh không dùng thuốc và có thể chữa từ xa nhưng có tác dụng tốt với nhiều loại bệnh như điên, ung thư, dạ dày, xơ gan, thấp khớp, vẩy nến, liệt, câm điếc, hen suyễn…
Thực tế đã có rất nhiều người được cụ chữa khỏi bệnh. Nhưng điều đặc biệt, cụ chữa bệnh không hề lấy tiền hay quà cáp của bất cứ ai. Không chỉ chữa bệnh cụ còn dăn dạy mọi người phải sống có đức, nhận ra lỗi lầm của mình mà sửa sai, hướng thiện.
Thế nhưng vào ngày 18/5/1974, cơ quan chức năng ngành Y đã có yêu cầu về việc chữa bệnh của cụ phải có giấy phép. Ngay khi cụ Cần bị cấm chữa bệnh rất nhiều người dân tỏ ra tiếc nuối và gửi thư động viên. Và, đến năm 1983 sau khi cụ chữa khỏi bệnh cho hai bệnh nhân xong và nói rằng: “Công việc của tôi đến nay đã xong. Đó là công việc trị bệnh giúp đời ở cõi trần gian này. Nhưng, công việc cứu nhân độ thế của tôi mới được 50% thôi, tôi còn phải làm nốt công việc đó ở cõi vô hình thì mới vẹn lời thề nguyện…” thế rồi cụ qua đời nhẹ nhàng.
Ngôi mộ có nguồn năng lượng siêu nhiên?
Có lẽ vì những lời trăn trối lúc cuối đời nên người ta đồn nhau rằng, ngôi mộ của cụ Cần có một nguồn năng lượng đặc biệt, có thể chữa được bách bệnh không cần đến thuốc thang gì. Để “mục sở thị” ngôi mộ kỳ lạ này chúng tôi tìm đến xã Thanh Mai (Thanh Oai, Hà Nội).
Ngôi mộ được xây dựng khá khang trang trên một nền đất cao, rộng chừng 700m2 nằm giữa cánh đồng. Để tạo bóng mát và sự tôn nghiêm gia đình đã cho trồng hàng trăm cây cau và một số cây ăn quả khác. Trời mới chỉ mờ sáng đã có hàng chục người từ khắp nơi về đây hương khói.
Không khí khá trang nghiêm, kính cẩn ai nấy tự giác xếp hàng rồi tĩnh tâm, tay đặt lên mộ cụ trưởng Cần rồi ngồi thiền mà không cần người hướng dẫn. Khách đến đây ngoài những người địa phương còn có các tỉnh khác: Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Nguyên, Bắc Giang… Điều đặc biệt ở đây, dù có rất nhiều khách đến thiền nhưng không hề có hiện tượng trục lợi bằng các dịch vụ ăn theo như: Trông xe, bán vàng hương hay quán xá chèo kéo. Những người được hỏi đều nói rằng, mỗi ngày đến đây ngồi thiền khoảng 1 tiếng đồng hồ sẽ “hấp thụ” nguồn năng lượng đặc biệt phát ra từ ngôi mộ. Lúc đó bệnh sẽ thuyên giảm, thậm chí khỏi hẳn, sức khỏe được tăng cường.
Bà Nguyễn Thị Sinh (con gái cụ Cần) chia sẻ: “Tất cả những người đến đây đều vì cảm phục tài chữa bệnh của cha tôi. Đời cha ông họ được cụ nhà tôi cứu chữa nên họ về đây tạ ơn. Đây là ngôi mộ của gia đình, những người đến đây lễ thực sự thành tâm, không hề có chuyện bói toán, nhảy đồng cốt mê tín gì cả”. Theo gia đình bà Sinh, việc mọi người đến đây hương khói, thiền chữa bệnh không phải bắt đầu từ vài năm nay mà từ năm 1983, khi cụ Cần vừa mất. Đặc biệt vào những ngày rằm và mồng 1.
Anh Nguyễn Công Vũ (người dân huyện Thanh Oai) nói chắc như đinh đóng cột: “Chúng tôi còn ít tuổi nhưng cũng đã nghe danh cụ Cần. Cụ là cao nhân của vùng này, một đời ân đức, chữa bệnh cứu người. Đặc biệt cụ không bao giờ lấy tiền của ai cả. Ở đây ai cũng biết mộ của cụ rất thiêng, mọi người đến đây thành tâm ngồi thiền tự nhiên thấy cơ thể khoan khoái hẳn lên. Nếu ai thiền hằng ngày thì sẽ khỏi bệnh, tăng cường sức khỏe. Như bản thân tôi là một người bị chứng đau đầu mỗi khi thời tiết thay đổi. Từ ngày qua mộ cụ ngồi thiền thấy dễ chịu hẳn, gần như dứt được bệnh đau đầu kinh niên rồi”.
Dứt lời anh Vũ còn đưa cho chúng tôi sổ theo dõi bệnh của bệnh viện trước và sau khi ngồi thiền ở mộ cụ Cần. Để minh chứng ngôi mộ có nguồn năng lượng đặc biệt anh Nguyễn Văn Cảnh (cháu ngoại cụ Cần) đưa chúng tôi gặp anh Phạm Văn Hòa (Đông Triều, Quảng Ninh).
Anh Hòa là người được cụ trưởng Cần cứu sống. Anh Hòa kể: “Lúc nhỏ tôi bị vỡ ruột thừa dẫn đến nhiễm trùng sâu tưởng như không thể qua khỏi. Gia đình tôi lúc đó đã chuẩn bị lo hậu sự rồi. Nghe thông tin có cụ Cần, bố mẹ tôi tức tốc cho lên gặp cụ. Cụ không dùng đến một vị thuốc nào cả, khi bắt bệnh cho tôi xong cụ nói người nhà đưa cho một mẩu giấy sau đó ký một chữ vào đó. Cả nhà tôi hoang mang, không biết cách chữa bệnh đó có hiệu quả không. Về nhà ai nấy đều lo lắng, thế mà chỉ 1 ngày sau sức khỏe của tôi đã tiến triển rất tốt. Sau 1 tuần tôi đã đi lại được và gần như khỏi hẳn. Như để tỏ lòng biết ơn với người sinh ra mình lần thứ 2. Dù đường sá xa xôi nhưng 1 tháng anh Hòa lại về mộ cụ thắp hương 1 lần. “Trước là để nhớ ơn tái sinh của cụ, sau là đến nhờ cậy nguồn năng lượng từ mộ của cụ. Khi ngồi thiền mở hết luân xa mình sẽ thu nhận được nguồn năng lượng rất tốt cho sức khỏe” – anh Hòa nói.
Không chỉ những người mang bệnh, có tuổi mới đến mộ cụ Cần thăm viếng mà còn có cả những bạn trẻ. Trong cái tĩnh lặng có phần linh thiêng, em Minh Phương (sinh viên ĐH Sư phạm Hà Nội) kể lại lý do mình xuống viếng thăm mộ cụ Cần: “Bố em kể lại, trước đây ông nội em bị bệnh tâm thần, suốt ngày lang thang khắp nơi. Gia đình vái tứ phương nhưng không khỏi. Trong một lần vô tình cụ trưởng Cần thấy hoàn cảnh đó đã ra tay cứu chữa. Từ đó ông nội em mới lấy được vợ và sinh con. Chính vì ơn nghĩa đó, gần như ngày rằm, mồng 1 nào em cũng qua đây để thắp hương tưởng nhớ đến cụ”.
Cách đây không lâu, dư luận được một phen hoài nghi tác dụng của việc thiền tại khu mộ của cụ Cần khi một số nhà nghiên cứu về cảm xạ học (năng lượng địa sinh học) đưa ra kết luận rằng: Chỉ số năng lượng địa sinh tại đây rất cao, với chỉ số Bovis lên tới 16.000 đơn vị. Nếu đúng khu mộ của cụ Cần có chỉ số năng lượng địa sinh cao như vậy thì rất tốt cho sức khỏe. Chỉ số Bovis được lấy theo tên nhà vật lý Pháp Antoine Bovis. Ông là người đưa ra chỉ số này trong khi tiến hành khảo sát kim tự tháp Ai Cập trong những năm 30 của thế kỷ trước. Chỉ số Bovis dùng để đo “sức khỏe”, “sức sống” tự nhiên của vật thể hữu cơ, đo năng lượng tự nhiên, sóng dao động của quả đất.
Thiết nghĩ việc chữa bệnh bằng năng lượng từ ngôi mộ cụ trưởng Cần chưa có chứng lý về khoa học. Hằng ngày lại có rất đông người về đây thiền, thắp hương. Vì thế chính quyền địa phương cần phải giám sát thật kỹ, tránh tình trạng biến tướng, trục lợi làm ảnh hưởng xấu tới an ninh trật tự địa phương, đặc biệt ảnh hưởng tới danh tiếng của một nhà văn hóa tâm linh là cụ Nguyễn Đức Cần.
