Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Đầu tư cửa hàng chuyên nghiệp cần chú ý những điều gì? –

Đầu tiên là cân nhắc đến nhân tố chính sách. So với những cửa hàng bình thường, nhân tố chính sách có ảnh hưởng rất lớn đối với thị trường chuyên nghiệp. Thị trường chuyên nghiệp mở ra ở đâu, chắc chắn sẽ sinh ra những ảnh hưởng nhất định đối với môi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

trường và giao thông xung quanh, lúc này chính phủ không thể không can dự.

da8b7702e678aaed95720c83633830a6

Tiếp đó, phải hiểu rõ được thị trường. Thị trường chuyên nghiệp không giống như những cửa hàng bán lẻ, nhưng đối tượng khách hàng mà họ phục vụ tương đối cao cấp. Trong trường hợp này, danh tiếng của họ chính là tiền bạc, cùng có tác dụng quan trọng việc kinh doanh thịnh vượng sau khi thị trường chuyên nghiệp được mở ra. Tiếp theo, phải có những đánh giá đầu tư một cách chính xác. Đối với việc mở rộng lợi ích từ việc tiền thuế được công bố và tỷ lệ báo cáo đầu tư, những nhà đầu tư bản thân cũng phải đi khảo sát thực tế, phải đi thăm dò nhiều nơi về điều kiện mở rộng quy mô cửa hàng, độ tin cậy, cũng như danh tiếng, nắm được chuẩn giá trị thuế thực chất của khu vực, sau đó mới quyết định.

Cuối cùng là, chủ kinh doanh cần nghiên cứu những vấn đề kinh doanh sau khi mơ cửa hàng. Thị trường chuyên nghiệp do phần lớn người tiêu dùng có đặc thù quyết định. chính vì vậy, quản lý kinh doanh chuyên nghiệp hay không trực tiếp quyết định thành bại của thị trường. Khả năng quản lý công ty sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự duy trì phát triển của từng hạng mục. Chính vì vậy, nhà đầu tư trước khi đưa ra quyết định, nhất định phải khảo sát cẩn thận những vấn đề như sau: khi mở ra thị trường chuyên nghiệp thì kinh doanh cái gì, kinh doanh như thế nào? Đặc biệt cần làm rõ việc quan hệ hợp tác như thế nào, thời gian hợp tác trong bao lâu giữa các cửa hàng và các hãng thương hiệu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đầu tư cửa hàng chuyên nghiệp cần chú ý những điều gì? –

Top những chòm sao dễ trở thành triệu phú trong tương lai –

Những chòm sao nào dễ trở thành triệu phú trong tương lai? Theo khoa học đã nghiên cứu thì xếp hạng đầu là Xử Nữ, thứ hai là Bò Cạp... và cuối cùng là Sư Tử nhé. Củ thể ra sao chúng ta cùng tìm hiểu nhé! Top những chòm sao dễ trở thành triệu phú tron

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những chòm sao nào dễ trở thành triệu phú trong tương lai? Theo khoa học đã nghiên cứu thì xếp hạng đầu là Xử Nữ, thứ hai là Bò Cạp… và cuối cùng là Sư Tử nhé. Củ thể ra sao chúng ta cùng tìm hiểu nhé!

Nội dung

  • 1 Top những chòm sao dễ trở thành triệu phú trong tương lai
    • 1.1 Thứ nhất: Xử Nữ
    • 1.2 Thứ hai: Bò Cạp
    • 1.3 Thứ 3: Bạch Dương
    • 1.4 Thứ 4: Bảo Bình
    • 1.5 Thứ 5: Sư Tử

Top những chòm sao dễ trở thành triệu phú trong tương lai

Thứ nhất: Xử Nữ

Những triệu phú thuộc cung xử nữ thường là những người có đầu óc sáng tạo và sự nhạy bén với thời cuộc. Họ cũng sở hữu tính kiên trì, nhẫn nại hơn người. Thành công không bao giờ đến với họ một cách giễ dàng mà phải trải qua một quá trình lâu dài, bền bỉ, đòi hỏi sự cố gắng và học hỏi không ngừng.

Đại diện cho triệu phú  thuộc cung xử nữ chính là Warren Edward Bufeet nhà kinh doanh chứng khoán xuất sắc nhất thế giới. Người hiện đứng đầu danh sách những người giàu nhất thế giới do tạp chí uy tín Forbes bình chọn. Trong những danh sách tỉ phú và triệu phú được điều tra, những người thuộc cung Xử Nữ chiếm số lượng đông đảo nhất 12.18%

Thứ hai: Bò Cạp

Các triệu phú thuộc cung bò cạp hầu hết đều xuất thân từ thế giới công nghệ và truyền thông, vì thế sự sáng tạo trong công việc của họ là điều không thể phụ nhận. Thờ gian làm việc không mệt mỏi cộng với việc sắp xếp thời gian cực kỳ khao học nên chìa khóa cánh cửa thành công được mở ra.

Đại diện cho chòm sao này chính là sự thành công của Bill Gate – ông hoàng công nghệ một người nhiều năm liền đứng đầu danh sách: ” Những người giàu nhất thế giới”

Thứ 3: Bạch Dương

Dù những triệu phú đại diện cho cung Bạch Dương không nhiều như cung Xử Nữ và Bò Cạp nhưng họ là những người kiệt xuất. Không ai có thể phụ nhận được khả năng lãnh đạo một tập đoàn lớn của họ. Đó là những CEO vĩ đại, những người lãnh đạo xuất sắc, mọi hành động của họ ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu trên thế giới. Tiêu biểu là Steve Ballmer – giám đốc điều hành máy tính lớn nhất thế giới Microsoft.

Top-5-chom-sao-co-kha-nang-tro-thanh-trieu-phu-1398068103_660x0

Thứ 4: Bảo Bình

Độc lập, bản lĩnh giải quyết công việc với một cái đầu lạnh là đặc điểm nổi bật nhất của các nhà triệu phú thuộc cung hoàng đạo này. Ở họ ta có thể học được tinh thần làm việc không biết mệt mỏi, tinh thần học hỏi và vận dụng những điều mới một cách tài tình và biến hóa. Tiêu biểu là Konosuke Matshusita – cha đẻ của tập đoàn điện tử Maushita,  nơi sản sinh ra những mẫu hàng điện tử nổi tiếng mang nhãn hiệu Panasonic.

Thứ 5: Sư Tử

Lập nghiệp với một trái tim tâm huyết, nhiệt thành chính là điểm mạnh của những người triệu phú thuộc chòm sao Sư Tử. Họ sở hữu sức mạnh, sự can đảm luôn dám đương đầu với khó khăn như những con sư tử dũng mãnh.

Tiêu biểu là Lý Gia Thành – thiên tài kinh tế Châu Á – một con người tuy nhỏ bé nhưng giám nghĩ giám làm.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top những chòm sao dễ trở thành triệu phú trong tương lai –

Vì sao lễ Vu Lan bạn nên đến chùa

Ngày rằm tháng 7 từ lâu đã được người Việt ta chọn là ngày lễ Vu Lan.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là thời điểm để con cái nhớ về công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Ngày này, rất nhiều người đến chùa thành tâm cầu an sức khỏe cho đấng sinh thành.

Theo quan điểm của nhiều người Việt ta, ngày rằm tháng 7 được coi là ngày quan trọng nhất trong năm. Nói như cố hòa thượng Thích Thanh Từ (chùa Quán Sứ, Hà Nội), lễ Vu Lan có nghĩa là ngày báo hiếu cha mẹ. "Ngày rằm tháng 7, ta phải cầu nguyện để đức Phật xá tội cho các linh hồn. Con cái phải hiếu thuận với cha mẹ ngay từ khi họ còn sống để sau này không phải hối tiếc".

Vu Lan là một trong những ngày rằm quan trọng nhất trong năm. Việc đi chùa thắp hương khấn Phật, cầu siêu là điều nên làm. Điều đó sẽ mang lại may mắn, an lành cho những người thân trong gia đình bạn.

Ngày Vu Lan là ngày báo hiếu cha mẹ đã có công sinh thành và nuôi dưỡng. Trong dịp lễ này, người dân nói chung và bà con Phật tử ngoài việc lên chùa cài hoa hồng, tụng kinh cầu siêu tỏ lòng báo hiếu với ông bà tổ tiên, cúng dường trai tăng, công đức để cha mẹ được sống trong cực lạc. Ngày đó vào chùa lễ Phật, nếu may mắn còn mẹ, bạn sẽ được gắn một hoa hồng lên áo. Nếu như không may, mẹ không còn nữa, bạn sẽ được gắn một bông hoa trắng.

 Vì sao lễ Vu Lan bạn nên đến chùa - 1

Ngày Lễ Vu Lan, bạn nên đến chùa cầu siêu, cầu bình an, tỏ lòng báo hiếu với ông bà tổ tiên, cha mẹ.

Nếu bạn đang được ở cùng cha mẹ, hãy cùng họ lên chùa và tận hưởng những phút giây đoàn viên ý nghĩa. Nếu bạn đang ở xa gia đình, hãy chọn một ngôi chùa nào đó gần nơi bạn đang ở và thành tâm cầu nguyện cho cha mẹ.

Ở mỗi nơi trên đất nước Việt Nam, mỗi người lại có cách báo hiếu cha mẹ khác nhau, có người đi chùa cầu cho cha mẹ bình an, có người lại mua quà tặng cha mẹ,… nhưng điều quan trọng nhất là mỗi người hãy sống thật tốt, đối xử thật tốt với bố mẹ trong những ngày bình thường, ngay khi bố mẹ còn sống.

Hiện nay, cuộc sống ngày càng bon chen và bận rộn, sự quan tâm đến người thân trong mỗi chúng ta ngày càng thưa thớt hơn. Vì vậy, bạn hãy dành những thời gian rảnh rỗi để gọi điện, về thăm bố mẹ. Đó là món quà ý nghĩa nhất mà bố mẹ bạn nhận được.

Phân biệt Lễ Vu lan và lễ cúng Cô hồn

Một số người lầm tưởng Lễ Vu Lan và lễ cúng Cô hồn. Tuy nhiên, hai lễ này hoàn toàn khác nhau. Chúng gắn với hai sự tích khác nhau tuy nhiên lại tổ chức chung một ngày rằm tháng Bảy khiến cho nhiều người nhầm lẫn.

1. Lễ Vu lan
Ngày Rằm tháng 7 (Âm lịch) được gọi là ngày “Báo hiếu cha mẹ” tức lễ Vu Lan. Rằm tháng 7 cũng là ngày “Xá tội vong nhân” tức lễ cúng Cô hồn.

Lễ Vu Lan gắn với tích về Mục Kiền Liên, đệ tử của Đức Phật, là một vị tôn giả tu luyện được nhiều phép thần thông, được liệt vào hạng thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử của Phật.

Vì tưởng nhớ mẹ nên một ngày nọ Mục Kiền Liên dùng đôi mắt thần nhìn xuống địa ngục, thấy mẹ là bà Thanh Đề bị Diêm Vương đày làm quỷ đói do kiếp trước gây nhiều nghiệp ác. Thương mẹ nên ông dùng phép thuật xuống địa ngục để mang cơm dâng cho người.

Bà Thanh Đề do lâu ngày nhịn đói nên khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình vì sợ các cô hồn khác đến tranh. Vì còn tính "tham sân si" nên khi bà đưa bát lên miệng, thức ăn đã hóa thành lửa đỏ không thể ăn được. Đau xót khi chứng kiến cảnh này, Kiền Liên cầu xin Đức Phật giúp mình cứu mẹ.

Đức Phật dạy ông rằng một mình con không thể cứu được mẹ do ác nghiệp của bà quá nặng, chỉ còn cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong thành công. Vào ngày rằm tháng bảy, nhân lúc chư tăng mãn hạ (sau 3 tháng an cư kiết hạ) thì sửa một cái lễ đặt vào trong chiếc chậu để dâng cúng và thành khẩn cầu xin mới có thể cứu rỗi vong nhân khỏi địa ngục tăm tối.

Mục Kiền Liên thành tâm làm theo lời Phật dạy, không những cứu được mẹ mà còn giải thoát được tất cả vong hồn bị giam cầm ở âm cung. Từ đó ngoài ý nghĩa "mùa hiếu hạnh", tháng bảy âm lịch còn gọi là tháng "xá tội vong nhân", tức là thời gian các vong hồn được thả tự do. Trong những ngày này, người dân thường lập đàn cầu siêu hoặc cúng thí (bố thí) thức ăn cho các cô hồn (tức là vong hồn không có người thân) để mong họ phù hộ cho mình.

Từ đó về sau theo lời Phật dạy, các phật tử muốn báo hiếu cha mẹ thì cử hành lễ Vu Lan để cầu siêu cho các đấng sinh thành và cầu phá địa ngục cho những vong hồn.

2. Lễ cúng Cô hồn
Việc cúng Cô hồn có liên quan đến câu chuyện giữa ông A Nan Ðà, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu).

Một buổi tối, A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày sau, A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ miệng lửa, mặt cháy đen như nó.

A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho phương cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói: “Ngày mai ông phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc thức ăn, và soạn lễ cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ được tăng thọ, còn tôi sẽ được sinh về cõi trên”.

A Nan đem chuyện bạch với Ðức Phật. Đức Phật bèn cho bài chú gọi là “Cứu bạt diệm khẩu ngạ quỷ Ðà La Ni”. A Nan đem tụng trong lễ cúng và được thêm phúc thọ…

Tục cúng Cô hồn bắt nguồn từ sự tích này nên ngày nay người ta vẫn nói cúng Cô hồn là Phóng diệm khẩu, với nghĩa gốc là “thả quỷ miệng lửa”. Về sau, lại được hiểu rộng thành các nghĩa khác như: Tha tội cho tất cả những người chết (xá tội vong nhân) hoặc Cúng thí cho những vong hồn vật vờ (cô hồn).

Tóm lại, lễ Vu Lan và lễ cúng Cô hồn là hai lễ cúng hoàn toàn khác nhau. Một chuyện liên quan đến ông Mục Liên, một chuyện liên quan đến ông A Nan. Một lễ là để cầu siêu cho cha mẹ ông bà bảy đời, một lễ là để bố thí cho những vong hồn không ai thờ cúng.


Theo Minh Minh (Gia đình & Xã hội)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao lễ Vu Lan bạn nên đến chùa

Bí quyết săn được chồng lý tưởng - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Bí quyết săn được chồng lý tưởng, Bói tình yêu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Bí quyết săn được chồng lý tưởng, tu vi Bí quyết săn được chồng lý tưởng, tu vi Bói tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bí quyết săn được chồng lý tưởng

Trong cuộc sống hẳn người phụ nữ nào cũng mong mình lựa chọn được người đàn ông mang lại hạnh phúc trọn vẹn. Và thực tế, có một số người đàn ông sau khi gặp gỡ, chị em không khỏi cảm giác thất vọng bởi “họ chỉ thích hợp để ngắm chứ không đủ chuẩn làm chồng!”. Cùng tử vi 2016 nếu lý do nhé.

Nếu bạn đang lựa chọn cho mình ý chung nhân. Bói bài khuyên bạn hãy cân nhắc lựa chọn mẫu đàn ông dưới đây vì ở họ tồn tại những ưu điểm lý tưởng.

1. Anh ấy luôn giữ lời hứa

Xem bói thấy chắc hẳn đã có những lúc bạn gặp phải vài đối tượng luôn thất hứa và điều đó khiến cho bạn cảm thấy thất vọng. Bởi vì việc giữ lời hứa cũng là cách mà đối phương thể hiện sự coi trọng bạn ở mức độ nào. Do đó nếu bạn gặp được một anh chàng luôn biết chịu trách nhiệm và giữ lời hứa của mình thì bạn nên giữ chặt lấy anh ấy. Hãy lấy đó làm tiêu chí “cưới gấp” anh chàng này vì rõ ràng với việc giữ đúng lời hứa của mình thì anh ấy cũng chứng tỏ không hề sợ bất cứ sự ràng buộc nào. Anh ấy cũng là người có quyết tâm, đáng tin cậy bởi tính trách nhiệm nghiêm túc của mình.

2. Anh ấy là một người lãng mạn

Bói tình yêu cho rằng, có một số người thường bỏ quên sự lãng mạn và điều đó khiến cho mối quan hệ rơi vào bế tắc. Nhiều người đàn ông nghĩ rằng sự lãng mạn mà chỉ là cần thiết để thu hút một cô gái và sau đó họ nghĩ rằng có thể dừng lại sau khi đã có được mối quan hệ. Ngược lại, một người đàn ông thực sự tử tế sẽ là người biết mang lại những cử chỉ lãng mạn đến cho cô gái mà mình thương yêu. Họ coi đó là một trong những điều cần phải làm để thể hiện sự quan tâm, chăm sóc đến bạn. Người đàn ông biết nghĩ cho bạn và vì bạn như vậy thì đừng dại mà buông tay nhé!

3. Anh ấy luôn có thời gian dành cho bạn

Anh ấy luôn có thời gian dành cho bạn

Anh ấy luôn có thời gian dành cho bạn

Một người đàn ông tuyệt vời, một người bạn trai lý tưởng là người luôn có thời gian dành cho người phụ nữ mình thương yêu. Và nếu anh chàng của bạn dù bận đến thế nào, ở xa bạn đến bao nhiên… nhưng vẫn ưu tiên dành thời gian để đến bên bạn thì hãy nhanh chóng kết hôn với anh ấy. Đừng để tuột mất hạnh phúc với anh chàng này bởi vì muốn được ở bên cạnh bạn, anh ấy có thể làm bất cứ điều gì. Và với anh ấy bạn là điều quan trọng, quý giá bất cứ gì khác.

4. Bạn có thể thoải mái cười đùa với anh ấy

Sự vui vẻ và tiếng cười trong trẻo của bạn chỉ được thể hiện một cách tự nhiên, thoải mái nhất khi bạn ở cạnh một người đàn ông tuyệt vời. Khi bạn ở cạnh một người đàn ông mà bạn có thể thoải mái thể hiện các nét tính cách thì hãy mỉm cười và kết hôn với anh ấy. Khi đang yêu, anh ấy biết cách làm thế nào để bạn cười thì sau khi kết hôn anh ấy cũng sẽ giúp bạn tận hưởng cuộc sống hôn nhân thoải mái, thú vị và hài hước như chính con người anh ấy.

5. Anh ấy yêu bạn và cho bạn biết mình là ai

Một người bạn trai tuyệt vời sẽ đánh giá cao con người bạn và cho bạn biết mình là ai. Khi ở bên cạnh anh ấy bạn không thấy bao giờ phải giả vờ làm một điều gì đó. Bởi vì bạn biết rằng anh ấy yêu tất cả mọi thứ thuộc về con người bạn, trong đó bao gồm các lỗi lầm và sai sót của bạn. Anh ấy chấp nhận bạn theo cách tự nhiên vốn có và không bao giờ muốn bạn thay đổi. Với một người đàn ông như vậy, bạn đừng dại dột mà bỏ lỡ. Cần cưới ngay và hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc bên anh ấy.

6. Gia đình và bạn bè của anh ấy tốt với bạn

Bạn mong chờ và rất hạnh phúc khi thời khắc anh ấy giới thiệu mình với gia đình và bạn bè của anh ấy?! Với nhiều cô gái khi hẹn hò với anh chàng nào đó, họ thường phải chờ sự chấp nhận của gia đình, bạn bè. Nhưng nếu cảm giác của bạn về gia đình cũng như bạn bè của anh ấy cũng thân thiện và tốt đẹp như khi bạn được ở cạnh anh ấy thì hãy nhanh chóng “gật đầu” kết hôn. Không ai dại khờ mà buông tay với một chàng trai có một gia đình quý mến bạn. Bên cạnh đó, sự thân thiết của gia đình anh ấy với bạn cũng chứng tỏ rằng anh ấy đã rất nỗ lực để những người đó thích bạn, mang lại cho bạn cảm giác thoải mái khi tiếp xúc.

7. Anh ấy luôn bên bạn khi bạn cần anh ấy

Anh ấy ghét khi nhìn thấy bạn buồn bã. Anh ấy luôn tìm cách để hỗ trợ và giúp bạn vượt qua mọi khó khăn. Anh ấy luôn ở bên bạn ngay cả khi cả thế giới này chống lại bạn… Điều đó cho thấy tình yêu và ý nghĩa quan trọng của bạn trong cuộc sống của anh ấy. Anh ấy sẽ buồn khi bạn buồn, khóc khi bạn khóc và reo mừng khi bạn cười. Một người bạn trai tuyệt vời, không bao giờ phán xét bạn, và chỉ muốn giúp đỡ để bạn trở thành người phụ nữ hạnh phúc nhất. Vậy thì còn chờ gì mà không cưới ngay anh ấy!

8. Bạn tin tưởng anh ấy tuyệt đối

Với tính cách và con người anh ấy, bạn biết rằng mình hoàn toàn có thể tin tưởng; bạn cũng chưa bao giờ để tâm trí mình bị bất cứ điều gì tác động tới niềm tin đó. Bạn biết khi anh nói yêu bạn, có nghĩa là anh ấy muốn bạn đừng bao giờ lo lắng về bất cứ điều gì khi hai người không đi cùng nhau. Bản năng của bạn quả quyết rằng mình hoàn toàn có cơ sở để tin anh ấy tuyệt đối. Và bằng niềm tin đó của bạn, hãy nhanh chóng kết hôn với người đàn ông tuyệt vời của bạn.

9. Anh ấy khuyến khích bạn nỗ lực hơn

 

Cũng giống như khi bạn làm việc, có một người luôn khuyến khích, động viên mọi nỗ lực của bạn thì kết quả công việc của bạn sẽ tốt hơn. Rõ ràng, ở bất kì mối quan hệ nào thì việc có được một người đồng hành với mình luôn là điều tuyệt vời. Bởi khi bạn gặp khó khăn, bạn cần ai đó có thể thúc đẩy mình bằng những lời động viên, khen ngợi hoặc đưa ra những gợi ý để bạn hoàn thành công việc, hoàn thiện bản thân. Nếu anh chàng của bạn cũng mang lại cho bạn cảm giác thoải mái, tự tin vào bất cứ việc gì mà bạn làm; Anh ấy khiến cho bạn cảm thấy bản thân mình tích cực… thì bạn nên lấy ngay anh ấy. Bởi vì chỉ có người đàn ông tuyệt vời và yêu bạn hết lòng mới khiến bạn tin vào bản thân mình.

10. Anh ấy có ước mơ và hoài bão

Bạn nhận thấy người bạn trai của mình chưa bao giờ ngồi ở nhà than thở về việc anh ấy có gặp may mắn hay không. Anh ấy luôn có những đột biến trong công việc và luôn có những ước mơ phát triển trong sự nghiệp. Thực tế, anh ấy cũng luôn tìm cách để hiện thực hóa những ước mơ và khát vọng đó của mình. Một người đàn ông có tham vọng trong công việc, chắc chắn sẽ biết mình muốn gì trong mối quan hệ với bạn. Anh ấy cũng biết mình muốn gì trong cuộc sống, và một trong những điều đó là mang lại hạnh phúc cho bạn. Vậy thì bạn còn chần chừ gì mà không cưới ngay anh ấy!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết săn được chồng lý tưởng - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Dơi đỏ phong thủy biểu tượng của sự thịnh vượng, hạnh phúc và trường thọ –

Từ lâu dơi đỏ đã trở thành biểu tượng của sự thịnh vượng, hạnh phúc và trường thọ. Củ thể như thế nào chúng ta đọc bài viết sau để có thêm kiến thức phong thủy về dơi đỏ phong thủy nhé! Ý nghĩa của dơi đỏ phong thủy Nguồn gốc của dơi đỏ phong thủy Ý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ lâu dơi đỏ đã trở thành biểu tượng của sự thịnh vượng, hạnh phúc và trường thọ. Củ thể như thế nào chúng ta đọc bài viết sau để có thêm kiến thức phong thủy về dơi đỏ phong thủy nhé!

tien-phuc-tinh-cc2003-01

Nội dung

  • 1 Ý nghĩa của dơi đỏ phong thủy
    • 1.1 Nguồn gốc của dơi đỏ phong thủy
    • 1.2 Dơi đỏ mang lại sự may mắn và sự bảo vệ
    • 1.3 Năm con dơi đỏ mang lại 5 điều phước lành

Ý nghĩa của dơi đỏ phong thủy

Nguồn gốc của dơi đỏ phong thủy

Ý nghĩa tích cực của loài dơi này xuất phát từ cách phát âm của chúng. Dơi tiếng Hán đọc là “pian fu”, và “fu” có âm giống chữ “phúc”.

Vì thế dơi là biểu tượng thường được sử dụng trong trang trí. Khi sử dụng trong phong thủy, dơi thường được sơn màu đỏ son – bởi màu đỏ là màu của niềm vui.

Người phương Đông cho rằng bất cứ điều gì đi kèm với hình ảnh con dơi đỏ cũng cực kì may mắn vì từ con dơi đỏ phát âm giống từ “đại tài lộc”.

Dơi đỏ mang lại sự may mắn và sự bảo vệ

Người ta cũng cho rằng khi dơi bay vào nhà làm tổ, chúng sẽ mang đến may mắn và sự bảo vệ.

Năm con dơi đỏ mang lại 5 điều phước lành

Thường thì dơi màu đỏ được vẽ thành một chùm năm con với ý nghĩa chỉ năm điều phước lành: trường thọ, tài lộc, sức khỏe, hạnh phúc và một cái chết bình an.

Năm con dơi đỏ cũng là biểu tượng của sự thịnh vượng, thường được vẽ trên tranh và đồ gốm sứ.

Một thể hiện may mắn hơn là năm con dơi nổi lên từ một chiếc bình, tượng trưng cho cuộc sống sung túc, may mắn, bình an và ít rủi ro.

Người ta tin rằng một họ nhà dơi an trú trong nhà bạn là một điềm rất tốt. Nó tượng trưng cho một thời gian trường thịnh và thành công đang đến cho cả nhà. Vì vậy không nên xua đuổi.

Dơi đặc biệt may mắn khi trưng bày cùng những biểu tượng khác

Dưới triều các hoàng đế Mãn Châu, dơi chỉ đứng hàng thứ hai sau rồng. Trong số những biểu tượng may mắn thêu trên long bào, dơi đỏ được thêu nhiều nhất, nó thường xuất hiện cùng với hình ảnh mây và nước trên long bào.

Biểu tượng 5 con dơi với chữ Vạn và chữ Thọ là sự kết hợp của ba biểu tượng tượng trưng cho cuộc sống trường thọ, tràn đầy tài lộc và niềm vui lớn. Dơi được sơn bằng màu đỏ là tốt nhất.

Biểu tượng này có thể thêu trên quần áo, vẽ trên bình gốm sứ hoặc phối hợp trong thiết kế logo và tranh. Đặt chúng trong phòng khách hoặc phòng ăn để tận hưởng may mắn liên tục.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dơi đỏ phong thủy biểu tượng của sự thịnh vượng, hạnh phúc và trường thọ –

HOÀNG CỰC KINH THẾ TỰ NGÔN

Một cuốn sách sách hay được cụ Hà Uyên chia sẻ. Mời các bạn cùng đọc.
HOÀNG CỰC KINH THẾ TỰ NGÔN

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

QUYỂN 1

12 HỘI CHIA HỢP TỔNG SỐ

Đây nói, đồ vẽ 4 quẻ Ly Càn Khảm Khôn, ngôi ở 4 chính, cõi tóm trong 4 duy, là Tý Ngọ Mão Dậu, 4 quẻ này gồm 24 hào tương đương với 24 tiết khí chia ra để chựu cho đều mỗi hào 1 khí vậy. Mỗi 1 quẻ này chủ 3 Hội, Quẻ Phục quẻ Cấu khởi ở Đông chí - Hạ chí, đến quẻ Đồng nhân quẻ Sư mà tiết Kinh trập - Bạch lộ, thời Ly Khảm chia ra mà trị vậy. Quẻ Lâm quẻ Độn khởi ở Xuân phân - Thu phân đến quẻ Quải quẻ Bác, mà tiết Mang chủng - Đại tuyết, thời Càn Khôn chia ra mà trị vậy. Số chọn chia trị 3 Hội đều 90 ngày, quẻ thẳng chủ biến từng hào 1, từ hào Sơ đến hào Trên, cùng với 15 quẻ, mà giữ về tiết tự, gồm 24 quẻ, làm 4 quẻ biến hóa, noi theo hào, rồi vòng khắp 60 quẻ mỗi hào, 5 quẻ chủ 2 Khí, mỗi Khí biến tương đương 2 quẻ rưỡi, thực 1 hào tương đương với 15 hào, 1 Hội 5 quẻ 30 hào, thời hào biến dùng 2 quẻ đối ứng, 3 Hội 15 quẻ 90 hào, khởi hào biến chưng dụng 6 phân vậy. Nhật trực, mỗi 90 ngày làm 1 mùa, dùng 4 mùa mà 4 quẻ chia thẳng đấy, hào biến có thể 1, 1 này rõ ràng tường tận vậy.

Đây nói, trên bầy 4 quẻ, dưới bầy 4 quẻ hào biến đến thẳng 24 quẻ, lại thứ nữa, bầy 4 quẻ chia chủ 3 Hội, mỗi Hội có 5 quẻ, đều thẳng 15 quẻ cùng 60 quẻ. Dưới thời tường tả hữu đều 4 quẻ, cùng giao lẫn nhau, mà thành quẻ biến 12 cùng 30 nhân mà thành quái số. Khoảng giữa 1 đồ, dường mối sáng như bầy lông mày, kẻ đọc nên lưu tâm vậy. Có kẻ hỏi 4 quẻ chủ rường cột vậy, sao bảo là nhuận? Suốt một năm, ba trăm lẻ sáu tuần 60 quẻ hào đương đấy, còn 4 quẻ 24 hào chia ra cùng chựu, thừa 6 ngày mà để nhuận vậy, thời lấy chủ rường cột vén tan mối, mà đều dùng rất đều vậy, 4 mùa định năm bén thành vậy.

Đây nói: Nguyên kinh Hội, Hội kinh Vận, Vận kinh Thế, gồm Thế hào chia thẳng cho niên quái đồ thâu tóm mà lại (tri lai), đi (vãng) theo đồ, trước 4 quẻ, chia 24 khí chủ 60 quẻ chia từ Tý đến Hợi, tương đương với kinh quái của 12 Hội, mỗi Hội đều 5 quẻ nên bầy ở đồ tầng 1. Ở đồ tầng thứ 2, vì lấy ngay mục quái của Nguyên kinh Hội, đều tới mỗi 1 quẻ từng hào biến từ Sơ đến Thượng, noi theo thứ tự bằng bầy đầu đuôi, được 360 quẻ. Ở đồ tầng thứ 3, vì lấy ngay mục quái của Hội kinh Vận, lại tới 360 quẻ, lại mỗi quẻ biến từng hào một, 6 hào sinh 6 quẻ như trước theo thứ tự, bằng bầy đầu đuôi được 2160 quẻ. Ở tầng thứ 4 của đồ, vì lấy ngay mục quái của Vận kinh Thế, đều trải ngang dưới, thời 1 quẻ đều 6 biến được 6 quẻ, như mẫu thức vạch quẻ được từ dưới lên trên bầy 6 tầng, đều lấy niên quái đã được, liên hệ thẳng ở dưới Thế gồm 129600 quẻ, đương số niên quái lấy niên tóm 12 tháng, tích chứa lại thời 155520 số (129600x12), đủ trong 60 đồ, thay nhau làm đường ngang dọc, kẻ đọc khá tung hoành 1 liếc mắt mà xem. Ta làm lý lẽ manh mối này, mà chia ra đấy, cho nên rằng Tự ngôn.

Đây nói, đồ toàn số Trời Đất 4 quẻ giao ứng nhau, tả hữu bầy bằng, mà giao biến, ứng đó là lẻ chẵn đối phản, đó là ứng hợp vậy. Giao biến như Càn sơ biến Cấu, Cấu sơ biến Càn. Dưới đến Khôn sơ biến Phục, Phục sơ biến Khôn đều thế. Ứng hợp như quẻ Cấu hợp Phục, quẻ Bác hợp quẻ Quải đều thế. Toàn số là 12 cùng 60 dẫu nhân từ ít rồi nhiều, mà tích số 60 quẻ toàn vẹn, là quẻ Trời Đất vậy, 4 là Thần của Nguyên Hội Vận Thế nhân giao nhân, số ấy vốn tích chứa ở đó, lấy làm đồ vậy.

Lại nói, 1 Nguyên tóm 12 Hội, Hội đều 30, mỗi Hội gồm thẳng 5 quẻ, như Hội Tý có Địa Lôi Phục, Sơn Lôi Di, Thủy Lôi Truân, Phong Lôi ích, Thuần Chấn. Mỗi Vận tương ứng với 1 hào, như Hội Tý quẻ Phục 6 vận tương ứng với 6 hào biến được 6 quẻ: Khôn, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn. Kể 12 Hội làm 1 Nguyên gồm 129600 năm, 30 Vận làm 1 Hội gồm 10800 năm, 12 Thế làm 1 Vận gồm 360 năm, chia thẳng cho Vận cùng với quẻ hào, dùng quẻ 1 hào lại tương đương với 1 quẻ, 6 vị trí của hào tương đương với 6 quẻ, mỗi hào quản 12 năm, 6 hào sẽ quản 72 năm, như quẻ Phục có hào Sơ dương, bắt đầu thẳng Khôn, Khôn lại thẳng tới Sư có hào 2 dương, Khiêm có hào 3 dương, Dự có hào 4 dương, Tỷ có hào 5 dương, Bác có hào Thượng dương, mỗi hào đều quản 12 năm, đây là Nguyên tóm Hội, Hội tóm Vận cùng Thế, như Năm tóm Tháng, Tháng tóm Ngày cùng Giờ, cũng như Ngày tóm Giờ, Giờ tóm Phân cùng Sao. Cho nên vận số có lớn nhỏ, tóm đấy thời càng lớn, chia đấy thời càng nhỏ, nhỏ thời số nhiều, nhỏ lớn thời số xếp từng loài mà cùng về 1. Đồ ước 1 Nguyên 12 Hội, thâu tóm chia Vận mà xem, thì nhìn thấy được những cái lớn, rõ ràng, mà đầy đủ vậy.

HOÀNG CỰC KINH THẾ THƯ GIẢI

Hồng phạm Thiên thứ 5 nói: dựng dùng Hoàng cực, “hoàng” nói là lớn, “cực” nói là giữa, Hoàng cực nói là “đại trung”. Trù có 9 (trời đất có chia làm 9 loài), 50 trước, 4 sau, 4 mà dựng dùng rất cao. “Cực” cho nên gọi là khuôn phép, “Hoàng” cho nên gọi là to lớn. Thiệu ta sửa trị đời, xem vật mà làm ra Hoàng cực, tròn thời theo với phép cỏ thi, vuông thời theo với số của quái, diễn Đồ Thư, thực suy ở 9, Trù Sách vậy. Hỏi rằng “kinh thế” là sao? Trời đất mở mang dựng lên, tổ chức mây, mưa, sấm, chớp, nói chia đường ngang đường dọc quấn quýt lấy nhau là hợp vậy, vả đường Nam Bắc là dọc, đường Đông Tây là ngang, nói Kinh mà Vỹ là suốt vậy. Kinh rằng đạo thường, chủ dùng số thường, thông ở biến, biến không mất thường, Đời (Thế) cùng xưa nay, Đời (Thế) để ghi năm thì nửa ở 6 Giáp, Thế để chép Đời, thì xa mãi đến ngàn năm. Vận mà Hội, Hội mà Nguyên, đều do Thế tích chứa, mà cũng thay đổi theo thứ tự vậy.

Nói rằng “kinh thế”, mà Nguyên dùng kinh Hội, Hội dùng kinh Vận, là đều thâu tóm đấy. Nguyên là 1, số là 129600 mà thống nhất. Hội mà chia Nguyên, thì mỗi một Hội đều là 10800 (129600/12=10800) mà làm Tiểu nguyên chọn dùng 1 vậy. Vận mà chia Hội, thì mỗi Vận đều là 360 (10800/30=360) mà làm 12 Hội Tiểu nguyên chọn dùng 1 vậy. Thế mà chia Vận, thì mỗi Thế đều là 30 (360/12=30), 12 Thế dùng 30 thời làm 1 Vận, 360 số lần lượt tích chứa vậy. Làm Hội làm Nguyên không chọn dùng 1 mà đều suốt ở 1 vậy, cho nên nêu một mình “kinh thế” để thâu tóm đấy, nhỏ thâu tóm lớn, ít thâu tóm nhiều. Cái lớn cùng với nhiều dùng để thâu tóm nhỏ cùng ít, lại có thể lấy đó mà suy. Năm xem ở Nguyên, tháng xem ở Hội, ngày xem ở ở Vận, giờ xem ở Thế cùng với Phân-Sao chọn lấy tích chứa. Lại xem Năm Tháng cái gì trừ đi, Kinh chỉ định Thế thâu tóm, đoán Thế lấy giờ tích chứa, cũng lấy Vật xếp cùng loại với Vật. Số có vạn cùng Thế thừa trừ, thời 10 Thế có thể biết lấy Vật, 100 Thế khá biết, cũng biết lấy Vật, Vật được lý lẽ, noi theo Kinh mà trị, phản lại thường mà trái Kinh thì loạn, lấy gì xem chăng? Xem mọi Kinh quái hào, duy có Thời (giờ) của Vật, chẳng hoặc trái vậy. Vật lớn ấy chỉ có Trời Đất, mà vật ở Trời ấy chỉ có mặt Trời, mặt Trăng cùng các vì Sao. Vật ở Đất ấy là nước, lửa, đất, đá. Mặt trời Càn mà nước Khôn, mặt trăng Đoài mà lửa Cấn, Sao Ly mà đất Khảm, thần (các vì sao) Lôi mà đá Tốn. Trời 4 phương để ngang Trời, âm dương Thái Thiếu, dựng lên cột của trời. Đất 4 phương để ngang đất, cương, nhu, Thái, Thiếu dựng cột của đất, trời đất giao ngang, Thế (đời) không đổi vật, rời đi là số, lâu dài thường hằng là Đạo, số theo cùng tượng, đều lấy 4 lập (dựng), Đạo lấy Thế dùng làm Thần, chỉ lấy 1 vậy. Hoàng lấy Đạo để rộng khắp, Cực lấy Đạo để dựng, Kinh lấy Đạo để giữ, Thế (đời) lấy Đạo để trị, Vật lấy Đạo để cung cấp cho xem mà tìm Đạo thông. Vì số biến mà Đạo không biến, Đạo làm ngang, Đạo dựng mà trời đất đều dựng. Người làm cùng cực Đạo ở đâu? Trong khoảng 1 động 1 tĩnh, thời “đại trung” cùng với tâm du! Đại trung thế du! Hoàng cực ngang chọn dùng ở Thế (đời), Vật xem chọn dùng ở vật biến. Sở học của Thiệu ta hầu như biết sự hóa dục hóa nuôi của Vật, mà trời lồng lộng to lớn vậy!

Đồ Kinh Thế của Thiệu ta lấy Nguyên thâu tóm Hội, Hội thâu tóm Vận, Vận thâu tóm Thế; cũng như lấy Niên tóm Nguyệt, Nguyệt tóm Nhật, Nhật tóm Thời. 12 giờ làm 1 ngày, 30 ngày làm 1 tháng, 12 tháng làm 1 năm, 30 năm làm 1 Thế, 12 Thế kể là 360 năm làm 1 Vận, 30 Vận kể là 10800 năm làm 1 Hội, 12 Hội tích chứa 129600 năm làm 1 Nguyên, quẻ ấy lấy đồ tròn của Phục hy 64 quẻ, trừ 4 quẻ chính Ly Càn Khảm Khôn, mỗi quẻ 6 hào, cộng là 24 hào làm Nhuận quái, mỗi 2 hào biến làm 2 quẻ chia chủ 1 Hội, 24 hào chia chủ 12 Hội, thừa trừ ngoài ra.

Từ quẻ Phục khởi quanh bên tả, trải qua những quẻ: Địa Lôi, Sơn Lôi, Thủy Lôi, Phong Lôi, Thuần Lôi, Hỏa Lôi, Trạch Lôi, Thiên Lôi - Địa Hỏa, Sơn Hỏa, Thủy Hỏa, Phong Hỏa, Lôi Hỏa, Trạch Hỏa, Thiên Hỏa - Địa Trạch, Sơn Trạch, Thủy Trạch, Phong Trạch, Lôi Trạch, Hỏa Trạch, Thuần Đoài, Thiên Trạch - Địa Thiên, Sơn Thiên, Thủy Thiên, Phong Thiên, Lôi Thiên, Hỏa Thiên, Trạch Thiên.

Từ quẻ Cấu khởi quanh bên hữu trải qua những quẻ: Thiên Phong, Trạch Phong, Hỏa Phong, Lôi Phong, Thuần Tốn, Thủy Phong, Sơn Phong, Địa Phong – Thiên Thủy, Trạch Thủy, Hỏa Thủy, Lôi Thủy, Phong Thủy, Sơn Thủy, Địa Thủy – Thiên Sơn, Trạch Sơn, Hỏa Sơn, Lôi Sơn, Phong Sơn, Thủy Sơn, Thuần Cấn, Địa Sơn – Thiên Địa, Trạch Địa, Hỏa Địa, Lôi Địa, Phong Địa, Thủy Địa, Sơn Địa, cộng lại được 60 quẻ.

Lấy quẻ Địa Lôi Phục khởi ở Đông chí nửa giờ Tý, gồm 5 quẻ phối 2 khí:

- Quẻ Địa Lôi Phục, Sơn Lôi Di, Thủy Lôi Truân, Phong Lôi Ích, Thuần Chấn phối với khí Đông chí - Tiểu hàn ;

- Quẻ Hỏa Lôi Phệ hạp, Trạch Lôi Tùy, Thiên Lôi Vô vọng, Địa Hỏa Minh di, Sơn Hỏa Bí phối với khí Đại hàn - Lập xuân ;

- Quẻ Thủy Hỏa Ký tế, Phong Hỏa Gia nhân, Lôi Hỏa Phong, Trạch Hỏa Cách, Thiên Hỏa Đồng nhân phối với khí Vũ thủy – Kinh trập ;

- Quẻ Địa Trạch Lâm, Sơn Trạch Tổn, Thủy Trạch Tiết, Phong Trạch Trung phu, Lôi Trạch Quy muội phối với khí Xuân phân – Thanh minh ;

- Quẻ Hỏa Trạch Khuê, Thuần Đoài, Thiên Trạch Lý, Địa Thiên Thái, Sơn Thiên Đại súc, phối với khí Cốc vũ - Lập hạ ;

- Quẻ Thủy Thiên Nhu, Phong Thiên Tiểu súc, Lôi Thiên Đại tráng, Hỏa Thiên Đại hữu, Trạch Thiên Quải phối với khí Tiểu mãn – Mang chủng

- Quẻ Thiên Phong Cấu, Trạch Phong Đại quá, Hỏa Phong Đỉnh, Lôi Phong Hằng, Thuần Tốn phối với khí Hạ chí - Tiểu thử.

- Quẻ Thủy Phong Tỉnh, Sơn Phong Cổ, Địa Phong Thăng, Thiên Thủy Tụng, Trạch Thủy Khốn phối với khí Đại thử - Lập thu.

- Quẻ Hỏa Thủy Vị tế, Lôi Thủy Giải, Phong Thủy Hoán, Sơn Thủy Mông, Địa Thủy Sư phối với khí Sử thử - Bạch lộ

- Thiên Sơn Độn, Trạch Sơn Hàm, Hỏa Sơn Lữ, Lôi Sơn Tiểu quá, Phong Sơn Tiệm phối với khí Thu phân – Hàn lộ.

- Quẻ Thủy Sơn Kiển, Thuần Cấn, Địa Sơn Khiêm, Thiên Địa Bĩ, Trạch Địa Tụy phối với khí Sương giáng - Lập đông.

- Quẻ Hỏa Địa Tấn, Lôi Địa Dự, Phong Địa Quan, Thủy Địa Tỷ, Sơn Địa Bác phối với khí Tiểu tuyết - Đại tuyết.

Lấy 1 quẻ thẳng 72 Thế, 5 quẻ thẳng 360 Thế, 60 quẻ thẳng 4320 Thế mà làm 12 Hội, tích chứa 129600 năm, ở trong đó quẻ Truân 6-4, Vô vọng 1-4, Phong 4-3, Tiết 6-2, Lý 1-2, Đại tráng 4-1, Đỉnh 3-5, Thăng 8-5, Hoán 5-6, Lữ 3-7, Khiêm 8-7, Quan 5-8 là 12 quẻ ở 2 khí giao nhau. Trước 3 hào quẻ trên 1 khí dùng 36 Thế, sau 3 hào quẻ dưới 1 khí dùng 36 Thế, 1 quẻ 6 hào biến làm 6 quẻ, 5 quẻ biến làm 30 quẻ thẳng 360 Thế, thời 1 hào dùng biến quái thẳng 12 Thế. Mở Vật trong Dần khởi từ quẻ Lôi Hỏa Phong dùng hào 9-4 mà đi lên trên. Đóng Vật trong Tuất tới quẻ Địa Sơn Khiêm dùng hào 9-3 mà đi xuống dưới, bởi trên mà suy, lớn lại càng lớn, bởi dưới mà suy, nhỏ lại càng nhỏ. Cái lý ấy thuộc về Trời Đất, chẳng gì là chẳng vậy.

NGUYÊN NGANG HỘI DÙNG MỘT

THIÊN QUAN VẬT DÙNG MỘT

Nguyên là 1, Hội là 12, lấy đồ Nguyên ngang Hội, như số Hội 12 đồ, mỗi đồ quản tích đều 360, thống kê 4320 toán, đồ đều bầy 30 làm 1 hàng, trước 1 hàng là tiêu mục, thực 30 hàng, hàng đều bầy 5 tầng, từ tầng 1, 2, 3, 4 đến tầng trên. Nhật chủ Càn làm Nguyên, Nguyệt chủ Đoài làm Hội, Tinh chủ Ly làm Vận, Thần chủ Chấn làm Thế. Càn nhật Ly sao là 12, vòng hết lại bắt đầu, gồm 2 vòng. Nửa đồ Nhật-Nguyệt-Tinh, lấy ngang Dương dùng Thái Thiếu, theo dương can Giáp 1 đến Quý 10, vòng hết lại bắt đầu, gồm 3 vòng. Đoài Nguyệt Chấn Thần là Thái Thiếu của Âm, từ chi âm Tý 1 đến Hợi bầy hai hàng trống không, một thứ là Can, số ngang dùng đến cuối 12 đồ cộng 360 mục. Đồ Thần ngang cũng như thế, mà Tý 1 làm đầu, thuận thứ tự đi thẳng đến Hợi đều 12 mục 1 đồ, 30 hàng mục, kể 360 thông 12 đồ 360 hàng, thời có 4320 mục. Đồ ở Tý 1, hàng đầu đều ở Tý, lần lượt đến Giáp Bính Mậu Canh Nhâm làm vòng trong, đến ở Hợi, 12 hàng đầu đều ở Hợi chen liền Ất Đinh Kỷ Tân Quý làm vòng kế tiếp, đều bỏ trống mục, mà trên dưới đều lần lượt thêm toán, từ 1 đến 10, 10 đến 100, nghìn, toán chọn 1, 3, 5, 7, 9 Tý lấy lẻ chựu, còn 2, 4, 6, 8, 10 Hợi lấy chẵn thêm vào. Quẻ của đồ, mỗi đồ quẻ ngang 5, quẻ dọc đều 6, cộng 30 thông 12 đồ. Quẻ ngang 60, quẻ dọc 260. Quẻ dọc của dọc 2160, quẻ dọc ấy đổi nhau làm ngang. Lại có quẻ dọc của dọc, ngậm trống không 12 đồ trong mục, vì Niên ngậm Nguyệt, Nguyệt ngậm Nhật và ngậm cả số Phân Sao của Thời. Cũng như Nguyên tóm Hội, Hội tóm Vận, đều tóm số Niên Nguyệt của Thế vậy. Vậy thì lấy Nguyên kinh Hội mà kinh Vận kinh Thế hết thẩy ngụ ở trong 12 đồ. Đến 6 đồ trước dương lớn mà lên, 6 đồ sau âm tiêu mà xuống. Quẻ Phục-Cấu chia ở Tý-Ngọ, trong ngoài suy luận sẽ rõ. Kẻ đọc tâm hội ở đồ mục, tự mình mà được vậy.

Lại nói: Đông chí ngày Giáp Tý, nửa giờ Tý khởi đầu quẻ Phục biến làm Khôn, từ nửa giờ Tý đến nửa giờ Dần, Khôn hào đầu. Nửa giờ Dần đến nửa giờ Thìn, nửa Khôn hào 2 quẻ Sư. Nửa giờ Thìn đến nửa giờ Ngọ, nửa Khôn hào 3 quẻ Khiêm. Nửa giờ Ngọ đến nửa giờ Thân, nửa Khôn hào 4 quẻ Dự. Nửa giờ Thân đến nửa giờ Tuất, nửa Khôn hào 5 quẻ Tỷ. Nửa giờ Tuất đến nửa giờ Tý, nửa Khôn hào Thượng quẻ Bác là hết. Ất Sửu thời nửa giờ Tý, quẻ Phục hào 2 biến thành quẻ Lâm, Đinh Sửu nửa giờ Tý hào 3 quẻ Phục biến thành quẻ Thái, từ hào Sơ xong đến hào Thượng, mỗi hào thứ tự lấy trước sau 2 nửa, gồm 1 hào được 2 quẻ làm nêu, nêu 2 quẻ cùng khắp 1 hào, 12 vòng khắp 1 quẻ, khởi xong xem quẻ Khôn, do đó trải Địa Hỏa Minh di, Thuần Lôi, Thủy Lôi Truân, Sơn Lôi Di biến vòng lại, tiếp tục theo tiếp mà suy, gồm 72 thần (sao). Qua 6 ngày từ Giáp đến Kỷ, quẻ thẳng Phục mà đấy du! Là quẻ Di vậy, Dự phỏng đây. Việc làm này Nhật thấy Thời, cũng tức là Thời mà phép thắt bó Năm, Tháng, Ngày vậy. Nguyên, Hội, Vận, Thế đều có thể thông xem. Thấy mỗi Nguyên làm 2 mà khen tương đương với 1, ngày đêm có khác mà cùng nhau làm 1 ngày vậy.

THÁNG TÝ: là Hội thứ Nhất, từ Hợi đến Tý là 6 âm đã cùng cực, 1 dương mới động vậy. Ở Thì trong luật lữ là Hoàng Chung, Chi kiến Tý, Nguyệt phần 11, Nhật ở Tinh chép, thì tiết lệnh Đông chí - Tiểu hàn, quẻ thẳng gồm có: Địa Lôi Phục, Sơn Lôi Di, Thủy Lôi Truân, Phong Lôi Ích, đều có tượng u ám, kíp đến Thuần Lôi, Thiên thần chia dần. Quẻ Truân đang ở giữa hội Tý, hào 6 – 3 trở về trước cùng quẻ Phục, quẻ Di chủ khí Đông chí, hào 6 – 4 trở về sau cùng quẻ Ích, quẻ Thuần Lôi chủ khí Tiếu hàn, trước sau đều 15 hào, số năm đều 5400. Chọn dùng làm Nhuận quẻ Thuần Ly, hào Sơ biến thành quẻ Lữ, hào 2 biến thành quẻ Đại hữu, cũng chia ra mà làm chủ đấy. Trước khởi vận Giáp 1 Thế Tý 1, sau khởi vận Kỷ 16 Thế Tý 181 xong Quý Hợi 360 cùng là Hội Tý vậy. Thanh trời xướng 9, âm (tiếng) đất chưng 11, xướng Thần (sao) họa Thạch (đá) báo, là Hằng Ích cảm thông khá vậy. Lấy Nguyên kinh Hội dùng 2. Thiên quan vật chọn dùng 2.

THÁNG SỬU: là Hội thứ Hai, từ Tý vào Sửu là lúc trời mở ở trên, đất đóng ở dưới, ở Thì luật lữ là Đại lữ, Chi kiến Sửu, Nguyệt phần 12, Nhật ở tiết lệnh nguyên trống rỗng, có tiết khí Đại hàn - Lập xuân. Quẻ thẳng gồm có: Hỏa Lôi Phệ hạp, Trạch Lôi Tùy, Thiên Lôi Vô vọng, Địa Hỏa Minh di, Sơn Hỏa Bí, đều có tượng ra chỗ tối hướng về chỗ sáng. Quẻ Vô vọng đang ở giữa hội Sửu, hào 6 – 3 trở về trước cùng với Phệ hạp, Tùy chủ khí Đại hàn, hào 9 – 4 trở về sau cùng với quẻ Minh di, quẻ Bí chủ khí Lập xuân, hào biến đều 15, số năm đều 5400. Nhuận quẻ Thuần Ly hào 3 biến thành quẻ Hỏa Lôi Phệ hạp, hào 4 quẻ Thuần Ly biến thành quẻ Sơn Hỏa Bí, cũng chia ra mà làm chủ đấy. Trước khởi vận Giáp 31 Thế Tý 361, sau khởi vận Kỷ 46 Thế Tý 541, song đến Quý Hợi lại 360 vòng quanh Hội Sửu vậy. Thanh trời dùng 10, âm đất dùng 12, các vì sao xướng đá đất họa, âm dương chia 2 nghi, trong khoảng giao tiếp đấy du!

THÁNG DẦN: là Hội thứ Ba, Sửu mà giao với Dần thì trời đất mở đóng, lúc nhân vật mới sinh vậy, ở Thì luật lữ là Thái Dốc, Chi kiến Dần, Nguyệt phần 1, Nhật ở xu-tí (tên chỗ sao đi đến, từ sao Quỷ 18 độ đi đến sao Chủy 4 độ), thì tiết lệnh Vũ thủy – Kinh trập. Quẻ thẳng Thủy Hỏa Ký tế, Phong Hỏa Gia nhân, Lôi Hỏa Phong, Trạch Hỏa Cách, Thiên Hỏa Đồng nhân, đều có tượng hình khí hóa sinh. Quẻ Phong đang ở giữa hội Dần. Hào 9 – 3 trở về trước cùng quẻ Ký tế, Gia nhân chủ khí Vũ thủy, hào 9 – 4 trở về sau cùng quẻ Cách, Đồng nhân chủ khí Kinh trập, hào biến đều 15, số năm đều 5400 năm, Nhuận giao quẻ Ly hào 5 biến thành quẻ Thiên Hỏa Đồng nhân, hào 6 quẻ Ly biến thành quẻ Lôi Hỏa Phong, cũng chia ra mà làm chủ đấy. Trước khởi vận Giáp 61 Thế Tý 721, sau khởi vận Kỷ 76 Thế Tý 912 xong đến Quý Hợi lại 360, hội Dần vòng quanh rồi vậy. Thanh trời dùng 1, âm đất dùng 1, Tinh xướng Thổ họa, là khoảng âm dương giao ngũ hành du!

THÁNG MÃO; là Hội thứ Tư, Dần mà vào Mão, lúc ba Tài bắt đầu gây mới, khí hải ra, thì đi vậy. Ở Thì trong luật lữ là Giáp Chung, Chi kiến Mão, Nguyệt phần 2, Nhật ở Giáng lâu, tiết lệnh là Xuân phân – Thanh minh. Quẻ thẳng gồm: Địa Trạch Lâm, Sơn Trạch Tổn, Thủy Trạch Tiết, Phong Trạch Trung phu, Lôi Trạch Quy muội, đều có tượng tìm tòi soi sáng, quẻ Tiết đang ở giữa Hội Mão. Hào 6 – 3 trở về trước cùng với quẻ Lâm, quẻ Tổn chủ khí Xuân phân, hào 6 – 4 trở về sau cùng quẻ Trung phu và quẻ Quy muội chủ khí Thanh minh. Hào biến đều 15, niên số (số năm) đều 5400 năm. Quẻ nhuận Thuần Càn mới dùng vào việc, biến hào Sơ được quẻ Thiên Phong Cấu, biến hào 2 được quẻ Thiên Hỏa Đồng nhân, cũng chia ra mà làm chủ chung. Trước khởi vận Giáp 91 Thế Tý 1261, sau khởi vận Kỷ 180 lẻ, xong rồi đến Quý Hợi, lại 360, là hội Mão vòng quanh rồi vậy. Thanh trời dùng 2, âm đất dùng 2, Nguyệt xướng Hỏa họa, bảo rằng Hàm Tổn cảm thông là được vậy.

THÁNG THÌN: là Hội thứ Năm ; từ Mão đến Thìn dương tiến ở 5 (từ Tý đến Thìn có 5 cung), đều có tượng lúc vật gặp thịnh vậy, ở Thì trong luật lữ là Cô tẩy, Chi kiến Thìn, Nguyệt phần 3, Nhật ở Đại lương, thì tiết lệnh Cốc vũ - Lập hạ. Quẻ thẳng gồm có: Hỏa Trạch Khuê, Thuần Đoài, Thiên Trạch Lý, Địa Thiên Thái, Sơn Thiên Đại súc, đều có tượng cảnh vật tốt tươi, quẻ Lý đang ở giữa hội Thìn. Hào 6 - 3 trở về trước cùng quẻ Khuê, quẻ Thuần Đoài chủ khí Cốc vũ, hào 9 – 4 trở về sau cùng quẻ Thái, quẻ Đại súc chủ khí Lập hạ. Hào biến đều 15, số năm đều 5400. Hào nhuận là quẻ Thuần Càn hào 3 biến thành quẻ Thiên Trạch Lý, hào 4 biến thành quẻ Phong Thiên Tiểu súc, cũng chia ra mà làm chủ đấy. Trước khởi vận Giáp 31 Thế Tý 7401, sau khởi vận Kỷ 136 Thế Tý 1621, rồi đến Quý Hợi 360 hội Thìn vòng quanh đủ rồi vậy. Thanh trời dùng 3 biến Bính chưng Đại vũ, đến như ở 4 là Đinh dùng thanh Giốc, âm đất dùng 3, ứng Thìn chọn dùng Giốc luật, đến 4 – 8 mà Thanh Giốc Bính Nguyệt xướng giao Nhật, Hỏa họa giao Thủy, là quẻ Sơn Hỏa Bí làm quẻ Địa Thiên Thái giao tế du!

THÁNG TỊ: là Hội thứ Sáu ; từ Thìn đến Tị, vận Thủy (nước) đã hết, lúc đức Hỏa đương vượng dậy, ở Thì trong luật lữ là Trọng lữ, Chi kiến Tị, Nguyệt phần 4, Nhật ở Thực trầm, tiết lệnh là Tiểu mãn – Mang chủng. Quẻ thẳng gồm: Thủy Thiên Nhu, Phong Thiên Tiểu súc, Lôi Thiên Đại tráng, Hỏa Thiên Đại hữu, Trạch Thiên Quải, đều có tượng vật càng nhiều thịnh. Quẻ Đại tráng đang ở giữa Hội Tị. Hào 9 – 3 trở về trước cùng quẻ Nhu, quẻ Tiểu súc chủ khí Tiểu mãn, hào 9 – 4 trở về sau cùng quẻ Đại hữu, quẻ Quải chủ khí Mang chủng, hào biến đều 15, niên số đều 5400, hào nhuận quẻ Thuần Càn hào 5 biến thành quẻ Hỏa Thiên Đại hữu, hào Trên biến thành quẻ Trạch Thiên Quải cũng chia ra mà làm chủ đấy, trước khởi vận Giáp 151 Thế Tý 1801, sau khởi vận Kỷ 166 Thế Tý 1981, xong đến Quý Hợi, lại 360 hội Tị vòng quanh đủ vậy. Thanh trời dùng 5 biến Mậu dùng Đại cung, âm đất dùng 6 ứng Kỷ dùng thanh Giốc, Nhật xướng Thủy họa, lúc rất thịnh khí nối du! Trên Tị vòng quanh trời dùng 6 dương.

THÁNG NGỌ: hội thứ Bẩy ; từ Tị đến Ngọ, dương lên đã cùng cực, là lúc âm nghĩ muốn tranh đoạt nương lên trước vậy, ở Thì trong luật lữ là Nhuy Thực, Chi kiến Ngọ, Nguyệt phần 5, Nhật ở Thuần thủ, ở thì tiết lệnh Hạ chí - Tiểu thử. Quẻ thẳng gồm: Thiên Phong Cấu, Trạch Phong Đại quá, Hỏa Phong Đỉnh, Lôi Phong Hằng, Thuần Tốn, đều có tượng vật nảy mầm mà âm loại bỏ đi. Quẻ Đỉnh đang ở giữa hội Ngọ. Hào 9 – 3 trở về trước cùng quẻ Cấu, quẻ Đại quá chủ khí Hạ chí, hào 9 – 4 trở về sau cùng quẻ Hằng, quẻ Thuần Tốn chủ khí Tiểu thử, hào biến đều 15, niên số đều 5400. Quẻ Tập Khảm làm chủ bắt đầu vào việc, hào Sơ quẻ Tập Khảm biến thành Thủy Trạch Tiết, hào 2 biến thành Thủy Địa Tỷ, cũng chia ra để cùng làm chủ. Trước khởi vận Giáp 181 Thế Tý 2341, xong rồi đến Quý Hợi, lại 360 hội Ngọ là vòng quanh đủ vậy. Thanh trời dùng 6, âm đất dùng 7, xướng họa như Thần là Nam Bắc nóng rét đến cực.

Xét Bính Mậu cùng ở Tị (ngôi Lộc), Thanh trời chưng 3 – 5 gồm cả Đinh Tị giao Ngọ thời 4 với 6 là Thanh vậy. Xướng họa là cơ Nam không sinh vật. Lại xét trong hội Tị, bậc Hoàng xuống bậc Đế, vua Hoàng đế Nghiêu Thuấn làm Vua, thông biến trị dân tốt, ứng vào Càn nguyên tóm ở Trời. Bậc Thánh làm loài vật thấy, Đại hữu là phúc trời, quẻ Quải là tượng văn chương rực rỡ, cho nên đức Trọng ny xem trời, suy lịch mà đoán từ đời Đường Ngu là hội Ngọ giao, nhà Hạ chựu nhà Ngu truyền ngôi gồm 8 năm, Cấu biến Càn, vua Trọng Khang dựng ngôi. Biến quẻ Độn mà nhà Hạ mất ngôi, nhà Thương dấy lên. Biến quẻ Tụng, vua Tổ Đinh nhà Thương làm vua được 19 năm. Biến quẻ Thuần Tốn, nhà Chu Đế đánh nhà Thương, đến năm thứ 2 vua Khang Vương. Biến quẻ Đỉnh, vua Hoàn nhà Chu, quẻ Đại quá vua Hiển vua Noãn nhà Chu, nhà Tần truyền 2 đời vua, nhà Hán dấy lên, bèn thẳng Đại quá, hào Sơ biến quẻ Quải là năm thứ 4 vua Bình vương nhà Hán. Sau đến đời Tam quốc gồm nhà Tấn, biến quẻ Hàm thời nhà Tấn suy, hai năm rưỡi trải đời Ngũ đại, mà nhà Đường dấy lên. Biến quẻ Khốn là năm thứ 13 vua Đường Nguyên Tông, thì lấy thẳng quẻ Trạch Địa Tụy hào 3 biến quẻ Hàm. Biến quẻ Hàm, vua Thái tổ nhà Tống chựu mệnh trời làm Vua, thực ở Hội này vậy. Từ đó mà lần lượt suy làm Thủy Sơn Kiển, Lôi Sơn Tiểu quá, Thiên Sơn Độn mà là Đỉnh vậy.

THÁNG MÙI: hội thứ Tám ; là lúc âm nhu lớn dần, dương cương tiêu dần, ở Thì trong luật lữ là Lâm Chung, Chi kiến Mùi, Nguyệt phần 6, Nhật ở thuần Hỏa, thì ở tiết Đại thử - Lập thu. Quẻ thẳng gồm: Thủy Phong Tỉnh, Sơn Phong Cổ, Địa Phong Thăng, Thiên Thủy Tụng, Trạch Thủy Khốn, đều có tượng vật sợ thịnh quá, quẻ Thăng đang ở giữa hội Mùi. Hào 9 – 3 trở về trước cùng với quẻ Tỉnh, quẻ Cổ là chủ khí Đại thử, hào 6 -4 trở về sau cùng với quẻ Tụng quẻ Khốn làm chủ khí Lập thu, hào biến đều 15, niên số đều 5400. Hào quẻ Nhuận là quẻ Tập Khảm, hào 3 biến thành quẻ Tỉnh, hào 4 biến thành quẻ Khốn cũng chia ra mà làm chủ đấy. Trước khởi vận Giáp 211 Thế Tý 2321, sau khởi vận Kỷ 526 Thế Tý 2701, xong rồi quay sang Quý Hợi lại 360 hội Mùi là đủ vòng vậy. Thanh trời dùng 6 đã nửa Chủy biến Cung, âm địa dùng 12, đá họa tiếng tinh (sao), cho tới vận đi sinh vật mà làm nói vậy du!

THÁNG THÂN: hội thứ Chín ; từ Mùi đến Thân là lúc âm nhu bên trong che đậy, dương cương bên ngoài tiêu vậy, ở Thì trong luật lữ là Di Tắc, Chi kiến Thân, Nguyệt phần 7, Nhật ở Thuần vỹ, ở thì tiết Sử thử - Bạch lộ. Quẻ thẳng gồm: Hỏa Thủy Vị tế, Lôi Thủy Giải, Phong Thủy Hoán, Sơn Thủy Mông, Địa Thủy Sư đều có tượng vật khí thu góp lại. Quẻ Hoán đang ở giữa hội Thân. Hào 6 – 3 trở về trước cùng quẻ Vị tế và quẻ Giải làm chủ khí Xử thử, hào 6- 4 trở về sau cùng với quẻ Mông, quẻ Sư làm chủ khí Bạch lộ, hào biến đều 15, số năm đều 5400, quẻ nhuận Thuần Khảm hào 5 biến thành quẻ Sư, hào 6 biến thành quẻ Hoán, cũng chia ra mà làm chủ đấy. Trước khởi vận Giáp 241 Thế Tý 2881, sau khởi vận Kỷ 256 Thế Tý 3061 cuối đến Quý Hợi lại 360 hội Thân vòng đủ vậy. Thanh chỉ 7 Canh làm Thiếu thương, âm đất ứng Nhật, chỉ 9 ứng nhật nguyệt đến 12, Nhật vào Nguyệt ra ở phương Canh vậy.

THÁNG DẬU: hội thứ Mười ; từ Thân đến Dậu là lúc Âm nhu đạp lên trên, dương cương chựu thời xuống vậy, ở Thì trong luật lữ là Nam lữ, Chi kiến Dậu, Nguyệt phần 8, Nhật ở Thọ tinh, thì ở tiết Thu phân – Hàn lộ. Quẻ thẳng gồm: Thiên Sơn Độn, Trạch Sơn Hàm, Hỏa Sơn Lữ, Lôi Sơn Tiểu quá, Phong Sơn Tiệm, đều có tượng vật hậu mát trong, quẻ Lữ đang ở giữa hội Dậu. Hào 9 – 3 trở về trước cùng quẻ Độn quẻ Hàm làm chủ khí Thu phân, hào 9 – 4 trở về sau cùng quẻ Tiểu quá và quẻ Tiệm làm chủ khí Hàn lộ, hào biến đều 15, số năm đều 5400, quẻ nhuận Thuần Khôn dùng việc, hào Sơ biến thành quẻ Phục, hào 2 biến thành quẻ Sư, cũng đều chia ra mà làm chủ đấy. Trước khởi vận Giáp 271 Thế Tý 3241, sau khởi vận Kỷ 286 Thế Tý 3421, cuối đến Quý Hợi lại 360 hội Dậu đủ vòng vậy. Thanh trời dùng hết làm Thiếu vũ, Nhật 8 số không đi, âm đất dùng 10 hóa Thổ hòa với Nguyệt tinh, âm còn có chữ, đến đêm lửa sáng, không cách ban ngày, đất về mùa Đông sinh sôi, không khác gì 3 mùa trước vậy.

THÁNG TUẤT: hội thứ Mười Một ; từ Dậu đến Tuất là lúc âm nhu lớn đi, dương cương thời hết vậy, ở Thì trong luật lữ là Vô Xạ, Chi kiến Tuất, Nguyệt phần 9, Nhật ở Đại hỏa, ở thì tiết Sương giáng - Lập đông. Quẻ thẳng gồm: Thủy Sơn Kiển, Thuần Cấn, Địa Sơn Khiêm, Thiên Địa Bĩ, Trạch Địa Tụy, đều có cảnh tượng vật vã điêu lạc, quẻ Khiêm là quẻ ở giữa hội Tuất. Hào 9 – 3 trở về trước cùng với quẻ Kiển và quẻ Thuần Cấn làm chủ khí Sương giáng, Hào 6 – 4 trở về sau cùng với quẻ Bĩ và quẻ Tụy làm chủ khí Lập đông, hào biến đều 15, số năm đều 5400, quẻ nhuận Thuần Khôn dùng vào việc, hào 3 biến thành quẻ Khiêm, hào 4 biến thành quẻ Dự, cũng chia ra mà làm chủ. Trước khởi vận Giáp 301 Thế Tý 3601, sau khởi vận Kỷ 316 Thế Tý 3781, cuối đến Quý Hợi, lại 360 hội Tuất vòng hết vậy. Thanh rỗng không âm hòa có chữ, hành Thủy chỉ 9, chỉ 12 biến, dùng Dậu Tuất ứng Nhật, thửa số quẻ Bĩ, Thuần Cấn trở lên vậy.

THÁNG HỢI: hội thứ Mười Hai ; từ Tuất đến Hợi là lúc thuần âm tích chứa ở trong, chỉ còn dương nhỏ tiêu hao ở ngoài, ở Thì trong luật lữ là Ứng Chung, Chi kiến Hợi, Nguyệt phần 10, Nhật ở Tích Mộc, ở thì tiết Tiểu tuyết - Đại tuyết. Quẻ thẳng gồm có: Hỏa Địa Tấn, Lôi Địa Dự, Phong Địa Quan, Thủy Địa Tỷ, Sơn Địa Bác, đều có cảnh tượng vật đang cất dấu. Quẻ Quan đang ở giữa hội Hợi. Hào 6 – 3 trở về trước cùng với các quẻ Tấn Dự làm chủ khí Tiểu Tuyết, hào 6 – 4 trở về sau cùng với quẻ Tỷ quẻ Bác làm chủ khí Đại tuyết, hào biến đều 15, số năm đều 5400, dẫu đi đất chẳng thấy, có thể lấy lệ mà nghĩ, đó là Quan Ích trở xuống làm không số nhuận hào 5 quẻ Khôn biến thành quẻ Tỷ, hào Thượng biến thành quẻ Bác, chia chủ cũng đồng. Trước khởi vận Giáp 331 Thế Tý 3961, sau khởi vận Kỷ 346 Thế Tý 4241, cuối đến Quý Hợi lại 360 hội Hợi vòng hết vậy. Thanh trời dùng 10 Quý hợp với Thiếu Giốc, âm đất dùng 12 Hợi làm biến cung, nước để hòa Nhật, từ đó hết vòng quay lại, chỗ giao tế dưới Trinh khởi Nguyên du!

Bảo rằng, lấy 1 Nguyên làm kinh 12 Hội, như lấy Năm kinh Tháng, lấy 1 năm làm kinh 12 tháng, vì 1 năm 12 tháng thâu tóm 360 ngày, cộng 4320 giờ, chứa 129600 Phân. Một Nguyên chứa 12 Hội, thâu tóm 360 Vận, cộng 4320 Thế, chứa 129600 năm. Cho nên, Sao lấy tương đương với Phân, Thế lấy tương đương với Thời, Vận lấy tương đương với Nhật, Hội lấy tương đương với Nguyệt, Nguyên lấy tương đương với Tuế, diễn ra thời vô cùng, thắt lại thời không mấy, đều về mà dùng ở 1, 1 ấy là Nguyên vậy, Nhật Giáp 1, Nguyệt Tý 1, Sao Giáp 1, Thần Tý 1, theo lần lượt mà sinh, bèn có 12 Hội, đó bảo là lấy Nguyên kinh Hội, mà Hội Vận Thế, lần lượt thay nhau làm Kinh, hết thẩy đều gốc ở Nguyên. Duy ấy, trời đất sinh ra số muôn vật, chọn Nguyên làm Càn, Càn để chia đấy, chọn Đoài làm Hội, chọn Ly làm Vận, chọn Chấn làm Thế, càng chia thời càng nhỏ, số tích càng nhiều. Cho nên 1 phân chia 12, 12 phân chia 360, 360 phân chia 4320, lại chia mà 129600 vậy, bèn là số Thái cực sinh ra trời đất. Chọn Nguyên lại làm Chấn, Chấn lấy lớn đấy, Ly tương đương Hội, Đoài tương đương Vận, Càn tương đương làm Thế, càng lớn thời càng to, thì số dùng càng thắt buộc lại, cho nên 129600 thắt buộc lại mà làm 4320, lại thắt nữa mà làm 360, lại thắt nữa mà làm 12, rồi bao gồm về dùng 1, phàm làm cái số lớn lên mà to ra là thế. Chia thời nghịch lại, lớn thời thuận đi, đi lại thuận nghịch cũng lẫn lộn, 1 vị 8 quẻ trong đó mà thuận đi, nghịch lại ấy chỉ 4, quẻ trời giao trời, thể ở trong và thể ở ngoài, đều chẳng lìa dùng Càn Đoài Ly Chấn tự giao. Thuận đi có 4 quẻ trời giao đất, Thế ở trong dùng Chấn Ly Đoài Càn, Thế ở ngoài dùng Khôn Cấn Khảm Tốn đó vậy.

Cho nên, quẻ phương tả ấy nghịch lại 16 quẻ bao gồm: Thuần Càn, Trạch Thiên Quải, Hỏa Thiên Đại Hữu, Lôi Thiên Đại tráng, Thiên Trạch Lý, Thuần Đoài, Hỏa Trạch Khuê, Lôi Trạch Quy muội, Thiên Hỏa Đồng nhân, Trạch Hỏa Cách, Thuần Ly, Lôi Hỏa Phong, Thiên Lôi Vô vọng, Trạch Lôi Tùy, Hỏa Lôi Phệ hạp, Thuần Lôi. Trong đó, 16 quẻ này, đều lấy thứ tự để chia: Nguyên - Hội - Vận - Thế, từ trên xuống dưới, khởi từ quẻ Thuần Càn đến quẻ Thuần Lôi.

Đồng thời, quẻ phương tả thuận đến cũng 16 quẻ gồm: Địa Lôi Phục, Sơn Lôi Di, Thủy Lôi Truân, Phong Lôi Ích, Địa Hỏa Minh di, Sơn Hỏa Bí, Thủy Hỏa Ký tế, Phong Hỏa Gia nhân, Địa Trạch Lâm, Sơn Trạch Tổn, Thủy Trạch Tiết, Phong Trạch Trung phu, Địa Thiên Thái, Sơn Thiên Đại Súc, Thủy Thiên Nhu, Phong Thiên Tiểu súc, cũng đều lấy thứ tự để chia Nguyên - Hội - Vận - Thế từ dưới lên trên, bắt đầu khởi từ quẻ Phục đến quẻ Tiểu súc vậy.

Đến ở bên hữu tóm ở bên tả, là Đất theo Trời, quẻ Sơn Địa Bác theo (trông coi) quẻ Trạch Thiên Quải, quẻ Cấu theo (trông coi) quẻ Phục, mỗi một quẻ đều có quẻ làm đối vị, chia lấy đồng đều. Đồng thời quẻ chủ nhuận gồm 4 quẻ Ly Càn Khảm Khôn, tả hữu chia thẳng đều tóm 15 hào. Quẻ Ly khởi trong Tý, quẻ Phục hết trong Mão và quẻ Đồng nhân. Quẻ Thuần Càn khởi trong Mão, quẻ Lâm hết trong Ngọ và quẻ Quải. Quẻ Thuần Khảm khởi trong Ngọ, quẻ Cấu hết trong Dậu và quẻ Sư. Quẻ Thuần Khôn khởi trong Dậu, quẻ Độn hết trong Tý và trong quẻ Bác.

Quẻ Thuần Ly dùng trong chủ 3 Hội, Hội Tý khí Đông chí - Tiểu hàn, Hội Sửu khí Đại hàn - Lập xuân, Hội Dần khí Vũ thủy – Kinh trập. Quẻ Thuần Càn chủ 3 Hội, Hội Mão khí Xuân phân – Thanh minh, Hội Thìn khí Cốc vũ - Lập hạ, Hội Tị khí Tiểu mãn – Mang chủng. Ở đây, 2 quẻ Thuần Ly và Thuần Càn, Sao (Tinh) cùng Nhật dùng việc ở 6 dương mà thâu tóm dùng Thần Nguyên âm vậy.

Quẻ Tập Khảm làm chủ 3 Hội: Hội Ngọ khí Hạ chí - Tiểu thử, Hội Mùi khí Đại thử - Lập thu, Hội Thân khí Bạch lộ - Sử thử. Quẻ Thuần Khôn làm chủ 3 Hội: Hội Dậu khí Thu phân – Hàn lộ, Hội Tuất khí Sương giáng - Lập đông, Hội Hợi khí Tiểu tuyết - Đại tuyết. Hai quẻ Tập Khảm và Thuần Khôn, Thủy cùng Thổ thu khí ở 6 âm, dùng nhu mà thâu tóm Thạch Hỏa dùng dương cương vậy.

Cho nên, từ Hội Tý mà nói, trước làm Hợi Tuất 2 Hội, trời đất hỗn độn, rối beng chưa mở mang, là số không đến Hội Tý, như một ngày nửa đêm giờ Tý, âm cùng cực sinh dương, gốc trời nảy mầm dần dần ở dưới mà biến Phục. Quẻ Khôn Phục giao nhau, chính là khoảng giữa 1 động 1 tĩnh, Thái cực sinh ra quẻ đầu tiên của trời đất, thẳng làm Phục, Di, Truân, Ích mà đi nhanh đến Chấn, nguyên khí cắt chia, trong nhẹ lên trên, bèn có Thần Sao (Tinh), Nhật Nguyệt hợp làm 4 tượng của Trời, cho nên nói “ trời mở ở Tý”, tuy chưa rõ rệt lớn, đã thành thai nghén, như mẹ Khôn có chửa sinh trai Chấn, bấy giờ nước lửa gỗ đá cũng thuận, nên mà sum họp đầy đủ, rỗng không yên lặng, không có trong điều gì sắp xẩy ra vậy.

Do đó, 1 khí chuyển vận, nhẹ trong nổi lên trên, nặng đục rơi xuống dưới, thời ngưng tụ thành đất, cho nên nói “đất mở ở Sửu”, là đang hội Sửu chứa khối mới thành đất đá, cái khí ẩm, nhuận, ráo, nóng chia làm Nước - Lửa, 4 cái thành Tượng, đất ở giữa trời tiếp trời đi có mùa, yên lặng không động. Quẻ thẳng làm Hỏa Lôi Phệ hạp, Trạch Lôi Tùy, Thiên Lôi Vô vọng, Địa Hỏa Minh di, Sơn Hỏa Bí, trong đó quẻ Minh di là số giao sau cùng, còn quẻ Bí là số dùng trước vậy.

Trời Đất đã dựng, Người Vật bèn sinh, ra Sửu vào Dần, là Hội mở Vật, từ cái không tới cái có, tối ấy hướng về sáng. Tượng còn đêm mà là sáng sớm, mùa Đông mùa Xuân vậy. Ban đầu trời đất hun đúc hóa thuần nên chạy, bay, cỏ, cây, chẳng thai, trứng, chẳng hột, mà quẻ đều lấy “Khí” mà hóa ra, sau trai gái gây nên tinh mà hóa sinh. Loài chạy, bay, cỏ, cây, chẳng loài nào là không thai trứng, hột, quả, đều hóa lấy hình, loài khí hình hóa không cùng, khí làm hình, chuyên hình lấy loại diễn khí, hóa mà ít lấy hình nhỏ, hóa mà nhiều lấy hình lớn. Người sinh ở Dần, quý mà thâu tóm Vật, thì ra ở Chấn quay về sáng, chủ đồ dùng ngự trị, ba tài gây dựng, mà muôn vật sinh sôi ở Hội này du!

Đó là buổi ban sơ của Ngày, buổi đầu của Thời, bắt đầu đời Hoàng vậy. Vậy thì Trời, Người ở đời Tam Hoàng, tức là Tý-Sửu-Dần, là thời 8 dương vậy, là thời Mộc đức đương vượng, lửa cháy dùng võ, quẻ Ly thâu tóm Hội Người, trị mở sáng, xem ở lưới đánh cá bắt chim, cầy bừa, thức ăn, tiền của giao dịch, 8 quẻ làm chữ văn khế, cùng lịch luật, đều khởi tự Giáp Dần, Đạo ấy là rực rỡ. Đạo Hoàng dạy dỗ dân, Hàm Lâm ung dung gìn giữ, thắt lại quẻ Tổn chế, quẻ Tiết quẻ Trung phu dụng về điều nhân, quẻ thuần Ly hết mà quẻ thuần Càn khởi lên, Hội giao tế giữa Mão, cho nên quẻ thẳng là Lâm, Tổn, Tiết, Trung phu, Quy muội, cùng với Thời hiệp ứng.