Trả lời báo chí, ông Nguyễn Hồng Yên, Chủ tịch UBND huyện Thanh Oai cho biết: Việc nhiều năm nay rất nhiều người dân từ khắp nơi đến ngôi mộ của cụ Nguyễn Đức Cần là có thật. Thấy hiện tượng đó chính quyền đã cử cán bộ xuống nắm tình hình. Tuy nhiên không thấy có hiện tượng cúng lễ, đồng cốt, mê tín dị đoan, không ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự của địa phương. Những người đến đây thiền đều một lòng thiện tâm, không có ý đồ xấu…Cho đến nay chưa có máy móc gì để đo chính xác chỉ số Bovis. Các nhà khoa học đã dùng một số liệu pháp cộng hưởng song song với hình ảnh của Cropcircle cũng không thu được kết quả tốt. Một điều đáng ghi nhận là gần đây có nhóm nhà cảm xạ học người Pháp đo chỉ số Bovis một vật thể (khu đất, ngôi nhà) từ xa cho kết quả rất khả quan. Chỉ số năng lượng Bovis đo năng lượng tự nhiên của quả đất được tính từ 0 đến vô tận.Đối với con người thì chỉ số Bovis càng cao thì sức khỏe càng tốt. Nếu một người chỉ có chỉ số Bovis dưới 5.000 thường là sức khỏe yếu, bệnh tật. Năng lượng tối thiểu cần thiết cho con người từ 6.500 đến 10.000 Bovis hay hơn chút ít. Một người trung bình phát ra 15.000 Bovis nhưng nếu có công phu luyện tập chỉ số Bovis có thể lên tối đa 40.000 Bovis, điều đó nói lên khả năng trị liệu ở mức độ cao.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nhiều chị em lầm tưởng rằng phải có nhiều hoa tay mới cắm được một bình hoa đẹp. Tuy nhiên đôi lúc thực tế không phải vậy. Với 5 cách cắm hoa đơn giản sau đây, ngôi nhà của gia đình lại tràn ngập hương hoa thơm ngát chỉ với 5 phút buổi sáng mỗi ngày.
1. Hoa trong bình

- Cho một cành lá cọ hoặc lá chuối nhỏ vào một chiếc bình thủy tinh cao trong suốt để làm nền cho nhành lan trắng tinh tế.
- Điểm xuyết một bông lan trắng ở dưới đáy bình.
2. Bình hoa tinh tế
Bình hoa tươi và lãng mạn này có thể trông khó khăn để thực hiện, nhưng nó thực sự khá đơn giản.

- Chọn một chiếc bình có hình dạng loa kèn để hợp với sự mềm mại của những cành hoa
- Cắm một vài cành lá phong lữ để làm nền và giữ những bông hoa.
- Chọn những loại hoa to như mẫu đơn hoặc hồng ngoại. Cắt cành với chiều ngắn dài khác nhau sao cho tối đa không quá 10cm so với miệng bình.
- Điểm xuyết thêm một vài đoạn dây nho.
3. Hoa thư giãn
Mùi hoa oải hương được biết đến nhiều với tác dụng an thần, làm giảm stress.

- Cắm gần kín bình với những cành lá phong lữ xù thơm
- Điểm xuyết thêm một vài cành oải hương ở giữa các cành lá
4. Hoa trong đá

- Cắt các cành hoa dài không quá 2.5cm
- Đổ nước vào bình thủy tinh cao sao cho mực nước không quá 3cm
- Xếp đá vào dưới đáy bình.
- Cắm xem hoa vào giữa những hòn đá nhỏ để cố định.
5. Bình hoa rực sắc

Những sắc màu rực rỡ của cúc ngũ sắc sẽ làm ngôi nhà của gia đình thêm tươi mùa xuân này.
- Ở ngay chính giữa bình, cắm một bông cúc màu vàng.
- Cắm vòng tròn cúc màu cam từ trong ra ngoài xung quanh bông cúc vàng.
- Lấp đầy vòng ngoài cùng với lớp cúc tím hồng và thêm một chút lá xanh để tăng độ tương phản.
Với những tín đồ Phật giáo, Phật Đản được coi là thánh lễ với nhiều nghi thức quan trọng, thể hiện niềm tin vào tín ngưỡng và mong ước hướng đến những điều tốt đẹp, thiện lương trong cuộc sống. Lễ Phật đản năm nay, Lịch ngày tốt xin dành tặng bạn đọc 10 lời chúc nguyện cát lành, chúc mọi người hạnh phúc bình an.
![]() |
Lời chúc mừng ngày Phật đản |
![]() |
Lời chúc mừng ngày Phật đản |
![]() |
Lời chúc mừng ngày Phật đản |
Sự lựa chọn "sai lầm" của Khổng Minh?
Sai lầm lớn nhất trong việc dùng người của quân sư Thục Hán Gia Cát Lượng, không phải việc ông từng dùng Mã Tắc hay Ngụy Diên, mà là việc ông lựa chọn Khương Duy làm người kế thừa của mình.
Khương Duy, tự Bá Ước, người Cam Túc. Năm 228, Gia Cát Lượng phái Trấn Đông tướng quân Triệu Vân, Dương Vũ tướng quân Đặng Chi chiếm cứ Cơ Cốc, sẵn sàng tấn công đất Mi (Thiểm Tây).
Ngụy Minh Đế Tào Duệ cử đại đô đốc Tào Chân làm thống lĩnh, đặt trọng binh phòng ngự ở đất Mi. Khổng Minh bèn thừa cơ dẫn quân chủ lực quay sang tấn công Kỳ Sơn.
Quân Thục thế lớn, đồng thời 3 quận Thiên Thủy, Nam An, An Định của Ngụy đều đã sẵn sàng "bỏ Ngụy về Thục".
Khương Duy đương thời là Trung lang tướng ở quận Thiên Thủy đang cùng Thái thú Mã Tuân tháp tùng Thứ sử Ung Châu Quách Hoài tuần sát các vùng. Được tin 3 quận phản Ngụy, Quách tức tốc trở về đất Thượng Khuê (Cam Túc) phòng ngự.
Mã Tuân nghi ngờ Khương Duy có ý tạo phản, nên cũng bỏ lại Duy mà chạy về Thượng Khuê. Khi Khương Duy cùng các thuộc hạ tới Thượng Khuê thì Quách, Mã quyết không mở cổng thành.
Khương Duy tới bước đường cùng, buộc phải quay sang đầu quân Gia Cát Lượng.
Khổng Minh có được Khương Duy thì vô cùng mừng rỡ, trong thư gửi Tham quân Tưởng Uyển viết - "Khương Bá Ước nhạy bén việc quân, có nghĩa đảm, có kiến giải".
Năm đó, Khương Duy 27 tuổi, được Khổng Minh phong làm Phụng Nghĩa tướng quân, làm Dương Đình Hầu. Được Gia Cát Lượng đề bạt, không lâu sau Duy thăng làm Trung giám quân, Chinh Tây đại tướng quân.
Khương Duy chính là người kế thừa đắc ý của Gia Cát Lượng.
Sau lần rút quân từ gò Ngũ Trượng về Thành Đô, dã tâm của đại thần Dương Nghi bành trướng, "phỉ báng triều đình, bị bắt giam vấn tội, cuối cùng tự sát".
Dương Nghi chết, Lượng đem chính sự giao phó cho Tưởng Uyển, Phí Y, Đổng Doãn, riêng quân sự do Khương Duy nắm quyền.
Từ Hữu giám quân, Khương Duy thăng làm Phò Hán tướng quân, được tấn phong Bình Tương Hầu. Về sau, Tưởng Uyển, Đổng Doãn qua đời, Khương Duy lại nắm quyền lực lớn hơn, cùng Phí Y giữ chức Thượng thư.
Khi Phí Y bị hàng tướng Quách Tuần ám sát năm 253, Khương Duy về cơ bản đã trở thành "đệ nhất đại thần" triều Thục Hán, có ảnh hưởng cực lớn trong triều, thậm chí "mọi vấn đề của Thục Hán đều đổ lên mình Khương Bá Ước".
Khương Bá Ước kém tài hay vấn đề nội tại Thục Hán quá lớn?
Gia Cát Lượng "cầm trịch" triều đình Thục Hán hơn 10 năm, trong đó có tới 7 năm luôn trong tình trạng chiến tranh: 1 lần Nam chinh, 6 lần Bắc phạt. Ông có 1 lần không trực tiếp tham chiến.
Trong khi đó, Khương Duy trước sau mở 9 cuộc tấn công quân sự nhằm vào Ngụy, sử gọi là "cửu phạt Trung Nguyên".
Tuy nhiên, dù Khương Duy giành được một số thắng lợi, nhưng sự nghiệp "nhất thống thiên hạ" của Thục Hán vẫn không đạt được bất cứ tiến triển nào, "có tiếng mà không có miếng".
Xét trên tầm chiến lược quốc gia, cả Khổng Minh và Khương Duy bị đánh giá là "thất bại", bất chấp tài năng quân sự của 2 ông được lịch sử ghi nhận.
Bên trong Miếu Vũ Hầu (Thành Đô, Trung Quốc) có Bảo tàng văn hóa Thục, tại đây có một tấm bản đồ địa hình thời Tam Quốc, đặc biệt bao gồm số liệu về so sánh nhân khẩu Ngụy - Thục - Ngô.