Đó từ thời vua Hy Hoàng trở về sau, bản chép Tuần không (bản chép của đời Thượng cổ?) chuyện mà nhân đề ra việc giá thú, hợp mà làm đôi lứa vợ chồng, lấy da thú làm nghi lễ, nhạc điển, lấy giây tơ làm đàn sắt. Ôi! há không có nguyên nhân ư? Kịp đến hội Thìn, quẻ Khuê khác, mà đồng quẻ thuần Đoài, lấy quẻ Lý mà biện rõ chia định, quẻ Thái giao mà chí thông, Đại súc giầu có mà ngày mới, đạo hóa càng thịnh, đức giáo phổ biến. Đã lên tới quẻ Ích ở Tị, vận Đế cả sáng, nhân nâng đỡ sự biến, mà truyền ngôi Vua, quẻ thẳng trong chủ thuần Càn cương, thẳng ngoài quẻ Khảm mây, Tốn gió, Chấn sấm, Ly lửa, giao nhau mà động, thay đổi tiến lên, mà ơn bố ra, trên trời thì từ Nhu, Tiểu súc, mà lớn ấy mạnh, có lấy đại dùng dương quyết ở cô âm, ở tượng làm quẻ Quải. Bấy giờ vua Hiên, hiệu Chuyên Húc đến Nghiêu Thuấn 1 Càn nguyên thâu tóm trời, cưỡi 6 rồng, đều là mọi vật, tượng yên muôn nước vậy. Đó là thời trời không có tên, cao cao lồng lộng, đưa ông Vua rất mực vậy, vận đời Đế thịnh tốt du! Đức Trọng Ny suy lịch số, đoán từ đời Nghiêu Thuấn, sợ như mặt trời đương giữa trời, Tị rồi đến Ngọ, giao nhau đến rất thịnh, không gì hơn được nữa. Từ Phục đến Càn, do Tý mà Ngọ, 6 hội trước làm kẻ trưởng giả, đến đó là thôi, vận bậc Hoàng Đế, ngày mở ngày đóng, mà cùng cực đến nay vậy. Từ đây, Âm sinh giữa Ngọ, bậc Đế xuống bậc Vương, nhà Hạ gặp Cấu Sơ, nhà Ân Chu gặp Cách, mệnh gồm trải 6 vận, trải Cấu 6 hào, 72 Thế, 2160 năm. Trong khoảng ấy, Vương xuống Bá, Bá xuống Dịch (giống Rợ ở phương Bắc). Khổng Tử sinh cuối đời Chu, chép Thiên Tần thể Đế nối bậc Vương, ở thì quẻ Cấu dụng hào 9 – 5. Đến vua Chính nhà Tần thôn tính 6 nước và 2 nhà Cưu, mà bắt đầu xưng là bậc Hoàng, thời vận Cấu Giốc, Chu bị Tần làm mất, Tần bị Sở diệt, Sở bị Hán bắt, còn dư bậc Bá, Rợ Dịch thì lại gần việc Vương. Thế Vận từ Cấu mà biến, giao Càn ứng Phục, có như thế đó, Cấu về sau là Đại quá, là Đỉnh, là Hằng, lấy đến dụng Tốn, Hội Ngọ là Chu Hán đến nay. Còn ở hội Ngọ 12 vận, đương đây chựu mệnh Thánh nhân, vốn có Đại quá, tài đức hơn người ta, Đỉnh dựng Hằng lâu, mà Tốn ở đạo trời, không thể thôi vậy, từ đó mà Cổ, mà Tụng, mà Khốn, thẳng đến Hội Mùi mà Vị Tế, mà Giải, mà Hoán, mà Mông cùng Sư. Thẳng đến Hội Thân, bầy vị Tốn 8, bầy vị Khảm 7, mà Khảm làm nhuận quái chia chủ 3 hội như Càn Ly vậy. Như quẻ thẳng của Hội Dậu rằng Độn, Hàm, Lữ, Tiểu quá rồi Tiệm. Quẻ thẳng của Hội Tuất có Kiển, Cấn, Khiêm, Bĩ, Tụy. Quẻ thẳng của Hội Hợi có Tấn, Dự, Quan, Tỷ, Bác, lại đều dùng quẻ Thuần Khôn làm quẻ Nhuận, chia chủ 3 Hội, cùng với Ly, Càn, Khảm ứng 24 khí biến đổi, rời đổi vần chuyển cơ, trưởng đấy mà tiêu đấy. Từ Ngọ đến Hợi, Khảm Khôn 6 hội làm tiêu, chừng ấy thời thôi.

Suy vận số lớn nhỏ, trời biến 16, đến Cấu thời biến hào Sơ, để tóm hợp ở Càn thửa 7 tỷ 9 ngàn chở xuống, đến số 36 triệu, hết thẩy về Càn là thôi, tối đa không thể lại nhân nữa, cho nên bỏ đi. Cấu giao thì Càn ứng Phục, Đại quá giao thì Quải ứng Di, Đỉnh giao thì Đại hữu ứng Truân, Hằng giao thì Đại tráng ứng Ích. Tả hữu bầy bằng Nguyên ứng: Nguyên, Hội, Vận, Thế, đều đương 1 Sao, 12 đương Sao của Phân, 360 đương Sao của Thời, 4320 đương Sao của Nhật, 129600 đương Sao của Nguyệt, cho nên số Sao của Nguyệt tương đương Phân của Niên, Thời của Thế, Nhật của Vận, Nguyệt của Hội, Niên của Nguyên, số đều là 129600. Giả sử số Nguyệt mà làm Niên, làm Thế, làm Vận, làm Hội, làm Nguyên, thì số cử hết thảy vậy, Phân tách làm Sao, làm Phân, làm Thời, làm Nhật, chọn số để mà suy, khi ta cho 1 Nhật cũng như 1 Nguyên, thì suy ra: số của Thời được số của Hội, số của Phân được số của Vận, số của Sao được số của Thế. Khi coi 1 Sao cũng như 1 Nhật, thì số của Sao được số của Nhật, đồng ở Nguyên, khi chứa 12 Sao, thì được 12x129600= 1555200 làm số Sao của Phân, nếu chứa 360 Sao, thì được 360x129600=46656000 làm số Sao của Thời, nếu chứa 4320 Sao, thì được 4320x129600=559872000 làm số Sao của Nhật, khi chứa 129600 Sao, thì được 129600x129600=16796160000 làm số Sao của Nguyệt. Đó là số 1 Nguyệt tương đương 129600 số của Sao, Thế mà gặp 5 biến, thì làm 1 Vận thâu tóm ở Nguyên. Do đó, lấy Sao tương đương với Niên chẳng nhỏ làm nhóm, cũng không lý khác.

Cho nên, khi Tốn giao thì Tiểu súc ứng Chấn làm Thế của Thế, khi Tỉnh giao thì Nhu ứng Phệ hạp làm Thế của Vận, khi Cổ giao thì Đại súc ứng Tùy làm Thế của Hội, khi Thăng giao thì Thái ứng Vô vọng làm Thế của Nguyên. Nguyệt chứa 129600 Sao lớn mà làm Nguyên, chứa 1555200 Thời cũng làm Sao của Niên, lại chứa Nhật lớn làm Nguyên chứa 46656000 Thời cũng làm Sao của Thế, lại chứa Thời lớn mà làm Nguyên chứa 559872000 làm Sao của Vận. Trở lên, số của quẻ Tỉnh giao, quẻ Cổ giao, quẻ Thăng giao, sẽ lần lượt ứng tích chứa, là Sao của Thế vậy.

Lại chọn Phân lớn mà làm Nguyên, chọn 16796160000 làm số Sao của Hội, tương ứng với quẻ Tụng giao thì Lý ứng Minh di, để làm Hội của Nguyên, lại tóm Sao của Nguyên là 1679616000x12=201553920000, tương ứng với quẻ Khốn giao thì có thuần Đoài ứng Bí làm số Hội của Hội. Phàm Nguyên dùng: Nguyên, Hội, Vận, Thế, Niên, Nguyệt, Nhật, Thì, Phân, Sao đều là 129600, gặp 10 thời biến mà làm 1, gặp 5 gặp 10 biến mà làm 1 ấy, đều số vòng quanh đủ 4 quẻ, mà dùng về ở 1 Nguyên vậy.

Duy ấy, Nhật Nguyệt biến Nguyên Hội giao, từ quẻ Lý, thuần Đoài là bắt đầu Nguyên của Hội, có 12 Hội. Từ quẻ Tụng giao, số gấp 12 lần được 12 x 129600 = 1555200, hợp số quẻ Lý là 129600 x 129600 =16796160000, làm 1 Phân 12 Sao. Tiếp đến Hội của Hội là số 144. Từ quẻ Khốn giao, 144 dùng số 129600 x 144 = 18662400, số hợp của quẻ Thuần Đoài là 16796160000x12=201553920000, (2015 ức 5392 vạn) 12 Phân, 12 ấy là 1, 144 ấy là 12. 1 cùng với 12 nhân lên với nhau, mà phép Nhuận thành lập. Quẻ Quan quẻ Bĩ số giao, quẻ ứng Ký tế làm Hội của Vận, 12 thửa số thì được 201553920000x30=6046617600000 (6 vạn 466 ức 1760 vạn) làm 12 Nhật, chứa 6046617600000x30=181398528000000 (181 vạn 3985 ức 2800 vạn), thời là số 1 tháng 30 ngày. Đến quẻ Hoán giao thì quẻ Trung phu ứng với quẻ Phong. Quẻ thuần Khảm giao thì quẻ Tiết ứng với quẻ Lý. Quẻ Mông giao thì quẻ Tổn ứng với quẻ Cách. Quẻ Sư giao, thì quẻ Lâm ứng với quẻ Đồng nhân, gồm làm vận số của Thế, Vận, Hội, Nguyên.

Quẻ Hoán thời 12 tháng, là 181398528000000x12=2176782336000000 (2176 vạn 7823 ức 3600 vạn) làm 1 năm. Quẻ Khảm thời dùng 90 năm được (2 triệu 6121 vạn 3880 ức 3200 vạn) 2176782336000000 x 12= 26121388032000000 làm 1 Thế.

Tiếp đến Quẻ Mông thời 12, là 26121388032000000x30=783641640960000000 (78 triệu 3716 vạn 6409 ức 6000 vạn) làm 1 Vận. Tiếp đến quẻ Sư thời lại 12 số Vận, gồm 783641640960000000x12=9403699691520000000 (940 triệu 3699 vạn 6915 ức 2000 vạn) là nó vậy.

Bởi vì, 1 Nguyên có 12 Hội, lại lấy 1 Hội có 12 Vận, lại lấy 1 Vận có 12 Thế, thời lấy 1 Thế làm 12 năm, 1 năm làm 12 tháng, 1 tháng làm 12 ngày, 1 ngày làm 12 giờ, thời lấy 1 giờ làm 12 Phân, mặt trời chuyên sáng ở ban ngày, mỗi tháng 18 ngày có 216 giờ, ứng với số Thẻ của quẻ Càn. Mặt trăng thay sáng ban đêm, mỗi tháng 12 ngày có 144 giờ, ứng với số Thẻ của quẻ Khôn. Mà 1 Hội có 12 Vận, có 144 Thế, có 4320 năm, 5 vạn 1840 tháng (4320 x 12) đều từ 12 Phân 144 Sao chứa đấy.

Lấy 1 Hội có 30 Vận mà kể, thời có 30 x 12 = 360 thế, có số năm là: 360 x 5 quẻ = 1800 năm, có số tháng là: 1800 x (12 x 6) = 129600 tháng, có số ngày là: 129600 x 30 = 3888000 ngày, có số giờ là 3888000 x 12 = 46656000 giờ, có số Phân là 46656000 x 30 = 1399680000 Phân (13 vạn 99 ngàn 68 vạn), có số Sao là 1399680000x12=16796160000 Sao. Đến ngày tháng giao cảm thì 1 cùng với 12 cùng nhân lên.

Lấy từ quẻ Lý làm 1 Hội có 12 Vận, nghịch trải qua 4 quẻ Đoài, Khuê, Quy muội rồi đến quẻ Trung phu thì có 12 x 12 = 144 Thế, có số năm là: 144 x 5 = 720 năm, có số tháng là: 720 x 12 = 8640 tháng, có số ngày là: 8640 x 30 = 259200 x 6 hào = 1555200 ngày (12 x 129600), như vậy đến quẻ Phong Trạch Trung phu, thì số 1555200 là số làm số của Ngày. Nghịch đến quẻ Thủy Trạch Tiết, thì số: 1555200 x 12 = 18662400 là số làm số của Giờ. Nghịch đến quẻ Sơn Trạch Tổn, thì số: 18662400 x 30 = 55987200 là số làm số của Phân. Nghịch đến quẻ Địa Trạch Lâm, thì số: 55987200 x 12 = 6718464000 là số làm số của Sao.

Mỗi Thế làm 1 năm, ở quẻ Lý thời Sao hội ở quẻ Tiết, 1 tháng 12 ngày ở quẻ Lý thời Sao thôi dừng lại ở quẻ Quy muội, khí sóc do đó để giao, ngày 1 đại vận mà tiết 6 ngày, tháng 1 đại vận mà lùi 6 ngày, đó là Tuế sai (năm coi không đúng). Cho nên ở 1 lấy 12, thì Trời từ quẻ Địa Trạch Lâm (8-2) trở lên, Đất từ quẻ Địa Thủy Sư (8-7)trở lên, vận số khí đấy, sóc hư (rỗng) chừng ấy bình định. Cho nên, ngày 1 cùng 12 nhân lên, mà phép Nhuận thành lập, đó là lúc Nhật Nguyệt giao cảm, gặp hội Thân Dậu du! Vì có phương Canh, Trăng mọc mặt Trời sắp lặn vậy. Thuận đi như Độn 1-7, Hàm 2-7, Lữ 3-7, Tiểu quá 4-7 mới biến, giao với Đồng nhân 1-3, Cách 2-3, Thuần Ly 3-3, Phong 4-3 ứng nghịch lại. Trong đó Lâm 8-2, Tổn 7-2, Tiết 6-2, Trung phu 5-2, thì lấy số của quẻ Lâm làm Vận của Nguyên, 360 biến mà 129600 hợp 12 giờ, số làm 1 ngày, Đại hữu tương đương Sao số của Giờ tự cùng nhân lên, là số của Tiểu súc. Lại biến 16796160000 hợp với 30 ngày, số làm 1 tháng Tiểu súc tương đương số Sao của tháng, tự cùng nhân lên, thời làm số quẻ Lý khởi Phân của Hội vậy. Lại biến 2 vạn 8211 triệu 990 vạn 7456 ức, hợp số 12 tháng làm 1 năm. Quẻ Lý đương số Sao của Hội, tự cùng nhân lên, thời Đồng nhân hợp số năm của 1 Nguyên vậy. Quẻ Trung phu số năm, nhân lên lấy 129600 cũng đồng nhau.

Xét trước sau hợp 6 kỳ hạn, trưởng tiêu tấn thoái 360 ngày, mà số của Năm bởi đó mà thành lập. Quẻ Hàm làm Vận của Hội, chứa 33 vạn 8533 triệu 1888 vạn 9472 ức, ấy là 12 năm số 4320 ngày. Quẻ Sư làm Vận của Vận, chứa 1015 vạn 5995 triệu 6668 vạn 4160 ức, đó là số 360 và 129600 ngày. Quẻ Tiểu quá là Vận của Thế, chứa 1 kinh 2187 vạn 1987 triệu 20 vạn 9920 ức, đó là 4320 năm 155 vạn 5200 ngày. Như 129600 năm 4665 vạn 6000 ngày, chứa làm 36 kinh 5616 vạn 8440 triệu 629 vạn 7600 ức, thời quẻ Tiệm giao mà Gia nhân ứng với Quy muội làm Hội của Thế, số cùng nhân lên như thế, trừ số Đồng nhân, lấy 20 Cách được 1 làm số tháng 2350 triệu 9249 vạn 2288 ức, trừ số quẻ Cách lấy 30 số,quẻ Lý được 1 làm số ngày 78 triệu 3641 vạn 6409 ức 6000 vạn, trừ số quẻ Ly lấy 12, thì số quẻ Phong được làm số giờ 6 triệu 5303 vạn 4700 ức 80 vạn, trừ số quẻ Phong lấy 30, quẻ Gia nhân được 1 làm số Phân 2176 vạn 7823 ức 3600 vạn. Quẻ Trung phu số năm đồng như thế, tất lấy 1 năm làm 1 Phân, 1 tháng làm 1 Sao, rồi Sao Phân tiến lui, khá được mà thừa (nhân lên) trừ đi.

Hội Dậu, mặt trời lặn mặt trăng mọc, Sao theo Trăng mà hiện ra, cho nên Sao 30, số Thần 12, thay đổi nhau cùng làm nhân lên, lại theo mà trừ đi, thời số Phân tức là số Năm vậy. Xét 1 vận 12 Thế 360 năm 4320 tháng 129600 ngày 1555200 giờ 46656000 phân (1555200 x 30) 55987200 sao (4665600 x 12). Nếu lấy 1 làm Ngày, thì quẻ Độn giao với quẻ Đồng nhân làm Phân, quẻ Hàm giao với quẻ Cách làm Giờ, lấy ngày tháng kịp đến năm, đều ngược lại, khá lấy loại mà suy vậy (suy: quẻ Lý giao với quẻ Lữ làm Ngày, quẻ Tiểu quá giao với quẻ Phong làm Tháng, quẻ Gia nhân giao với quẻ Tiệm làm Năm).

Đây nói, quẻ Kiển 6-7 giao, thì quẻ Ký tế 6-3 ứng với quẻ Khuê 3-2 làm Hội của Vận. Quẻ Thuần Cấn 7-7 giao, thì quẻ Bí 7-3 ứng với quẻ thuần Đoài làm Hội của Hội. Quẻ Khiêm 8-7 giao, thì quẻ Minh di 8-3 ứng với quẻ Lý 1-2 làm Hội của Nguyên. Quẻ Kiển thời tương đương 1555200 tháng, chứa 438 kinh 7390 vạn 1280 triệu 7557 vạn 1200 ức. Tiếp đến quẻ Thuần Cấn, thì tương đương 46656000 ngày gộp chứa 1 vạn 3167 kinh 1703 vạn 8422 triệu 6713 vạn 6000 ức. Tiếp đến quẻ Khiêm, thì tương đương 559872000 giờ, gồm chứa 15 vạn 7946 kinh 446 vạn 1072 triệu 863 vạn 2000 ức. Vượt đến quẻ Bĩ 1-8 giao, thì quẻ Vô vọng 1-4 sẽ ứng với quẻ Thái 8-1 làm Thế của Nguyên, thời đương 167 ức 9616 vạn Phân, gồm chứa 473 vạn 8381 kinh 3383 vạn 3161 triệu 6818 vạn ức. Tiếp đến quẻ Tụy 2-8 giao, thì quẻ Tùy 2-4 ứng với quẻ Đại súc 7-1 làm Thế của Hội, thời đương 3015 ức 4692 vạn Sao, gồm chứa 5686 vạn 576 kinh 598 vạn 5940 triệu 2752 vạn ức, đó cũng là số cùng nhau nhân lên, thời trừ đi số của quẻ Ký tế lấy 30, Bí được 1 làm ngày của 1 năm, gồm 6 vạn 466 ức 1760 vạn số, quẻ Khuê làm số 1 ngày cùng với đấy đồng, trừ số quẻ Bí lấy 12, Minh di được 1 làm giờ của 1 năm, gồm 5038 ức 8480 vạn, kịp đến thửa Phân vậy, trừ số Minh di lấy 30, Vô vọng được 1 làm Phân của Nguyên 167 ức 9616 vạn, tức là số quẻ Lý 1 Phân trừ đi số quẻ Vô vọng lấy 12. Tiếp đến quẻ Tùy được 1 làm Phân của Hội 13 vạn 9968 vạn, đó là số Vận Thế chưng giao, Tinh Thần tiến lui tất ở Tuất, Vật đóng lại mà còn có số tượng dọc đi đêm, đất chưa từng nghỉ vậy, cho nên 2 quẻ Bí và quẻ Cấn trở lên đều dùng số vậy. (Từ Khôn: trải nghịch qua 7 quẻ tới Cấn, trải thuận qua quẻ 7 quẻ tới Bí).

Quẻ Tấn 3-8 giao, thì quẻ Phệ hạp ứng với quẻ Nhu làm Thế của Vận, tương đương với 6 vạn 466 ức 1760 vạn làm 1 ngày 4320 Sao của số quẻ Khuê, gồm chứa 17 cai 881 vạn 7281 kinh 7957 vạn 8208 triệu 860 ức. Tiếp đến quẻ Dự giao, thì quẻ Chấn ứng với quẻ Tiểu súc làm Thế của Thế, tương đương 72 vạn 8894 ức 1120 vạn, làm 12 ngày Sao của quẻ Quy Muội, gồm chứa 204 cai 6980 vạn 7381 kinh 6593 vạn 8499 triệu 720 vạn ức. Vượt đến quẻ Quan giao, thì quẻ Ích ứng với quẻ Đại tráng, quẻ Bĩ giao thì quẻ Truân ứng với quẻ Đại hữu, quẻ Bác giao thì quẻ Di ứng với quẻ Quải, quẻ Khôn giao thì quẻ Phục ứng với quẻ Càn, lấy thứ tự làm Nguyên của Thế Vận Hội Nguyên. Quẻ Quan giao, thì tương đương 2176 vạn 7823 ức 3600 vạn làm 1 năm, 1555200 Sao của quẻ Trung phu, chứa 6140 cai 9422 vạn 446 kinh 4815 vạn 4972 triệu 1600 vạn ức, đấy thì tương đương 2 triệu 6121 vạn 3880 ức 3200 vạn làm 12 năm, 18866 vạn 2400 Sao của số quẻ Tiết, chứa 7 vạn 3691 cai 365 vạn 8357 kinh 7785 vạn 9665 triệu 9200 vạn ức. Quẻ Bác thì tương đương 78 triệu 3641 vạn 6409 ức 6000 vạn làm 1 Vận, 5967 vạn 2000 là sao của số quẻ Tổn, chứa 221 vạn 739 cai 1972 vạn 733 kinh 3578 vạn 9977 triệu 6000 vạn ức. Khôn thì tương đương 940 triệu 3699 vạn 6915 ức 2000 vạn làm 12 vận, 67 vạn 1846 vạn 4000 là Sao của số quẻ Lâm, chứa 2682 vạn 8870 cai 3644 vạn 8800 kinh 3947 vạn 9731 triệu 2000 vạn ức, đấy cũng là số cùng nhau nhân lên, thời vậy trừ số quẻ Tùy lấy 30, quẻ Phệ hạp được 1 làm Phân của Vận 4665 vạn, trừ số Phệ hạp lấy 12, Chấn được 1 làm Phân của Thế 388 vạn 8000, trừ số Chấn lấy 30, Ích được 1 làm số Phân của Niên 129600, trừ số Ích lấy 12, Truân được 1 làm Phân của Nguyệt 1800, trừ số Truân lấy 30, Di được 1 làm Phân của Nhật 360, trừ số Di lấy 12, Phục được 1 làm Phân của Thời 30, từ Sao mà suy đấy 30 Phân 360 hợp Nguyên của Vận, từ dưới lên trên, hết 16 quẻ gieo rồi sau thôi, trở lại quẻ Phục nhân lên trừ đi, tự nhiên giống hệt như nhau, cái Phân ấy to mà làm nhỏ, lấy mỗi Niên Nguyệt làm Phân Sao, cho nên 12 làm Sao, hoặc lấy 129600 tương đương đấy, hoặc lấy 13 ức 9968 vạn tương đương đấy, hoặc lấy 181 vạn 3985 ức 2800 vạn tương đương đấy, thêm chu thiên (vòng trời) 365 độ 29 phân 75 sao, trừ chu tuế làm 365 ngày 24 phân 45 sao, mạnh yếu cùng giảm bớt, thừa 1 phân, 50 Sao trải 66 năm có lẻ, mà ngày lui trời 1 độ làm năm sai, ngày tháng 5 đường dọc treo rỗng không, bên hữu quanh lại, tinh thần thứ tự ở phụ trên trời, chuyển sang bên tả mở rộng ra 129600 đều có 129600 Sao, thì trời vận chuyển độ sai đi gồm 66 năm có lẻ, ngày có ngày về và đêm, tháng có Khiêu (ngày 30 có Trăng mọc ở phương Tây) Mục (cách ngày mùng 1 có Trăng mọc ở phương Đông) thì mặt Trăng đi mau mà lại ở trước mặt Trời, ngày Hối (ngày 30) thấy ở phương Tây, ngày 1 thấy ở phương Đông, thời đi chậm mà lại ở sau mặt trời, ngày Sóc (ngày 1) hiện ở phương Đông, vì Sao (Tinh) có nấp có hiện, đầy lên co lại, biến thành Mộc, 12 năm 1 vòng trời 144 năm mà vượt lên lần độ theo 11 vạn 8512 phân sao Hỏa, 2 năm 1 vòng trời, mà độ co lại theo 1 vạn 8807 phân rưỡi sao Thổ, 29 năm 1 vòng trời, mà độ thừa theo 29 vạn 4255 Phân, 3 Sao (tinh) nấp hiện, đều lấy 30 cùng 12 mà suy, Kim Thủy 2 sao đều 1 năm 1 vòng trời độ theo đều 1 vạn, nấp hiện theo Thái dương, lấy 12 cùng với 1 mà suy gồm đầy, co, nấp, hiện ấy đều có không bằng nhau, mà Nhật Nguyệt tinh ra vào đường Hoàng đạo, đều bao bọc cả ở bên trong. Cho nên, trời từ Đồng nhân trở xuống, đất từ Độn trở xuống làm số Năm, số khởi từ 1, 10, 100, 1000 đến vạn, ức, triệu, kinh, cai, tỷ về. Tự chẳng quá 1 Đời 30 năm (Đời = Thế), mỗi năm có 12 tháng, tháng có 30 ngày, ngày có 12 giờ, giờ có 30 Phân, Phân có 12 Sao mà thôi.

Xét 30 năm, tức là xét 1 Thế hay xét 1 Đời, có 360 tháng, có 10800 ngày, có 129600 giờ, có 3888000 Phân, có 46656000 Sao. Đó là 1 Thế 12 tháng 360 ngày 4320 giờ 129600 phân 155520 sao, 30 ngày 360 giờ 1800 phân 129600 sao, 12 giờ 360 phân 4320 sao, 30 phân 360 sao. Số ở trên lấy đó chứa quẻ Càn làm Nguyên, quẻ Quải làm Hội, quẻ Đại hữu làm Vận, quẻ Đại tráng làm Thế, quẻ Tiểu súc làm Niên, quẻ Nhu làm Nguyệt, quẻ Đại súc làm Nhật, quẻ Thái làm Thời, quẻ Lý làm Phân, quẻ Đoài làm Sao, 10 quẻ đi nghịch từ Càn đến Đoài, 5 lần biến làm 1, to cũng như vậy, là ứng của Hà đồ toàn số vậy.

Quẻ Đoài làm Nguyên Sao, quẻ Lý làm Hội Sao, quẻ Đại tráng làm Nhật Sao, quẻ Đại hữu thì làm Sao, quẻ Quải làm 1 Phân 12 Sao, quẻ Càn làm 1 Sao, thanh âm xướng họa đều khởi ở 1 Sao. Vì lớn thời là 1 Nguyên, nhỏ thời là 1 Sao, mà phân Hội Vận Thế, thực gốc ở Hà đồ sinh ra số, mà 1 đến 10, 100, 1000, rồi đến Thế của Hội có vạn, Thế của Vận có ức, Thế của Thế có triệu, hết thảy Vật, dần đều dư số ấy, chia lớn làm bé, dài nhỏ làm to, đều lấy Sao mà tính, rồi sau số Kinh, số Cai, kịp đến số Tỷ, hết thảy cốt yếu đều về Sao (tú), dản dị chẳng qua 1 ngày lịch. Thông khảo nói vậy. Trời từ quẻ Phục đến quẻ Càn, nhật mở mà nhật có Càn, thời là số Hữu cực vậy. Từ Cấu đến Khôn, nhật đóng mà nhật không có Khôn, thời là số Vô cực vậy. Cho nên, từ quẻ Quan, quẻ Ích trở xuống, đều là không có Số mà có Tượng, lấy đó mà suy, Thái cực vốn không cực, xét thấy vậy.

HẾT QUYỂN 1

QUYỂN 2

CHƯ NHO THUYẾT

Chúc Thị nói: quẻ Càn Khôn là Đại phụ mẫu, quẻ đều đi bên hữu theo Thái dương. Quẻ Phục Cấu là Tiểu phụ mẫu, quẻ đều đi bên tả, bắt chước 4 mùa. Quẻ đi bên hữu đều 1 sinh 2, 2 sinh 4, 4 sinh 8, 8 sinh 16, 16 sinh 32, 32 sinh 64, đến chỗ trở lại sinh 17 quẻ mà lại hội số vô cực, tức là cái lý nguyên hết mà lại có nguyên vậy. Quẻ đi bên tả, từ 1 rồi 2, thứ tự nhân nhau vòng quanh không manh mối, tức là lý hết năm đổi năm mới vậy. Hai đường nghịch thuận đi khác nhau, số sai đến vạn vạn mà cùng cực, dương duỗi âm co vậy. Lại nói: Nguyên-Hội-Vận-Thế lấy Đại vận mà suy, cùng Giáp Kỷ trong (giữa) khởi ở Tý-Ngọ-Mão-Dậu, năm tháng ngày giờ lấy Tiểu vận mà suy, dương Giáp Kỷ mạnh (đầu) khởi ở Dân-Thân-Tị-Hợi. Lấy Hội kinh Vận đấy là dùng Hội làm Niên, dùng Vận làm Nguyệt, dùng Thế làm Nhật, dùng Niên làm Thời. Vua Nghiêu lên ngôi năm Giáp Thìn, thì lấy Hội Kỷ Tị làm nguyệt, Vận Quý Hợi làm Nhật, Thế Canh Thân làm Thời. Ở quẻ Bí hào 6-5 biến làm quẻ Ký tế. Vua Tống nghệ tổ mở ngôi năm Canh Thân, thì lấy Hội Canh Ngọ làm Nguyệt, Vận Nhâm Thân làm Nhật. Thế Kỷ Dậu làm Thời, đương hào Thượng quẻ Khốn, biến làm quẻ Sư tốn 4 năm, dân bèn khởi Khốn mà may cho thiên hạ vậy.

Chúc thị lấy Năm-tháng-ngày-giờ bàn Mệnh, nguyên khí vận người lấy 120 năm làm chủ 8 chữ, khi mới sinh 15 ngày, trước Giáp-Kỷ mạnh là hào Thượng, Giáp-Kỷ quý (cuối) hào 4, Giáp-Kỷ trọng (giữa) hào 5. Khí giữa sinh 15 ngày sau Giáp-Kỷ mạnh 3 hào, Giáp-Kỷ quý 2 hào, Giáp-Kỷ trọng hào Sơ, lấy sở trị (gặp) năm-tháng-ngày-giờ làm quẻ trước (Thái quái)

Liêu Ứng Hoài nói: người, vật tiêu trưởng suy ở chỗ động mà xem, cát, hung, hối, lẫn là lời của quẻ Dịch chủ ở nguyên sơ sinh khắc cùng cơ biến quái hòa, nhân thì địa, biện âm tạnh, chia ngày đêm, hợp Can Chi để định cát hung. Nay bản số và xuất số của Dịch nhân, Dịch sinh gốc lẻ chẵn mà vạch Dịch, đó là bản số Dịch mà ra, nhân quái vị là đệ số, số ấy nhân Dịch mà sinh. Trong Dịch có số Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8, trong số Dịch 1 là 6 Khảm 2 là 7 Ly 3 là Chấn 8 Tốn 4 Đoài 9 Càn 5 Cấn 10 Khôn, số sinh ra Khí quẻ là Thời hào là biến. Khí có thịnh suy thì có Bĩ Thái, hào có hiểm dễ, đều lấy sinh khắc chế hóa mà suy, ở trong có số cát mà đổi khốn, có số hung mà đổi cát, tất lấy địa bàn âm dương hợp lại là vinh, cương nhu trái nhau là nhục, cho nên lẽ tất nhờ ở chẵn, chẵn tất hợp với lẻ, Càn hết ở trong Ngọ, Khôn hết ở trong Tý, gốc nguồn quẻ Cấu Phục, Ly hết ở trong Mão, Khảm hết ở trong Dậu, dùng về nước lửa lại dương tiến vậy. Đến như 6 dương thịnh, thời đại quân tử hành quẻ Cấu là âm tiến vậy, đến như 6 âm thịnh tường vậy.Lại nói: lấy Hội kinh trên dùng treo 1 quẻ như lấy Nguyên kinh Hội, thứ tự chia 30 Vận, tiết Tiểu hàn khởi lên ở Thái Sơ cửu, đến 6-4 là Nhuận hào, vận thứ nhất là Dần 76, Mão 160, Thìn 136, Tị 166, Ngọ 196, Mùi 226, Thân 256, Dậu 286, dùng các quẻ Thái Tổn 12 quẻ. Tiết Đông chí lấy ví làm Nhuận, đại vận thứ 30 trọn thành 315 Thế quẻ Minh Di.

Trình Trực Phương bảo gốc số không ra khỏi ở Dịch, Hệ từ trời 1 đến Đất 10, sinh ra 2 là tự sinh 8 vậy, Trực phương do chia thêm 1 cùng với phép bội mà là 2, bèn chép 256 vị đồ bốn số dọc ngang 16 đại vị, tóm làm 1 đồ số khởi ở Đông-Nam. Thế bắt đầu ở số 1, thêm 1 là 2, lại thêm 1 là 3, lại thêm 1 là 4 từ tả sang hữu là Thế đến đấy, Thế đấy cực vận, cùng với từ trên xuống dưới, vận của Thế đều lấy 2 làm 1, thêm 1 thì 2 là 4, lại thêm 1 thì 2 là 6, lại thêm 1 thì 2 là 8. Rồi thứ đến bên hữu, Hội dùng Thế, Hội của Thế, lấy 3 làm 1, thêm 1 thì 3 làm 6, lại thêm 1 thì 3 làm 9, lại thêm 1 thì 3 làm 12, lại thêm 1 thì 3 làm15, rồi dọc ngàng mà đếm thời 1 thêm gấp đôi là 2, lại thêm gấp đôi là 4, 4 thêm gấp đôi là 8, 8 thêm gấp đôi là 16, từ ngang 1 tầng đến 16 tầng, dọc 1 hàng đến 16 hàng, trọn cùng ở Tây-Bắc, nguyên đấy, nguyên 256, chẳng gì đều như vậy cả. Minh đạo nói phép thêm gấp mặc nhiên hợp với Thiệu Ung, vì Hoàng Cực nhập môn, nghĩa thứ nhất vậy, đó nên thông số trừ đi, lấy cái ấy để phân biệt động vật (trồng trọt) thanh của Ký tế cũng lấy từ đây. Lại nói, Đại Tiểu vận của Thiệu Ung thấu truyền quẻ thanh âm luật lữ đều lấy treo 1 làm tựa, 256 quẻ khởi ở Thái hết ở Minh di, mỗi quẻ 6 hào cộng 1536 hào. Hào lại 4 làm dụng, gồm 1 Vần, 1 Thế, 1 năm, 1 tháng, 1 ngày, 1 giờ, đều được 4 hào, thời 360 năm thì được 1414 hào chia làm 24 khí, mỗi khí Nhuận tàng 4 hào, mà 1536 hào 256 quẻ làm 1 dụng vậy. Khởi lệ quẻ của Vận, Thế, Năm khởi ở Thái, còn Tháng và Ngày thì khởi ở Thăng, đó là trời đất người đều nghe mệnh ở động thực vậy.

Mỗi vị 1 số khởi lên ấy là 100, 2 số khởi lên ấy là 216 vị, cộng làm 1 đồ. Chu Thị suy phép “giết 1” nói rằng: 284 là Thể số, 360 là Dụng số, Thể là Dụng của số. 270 mà Dụng của Dụng số mà chỉ đến 256 vậy.

QUYỂN 2

HỘI KINH VẬN DỤNG NHẤT

THIÊN QUAN VẬT

Lấy Hội kinh Vận (ngang), tức là lấy số Phân của Nguyên kinh trong Hội vậy. Một Nguyên tóm 12 Hội, như năm tóm tháng, 1 Hội tóm 30 vận, như tháng tóm ngày. Nguyên tóm Hội, thời Nguyên làm kinh của Hội, Hội tóm Vận, thời Hội làm kinh của Vận. Bởi vì, 1 Hội tự làm 1 Nguyên 12 Hội, gồm 12 Nguyên, mỗi số 1 Nguyên là 1800, hợp 5 quẻ có 36 hào, mỗi 1 hào thẳng vận 360 tích số vậy. Duy ấy, mở Vật trong Dần khởi từ quẻ Phong hào 9-4, đóng Vật trong Tuất đến quẻ Khiêm hào 9-3, thực có 7 Hội (từ Mão đến Dậu) mà gồm Dần Tuất đều nửa, nên cộng làm 8 Hội tóm 240 Vận, làm số mở vật ấy: 8 vạn 6400 trừ 120 vận, làm số đóng Vật ấy: 4 vạn 3200. Mở thời dùng số, đóng thời không dùng.

Thiên ngoại, số giao bảo rằng, trời từ quẻ Bí trở lên, đất từ quẻ Cấn trở lên làm số dùng. Trời từ quẻ Minh di trở xuống, Đất từ quẻ Bĩ trở xuống, làm số giao ấy vậy. Cho nên, quẻ mở vật có 40 quẻ, quẻ đóng vật có 20 quẻ, đó là 12 Hội chỉ dùng có 8 bỏ 4, số dùng 3 chưng dụng 2, số bỏ 3 chưng dụng 1 vậy. Để nói về tiêu trưởng, đều 6 Hội trải chọn dùng Vận. Trưởng từ trong Tý khởi từ quẻ Phục đến quẻ Quải. Tiêu từ trong Ngọ khởi từ quẻ Cấu đến quẻ Bác. Tính từ Đông chí Giáp 1 là hào Sơ của quẻ Phục, tuy đang lớn lên mà Hội chưa liệt số mở, đến trong Dần tiết Kinh trập, đã 72 quẻ thẳng quẻ Phong hào 9-4 thì Vật bắt đầu mở. Tính từ Hạ chí Giáp là 181. Hào Sơ Lục của quẻ Cấu, tuy đang ở Hội tiêu, mà hãy còn xa số đóng Vật. Kịp đến hội Tuất, tính từ Lập đông Mậu 315 thẳng tới quẻ Khiêm hào 9-3 thì Vật đóng hẳn lại. Do vậy Tý-Ngọ là giới hạn của Tiêu-Trưởng, còn Dần-Tuất là giới hạn của Mở-Đóng vậy.

Đến Hội ngang của Nguyên, thì Vận lấy dọc đấy, ngang Vận của Hội, Thế lấy cướp đấy. 12 Thế mà thành 1 Vận 360 đều có 24 hào Nhuận, mở Vật được 240 vận thời làm 16 hào nhuận, thông số nhuận ở số mở vật gồm 156 vận, dùng lấy 8 vận để hợp số đóng Vật, trong số 128 thời mở-đóng với cả Nhuận nữa gồm 384 hào, thẳng số của vận đủ vậy. Trừ nhuận mà làm mở làm đóng 60 quẻ hào thẳng vận thường, trời đất không trái vậy.

Trời bắt đầu từ Giáp Tý hết cùng Quý Hợi, Đất bắt đầu từ Kỷ Mão hết cùng Mậu Dần. Tới giao dựng số, bỏ số giao mà số còn lại làm số dùng, tới Thể số của Vận, thường 3 phần bỏ 1 dùng 2 phần, đó là bỏ 120 mà chỉ dùng 240. Bỏ 1 dùng 3, là bỏ 90 mà chỉ dùng 270. Bỏ 3 dùng 7 đó là bỏ 108 mà chỉ dùng 252. Những số đã bỏ đó đều là số giao, chỉ còn số được dùng vậy. Số giao không được dùng theo đóng Vật, thì số được dùng theo mở Vật, như trước đã trốn 3 dùng 1 là số đã chia 2 đấy. Mở-đóng vốn không trái, cốt yếu là dùng hay bỏ, tế nhị chia hợp, nhuận trừ nhuận, đại xuất Thể 4 dùng 3, đều theo đấy, có mà không sai lắm, cho nên bỏ 1 dùng 3, số được 270, trong đó chia ra, Dương dùng 152, Âm dùng 112, gồm 264 mà bỏ rỗng âm dương trước sau 3 số. Tính cả số không dùng trong số 90, như 1 năm 4 mùa, 1 mùa 3 tháng, 1 tháng 30 ngày. Bỏ 1, mà 3 dùng 3, do đó 3 này là 3 mùa Xuân-Hạ-Thu gồm 9 tháng chứa 3 ; 9 là số 270, trong rỗng 6 ngày, thời 264 ngày ấy làm số dùng, còn số không dùng đó là số chỉ 1 mùa Đông. Ba tháng Hợi-Tý-Sửu trời đất bế tắc, muôn vật không sinh, gồm 90 ngày, nếu tính cả 6 ngày bỏ rỗng, cộng là 96 ngày, đó là số giao. Cho nên, tóm giao mà 360 số Thể toàn vẹn, bỏ số giao 96, thì số được dùng còn lại là 264 vậy. Tức là, 1 năm để xem Vận của 12 Hội (264/12=22), khá thấy vậy. Ở Luật lữ Thanh, Âm, Xướng, Họa, thực tiêu chuẩn ở đây, mà lịch số khởi vận cũng không thể trái, dẫu bỏ 3 dùng 7 mà âm lẫn dương, dương lẫn âm, coi như đêm lẫn ngày, ngày lẫn đêm, không chút đầy tràn (quá độ). Xét sự lẫn đó, chung quy là âm về phần đêm, cho nên chủ vận quẻ Khôn quẻ Ly, thẳng phần của Nhuận là Tý đến Mão, hay Dậu đến Tý, đều bỏ đi nửa, mà lấy cái nửa được dùng thẳng kịp đến với quẻ Càn quẻ Khảm toàn vẹn, tính cả làm số dùng. Cho nên Sao (tinh) đi cùng quẻ Bĩ gồm 16 quẻ, phần bỏ đi ấy tính về đêm. Từ quẻ Bí cùng quẻ Cấn trở lên, 44 quẻ mà dùng ấy hết thẩy về ngày. Ở ngày hầu hướng về tối, ở đêm hầu hướng về sớm mà giao nhau. Chia số đầy, vơi, âm, dương giao lẫn nhau, thời cũng tùy ngày dài ngày ngắn, để định tiết hậu, mà xét ở chỗ hoặc bỏ hoặc dùng, số bỏ 3 dùng 7 chưa từng có trái đường ngang của vận hành vậy. Tường tận ở Ngoại thiên, tế nhị suy mà lấy cái thuyết Hội kinh Vận, là thấy rõ vậy.