Cụ thể, dân số Thục Hán là 940.000, Tào Ngụy 4.432.881, còn Đông Ngô là 2.300.000 người. Những số liệu này về cơ bản phản ánh được tình trạng phân bố dân cư thời Tam Quốc.
Dân số Thục Hán không bằng 1/4 Ngụy và 1/2 Đông Ngô. Trong khi Trung Quốc giai đoạn đó vẫn ở vào thời đại mà quốc lực tương đồng với nhân lực (hay nhân khẩu).
Dân số chính là nguồn sản xuất ra "sức chiến đấu", vì vậy dân số của Thục Hán thể hiện lực lượng quân sự yếu kém của nước này so với Ngụy và Ngô.
Có ý kiến cho rằng, chỉ cần sở hữu thống soái tốt, có vẫn có thể mang lại thành công cho quân đội. Tuy nhiên, Thục Hán không sở hữu nhân vật như vậy.
Khả năng của Khổng Minh không vượt trội so với Tư Mã Ý, Khương Duy cũng không chiếm thế thượng phong trước Đặng Ngải, Chung Hội.
Câu nói mà Phí Y từng nói với Khương Duy, được các học giả hiện đại cho là đúng đắn - "Chúng ta tài kém xa Thừa tướng (Khổng Minh).
Thừa tướng cũng không thể bình định Trung Nguyên, huống gì bọn ta! Chi bằng giữ nước an dân, bảo toàn xã tắc, cũng là giữ trọn cơ nghiệp".
Nhiều ý kiến cho rằng một nhân vật "chủ chiến" như Khương Duy nắm đại quyền Thục Hán đã đẩy Thục đến ngày diệt vong nhanh hơn.
Tài cán của Khương Duy thể hiện xuất sắc ở giai đoạn suy vong của Thục, nhưng ông thiên về lãnh đạo quân sự mà không biểu hiện được năng lực triều chính.
Vì vậy, nhiều ý kiến cho rằng, việc Khổng Minh chọn Khương Duy là người kế thừa "không thể xem là thành công".
Ngay từ đầu, Gia Cát Lượng đã nhận định Tôn - Lưu ở vào thế yếu so với Tào Ngụy, và đối sách duy nhất chính là "liên Ngô kháng Tào". Thậm chí Khổng Minh đã xem đây là "quốc sách" của Thục và lập kế hoạch "chia chác" nước Ngụy cùng Đông Ngô.
Tuy nhiên, về sau này mặc dù Ngô - Thục vẫn duy trì quan hệ đồng minh, nhưng thực tế song phương không thể thống nhất lập trường chung trong hợp tác quân sự.
Ví dụ, chưa một lần nào quân đội Thục - Ngô kết hợp thực hiện nhiệm vụ phạt Ngụy đi đến thành công. Thế nhưng, trải qua hàng chục năm, Khương Duy vẫn không thể ý thức được thực tế về "vết nứt" trong quan hệ Ngô - Thục.
Trước khi Ngụy diệt Thục đã có những đánh giá chính xác - "Từ khi bình định Thọ Xuân, đình chiến 6 năm dưỡng binh, chuẩn bị phạt 2 giặc (Ngô, Thục),
Nay Ngô đất rộng mà trũng, tấn công khó khăn, không bằng đoạt Ba Thục trước...
Thục có khoảng 90.000 quân. Khương Duy bị cầm chân ở Đạp Trung, để ở phía Đông. (Ngụy) trực tiếp tấn công Lạc Cốc, nhằm vào nơi sơ hở của địch, tập kích Hán Trung.
Ngày tàn của Thục đã thấy rõ".
Thục Hán có khoảng 102.000 quân, Tư Mã Chiêu dự đoán 90.000, có thể nói là đã đạt độ chính xác cao. Nếu giả thiết Chiêu tính tới vấn đề tổng động viên trước cuộc tấn công, thì việc ông "nói giảm" về lực lượng đối phương cũng không khó hiểu.
Thậm chí, một nhân vật "thường thường bậc trung" bên Thục là Liêu Hóa cũng từng khuyên Khương Duy - "Binh không giấu, ắt tự diệt. Trí không hơn địch, mà lực kém hơn địch, làm sao có thể đứng vững?
Nhiều năm chinh chiến, quân dân không được an ninh, lại thêm Ngụy có Đặng Ngải túc trí đa mưu, không phải tầm thường.
Không nên miễn cưỡng làm điều quá khó khăn".
Liêu Hóa đã chỉ ra điểm yếu chí mạng của Thục Hán: mưu trí không hơn kẻ địch, mà binh lực lại yếu kém rõ rệt. Trước tình hình đó, việc Khương Duy chủ chiến được đánh giá là "biết chắc thất bại mà vẫn cố lao vào".
Dù phạm phải những sai lầm chiến lược, nhưng hậu thế chỉ xót xa cho Khương Duy, bởi ông xứng danh là bậc quân tử, hy sinh cả cuộc đời vì sự nghiệp "nhất thống thiên hạ" của Thục Hán.
Bi kịch của quân tử
Tầm quan trọng của Hán Trung đối với Thục đã được xác nhận. Ngoài Gia Cát Lượng, Tưởng Uyển và Phí Ý cũng từng có thời gian đồn trú tại đây.
Đến khi Ngụy Diên tiếp quản Hán Trung, ông thiết lập doanh trại tại các địa điểm hiểm yếu, xây dựng hệ thống phòng vệ vững chắc với binh lực đầy đủ.
Sau khi Gia Cát Lượng mất, Đại tư mã Ngụy là Tào Sảng xuất binh phạt Ngụy để "lập uy", nhưng vấp phải phòng tuyến Hán Trung Cũng phải "ngậm ngùi trở về".
Tuy nhiên, Khương Duy nhận định vị thế phòng ngự của Thục Hán không thể giúp nước này đạt được mục đích quân sự là thôn tính Tào Ngụy, vì vậy Duy kiến nghị triều đình... giải thể các điểm đặt doanh trại để tập trung binh lực đồn trú ở 2 thành Hán, Lạc.
Trước quyền lực của Khương Duy, Thục Hán rút đô đốc Hán Trung Hồ Tế về Hán Thọ, giám quân Vương Hàm về Lạc Thành (Thiểm Tây), hộ quân Tưởng bân tới Hán Thành (Thiểm Tây).
Đường hướng của Khương Duy tưởng như tích cực, nhưng bị các học giả đương đại đánh giá là "bỏ trống trận địa", nhanh chóng khiến Thục hứng chịu hậu quả tiêu cực.
Về sau, tướng Ngụy Chung Hội công phạt Hán Trung "dễ như trở bàn tay".
Sai lầm của Khương Duy chủ yếu gồm 2 vấn đề. Về chiến lược, ông dụng binh quá thường xuyên; về chiến thuật, ông từ bỏ các điểm phòng thủ hiểm yếu, khiến Thục "hở sườn", gần như "bỏ rơi Hán Trung".
Tác giả quyển "Thục giám" thời Nam Tống Quách Doãn Đạo thậm chí còn đem sai lầm chiến thuật của Khương Duy để chỉ trích ông về sự diệt vong của Thục - "Hán Trung là cửa ngõ của Thục.
Khương Duy lui binh đồn trú về Hán Thọ, khác nào từ bỏ giới bị Hán Trung.
Khi Chung Hội tấn công, Hán Trung không một phòng tuyến, khiến Ngụy quân đắc thủ, không cần tới Đặng Ngải xuất binh Giang Du.
Thục đã trở tay không kịp, vì Khương Duy mà vong quốc".
Quách Doãn Đạo nhận định, dù tướng Ngụy Đặng Ngải chưa cần điều binh từ Giang Du thì Thục Hán "khí số đã tận", không còn đường cứu, chỉ vì sai lầm của Khương Duy.
Đương nhiên, các học giả hiện đại đã có cách nhìn nhận công bằng hơn đối với danh tướng này, bởi bên cạnh sai lầm cá nhân của Duy, tự thân quốc lực yếu kém của Thục Hán đã là điểm yếu chí mạng đối với nước này trong suốt hàng chục năm.
Nếu có đáng tiếc, thì chỉ là vận mệnh đã quá bất công đối với một nhân vật chính nhân quân tử, vì nước quên thân như Khương Bá Ước.
Người có công đầu chuyên biệt hoá khả năng dự đoán của Kinh Dịch, giúp Kinh Dịch áp dụng vào công việc dự đoán trong thực tiễn dễ dàng hơn. Đó là Nhà Triết học Thiệu Khang Tiết đời Tống. Ông đã đưa Hệ thông Thiên Can Địa Chi và mã hoá chúng thành các con số nhằm xác định thời điểm vận hành của các qui luật. Từ đó hình thành nên môn học Chu Dịch Dự Đoán.
(Hệ thống Thiên Can Địa Chi nằm trong Hệ Lịch Cổ Trung Hoa. Hệ Lịch này lấy Mặt Trăng làm điểm qui chiếu. Ta thường gọi là Âm lịch)
Kinh Dịch & Chu Dịch Dự Đoán Học liên hệ với nhau như thế nào trong dự đoán ?
Mối liên hệ giữa chúng như sau :
(Tôi mượn 1 số thuật ngữ bên Tin Học để mô tả mối liên hệ)
Kinh Dịch là Ngôn Ngữ Dự Đoán Bậc Thấp.
Chu Dịch Dự Đoán là Ngôn Ngữ Dự Đoán Bậc Cao.
Bậc Thấp & Bậc Cao diễn tả mối quan hệ bậc thang.
- Ngôn Ngữ Dự Đoán Bậc Thấp là cái nền. Cái nền được sử dụng đề dự đoán các sự vật & hiện tượng trong phạm vi không hạn định. Cái nền ấy xác lập dự đoán: Sự Vật & Hiện Tượng trong 1 Không Gian & Thời Gian không xác định.
Ví dụ : Khi Hitler đưa ra chủ thuyết Dân Tộc Thượng Đẳng. Căn cứ vào Hình Thái Phong Thuỷ Hoán, chúng ta có thể xác quyết được rằng: nhà độc tài này có ý muốn thống trị thế giới, sẽ có những hành động cực đoan với các dân tộc khác, sẽ lôi kéo cả dân tộc chuẩn bị lực lượng cho 1 cuộc chiến tranh tổng lực. Biết được hậu quả của cuộc chiến tranh, và cái kết của cuộc chiến ấy.
- Ngôn Ngữ Dự Đoán Bậc Cao là ngôn ngữ dự đoán đã được chuyên biệt hoá. Sự chuyên biệt hoá được sử dụng để dự đoán các sự vật & hiện tượng trong phạm vi không hạn định. Sự chuyên biệt hoá này xác lập dự đoán: Sự Vật & Hiện Tượng trong 1 Không Gian & Thời Gian được xác định.
Ví dụ : Khi xác định được thời điểm Hitler công bố chủ thuyết ấy, ta có thể biết được suy nghĩ, thái độ, hành động & bước đi tiếp theo của ông ta.
Điều này lý giải vì sao tồn tại những người có khả năng ngoại cảm rất tốt. Họ nhìn thấy các sự kiện đã diễn ra, biết trước diễn tiến các sự việc trong tương lai mà bản thân họ không cần phải trông thấy trực tiếp. Trong vô thức, họ đã nắm được những qui luật bất biến của con người & vũ trụ.
Nhà Ngoại cảm nghe qua sự kiện, có thể đưa ra lời dự đoán.
Nhà Dự Đoán Học Trung Hoa cũng chỉ cần như vậy.
Điều này cho ta nhận xét rằng: Phải chăng Chu Dịch là cấu trúc cơ bản của khả năng ngoại cảm ?
Dự Đoán theo Chu Dịch & dự đoán theo Chu Dịch Dự Đoán Học, tôi gọi là Dự Đoán Học Trung Hoa.
Miệng chiếm một vị trí rất quan trọng trong đời sống hàng ngày của mỗi người, là cơ quan vừa dùng để ăn vừa dùng để nói. Thực ra, miệng cũng là một bộ phận quan trọng trong Nhân tướng học. Miệng biểu thị phúc lộc, vận thế của người đó khi về già cũng như cá tính, quan hệ xã hội, tài vận,... Ví dụ: Một người có miệng rộng thì hoan lộ hanh thông, cả đời phú quý; miệng nhỏ thì chỉ có được rất ít tiền tài; khoé miệng trễ thì sẽ không giỏi giao tiếp,... Vì vậy, trong khi tuyển dụng nhân tài, cẩn hết sức chú ý quan sát hình dạng của khuôn miệng để có sự lựa chọn đúng đắn nhất.

Tục ngữ có câu: "Đàn ông miệng rộng thì sang" nên hiển nhiên miệng rộng sẽ được đánh giá là tướng tốt. Người có miệng rộng thì tấm lòng cũng rất rộng mở, hào phóng, bao dung, thích trao đổi ý kiến với người khác. Họ cũng rất biết lắng nghe, tiếp thu ý kiến của mọi người xung quanh nên được nhiều người quý mến, tin yêu, họ có rất nhiều bạn và còn là một tướng soái đại tài, hữu dụng. Con đường hoạn lộ của họ rất hanh thông, thuận lợi, cả đời phú quý.
Nếu một người có miệng nhỏ, hẹp so vớ ngũ quan thì tính tình sẽ rất lương thiện, hòa đồng, lại có đầu óc hài hước và nói chuyện rất duyên dáng, cuốn hút. Họ biết lắng nghe và tìm hiểu, không tham lam lợi ích cá nhân, không đưa ra những yêu cầu vô lý đối với mọi người nên được nhiều người yêu mến, kết bạn.
Nhược điểm của họ là không giỏi trong quản lý tiền bạc, không dám mạo hiểm nên cũng sẽ không tích lũy được nhiều tiền của, cả đời chỉ có được rất ít tiền mà thôi.
Những người có cặp môi mỏng thì cùng rất thông minh, ham học, biết kết hợp giữa lý thuyết và thực tế. Họ cũng có tư tưởng thống nhất nên sẽ hình thành nên một hệ thống triết học nhân sinh của riêng mình. Kiến thức uyên bác cộng thêm khả năng ăn nói bẩm sinh sẽ giúp họ trở nên rất cuốn hút và có sức ảnh hưởng tới những người xung quanh. Họ rất phù hợp để trở thành nhân viên marketing hoặc diễn giả, những ngành nghề đòi hỏi khả năng ăn nói trơn tru, thuyết phục.
Nhược điểm của họ là khá keo kiệt, đôi khi hay so đo tính toán thiệt hơn. Điều đó sẽ khiến mọi người có cảm giác họ đang tự tư tự lợi và không muốn tiếp xúc, kết bạn.
Nhũng người có cặp môi dày thường tạo cho người khác cảm giác về sự chân thực, đôn hậu. Họ cũng không thích nổi bật, luôn hành động dựa trên cảm giác của cá nhân mình, thiếu lý tính. Họ rất coi trọng chất lượng cuộc sống, thích sử dụng những sản phẩm, đồ dùng cao cấp dù phải chi ra rất nhiều tiền, nên họ cần cố gắng kiềm chế, hơn nữa ở phương diện này. Họ khá bảo thủ trong chuyên tình cảm nhưng cũng không loại khả năng sẽ là người đa tình.
Miệng lệch không phải là tướng tốt, cho thấy người này tính tình không ngay thẳng, trầm tĩnh và có phần thâm độc. Họ có rất nhiều khuyết điểm như luôn muốn tính toán thiệt hơn với người khác, khiến mọi người lâm vào cảnh dở khóc, dở cười, dân gian có câu: "thức lâu mới biết đêm dài; ở lâu mới biêt lòng người có nhân", một thời gian, tất cả mọi người đều sẽ không muốn giao thiệp, kết bạn với họ.Khi xảy ra mâu thuẫn, họ cũng nhất định không nhượng bộ nên sẽ thường xuyên va chạm với mọi người, dẫn đến xung đột gay gắt, khiến sự nghiệp gặp nhiều trở ngại. Ngay khi thất bại, họ cũng không nghe theo lời khuyên của mọi người nên sẽ không có nhiều thành tựu lớn.

Người có hai môi bằng nhau thường luôn tuân thủ nghiêm ngặt mọi quy tắc trong khi làm việc, hành động đúng như kế hoạch đã đề ra, không bỏ qua bước khiến mọi người xung quanh rất an tâm, tin tưởng. Tuy nhiên, họ cũng khá cứng nhắc, không có khả năng ứng biến linh hoạt trong mọi tình huống, ít khi tức giận và cũng không biết điều chỉnh cảm xúc của mình.
Người có môi hình tròn suy nghĩ đơn giản, trong sáng, không toan tính, lúc nào cũng vui vẻ, lạc quan, không vụ lợi, thái độ ung dung tự tại của người này khiến mọi người ngưỡng mộ, hơn nữa người có môi hình tròn còn thích được giúp đỡ người khác, bởi vậy rất được mọi người yêu mến.
Khuyết điểm của họ chính là hơi cứng đầu, thường có tâm lý lo lắng, sợ sệt, bởi thiếu cảm giác an toàn. Thái độ dè chừng này của họ cũng sẽ khiến người khác phái ngại ngùng khi tiếp xúc với họ, từ đó ảnh hưởng sự phát triển của tình cảm.
Người có nếp nhăn ở quanh miệng thích lợi ích vật chất, do vậy họ rất tích cực kiếm tiền họ quan tâm tới bạn bè và coi trọng tình cảm tuy nhiên họ thường phải đau khổ về chuyện tiền bạc và gặp rắc rối trong chuyện tình cảm Về mặt công việc, họ thường gặp nhiêu trắc trở tuy nhiên sự nỗ lực hêt mình trong công việ' cuối cùng cũng sẽ được đền đáp, tức là họ phải trải qua nhiều sóng gió mới có thể thành công. Khi về già, họ dễ để xảy ra sai sót trong quản lý tài chính, do vậy, cần lên kế hoạch cặn kẽ, tỉ mỉ mới không rơi vào tình cảnh khó khăn.