Lại nói: Nguyên kinh Hội lấy Vận quái, Hội kinh Vận lấy Thế quái. 1 Hội 30 Vận, gồm thẳng 5 quẻ 1 hào, 1 vận trải 6 Giáp Tý đến Quý Hợi 360 năm làm Thế ấy là 12 Thế đều 30 năm, cho nên 1 hào tương đương với 1 Vận xem 12 Thế, 1 quẻ 6 Vận xem 72 Thế, đều 5 quẻ 30 Vận xem 360 Thế, chọn vận đầu 12 Thế, thời ứng thẳng vận quái hào mới biến, như quẻ Minh di hào sơ thẳng Tinh Kỷ 76 biến làm quẻ Khiêm, từ 6 hào quẻ Khiêm, chia làm 12 năm 1 hào, thì 6 hào quản 72 năm. Hào Sơ khởi Giáp Tý vòng đến Ất Hợi là 12 năm. Hào 2 quẻ Minh di biến quẻ Thái vòng khởi Bính Tý đến Đinh Hợi cũng 12 năm. Hào 3 quẻ Minh di biến thành quẻ Phục, hào 4 biến thành quẻ Phong, hào 5 biến thành quẻ Ký tế, hào 6 biến thành quẻ Bí, vòng khởi Mậu-Canh-Nhâm Tý, đến Kỷ-Tân-Quý Hợi. 6 vòng vẫn khởi từ Giáp Tý đến Quý Hợi, lấy thứ tự thẳng 5 Tý đều như trước, chứa 1 hào 6 biến, đều 72 năm, thống kê 432 năm. 1 quẻ 36 biến, đều 72 năm, thống kê 72 x 36 = 2592 năm, thế thời số năm của 360 Thế, thực tức là tích số của trực Vận 1 quẻ 6 hào. Tóm 1 Hội trực Vận đều 30 hào của 5 quẻ, thời số 129600 (2595x50) mà số năm của 360 Thế thâu tóm ở trong 30 Vận vậy. Thế cho nên, Vận lấy Hội làm kinh, lấy Thế làm Vỹ.

Đây nói về Hội kinh Vận. Từ hội Dần Kỷ Mão thẳng quẻ Lôi Hỏa Phong hào 9-4, có quẻ Minh di dùng ứng với quẻ Khiêm ; cho đến hội Tị Quý Tị, thẳng quẻ Trạch Thiên Quải hào Thượng, có quẻ Càn dùng ứng quẻ Đại hữu, thì:

- Gồm 105 Vận, (quẻ Phong ở giữa Hội Dần, từ Hội Mão-Thìn-Tị có 5 x 3 =15 quẻ, cộng với 3 quẻ Phong-Cách-Đồng nhân là 18 quẻ, 6 hào x 18=108 hào, quẻ Phong tính từ hào 9-4, nên phải trừ đi 3 hào trở về trước của quẻ Phong 108-3=105 hào tương đương với 105 Vận)

- Thâu tóm 105 x 12 = 1 260 Thế,

- Trải qua 1260 x 30 = 37 800 năm,

- Gồm 37800x12=453 600 tháng,

- Gồm 453600 x 30 = 13 608 000 ngày,

- Gồm 13608000 x 12 = 163 296 000 giờ,

- Gồm 163296000 x 30 = 4 898 880 000 Phân,

- Gồm 4898880000 x 12 = 58 786 560 000 Sao,

Số đều 12 và 30 nhân lên, số cùng nhân lên tích chứa. Từ mở Vật trở về trước, 2 hội Tý-Sửu đến giữa hội Dần, có 75 Vận 900 Thế, nghĩa là:

- Hội Tý-Sửu là 10 quẻ, gồm 60 hào. Quẻ Ký tế, Gia nhân đến giữa quẻ Phong là quẻ giữa Hội Dần có 15 hào, nên nói 15 + 60 = 75 hào hay 75 Vận,

- Thâu tóm 75 x 12 = 900 Thế,

- Trải qua 900 x 30 = 27 000 Năm,

- Có 27000 x 12 = 324 000 Tháng,

- Có 324000 x 30 = 9 720 000 Ngày,

- Có 9720000 x 12 = 116 640 000 Giờ, (gộp số tích Phân-Sao)

- Có 116640000 x 30 = 3 499 200 000 Phân,

- Có 3499200000 x 12 = 41 990 400 000 Sao,

(75 vận 900 thế, trải qua 2 vạn 7000 năm, 32 vạn 4000 tháng, 972 vạn ngày, 1 ức 1664 vạn giờ, tính gồm cả số tích Phân Sao), bấy giờ còn là thời hồng hoang, không thể khảo cứu, ghi chép lược qua. Từ Hội Dần thẳng quẻ Phong hào 9-4, bắt đầu Ly sáng Chấn động, vật tượng để mở mang, người thời Sỹ, Nông, Công, Thương, vật thời loài chạy, loài bay, cỏ, cây, hướng về sáng mà trị yên, chủ tể thần mà là Vua, từ đó đủ vậy. Trời đất tốt lành, Dịch nói: “Phong ấy là to vậy”. Sáng để động, cho nên quẻ Phong hào 9-4 gặp quẻ Di chủ cắt mở đời mờ ám đương ở vận ấy du? Sao kinh khởi từ Dần đến Tị, từ quẻ Phong đến quẻ Quải, hào biến chia sẻ, Thế quái khá suy, hợp với số trước là Dương lên 6 Hội, kể 180 Vận, 2160 Thế, 6 vạn 4800 năm. Lấy 12 Tháng là số 1 Năm, 30 ngày là số 1 Tháng, 12 giờ là số 1 Ngày, tính cả 30 Phân là 1 Giờ, 12 Sao là số 1 Phân, hết thẩy tóm ở trong Vận. Âm xuống 6 vận từ giữa Ngọ, quẻ Cấu dùng ứng quẻ Càn, đến giữa Hợi, quẻ Bác dùng ứng quẻ Khôn, số bên hữu soi số bên tả mà mở Vật trở lên, đóng Vật trở xuống, giữa Tuất mà số Phân đều khá cất lên vậy.

Lấy Nguyên kinh Hội, thấy đủ ở đồ trước. Lấy Hội kinh Vận, đó là đồ trước mỗi Hội có 30 hàng, lại 1 Hội 30 có Vận, 1 hàng có 12 mục, tức là 1 Vận có 12 Thế. Vậy thời 1 mục vốn là 1 Thế. Kể 30 năm, từ khi mở vật ở quẻ Lôi Hỏa Phong hào 9-4, làm bắt đầu sinh Người sinh Vật, mà 5 đời hoang mang, số thế khó có kẻ cứu. Cho nên, lấy Hội kinh Vận thứ 1, chỉ suy quẻ thẳng đến Thế. Đến đời vua Đường Nghiêu năm Giáp Thìn trở về sau, mới có thể đại khái xét, bấy giờ hệ ở hội Tị Vận thứ 30, đó là lấy Hội kinh Vận thứ 2. Đã theo hội Tị vận thứ 30, kinh Sao dùng Quý suy khởi vận quẻ, thuộc quẻ Quải dùng Càn 12 Thế đều do quẻ Càn thâu tóm cả. Quẻ Càn hào Sơ biến Cấu, hào 2 biến Đồng nhân, hào 3 biến Lý, hào 4 biến Tiểu súc, hào 5 biến Đại hữu, hào 6 biến Quải, 1 quẻ thẳng 1 Giáp Tý, kể là 12 Thế, mỗi quẻ lại 6 biến, mỗi lần biến là 10 năm, như vậy 6 lần biến là 360 năm, mà 1 Vận hết vậy. Đến bảo rằng: kinh Nhật dùng Giáp 1, kinh Nguyệt dùng Kỷ 6, kinh Sao dùng 180, kinh Thần chưng 2100 ấy, vì Nhật chưng Giáp 1, tức là đồ trước đầu trống 1 mục, tóm 12 hội 360 vận, đều lấy Giáp Tý làm cương lĩnh. Cho nên, 360 Thế đều kinh Nhật chưng Giáp 1 vậy, Nguyệt chưng Tị 6, tức là đồ trước mục thứ 2 bỏ trống, đó là hệ Hội Tị, từ Tý đến Tị kể là 6 số, cho nên làm Nguyệt chưng Tị 6 vậy, Sao kinh hệ ở Quý số 180, Thần thời mục thứ 1, 2149 theo 1 lần lượt thêm 1 số, đến mục thứ 12, thì là 2160 vậy. Đồ lấy 2100 làm tổng số, bày ở hàng Giáp 1, số lẻ thời bầy ngang trên 12 Thế, bắt đẩu Thế Tý 49, đến Thế Hợi 60, là 2160 vậy. Thế thứ 1 từ Giáp Tý đến Quý Tị 30 năm, quẻ ấy thời Càn, Độn, Tụng, Thế thứ 2 từ Giáp ngọ đến Quý Hợi gồm 30 năm, quẻ ấy thời Tốn, Đỉnh, Đại quá, đó là hội Kỷ đến Quý vận 360 năm, kể là 12 Thế. Đầu của đồ vốn 1 Vận, đồ toàn quẻ nhân vì 7 Thế trước, không thể xét chứng đến thứ 30, là ở cuối kinh Thế. Năm Giáp Thìn, vua Đường Nghiêu dựng ngôi vua, mới có thể đại khái xét, cho nên 3 Giáp Tý trước không chép lại. Duy từ kinh Thế 2156 Kỷ (1 Kỷ là 12 năm), khởi Kỷ sau 3 Giáp Tý khởi đồ, trở về sau đều bầy 6 Giáp Tý. Kẻ đọc được đó mà lấy loại suy, tự thấy lòng mắt rộng rãi vậy.

Đây bàn về Hội Tị, vận thứ 30. Quẻ của Vận là đương từ quẻ Quải đến quẻ Càn (quẻ Quải vận từ 25 đến vận thứ 30, dùng hào 6). Quẻ của Thế chia hào của quẻ Càn, lấy 6 hào mà biến thành 6 quẻ để làm Kinh, như hào Sơ biến Cấu, hào 2 biến Đồng nhân, hào 3 biến Lý, hào 4 biến Tiểu súc, hào 5 biến Đại hữu, hào 6 biến Quải, tức là lấy 6 hào ở quẻ Càn biến ra, đều được 6 quẻ biến, 6 quẻ này lại biến từng quẻ 6 hào, được theo thẳng 36 quẻ làm Vỹ. Như quẻ Cấu hào Sơ biến Càn, hào Thượng biến Đại quá. Đến quẻ Quải, hào Sơ biến Đại quá, hào Thượng biến Càn, là loại ấy vậy. Cho nên biến quẻ Thế từ hào 1 đến hào 6 làm Kinh, lấy thẳng 6 quẻ này làm 6 Vận, mỗi Vận lại biến 6 hào được 36 quẻ làm Vỹ, rồi chia lấy làm Thế, mà làm quẻ của Năm, do đó mà biết vậy, sau đều chuẩn ở đó. Duy quẻ của Kinh thẳng 1 hào gồm 12 năm, 12 theo 30 gồm 360 năm mà thành 1 Vận. Quẻ của Vỹ chia 1 hào thẳng 10 năm, 10 năm theo 6 biến, năm theo trong ngoài, đều 30 cộng được 60, theo 60 làm 360, y vậy 12 Thế, mà thành số 1 Vận. Xét Nhật đương Nguyên, Nguyệt đương Hội, Tinh đương Vận, Thần đương Thế, trải Nhật- Nguyệt-Tinh mà đến Thần, tức là trải Nguyên-Hội-Vận mà đến Thế, cũng như cử lên Năm-Tháng-Ngày mà đến Giờ vậy. Đó rõ trải Thần đến trải Tinh, dùng Quý thì như theo Năm thì biết Phân của Giờ tóm quẻ của Năm, cất lên Nguyên-Hội-Vận lớn nhỏ, chừng ấy mà ngang ngang dọc dọc, chẳng gì là chẳng một xuất, một thông vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, vận thứ 1 (dùng hào 1). Quẻ Đại vận thẳng quẻ Thiên Phong Cấu, quẻ của Tiểu vận thì quẻ Cấu chọn dùng quẻ Càn. Chia hào của quẻ Càn làm Thế quái trong quẻ: hào Sơ là quẻ Cấu, hào 2 là Đồng nhân, hào 3 là Lý, hào 4 là Tiểu súc, hào 5 là Đại hữu, hào Thượng là quẻ Quải. Đây tức là trong ngoài chia thẳng quẻ quản Thế, quẻ nội 3 hào quản bên trong, quẻ ngoại 3 hào 4, 5, 6 quản bên ngoài, đều chia 6 hào, đều thẳng 6 quẻ làm Kinh. 6 quẻ mỗi quẻ lại biến 6 hào, mỗi hào thẳng 10 năm, như vậy 6x6 = 36 quẻ thẳng 360 năm, bèn vòng 12 Thế, mà thành số của 1 Vận. Nay Hội Ngọ vận thứ 1, thời Cấu là Càn chia vận mới, mà làm Phân của Càn đó vậy, qua đó biết vận quẻ Cấu hào Sơ thẳng biến luôn mà lìa Càn. Quẻ Càn chủ ở Đạo trời, cũng chủ đức ông Vua, dẫu đương Cấu âm, thực ứng Càn dương, nhưng vì trời đất cùng gặp đúng lúc tiêu trưởng giao nhau, lịch số ở trong bậc Đế Vương, thẳng Hội lên xuống. Tượng quẻ Cấu nói: “Vua lấy thi hành mệnh lệnh thông báo 4 phương”, lệnh ra ở Chấn mà nói Mệnh của Vua, thi hành ở Tốn mà nói Vua, ở Cấn cũng nói Vua, bởi vì phỏng cũng theo Vận mà gọi vậy. Duy bấy giờ vua nhà Hạ tiếp Càn cố hết lên mệnh bậc Vua đậu, giữa trời trị đời. Có lời mách bảo: “tin cầm đạo trung”, Ngọ làm văn mệnh mùa Hạ 4 số, đức sáng sánh với trời, dẫu năm diễn với đời. Từ Giáp Tý, Cấu vào Càn, vua Vũ nhiếp chính 8 năm, đến năm Ất hợp lên ngôi Vua, mà sau trải 15 đời truyền, cộng được hơn 430 năm. Giáp Tý thẳng Cấu đến Độn, lúc đương mới vận, phân Càn khởi Cấu đến Quải 36 quẻ, đại khái có thể thấy. Thiệu ta trước xem việc đã qua, đều chứng tỏ được sự to nhỏ, phân thẳng quẻ ứng, bèn viết quyển kinh Thế, chép việc dưới niên quái. Ôi! có phải là không vậy thay.

Đây bàn về hội Ngọ, vận thứ 2 (dùng hào 2). Quẻ của vận đương từ quẻ Thiên Phong Cấu đến quẻ Thiên Sơn Độn, quẻ của Thế chia hào của quẻ Độn như sau: hào Sơ thành Đồng nhân, hào 2 thành Cấu, hào 3 thành Bĩ, hào 4 thành Tiệm, hào 5 thành Lữ, hào 6 thành Hàm. Từ quẻ Độn thẳng tới quẻ Đồng nhân, vua Khổng Giáp nhà Hạ 23 năm Giáp Tý, vượt qua vua Cao Phát nhà Hạ đến Đồng nhân, đến Càn, đến Vô vọng rồi Gia nhân. Kịp tới vua Quý nhà Hạ, năm thứ 2 Giáp Thìn đến Quý Hợi thời đến Ly, đến Cách thời 6 Giáp vòng hết mà 1 biến cùng cực vậy, bèn vào quẻ Cấu hào Sơ, 2, 3, rồi làm Càn, làm Độn, làm Tụng, đương lúc bấy giờ là nàng Muội Hỷ (vợ vua Kiệt nhà Hạ), là cái họa gái mạnh ứng nặng ở Cấu du! Từ vua Thăng thời Phù Triết lo sợ, lại gồm ứng Độn bắt trói, cùng với Tụng phải dùng trốn tránh du! Mặt Trời kia sao chưa mất là mệnh nhà Hạ hết ; đến năm Ất Mùi vua bị đuổi ra đất Nam Sào, thì đất Hữu Bạc lại dấy lên, Tốn lấy bầy tỏ mệnh Trời, Đỉnh lấy hưởng ngôi vua, chính mà ngừng lại, ấy bậc thánh Thiên tử ngày càng bước tiến lên, nghiêng để đổ úp đó Khắc Chính cháu vua Thang, ở thời bấy giờ, vua tôi đủ tài đức cả Đại quá (cả hơn người), đánh nhà Hạ cứu dân, đuổi Vua ra cung Đông, coi dấu vết của Tổ, chẳng phải đương mà chẳng sợ, há phải là ngẫu nhiên vậy thay. Tỷ bèn vào Bĩ, Bĩ đến Vô vọng, trải Tụng, Độn, Quan, Tấn đến Tụy gồm 6 biến. Xem thế của vua Ốc Đinh, Thái Canh trước sau 60 năm, thôi Bĩ ứng cả trong Kinh dịch: “buộc vào gốc cây dâu”, trời đi không ngay thẳng, đức Vua dùng tốt tươi, như quẻ Độn hào 4 biến thành quẻ Tiệm, đến Gia nhân 10 năm, mà Tốn lại 10 năm mà Quan, đều 10 năm mà Độn, mà Cấn, mà Kiển, vượt qua Tiểu Giáp ứng Kỷ, đến vua Thái Mậu, đạo nhà Thương càng sáng. Về sau Lữ, Lữ biến 6 hào khởi Ly đến Tiểu quá, Trung phu, Đỉnh, Tấn, Cấn, Độn về sau Hàm. Quẻ Hàm biến 6 hào khởi từ quẻ Cách đến Độn giữa Đại Tiểu quá mà bọc Tụy Kiển, thời từ Thái Mậu trở xuống truyền Trọng đinh Ngoài nhân, Hà Đản Giáp mà đến Tố Ất Tố Tân khoảng 120 năm, sự hưng suy bất tất quẻ Càn biến mà cầu người có Tâm. Trải xem ngôi nhà Thương hội trùng điệp, nghiệm ở Trời và Người cũng nghĩ quá nửa vậy. Từ đó thời thẳng đến Cấu, đến Tụng mà đến vận bàn 3 vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, vận thứ 3 (dùng hào 3). Quẻ của Vận từ quẻ Thiên Phong Cấu đến quẻ Thiên Thủy Tụng, quẻ của Thế chia quẻ Tụng đến: hào Sơ quẻ Tụng biến Lý, hào 2 quẻ Tụng biến Bĩ, hào 3 Tụng biến Cấu, hào 4 Tụng biến Hoán, hào 5 biến Vị tế, hào 6 biến Khốn. Vua Tổ Tôn xếp đặt trên dưới để rõ chí dân, để định luật trước sau vậy. Rồi biến làm Tụng, làm Vô vọng, cùng Càn làm Trung phu, Khuê, Đoài, vượt qua Ốc Giáp năm Tân Mùi, đến vua Tổ Đinh 28 năm, năm Qúy Hợi ở Lý hoặc xấu hoặc tốt lành, xét mà chia Tụng đến Bĩ, biến đầu tiên là Vô vọng,, Tụng là thứ, Độn lại thứ nữa, đến Bĩ, như Quan, như Tấn, như Tụy, lại lần lượt mà thứ nữa, đều thẳng 10 năm. Vượt qua vua Nam Canh, vua Dương Giáp đến vua Bân Canh, kẻ bàn nói là đều động lời phù phiếm, đem kêu gọi mọi sự lo lắng, ứng vào Tụng ngôn đấy. Đặt ở yên Tân Ấp, dân dùng giữ gìn tụ họp, Tụy là tụ hợp vậy. Chứng các sự đó, thời nhà Thương có nhiều hoạn nạn về sông nước, trời đi trái, vua Bàn Canh kêu gọi thiên hạ đi đò, làm việc mưu toan lúc đầu, tuy nhỏ có nói, mà làm Nguyên cái ấy du! Đến vua Tiểu Tân Tiểu Ất, từ quẻ Tụng mà đến quẻ Cấu hào Sơ, hào 2 biến mà làm Càn Độn, hào 3, hào 4 biến mà làm quẻ Tụng, quẻ thuần Tốn, hào 5, hào Thượng biến mà làm quẻ Đỉnh, quẻ Đại quá, đương Đại quá đến năm Quý Hợi, vua Vũ Đinh phấn chấn lên, sáu bảy Vua hiển thánh nối đời trong khoảng hơn 450 năm, phản lại thời suy loạn mà nên thịnh vượng tốt lành, khả năng bảo là hơn người du! Từ quẻ Tụng mà đến quẻ Hoán, hào Sơ quẻ Hoán biến Trung phu, hào 2 biến Quan, hào 3 biến thuần Tốn, hào 4 biến Tụng, hào 5 biến Mông, hào 6 biến tập Khảm. Thời này, đương ở lúc kinh yên nghĩ Đạo, Phu (tin) bèn dậy cả nước, tiếp gỗ có công, ô Duyệt làm bánh lái thuyền, bèn chót Hoán gọi chỗ ở của Vua, đánh Mông, Tập Khảm, tiếng hách dịch thiêng linh. Từ quẻ Tụng mà đến quẻ Vị tế, hào Sơ quẻ Vị tế biến Khuê lấy oai, hào 2 biến Tấn lấy tích, hào 3 biến Đỉnh lấy ngưng mệnh, bèn ở đời vua Tố Oanh Tố Giáp, có công thừa Chân đánh dẹp du! Kịp đến vua Tân Canh, Đinh đến Vũ Ất, thì hào 4 quẻ Vị tế biến Mông, hào 5 biến Tụng, hào 6 biến Giải, thời đương hào 6 quẻ Giải, là vua Vũ Ất vậy, không tìm đã giải trái lẽ, trái lại lẽ trái mà tìm trời. Khảm quẻ huyết (máu) mà Chấn theo đấy, Đạo trời mới không xa vậy. Nối sau là vua Thái Đinh, Đế Ất, ứng với thời hào 6 quẻ Tụng biến thành quẻ Trạch Thủy Khốn, hào Sơ quẻ Khốn thành thuần Đoài, hào 2 thành Tụy, hào 3 thành Đại quá, hào 4 thành tập Khảm, hào 5 thành Giải, hào 6 thành Tụng. Hào 5 quẻ Giải, vua Đế Ất trị đời, khởi Đoài đến Canh Ngọ, đến Giải Bính Ngọ. Dịch 2 lời vua Đế Ất Quy muội, là lấy tượng Đoài du! Quẻ Tụy cùng quẻ Đại quá đều tượng Đoài, theo Khốn, tập Khảm rồi Giải, thời Thượng ở Chấn. Lệnh vua ra phương Chấn, con trưởng là chủ việc tế, năm Đinh Mùi vua Thụ Tân là con đích tiếp nối, tuy Thái tử tranh chấp, đó chẳng phải vận trời vậy sao?. Duy đó là từ quẻ Tụng hào 6 đến Khốn, cũng như từ Khốn đến Tụng, nghe dùng lời nói đàn bà, dèm phu, nịnh nọt giao dấy lên, chựu phục là Sùng Hầu, đi trốn là Tây Bá, đến như Khốn cơm riệu, thời thịt như rừng, riệu như ao, Khốn tật là thời mổ kẻ có thai, đốt cháy người. Khốn xe vàng thời ở Lộc đài, Cự kiều, Khốn dấy theo đỏ đao ấn, thời moi tim bỏ tù làm nô lệ bậc Quân tử đến mệnh thỏa chí, thật khá thương vậy. Đến họ Ngu Nhuế kiện nhau mà nguyên cát, cũng tên cho mệnh, Khốn mà lại hanh. Từ năm Quý Hợi về sau, mây đen ở Tây giao đã mưa, cá chép mè đỏ đuôi dùng sống lại, văn đức để khen vua Vũ vương sau cưới chựu mệnh trời vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, vận thứ 4 (dùng hào 4). Quẻ của Vận đương là quẻ Thiên Phong Cấu hào 4 đến quẻ Thuần Tốn. Quẻ của Thế chia 6 hào quẻ Thuần Tốn được 6 quẻ như sau: hào Sơ quẻ Tiểu súc, hào 2 quẻ Tiệm, hào 3 quẻ Hoán, hào 4 quẻ Cấu, hào 5 quẻ Cổ, hào 6 quẻ Tỉnh. Hào Sơ quẻ Tốn biến thành quẻ Tiểu súc, (quẻ Tiểu súc lại chia 6 hào mỗi hào 10 năm) tượng khen văn đức ấy là vua Văn vương du! Duy thời bấy giờ, mây kín không mưa, tự ta ở Tây giao, lớn có lửa trời. Khuê tượng thường thấy, việc nhà Vua như lửa cháy, bảo rằng rất gần sao đây. Vua Võ vương nhân đó mà Tốn lấy hành quyền. Thượng Phụ quyết xem bói nên đi, Gia nhân định kế sách biến nhà vua tôi đều giả, trời người đều tin, cảm cách ứng điềm cá nhảy vào thuyền dâng phúc lành, kịp đến phát giáo, tập bắn, văn đức nhà Chu càng tốt vậy, duy ấy Lý hòa ở âm, con trai Càn thừa tiếp Chấn, vua nhỏ tuổi lên ngôi vua, ông tướng trong nhà nhiếp chính ; quẻ Tiểu súc dùng hào 6-4 mà biến Càn, tôi tỏ mệnh vua, lấy yên lặng bàn kế hoạch ở bờ ruộng ; hào 9-5 quẻ Tiểu súc biến thành quẻ Đại súc, tôi nuôi đức vua mà lại chuộng người hiền ; Hào 6 quẻ Tiểu súc biến thành quẻ Nhu, ăn uống yên vui, đều là lo về ràng rịt cửa to, phòng mưa dầm du! Ông Chu Công nhún chí mạnh đi, còn gì hơn vậy. Xét Tốn có tượng chim, con Phượng gáy ở Tây kỳ, mở điềm lành bậc Vương, khá nghiệm ở đấy. Qua đời vua Khang, lại chia từ quẻ Tốn hào 2 mà thành đến quẻ Tiệm, từ quẻ Tiệm biến hào Sơ, hào 2, hào 3 mà được quẻ Gia nhân, quẻ Tốn, quẻ Quan là chính nhà, xem nước mà hơn, thành được thiên hạ, đã chẳng phải 1 ngày. Vua Chiêu Vương đã thẳng từ quẻ Tiệm hào 4 đến quẻ Độn, quẻ Cấn, rồi đến quẻ Kiển, là lại đương quẻ Hoán hào 9-2, hào Sơ hào 6 biến Hoán tượng tiếp Mộc, biến Trung Phu thời thuyền trống rỗng, xem dân tình, xét các phương đáng phương Nam không trở lại, mà thuyền kéo giải tán, thẳng hoặc ứng tượng Hoán du! Vua Mục Vương hưởng nước 34 năm, khởi Hoán đến Quan, đến Cấu dùng giữa Càn, trải qua Tốn, Tụng, Mông, Khảm, 4 biến để sang Càn 9-4, Tốn dùng chính ngôi ở tượng làm trưởng, Càn già mà khỏe, là triệu chứng ở ngôi vua lâu dài mà thọ khỏe. Truyền khen vết bánh xe, dấu chân ngựa muốn đi khắp thiên hạ, Mông dùng già 90 tuổi bị khinh nhờn, Khảm dùng bánh xe chân ngựa, cũng có thể thấy sơ lược, cộng khoảng vua Y Hiếu, đi làm Độn, làm Tụng, làm Tốn, Đỉnh, Đại quá. Đại quá thời chẳng diệt mộc cây, bấy giờ có băng tuyết lớn, sông Hán, sông Gianh nước đều đóng. Càn làm ngựa, cũng làm rét, làm nước, ngựa đang sinh nở nhiều mà băng, mưa, đá ứng, đó là vì đạo trời quá dư. Cố đến Đại súc, Man cùng Vệ lại cùng ứng, bảo rằng vua Hiếu Vương mà đi, thời phải xuống nhà dưới mà yết kiến các nước chư hầu, lại càng hỏng việc, không phấn chấn khích lệ lên được. Biển mà nói sông, lại rất thôi thúc gièm pha việc phòng sông, sau trôi đến con lợn sề, Khảm sông vậy mà dân đề phòng, mà bền vỹ du! Tuy bấy giờ số đến Đỉnh Tốn, mà ngu tối tiêu ở Tỉnh, cộng hòa nhiếp vị 14 năm, đang ở Tỉnh đến Nhu, vua Tuyên Vương dấy lên, Kiển bàn lễ Khảm, bèn hanh vậy, dấu vết thử hỏi đến xem ngôi sao, kêu trời lo hạn, chẳng phải xét lại hình của Đức, ủy lạc dân khuyên tượng dùng đi săn bắn, mặc áo bằng cỏ nhuộm đỏ để giảng võ và kinh doanh đến 4 phương bế, đắp thành đến tận phương Bắc, thành cũ của giếng không có chim, mất hai bên bánh xe, đẩy ùn và trâu kéo, gốc ngọn yếu mà lại khỏe mạnh, đi lại không mất, người bầy tôi khó nhọc của vua Cát Phủ Phương, Trọng Thúc, Thiệu hổ, Thần bá, Trọng sơn, các ông này, bè bạn đến giúp lúc khó nhọc như Đại hiến đoản thân, há chẳng phải là những bậc tôi hiền giúp nghiệp trung hưng vậy thay, sau lấy buộc tội dân ở Thái nguyên vào tội bỏ Hoàng tử hủi, Tốn mất giúp đỡ sự an dùng, oai mệnh sau suy, vua U Vương mê quá, mà nhà Chu thấm ra cái tai họa nữ tráng, lại ứng vào bói quẻ Cấu vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, vận thứ 5 (dùng hào 5), quẻ của Vận từ quẻ Thiên Phong Cấu hào 5 đến quẻ Hỏa Phong Đỉnh. Quẻ của Thế chia hào của quẻ Đỉnh: hào Sơ thành Đại hữu, hào 2 thành Lữ, hào 3 thành Vị tế, hào 4 thành Cổ, hào 5 thành Cấu, hào Thượng thành Hằng. Hào Sơ biến Đại hữu đến Đỉnh, hay Đỉnh biến Đại hữu, hào từ được vị thiếp lấy thửa con mà ra Bĩ theo cả, yêu bà Tự, bỏ bà Hậu, lập Bá phục truất bỏ Nghi Cửu đó là ứng du! Vua U Vương lấy Tốn dùng Canh trước, lập Đỉnh dùng Canh sau, mất vừa 14 năm, họa ở núi Ly sơn hiện ra, vạc nhà Chu nghiêng chân vậy. Ôi, há chẳng phải trái lẽ vua Bình Vương đã lập làm Vua. Đại hữu biến hào 2 làm Ly, hào 3 thành Khuê, hào 4 làm Đại súc, hào 5 làm Càn, hào thượng làm Đại tráng, ở ngôi 51 năm, Tây kinh bỏ mà rời sang đất Lạc, quân nhà Vua ra đi mà năm Mậu Thân có lời than: “thử Ly (lúa mọc rời rã) khô hạn (cắt bỏ phơi khô)”, và lời than “thỏ viên nữ la” (vợ chồng chia lìa). Trên dưới oán hận, tuy do việc người, hoặc cũng trời làm, ở trong khoảng đó, khiến Chu Công chờ tước hầu, hưởng ở Thiên tử. Phương Bá dùng mạnh, bậc Vương suy dần dần thay Càn, dấu tích tắt Kinh Thi mất, Kinh Xuân Thu bắt đầu làm, khen chê để chính nước, ngăn đường để thuận mệnh, sự thấy ở sau, vận đã ra điềm ở trước vậy. Từ đó, bậc Vương xuống làm Bá, ông Hoàn ở Trang thẳng từ Lữ đến Ly, mà Đỉnh, mà Tấn, ông Lý Huệ thẳng Lữ đến Cấn, mà Độn, mà Tiểu quá, rời lửa trên trời vào núi mà chiếu sáng, rộng hẹp mà khá thấy vậy. Mệnh lệnh đã không thi hành, biến nhiều không xét xử, vua Tương Vương thẳng Vị tế đến Khuê, qua Tấn Đỉnh ma đến Mông, việc nhà không gây nên, cái loạn Trúc đới cùng với Tử đồi, loạn đã bình rồi, Tấn Văn định yên. Sau đến nước Trịnh, nước Quắc, lửa chằm làm nữ nhung (con gái mặc đồ đánh trận), họa sinh ra ở nước Dịch, ngày dùng nhiều ban thưởng công lao, là nhờ ở nước Tấn, đó là có chứng cớ du! Bèn Tụng, bèn Giải, vụt chốc cứu cho trong 6 năm, Đinh Vương lấy lập nên, lại có Cổ đến Đại súc, trời to mà nuôi ở trong núi, núi hùng vỹ mà ngồi soạc chân ra ở trên trời, xem binh hỏi Đỉnh (Tể tướng) cũng không coi Thiên vương là thấp, mà liếc nhìn Thần khí (ngôi vua). Vua Giản Linh nối cũng chẳng có tài cán gì mà lại thừa thãi vậy, Cổ càng thịnh biến mà Cấn, Mông biến mà Đỉnh Tốn, quyền lớn rồi lại xuống dưới, mệnh lệnh của nước cũng theo xuống luôn. Bấy giờ đức Khổng tử sinh ra, ngôi không ở mà Đạo ở, bậc Tổ vương (bậc không có ngôi) đương vận Cấu 5, nhà Đông Chu chọn làm nước Lỗ du! Vua Cảnh Vương trải Thăng (lên) mà làm Cấu đến Càn, Độn, vua Kinh Vương trải Tụng mà là Cấu đến Tốn, Đỉnh, hào thượng Đại quá: “đi nữa ở phía Tây bắt được con Lân, Đạo ta cùng vậy” (lời than của đức Khổng), bậc Bá lại xuống đến rợ Dịch. Quẻ Hằng thường đến, hào sơ biến Đại tráng, hào 2 biến Tiểu quá, hào 3 biến Giải, hào 4 biến Thăng, hào 5 biến Đại quá, hào 6 biến Đỉnh, vua Nguyên Vương thẳng đấy, Trinh Đinh Vương thẳng đấy, Ai Vương, Tư Vương, Khảo Vương đều thẳng đấy. Đời vua Uy Liệt cũng đường Chấn chính Hằng, đó là trước sau du! Cấu Đỉnh tức là bảo rằng 240 bút tước sửa lại văn tự, xuất 360 vận tuần hoàn, đời có thăng giáng, Đạo không thịnh suy, chính ngôi ngừng mệnh ấy xa vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, vận thứ 6, quẻ của vận đang Thiên Phong Cấu hào 6 đến thẳng Trạch Phong Đại quá, quẻ của Thế chia hào quẻ Đại quá: sơ biến Quải, hào 2 biến Hàm, hào 3 Khốn, hào 4 biến Tỉnh, hào 5 biến Hằng, hào 6 biến Cấu. Dùng quẻ Quải biến hào: sơ thành Đại quá, hào 2 thành Cách, hào 3 thành Đoài, hào 4 thành Nhu, hào 5 Đại tráng, hào 6 thành Càn, vua Chu Uy Liệt Vương thẳng Đỉnh (ngôi vua) đến Bính Thìn, đến Cách năm Kỷ Mão, gồm 24 năm, 9 Đỉnh lấy Chấn thửa Đỉnh hay là Cách du! Ban đầu sai quan đại phu nước Tấn làm chư hầu, nên là Chấn vậy. An Vương thăng 9 đời Cách Đoài Nhu Tráng, họ Điền thôn tính nước Tề, Tào, Triệu, Ngụy chia nhau nước Tấn, như ở thuyết ấy thuận nghe, Tráng ở Chỉ (chân) ấy tin, vận cùng làm sao cứu được, Liệt Vương thối ngôi, Uy băng trao Đỉnh Tống còn biết có vua vậy, xem khen ở sân vua, khá chẳng rằng phi lẽ chớ lý (đi vào) du! Song cũng chỉ có thế thôi vậy. Hiển Vương thẳng Đại tráng đến năm Quý Sửu, sang năm sau, thẳng Càn vượt qua Hàm đến Cách, Đại quá, Tụy, bấy giờ có sao Chổi xuất hiện ở phương Tây, Công tôn Ưởng vào nước Tần làn ký quan, rời đô đến Hàm Dương, gồm các làng nhỏ, tụ họp làm 1 huyện, hợp làm 31 huyện, bỏ phép tỉnh điền, mở đường thiên, đường mạch lại đánh thuế. Phép thuế đổi Cách phép nhà Chu quấy nhiễu quá không sợ. Bấy giờ, thời ông Mạnh Tử mới đến nước Lương bầy điều Nhân Nghĩa, truất bỏ điều lợi, cả đời bấy giờ ngày nói toàn điều lợi, há chẳng hơn Đoài mà Đại quá (hơn nhiều người) vậy thay! Từ đó, Hàm đến Kiển (vận từ Đại qúa tới Hàm, 6 hào quẻ Hàm: Cách, Đại quá,Tụy, Kiển, Tiểu quá Độn), đến Tiểu quá, mà Độn gồm 59 năm, vua Noãn Vương hết ấy đời Tây Chu. Ở quẻ Thái đến Càn Sơ, nhà Chu chia ra Đông Tây, đến đây Khốn đến Giải, đều mất ở thời nhà Tần, nhà Tần dời đất Tây Chu và Đông Chu ứng vào quẻ Khốn, quẻ của Vận là Cấu, quẻ của Thế là quẻ tội giệt đỉnh đầu, mà chia hào thẳng quẻ Khốn đến cùng Hội vậy. Xét nhà Chu làm 3 đời Vương là thịnh, Bình Vương trở về sau là 5 bậc Bá, kẻ có công hay tội, đỉnh ở kinh Xuân Thu, rồi đến 7 bậc hùng nghĩa hay lợi, đều phán định ở ông Mạnh Tử. Bấy giờ gốc ngọn nhà Chu đều yếu, nóc nhà bị quấy nhiễu mất sự giúp đỡ bởi mệnh ở Đông và Tây, như hoa cây dương khô vậy, nhà Tần thời đó đổi sức mạnh mà lấy, bèn trước 6 nước mà ngầm rời về họ Lã Doanh. Tần Thủy Hoàng đương Tốn đến Tụng, vào Tỉnh đến Nhu,… (mất chữ) Đến đây, hội Ngọ đến Cấu xong rồi, xét lên tự 6 vận, đều cử lên việc ứng quẻ, dường như cũng phụ hội ức thuyết (nói phỏng chừng) chưa khá gắn keo vào cột. Kẻ đọc coi ngay tượng được ý, là khá vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, vận thứ 7, quẻ của vận là Trạch Phong Đại quá (hào 1) thẳng Trạch Thiên Quải, quẻ của Thế chia hào quẻ Quải: sơ biến Đại quá, hào 2 biến Cách, hào 3 biến Đoài, hào 4 biến Nhu, hào 5 biến Đại tráng, hào 6 biến Càn.

Dùng trong chia 3 hào quẻ nội như sau:

- Hào Sơ quẻ Quải biến Đại quá, chia quẻ Đại quá biến quái: hào sơ Đại quá hào 2 Hàm, hào 3 Khốn, hào 4 Tỉnh, hào 5 Hằng, hào 6 thành Cấu.

- Hào 2 quẻ Quải biến Cách, chia quẻ Cách biến quái: hào sơ thành Hàm, hào 2 thành Quải, hào 3 thành Tùy, hào 4 thành Ký tế, hào 5 thành Phong, hào 6 thành Đồng nhân.

- Hào 3 quẻ Quải biến Đoài, chia quẻ Đoài thành biến quái: hào sơ Khốn, hào 2 Tùy, hào 3 Quải, hào 4 Tiết, hào 5 Quy muội, hào 6 Lý.

Dùng ngoài chia 3 hào quẻ ngoại như sau:

- Hào 4 quẻ Quải biến thành quẻ Nhu, chia quẻ Nhu biến quái: hào sơ Tỉnh, hào 2 Ký tế, hào 3 Tiết, hào 4 Quải, hào 5 Thái, hào 6 Tiểu súc.

- Hào 5 quẻ Quải biến Đại tráng, chia hào quẻ Đại tráng: hào sơ Hằng, hào 2 Phong, hào 3 Quy muội, hào 4 Thái, hào 5 Quải, hào 6 Đại hữu.

- Hào 6 quẻ Quải biến Cấu, chia hào quẻ Cấu: sơ Càn, hào 2 Độn, hào 3 Tụng, hào 4 Tốn, hào 5 Đỉnh, hào 6 Đại quá.