Người có khoé miệng hướng lên thường tích cực lạc quan, gặp phải thất bại cũng sẽ không kêu ca oán thán hay nhụt chí, dù làm việc gì họ cũng rất nỗ lực và ham học hỏi, do vậy họ tích luỹ được rất nhiều kinh nghiệm và tài nghệ. Họ rất tốt với bạn bè, không keo kiệt chuyện tiền bạc, bởi vì mối quan hệ của họ với mọi người rất tốt đẹp. Họ thường gặp may mắn, được quý nhân giúp đỡ, do đó sự nghiệp thăng tiến rất nhanh. Đương nhiên nếu không được quý nhân giúp đỡ thì họ vẫn có thể bước những bước vững chãi trên đường bằng chính đôi chân của mình.
Người khoé miệng trễ xuống thường bảo thủ, cố chấp, không giỏi quan hệ, vụng về trong đối nhân xử thế, thích làm mọi việc một mình, tuy nhiên họ lại có thể dũng cảm phá vỡ quan niệm cũ, họ cũng có thể chịu khổ chịu khó, bởi vậy cần phải nỗ lực phấn đấu trong thời gian dài mới có thể thành công trong sự nghiệp. Họ kiếm tiền không dễ dàng, do đó cần phải thận trọng trong việc quản lý tài chính, tốt nhất nên lên kế hoạch cụ thể, tránh để xảy ra tình trạng thất thoát tiền bạc do làm ăn thua
Người có nếp nhăn khoé miệng kéo dài xuống phía dưới biết phân biệt thiện làm việc quyết đoán, không thích thay đổi, bởi vậy dễ khiến người khác hiểu lần người cố chấp. Họ rất coi trọng lợi ích vật chất, bởi vậy đôi khi tỏ ra là người thích bới móc, trêu chọc người khác. Họ cũng rất coi trọng quan hệ đối nhân xử thế, có thể tốn sức lực vào việc mở rộng quan hệ tình cảm và các mối quan hệ xã hội khác. Tuy nhiên, trong quá trình giao tiếp, nếu có ai đó xúc phạm tới họ thì họ sẽ không để ý. Ngoài ra, nếp nhăn khoé miệng kéo dài còn được mọi người cho đó là "nếp nhăn trường thọ", bởi vậy, có lẽ những người có nếp nhăn kiểu này là những người sống rất thọ
Người có môi mỏng, chóp mũi nhọn thích bới móc khuyết điểm của người khác Trong quá trình giao tiếp, họ thường nói những lời lẽ châm chích, giễu cợt người khác bởi vậy họ thường gây chuyện thị phi, khiến người khác có ác cảm, cũng chính vì vậy mà họ thường tự chuốc lấy phiền phức. Họ không giỏi quản lý tài chính, thường ra quyết đoán sai lầm, hơn nữa không được quý nhân giúp đỡ, bởi vậy quanh năm luôn ở trong tình cảnh túng thiếu, thậm chí còn có nguy cơ phá sản hoặc nợ nần.
Người có môi trên nhô ra có tài ăn nói lưu loát, thích tranh luận với người khác để chứng minh quan điểm của mình là đúng đắn, tuy nhiên lời lẽ của họ lại cho họ là người nhỏ nhen, ích kỷ, coi thường người khác, do vậy thường tạo cho người khác ấn tượng kiêu căng tự phụ. Vậy nên, họ không có bạn tri kỷ, quan hệ giao tiếp cũng không tốt.
Người có môi dưới nhô ra tính tình cứng rắn, kiên cường, không thích ỷ lại người khác, bởi vậy họ khá tự lập. Tuy nhiên, do quá chú trọng tới việc theo đuổi lợi ích cá nhân mà quên mất lợi ích tập thể, thiếu tinh thần đoàn kết hợp tác, bởi vậy họ khi dễ tiến xa trên con đường sự nghiệp, mà lại để lãng phí rất nhiêu sức lực. Về mặt tình cảm, họ bồng bột, thiếu chín chắn, khiến đối phương không thể chịu nổỉ, nếu không sửa được tính này thì tình cảm khó mà duy trì được lâu dài.
Người mà hai môi không thể khép khít vào nhau tính tình nóng nảy, vội vàng, dễ xúc phạm tới người khác, hơn nữa rất coi trọng lợi ích, thích giành phần lợi về mình, do vậy không được mọi người yêu mến. Trong phát triển sự nghiệp và quản lý tài chính, người có môi kiểu này thường do dự thiếu quyết đoán, do đó đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội tốt, nhẹ thì khiến cho sự việc không thể thành công, mà nặng thì gây hậu quả nghiêm trọng.
Người có hai môi đều nhô ra tính tình tuỳ tiện, thường không biết phải trái nên dễ đắc tội với mọi người khi giao tiếp, do đó thường mang lại nhiều phiền toái cho bản thân và gây rắc rối cho người khác. Họ rất coi trọng lợi ích vật chất, bị mờ mắt trước đồng tiền, họ thích đầu tư tiền bạc vào kinh doanh song lại thiếu may mắn, do vậy phải chịu thua lỗ mà không được như mong muốn. Vậy nên, việc họ cần làm là lên kế hoạch quản lý tài chính cẩn thận.
| ► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không |
![]() |
| Người tuổi Hợi |
![]() |
| Người tuổi Ngọ |
![]() |
| Người tuổi Mão |
![]() |
| Tuổi Sửu |
Mơ nhặt được tiền giấy chứng tỏ tài vận của bạn gần đây đang có dấu hiệu sa sút, lụi bại. Nên làm gì để hóa giải vận xui?

Mơ bị trộm tiền: Có thể giải thích giấc mơ này theo hai hướng: nếu mơ bị trộm tiền trên người, có nghĩa “của đi thay người”; nếu mơ bị trộm tiền trong nhà có thể là dấu hiệu cho thấy gia đình bạn không được bình yên, êm ấm.

Cách hóa giải: Để hóa giải giấc mơ đầu tiên, bạn nên chủ động đối phó như đối phó với tiểu nhân. Với giấc mơ thứ hai, “khổ chủ” nên đặt trụ lục giác thạch anh tím vào vị trí của các sao phi tinh năm nay: Ngũ Hoàng, Nhị Hắc. Cụ thể, năm nay, Ngũ Hoàng (sao tai họa) bay vào Trung cung (giữa nhà), Nhị Hắc (sao bệnh tật) bay vào cung Tây Nam.

Mơ thấy cửa bị sụt, lún: Nếu người nằm mơ là đàn ông, e rằng gia tài sẽ bắt đầu lụi bại, tiền khó vào túi. Nếu là phụ nữ còn đơn thân, giấc mơ này có thể là dấu hiệu cho thấy bạn sắp phải đương đầu với những tháng ngày mệt mỏi, đau khổ kéo dài vì chuyện tình cảm. Với người nữ đã kết hôn thì tài vận của mình bắt đầu có dấu hiệu sa sút.
Cách hóa giải: Đàn ông nên thỉnh Tỳ Hưu về đặt ở vị trí tài lộc (tài vị) trong nhà. Phụ nữ cần thay đổi thân tâm và tốt nhất nên đeo dây chuyền thạch anh tím.
Mơ thấy nước chảy vào nhà: Bất kể là dòng nước cuồn cuộn hay chảy nhỏ cũng đều là điềm báo về thời kỳ tiêu tiền nhanh hơn kiếm tiền sắp đến với bạn. Một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là do các thành viên trong gia đình không đồng tâm hiệp lực trong cuộc sống.
Cách hóa giải: Nên giải quyết mâu thuẫn giữa vợ chồng và thỉnh bùa cầu hòa thuận yên ấm cho vợ chồng.
Mơ nhặt được cá chết: Đây là giấc mơ bại vận. Giấc mơ này là dấu hiệu cho thấy, gần đây, cuộc sống của bạn không được như ý, tình duyên bình thường, tài vận sa sút…
Cách hóa giải: Đàn ông nên đeo mặt dây chuyền Tỳ Hưu… .. phụ nữ đeo mặt dây chuyền Phật bằng thạch anh vàng.
Mơ thấy con vật tuổi mình chết: Khi mơ thấy con vật tuổi mình (tuổi Dần mơ thấy hổ, tuổi Tỵ mơ thấy rắn…) chết có thể là điềm báo cho thời kỳ không thuận lợi về sự nghiệp. Đương nhiên, tài vận cũng sẽ không như ý.
Cách hóa giải: Đàn ông nên đeo mặt dây chuyền Quan Âm……phụ nữ nên đeo mặt dây chuyền Phật.
Mơ nhặt được tiền: Giấc mơ nhặt được tiền bằng kim loại là điềm báo về tài vận tốt lành. Nhưng đa phần mọi người thường mơ thấy nhặt được tiền giấy. Đó lại là giấc mơ cho thấy tài vận của bạn gần đây đang lụi bại dần. Cách hóa giải: Nên đeo những vật phẩm có tác dụng trừ tà, tiêu nạn.
Mơ thấy bị đồng nghiệp truy sát: Đây là giấc mơ không có lợi cho sự nghiệp của bạn: tổn thất nhiều, thậm chí có nguy cơ chuyển việc. Cách hóa giải: Nam giới nên đeo mặt dây chuyền nhân sâm như ý, phụ nữ nên đeo vòng tay thạch anh tím.
Mơ tháo nước: Trong phạm trù lý giải giấc mơ, nước là tài, là tình cảm sau hôn nhân, nhưng nếu mơ thấy cảnh tượng tháo nước lại hàm nghĩa thất bại trong tình cảm lẫn tiền tài, tức “nhân tài lưỡng thất”.
Cách hóa giải: Nên quan tâm và đáp ứng nhiều hơn những nhu cầu của người yêu hoặc người bạn đời. Hãy về nhà, quây quần với gia đình vào mỗi tối và có những hành động thể hiện tình cảm của mình với đối phương, đơn giản và ấm áp nhất là những cái ôm.
![]() |
Thành tâm hướng kính ngày sinh Chuẩn Đề Bồ Tát![]() |
| => Bói ngày sinh theo Xem Tướng Chấm Net để biết vận mệnh, sự nghiệp, tiền tài, hôn nhân của mình |
Tuy nhiên, có nhiều tác giả cho rằng nhiều tương sinh chưa hẳn là tốt. Trái lại, có đối khắc trong các yếu tố chưa hẳn đã là xấu. Quan điểm này nói lên vấn đề nghịch hợp của qui luật Âm Dương Ngũ Hành. Ví dụ như có người dẫn chứng rằng người Mệnh Thủy cung Mệnh đóng ở Thủy, tại đó có nhiều sao Thủy hay sao Kim (Kim sinh Thủy) thì không chắc đã hay, dù các yếu tố tương sinh về Âm Dương Ngũ Hành đều có lợi cho đương mệnh. Lý do đưa ra quá nhiều nước thì làm úng Bản Mệnh, chỉ cần một số lượng nước vừa phải Bản Mệnh mới tồn tại và hưng vượng. Một ví dụ về đối khắc cho rằng Bản Mệnh là Hỏa đóng ở cung Kim, thông thường thì đối khắc, nhưng chính nhờ Hỏa khắc Kim mà Kim mới thành đại dụng (kim khí nhờ lửa mới được đúc rèn thành vật dụng thiết yếu). Cho nên, việc đối khắc này lợi cho đương số chớ không có hại. Một ví dụ khác nữa cho rằng trong một cung mà có sao Kim, sao Mộc, tất sao Mộc bị sao Kim khắc chế, nhưng, nếu có cả sao Thủy đồng cung thì, theo luận cứ của vài tác giả, sao Mộc sẽ vô hại, vì lúc bấy giờ, Kim bận lo sinh Thủy nên không lo khắc Mộc !
Qua những ví dụ đó, ai cũng thấy rằng qui luật hợp hay khắc của Âm Dương Ngũ Hành rất phức tạp, khả dĩ đưa đến một mê hồn trận không có lối thoát, vì chưa ai giải rõ được số lượng yếu tố tương sinh vừa phải, số lượng yếu tố tương khắc vừa đủ, trường hợp nào khắc mà hay, trường hợp nào sinh mà dở, trường hợp nào khắc mà không khắc, lý do nào bị khắc mà hóa ra không bị khắc v.v…
Trí óc con người có thể hình dung được sự bất lợi của thái quá đối với bất luận yếu tố nào của con người. Nhưng cho đến nay, ngay cả trong lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành và trong quan điểm của những tác giả thực nghiệm, chưa thấy có qui luật nào nói lên mức độ trung dung vừa phải. Dường như đây là vấn đề lượng định của mỗi cá nhân.
Trí óc con người cũng có thể hình dung được rằng sự khắc chế có nhiều cái hay cho con người và đời người, cụ thể như nghĩ rằng nghịch cảng có thể là một động lực thúc đẩy con người đấu tranh, do đó, sự đối khắc xét ra có ích để cho con người được trui rèn, ngõ hầu trở thành lão luyện, từng trải. Nhưng lối hình dung như vậy chỉ đúng được 1 phần vì 2 lẽ:
- Nghịch cảnh có thể làm lụn bại chí đấu tranh của cá nhân nếu đó là nghịch cảnh lớn và liên tiếp, quá sức chịu đựng của cá nhân.
- Mức độ nặng nhẹ của nghịch cảnh xuất phát từ sự đối khắc ngũ hành không thể qui định thích đáng cho mọi người và cho mỗi cá nhân. Vẫn có trường hợp 2 đối khắc ngũ hành là vừa đủ cho cá nhân này lại quá nặng cho một cá nhân khác.
Một lần nữa, đây cũng là vấn đề lượng định riêng của người giải đoán.
Đối với ví dụ sao Kim bận sinh cho sao Thủy nên không lo khắc chế sao Mộc đồng cung, thì đây quả là một lý luận đúng nửa chừng vì có người đối nại rằng sao Kim có thể chỉ lo khắc sao Mộc mà bỏ qua sao Thủy, hoặc là sao Thủy vì lo phù sinh cho sao Mộc nên sao Mộc hưng vượng sẽ không bị sao Kim khắc chế? Thành thử trên ví dụ đó, nhiều hướng luận đoán chớ không phải chỉ có một lý luận. Ai khẳng định tức là rơi vào phiến diện, từ đó có thể sai lầm.
Cho nên, vấn đề nghịch hay hợp giữa các hành còn thiếu sót. Không lý thuyết nào đủ sức đưa ra những lượng định (appréciation quantitative) và những phẩm định (appréciation qualitative) thỏa đáng, khả dĩ làm được việc này. Tất cả đều lệ thuộc sự thẩm định riêng rẽ của người giải đoán, may thì đúng, rủi thì sai. Đây là một nhược điểm trầm trọng của khoa Tử -Vi mà hậu quả sẽ đưa đến nhiều tranh chấp nan giải.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| => Xem bói tử vi để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình |
Top 3 con giáp có “tem bảo hành” cả bề ngoài và thực lực
![]() |
| Ảnh minh họa |
Thời gian gần đây, chuyện chân dài cặp với đại gia hay những cô gái đào mỏ, đòi hỏi người yêu giàu có cung phụng xuất hiện tràn ngập khắp nơi. Tất nhiên, chuyện này đúng sai do quan điểm của từng người nhưng cũng phải nhấn mạnh rằng các cô ấy cũng có bản lĩnh đấy chứ.
![]() |
![]() |
Chùa Phúc Lâm – Một trong những nơi tín ngưỡng tâm linh nổi tiếng ở Hải Phòng. Chùa Phúc Lâm còn có tên gọi khác là chùa Cựu Điện, tên chữ là Phúc Lâm Tự. Đây là ngôi chùa cổ có bề dày truyền thống lịch sử văn hoá đáng trân trọng và tự hào. Chùa tọa lạc ở làng Cựu Điện, xã Nhân Hòa, huyện Vĩnh Bảo, Tỉnh Hải Phòng. Nơi đây được trụ trì bởi sư thầy Thích Tịnh An.
Chùa Phúc Lâm là ngôi chùa truyền thống cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của huyện. Trong đó, những nhà sư trụ trì chùa là những nhà hoạt động cách mạng khi thì bí mật, lúc công khai. Những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, chùa Phúc Lâm thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của huyện và là nơi làm việc của cơ quan nông sản huyện.
Kiến trúc hiện tại của chùa Phúc Lâm được làm mới năm 1932. Sau ba lần di chuyển mặt chính của toà Phật điện và Nhà thờ tổ đều quay hướng Tây. Chùa còn xây dựng thêm nhà thờ Mẫu, nhà khách. Thượng điện cấu trúc chữ đinh, 5 gian tiền, 3 gian hậu cung, vì kèo cấu trúc giá chiêng, 5 gian tiền với 6 bộ vì gỗ, 24 cột tròn, chuôi vồ 3 gian, xây bệ xi măng.
Khác với một số công trình tôn giáo niên đại thời Nguyễn ở Hải Phòng, chùa Phúc Lâm phần hiên phía trước rộng rãi, xây kiểu vòm, cuốn tường hồi, bít đốc, nay trùng tu đã thay bằng hiên mái chẩy với cột đá vuông, hoa văn hoạ tiết điêu luyện, song vẫn giữ được nét chạm đục truyền thống nghệ thuật nhà Nguyễn qua hình lá guột chữ triện bong trên gỗ.