Bàn việc đời vua Tuyên Đế thẳng Quải mà sáng suốt quyết đoán, tin việc thưởng, hẳn việc phạt, quan lại trị, dân yên, giao các nhà Nho giảng bàn 6 kinh, khác hay đồng, Thái Hậu lâm triều (sưng chế), quẻ Lâm (tới) quyết đoán, ứng cái tượng thư khế văn trị. Hai vị vua Nguyên vua Thành thẳng tới quẻ Hàm, Khốn, đến cả Tỉnh, hàm cảm ở trai gái họ ngoại, quan hoạn dùng việc, cái họa nước làm tắt lửa, Khốn ở giây theo đó theo ấn nhiều vậy. Có nói chẳng nghe, cũng như Tỉnh, giếng nước dơ bẩn không ăn, thi hành đạo đều bị lòng xót xa, như vua tối tăm không đáng thời sao? Kịp đến vua Ai, Bình thẳng Hằng Cấu, đức mất, dẫu có Hằng mà có so sánh với sự xấu xa về việc chìm đắm đứa trẻ ngu, đạo buộc dắt ở mềm mà đã thành ngầm cái thế nữ tráng (em gái mạnh) yên nhà Hán mà thực nguy nhà Hán, có tự đến vậy. Vương Mãng thẳng Cách Đại nguyên soái nối, đổi thay dựng nước là Tân vào năm Kỷ Tị, chọn ngày Tị bèn Cách du! Hàm chí ở ngoài mà chẳng phải trinh. Quải có việc binh mà chớ thương, hiệu nguyên sau hung, sao khá dài vậy. Quân nhà Hán dần dấy lên, quan Đài giết Kiển vô chừng ấy ứng vào sự lành Phu Gia Đường ngôi trung chính gồm 33 năm, lấy đạo mềm dẻo trị thiên hạ, động mà vui lòng theo, Bá chưng phải từ cứng rắn mà xuống mềm dẻo. Giờ là Ký tế, chẳng gì là chẳng Phong, vua Ninh Đế nối tiếp sáng, tượng như Thiên Hỏa Đồng nhân, chia từng loại họ, tỏ rõ các vật, xét qua không rối,, đến Lâm dựng nhà ung dung sự học, không kể nhà có công tứ tính (các dòng họ ), tiểu hầu, dẫu ẹơ Hung nô cũng cho con đến học, xa gần lệ nhờ ơn, mọi người đều được văn minh thịnh đạt, chẳng phải Cách sáng sủa mà ơn huệ Đoài sao! Khốn ở một nỗi tin Phật, cầu ở Thiên trúc, lỗi ấy lớn vậy, vua Chương Đế ra sức thi hành rộng lớn, động Tùy là có được, là vua hiền đời Đông Hán, lỗi ở yêu bà Đậu Hậu, thành ra Đậu Hiến là họ ngoại làm loạn ở trên thềm, vua Hào Đế bí mật dùng quân Trịnh giết Hiến, Phu (tinh) hiệu lệnh đương rõ ở triều đình Quải quyết vậy, rồi thưởng công ban lộc cho kẻ dưới, đến nỗi mở ra cái họa hoạn quan, vua Hòa Đế Đoài là tốt, trái lại lấy hung tới, đến nay rõ tượng vậy. Trên là tự chia dùng trong, 3 hào nội của quẻ Quải biến vậy. Dùng ngoài, 3 hào 4, 5, 6 quẻ Quải biến, Quải hào 4 chia Nhu biến làm quẻ Tỉnh, Ký tế, Tiết, Quải, Thái, Tiểu súc. Như đời Hòa Đế thì Quy muội kịp đến Lý, thì Thượng đế không có con nối dõi, mà An Đế dựng lên ngôi vua. Vua An khi nhỏ thông tuệ, lớn lên không có đức lập bà Diên hậu, tính ghen tuông đến mức loạn triều đình, chẳng phải Quy muội đánh hung dữ (đàn bà hung dữ), tiếp cái sọt vuông không có thực (quả) là nghiệm đó sao? Đó là bỏ thái tử Bảo làm Tề âm vương. Đổ mất, bọn hoạn quan định mưu lập Bắc Hương hầu, ông này chết, Trung thường thị rước Tế âm vương lên làm vua giết Diêm Hiển, rời bà Thái hậu đi, phong cho 19 tước hầu, ấy là thời vua Thuận Đế, vỹ Thăng Nhu đến Tỉnh cùng Ký tế vậy, Nhu là chờ đợi vậy, hiểm ở phía trước mà không hãm, ngôi vua là ngôi trời, đã bỏ đi mà Phục (lại) lập lên mà chưa mất lẽ thường vậy, Tỉnh thời không đổi, Ký tế là định vậy, cho nên sau lên ngôi vua, bấy giờ hoạn quan họ Diêm lộng quyền, Lương thị dùng việc ban đầu tôt, sau loạn, không thể trấn hưng được, vua Sung Đế được 1 năm mà mất, vua Chất Đế cũng 1 năm bị tướng quân bạt hỗ (hung tợn, cứng đầu cứng cổ, không chựu ai kiềm chế) giết, đức Khổng nói: “loạn sinh ra vậy”, ý nói là lời nói làm cái thần không một thời thành hại, sao chẳng cẩn thận vậy thay. Vua Hoàn Đế đương Nhu biến hào 3 đến Tiết, Quải mà Thái, Nhu giữa mà Càn dương, biến mà Đoài âm, dương cương bị âm nhu hủy bỏ, mà có cái lo trong cung nữ được Vua yêu, trung tiết lấy khổ sở, tuy Nhu tiếp theo 5 cương, Quải có thể giết, mong mỏi mà ngũ hầu, quyền khuynh trong ngoài, chẳng khỏi sau hung, đạo dùng chưa sáng. Thời bấy giờ, nhu huyết thuận theo, các kẻ quân tử vướng vào cái nạn đảng cỏ, cuối Khốn hãm không ra, Quách Thái do đó khóc thương người, biết nhà Hán mất vậy. Vua Linh Đế thẳng Thái mà Tiểu súc đến Đại tráng đến Hằng trị quản đảng công gấp, có kẻ bảo Thái Đạo quân tử trưởng lên, sao lại tiêu vong đến như thế? Này Nhu hào 9-5 vốn là quẻ Càn, rồng bay dùng ngôi Trời biến mà âm, sáu con rồng đem con rắn núp âm nhỏ dùng việc, dương càng tiêu vậy. Bấy giờ có con rồng xanh hiện ra trước chỗ vua ngồi, đó là điềm sao? Tiểu súc, Tốn trên về đầu Càn, cầu vồng rơi xuống đất hóa con gà, đàn bà can thiệp vào chuyện chính sự, mà đàn bà mất trinh, bầy tôi làm giả mệnh vua là trái đạo tôi. Vua Tuận Đế bàn xem (quan) lấy lợi, bỏ bà Hoàng hậu phản mục (không hòa), giết loạn quan phản nghịch, thời cổ nhân lợi trinh tiết, mời binh ở ngoài vào thì mất cái lợi dùng việc quân. Hà Tiến thất sách để lo đến xe vua, Trương Khương chựu tội vạ lây đến chỗ ở của vua. Từ đó mà Cảnh Chân tin đến cùng. Đổng Trác tuy bị giết, Tào Tháo lại tệ hơn, vua Hiến Đế nhà Hán ở ngôi 12 năm, từ Hằng đến năm Canh Ngọ, mà Phong, mà Quy Muội, đến Thái rồi Canh Tý, thời gian này rường của Càn cởi giây thao đeo ấn, Tốn mệnh chuyên về dưới, cắp lệnh của Thiên tử sai khiến các nước chư hầu, các địa phương chấn động về việc giết mẹ vua (mẫu hậu), tiến đoạt nhiều lễ, lấn chẹt vua cha, hung bạo trái lẽ ở chỗ giữa đường, đạo trở lại Hằng sức dùng theo Tráng, Tào Tháo (tào man) đắc chí Lưu nhà Hán (Vận Viên) không sáng, đến nỗi sấm chớp giao nhau, uy sáng ở rồng phượng đều giúp đỡ chính thông, cho nên Phục long Khổng Minh ở Nam dương ra mà chân Đỉnh ở Tây Thục đứng vững, cốt yếu ở 3 Ly 4 Chấn,cắt đất binh lo sợ, gồm đến nước Ngô Quy muội ở Kinh Mục (Tôn Quyền cho người đến Kinh Châu dụ em gái là Tôn Phu nhân đã gả cho Lưu Bị) lại trở về. Tào Tháo lập con gái ở cung vua Hiến Đế, đều là tượng ứng vậy. Hào 9-4 quẻ Thái, Tào không cướp ngôi vua. Lưu Bị bèn chính vị Đại thống (Chiêu Liệt) ở Hán Trung. Đất trời giao nhau hà tất không ở lúc vương nghiệp yên một bên. Từ đó mà Quải, mà Đại Hữu, mà Càn đến Cấu, đến Đồng nhân. Thục Hán mất, qua 2 năm, Tư Mã Viêm phế bỏ vua Ngụy làm Hoàng Đế, quẻ Tấn mà ứng vào bùa Càn vậy, Càn là Ngựa, Thiên Hỏa là Viêm thượng, ở năm mà nhà Hán mất, niên hiệu là Viêm Hưng, năm mà Ngô mất niên hiệu là Hàm Hy, chữ Hy và chữ Viêm đều theo chữ Hỏa, nên Tư Mã Chiêu làm Tấn Vương, lấy tên nước là Tấn. Chữ Chiêu và chữ Tấn đều theo chữ “nhật”, Nhật với Hỏa theo thế Càn. Vua Vũ Đế nhà Tấn chựu mệnh Trời đương Càn đến Lý, xem hào 3: vũ nhân làm đại quân (vua to), năm mới lên ngôi gọi là Thái Thủy, là lấy tượng của Càn-Cấu, gọi niên hiệu là Hàm Ninh vốn là tượng từ của Càn, hiệu Thái Khang cũng là cái nghĩa của Càn kiện Lý, Thái, lấy đó mà suy, chựu mệnh Trời có phải ngẫu nhiên đâu. Càn đến Tiểu súc, Đại hữu, lấy đến theo Quải, lời hát vè Nam phong liệt liệt (lo sốt ruột) ứng Tiểu súc, đó là lời của thiên hạ giống Đại hữu, minh chứng điển hình ở đất Kim dung ứng quẻ Quải, Lâm theo tiếp hào 5, bà Hậu phản nghịch, bầy tôi phản bội, ở ngoài thì Rợ Hồ bức bách vào trong, vế trên đầu dưới, thời gian vua Huệ Đế đến Hoài Đế, Văn Đế, quân tử bảo rằng Càn Khôn thời buổi của bậc nào đây. Từ đó mà Đại qúa đến Cách, giữ mệnh của Ngọ là Cách vậy, nhà Tây Tấn bèn là Đông Tấn.

Đây bàn về Hội Ngọ, Vận thứ 8 (dùng hào 2), quẻ của Vận là Đại quá đến Hàm. Quẻ của Thế chia hào của quẻ Hàm. Hào Sơ quẻ Hàm chia làm quẻ Cách, nói rằng bền nên dùng da bò vàng, ngựa mất mà trâu thay, vua Nguyên Đế nối tiếp vua Mẫn Đế không con nối dõi. Quẻ Cách biến làm Hàm, Quải, Tùy, Ký tế, Phong, Đông nhân. Quẻ Hàm nói: nhanh chóng vậy. Vua Mẫn uống riệu, làm lệnh riệu, cầm cái dù che, có cái nhục Hàm về cầm theo (Hàm cố chấp Tùy) mà chóng mất vậy. Quẻ biến từ Hàm đến Quải, nhà Đông Tấn gặp đấy, 5 con ngựa qua sông, 1 con hóa rồng, vì Quải có 5 hào dương, 1 đang lượng rồng bay rồi nên giặc phải nghịch phạm thuận, vua Minh Đế giết Vương Đôn ở trước, vua Thành Đế đánh Tô Tuấn ở sau, là tượng quẻ Cách hào 2 và 3. Quải là quyết, Tùy là có được, là công vua Minh vậy, Ký tê định vậy là vì cớ Hanh, Phong nhiều vậy mà chuộng vua Khang Đế hưởng nước chẳng thủy (nước), vua Mục Đế lên ngôi khi cong nhỏ, ở trong cái đựu trong êm ngoài ấm, Đồng nhân như phải chựu lép vế đi theo trở thành thấp vậy. Từ đời Kiến Vũ trở lại Hán Thục, Tần, Triệu, trong khoảng những năm ấy, việc binh cách đều là tương Cách vậy, lấy 2 phần làm Đại quá, theo biến Sơ Quải, 2 Hàm, 3 Khốn, 4 Tỉnh, 5 Hằng, 6 Cấu, thời gian này gồm các vua Ai Đế, Hải Tây Công, Giản Văn Đế, vì gặp Quải, Hoàn Ôn đánh nữa Yên, xấu hổ xâu xa mà mất quân thua, Quải không lợi, tức là việc binh nhung mạnh ở trước, chân đi không thẳng là lỗi, nói rằng vậy sao? Thái trái phúc đức mà giệt nước Yên được chẳng phải mạnh ương có hung Sao? Ôn chuyên quyền bỏ vua này lập vua kia, hung quấy rối quá lớn. Độc lập mà không sợ, Tạ Ân đương lấy Trạch diệt mộc, Hoàn là Cây vậy, nước đóng băng đông lại, Mộc trạch khó mà Ôn bèn mất, Ôn mất Sung thay, Tạ vương cùng với Trung cũng thờ vua Hiếu vũ, Hàm (đều) vì hết sức, trên dưới ứng nhau, đó là nghĩa Hữu Hàm, Hàm dùng trong Cấu làm An, thôi làm Thạch là Thiếu nam (trai út), có yên lặng, tượng như chắn núi, ngoại quái Hàm là Trạch, nghĩa hợp ở sông Phì, làm …(ằng) khẩu lúc quai miệng ra nói, thời Phù Kiên muốn lấy gió thổi mạnh quét là mùa Thu, An Thạch sai bọn thiếu niên cả phá đấy. Ở quẻ trai dưới gái, lợi lấy gái rồi thì khách chủ ứng, khách lợi, lấy khách vậy. Từ đó Mộ Dung nghĩ tới nhân đấy khôi phục nước lên. Tấn cũng nhân đó mà mở mang đất Trung nguyên, hầu như Khốn mà mạnh sao? Đó là Khốn ở riệu, chuộng miệng tới cùng, vợ già cùng với sỹ phu vui đẹp sao lâu được, đương khuyên tài trường Tinh (sao dài) đã theo triệu chiếc bánh trong nóng vào trong cung muốn thấy vợ được sao? Tỉnh (giấy) rét giá buốt lạnh, không thể làm trong cái độc nóng ấy, bèn lập vua An Đế để làm cái dây kéo nước giếng đầy bình. Chính sự của triều đình chỉ kịp đến Ngô Tôn Ân mà lại cướp lấy 6 huyện, Hoàn Nguyên cướp ngôi trước, Lưu Dụ lại nhường ngôi sau, tuy ở ngôi 20 năm…mất chữ…

Hàm trong Cấu tượng thân mình, ngoại quái Trạch thích đồng bóng tin Phật bỏ thân mình, cùng Thái có bầy son thơm vào mình mà lòng không được tượng của thân mình, nhà trống nước bỏ tế lễ mộng sinh, hào 3 biến về Tụy dùng Đại sinh, Khiêm lợi sâm lấn sau, hàng xóm giầu thì Bĩ. Bấy giờ lấy Thọ Xương nước Ngụy giáng xuống Quảng Lăng, Tiệm (dần dần) sao Huỳnh hoặc (sao hỏa tinh) vào Nam Đẩu, tượng Trời không những chỉ ứng một mình vào giặc, kịp đến nhà cao che không cho sáng vào, họa ở Đài thành ứng vậy. Giản Văn Đế bị bỏ do tay bầy tôi làm giặc, đạo văn võ của Hiếu Nguyên đều ở ngựa bạch áo trắng, vua Cung Đế lên ngôi, trinh dương về sau bỏ để không định. Chẳng Hằng (thường) theo đức, mà nhường ngôi cho Trần, nhà Lương bèn mất. Bắc triều nguyên Ngụy, trải 13 vua gồm 194 năm, cũng cùng mất với nhà Lương, rồi chia thành Đông Ngụy và Tây Ngụy, là thời của Tiểu quá đến Hằng, hào nhiều hối hận mà hung, hay là do giữ ngôi vị quá lâu mà hung vậy. Trải qua Dự, Khiêm, Hàm, Lữ, thành dài mà gồm tới biến gồm 5 vua, Trần Võ đến Văn Đế, Tuyên Đế hợp 32 năm, rồi mất về tay nhà Tùy. Tùy Văn Đế thôn tính thống nhất cả Chu, Tề, Trần, Lương. Từ niệu hiệu Khai Hoàng đến Nhân Thọ 23 năm, trong cảm không phải hòa bình là linh cảm có chí, bình chẳng phải sáng suốt cẩn thận mà hình ngục không để lại, hào thẳng Tiểu quá, có sự hung chim bay mắc vào lưới, cùng với ữ thượng qua chóng tổ, vua Tùy Dạng Đế giết cha làm vua, đắp vườn làm núi, xây vườn thượng uyển, chế xe đi, làm đai đồ y phục, tai đến cả loài chim. Độn đến Đông nhân, bèn đến Cấu đi tuần phương Bắc, ra ngoài cửa ải, đương ủy quân hô hào nước Hàn giết người già tiếp nối gót mà đến cúi dập trán, làm 3 quyển Tây vực đô ký, hợp 44 nước vào triều kiến, có tượng Đồng nhân đồng nội. Lại tự đem quân đánh nước Cao Ly, trời với lửa cùng nhau là ứng Cao Ly, quẻ Độn hư mà không công, không thể việc lớn trái trời, làm việc cướp trộm núp cỏ trên lăng, thành ra câu vè Dương mất Lý, hò hát mà sau cười, Đại Sư hay gặp, thiên hạ khổ về nhà Tùy mà vui về nhà Đường. Quân lại dấy lên ở Tấn Dương, gió thổi chiếu cuốn, rồi tới Hưu Bĩ đương ngôi, sao Thái Bạch điềm biến, để nói rằng bọc lấy sự xấu hổ, cũng nói rằng lìa phúc, đó là đời thình trị của vua Đường Thái Tông niên hiệu Trịnh Quán, càng sáng sủa hơn vua Cao Tổ Võ Đức vậy. Càn trên Khôn dưới, trời đất ngay tnẳng, xem quẻ rằng Bĩ hanh, đạo vua tôi ở Thái tử mất đạo, dần dần đến cớ nói, bỏ mà lập, trị hay thuận lấy Tốn, tên tiểu tự là Trĩ nê, tượng Lữ đến Ly, chiếu sáng tốt đẹp ở Cấn cửa khuyết biến. Từ nhà Tấn Tống yên vui mệnh Trời, do bởi lấy trên kịp xuống. Vả lại 10 Tiệm rất cẩn thận, giải quyết từ 3 lần 5 lượt, trừ tử hình hơn 30 điều gồm cả đổi chặt chân, đánh roi vào lưng, tha tù 390 đều được Lữ minh ý dùng việc hình cẩn thận. Đến khi Hồ Việt 1 nhà đem đất đai vui phục, theo Hàm cảm được lòng người, mà thiên hạ bình vậy. Tuy phân quẻ chủ Hàm, điềm xem qua chữ Chỉ là Vũ Thiếu vào cung, kịp đến sao Thái Bạch hiện rõ ban ngày, xem ra vị nữ vương giết nhiều người không tội, trái mệnh trời, thuần phong có nói hoặc cùng suy tượng Hàm vậy. Vua Cao Tông nối ngôi, Vũ thị lấy tài nhân vào làm Chiêu nghi, ứng chính thẳng Hàm ngoại quái Đoài làm Thủy Trạch, Cấn làm cửa khuyết, núi nước đem xông vào cung điện Vạn niên làm đắm đuối hơn 3 vạn người, bảo rằng không phải âm thịnh cướp dương là chẳng nên. Tử lập bà Vũ làm Hậu, chặt đứt tay 2 người vợ bé của vủa Vương Tiêu, thuốc độc cho vào bình riệu, bỏ Thái tử Trung mà lập em mình là Hoằng, quá lắm vậy. Ủy việc chính sự, quyền ngang với chủ nhân, đó là Hàm trung Càn Tốn, chứng triệu có vợ cả vua để thi hành mệnh lệnh đó sao. Tiếp đến quẻ của Vận Đại quá trong Tốn ngoài Đoài trung 4 thay đổi nhau Càn, Tốn, Đoài gái trưởng và gái út, Càn là vua chồng già là Tốn mộc vậy, làm cỏ tranh trắng, làm cây dương, Tốn lấy bằng đấy, cũng làm rường nóc nhà cao dài. Càn làm Kim (vàng), làm cương (rắn) bền, Đoài làm Dê theo nước làm bể đẹp lòng thời vui vẻ, loại ấy không thể nói lên hết được. Đương đời Ngũ đại quẻ chia Đại quá, hào 9-2 theo thuộc về Tốn, chựu mệnh dùng tính thị, và niên hiệu (quốc hiệu) loại này đến ứng Tốn mộc, như Tống, Tề, Lương, Trần cùng Tùy, tính là dương đều là tiêu (cỏ hoa), mao (cỏ tranh) thuộc tượng nhà Trần, nóc nhà là Tề, quá là Tốn lấy cái nghĩa về bằng nhau đấy. Tính lại của nhà Tống là Lưu, tên của Dương là Kiên, đều không Ly (hình Càn Tốn, nhà Đường lấy họ Lý thay tên Lương, ứng Càn rồng nhẩy, cũng ứng Đoài Trạch, Trạch tức là Uyên vậy, hơn đời được lòng dân, vua Thái Tông lấy tài Đại quá nhân (hơn người nhiều quá) chẳng đắp đổi Cấu ở ngôi trong, bảo có cớ tóm ức triệu dân chúng dấy lên làm chủ Càn. Quẻ của Thế chia Hàm thứ tự đương Cấu 2 tên cũng ứng. Đến như Cấu hung nữ tráng, Tốn lại Vũ nhân mà theo ở sau gặp làm cảm, âm tiến cướp quyền dương, thời Thiên dựng niên hiệu lỗi cũng lớn vậy. Phàm Vận thứ 8 này, quẻ trải qua tinh tế mà suy, tất có điều sẽ nghiệm ứng, kẻ đọc nên biết được đại ý, còn cái kiến thức phục hồi giọng hợp, giữ lại mà không bàn đến, là nên vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, Vận thứ 9 (dùng hào 3), quẻ của Vận đang là quẻ Đại quá đến quẻ Khốn. Quẻ của Thế chia quẻ Khốn hào sơ Đoài, 2 Tụy, 3 Đại quá, 4 Khảm, 5 Giải, 6 Tụng. Quẻ Đoài hào Sơ đến Khốn, âm che lấp dương, mà đương lúc suy loạn trước sau đều yếu, thời chẳng khỏi hung. Đoài hào 2 chia thành Tùy là đạo vợ cương đến hạ chủ nhu, mà đẹp lòng theo đấy, tiến thoái lưỡng nan do ở cảm tình, thành tượng nữ chủ vẫn được yên lành ăn uống. Bỉ theo Quải thời 1 âm giữ trên 5 dương mà xưng Danh, sao Chổi hiện ra, cái nghiệm 5 xe ở đây sao? Bấy giờ bỏ Đế làm Vương, đổi Đường làm Chu, Trời hầu phản, Tốn mệnh mà bốc lên ở sân hay là ở ngay sở tại để mà tin theo gọi vài lời khuyên bảo. Âm dẫu ngồi chỗ tôn, Càn cương chưa đổi, thiên hạ đều nghĩ bẻ gẫy cánh chim vẹt để vun bồi cành lá mà chưa từng quên Quải dùng cương quyết nhu. Nay đọc tờ lịch của Tân Vương mà trước làm chẳng xiết cái khí Chấn dương trong sân vua ấy là tráng (mạnh). Kịp ở phòng lăng lại khôi phục việc chính sự mong hợp trời người, trao tiết của sân vua ngôi nhà Đường phản lại chính, tin khá đẹp lòng, mà bà Vy hậu lại đương quẻ Quy muội, có cả cành dâu, tiếp cái sọt không có quả, đếm thẻ chưa hết mà bánh cuộn lại tiến. Long cơ đánh đấy giúp Vương lên ngôi, giết đến cả tông tổ Bàn Tuấn lập làm vua 2 năm. Huyên lên ngôi Đế, rõ trên dưới để định chí dân, thời Lý đấy chẳng bệnh lâu, ngôi chính giữa mà tin càng tốt lành, thời Tùy (theo) cũng không lỗi, niên hiệu Khai Nguyên thịnh trị, trên ví với nan Tring quán (Dương Khái Công) đến dùng khốn dương cương che lấp, chuộng lời nói tin sự dèm pha, Hàm (đều) với tính con gái, đẹp tình mà khinh nhờn, bà Dương phu ứng Đoài, Lộc Sơn ứng Cấn, con gái ở con trai giảo quyệt, loạn đời hiệu Thiên Bảo khởi ở bọn trai gái, trót cùng ở Độn (trốn), biến trốn Mã ngôi, Linh Vũ lưu lại, các bầy tôi thuận theo, lòng người đều giúp Đường, Lý bởi còn Bác quẻ ở các kẻ bầy tôi là Quách Lý làm lại tiến vào với quân của Vua dùng khu trục con chim phản nghịch, Chu đã mất, do đó khôi phục được Tây kinh, Phượng hoàng về, Dương Tỷ được vua yêu giúp nước; chuyên quyền quân sỹ bỏ lập, yêu không phải đạo là nuôi loạn, vì dùng không trọn, đại khái thấy vậy. Đời thẳng quẻ Dự, cho cái tên là Dự: Lợi kiến hầu hành quân, việc hình phạt trong sáng, dân phục, vì cớ lấy thuận và đông vậy. Thời không nói hết. Vậy thì quẻ của Thế chia Khốn đến Tụy mà thẳng theo hào 9-5 mà biến làm Nhu, ứng tượng trinh Hằng chẳng chết, hào 9-4 một khi nắm giữ đương Chấn, chuyên giữ thế mạnh, hào 6-5 ngôi vua quẻ Dự chẳng chế được phương Khôn, đất đai cũng bị dẫn chứng không rõ rệt. Tỉ (ví) 5 mà nghe 4 làm thì động chính ứng đấy, vả lại Cấu đắp đổi Tốn từ lúc đầu Tỉ giúp nước, tiếp sau đến Nguyên Chấn đều cùng tương hợp. Vua Đức tông đương ở yên Cách Cấu thì vô sự, theo rằng Dự kịp đến sao? không thời thành vậy. Vua Đức tông thành Bĩ cùng Đại quá đến Quải Hàm, ban đầu làm 2 thứ thuế, vơ vét bóc lột nhà buôn giầu, đánh thuế cả giá hàng, dẫn oán thành ơn, hà tiện sự khen thưởng, chẳng thương quân sỹ, so đo ơn huệ, trước sau đều nói sinh ra phản loạn, phải chạy ra ngoài để lánh nạn, ứng tượng Bĩ vậy. Tang đạo Hậu sao cố tạo ở Ly cùng Khốn, cùng thành Phụng thiên cao lớn, để phòng bị việc xin phí thưởng thắng hoặc có mất, cái mất này có liên hệ đến ứng bào tang. Thời bấy giờ xét mật như Phụng thiên, lại như Lương Châu, ngôi vua nhà Đường muốn đổ, bèn được trước Bĩ sau mừng, thu phục kinh thành đương Quải mạnh, có quân lính chớ thương xót. Phu hiệu ấu nguy bèn sáng vậy, các tướng Lý Thanh, Hổn Hàm, Xã Toại bảo rằng chẳng phải quyết chí bỏ giặc, mà Quải quái vô cựu, cùng Hàm làm cung, chợ, cả trẻ con trong 5 phương đã trình bầy mong ngóng đến gần vậy, thì Tốn gần lợi, chợ gấp 1, 2 lần, Cấn là bọn trẻ con nhỏ ở chùa liền Tốn 5 phương vậy, đều lấy hư không chựu người mà quân tử lấy nghĩa, tiểu nhân lấy của cải vậy, kẻ dèm pha dương miệng nói trên đầu gối, kẻ trung hiền bị chê ra, quân tử đi trốn. Lòng vua ưa kẻ tà, cảm sự hại chưa sáng tỏ, giết cây gỗ dần dần theo cách này. Vua Thuận Đế mắc bệnh, mất tiếng Khốn vậy, mà trước bãi cùng chợ các chính sự tệ hại cũng tức làm hanh thông, song cũng không thể quyết việc chỗ cung môn chỗ chùa đàn bà càng lấy trộm quyền, đáng dân nhân lấy liên kết nhau, cương cũng càng che lấp vậy, Lập tức truyền ngôi cho Thái tử là Hiến tông, hãy chấn hưng đường lớn dùng mưa sau, bình định kẻ tiếm loạn, Khốn mà được theo hanh thông, gốc ngọn không bệnh vì yếu đuối, mà đời suy loạn ấy đều thịnh vậy, là do dùng người đều đáng cả, đặt để không lỗi lầm, Hà Tây, Hà Sóc đánh dẹp đều có công, úy lạc dân, khuyến kích tướng, bờ cõi trị yên. Tốn vào Khảm hiểm, Tốn bằng Khảm nhọc, Kinh Thi rằng: đi vào chỗ hiểm trở, có ngăn, chắn, theo Sơ, cùng các thành lên vua. Là vận ấy tượng ấy, vua Hiến đương đấy, vì sao nịnh Phật thích Tiên, uống thuốc ở sông Liêu Bí để cầu sống lâu trái lại bị giết, là chằm giết cây sao? Kịp đến Dự: vua Kính, Văn, Vũ, Tuyên, Ý, các vua này thẳng Tỉnh, Hằng, Cấu mà trải Khảm đến Tiết, Bĩ rồi Tỉnh. Vua Mục Tông, Kính Tông hưởng ngôi không dài, lại mất hà sóc một khi vui chơi quá độ, mà lượng đầy bình, 1 đứa trẻ tối tăm bị giết mà chẳng phải ngôi vua thì khó mà lâu dài. Văn Tông lo mềm ít quyết đoán, tượng Hằng đến nội Tón mà bị chế ở gia nô, biến ở Cam Lộ mà Thiên tử chấn động sợ hãi, con lợn ít lông, dắt đi mềm mại, chót đến cùng, tốt đẹp khác, thuận ra làm gì. Vũ Tông nhanh nhẹn mà được thượng đẳng Thái nguyên, Tuyên Tông xét sự sáng suốt nghe lời nói không can không dự, chế vừa phải độ, gần người hiền xa sự vui, cũng bảo là được vậy, bèn lại yêu về thực, mê hoặc nguyên bá chẳng vào Khảm cung mà mất Đạo, hung vậy. Ý Tông đắm đuối yêu sắc vô độ đam mê, ngầm tiêu triều đình mất chính sự, kẻ canh cửa lộng quyền, tin kẻ dèm nịnh ruồng bỏ kẻ trung, dân nhân mà mở trộm cướp dấy lên, Khôn chủ dân chúng, Khẳm làm giặc cướp, bỉ trong Khôn ngoài, mà Tỉnh đến Khảm Tốn cũng bảo là trộm cướp, Phong (gió là quẻ của Thế chia Khảm, Tỉnh thẳng tới Khảm, Khảm bọn giặc cướp làm công nhân, đó là 1 biến vậy) đấy ít tuổi mà Khốn hỏng, dân Khốn về lụt nạn đói, quốc gia Khốn về nạn trộm giặc đánh cướp, vua Khốn về bức bách rời xa, như tật lê ở trong gỗ đá quấn quýt cây sắn, thay đổi lần lượt làm chỗ vua ngự. Năm Giáp Thìn quẻ ứng Sư tinh mới bình được giặc lớn, mà Bắc ty giặc ở trong còn ngang nhiên cướp xe vua. Xét đến Bỉ Tỉnh, thì Khảm trộm giặc ở ngoài, nhân tiếp Khôn Sư thì giặc cướp ở trong chiếm giứ Bắc Ty, ứng trùng Khảm. Trong thời Cấn Tốn thay đổi nhau, có kẻ hôn tự (chức canh cửa) con trưởng, làm tượng trong ngoài giặc cướp liền liền. Lúc này nhà Đường ngôi vua con ngất vậy, vua Hy Tông có chí khôi phục lại công nghiệp đời trước, uy lệnh chẳng chấn hưng, quan quân một khi tan vỡ ở Khái dụng, lại chạy đến Mậu trinh,, lại nhà khắc dụng mà Tam trấn đánh bình phục lại, lại lấy Mậu trinh mà kinh sự không giữ, trên như Hoa châu, ai bảo rằng Hoán sơ cứu ngựu mạnh là cát. Chu Lý tránh đón rước, tan chạy muốn gì, cùng cực đến nỗi lấy bạc vạch đất, mẩu sắt giữ vững cửa. Chiêu Tông mới chằm tên hung đầu sỏ, Toàn Trung lại thả binh cướp, rất thành ra giết, hào 9-6 bảo rằng: tan máu hại xa, 9-6 khó nói vậy. Vua đi chỉ để giữ hư vị 3 năm mà sắc phong, bảo phong Lương, quẻ cũng ở Giải đến Quy muội, tội không thể tha thứ. Chu Tam bội nghịch làm con chim cắt nhỏ ở quận Cao dung ứng là con cáo lẻn chỗ ngồi dân ô bị giết mà hung, quái gở sao xiết vậy. Hữu Trinh giết Hữu Khuê mà lập làm Mạt Đế (vua đến cuối cùng) không hay tự mạnh lên, sau bị Điền Trang bắn 3 mũi tên giết như lợn chó không phải dịch mà Dự thấy đấy vậy. Dự lợi hành sư, ứng về nhà hậu Đường sao? Giải hào 9-2 săn được 3 con cáo, được tên nỏ sắc vàng biến mà Dự, bèn gói cái đầu tên ngụy Lương vào miếu, hoàn lại cái tên nỏ để tế vua sánh với tổ mà làm bản nhạc Sùng Đức, sau vua Đường Trang Tông chẳng là đẹp sao? Đoài không thường giữ đức hạnh, hoang tàn về tiền của, nữ sắc, chơi bời săn bắn, chỉ kiêu ngạo, chính trễ nải, quân dân lìa lòng, những bầy tồi cũ có công bỏ đi hết, sau bị tên hát chèo giết, bậc quân tử xấu hổ. Minh Tông già mà lên ngôi vua, con nối dõi không đổi hiệu nhà Đường, làm nhiều điều thiện, điều thô đến nỗi Tiểu Khang chẳng phải Hằng, lấy 1 đức tốt lập nên chẳng dễ ấy du! Theo đến Trời chưa sinh bậc Thánh, ứng vận mà ra, mở không đủ nói, bỏ lại khen gì, ở nhà Tấn làm chúa Khiết Đan sách lập nên, tôi con như chó dê, Tề Vương trọng người quý, Hoành Khiêu Ông dặn: 10 vận họ Hoành mài gươm, quẻ là Sư: trinh, trương nhân cát. Phụ nhân dịp đến cướp phá, theo như dùng sao? Nhà hậu Hán xưng Đế, lấy cớ thiên hạ không chủ, mà trước chính ngôi vua, tại vì bấy giờ quá Khốn mà cầu sống lại, chưa phải quân tử có Giải phụ ở chân chủ tiểu nhân, cha con được 5 năm, đi ẩn mất nước. Thiên tử thời Quách Vu trung tự làm đấy vậy, bỏ người hiền mà việc nước thường có nên việc đâu. Xét Thái tổ Quách thế Tông Sài Vinh cũng xưng là Ngũ Đại. 12 vua đến lệnh chủ mà suy tôn làm trị chủ lấy đạo cứu, thiên hạ từ đó thái bình, thời Ngũ đại: Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu cũng tới trộm cướp nước tiến vua, không một mà đủ đều là ngón tay cái đó vậy, mà ngôi vua sao đóng vậy. Nhà Đại Tống dấy lên, vua Thánh nhân ra đời, chựu Cung Đế Quách Tông Huấn nhường ngôi, tước bỏ đi hơn 10 nước tiếm đoạt mà đêm lại hợp nhất. Đương lúc giúp nhà Chu bắt Hung Nô quy phục được Định Châu, lại phấn khởi đánh lấy Hà Bắc, ứng quẻ Vị tế dấy đánh, bấy giờ hạn có khen Thiên thủy Bích vậy (nước trên trời biếc). Thiên thủy là quẻ làm Tụng ở quân làm Đế phong Bích, Hỏa là đỏ vậy, Càn Khảm chủ đấy, tự Vi tế vào Tụng, đến Lý khiểm điểm Thiên tử chống phái võ nhân làm Đại quân (vua lớn) sao? Lý Đế chẳng bệnh lâu, theo đó để mà biết vậy. Lấy đức của vua chẳng như Càn, từ ĐƯờng, Lý đến Ngũ đại trải qua Khảm Giải đều 60 năm, ít gặp Cần đấy, đến đây thượng quái của Tụng là Càn đó, Hoán và Vị tế mà Khốn cũng chẳng lìa Tụng là Càn ở thượng quái, đời Thái tổ, Thái tông cùng Chân tông thẳng đấy, theo ở Nhân tông đến Anh tông, vận ở 10 quẻ thẳng làm Nhu, trong Nhu là Càn vậy, quẻ ấy gồm cả Vị tế Tiết thứ đều nội Càn biến, ngào làm Quải, Thái, Tiểu súc, hết thẩy Càn làm đó, cho nên đi vào rường cột của Càn một mình chính được đức của Vua tốt đẹp. Nhà Đại Tống từ đời Kiến long chựu mệnh Trời, đổi niên hiệu là Càn đức vốn đã là bậc Thánh làm vật thấy đấy hợp vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, Vận thứ 10, quẻ của Vận là Đại quá đến Tỉnh (hào 4), quẻ của Thế chia quẻ Tỉnh ra: hào sơ Nhu, 2 Kiển, 3 Tập Khảm, 4 Đại quá, 5 Thăng, 6 Thuần Tốn. Vua Nhân Tông Triệu Trinh năm 1023, thẳng Nhu đến Tỉnh, trải qua Ký tế, Tiết, Quải. Vua Anh Tông Triệu Thử lên ngôi năm 1064, ở ngôi 4 năm ở quẻ Thái. Vua Thần Tông Triệu Tử lên ngôi năm 1068, ở ngôi 10 năm ứng quẻ Thái đến Tiểu súc, vào Tiểu đến Ký tế. Thiệu Ung ta suy Vận-Thế đến vua Hy Ninh, ứng quẻ Nhu đến Thái rồi thôi suy chưa kịp vậy!. Vua Triết Tông Triệu Tu bèn thẳng Kiển, tự Ký tế đến Tỉnh, vua Huy Tông Triệu Cát lên ngôi năm 1101 ứng quẻ từ Tỉnh mà Bĩ, mà Hàm, mà Khiêm, vua Khâm Tông thẳng Khiêm đến năm Bính Ngọ, Đinh Mùi, cả họ đi lên phương Bắc. Vua Khang Vương gây đi Kiển lại trở về, ứng Đại quá 9-4: gây tượng đống long là tốt lên ngôi vua (nhà tốt không quấy nhiễu ở dưới) vậy, nhà Tống bèn rời về phương Nam. Khiển, lợi Tây-Nam bất lợi Đông-Bắc. Đó là chứng cớ sao? Bấy giờ đương Khiêm, lợi dùng lấn đánh, lợi việc hành quân, sau đến hoa nghị, Đại quá trong Tốn mộc, vua Tống hòa với Đoài nhà Kim mưu diệt hỏa, đến Kiển, đến Tiệm, hai vua đánh phương Bắc không trở về, bỏ biên Đô đi xuống hay như dần dần như cái cột mà thôi, bây giờ kẻ trung tiết bị đuổi giết, ngoại Bĩ khen là hiền, mượn áo quan của vua ở cung Tràng Lạc để làm lời vâng biểu làm tôi phương Bắc, chính thẳng Khảm là quẻ phương Bắc, cho nên Thủy (nước) đấu trí khác, há chẳng lấy Tập Khảm đến lần nữa mà hãm mất ấy lớn du! Truyền ngôi vua Hiếu Tông quẻ lại ở Tỉnh, cháu 6 đời vua Thái Tổ mà nối ngôi theo đương Vận chủ quái. Trải Khốn mà Sư gồm 27 năm. Quang Tông bị kiềm chế bởi bà Hậu hung tợn mà trái vua Thọ Hoàng, Khốn hào 4 đến Khảm, trong hiểm ác mà mất thuận đức. Thà Hoán mà ruồng bỏ kẻ chính dùng người tà, thời có sự lo lìa chi giải thể, giặc lớn ấy lo, thiện nhỏ lại dùng gì, Quải cùng Hàm lấy cảm vậy. Vua Lý Tông 40 năm chủ Khốn, Tỉnh, Hằng, Cấu, bấy giờ dân đang khốn vì bọn phản loạn. lại khốn về hợp Nguyên đánh Kim, Kim mất thời ứng vào quẻ “kim xa”, đổi ấp mà không đổi Tỉnh, Lâm an hỏa 83 vạn dân bỏ ấp là nước đổi vậy, mà Tỉnh cong đấy, vả Tỉnh gồm Đỉnh, Cách đều tượng Hỏa hoặc theo ứng vậy. Hằng chẳng đổi phương như Tốn dùng chính hỏa. Can Ân tự xuống lấy kẻ tiểu nhân dùng vào việc, thời bấy giờ tượng ứng Càn Nguyên, phong tục đi như gió khắp thiên hạ, hoặc lấy khí trắng như tấm vải phô bầy khắp Trời cũng là Cấu tượng vậy. Tốn là trắng, phô bầy ở Càn trời khí âm phạm lên trên, Hốt Tất Liệt phô bầy vậy. Vua Độ Tông Triệu Kỳ thẳng Tỉnh đến Thái, Thăng, trong Tốn mộc ứng nhà Tống biến mà Càn nguyên Mông Cổ dựng quốc hiệu là Nguyên kỷ nguyên là Chí nguyên, là có lấy vậy. Bấy giờ, đạo Thái ứng Nguyên mà vận Tống bèn mất, vua Cung Đế Triệu Hiển đương thẳng đến Khiêm, trong Tốn biến Cấu, trẻ con không ngôi, chẳng phải chẳng có Kiển như kẻ bầy tôi không đoái hoài đến lợi hại 1 thân, ứng với Khảm hào 3 vào hố sâu, cũng chết theo vua chết đuối ở biển, há chẳng phải trời vậy thay! Thời này, nhà Nguyên trải 9 vua, thẳng Thăng đến Sư, Hằng, Tỉnh, Cổ gồm cả trước Thái, Khiêm làm 6 biến, lại Tốn đến Tiểu súc dẫn Hoán, Cấu, Cổ gồm biến vận Nguyên đến lúc hết. Bấy giờ, đất động, núi lở, sao Chổi, mưa đá các sự biến lạ luôn thấy. Vì lấy vận đang Đại quá, quẻ Thế chia Tỉnh, thẳng Tỉnh đến Thăng, như Khôn địa tiếp Chấn, thẳng Tỉnh đến Tốn hỏa trạch thay đổi nhau Cách, trong khoảng ấy như sấm gió núi chằm, trời trăng cùng nước lửa, suốt tiết mất Hằng, Độn thấy đổ nát, hết thẩy cùng với Hội ứng. Cách chủ cách mạnh, Tốn sơ biến đến Tiểu súc, lại thẳng Càn đạo đến Cách trung đắp đổi thành Ly, họ Chu nhà Minh đương ngôi, lại theo Đại minh sao? Đương chấn hưng Cổ sấm động bão nổi đổi nhau bèn ứng Hằng, trời trăng soi lâu, mở nhà Đại minh 18 vua gồm 277 năm ngôi nước, ban đầu thời vua Hồng Vũ Tốn lợi võ trinh, sáng trí trị vậy, biến mà Tỉnh nuôi không cùng, dân dùng khuyến khích cái tưởng mà Vận thứ 10 Đại quá đến Tỉnh, quẻ biến đã khắp vòng, này ở đời Hồng võ thứ 16 năm Quý Hợi, từ đó đến Giáp Tý lại đang Đại quá đến Hằng vậy.