Toà phật điện có 18 pho tượng là phật điện, vẻ đẹp lộng lẫy. Toà Cửu Long còn đầy đủ 9 con rồng, cùng các pho tượng nhỏ, sắc hoàng kim rực rỡ. Ở giữa có Đức Thích Ca lúc mới ra đời, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất. Các pho tượng Phật khác gồm ba vị tam thế toạ trên đài sen, hai bàn tay lồng vào nhau, khoanh chân; Quan âm Tổng tử, Quan âm Thiên thủ, Thiên Nhỡn, Nam Tào, Bắc Đẩu. Đặc biệt, có hai vị tướng bộ Thiện, bộ Ác cỡ nhỏ chỉ cao 35cm. Chuông đồng cao 1,2m, đường kính đáy 50cm, được đúc vào tháng 9/1839 triều vua Minh Mệnh thứ 20. Chùa có hai bức đại tự chữ đề: “Phúc Lâm thiền tự Thanh Thái tử tôn”.
Toàn bộ quang cảnh khuôn viên nhà chùa nằm thấp thoáng dưới tán cây cổ thụ cổ kính, tôn nghiêm, hoành tráng. Phía trước chùa là núi nhân tạo. Cựu Điện có nhà Thuỷ tạ, có hồ nước trong. Bên cạnh đó là ngôi chùa “Khổng Tước tự” – một câu chuyện huyền thoại về quá trình cầu tự để sinh ra vị Thành hoàng, người có công lớn trong công cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống thế kỉ XI.
Trong những năm qua, chùa Phúc Lâm do sư thầy Thích Tịnh An trụ trì, cùng các phật tử xa gần đầu tư công sức, trí tuệ, tiền của trùng tu nâng cấp tạo dựng khuôn viên chùa Phúc Lâm ngày một khang trang hơn, xứng đáng là một di tích lịch sử cấp Quốc gia, có bề dày truyền thống lịch sử cách mạng lâu đời.
1. Chọn loại tủ giày dép có số tầng theo ngũ hành
Con số 5 tượng trưng cho ngũ hành giúp cân bằng âm dương, mang lại hòa khí cho ngôi nhà. Do đó, bạn nên chọn loại tủ hoặc kệ để giày dép có 5 tầng, đồng thời mỗi tầng xếp 5 đôi giày. Nếu số tầng ít hơn 5 thì không có ảnh hưởng lớn, nhưng nhiều hơn 5 lại không tốt cho gia chủ.
![]() |
2. Kê tủ giày dép tiếp xúc trực tiếp với mặt đất
Trong phong thủy, giày dép thuộc hành thổ nên nếu kê tủ để chúng quá cao so với mặt đất sẽ không mang lại vận khí tốt cho người đi. Đồng thời, giày dép cũng được coi là yếu tố nền tảng. Nếu nền tảng căn bản ổn định sẽ mang lại thuận lợi cho sự nghiệp của gia chủ.
3. Không kê tủ giày dép đối diện với cửa ra vào
Giày dép đã qua sử dụng đều dính bụi bẩn, đất cát... nếu không được sắp xếp chỉn chu, lại để đối diện với cửa ra vào sẽ ảnh hưởng xấu tới phong thủy, có thể gây bất hòa trong gia đình.
Vị trí kê tủ thích hợp nhất là phía trong bên phải cửa chính ra vào. Nó sẽ giúp gia đình thêm hòa thuận và tiếp đón nhiều khách quý tới thăm.
![]() |
4. Tránh chọn tủ có kích thước quá lớn
Theo phong thủy, nếu kích thước tủ giày dép quá cao sẽ không tốt cho tình cảm và sự nghiệp của gia chủ. Nên chọn các loại tủ có chiều cao không quá 1/3 chiều cao của căn phòng để đảm bảo phong thủy và mang lại điều tốt lành.
5. Nên chọn tủ giày dép có màu trầm
Màu tủ trầm sẽ không dễ lộ các vết bụi bẩn do giày dép dính lại, vừa đảm bảo mỹ quan lại hợp phong thủy. Phía trên tủ giày dép có thể bày đồ mỹ nghệ, cây hoa để mang lại nhiều vận may cho chủ nhân.
Mr.Bull
![]() |
4 chiêu tăng vận đào hoa cho FA nhờ phong thủy Bày hoa đào, muối biển thích hợp trong nhà có thể giúp bạn thúc đẩy chuyện tình duyên, sớm thoát kiếp FA. |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| Tý | Sửu | Dần | Mão |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| Thìn | Tỵ | Ngọ | Mùi |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| Thân | Dậu | Tuất | Hợi |
Mr.Bull (theo Dyxz)
Trong Phong thủy học, ba yếu tố là Chủ – Môn – Táo ( phòng chủ nhà, bếp, cửa ra vào) luôn là yếu tố đặc biệt cần coi trọng. Những yếu tố này không chỉ đựoc thừa nhận như những yếu tố tiên quyết trong trường phái Dương Trạch Tam Yếu mà trong Huyền không học hay Bát trạch Phong thủy đều dựa vào và coi đó là yếu tố then chốt để luận đoán cát hung trong một căn nhà, hay một đối tuợng xem xét của Khoa Phong thủy. Trong kiến trúc hiện đại, Chủ – Môn- Táo đã có nhiều thay đổi khác trước. Vì vậy mà những quan niệm về Chủ- Môn-Táo trong Phong thủy xưa cũng nên nhìn nhận thấu đáo hơn trước khi ứng dụng cụ thể vào thực tiễn cuộc sống. Bài viết sau đây sẽ xem xét các yếu tố PHÒNG NGỦ, BẾP VÀ HƯỚNG NHÀ trong cái nhìn so sánh giữa Phong thủy cổ truyền và Kiến trúc hiện đại cùng với những biến đổi của Phong thủy trong sự thích nghi với xã hội hiện đại.

Có tới một phần ba cuộc đời con người trôi qua trong giấc ngủ. Giấc ngủ giúp chúng ta nghỉ ngơi, thư giãn và tái tạo lại nguồn năng lượng sau những giờ làm việc căng thẳng, mệt nhọc. Không chỉ vậy, chiếc giường ngủ trong phòng còn là nơi gắn bó tình cảm vợ chồng nồng ấm, nơi khởi nguồn những giấc mơ nuôi dưỡng tâm hồn mỗi thành viên trong gia đình. Chính vì vậy, cùng với lịch sử của môn Phong thủy từ hơn hai ngàn năm trước, và cho đến cả những năm đầu của thế kỉ thứ 21 vai trò và ý nghĩa của phòng ngủ không hề thay đổi. Nó được coi là yếu tố có quan hệ mật thiết tới sức khỏe của chủ nhân, thậm chí theo các phong thủy gia, nó còn có vai trò nhất định tới hưng, suy, thành, bại của con người. Do vậy việc sắp đặt không gian phòng ngủ luôn được coi trọng là thế để tạo nên một môi trường hoàn hảo cho sự thư giãn tối ưu nhất.
Trong thuật Phong thủy, hướng và vị trí là hai yếu tố quan trọng hàng đầu. Phòng ngủ là không gian cần sự yên lành tất yếu phải tuân theo nguyên tắc bố trí ở những cung tốt và huớng tốt so với bản mệnh của gia chủ hay còn gọi là “tọa cát hướng cát”. Đối với hướng giường ngủ thì hiện nay có hai ý kiến khá khá mâu thuẫn người lấy hướng chân để tính Phong thủy, người chọn hướng đầu để tính cát, tính hung. Tuy nhiên, nếu xem xét toàn bộ cơ thể con người ta thấy rõ ràng ở đầu con ngưới ta luôn tập trung nhiều cơ quan quan trọng. Có thể kể ra như trung khu thần kinh, bách hội huyệt đều là những cơ quan trọng yếu của cơ thể và hệ thần kinh thì ảnh hưởng lớn thế nào đối với giấc ngủ. Do đó, việc nhìn nhận hướng giường trong Phong thủy với phương án tính hướng đầu giường sẽ hợp lý hơn cả.
Trong một ngôi nhà, gian bếp có vai trò rất đáng kể, đó không chỉ nơi diễn ra các hoạt động liên quan đến ăn uống, không gian bếp còn là nơi giao lưu, gặp mặt của các thành viên trong gia đình. Dưới góc độ Phong thuỷ, gian bếp tượng trưng cho tài lộc và cũng là nơi mang dưỡng khí cho gia đình, cổ nhân xưa có câu “Hoạ tòng khẩu xuất, bệnh tòng khẩu nhập” nên chuyện ăn uống hay khâu chế biến, nấu nướng mà cụ thể là tổng thể của một gian bếp toàn diện phải được coi trọng dẫu là thời kì nào, chế độ nào đều không đổi. Bếp quan trọng vậy do đó hướng bếp và vị trí bếp là những yếu tố then chốt để cấu thành nên tính của một gian bếp là cát hay hung vậy!
Xã hội hiện đại phát triển, những tri thức mới và công nghệ mới kéo theo nhiều kiểu bếp ra đời. Thơi xa xưa thầy Phong thủy với phuơng thức bếp than bếp củi, họ vẫn tính hướng bếp theo hướng của đường đưa nhiên liệu vào bếp. Có vẻ như tri thức của khoa Phong thủy vẫn chưa theo kịp tiến trình này của xã hội tân tiến. Những lý thuyết về đường đưa nhiên liệu thật khó có thể tìm ra hướng bếp đối với những trường hợp đường dẫn năng lượng là dây ga, nếu đường có uốn éo thì việc xác định đúng là nhiệm vụ bất khả thi. Từ đó khiến cho người muốn tìm hiểu về phong thủy cảm thấy rất lúng túng để tìm ra một hướng bếp đúng đắn cho mình. Một số quan niệm khuyên tính hướng bếp là hướng của nút vặn công tắc ga. Nhưng khi gặp trường hợp nút điều khiển nằm ngay trên mặt bếp hướng thẳng lên trời thì lại chưa tìm được lời giải thích hợp lý.
Để có được lời giải, trước hết chúng ta nên hiểu sự vận hành chính là quá trình nạp khí cho bếp. Trong Phong thủy, sự tương tác vận động, hay giao tiếp giữa con người với khu bếp tạo nên khí, bếp được nạp khí chính là do con người. con người như vật thể sống truyền năng lượng cho căn bếp vậy. Vì vậy có thể coi hướng bếp là hướng nhận thao tác của người nấu, tức là hướng ngược lại với mặt người nấu. Nói cách khác, hướng bếp là hướng lưng của người nấu. Khi đã nắm bắt rõ khái niệm hướng bếp thì cho dù bếp thay đổi đến đâu, có hiện đại đến thế nào, ta vẫn có thể tìm ra hướng một cách dễ dàng.
Trong sách Bát trạch minh cảnh- một tác phẩm kinh điển và coi là sách gối đầu giường của các Thày Phong thủy cho rằng bếp nên “tọa hung hướng cát”, nghĩa là phải đặt ở vị trí xấu và nhìn ra hướng tốt. Tuy nhiên, quan niệm này hiện nay cần phải có những điểu chỉnh cho phù hợp với thời đại.
Từ xa xưa, con người ta thường sử dụng các nhiên liệu như rơm rạ, than, củi để đun nên khu bếp thường là không gian nhiều khói bụi, ô nhiễm. Điều này khiến cho bếp thường được đặt ở những vị trí xấu. Vì lẽ đó lý thuyết phong thủy cho rằng những thứ gì xấu, ô nhiễm nên đặt ở vị trí xấu đối với gia chủ để lấy xấu để chế ngự xấu hay còn gọi là “dĩ độc trị độc”!
Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại công nghệ hiện đại và cả thói quen sống nữa khiến cho tính chất khu bếp đã thay đổi không còn như xưa nữa. Khoa học hiện đại và công nghệ tiên tiến đã khiến gian bếp trở nên sạch sẽ, gọn gàng và không còn ô nhiễm như xưa. Chính vì vậy, mà ngày nay bếp nên được đặt ở những phương vị tốt để nghênh đón điều lành sẽ hợp lý hơn, tức là bếp luôn phải “tọa cát hướng cát”. Ngoài ra có thể sử lí đường thoát mùi hay ống thông hơi cho nhà bếp khi thoát ra phía ngoài đặt tại những phương vị xấu hay cuối hướng gió để trừ khử cái xấu.
Khí là một khái niệm đặc thù trong khoa Phong thủy hay những bộ môn khác của nền Văn hóa Phương đông. Phong thủy của một quốc gia người ta đề cập tới khí sông khí núi, phong thủy của một thành phố đặc biệt quan trọng bởi các con đường bởi nó là yếu tố then chốt làm nên cấu trúc của một thành phố cũng như vai trò dẫn khí phân bổ tới từng khu vực trong nội đô, tới ngôi nhà hay từng công trình. Đối với một đối tượng nghiên cứu cụ thể như một ngôi nhà, cửa chính hay còn gọi là Đại môn là không gian giao tiếp đầu tiên, đó là nơi liên hệ giữa hai yếu tố nội và ngoại, ngoài ra nó còn là vai trò then chốt trong việc nạp khí cho ngôi nhà. Ngoài cửa chính các hành lang cầu thang và các cửa phòng, cửa hậu chính là những nơi có nhiệm vụ giúp điều tiết luồng năng lượng trong căn nhà của chúng ta. Vì thế, không thể bàn cãi vai trò cực kì quan trọng của cửa trong một ngôi nhà. Ngoài ra, cửa là một trong những yếu tố giúp định vị hướng nhà một yếu tố tối quan trọng theo Phong thủy cổ truyền.
Kiến trúc hiện đại phát triển lên tầm cao cùng với đó là xu huớng tất yếu của đô thị hóa và loại hình nhà chung cư. Việc xác định hướng cho một ngôi nhà nói chung và căn hộ chung cư nói riêng là một việc cần làm và có ý nghĩa quan trọng theo Phong thủy. Nhiều người cho rằng, hướng của căn hộ chính là hướng cửa sổ, cửa ra ban công nơi có nhiều nắng, gió do khoảng không gian tiếp xúc trực tiếp ngoại cảnh. Qua thực tế và kinh nghiệm cá nhân, cách tính này không chính xác. Những quan niệm trên đã nhầm lẫn khi coi những yếu tố về nắng về gió hay không khí là yếu tố tạo nên “khí” trong Phong thủy. Thực tế không phải vậy. “Khí” được tạo thành bởi sự vận động và tương tác của con người với căn nhà. Một giả định đơn giản cũng chỉ rõ điều này. Nếu chúng ta bịt tất cả cửa sổ, sử dụng cửa chính thì vẫn có thể sinh hoạt được, dù thật bất tiện, khó khăn. Nhưng nếu chúng ta bịt cửa chính thì chắc chắn căn hộ đó không thể vận hành được. Vì vậy, hướng của căn hộ phải được tính bởi hướng cửa ra vào của căn hộ. Phong thủy xưa có câu “Khai môn lập huớng” chính là nói về ý này.
Bên cạnh việc xác định phương vị, thì việc xác định số đo hướng của căn hộ chung cư bằng la bàn là điều mà thực tế khác nhiều so với lý thuyết, đôi khi sử dụng la bàn để đo hướng đối với nhà chung cư lại cho ra những kết quả không dùng được! Nhà chung cư với những đặc thù do kết cấu thường rất nhiều lõi cốt thép với từ tính cao hơn các nhà biệt thự hoặc đất phân nền gấp nhiều lần, do vậy dễ làm sai lệch kim la bàn dẫn đến việc xác định hướng không chính xác. Kinh nghiệm là không chỉ đo ở nhiều vị trí khác nhau, cả ở trong lẫn bên ngoài căn hộ và toà nhà mà những công cụ như bản đồ vệ tinh là những công cụ không thể bỏ qua để quyết xác một thông số đầu vào chính xác.
Trong suy nghĩ của phần đông những người có nhu cầu chọn đất làm nhà hay mua nhà xây sẵn, thường vẫn muốn biết hướng của miếng đất hay căn nhà ấy có hợp với tuổi của mình hay không và đôi khi bỏ qua những yếu tố khác. Với Phong thủy học chân chính đây là một quan niệm khá cứng nhắc. Hướng nhà chỉ là một trong rất nhiều yếu tố cần được quan tâm, xem xét. Bởi lẽ, hướng nhà có tốt nhưng không hay về cấu trúc bên trong, ngoại cảnh hay thời vận không tốt thì căn nhà đó cũng không phải đã chuẩn theo Phong thủy học. Bên cạnh đó, đối với căn nhà hướng nhà xấu thuật Phong thủy luôn có những phương án để hóa giải những bất lợi đó. Chẳng hạn như có thể sắp đặt được hướng bếp, hướng ban thờ, hướng giường ngủ tốt sẽ khắc chế được hướng nhà xấu. Hướng cửa chỉ là một trong ba yếu tố làm nên cái gọi là CHỦ-MÔN-TÁO là những yếu tố cần thiết và tối quan trọng trong Phong thủy. Xấu một thứ ta dùng các thứ khác để hóa giải. Phong thủy gọi là “đa cát chế thiểu hung” hay nói theo nghĩa hiện đại một người xấu chơi với một tập thể tốt… cũng sẽ thành tiến bộ! Rõ ràng trong quá trình chọn lựa nơi định cư không nên vì lý do “không hợp hướng” để rồi kén chọn quá đà mà bỏ lỡ những cơ hội để có một nơi an cư lạc nghiệp.

Dưới ánh sáng của khoa học hiện đại, môn Phong thủy ngày càng gần gũi và cụ thể hơn với cuộc sống con người. Tuy nhiên, chúng ta không chỉ ứng dụng mà phải biết kế thừa và phát triển bộ môn khoa học cổ xưa này. Những yếu tố cũ kỹ và lạc hậu cần phải loại bỏ đồng thời cần phải tiếp tục nghiên cứu, bổ sung những kiến thức mới để nâng cao tính ứng dụng của Phong thủy cũng như hoàn thiện hơn cho phù hợp với công nghệ, với thời đại. Phong thủy là một khoa duợc sinh ra trong lòng cuộc sống và vị cuộc sống nên nó cũng biến hóa và phải biến hóa sao cho phù hợp với xã hội. Đó chính tiêu chí lấy bất biến ứng vạn biến của khoa Phong thủy nói riêng và Dịch học nói chung.
| ► Đọc thêm: Chuyện tâm linh huyền bí bốn phương có thật |
![]() |