Đây bàn về Hội Ngọ, Vận thứ 11, quẻ của Vận là quẻ Đại quá đến Hàng (hào 5). Quẻ của Thế chia Hàng hào Sơ Đại tráng, 2 Tiểu quá, 3 Giải, 4 Thăng, 5 Đại quá, Thượng Đỉnh. Năm Hồng Võ thứ 7, thẳng Hằng Đại tráng hào Sơ, lại làm quẻ Hằng, Hằng lâu làm Nhật Nguyệt được tượng trời trinh minh. Phong trời Nhật giữa Nguyệt đầy, hoặc vui ăn cơm số trưa. Năm Kiến Văn thứ 4 chẳng chọn Vĩnh Lạc thẳng Quy muội đến Thái, vua đời Hồng Dy, Tuyên Đức Quải mà Đại hữu, chính thống thẳng Đại hữu đến Bính Thìn, đến Hằng, Tiểu quá đến Phong mà có biến thể mộc, Cảnh Thái bèn thay Hằng đến Đinh Sửu mà lại lên ngôi vua vậy, đổi niên hiệu là Thiên Thuận, thể quẻ là Chấn Tốn đổi Càn, Càn thiên Tốn thuận Chấn lại làm chủ tể mà Hằng không đổi phương, vốn là tượng vậy, đời Thành Hóa Dự Khiêm mà Hàm đời Hoằng Trì, Hàm Lữ mà Giải đến Quy muội. Đời Chính Đức từ Quy muội đến Bính Dần, rồi Dự đến Tân Tị gia Tỉnh thời Dự mà trải Hằng, Sư, Khốn, Vị tế lại vào Đỉnh đến Thái vậy, đời Long Khánh đi Thái 6 năm, vua Thần Tông lại đi Khiêm, Sư, Hằng, Tỉnh, đến dùng Cổ gồm 48 năm, đời Thái Xương, đời Thích Khởi Cổ, Tỉnh, Đại quá đến Quải cộng 8 năm, Quải mà sau Hàm, đời Sùng Trinh là hết vương triều Minh từ 1364 – 1644, thời Đại minh chiếu lâu, nhật nguyệt phản ảnh trong khoảng giữa Đoài Càn đều dùng cương che lấp, tĩnh dưỡng chẳng cùng, Hằng lâu mà chẳng thôi, cảnh vận lâu so sánh 1 với Trời, ức vạn năm dài phúc lộc vậy.

Lấy Vận kinh Thế chia quẻ thẳng Năm, lời bàn sau đồ đã rõ ràng. Nhưng quẻ về kinh Thế có chỗ không đồng nhau, người nghiên cứu cần biết “ngung phản” (ngung là 1 cạnh của hình vuông, biết 1 cạnh thì xét được 3 cạnh còn lại). Như đồ nay chép đời Nghiêu năm Giáp Thìn, vốn ở Kỷ 6 Hội Quý 180 Vận, là đời thứ 8 năm Giáp Thìn, những Giáp Tý trở về trước thì lược đi mà không chép, tức là đây lấy Giáp Tý Thế thứ 7 cũng chẳng bầy rõ, chia hợp 2 Thế làm 1 Giáp Tý, chia gặp vận quái 1 hào, như Thế là vận quái thuộc Càn, Thế quái Sơ Cấu, 2 Đồng nhân, 3 Lý, 4 Tiểu súc, 5 Đại hữu, 6 Quải, đấy là Thế thứ 8 khởi Giáp ngọ, tức là từ Giáp Tý Thế thứ 7 khởi, hợp thành Tiểu súc 1 quẻ, thời từ Tiểu súc khởi Giáp Tý thuận tính đồ tròn Phục Hy, vẫn nên trừ ra Càn Khôn Ly Khảm quẻ tứ chính, cộng được 60 quẻ Giáp Thìn chính đương quẻ Tùy, cho nên lấy quẻ Tùy làm trực niên quái vậy. Như Thế thứ 90 quẻ của Thế là Đại hữu, lại từ Đại hữu khởi Giáp Tý 11, 12 Thế quái, lại ở quẻ quái đó khởi Giáp Tý. Niên quái đã được, thì Nguyệt quái, Nhật quái cũng đều theo đó mà suy vậy.

HẾT QUYỂN 2

QUYỂN 3

LỜI TỰA

Xưa nay, sách làm sáng tỏ Đạo có Kinh dịch và Thiên Hồng phạm, vì 1 gốc ở Hà đồ 1 gốc ở Lạc thư. Hà đồ Lạc thư vốn liên hệ tượng dĩ nhiên của Trời Đất, hai đồ vuông tượng đất, đồ tròn tượng trời, mà trời có thể bọc được đất, đất không thể tóm được trời. Cho nên Thiệu Khang Tiết truyền cái học Tiên thiên, suy diễn nghĩa đồ tròn mầu nhiệm, viết thành sách Hoàng Cực Kinh Thế, lấy ngày Đông chí, nửa giờ Tý làm giờ Thiên khai, tự đó lấy đến Khôn, trừ 4 quẻ chính Càn Khôn Khảm Ly, lấy 60 quẻ làm 1 Nguyên, trải 12 Hội. Lại lấy 1 quẻ biến 6 quẻ, 60 quẻ biến 360 quẻ trải 360 Vận. Lại lấy 360 x 6 hào biến thành 2160 quẻ, mỗi quẻ thẳng tới hai đời trải 4320 đời. Lại lấy 2160 x 6 hào biến thành 12960 quẻ, mỗi quẻ thẳng tới 10 năm trải 129600 năm. Lại khởi Vận quái, lần lượt suy thuận làm quẻ trực niên, mở Vật ở Dần đóng Vật ở Tuất, mà trên suy đời đã qua, dưới ngược đời tương lai, chẳng gì là chẳng rõ ràng như trên bàn tay, trăm đời đức Thánh có thể biết được nghĩa ấy. Lại lấy 4 quẻ Càn-Đoài-Ly-Chấn làm mặt Trời, mặt Trăng, các vì Sao làm âm dương thái thiếu của thời (tức là Thái âm, Thái dương, Thiếu âm, Thiếu dương). 4 quẻ Khôn-Cấn-Khảm-Tốn trước làm thủy-hỏa-thổ-thạch, sau làm cương-nhu-thái-thiếu của đất. Thanh sướng lên ở trên Trời, âm họa lại ở dưới Đất, được gọi là xem Vật, mà âm dương tiêu trưởng của trời đất, biến hóa sinh thành của Người và Vật, bên trong là then máy của thân-tâm-tính-mệnh, bên ngoài là kinh tế về tu-tế-trị-bình, lớn rất mực là việc trị loạn hưng suy của các bậc Hoàng-Đế-Vương-Bá, nhỏ thì đến cỏ, cây, cá, sâu bọ sinh ra, khô đi tươi tốt rụng đi đều không thể vượt qua phép này. Trình Tử suy tôn Thiệu Tử có cái học trong Thánh ngoài Vương. Lưu Đẩn thuật được Hoàng Việt Châu chú thích, diễn làm Tự ngôn, trong thiên dẫn lời của Chúc thị Bật và Chu Ẩn Lão, lời nào cũng tinh diệu rất mực phát minh cho nhau, trọng về lý mà tin dùng về số. Trong thiên suy ngôi vua nhà Hán dài ngắn với đồ thanh âm sướng họa, sau cử lên một chữ “thiếu” để phát mimh cái phàm tục như thế là lý vậy mà nói việc đều ngụ ý ở trong, tiếc chưa tuyên bố rõ ý niệm về sự bí mật của Trời Đất cố nhiên không muốn tiết lậu ra khiến cho kẻ hậu tiến được nhìn cửa mà lao bước tới. Khi tôi còn búi tóc đi học, đã được nghe danh tiếng sách Hoàng Cực, khổ nỗi không tiền mua mà đọc, đến năm Mậu Ngọ mới được thấy bản sao, phủ phục mà đọc, tìm tòi ý nghĩa sâu xa, vì rộng mênh mang không thể được trong muôn một vậy, rồi thì đưa gấp vào bản khắc in, bấy giờ là mùa Thu năm Kỷ Mùi, mà tôi tuổi đã tới 60 rồi. Xưa còn nhỏ mà tập, cố sức học vài chục năm, hoặc vị tất chẳng được gì, tiếc lắm thay. Nay thuật lại nghĩa ấy, lấy Càn Khôn làm Đại phụ mẫu từ hữu sang tả, trở lại lấy quẻ Phục Cấu làm Tiểu phụ mẫu từ tả sang hữu chuyển đi cũng chỉ nắm lấy cái cốt yếu lớn mà đến chỗ sở tại tinh vi, chẳng dám phỏng đoán là lời nói vậy.

QUYỂN 3

Lấy Vận kinh Thế đã đủ, lấy Hội kinh Vận ở trước đã bầy rõ ràng. Lại chia Niên quái ở 6 Giáp, thay đổi vòng khắp ở dưới, cất lệ để thấy, chia thẳng để dùng tế nhị vậy. Bầy 1 Hội thâu tóm 5 quẻ, mỗi quẻ đều 6 hào chia làm 6 Vận lấy làm Kinh, thông 5 quẻ có 30 Vận. Tiếp tục, 1 Vận nhỏ chia theo 6 quẻ, đều theo hào ở 6 quẻ biến, làm 1 hào quản 10 năm, 30 năm làm 1 Thế, 3 mà 2 đấy, thì 60 năm làm Thế ấy, 2 lần khắp 1 Kỷ 6 Giáp, 3 Giáp trước gồm Giáp Tý, Giáp Tuất, Giáp Thân, 3 tuần Giáp này chia trước, 3 tuần Giáp Ngọ, Giáp Thìn, Giáp Dần, làm 3 Giáp chia sau, 3 Giáp trước và sau, mỗi 1 Giáp tương đương với 1 hào thẳng quẻ đến 10 năm.

Lấy Giáp Tý-Giáp Ngọ làm đầu của 1 Thế, Quý Tị-Quý Hợi làm cuối hết của Thế, 1 Vận 6 quẻ thâu tóm 12 Thế, ứng với 6 hào là 60 năm, vòng Trời đi 360 làm 1 Vận số, cho nên Vận lấy Thế làm Vỹ (dọc), Thế lấy Vận làm Kinh (ngang). Lấy Vận Kinh Thế, quẻ của Thế thâu tóm quẻ của Vận mà năm làm Thế dọc (vỹ), quẻ của năm lại thông suốt trong quẻ của Thế vậy. Theo quẻ của Thế nhất nhất suy đấy, thì quẻ của Năm theo có thể biết hết vậy. Lấy đó mà cân Nguyệt Nhật thì chia thẳng dùng quẻ, cũng không có gì khác vậy. Điều cốt yếu lớn, 1-6 làm Kinh (ngang), 6-6 làm vỹ (dọc), 6 gồm 3 tài mà lại 2 đấy, 6-6 thì gồm sách số của Càn-Khôn mà bằng đấy, theo xét vậy, 1 Vỹ về Kinh, Kinh về Đạo.

Lấy Vận kinh Thế dùng 1, Thiên quan Vận thứ 27

Kinh Nguyên dùng Giáp 1, Kinh Hội dùng Tị 6

Kinh Vận dùng Quý 180

Kinh Thế dùng Tý 2147

Kinh Thế dùng Ngọ 2155

Kinh Thế dùng Mùi 2156

Kinh Thế dùng Thân 2157

Kinh Thế dùng Dậu 2158

Kinh Thế dùng Tuất 2159

Kinh Thế dùng Hợi 2160

Đây bàn về Hội Tị, Vận thứ 30, thẳng quẻ Quải đến quẻ Càn, gồm có 12 Thế, theo quẻ của Thế chia ra quẻ Càn hào sơ biến Cấu, hào 2 biến Đồng nhân, hào 3 biến Lý, hào 4 biến Tiếu súc, thì từ đây khởi Tiểu súc đến Giáp Ngọ, thời vừa ở Càn trước 3 hào quẻ theo thẳng kể 180 năm gồm cả gốc quẻ Tiểu súc trước 3 quẻ theo thẳng kể 30 năm, đều lược đó không rõ làm hàng, đời Đường Ngu trở về trước hoang xa không chép, kinh Thế quan Vật xem 1 Trời Đất mà về xem ở Người, Người tất theo Thế (đời) giữ Vật sáng đủ trị loạn hưng suy, có dấu vết mà có thể thấy để chia mà xem. Cho nên bắt đầu ở Tiểu súc Giáp ngọ, vì đương đạo của Càn bèn Cách mà văn đức tất rõ ràng chiếu sáng ở ngay trong Kinh Thư trị xét vậy, đầu Dịch là Càn, đầu Kinh Thư là Nghiêu, Thiệu ta theo Càn, chí ấy nên suy từ hào 4 quẻ Càn biến ra Tiểu súc, chia biến làm Vận nhỏ dùng Tiểu súc hào sơ biến Tốn, hào 2 biến Gia nhân, hào 3 biến Trung phu, mỗi quẻ đều quản 10 năm, thì Giáp Ngọ 30 năm thẳng quẻ Càn, Giáp Thìn 30 năm thẳng quẻ Đại súc, đó là chia Thế quái trong dùng 1 lại chia Càn dùng Tiểu súc, lại Tiểu súc dùng Càn mỗi 10 năm thẳng 1 hào, 6 lần 6 hào vị thứ lần khắp, 6 Giáp đó vậy. Đồ của năm Giáp Thìn đời Nghiêu chia thẳng quẻ Tùy, đó là theo quẻ Tiểu súc chia quẻ Càn hào 4, lần lượt 60 quẻ, thứ đang đến (tri lai) cầu đấy, tức là được theo thẳng Năm làm quẻ gì, như Giáp Tý quẻ Tiểu súc, Ất Sửu quẻ Đại tráng, thuận thứ tự tính, đến Giáp Tuất quẻ Cổ, Giáp Thân quẻ Hàm, Giáp Ngọ quẻ Dự, Giáp Thìn quẻ Tùy vậy. Giáp Dần đến Quý Hợi tích Tốn đến Nhu, bèn cuối cùng Tiểu súc 60 năm, quẻ theo trực chia xem theo ứng, nên có “tiết tuyên” trong khoảng Trời-Người ấy. Do đó, chia Càn dùng 5 Giáp Tý khởi Đại hữu, chí Càn dùng thượng Giáp Tý khởi Quải, hàng năm theo thứ tự đi 6 Giáp, ứng với từ Nghiêu đến Thuấn, Vũ chựu mệnh ăn theo quẻ trực niên nhất nhất khá tìm. Khi xem ở dĩ vãng, khá lệ việc tới nay, cất 1 góc lên, khá biết trăm biến, Thiệu ta ước lược thấy ở đồ, theo bảo ở sau cho kẻ đọc điều cốt yếu vậy. Tuy vậy ông Trương tử hỏi 10 Thế có thể biết được không? Đức Phu tử bảo lần lượt lấy Hạ, Ân, Chu cái lẽ cùng nhân chẳng biến, cùng Tổn-Ích thông biến, việc dùng nên cho dân chúng, vì chứng cứ theo lý mà chẳng phải suy ở số vậy. Tuy số ở đó khá có kẻ cứu cũng còn nói đại khái vậy. Lại xét vua Nghiêu được “số trung”, giữ đạo “trung” làm phép muôn đời, khi trao cho cử 4 tháng Trọng, 2 ngày Chí, 2 ngày Phân, đều căn cứ lấy theo “trung” để định niên quái, gây dựng ngôi ở Bình dương từ quẻ Tùy đến Cách, trị trải thì sáng sủa, thử như kính trao việc sửa sang công nghệ dấy lên mọi việc thành vậy, như thế thì nói Hoàng cực đại trung. Ở dùng lý lẽ lịch luật, phép lại càng rõ ràng chủ mật vậy. Chu thị Ẩn nói rằng: Thần ấy là Trời Trăng theo hợp chia độ vòng trời 12 thứ vậy, 28 vị tú thứ tự mà ở. Thần chia làm 4 thì mỗi đoạn là 3, Mộc Hỏa Kim Thủy đều có 2, mà mình Thổ có 4 tự theo làm nói đấy vậy. Tự chia làm 4, thì mỗi đoạn có 7 sao, năm hành đều có 2 cùng mặt Trời mặt Trăng một mình đều theo 1 tự theo ở nói đấy vậy. Lấy Sao (tinh) để nói, Kim Thủy thời có trước mặt Trời mà mọc, sau mặt Trời mà lặn đó vậy, song sao Kim Thủy thường gần mặt Trời mà đi. Sao Mộc Hỏa thế thời có 12 năm một vòng, 2 năm một vòng, 28 mà bắt đầu một vòng. Gần mặt Trời thường nhanh, xa mặt Trời thường chậm, cách mặt Trời càng xa thì lại có cái thế hết thường lưu lại. Tùy theo đến, đều lấy theo biến để cầu, có thể nhanh hoặc chậm cùng giữa nhanh chậm đều khá được mà khảo cứu, lấy mặt Trăng mà nói thì xanh, đỏ, trắng, đen theo Đạo đều 2, cùng với Hoàng đạo mà 9, 9 mà 8 đấy làm 72 đạo, tùy theo chỗ đến, lấy theo mỗi biến cầu đấy, thời hoặc nghiêng hoặc ngay thẳng, cùng giữa sự tà chính, đều theo đó để khảo cứu. Lấy mặt Trời mà nói thì Đông-Tây-Nam-Bắc, theo đạo đều khác, cùng với xích đạo cùng giao, giao mà biến làm 2, đến 2 phần, tùy nơi chỗ đến, mỗi nơi chỗ đến lấy theo biến để cầu, hoặc dài lâu hay ngắn, cùng giữa dài ngắn, đều theo đó mà khảo cứu. Theo nơi chỗ Tứ trải phương theo đi, dẫn mối ở ban đầu, cất chính ở giữa, về lại ở sau, mà 4 mùa thành vậy, đó là việc theo lấy dấy lên. Lịch pháp thời Nghiêu, không hẳn còn đến nay, mà cái lý chưa thường chẳng còn. Ngoại thiên, Thiệu ta đã nói rõ, cho nên ở đây chỉ nói qua mà thôi. Ta xem Tam Hoàng mà ngâm rằng: Càn Khôn to lớn từ ta tuyên ta; Ngoài Càn Khôn còn nói gì nữa; Ban đầu chia đạo lớn chẳng phải đạo thường; Đầu có Tiên thiên cuối có Hậu thiên; Làm phép vi diệu Khí xem thấy dấu vết; Thu cộng rất lâu dài chẳng biết năm nào; Nếu khiến người trên đời bàn cộng nghiệp; Liệu được lại không có người ở trước. Ta xem Ngũ Đế mà ngâm rằng: Tiến lui chựu xem thiên hạ nhường cho nhau; Tỏ nói năng gì dường như vẻ ung dung; Nơi áo xiêm rủ xuống thời uy nghi thịnh; Theo sửa ngọc lụa ý tứ cung kính; Mọi vật hết thẩy noi theo chí lý; Người người tự xin lập công lạ; Bấy giờ tỏ sao được như thế; Chỉ bởi tiếng tăm giống như giữa mặt Trời.

Trang thị Hành Thành bảo: Niên quái từ đời Nghiêu năm Giáp Thìn khởi quẻ Thăng, Mông, Cổ, Tỉnh, nhưng Chúc Thị thì so bì hết sức cho là không phải, bảo là Thế quái làm Thủy Hỏa Ký tế hào 5-6, hợp với Sơn Hỏa Bí hào Sơ hào 2 làm Thiên Hỏa Đồng nhân, Lôi Hỏa Phong, Sơn Trạch Tổn, Sơn Địa Bác, 4 quẻ biến niên quái được Hỏa Thiên Đại Hữu, lấy Ký tế hợp Đại hữu, ở đồ Ký tế làm Vị tế, Tấn hợp quẻ làm … quái, hay lấy chứng nhân chính, có thể lấy vương vậy, theo vạn vật như thế lại nói: thế quái thì vua Nghiêu, ban đầu biến Đồng nhân, theo bảo rằng cùng với người mà không có ta, cho nên lấy Đồng nhân tương đương với quẻ Thái vậy. Xét Trương thị Hành Thành trở xuống theo bàn đến thấy ở đồ hậu thuyết trung phụ lục lại sẽ đính.

Lấy Vận kinh Thế dùng 2, Thiên quan vận thứ 28

Kinh Thế dùng Giáp 1, kinh dùng Hội Ngọ 7

Kinh Vận dùng Giáp 181,

Kinh Thế dùng Tý 2161, kinh Thế dùng Sửu 2162

Kinh Thế dùng Dần 2163, kinh Thế dùng Mão 2164

Kinh Thế dùng Thìn 2165, kinh Thế dùng Tị 2166

Kinh Thế dùng Ngọ 2167, kinh Thế dùng Mùi 2168

Kinh Thế dùng Thân 2169, kinh Thế dùng Dậu 2170

Kinh Thế dùng Tuất 2171, kinh Thế dùng Hợi 2172

Đây là Hội ngọ Vận thứ 1, thẳng Cấu đến Càn là 12 Thế, khởi từ vua Hạ Vũ năm thứ 8 Giáp Tý quẻ Cấu, đến vua Hạ Khổng Giáp năm thứ 12 Quý Hợi quẻ Đại hữu, gồm 360 năm. Niên quái từ quẻ Cấu, lần lượt thứ tự tính thuận số thẳng 6 vòng 6 Giáp, như theo thứ tự rằng: việc ứng thì theo Vận, chia Thế theo Thế, chia năm Đại quái Tiểu quái đều có theo, chủ ở thâu tóm mà xem, chuyển quẩn lạc đấy, kẻ đọc không nên câu nệ. Thiệu ta xem Tam Vương ngâm rằng: Một mẳnh Trung nguyên hơn vạn dặm; Không phải người đủ đức theo ở nhà Hạ; Nhà Thương chỉnh sóc hay còn rộng ra; Vua Thang, Vũ giáo mác chưa tiện dong duổi; Trạch Hỏa có tiếng mới chựu Cách; Thủy Thiên không ứng chẳng thành Nhu; Biết rõ nhân-nghĩa làm lòng ấy; Không chựu là thiếu Trượng phu ở nhân gian.

Lấy Vận kinh Thế dùng 3, Thiên quan vật thứ 29

Kinh Nguyên chọn dùng Giáp 1, dùng kinh Hội Ngọ thứ 7

Kinh Vận dùng Ất 182.

Kinh Thế Tý 2173, Thế Sửu 2174, Thế Dần 2175, Thế Mão 2176, Thế Thìn 2167, Thế Tị 2178, Thế Ngọ 2179, Thế Mùi 2180, Thế Thân 2181, Thế Dậu 2182, Thế Tuất 2183, kinh Thế Hợi 2184.

Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 2, thẳng quẻ Cấu đến quẻ Độn gồm có 12 Thế, khởi từ vua Hạ Khổng Giáp năm thứ 12, năm Giáp Tý quẻ Độn đến Đồng nhân, đến mãi đời vua Tổ Tân năm thứ 9, năm Quý Hợi, trải Giáp Tý 6 Kỷ 360, trong thời gian này thì trị, loạn, hưng, vong đều dùng theo Thế quái để chia niên quái dùng thẳng, đại khái đều theo phép trước để mà tìm.

Lấy Vận kinh Thế dùng 4, Thiên quan vật thứ 30.

Kinh Nguyên dùng Giáp 1, dùng kinh Hội Ngọ thứ 7

Kinh Vận dùng Bính 183.

Kinh Thế dùng Tý 2185, dùng Sửu 2186, dùng Dần 2187, dùng Mão 2188 dùng Thìn 2189, dùng Tị 2190, dùng Ngọ 2191, dùng Mùi 2192, dùng Thân 2193, dùng Dậu 2194, dùng Tuất 2195, kinh Thế dùng Hợi 2196.

Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 3, thẳng quẻ Cấu đến quẻ Tụng gồm có 12 Thế vậy. Khởi từ vua Tổ Tân nhà Thương năm thứ 10, từ quẻ Tụng đến Lý, đến mãi Văn Vương nhà Chu chựu mệnh làm Tây bá, quẻ năm Quý Hợi vẫn thẳng quẻ Tụng, gồm 360 năm, trong thời gian này khảo xét mà xem có rất nhiều nghiệm ứng, như Văn Vương niên quái thẳng Cổ, bị tù ở Dữu lý, đến quẻ Tụng thời cho dùng cung tên chuyên việc đánh dẹp, vị tất chẳng phải Đai lớn chựu mặc ở Tây bá, mà suốt buổi 3 lần cởi áo, ứng vào việc đánh nước Sùng vậy. Quẻ Minh di, Tụng theo lời Thoán mà rằng Văn Vương làm đấy. Có kẻ vảo rằng: Dịch như mặt Trời, mặt Trăng ở trên Trời, sáng ứng ở dưới Đất, xem theo đối sáng, không có gì mà chẳng hợp vậy.

Lấy Vận kinh Thế dùng 5, Thiên quan vật thứ 31

Lấy Nguyên dùng Giáp 1, dùng kinh Hội Ngọ thứ 7

Kinh Vận dùng Đinh 184.

Kinh Thế dùng Tý 2197, dùng Sửu 2198, dùng Dần 2199, dùng Mão 2200, dùng Thìn 2201, dùng Tị 2202, dùng Ngọ 2203, dùng Mùi 2204, dùng Thân 2205, dùng Dậu 2206, dùng Tuất 2207, kinh Thế dùng Hợi 2208.

Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 4, thẳng quẻ Cấu đến quẻ thuần Tốn gồm có 12 Thế vậy. Khởi từ Chu Văn Vương Giáp Tý quẻ Tiểu súc đến đời U Vương năm thứ 4 Quý Hợi quẻ Tốn là 360 năm, việc trong thời gian này có thể kê cứu theo càng dễ chứng thực, đó là Tiểu súc, mây dầy đặc mà không mưa từ Tây giao ta, cùng với quẻ Đại quá, ông già, kẻ sỹ, vợ qua lấy lời cùng giống nhau, như Văn Vương thờ vua Trụ nhà Ân, vua U Vương yêu nàng Bao Tự vậy, những việc khác có thể đại khái vậy.

Lấy Vận kinh hế dùng 6, Thiên quan vật thứ 32

Lấy Nguyên Giáp 1, kinh Hội Ngọ 7

Kinh Vận dùng Mậu 185

Kinh Thế dùng Tý 2209, dùng Sửu 2210, dùng Dần 2211, dùng Mão 2212, dùng Thìn 2213, dùng Tị 2214, dùng Ngọ 2215, dùg Mùi 2216, dùng Thân 2217, dùng Dậu 2218, dùng Tuất 2219, kinh Thế dùng Hợi 2220.

Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 5, thẳng quẻ Cấu đến quẻ Đỉnh gồm có 12 Thế vậy. Khởi từ Chu U Vương năm thứ 5 Giáp Tý đến Chu Uy Liệt Vương năm thứ 8 Quý Hợi quẻ Đỉnh gồm 360 năm. Trong thời gian này, bậc Vương giáng xuống bậc Bá. Xét Cấu hào 5 biến Đỉnh là Trời đất cùng gặp, cương gặp hào trung chính, vậy còn Càn hào 5 làm thành Vật thấy cùng Tượng mà Đỉnh Nguyên cát, hanh, hưởng đức Thượng đế nuôi Thánh hiền để lấy ngôi ngưng mệnh là khá vậy. Từ Đỉnh mà đến Cổ, cương trên nhu dưới, khắp vòng Trời đi trước Giáp sau Giáp, quẻ trọn thì có ban đầu, nên có việc làm chấn hưng lòng dân, nuôi đức ở Thời ấy. Sao bậc vương giả không thấy dấy lên, chỉ thấy Ngũ bá ganh đua dài mà đương đấy. Lúc bấy giờ đức Khổng tử là Tổ Vương sinh năm Canh Tuất đời Chu Linh Vương, ứng quẻ Ích thẳng đến Cấn, đến Đỉnh, đến Cổ, niên quái năm sinh lại thẳng Lý 1 thân mình, đủ đạo Hoàng, đức Đế, công Vương, mà lại Tỉnh nên sức lực Bá, mà tiến lui công hay tội đây. Cho nên đời Xuân Thu dẫu có chép nhiều việc Bá, thẳng đấy Cổ mà phản dùng trị, mà làm Tam tài Đỉnh cao trót muôn Vật, nhà đều văn võ. Thiệu ta xem Ngũ bá ngâm rằng: Ý riêng biết tôn danh, danh càng thiếu; Người người đều chạy mệnh chẳng xiết nhọc; Dàn gươm giáo sinh hoạt trong rừng; Đạo công của cải lại vào trong bụng; Dẫu thời còn hưởng sống hay yêu lễ; Nài sao Phượng hót chưa về chầu; Nhà Đông Chu trong hơn 500 năm; Than tiếc thời ấy một ông Trọng Ny! Thiệu ta lại ngâm Trọng Ny rằng: Trọng Ny sinh ở Lỗ trước ta; Cách đời Thánh hơn 1 ngàn 500 năm; Nay nay ai hay biết còn đạo ấy; Bấy giờ người ta tự ví với Trời; Hoàng, Vương, Đế, Bá làm chủ Trung nguyên; Cha con, vua tôi quyền muôn đời; Sông Hà không ra đồ ta thôi vậy; Ý tứ sửa kinh há thôi sao?

Lấy Vận kinh Thế dùng 7, Thiên quan vật thứ 33

Kinh Nguyên Giáp 1, kinh Hội Ngọ 7

Kinh Vận dùng Kỷ 186

Kinh Thế Tý 2221, Thế Sửu 2222, Thế Dần 2223, Thế Mão 2224, Thế Thìn 2225, Thế Tị 2226, Thế Ngọ 2227, Thế Mùi 2228, Thế Thân 2229, Thế Dậu 2230, Thế Tuất 2231, Thế Hợi 2232.

Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 6, thẳng quẻ Cấu đến quẻ Đại quá, gồm có 12 Thế. Khởi từ Chu Uy Liệt Vương năm thứ 9 Giáp Tý quẻ Quải đến Hán Tuyên Đế năm thứ 6 Quý Hợi quẻ Quải gồm 360 năm. Chu bị Tần giết, Tần bị Sở diệt, Sở bị Hán giết, ứng cung Gióc mà không khỏi trước sau bị suy yểu, cái hung lên quá cao, thường luôn thấy như vậy. Tần bạo mà giệt Chu nhân, Hán nhân mà giệt Sở bạo, đương chia sự kéo dài và rút ngắn, theo đó mà biết. Nói rằng: Tần giết Bá vào Dịch, Hán bá gần được là Vương. Phu Chúc thị Bí nói: Dương Hùng lấy 3 thống lịch, nghĩ Mạnh Hỷ làm ra Thái nguyên đều biết ngôi vua của nước ở pháp ngôn cuối rằng: Hán dấy 210 năm, mà Tiên thiên thời ấy biết nhà Tần không thể làm mất Hán, còn có số Hậu thiên Quang Vũ dựng lại hơn 200. Lấy số mà xét, Hán Cao Tổ lấy từ Thìn 2225 đến Ngọ 2227, mà vào cửa quan qua Giáp Ngọ vào Thìn đến Mùi 2228 mà làm Vương ở Quan trung, Thế quái được Vận dùng Thế, dùng Nguyên, dùng Thế Ký tế hào 9-5 lấy quẻ Ký tế xét đấy số 12597 ức 1200 vạn không có số nhân, lấy Hội chia ra 13 ức 9978 vạn trừ đi được 900, ôi âm dương hợp nhau mà thành vật, chiết 900 mà nửa đấy được 450, đó là Hán được hưng ngôi Vua. Ở trong trừ Nhuận mỗi 19 mà trừ 1, giảm đi 34 năm, tức là số năm của hai nhà Hán là 426 năm vậy. Thiệu ta xem 7 nước ngâm rằng: Đương lúc đường cùng, chuộng dọc ngang; Vốn không nghe lời nói nhân nghĩa; Khương bảo phá Tề còn tức Mặc; Hay thắng Hàn Triệu hết Tràng bình; Buổi sớm còn thấy chưa làm quái; Ngày Trăng giết người sao đủ sợ; Tô Tần Trương Nghi múa 3 tấc lưỡi; Chẹn họng cái thế không cầu sống. Xem nhà Doanh Chính ngâm rằng: Oanh oanh 7 nước chính chen 1 mưu; Lợi hại cùng mài chưa bèn thôi; Số đến một lòng mạnh địch; Như bốn biển máu trôi ngang; Ba ngàn khách đương thành giấc mơ; Trăm hai núi công lại biến đổi; Chớ nói bãi hầu hay để giữ; Triệu Cao vốn không phải để phong hầu.

Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 7, thấy Đại qúa đến Quải gồm 12 Thế vậy. Khởi từ Hán Tuyên Đế năm thứ 17 Giáp Tý quẻ Quải đến quẻ Đại quá năm Tấn Huệ Đế năm thứ 14 Quý Hợi gồm 360 năm. Trong thời gian này, Tây Vương Mãng cướp ngôi nhà Tây Hán, Tào Man cướp ngôi nhà Đông Hán, Tư Mã Chiêu lại cướp ngôi nhà Ngụy, giặc làm loạn (loạn tặc) nối tiếp gét nhau đều ứng vào quẻ bói “có quân không hiệu lệnh, duy gốc ngọn đã yếu, nóc nhà suy yếu, mất việc giúp đỡ, quên kính sợ đến thương xót, bèn kịp đến hung”. Xét đấy, thời Mãng, Thác, Chiêu, Viêm, cũng đều như cành khô nở hoa, sao có thể lâu dài được. Ở ngôi vua nhà Hán trước sau hai lần dấy lên, còn kéo dài yên một mình ở Tây Thục, sau chót làm chính thống, thời Tiêu Vương lại dựng lên ở Đời giữa, mà nhờ dùng cỏ tranh trắng, lại có tài vương tá từ nơi nhà tranh ra vậy, thứ đến quá niên nhất nhá khá tường. Thiệu ta xem 2 nhà Hán ngâm rằng: Nhà Tần phá non sông chiến trường cũ; Có hẹn đâu dân lại thấy làm ruộng trồng dâu; Chín ngàn lại đâm mở mang bờ cõi; Hơn bốn trăm năm sưng hiệu Đế vương; Bóc mắt đã gặp Mãng và Đổng Trác; Sửa sang chín không nghĩ đến vua Cao Quang; Bấy giờ vạn vật thịnh như thế; Thành lại bởi đâu từ ao cạn; Thiệu ta xem Tam quốc ngâm rằng: Ầm ầm chân vạc dậy tiếng sấm; Xướng to chỗ tìm được tung tích; Nhạc một phương tình chưa nổi tiếng; Đao cung muôn dặm sức khó dùng; Bàn việc bình ở Long Thạch thà không ý; Ngựa uống nước sông Hà có lòng sông vậy; Tuy rằng thời Trời cũng việc người; Ai biết ngoài việc lo mất vàng. Thiệu ta xem Tây Tốn ngâm rằng: Tiếp được bình trị hãy còn lo; Yên mà quên lo chẳng phải hay; Tài ngoài nhà nói mát nhã nhặn; Chim muông ấy việc cách phong lưu; Có dao khó mổ bụng Công Sứ; Không cấy sao được đầu nguyên Hải; Một câu vạ ở đình Tịch dương; Lộn cửa Đông kêu sóng và vũ; Theo bảo Công sứ là Giả sung; Tên tự Nguyên Hải là Lưu Uyên đó.

Lấy Vận kinh Thế dùng 8, Thiên quan vật 34,

Kinh Nguyên Giáp 1, dùng Hội Ngọ 7,

Kinh Vận dùng Canh 187

Kinh Thế Tý 2233, Thế Sửu 2234, Thế Dần 2235, Thế Mão 2236, Thế Thìn 2237, Thế Tị 2238, Thế Ngọ 2239, Thế Mùi 2240, Thế Thân 2241, Thế Dậu 2242, Thế Tuất 2243, Thế Hợi 2244.

Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 8, thẳng quẻ Đại quá đến quẻ Hàm gồm có 12 Thế vậy. Khởi từ vua Tấn Huệ năm thứ 15 Giáp Tý quẻ Hàm đến Cách vua Đường Cao Tông năm thứ 14 Quý Hợi quẻ Độn trung trải 360 năm, Tấn, Tề, Lương, Trần mà thống nhất ở Tùy lấy nhường ngôi nhà Đường, phương Bắc 6 rợ Hồ, Đông Tây hai nhà Ngụy, không để các nước tiến hiệu vua, cùng cái thang ở cành khô, cùng với hoa toàn nở toàn tàn rụng ở cơn gió Thu. Trong khoảng Đoài Tốn, gốc ngọn đều yếu, đường Càn không kéo dài, theo Thế (đời) chia Hàm Cách, bụng chân không nơi ở, cướp giết cùng úp nhau, đổi biến không thường, họ hiểu sợ đổi nhà cùng coi bỏ mà con giết cha, nhà hưởng bầy rồng mà em giết anh. Hàm phản lại Lý không? Cách nghiêm mệnh Đỉnh, hối hận không hay quên, lỗi này lớn vậy. Kẻ thức giả bấy giờ thông xem thường biến ở Trời-Người, xiết bao cảm khái vậy. Thứ đến niên quái từ Tấn đến Đường, Thiệu ta xem 16 nước ngâm rằng: Khắp dưới Trời gọi: hoàn khu ; Đại Vũ đã từng trị nước lụt ; Áo đến lúc rách, rận lớn nhỏ ; Quả dưa khô nứt nhiều bọ sâu ; Tờ sắc rằng không nhờ giặc bỏ ; Cửa đón vội rợ Hồ loạn dân ; Hy Phụ có nói chỗ để ý ; Bấy giờ chỉ thiếu Quản di Ngô. Thiệu ta xem Nam Bắc triều ngâm rằng: Đương khi thiên hạ chia Nam Bắc ; Cứ đi sinh sao thường dứt đi về ; Chỉ bậc Bá giữ điển phép tắc ; Tiêu Khang vẫn đeo hôi tanh cũ ; Tiếng tốt Lạc dương khen Thôi Hạc ; Tài lạ Giang Biểu phục Tạ An ; Hai trăm bốn năm cùng cương ngựa ; Đừng đem gì Lễ thưởng việc làm. Lại xem triều Tùy ngâm rằng: Trước tính ngày giờ đã không hay; Tiếp nối với nhau giết hại sau ; Sâu bọ nhân dân tham đất cát ; Bùn cát vàng lụa đẹp Cơ Khương ; Sánh đất ý tứ phục nơi hoang ; Đi thuyền biện Hoài Châu cùng Vị lương ; Ba mươi năm thẳng quét đất ; Không thế thiên hạ đến nhà Đường. Chu thị Ẩn lão nói: Hoàn Ôn lấy năm Bính Thìn khôi phục Lạc Dương, thời nên tự giữ, 1 năm trốn yên, 3 năm trí hướng mọi người hòa hợp nhau, rồi sau phấn khởi sức thừa thời phương Tây có thể bẻ gãy nhà Tần, phương Bắc có thể giật nước Yên, họ há có tài hơn người vậy sao? Tần chẳng qua có tướng mạnh, Yên chẳng qua có Kệ Dung, trong đều có tài, sống theo sở giúp không chính, không đủ để chính can thiệp ta. Từ Bính Thìn đến Mậu Ngọ đã 3 năm. Giáp Tý thời theo 3 năm lâu mà đến nỗi cướp vậy, ấy thời chưa từng nuôi dân, lòng dân chẳng bền vậy, chưa từng với kẻ sỹ, khí kẻ sỹ chẳng phấn chấn vậy, ai thực chủ đây. Lỗi ông Ôn vậy, năm Ất Sửu Lạc Dương bị hãm về nước Yên, lính của Trần Hựu có 3 ngàn, Trần Kính 1 ngàn, đến lúc người Yên đến bức bách thì Hựu ra 5 phần 6 mà trái đấy, còn 1 phần cùng với Kính vừa được 800 người, ấy không đủ để giữ Lạc dương, chỉ đủ để giết Kính, Kính chết thời kẻ trung dũng ở đất Lạc chết hết, thời núi Gò nguy, đó là lỗi của Ôn vậy. Năm Kỷ Tị đánh Yên không lợi, đổ tội cho Viên Chân, Chân lấy Thọ Xương vào ở Yên. Năm Tân Mùi bình được Thọ Xương, về làm sự phế lập, để hả cơn giận, có phải do người sao? Phủ Kiên giệt Yên đánh Tấn, Tạ Ân thua lấy lại Lạc dương 15 năm, lại bị Diêu Hưng lấy mất. Tân Cung Tinh Hiến đắp thành cổ, giữ trải hơn trăm ngày, sức khuất thế cùng, về sau thấy được trước không lạy Hưng, sau không trái Tần, thoát tù mà trốn sau về nước, thời theo giữ ấy chưa phải người ấy vậy, vì Tần không có viện binh. Năm ấy Kệ Dung đức lấy Thanh Châu, đóng đô ở Quảng Cô Trúc lặng lấy Chu Dịch bói nói rằng Yên suy. Canh Tuất niên thời 1 Kỷ, thế thời kịp Tý mà Nam Yên truyền Siêu giết ở năm Kỷ Dậu cũng ngõ hầu biết trước. Song Lạc dương năm Bính Thìn lại bị hãm về Tấn, thời chưa có biết trước đó vậy. Sao vậy? Cuối cùng Lưu Dụ bình Tràng an, về gấp để cướp ngôi, sai đứa trẻ con giữ, gồm cả Lạc dương đều mất về Rợ Dịch, tướng mạnh lính đinh đều bị mưu toan hết, bao năm mà bị bỏ đi 1 sớm, há chẳng thương vậy thay, nếu Dụ có lòng với Tấn, nhịn chút chẳng về trấn yên hết thẩy theo đạo chí hướng mọi người cùng hòa hợp nhau, thì người Tây Bắc sao hay kíp lấy được, vậy do 2 bề tôi bất trung nên Trung nguyên không khôi phục lại được. Do đó nói là do người vậy, không phải do Trời vậy, là lý vậy, không phải do số vậy.

Lấy Vận kinh Thế dùng 9, Thiên quan vật thứ 35

Kinh Nguyên Giáp 1, kinh Hội Ngọ 7

Kinh Vận dùng Tân 188

Kinh Thế Tý 2245, Thế Sửu 2246, Thế Dần 2247, Thế Mão 2248, Thế Thìn 2249, Thế Tị 2250, Thế Ngọ 2251, Thế Mùi 2252, Thế Thân 2253, Thế Dậu 2254, Thế Tuất 2255, Thế Hợi 2256.

Đây là Hội Ngọ, Vận thứ 9, thẳng Đại quá đến Khốn, gồm có 12 Thế, khởi từ Đường Cao Tông Lân đức năm đầu Giáp Tý quẻ Khốn đến quẻ Đoài, đến Tống Nhân Tông Thiên thánh năm đầu Quý Hợi quẻ Tỉnh gồm 360 năm, nay đến Tống Thái Tổ Càn đức năm đầu Vị tế chỉ kịp 10 đời. Bậc Nho giả trước đã qua không dám bàn đời này vậy! Xét Đường đấy 40 năm thẳng quẻ Đoài, Đoài thiếu nữ làm thiếp, thứ tự giữ vàng mùa Thu. Đường Lý Mộc thu về mùa Thu, nhận vàng theo Cách con gái, vợ được mà lỗi cùng vợ già đẹp mà khó lâu dài, tin vậy, bèn lại nóc nhà theo Vy Nạo Trạch ủy cho vây cánh khi 1 khí Chấn khởi cơ đồ thịnh, lại về Linh Vũ Hà Bồ tát Kim cương, lính con gái gối nhờ trong thời gian quan hoạn lộng quyền, ngoài phiên cướp xe vua, cái hạn về con gái và tiểu nhân trọn đời Đường vậy, tức là trước sau lan khắp qua, hai lần mất, hai lần dấy lên, đấy bởi người trung hiếu, mất bởi hoạn quan và tỳ thiếp, dương không thắng âm, đại khái thấy vậy. Đến như Lương, Đường, Tần, Hán, Chu thay đổi nhau lấn ngôi vua. Kịp đến nhà Tống dấy lên, trời sinh bậc thánh nhân, từ đấy thiên hạ thái bình. Dịch sau cùng quẻ Vị tế, Thiên tử biên niên quái mà thôi ở đây, há không có ý sao? Trộm vì xem thêm ở sau, thì vua Tống Tổ mở nước, chính thẳng Tụng làm Sư mau tốt lúc ban đầu. Lý (lên) ngôi không phải dùng đến việc binh nhung, phàm vì: đếm gốc cây dâu bền chặt (tiên hệ đến bào tang), bản tấu thay đổi, Hoán Hán đến hào, đồ Vị tế Tổ dùng sau. Đến đời Thái Tông, Chân Tông, Nhân Tông, 3 vua 1 đức là bởi vận đương Khốn mà càng hưởng vậy. Như Vận thứ 10, Thế thứ 12, thẳng Đại quá đến Tỉnh, khởi từ Tống Nhân Tông niên hiệu Thiên thánh thứ 2 năm Giáp Tý quẻ Tỉnh đến Nhu, sau đến Minh Thái Tổ niên hiệu Hồng Võ năm thứ 16 Quý Hợi quẻ Đại súc, trong khoảng giữa Tống nguyên gồm cả kim niên quái, việc ứng bậc tiên hiền, chia rõ ràng chẳng phải kẻ hậu học theo hay lấy ý riêng mà tường tận, còn thì đại khái lấy phụ vào kinh Thế quan vật cho trọn vẹn, Thiệu tử ta xem Hữu Đường ngâm rằng: Trời sinh thần võ đặt trung ương, chẳng dễ hung thần đánh đuổi được; Đời Trinh nếu không gió giữ dội; Đời Khải sao khí ngùn ngụt lên; Ngồi cao mới thấy non sông mạnh; Vào hè mới biết ngày tháng dài, trong hai trăm năm hay thống nhất; Sự tuy thành đạo vầng sáng không. Xem Ngũ Đại ngâm rằng: Khi cuối đời Đường rường vua đổ; Sinh linh thiên hạ bị nhiễu nhương; Xã tắc yên nguy lệ quân lính; Triều đình khoanh tay phương phên dậu; Mùa đông sầu lạnh vốn không thoát; Tị Mùi niên sao nhỏ còn sáng; Năm hai năm dòng, họ đổi năm; Mới biết quét trừ đợi Chân Vương. Sinh thế Thiệu ngâm rằng: Hy Nghiêu Thuấn Vũ Thang Hoàn văn; Hoàng Đế Vương Bá vua tôi cha con; Đạo lý bốn bậc Tần gây hạn; Hán Đế hai nhà, lại chia ba; Đông Tây rối Nam Bắc bởi Ngũ hổ; Nhập tính cương kỷ Trời hầu cháy; Không có Đường Tống nước không còn; Ngàn đời luôn bởi người Trung nguyên. Thiệu làm Kinh Thế nhất nguyên ngâm rằng: Trời đất lồng chở mà cao quá; Trời Trăng đi lại không nghỉ ngơi; Tuế niên trên dưới khó lường số; Một nguyên nói lý còn dễ biết; Số đến quá vạn thật mơ hồ; Sách chép dấu vết một suốt đấy; Minh trải người làm để đời sau.

Nguyên 12 có Hội, dùng quẻ Vận chia vậy, xem quẻ Thế, quẻ Thế chia vậy, xem niên quái, bèn niên quái 1 thẳng, trị loạn ứng khác nhau cớ sao vậy? Chúc Thị bảo là: thẳng niên quái cùng là quẻ ứng khác nhau, là ở quẻ trực Vận, trực Thế thay đổi nhau 5 mà thành chương, không khá làm điển yếu vậy. Hơn nữa, niên Vận ứng Trời, quanh quẩn ở Người, như Tùy mở Thái là tốt vậy. Âm theo Dương thì tốt, Dương theo Âm thì hung, dưới ra lệnh trên thường theo không thể Thái, cố đến ở trên thì hung vậy. Âm cô Dương là hung, Dương cô Âm là cát. Con sửa lỗi cha, lỗi chẳng đến: Bĩ vậy. Bĩ mà đến dùng Tùy Thái, mà đến dùng Cổ, trên xem vận trời, đạo ở quanh Càn, Bắc mà đến Nam, Nam mà đến Bắc, dưới nghiệm khí đất, đạo ở chuyển Khôn. Đó là sự kỳ lạ về nghiệm ứng, cũng tự khó lường. Vua Hán Võ đánh hung Nô quẻ Phệ được cành khô nảy hoa, thua binh ứng niên quái ở quẻ Đại quá. Đặng Ngãi vào Thục mơ thấy ngồi trên núi có nước, ứng xe tù niên quái quẻ Kiển cùng Hàm chóng Hằng lâu. Nam Bắc triều Tùy thẳng quẻ Hàm, Hán Văn Đế, Minh Thái Tổ thẳng quẻ Hằng, văn Đế tên là Hằng, hóa nên đạo lâu dài, Thái Tổ dựng niên hiệu Đạo Minh, ứng vào quẻ Dịch: mặt Trời mặt Trăng được Trời mà hay chiếu lâu dài, các loại đó có phải ngẫu nhiên sao?

Nguyên kinh Hội cất Năm thấy Tháng. Hội kinh Vận cất Tháng thấy Ngày. Vận kinh Thế cất Ngày thấy Giờ. Năm 1, tháng 12, ngày 30, giờ cũng 12. Quy giờ đầu có 8 khắc, bèn dùng đắp đổi Thế tóm tắt tượng mà xem vậy. Đắp đổi Thế, tóm tắt tượng đều 4 quẻ chia 8 khắc, Kiêu thị Ứng Hoài nói rằng: 1 giờ định đúng 1 ngày, 30 giờ là 2 ngày rưỡi định 1 tháng, mỗi tháng ngày mồng 1 giờ Tý đến ngày mồng 3 giờ Tị là tháng Giêng, từ ngày mồng 3 giờ Ngọ đến mồng 5 giờ Hợi là tháng 2. Mỗi tháng lại định một năm, mà tháng đủ định 30 giờ đúng 1 tháng. Tháng thiếu có 29 giờ cũng đúng 1 tháng. Tháng đủ thì có 360 giờ, 12 theo 30. Tháng thiếu thì 1 tháng có 348 giờ, 12 theo 29. Dẫn mà cho là phải đấy, trong 1 Nguyên lớn (đủ) nhỏ (thiếu) đều không sai vậy. Đem những điều kiện đó để tìm Nguyên-Hội-Vận-Thế, 12 cùng 30 lần lượt nhân lên, số đều cất lên. Rất nhỏ chẳng gì bằng sao, thì 30 Phân làm 360 Sao, 1 Sao thừa ra, thông qua Luật, Lữ, Thanh, Âm tính không kể Nhuận, thì từ đây trở lên đến ngày-tháng-năm đều 24 Nhuận, 24 Nhuận ấy là 360 số thừa Phân tích, sử dụng điều này bèn được phép Hỗ thể ước tượng, hay số Vận là số Ngày, số của Thế là số Thời (giờ). Cất giờ-ngày-tháng, tức là thông qua Giờ thì biết Thế, học giả tóm tắt tượng ấy mà nên vậy.

Sách Chu Lễ chép 3 Kinh Dịch: nhà Hạ gọi là Liên Sơn, nhà Thương gọi là Quy Tàng, nhà Chu gộp mà dùng gọi là Chu Dịch. Trần Hy Di bảo rằng: vua Hy Hoàng mới vạch 3 hào thành quái, chồng lên làm 64 quẻ mỗi quẻ 6 hào, không lập ra văn tự, khiến người trong thiên hạ xem tượng mà đã có thể như tượng thì cát, hung ứng khi trái tượng Trời nên cái hung phản lại. Đời sau ứng quẻ, vạch không tỏ tường, đạo Dịch không truyền dùng, Thánh nhân bất đắc dĩ mà có lời nói “Từ”. Học giả bảo Dịch chỉ dùng thế, lại không biết có vạch vậy. Xét Liên Sơn có 8 vạn chữ, Quy Tàng có 4300 chữ, Liên sơn dùng 36 chước, Quy tàng dùng 45 chước, mà tên quẻ như Khôn là Thích, Khảm là Bạc, Chấn làm Ly, Nhu gọi là Nhục,, Vô vọng gọi là Vô, Tùy gọi là Cù, Bác gọi là Bộc, Hàm gọi là Khâm,…, hào từ như Đại hữu dùng Phệ hạp gặp Đại hữu dùng Càn nói rằng: cùng trở lại ở cha, kính như vua, sở truyền chú thích, sở dẫn như cù, hữu từ, hữu hồ. Kịp đến quân tử răn đi xe, tiểu nhân răn đi không; đều là 2 Dịch. Nay từng tên quẻ Chu Dịch, âm nghĩa phần nhiều gồm như nhau, song bàn về Chu Dịch thì Càn Khôn định trước, 6 con thứ tự sinh ra giao lẫn nhau mà thành 64 quẻ, trong đó đủ 384 hào, xem cát hung cốt ở “trung - chính”, hào 2-5 dưới trên giữa 2 thể, hào 3 -4 một quẻ giữa toàn thể. “Chính” thì vị dương hào dương, vị âm hào âm, trái thế không phải là “chính”, đó là điều cốt yếu lớn vậy. Thông quá nghiệm rằng: Bỉ Hy làm Dịch, Trọng-Mạnh đưa duy Kỷ hành, Chu Văn thêm thông tiết 8, ấy 8 chuyển thứ tự 384 hào để ràng buộc cài mối Vương mệnh, cho nên “chính” là theo gốc mà muôn vật tri lý, mất chỉ hào lý mà sai tới ngàn dặm. Trọng nói ở đây là 4 giữa (mạnh-trọng-quý) mệnh đức thời Chấn-Đoài-Khảm-Ly, “duy” ấy là 4 duy, kỷ hành thời Cấn-Tốn-Khôn-Càn. Tượng-từ-biến-chiêm, Chu Công nhân tựa của Văn Vương mà cả đủ, xét đồng ý chí, không ngoài “trung-chính” làm cốt yếu. Kinh lấy “trung-chính” mà làm biến, làm giao, tả hữu quanh hợp nhau. Chúc thị nói: Càn Khôn là Đại phụ mẫu, quẻ đều đi phía hữu theo Thái dương vậy. Phục-Cấu là Tiểu phụ mẫu quẻ đều đi phía tả, bắt chước theo 4 mùa vậy. Quẻ đi bên phía hữu, 1 sinh 2, 2 sinh 4, 4 sinh 8, 8 sinh 16, 16 sinh 32, 32 sinh 64, đến chỗ trở lại sinh 17 quẻ mà lại hội số vô cực, tức là Nguyên hết lại có lý Nguyên vậy. Quẻ đi cùng cực đấy tức là Nguyên hết. Quẻ đi phía tả, từ 1 đến 2, thứ tự cùng nhân nhau, tiếp nhau, vòng quanh không manh mối, là lý năm hết lại đổi năm khác vậy. Hai phía đó nghịch thuận đi khác nhau, số dùng sai đến vạn vạn mà cùng cực, Dương duỗi ra, Âm co lại. Thiệu ta bảo Nguyên có 2, theo thuyết mà tả hữu suy đấy, tả dương hữu âm, như Cấu hào 1 biến sinh thì Phục lại được 1 dương, biến hết thời đến quẻ Quy muội, trước sau gồm 22 dương, rồi đều được Ký tế mà trai có vợ. Bỏ 4 tượng 80 âm hợp thượng thể 48 dương làm thành 112, Đông chí trở về sau lẻ thuận, dương trước âm sau, thì âm lại theo dương vậy. Khôn 1 biến sinh Cấn, được 1 âm hết 6 biến thành Tiệm, trước sau 32 âm đều được Vị tế mà gái có chồng, gồm Cấn Khảm 4 con dương, hợp với thượng thể 48 âm làm Âm (tiếng) 152. Từ Hạ chí trở về sau là nghịch, âm trước dương sau, nên dương phải theo âm. Còn 1 mà 2 làm Quải, mà 4 làm Đại tráng (đồ tròn nghịch Càn 1, Quải 2, Đại hữu 3, Đại tráng 4, Tiểu súc 5,…) đến 64 là Cấu, đều trở lại theo cung. Mặt Trời cùng Trời hợp ở Quy muội-Tiệm rất thay nhau Ký tế-Vị tế, hay Thái-Bĩ rồi lại thay nhau Quy muội-Tiệm. Quẻ Dự giao Tiểu súc làm Thái, làm Ích, Lý, giao Dự làm Bĩ, làm Tốn, mọi…mất chữ…Tụng, Tấn, Minh di biến thành Thái, Bĩ, Ký tế, Vị tế; cùng Di, Trung phu, Đại quá, Tiểu quá biến làm Tổn, Ích, Hàm, Hằng; thế nay tượng quẻ mà giao biến quanh hợp kỳ diệu khá tả hữu gặp gốc (biết suốt ý sâu kín) vậy.

Chia Thượng kinh làm 18 cung, Hạ kinh làm 18 cung, hợp làm 36 cung. Kinh Dịch thì Thượng kinh có 30 quẻ, gồm 30 x 6 = 180 hào, số quẻ trùng Thượng kinh là 4, thêm số hào trùng 180 + 24 = 206 hào. Hạ kinh có 34 quẻ, gồm 34 x 6 = 204 hào. Số quẻ trùng Hạ kinh là 2, thêm cả 12 hào trùng là 204 + 12 = 216. Đây là đồ số 36 cung. Mỗi 1 quẻ gồm 2, cùng trở đi trở lại đối nhau, khu dùng lại làm 1 cung. Đường ngày của kỳ 1 năm gồm 12 tháng, mỗi tháng chia thành 6 hậu, mỗi hậu đều có 5 ngày, như vậy 1 năm có 72 hậu = 360 / 5, số 72 này tính đôi thẻ Càn dùng trùng là 36 x 2, tương đương với tính 3 lần quẻ Khôn dùng trùng 24 x 3 = 72 vậy. Số 36 cung này, 6 theo 6, 4 theo 9, 3 theo 12, 2 theo 18 đều về 36 cung. Theo Hán Dịch, ở kinh trên bầy 18 cung tương đương với 30 quẻ, trong đó phản dịch có 6, ở kinh dưới bầy 18 cung tương đương với 34 quẻ mà phản dịch là 16, bớt dịch ấy 2, gồm 12 dùng 16 làm 28 cung, gồm 2 dùng 6 làm 8 cung, gồm 8 cung dùng 28 cung làm 36 cung, diệu với kinh trên 30 phối kinh dưới 34, quẻ không bầy bằng, hào không đều bằng, mà trên dưới đều bằng đều 18 cung, thời lấy kinh dưới Trung phu, Tiểu quá bất dịch, dùng 2 quẻ dương kinh trên Di, Đại quá bất dịch, dùng 2 quẻ bất dịch phối kinh trên với Càn-Khôn-Khảm-Ly, dùng 4 quẻ bất dịch phối kinh dưới với Chấn-Cấn-Tốn-Đoài, hỗ dịch dùng 4 quẻ. Cho nên quẻ không bầy bằng, hào không đều nhau mà gần đều vậy, theo nhiều ít làm đối nhau, hết thẩy đều hợp tự nhiên vậy. Vị tế 64 là số trùng quái, tính gồm cả 8 kinh quái tự nó ở khoảng quay về vần chuyển mà 72 số toàn vẹn vậy. Kinh chỉ 64 quẻ gồm 2 quẻ làm 1 cung, ứng chỉ 32 cung, lại thêm 4 vậy mà gồm 8 quẻ cùng bèn 36 cung. Xét trên dưới 2 kinh đều 3 khu, mỗi khu 12 quẻ có 72 hào. Càn khôn đầu khu thứ nhất, là Thái Bĩ đầu khu thứ 2, là Bác Phục đầu khu thứ 3, ba (3) theo 12 thì ở kinh trên 30 quẻ thực bao 6 quẻ ở trong phản đối trùng kiến, Hàm Hằng đầu khu thứ 4, Quải Cấu đầu khu thứ 5, Phong Lữ đầu khu thứ 6. Lại 3 theo 12 thì ở kinh dưới 34 quẻ thực bao 2 quẻ ở giữa phản đối trùng kiến, kinh trên ít hơn 4 quẻ mà quẻ sở bao lại nhiều hơn 4, kinh dưới nhiều hơn 4 quẻ mà quẻ sở bao ít hơn 4, cho nên đều 18 cung, đều 36 quẻ mà đến quân bình, thông mà nói theo phản Dịch 28 quẻ, 2 quẻ hợp 1 cung, bất dịch 8 quẻ, mỗi 1 quẻ chuyên 1 cung, chia nói chuyên danh của quẻ, 64 quẻ, 1 quẻ chỉ về 1 lần xem, hợp nói cung gồm lệ 36 cung thì 1 quẻ đều làm 2 lần xem, tuy không đổi chuyển cung, cũng đều làm 2 lần xem. Kinh trên 6 quẻ gồm 6 mà 30 thêm 6, kinh dưới 2 quẻ gồm 2 mà 34 thêm 2, cho nên số vừa tương đương vậy. Kịp đến kinh trên dương 52 âm 56, kinh dưới dương 52 âm 56, đều 108, hợp lại là 216 ứng số Càn sách, gồm 2 quẻ trùng toàn thời 432 hào, 432 này là số hào của 72 quẻ, thâu tóm làm 36 cung biến hóa. Quẻ 64 được 384 hào, lấy 24 hào của 4 quẻ, đúng hợp sách 360 của Càn Khôn, chỉ lấy hào số của 60 quẻ đương đấy, còn thừa 4 quẻ 24 hào. Hoàng cực đã tạo cho Thiệu ta lấy ý ở Hy đồ 4 chính Ly-Càn-Khảm-Khôn, 4 quẻ chính của Kinh Phòng quái khí lấy ý ở Văn đồ là Khảm-Chấn-Ly-Đoài, 4 quẻ chính này chia thẳng 24 khí, thâu tóm 72 hậu, đều chuẩn cho Đại diễn (số 50), treo 1 lần đếm 4 về kỳ (lạ) tượng, phép Nhuận cũng đi khắp Trời 360 độ 4 phân, số phân đủ của 1 độ, mà đó lại bao 8 quẻ 48 hào ở cung phản đối trùng kiến thì dựa vào 4 theo 12, kinh trên được Càn sách qua số sắp xếp làm 12 ấy 3, kinh dưới được Càn sách số cơ chứa làm 12 ấy 1 để hợp ở đương kỳ sách số chung lẻ, gồm 24 dùng 48 được 72 sách, so sánh giờ của ngày gồm thừa 6 ngày. Chính Ngu thư 400 có 6 tuần có 6 ngày lấy tháng Nhuận định 4 mùa, tháng rằng năm.. Thiệu ta tán Thái nguyên, biết phép lịch, lại biết lịch lý, trộm bảo rằng tức là tự tán (khen), xem lời nói về xem 36 cung, khá lấy biết vậy. Song trong thơ nói: Thiên căn bảo rằng Phục, Nguyệt quật bảo rằng Cấu, từ Phục đến Cấu, từ Cấu đến Phục, giữa Tý-Ngọ chia đều 32 quẻ mà đều có quẻ bất dịch, ở phía tả thì Di, Lý, Trung phu và Càn Ly, ở phía hữu thì Đại quá, Tiểu quá gồm cả Khảm Khôn, qua lại tráo trở mà suy, như Dịch số cung ở kinh trên dưới: cung ở Phục về phương tả mà phản đối quẻ hữu phương cùng cung, ở Cấu về phương hữu mà phản đối quẻ phương tả, đều 14, lại hư hợp trùng kiến dùng 4, thâu tóm cả tả hữu đều 18 cung, thời cung lấy đồ tham thác làm chỉnh tề, theo số là quân bình thì 1, thực là khí bình phân của 4 mùa, suốt 72 hậu. Mùa Xuân là cao nguyên đầu 4 mùa, lưu đi trong sự trăng sinh thu tàng, cho nên rằng 36 cung đều là Xuân vậy, đến dùng Nguyệt quật là biết vậy. Thiên căn là biết người, Hoàng cực bầy Nhân và Vật làm 32 vị, đều chia 16 bậc, là Vật thì lấy bay-chạy-cây-cỏ, dùng chạy-bay-cây-cỏ sánh với Tốn-Khảm-Cấn-Khôn, người thì là khu lấy sỹ-nông-công-thương sánh với Càn-Đoài-Ly-Chấn, đại khái khi Càn giao với Tốn làm 1, thì 1 lần biến theo lúc đầu mà làm Cấu, tán khác chia lớn làm nhỏ, lấy khoảng đến Khôn làm ngàn, ngàn thời trên mà khởi ở bay, bay dùng lớn, dưới mà cùng cực đến cỏ, cỏ dùng nhỏ, mà loài Vật khá biết. Theo Cấu đến Nguyệt quật là xem (quan) vậy, Khôn dùng giao Chấn, Khôn làm ngàn, ngàn lần biến theo lúc đầu làm Phục, thâu tóm thể dài nhỏ làm to. Lấy Khảm đến Càn làm 1, 1 thời dưới mà khởi ở thượng, thượng dùng nhỏ, trên mà cùng cực thì đến sỹ, sỹ dùng lớn mà nhân phẩm khá biết. Theo Phục đến Thiên căn là Quan (xem) vậy. Cho nên Thi rằng: “vậy tường ở trong. Thiên thứ 11”. Vì Thiệu ta xem Người và Vật, không lìa số cung dùng qua lại, ấy thể vậy. Có kẻ nói: lời nói 36 cung không nhất trí. Có thuyết lấy 12 vạch đơn 12 vạch kép đương đấy ấy. Có thuyết lấy Càn 1 đến Khôn 8 đương đấy ấy. Hợp trở đi trở lại để tìm giải này, vốn hợp để xem kỷ ý thơ đường có mỗi quẻ đều được ý thứ 36 cung, đến Cấu Phục mà bàn qua đi thì từ dưới xem lên trên, theo hào Sơ biến đến hào Trên, lộn lại thì từ trên xem xuống dưới, theo hào Trên biến xuống đến hào Sơ. Phàm 1 hào biến 1 quẻ, 1 quẻ lại được 6 hào, làm 6 lần 6 là 36, tức là hào ấy biến theo thâu tóm mà gọi đấy làm cung, như quẻ Phục thâu tóm: Khôn, Lâm, Minh di, Chấn, Truân, Di, đều 6 hào, quẻ theo thẳng là quẻ Cấu thâu tóm: Càn, Độn, Tụng, Tốn, Tỉnh, Đại quá, đều 6 hào dùng loại quẻ sở trực. Trong lúc nhàn dỗi qua lại xem ngắm quẻ Tùy mà được 36 cung, càng diễn càng nhiều, tức là khá được sinh, sinh là cái cơ không nghỉ ở Nguyên, Nguyên dùng trong cùng nối tiếp nhau mà 1, 1 xuống đến ngàn ngàn, ngàn ngàn lên đến 1, 1 đem lên Người và Vật to nhỏ đều thâu tóm ở khoảng trong, xem thuyết này mà Thiệu ta vịnh Hoàng cực quan vật ở Nguyên-Hội-Vận-Thế mà thấy lòng thiền định, không phải đem Dịch nói phiếm mà nói vậy, nghĩa tức là căn cứ ở Dịch mà suy, cũng chẳng gì mà chẳng cùng với lời nói, cùng hiệp hợp vậy, giữa lại để đợi đính sau, gồm nghĩ miệng đạo ngay. 36 cung chia trùng 6 cung, Càn-Khôn-Ly qua Khảm-Ly thông ở trên, lại chia 6, 4 lại trùng 2, Tiểu quá, Trung phu 18 cùng (ở dưới), kinh trên kinh dưới toàn 36 qua lại hào hợp 8 sơ cuối cùng, chở theo tráo trở song song bầy ra, đều là Xuân tìm 1, 1 dương ở trong quẻ. Thiệu ta điền đồ phát minh công Phục Hy, bỗng nhón lấy thẻ thần suy ý thơ, Nguyệt quật Thiên căn hỏi ông này.

Đồ tâm chứa tổng Hội. Đồ lấy số 4 quẻ làm ngang, mà trên dưới giao nhau làm dọc. 1, 2, 3, 4 là số Càn-Đoài-Ly-Chấn. 5, 6, 7, 8 là số Tốn-Khảm-Cấn-Khôn. Trong ngoài ngang đấy mà đều liên hệ lấy 2. Liên hệ ở ngoài vẫn là tròn, đồ đổi hợp dùng thứ tự quẻ. Liên hệ ở trong vốn là vuông, tròn là thẳng liền dùng thứ tự quẻ, trở đi trở lại để bầy, đều bảo rằng 1 ngang 8 dọc, là khá vậy. Ngang cùng với ngang đối, bỏ 9 ấy 4. Dọc cùng với dọc hợp, đều trùng ở 9 ấy cũng 4. Bỏ 9 ấy 4, 1 đến dùng 2 đến dùng 7 ; 6 đến dùng 6 ; 4 đến dùng 5 gồm 4 lần 9 là 36 mà mang toàn vẹn vậy, đều trùng ở 9 ấy 4, như Quải đến Bác, Lý đến Khiêm, Phục đến Cấu, Tiểu súc đến Dự, 1 thời Càn Khôn đến 9 (đồ tròn từ Càn đếm thuận hay nghịch đến 9 thì đều biến), tráo trở Đoài Cấn dùng 9, 1 thời Càn Khôn đến 9, tráo trở giao Chấn Tốn dùng 9, lệ mà tìm đấy đều được 2 lần 18 là 4 lần 9 thành 36 số, mà dọc hết thẩy lấy đủ vậy. Cho nên 8 quẻ giao lẫn, chẳng gì là không 0-9 số. Đồ hợp cả lại, trên dưới cắt mà làm đôi, thời âm dương cương nhu thái thiếu chia vậy, cũng trên dưới suốt mà 4 đấy, sen hàng ngũ lẫn lộn biến hóa là hợp vậy. Lấy lòng giải đồ này, dọc ngang như một, số thâu tóm ở Hà Lạc, lý hội ở Hy Văn, hoặc dùng đấy tùy việc mà xem, tức số mà được quẻ, nhân số quẻ mà giờ ngày định hào, lại có thần minh ở trong đó vậy.

HẾT QUYỂN 3

LỜI BẠT

Một quyển Hoàng Cực Kinh Thế, luận suy số năm xưa nay, bắt đầu từ năm Giáp Thìn đời vua Nghiêu, đều chép đạo trị loạn. Soi gương đời xưa làm khuôn phép cho đời nay, biết được lại do ở số. Trước kia, Khổng Tử san định Kinh Thư, sau cùng là Thiệu Khang Tiết làm Hoàng Cực tóm ở 1 Nguyên, trước đã biết triều nối đời mà bảo kín cái ý chưa có thể biết vậy. Lưu Đẩn chép lại Tự ngôn, rộng ý nghĩa sâu xa có công cho thế đạo, sách này mới đến chỗ nghĩa khó để làm cho sáng rõ ra, chú thích thêm, hay làm bản đồ để rõ ràng thêm, tuy chưa có thể mở rộng được ý nghĩa sâu kín, dẫu không khỏi chê là làm rối, cũng không lấy ra ngoài các thuyết. Song lấy việc xưa nay đều bàn về Dịch lý thấy Dịch là rộng lớn, chỉ ở người ta tự giác ngộ. Biết đâu người sau đọc Hoàng Cực lại sinh thêm cái ý nghĩa thần diệu mà rõ cùng Trời Đất vậy.

QUAN VẬT NGOẠI THIÊN

HÀ ĐỒ THIÊN ĐỊA TOàN SỐ

Số trời 5, số đất 5, hợp mà làm 10, số trọn vẹn vậy. Trời lấy 1 mà biến 4, đất lấy 1 mà biến 4. Số 4 này có Thể vậy, mà số 1 không có Thể vậy, ấy rằng Có Không đến cùng cực vậy. Thể trời số gồm 4 mà dụng lấy 3, không dụng ấy 1 vậy. Thể đất số gồm 4, mà dụng lấy 3, không dụng ấy 1 vậy. Cho nên, không thể chưng dụng 1 lấy cảnh huống tự nhiên vậy, chẳng chưng dụng 1, lấy cảnh huống Đạo vậy, dùng lấy 3, đó là cảnh huống trời-đất-người vậy.

Số Hoàng cực gốc ở Hà đồ, đầu tiên sáng tỏ toàn số trời đất, cử cương lĩnh (rường lưới và cổ áo) vậy. Số của Đồ toàn ở 1 – 3 – 5 – 7 – 9 là số trời gồm 5 số, 2- 4 – 6 – 8 – 10 là số đất gồm 5 số vậy. 2 và 5 hợp mà 10 số toàn vậy. Số trời đất đều 5, đều lấy 1 biến 4. Càn là trời dùng 1 mà âm dương thái thiếu chia, Khôn là đất mà cương nhu thái thiếu chia vậy. Phàm biến mà 4 tượng, tượng du! Trời đất dùng 4 Thể, rõ ở có số thoái đều 5 dùng 1 ; Thể âm ở không có, Thể thời 1 động 1 tĩnh, đều là Thể ở cùng cực ; sinh số cực ở 4, thành số cực ở 9, cũng làm 4 ấy làm có dùng cực ; đại diễn (số đại diễn có 8 cái) chưng dụng số lấy đấy, không thể thời trông 1 động 1 tĩnh, đều chẳng xét đến số cùng cực. Sinh số trống không 5, thành số trống không 10, cũng làm 5, đó là không dùng cùng cực. Đại diễn dùng khai số lấy đấy thẳng hoặc cũng ý, vô cực mà thái cực du! Bảo rằng số 5 không dùng cùng cực, thành số 10 là có dùng cùng cực, tựa như chẳng phải dẫu ý, duy đó toàn số 5 mà thể 4, Thể số 4 mà dụng 3. Càn 3 hào biến Đoài Ly Tốn, bỏ Tốn về Khôn, thời Tốn là 1 chẳng dùng. Khôn 3 hào biến Cấn Khảm Chấn, bỏ Chấn về Càn, thời Chấn là 1 chẳng dùng, dẫu như không thể dùng 1 bọc ở trong Thể, mà 4 biến hóa vẫn tự nhiên, bởi đấy mà ra chẳng dùng 1, còn ở cái chọn dùng 3, đầy rỗng đến đạo rất mực, bởi đây lấy suy, đều có 4 mà chỉ dùng 3, là sao vậy? Bốn mùa sinh vật, dùng Xuân Hạ Thu Đông, thời cùng cực vậy, bốn phương sinh sản vật, dùng Đông Nam Tây Bắc, thời hoang mong vậy, 4 thì 1 xem vật thấy trước, sau tả hữu, sau nữa thời là lưng vậy. Trời đất người chăng, chẳng phải 4, đủ dùng chỉ 3, khá biết vậy. Phương chỉ rằng đấy, nói chẳng hết ý, dẫu cảnh tượng như thế, cho nên ước lượng để nói, huống chi là vậy.

Xét số Hà đồ 5 số sinh, 5 số thành, là số Hoàng cực gần gốc đấy, sinh số là số lẻ. Lấy 1, 2, 3, 4 ghi theo thứ tự, 5 là số ở giữa, không dùng thành số, đó là số sách (thẻ gấp, việc to biến vào, cái thẻ từng mảng to gấp lại được gọi là sách). Lấy 9, 8, 7, 6 ghi theo thứ tự, sự thực số là 10, là số danh (đầy) chẳng dùng. Số sinh-thành đều dùng chỉ gồm có 4 số. 4 gập 9, được số của Lão dương, có sách số là 36. 4 gập 8 được số của Thiếu âm, có sách số là 32. 4 gập 7 được số của Thiếu dương, có sách số là 28. 4 gập 6 được sách số của Thái âm, có sách số là 24. Mà lại 6 nhân 9, 8, 7, 6 được 54, 48, 42, 36. Theo bản sách số trước, thì đều là nửa sách số thêm vào, để hợp toàn sách 18, 16, 14, 12 đó vậy. Bèn tính gần 54 ở 36 làm 10 ấy 9. gồm 48 ở 32 làm 10 ấy 8, gồm 42 ở 28 làm 10 ấy 7, gồm 36 ở 24 làm 10 ấy 6, còn như vậy 9, 8, 7, 6 đều hợp 5 với 10, để trôi đè bên trong, há chẳng phải tự nhiên sao?

Lại xét số trời đất bắt đầu 1 với 2, hợp 2 số này mới được một số “thực”, số ỷ là số dựa vào, 1 dựa 2 mà được 3, cũng như 2 dựa 1 vậy, số giữa trời đất là 5 cùng 6 hợp 2 giữa được số, Càn số chỉ 2, 50, 2, 60 vậy. Dẫu rằng số 5 và 6 là số giữa trời giữa đất hợp đó vậy, sau cùng số 9 với 10 hợp 2, sau được dụng số và thể số là 10 còn 1 mà 9 bỏ 1, cho nên 10 thì ở mà 9 thì đi vậy. 10 bỏ 1 mà 9 tức là bỏ 15, bỏ 1 mà 4 dùng tức bỏ 5, 50 cũng chẳng phải bỏ cái bao trống, dẫu như giữa 1, 4, 2, 3 thì chẳng dùng chẳng phải 5, hơn nữa 1, 9, 2, 8 chẳng dùng chẳng phải 10, chẳng dùng mà diệu dụng vậy, bèn 4 mà lại bỏ 1 vậy. Trời đất người lấy chẳng chưng dụng 1, thừa thãi dẫu rằng chưng dụng 3, là Đạo rõ rệt điều nhân, dẫu sự dùng nầy há ngoài tự nhiên đó sao? Này, 1 mà giao 4, thì 1 thực mà 1 hư, rất hư mà ngậm rất thực. 4 mà dùng 3, thì 3 động mà 1 tĩnh, rất tĩnh mà đủ rất động vậy.

Kinh Dịch có (số đầu) thực số là 13 thôi. Tham (sen vào) trời ấy 3, 3 mà lại 9. Lưỡng (hai) đất ấy gấp 3 mà 6. Tham trời lưỡng đất, mà số dựa vào chẳng phải số chính của trời đất vậy. Ỷ (dựa) là phỏng theo, là nghĩ định vậy phỏng theo số chính trời đất mà sinh vậy.

Lấy số bắt đầu của trời đất mà nói: trời 1 đất 2 mới hợp mà làm 3, đó là số gốc của Thái cực. Ta, âm dương chia 2 nghi, bên tả lẻ, bên hữu chẵn, là số gốc du! Chân (thực) là Nguyên (đầu) ấy vậy. Cho nên Dịch có số chỉ đều 3 mà thôi. 3 hợp 3 mà 9 đó là tham thiên, Càn 3 vạch, mỗi vạch bao hết đó vậy. Gấp 3 mà 6, đó là lưỡng địa, Khôn 3 vạch, mỗi vạch chia 2 đó vậy. Cho nên Càn vạch rằng 9, Khôn vạch rằng 6. 6 đoạn bớt 9 dùng 3. 3 liền thêm 6 dùng 3, số dùng đó thấy Càn Khôn số toàn thiếu vậy. Duy ấy Càn số tự 3 mà 9, mà 4 gặp 9 được 36 thẻ. Khôn số tự 3 mà 6, mà 4 gặp 6 được 24 thẻ. Lấy Nguyên kinh Hội 360 vận, gấp 10 thẻ chia 4 đấy, đều 90, nhân Càn 9 vậy. Lấy Hội kinh Vận 240 vận, cũng gấp 10 thẻ, chia 4 đấy, đều là 60 nhân Khôn 6 vậy. Phàm Tuế sai Phân Sao Ngày Tháng đầy rỗng, bởi đó mà suy, dẫu có vô cùng không có thể ngoài vậy. Cho rằng ỷ số đó là thế nào? Là đếm thẻ, số thẻ ỷ dựa vào số đó mà khởi, tức là vuông tròn vây tắt, thừa trừ thêm bớt, chẳng phải câu nệ chính số trời đất, cốt yếu đều nương nhờ nghĩ định chính số để sinh ra, do vậy “ỷ” là nghĩ định vậy, nhờ thẻ cỏ thi để nghĩ định trời đất, mà hào lý chẳng mất, Thánh nhân sở dĩ giúp ngầm thần minh đó vậy, hạ duy đếm cỏ thi, người nay tỏ rõ phép toán, mà nghĩa ỷ số khá thấy vậy.

Đại diễn Kinh Dịch là số gì vậy? Là ỷ số của Thánh nhân vậy. Số trời 25 hợp lại làm 50, số đất 30 hợp lại làm 60. Do đó 5 ngôi cùng được mà có số hợp. Thi là Tiểu diễn cho nên 50 làm Đại diễn. Bát quái (8) là qủe dùng Tiểu thành, thì 64 quẻ làm Đại thành. Đức Thi tròn, lấy số hướng trời, cho nên lần thứ 7 là 49. 50 ấy còn 1 mà nối đấy. Đức quẻ vuông, lấy số hướng đất, cho nên 8 lần 8 là 64 ; 60 là bỏ 4 mà nói đấy. Thế là số dụng, quẻ là số Thể. Dụng lấy Thể làm nền, do vậy còn 1 Thể lấy Dụng làm gốc, cho nên bỏ 4 vậy. Tròn ấy vốn 1, vuông ấy vốn 4, cho Thi còn 1 mà quẻ bỏ 4. Thi chưng dụng số 7, để làm phân trừ, cũng nghĩa còn 1, là nghĩa treo “dùng 1 bỏ 1”. Dụng số của Thi, tức 1 lấy tượng 8, thì 48 thời là thẻ của 1 quẻ. 4 gặp 12 làm 48 vậy. 12 bỏ 3 mà dùng 9, ấy 4 lần 3 là 12 là thẻ bỏ. 4 lần 9 làm 36 là số thẻ dùng. Lấy đương Càn 36 là hào Dương ; 12 bỏ 5 mà dùng 7, 4 lần 5 làm 20 là thẻ bỏ ; 4 lần 7 làm 28 là số thẻ dùng, lấy đương Đoài Ly 28 là hào dương ; 12 bỏ 6 mà dùng 6 ; 4 lần 6 làm 24 là số thẻ dùng ; lấy đương Khôn là số 24 làm hào âm ; 12 bỏ 4 mà dùng 8 ; 4 lần 4 là 16 là thẻ bỏ ; 4 lần 8 làm 32 là thẻ dùng. Lấy đương Khảm Cấn 24 hào lên quẻ trên 8 âm làm 32 hào. Cho nên 7-9 làm dương, 6-8 làm âm. 9 là số cùng cực của dương, số cùng cực thời phản lại, cho nên làm biến, Chấn Tốn không thẻ ấy, lấy đương số chẳng dùng. Trời lấy cương làm Đức, cho nên nhu ấy chẳng thấy. Đất lấy nhu làm thể, cho nên cương ấy chẳng sinh, ấy lấy Chấn Tốn chẳng dùng được vậy.

Lấy số giữa trời đất nói, xem số thì số quẻ đều có thể biết. Đại diễn đếm Thi mà thành quẻ. Thánh nhân ỷ vào số tham thiên lưỡng địa mà sinh ấy vậy. Nguyên Hà đồ hợp 25 thiên số làm 25 Thi số, hợp 30 số đất làm 60 là số quẻ. Ở 5 ngôi cùng được mà đều có hợp, thời 5-6 làm giữa trời đất hợp 10 đấy, còn đó vậy, trăm ngàn khá biết vậy. Số Thi và số Quẻ đều nhân đấy, 5 làm Tiểu diễn Thi, 1 diễn mà 4, 1 và 4 hợp làm 5, 2 và 3 cũng làm 5, nên 5 mà 10 dùng là diễn lớn Thi, diễn thành kinh bầy quẻ 64 mà được 1 vậy, trải 18 biến, được quẻ nhân đôi, ấy rằng đợi số thành, dẫu kinh quái thời 8, 8 lần biến mà lẻ chẵn chia, thái thiếu lập nên, mới thành “thể” của hào, đủ quẻ tượng 9 đến 10, 8 lần biến, hợp những cái nhỏ thành cái to, tức là nhân đôi đó vậy. Cho nên 8 làm Tiểu thành của quẻ, 8 gập 8 thành bèn to. Thi số dùng 49, đức thi tròn, lấy 7 lần 7 hướng số trời, rỗng 1 chẳng dùng, rằng 50 còn 1 mà nói đấy, vì Thi lấy 7 đủ số cùng vậy. Càn 1 thời dùng lấy “thể” làm nền, không “thể” mà dùng không kèm. Quẻ 64 dùng 60, đức quẻ vuông, lấy 8 lần 8 hướng số đất đủ 4 bèn toàn, rằng 60 bỏ không mà nói đấy. Vì quẻ lấy 8 vòng khắp “thể” của số, bỏ 1 thời “thể” lấy dụng làm gốc, gốc tròn thì 1 mà gốc vuông thì 4. Thi dùng 7, 7 thẻ 49, mà thẻ Càn thực dùng 36, số thừa 13, dẫu 1 thời 4 dùng 3 là 12 vậy. Cái nghĩa còn 1 mà chẳng phải trước còn dùng 1, lấy mà treo đấy cũng bỏ 1 ở trong, 7 lần 7 chẳng chọn cũng dùng, là khá thấy vậy. Nhật dẫu toàn thể làm 12 ấy, 4 trừ treo 1 số, chỉ kẻ lấy 8 quẻ 6 hào đương đấy, lấy mỗi vị 8 quẻ cách đồng đều 48, thời Thi chưng dùng vừa cũng quẻ hợp, tóm làm 12 mà 4 nhân đó vậy. Trong 12 bỏ 3 dùng 9, đương thẻ Càn bỏ 5 dùng 7, đương Đoài Ly bỏ 6, đương thẻ Khôn bỏ 4 dùng 8, đương Khảm Cấn 4 mà nhân đấy, thời trong 48 bỏ 4, ấy 3 dùng 4, ấy 9 đương Càn chưng 36 là hào dương bỏ 4, ấy 5 dùng 4, còn 7 đương Đoài Ly chưng 28 là hào dương bỏ 4, ấy 6 dùng 4, mà 6 đương Khôn chưng 24 hào âm bỏ 4, ấy 4 dùng 4, mà 8 đương Khảm Cấn chưng 24 hào, gồm quẻ trên chưng 8 âm làm 22. Phàm thẻ bỏ, dùng gấp lên mà 4 vậy, chỉ ở Khảm Cấn gồm quẻ trên là ở đâu? Thửa quẻ dưới đều 24, quẻ trừ hào 12, bỏ 4 dùng 8, hợp 8 ở 24 thời 32 vậy. Lại xét Đại diễn 7 làm Thiếu dương, 4-7 thuộc trai thứ 3, mà đấy lấy Đoài Ly đương đấy, 8 làm Thiếu âm, 4-8 thuộc gái thứ 3, mà đấy lấy Khảm Cấn đương đấy. Ở đây dường như nhặt thẻ chẳng hợp, hoặc xét do vua Hy nói tả dương hữu âm, có thuyết riêng biệt còn vậy, đến dùng 7-9 làm dương, dùng đương hào dương, 6-8 làm âm dùng đương hào âm ; nhặt Thi dùng 9-6, mà không dùng 7-8, ấy 7 dương dùng tiến mà chưa đến cùng cực, mà 9 thời là số cùng cực của dương ; ấy 8 âm dùng tiến, cũng chưa đến cùng cực, mà 6 thời là số cùng cực của âm. Cực thời phản lại, phản lại thời biến, 9 lần biến làm 8 mà không dùng 1 vậy ; 6 lần biến làm 7, mà không dùng 1 vậy. Cho nên 6 tới cực thì Khôn biến Chấn, 9 tới cực thì Càn biến Tốn, quẻ Cấu quẻ Phục đương giao, cực trở lại thì hầu mà biến đó vậy. Nếu nói rằng Chấn-Tốn không có thẻ, mà không phải không có “thể”, Chấn theo Càn mà nhu nhiều, trở lại phụ ở Khôn mà dùng Khảm-Cấn, đức của trời chủ cương nên nhu ấy chẳng thấy, thần là nơi chọn của Nhật Nguyệt Tinh vậy. Tốn theo Khôn mà cương nhiều, trở lại phục ở Càn mà dùng Đoài-Ly, đức của đất rất nhu, nên cương ấy chẳng sinh, đã làm hết Thủy-Hỏa-Thổ vậy. Thể của trời đất đều 4 mà chỉ dùng 3, không dùng ấy 1, Chấn-Tốn lấy đương số không dùng, dẫu có thể cũng như không vậy.

Dương số 1, âm số 2, âm dương tương hợp, 1 thêm 2 bằng 3, tích của 3 phân theo 4 hướng. Phía Đông cung Chấn là 3, 3 nhân 3 là 9 là số của cung Ly, 3 nhân 9 vằng 27 thì 7 là số của cung Đoài, 3 nhân 7 bằng 21 thì 1 là số của cung Khảm, 3 nhan 1 bằng 3 thì lại quay về cung Chấn phía Đông là 3.

Số âm bắt đầu từ 2 hướng Tây Nam cung Khôn, 2 nhân 2 được 4 là số cung Tốn, 2 nhân 4 được 8 là số cung Cấn, 2 nhân 8 được 16 thì 6 là số cung Càn, 2 nhân 6 được 12 thì lại quay về cung Khôn số 2.

Bàn về thẻ Thi dùng biến dụng 2 lão 9-6, đều 4 nhân đấy, số thẻ Càn được 216, Khôn được 144 (4 x 9 x 6=216=12 x 18, 4 x 6 x 6=144=12 x 12), hợp làm 360, âm dương dùng thuần đó vậy, để dùng năm (đương cơ) dùng ngày 6 Tý, Thiếu dương 7 Thiếu âm 8 như trước nhân 4, Thiếu dương được 168, Thiếu âm được 292, cũng hợp làm 360 âm dương lẫn đó vậy. Theo thẻ của Càn Khôn, chỉ dùng Càn 9 Khôn 6, lấy Nguyên kinh Hội, dùng thẻ Càn dụng 4x9, gồm Đoài Ly dụng 4x7 lấy vòng khắp độ trời, lấy Hội kinh Vận, dùng thẻ Khôn dụng 4x6 gồm Khảm Cấn dụng 4x8 để chia quẻ đất. ôi, Tốn thời Càn dùng biến mà vào Khôn, cho nên Càn “thể” 4 mà chẳng liệt vào Tốn dùng Đoài-Ly, đó là dùng số dương gộp vào mà dụng đấy, ấy Càn chẳng dùng Tốn, bèn dụng Chấn thời còn thế vậy, lấy đang dùng được mà hãy còn non, còn suy yếu để phụ vào Khôn loại vậy. ôi, Chấn thời Khôn dùng làm biến để vào Càn, ấy Khôn chẳng dùng Chấn, bèn dùng Tốn khởi còn như vậy, lấy âm chứng còn khỏe mạnh mà phụ vào Càn loại vậy. Cho nên, dẫu thẻ đều có thể chẳng dùng, đó chỉ là trộm lấy ý mà thôi, Khôn mà dùng Chấn, Càn mà dùng Tốn, dùng hay chẳng dùng, hứa lấy nghĩa vậy.

Dịch thời Càn dùng 9, vì vậy thẻ dùng cũng 9, để lấy ứng với 4 mùa thì 4 hợp 9, 1 mùa gồm 90 ngày, 4 lần 9 thời vòng khắp 36 vòng mà 4 mùa thành vậy. Khôn dùng 6, thẻ dùng cũng 6, ấy 4 lần 6 lấy sách 4 mùa, một mùa đều sai số 6 ngày, 4x6 thời 24 khí mà 4 mùa trải qua vậy, quân bình về điều này, Khôn thuận tiếp Càn, Càn 9 mà dương đầy, đều lấy Khôn 6 mà âm hư, dẫu có đều tiết khí như vậy, thì cũng là điều khó tưởng tưởng nổi. Thiệu ta nói rõ trái luật các sách, Hoàng cực xem trời lấy Nguyên kinh Hội, xem đất lấy Hội kinh Vận, số chẳng lìa 9-6 mà dùng để thừa-trừ đấy vậy.

Thi số chẳng lấy 6 mà lấy 7, là sao vậy? Là dùng để phân thừa (nhân) vậy, bỏ phân thừa thời 6, thì số thẻ 36 vậy, lấy số 64 quẻ là thẻ để dùng cho năm Nhuận, còn khi dùng số Thi 7x7= 49, thì 60 quẻ là số thẻ của năm không Nhuận vậy, là đạo của Thi số 36 + 24 = 60 vậy, bởi lẽ khi treo 1 như tính cho 1 năm Nhuận vậy. Quẻ thẳng bỏ 4 dùng 60 là sao vậy? Là do trời biến mà đất bắt chước theo đấy, tức là bỏ 1 thì quẻ bỏ 4 đó vậy. Là sao vậy? Là nói về “thể” của 1 quái vậy, ví như nói về quẻ Càn gồm 3 hào dương, là “thể” gốc 1 vậy, khi biến hào 1 thành quái Tốn, là “thể” thứ 2 vậy, khi biến hào 2 thành quái Ly, được “thể” thứ 3 vậy, khi biến hào 3 được quái Đoài, thì được “thể” thứ 4 vậy, như vậy có 1 “thể” gốc và 3 “thể” biến, gộp lại là 4 vậy.

Thi lấy 7, đủ 7 lần 7 là 49 thẻ, sao không lấy 6 lần 6 là 36 là cớ sao vậy? Bởi vì 36 thời 4 lần 9 dùng số thẻ của Càn, phân lưỡng được 13, dụng đủ 12 bỏ 3 thời còn 1, khi số danh 10 bỏ 1 dùng 9 thẻ, hay 12 bỏ 3 dùng 9 thẻ, thì đều có 1 để phân thừa còn lại vậy. Khi dụng số thẻ của Càn, thì Lão âm, Thiếu dương, Thiếu âm đều là số thẻ dựa vào số thẻ của Càn vậy. Lấy 360 thẻ vòng khắp năm, thì thừa 24 thẻ, là đương thẻ tháng Nhuận vậy, thẻ năm Nhuận bảo rằng 13 tháng, Nhuận 1 năm bảo rằng dùng năm thừa chứa 12 ngày đó vậy, nên nói Thi dùng bỏ đi trống rỗng ấy 1, hợp khí đầy sóc (mồng 1) trống rỗng mà được đó vậy. Cho nên, thẻ Thi toàn số 50 chỉ dùng 49, Thi 4 mà tương đương 1, là 50 rỗng còn 1, tức là nói 4 vậy. Thi tròn mà Thần là Thiên (Trời) dùng để biến quẻ, vuông mà trí (Khôn) đất bắt chước, đất Bắc dưới trời biến, 4 lấy tương đương 1, vuông theo tròn làm nên, thời dùng 1 mà bỏ 4, bỏ 4 là Càn-Khôn-Khảm-Ly vậy.

Số Cơ (lẻ) gồm 4 số là 1, 2, 3, 4. Số sách (thẻ) gồm 4 số là 6, 7, 8, 9 hợp nhau mà làm 8 số, lấy ứng với phương thì số dùng 8 biến. Số về lẻ hợp treo có 6, rằng: 5 với 4 thì 4 vậy, 9 với 8 thì 8 vậy, 5 với 4 thì 8 vậy, 9 với 4 thì 8 vậy, 5 với 8 thì 8 vậy. Để ứng số trên, dùng ở 9 mà 10 chẳng dùng, 5 thời 1 vậy, 10 thời 2 vậy, cho nên bỏ 50 mà dùng 49 vậy, Cơ (lẻ) chẳng dùng 5, thẻ chẳng dùng 10, có hay không chỉ dùng số cùng cực vậy, đây lấy số huống chi là tự nhiên vậy.

Đây phát minh không thể dụng 1, huống chi là tự nhiên, vốn là ý trong trống không của Hà đồ, số cơ lẻ mà số thẻ chứa đựng vậy. Nói về số Cơ (lẻ) lấy 4 làm cùng cực, bỏ 5 chẳng dùng. Nói về số Sách, lấy 9 làm cùng cực, bỏ 10 chẳng dùng. Đó gọi là số vô “thể” vậy. Mà 5 thì Trời dùng 1, với 10 thì Đất dùng 2, khi trời đất hợp lại thời dùng 3 vậy, lấy “Không” bao “Có” thực đủ 7 phân, 7 lần 7 là 49 là lấy “Có” mà “thể” lại “Không”, chẳng gì chẳng phải, huống chi sự của trời đất, chẳng phải có ý riêng an bầy bố trí ở khoảng giữa ấy vậy.

Số về cơ hợp trao, được 5 với 4, 4 thời số sách 4-9 vậy, gần 9 với 8, 8 thời số sách 4-6 vậy, được 5 với 8, 8 được 9 với 4, 8 thời số sách 4-7 vậy, được 9 với 4, 4 được 5 với 4, 8 thời số sách 4-8 vậy. Làm 9 ấy 1 biến lấy ứng Càn vậy, làm 6 ấy 1 biến lấy ứng Khôn vậy, làm 7 ấy 2 biến để ứng Đoài với Ly vậy, làm 8 ấy 2 biến để ứng Cấn với Khảm vậy. 5 với 4, thì 4 bỏ số treo 1, thời 4 lần 3 là 12 vậy, 9 với 8, 8 bỏ số treo 1 thời 4x6 là 24 vậy. 5 với 8-8. 9 với 4, 8 bỏ số treo 1, thời 4x5 là 20 vậy. 9 với 4-4. 5 với 4, 8 bỏ số treo 1, thời 4x4 là 16 vậy. Cho nên bỏ số 3, 4, 5, 6, để thành sách 7, 8, 9, 6 vậy. 9 tiến làm 36 đều số dương vậy, đó là dương trong dương. 7 tiến làm 28, trước dương sau âm, đó là âm trong dương. 6 tiến làm 24, đều số âm vậy, đó là âm trong âm. 8 tiến làm 32, trước âm sau dương đó là dương trong âm vậy.

Số về cơ hợp treo đều là chọn 9, 6, 7, 8 để Càn-Khôn-Đoài-Ly-Cấn-Khảm sẽ thấy chứa ở trên mà chẳng kịp Chấn-Tốn không thẻ đó vậy. Ở 9-6 thì Càn Khôn dùng biến đều 1. Ở 7-8 thì Đoài-Ly, Cấn-Khảm dùng biến đều 2, mà dẫu ban đầu đều là 5, nên 9 hợp số quẻ vậy. Số bỏ đầu tiên treo 1, tóm đấy làm 4x3, 4x4, 4x5, 4x6 mà làm 12, 16, 20, 24, thông quẻ chọn 3 lần biến, số bỏ đi là 3, 4, 5, 6 để thành 7, 8, 9, 6 mà thẻ số được định vậy. Xét Càn dùng 9 thì Chấn trước, Khảm Cấn sau, tức là biến hào từ hào Sơ, hào 2, rồi tới hào 3 vậy, ở đây số đều theo 7. Xét Khôn dùng 6, thì Tốn trước, Ly Đoài sau, số đều theo 8. Khi lấy Ly Đoài dùng biến thuộc 28, lấy Khảm Cấn dùng biến thuộc 32. Hoàng cực có phép thông lệ riêng, mà ở ngoài khác phép thường, để làm rõ sự biến hóa vậy, đợi đính chính vậy.

Dương được âm mà sinh, âm được Dương mà thành, do vậy số Thi 4 mà 9, số quẻ 6 mà 10 vậy. Ví như thân và cành của cây cũng lẫn lộn vậy, Can làm thân cây lấy 6 chọn để hết, mà Chi làm cành cây lại lấy 5 chọn để hết, số Thi toàn thẻ dương 36 hợp 28 làm 64 vậy. Số quẻ bỏ 4, nên thẻ âm 24 cùng hợp 32 làm 56 vậy. 4 mùa chỉ ở 3 tháng, 1 tháng chỉ ở 30 ngày, mà đều bỏ số Thần (vì sao), bởi vì 8 lần 8 dùng quẻ 64 mà không biến đó là 8, còn khi dùng biến đó là 7 lần 8 làm 56, dẫu có chọn nghĩa cũng ở đây mà thôi.

Thi chọn dùng 49, dương 9 âm 4, dương được âm bèn sinh, rằng 9 được 4 bèn sinh Thi vậy, 4 đây là lưỡng (hai) đất dùng để gấp bội, 9 đây là tham (sen vào) trời dùng để nhân vậy. Quẻ chỉ dùng 60, ấy 6 với 10 ngờ ở không dương, mà 6 gấp bội trời 3 với dương cùng số. Cái lý 6 sẽ dùng dương, thành 10 sẽ dùng âm, nên nói âm được dương bèn thành là đúng vậy. Cho nên 4 mà 9 ấy là dụng số của Thi, 6 mà 10 ấy là dụng số của quẻ vậy. Còn như thân cây (Can) làm dương, cành cây (Chi) làm âm, cùng lẫn lộn giao nhau, số thân cây (Can) đều 5 mà ghi vòng khắp ở Tý-Dần-Thìn-Ngọ-Thân-Tuất, thời làm 6 Giáp, mà lấy 6 trọn để hết. Số cành cây (Chi) đều 6 mà nguyên thứ tự ở Giáp-Bính-Mậu-Canh-Nhâm dùng làm 5 Tý, thì lấy 5 trọn để hết. Nếu lấy Chi dùng 6 trọn để hết, Can dùng 5 trọn để hết, để nói dương được âm hoặc âm được dương sao? Đó là nhân lấy thuyết cũ mà bàn vậy, là ý 6 can lai lịch, 5 chi chia lìa như vậy.

Trộm lấy 5 sinh 5 thành, sinh làm số Cơ, thành làm số Sách. 4 bầy số sinh ở trong số Cơ, tựa như âm tiến đến dương vậy, huống chi Thi lấy 4 làm Cơ dương, làm Sách dương, 9 bầy số thành ở trong số Sách, thì dường như dương mà phụ về âm vậy. Phép của Thi lấy 9 làm chẵn, nên làm thẻ âm, lấy đó mà nói bảo rằng: 4 dương được 9 âm bèn sinh, 9 âm được 4 dương bèn thành. Còn lẻ được chẵn mà sinh, chẵn được lẻ mà thành, nên bảo rằng 4 mà 9, là nói về Thi đó vậy. Đức Thi tròn mà Thần vậy, như số quẻ 8 x 8=64, dùng chỉ 60, so sánh với Can-Chi cũng lẫn lộn, ấy 6 là nửa số Chi, ấy 10 là toàn số Can, ở phép quẻ 6 làm hào âm, 6 mà 10 đấy, tựa như lấy Chi theo Can, mà số can 10 tóm số Chi 2 x 6. Ở âm dương thì cùng đợi nhau, mà lý sinh thành chẳng thay đổi. Cho nên lấy ngay nghĩa 6 trọn 5 để mà minh chứng vậy, 5 là nửa 10, 6 mà 10, tới quẻ nói quẻ, đức quẻ vuông lấy trí vậy. Số tròn thông, số vuông định, thuyết này đã biện rõ rồi vậy.

Một năm 4 mùa, 1 mùa 3 tháng, 1 tháng 30 ngày, 4 mùa là số “thể” của 1 năm vậy, tháng 30 ngày là số “dụng” của 1 tháng vậy, “thể” tuy đủ 4 mà 1 thường không dụng vậy, cho nên dụng chỉ ở 3. Số “thể” thường chẵn như 4 hay 12, còn số dụng thường lẻ như 3 hay 9. Số to thường chẳng đủ mà số nhỏ thường đầy, là sao vậy? Đấy là số to thường không thể thấy, mà số nhỏ thường khá thấy, cho nên mùa chỉ ở 4, tháng chỉ ở 3, mà ngày đầy ở 10 vậy, ví như con người, chi thể 4 mà ngón tay có 10 vậy, cũng như phía trước, phía sau cùng tả hữu, cũng 4 vậy. Mặt trời lúc hiện lúc chìm ở Bắc, cùng cực ở 6 mà thừa ở 7, trời thể số 4 mà dụng 3, đất thể số 4 mà dụng 3, trời khác đất, đất khác trời, mà cái khác này là do phần dư của ngày và đêm dài ngắn có khác nhau vậy. Lấy trời 3 mà đất 4, trời có 3 Thần (sao) đất có 4 hành vậy, còn như hành Hỏa của đất lúc ẩn lúc hiện, là nguyên nhân tạo ra phần dư của ngày và đêm vậy.

Nói về thẻ Thi dùng 7 thừa 7, đều dụng số trời mà tôn dương, cho nên hợp số thẻ Thái dương với số thẻ Thiếu dương là 36 + 28 = 64 thẻ hợp với số quẻ là 64. Hợp số thẻ Thái âm với số thẻ Thiếu âm 24 +32 = 56 thẻ, là số quẻ toàn âm tóm nhau ở chính biến. Trời đất đều có 4 chính mà làm quẻ bất biến, nên chỉ ở 56 thì 8 bỏ 1, ấy 8 bỏ 1 là nghĩa bởi 4 bỏ 1 vậy, là bỏ số Thần vậy (sao). Trời có 4 mùa, mùa chỉ 3 tháng, tháng chỉ 30 ngày, đấy tức là Thiên Thần (sao) chẳng thấy. Càn Đoài Ly Chấn gồm 4 quẻ, mà chẳng dùng 1 đó là Chấn làm Thần vậy. Thế cho nên, mùa có 4, theo số thể tháng ngày đều dùng 3, theo dụng số và thể số đều đủ 4, dụng số bỏ 1, ấy 1 thường chẳng dùng, dùng chỉ ở 3, ấy 3 nhân thời 9, bởi vậy 3 tháng cộng 90 ngày mà thành 1 mùa, 1 năm 4 mùa mà chỉ dùng 3, bỏ 1 là lúc trời đất bế tắc mà thành mùa Đông vậy. Lấy 1 ngày mà nói, 3 giờ Hợi-Tý-Sửu, lấy 1 năm mà nói, 3 tháng Hợi-Tý-Sửu, đều ở số bất dụng vậy. Nên nói, thể số của trời đất đều 4, dùng ấy 3, chẳng dùng ấy 1, đây khá xem vậy.

Duy số có chia to nhỏ, mà to thường chẳng thấy đủ, nhỏ lại thường thấy đầy, nghĩa ấy ở đâu? To bao bọc mọi cái nhỏ, nhỏ dẫu đầy mà chẳng khá thấy, mọi cái nhỏ chia, to bao bọc to, không gì chẳng có thể thấy theo đầy vậy. Nên năm tóm mùa mà mùa chỉ 4, mùa tóm tháng mà tháng chỉ 3, đều chẳng đầy 10 ngày từ Giáp đến Quý bèn đầy 10 ngày vậy. Mùa như chi thể người chỉ có 4, ngày thì như ngón tay đầy 10, chi thể to mà ngón tay thì nhỏ, to chẳng thấy đầy mà nhỏ thường thấy đầy, nghĩa là như thế. Theo thể số 4 mà tóm bàn đều làm số lớn để xem, theo dụng số 3 mà phân tích bèn đều làm số nhỏ để xem, hay nói số lớn xem thể, số nhỏ xem dụng. Số dụng chẳng ra ngoài số thể, thực biết vậy.

Mở cửa Trời, thì âm đi vào mà Dương đi ra, theo đó ngày dần dần dài ra, đêm dần dần ngắn lại, khí hậu từ lạnh chuyển dần sang ấm nóng. Vào cửa Đất, nghĩa là Dương đi vào mà âm đi ra, theo đó thì ngày dần ngắn lại, đêm dần dài ra, khí hậu từ nóng ấm chuyển sang giá lạnh. Trời Đất đóng mở tạo ra giao khí giữa Thiên Địa, là đầu mối khí hóa âm dương vậy.

Nói dùng lấy 3 gồm Trời-Đất-Người, theo độ Trời ra vào ở Đất để mà xem vòng khắp độ Trời, nửa ở trên Đất, nửa ở dưới Đất, đều 182 độ nửa mạnh, lấy Nam-Bắc chia đều 91 độ, 4 phân độ dùng 1 nửa mạnh. Trời từ Nam đến Bắc cho cùng cực ra, mà đầy ở trên Đất ấy, trừ 36 độ ngoại, thì ở phía đầu Nam thường thấy, phía đầu Bắc thường ẩn, ẩn thì chẳng gồm được phần dư ở trên, do vậy ẩn chỉ cùng cực ở phần chính dùng 6, mà thấy gồm phần dư thời đầy dàn mà 7 vậy. Hà đồ 1 hợp 5 thành 6 ở Bắc thường u mờ chẳng thấy, theo số lấy 6 mà cùng cực. 2 hợp 5 thành 7 ở Nam thường sáng mà lợi thấy, Càn 2 dùng rằng thấy vậy, nói dư ở 7, theo số lấy 7, dự ở 6 cùng cực mà ra ẩn lấy thấy vậy. Cho nên muôn vật cùng thấy ở Ly, mà cùng về cất dấu ở Khảm. Đồ vua Văn và đồ vua Hy dùng 1 Trời đương Càn ở Nam, Thần (sao) âm tiếp Khôn ở Bắc, thuyết u mờ hiện thấy 6, còn 7 rõ như mắt thấy vậy. Đến như biết trước, tối sau, mà qua loa tả hữu, người đều bỏ 1 dùng 3 cùng Trời Đất không khác, cho nên lấy huống chi vậy. ôi, số Trời Đất đều thể 4 dụng 3, mà cùng nhau làm khác lẫn nhau. Trời khắc đất, ấy là phần Trời âm dương Thái Thiếu mà khắc đi Thiếu âm, cho nên Chấn chẳng dụng mà thiên thần (sao) chẳng thấy. Chấn âm nhiều mà không phụ phận Đất vậy, cho nên nói Trời khắc Đất. Đất khắc Trời, đó là phân Đất cương nhu Thái Thiếu khắc đi Thiếu cương, cho nên Tốn không dùng mà đất đá không sinh, Tốn dương nhiều mà trên phụ phận Trời, cho nên nói Đất khắc Trời. Lấy hai khắc cùng so sánh, mà Trời khắc ấy ở Đất, Trời không dùng mà về dùng Đất, Chấn còn nạp ở Khôn, như Trời chủ về ngày, Đất chủ về đêm, bớt phần dư dương ở ngày, mà chuyển hết về phần đêm, như Tý, Sửu, Dần về phần ngày mà vẫn còn ở giờ đêm dày chưa hết, ấy phần ngày dùng theo tài thành, đến phần đêm dùng theo chịu. Đó là Trời dương dùng 3, nhật-nguyệt-tinh hiện ra mà “thần” ẩn, 3 ngôi sáng đều hội ở “thần”, nên Trời dụng 3 “thần”. Như Đất tuy khắc Trời, bỏ Tốn không dùng, thì cũng không thể nói bỏ phần dư sáng sớm mà về ở ngày, Đất tuy bỏ Tốn mà thủy-hỏa-thổ-thạch, 4 ấy đều đi, đó còn khá thấy, mà không phải thiên thần (sao) dùng ẩn mà chẳng thấy, ví vậy. Đất thấy 4 hành, dẫu thấy rất rõ mà không ẩn, mà dấu ở đó với trong cây, hoặc nửa hiện nửa ẩn, đương khi dùi cây đánh đá để lấy, làm dũng rất nhiều, dẫu như Chấn thần (Sao) ở đêm theo thần vậy thay.

Trời dùng biến 6, 6 theo 6 được 36, làm Càn 1 hào dùng thẻ, chứa số 6 hào cộng được 216. Đất dùng thể 4, 6 theo 4 được 24, làm Khôn 1 hào dùng thẻ, chứa số 6 hào, cộng được 144. Theo 2 lệnh dùng thẻ, bèn 1 vạn 1520 (360x32). Nói về thể thời Trời chia mà làm Đất. Đất chia mà làm muôn vật, mà Đạo thì không thể chia. Theo trọn cùng thời muôn vật về Đất, Đất về Trời, Trời về Đạo, bởi vậy mà quân tử quý Đạo. Nói Đất dùng thể 4 là nói Đất dùng thể gấp đôi làm 4.

Lấy 32 làm số của thiên thần (Sao) Chấn, thì số của Càn là 216 x 32= 6912, số của Khôn là 144 x 32= 4608, hợp cả được 11520 là số thông chứa đổi, thẻ trên dưới 2 thiên, đều hết ở đây vậy. Nói về hợp 2 số Lão sách, theo 2 thiếu 32, nhân theo số thẻ còn ấy vậy, nhưng Thiếu tóm ở Lão, dùng Lão mà không dùng Thiếu, lấy số này mà đương với số của muôn Vật. Càn cha Khôn mẹ tượng Trời-Đất, 2 Thiếu tóm 3 trai 3 gái, tượng muôn Vật, đều gốc ở Thái cực trong khoảng động-tĩnh 1 âm 1 dương dùng bởi Đạo, tức là theo số để nói về thể vậy, thời Trời 3 chia đôi làm Đất, cho nên Trời 9 Đất 6, Trời 36 Đất 24, đều 3 phần chia 2, Đất tiếp theo ở phận Trời, trước gấp 3 gấp 4 cũng 9 đấy, cho nên nói rằng Trời chia mà làm Đất, theo sinh muôn Vật thời Đất tiếp theo Trời, mà lại chia các số theo chịu đôi, tùy ở Thái, Thiếu, Cương, Nhu, diễn ấy làm vạn, cho nên nhà trước ấy là Càn, nhờ sinh ấy là Khôn, đất chia mà làm muôn vật, theo đây thì biết vậy. Thẳng nhanh chóng thì Hà đồ Trời 1 chia làm Đất 2, đại diễn chia 2 ấy là tượng đôi, gồm treo 1 nhặt 4 về lẻ, treo thẻ dùng 49 mà doanh lấy 18 lần biến, số muôn vật Trời-Đất tóm đủ ở đây. Lấy thứ bậc theo thứ tự mà nói, đến sinh Vật 1 âm dương, âm dương 1 Thái cực, Thái cực tức là Đạo, khá chia ấy số trong Đạo, chẳng khá chia ấy Đạo trong số, tán khác thời muôn vật, muôn cực toàn thế, thời muôn vật 1 cực vậy, lại chia gì du! đại diễn rỗng 1 để ẩn tàng dùng, Đạo cố nhiên còn ở trong đó vậy, nên nói dùng trọn dùng xét sau muôn vật chứa số 2 thiên trên dưới, về ở Khôn số thẻ 24 mà dùng 6, về ở Càn số thẻ 36 mà dùng 9 vậy, đó là số về của Càn Khôn đều 4 thể vậy. Số Trời thẻ 36 tóm mà về ở trống rỗng 1 là số tàng ẩn, dùng mà thấy với cực làm thể dùng Đạo, bèn biết Đạo ở giữa 1 động 1 tĩnh, số khá suy mà xét, số chẳng khá hết, đồ bầy ra mà xét, đò chẳng khá tìm, quân tử quý đấy, nói chẳng lìa ấy vậy.

Biết 3 theo 4 là 12 vậy, 2 theo 6 cũng 12 vậy, 2 theo 12 là 24 vậy, 3 theo 8 cũng 24 vậy, 4 theo 6 cũng 24 vậy, 3 theo 12 là 36 vậy, 4 theo 9 cũng là 36 vậy, 6 theo 6 cũng là 36 vậy, 4 theo 12 là 48 vậy, 3 theo 16 cũng là 48 vậy, 6 theo 8 cũng là 48 vậy, 5 theo 12 là 60 vậy, 3 theo 20 cũng là 60 vậy, 6 theo 10 cũng là 60 vậy, đều là phép tự nhiên vậy.

Lão dương số lẻ dùng 4 đều lấy 12 nhân lên, ban đầu lấy 3 theo 4, 2 theo 6 đều 12; 4 theo 6, 3 theo 8, 2 theo 12 đều là 24; 4 theo 9, 6 theo 6, 3 theo 12 đều là 36; 6 theo 8, 3 theo 16, 4 theo 12 đều 48; 3 theo 20, 5 theo 12, 6 theo 10 đều là 60. Đố đều là phép tự nhiên. Năm 12 tháng, 24 khí, tháng lại đều 30 ngày, 1 từ 6 khí, 1 khí 6 biến, nhặt thẻ Thi trừ treo thời 48 thẻ, 8 vị đều 8 quẻ gồm 48 hào, 6 Giáp 5 Tý vòng quanh ghi 60, tất thảy theo đây mà định số.

Lấy suy cơ “tham - lưỡng”, ỷ số nói 4 cùng 9 và 6 cùng 6, mà Lão dương thẻ chỉ nói 4 theo 9, không nói 6 theo 6, đó là dương dùng 9 vậy. 9 lấy dương, 6 gồm âm, nửa của 6 để mà dùng đó vậy. Quẻ biến 1 Trinh 3 Hối, quẻ dưới Trinh làm quẻ gốc, quẻ trên Hối làm quẻ biến. Quẻ biến trước 4 vị, làm trời gồm 4 quẻ Càn-Đoài-Ly-Chấn. Quẻ gốc sau 4 vị làm đất gồm Tốn-Khảm-Cấn-Khôn. Lão dương quẻ Càn thể trùng 8 x 3 là 24 vạch dương (Thuần Càn, Trạch Thiên, Hỏa Thiên, Lôi Thiên, Phong Thiên, Thủy Thiên, Sơn Thiên, Địa Thiên, tổng hào dương quẻ trên là 12, hào dương quẻ dưới là 24, đây là cốt lõi của mọi thuận toán), gồm thể ngoài 8 quẻ có 12 vạch dương, hợp cả thể trong thể ngoài là 24 +12 là 36, theo thể trong vốn 24 hào dương, 6 theo 4 dùng rằng dương, 6 theo quẻ biến, 6 mà lưỡng đấy, tức 6 mà 2 đấy, chỉ làm âm 6 dùng nửa, bèn hợp 9 theo 4 của quẻ biến mỗi 1; 6 thêm 3 làm 9, 4 theo 6 đều thêm 3 vào thì được 4 x 9 làm 36, 3 này là nửa của 6, 6 gồm 3 làm 9. Số Khôn sao 1 lại không như vậy? Khôn dùng 6 vị làm Càn, gồm biến thể trên về vị thứ, trừ hào Sơ và hào Thượng, chỉ còn 24 thẻ, không phải 9 là khá nói vậy. Lấy thể trên dưới 2 quẻ chính biến mà nói, hào đều 3 âm 3 dương, ngôi vị Sơ- 3-5 là của dương, ngôi vị 2-4-Thượng là của âm. Phàm làm 6 hào 6 vạch, thì hào 5 hào 6 là Trời, hào Sơ hào 2 là Đất, hào 3-4 là Người, nói quẻ 3 vạch thì hào 3 hào 6 là Trời, hào Sơ hào 4 là Đất, hào 2-5 là Người, đều gồm 3 tài mà đôi đấy, cho nên đều 2 vậy. Tóm mà nói, trong âm dương 2 nghi đủ 3 tài, Trời-Đất-Người đều có đủ ở trong âm dương. Trời-Đất-Người đều đủ 3 tài, đủ 2 nghi âm dương đều có ở trong Trời-Đất-Người vậy. Rằng 2 quẻ âm dương đều 3, đôi mà ỷ (dựa) 3, rằng 6 hào, Trời-Đất-Người đều 2, tham (sen) mà ỷ đôi. Rằng âm dương đều có Trời-Đất-Người, đôi mà ỷ 3. Rằng Trời-Đất-Người đều có âm dương, 3 mà ỷ đôi, đó là thuyết tham lưỡng ỷ số vậy.

Xét quẻ 6 vạch, thì vị trí hào 1-3-5 là trên Trời, vị trí hào 2-4-6 là dưới Đất, như vậy Trời-Đất đều gồm 3. Người có đủ ở Trời-Đất, bèn gồm 4 khi bỏ hào Sơ và hào Thượng, trong đó hào 3-5 nửa hợp Trời, hào 2-4 nửa hợp Đất. Có thể nghĩ Người ở trong khoảng Trời-Đất theo để mà lập cùng Trời-Đất vậy.

Nói về “hào số”, thì “dương thất chi tĩnh thủy vô Khảm”, “dương thất” chỉ hào Dương trong quẻ Khảm vì là số 7, số 7 là số Thiếu dương, là số khởi đầu dương số. “Dương cửu chi động thủy vô Chấn”, dương cửu là hào Dương trong quẻ Chấn vì là số 9, số 9 là số Dương thịnh tới cực. “âm bát chi tĩnh thủy vô Ly”, âm bát chỉ hào âm trong quẻ Ly vì là số 8, là số Thiếu âm, là khởi đầu của số âm. “âm lục chi tĩnh thủy vô Đoài”, âm lục là số chỉ vào hào âm quẻ Đoài, là số 6 là tinh túy của âm, là số cực âm.

Dương số 1 dưới diễn đấy mà 10 là loại 10 Can. âm số 2 diễn đấy mà 12 là loại 12 Chi. 10 Can là Trời vậy, 12 Chi là Trời-Đất vậy, Can-Chi sánh Trời-Đất đều dùng vậy. Cán có nghĩa là Cán (thân cây) là dương vậy.Chi có nghĩa là cành, là âm vậy. (Một thân cây gọi là dương, nhiều cành tán gọi âm). Can 10 Chi 12 đó là trong số dương có âm, trong số âm có dương vậy. 1, 10, 100, ngàn, vạn, ức,… làm Cơ (lẻ), số Trời vậy. 2, 12, 20, 12 trăm, 20 vạn, 12 ức, … làm chẵn, số Đất vậy. Thi 4 tiến đấy thời trăm, quẻ 4 tiến đấy thời trăm 20 (120). Trăm thời 10, trăm 20 thời 12 vậy.

Số dương 1, số âm 2, 10 Can thời 1 diễn mà 10, Giáp đến Quý là loài tuần ngày vậy. 12 Chi thời 2 diễn mà 12, Tý đến Hợi là loại 12 tháng vậy. 10 đôi theo 5, 12 gấp bội theo 6, Can làm Trời, Chi làm Đất, mặt Trời thì Sao là dương sánh Can, mặt Trăng thì Thần là âm sánh Chi, Trời-Đất đều dùng vậy. 10 số Can thì Giáp-Bính-Mậu-Canh-Nhâm là 5 Can dương, Ất-đinh-Kỷ-Tân-Quý là 5 Can âm, đó là trong số dương có âm. 12 số Chi thì Tý-Dần-Thìn-Ngọ-Thân-Tuất là 6 Chi dương, Sửu-Mão-Tị-Mùi-Dậu-Hợi là 6 Chi âm, đó là trong số âm có dương. Tới Can-Chi mà Trời-Đất dùng 5-6 số giữa lập dùng số thấy vậy. Do vậy mà có thể diễn tới vô cùng, biết 1 diễn mà 10, 10 diễn mà 100, càng diễn tới vô cùng thì vẫn không lìa 10, số 1 và số 10 lần lượt tích lũy, vốn số trời mà lẻ vậy. 2 diễn mà 12, 12 diễn mà 120, càng diễn tới vô cùng đều dùng gồm 2, đều chẳng lìa 1 với 12 lần lượt tăng thêm, vốn số Đất mà chẵn vậy. Số Trời 25, Thi 4 tiến được số Trời là 100, số Đất 30 thẻ, Thi 4 tiến số Đất là 120. Như vậy, 100 coi là 10, 120 coi là 12, diễn ra đấy càng nhiều, giữ lấy đấy thì càng buộc lại vậy.

Số 50 chia đấy thời làm 5 theo 10, khi tham dùng lưỡng đấy thời làm 6, đôi Đất lại lưỡng đấy làm 4, đó là Trời-Đất chia số Thái cực vậy. Khí này là nhà của Thần vậy. Thể ứng là nhà của Khí vậy. Khí lấy 6 biến, Thể lấy 4 chia, Thể 4 mà biến 6, bao gồm thời cùng Khí vậy. Khí biết tất là 6, cho nên là 360 vậy.

5 là nửa 10; 10 là gấp của 5, thông 5 cùng 10, 10 mà 5 cùng 5, không gì chẳng phải 10, phương Chi 1 với 9, 2 với 8, 3 với 7, 4 với 6, có 1 chẳng hợp làm 10 sao? Như lưỡng theo tham Trời thì làm 6, lưỡng theo lưỡng Đất thì làm 4, hợp Trời cùng Đất theo đôi số, đều lấy động-tĩnh chia Thái cực dùng thành số. Thái cực rỗng ở giữa. 50 tức theo số vậy. Rỗng 1 không dùng, theo diệu mà dùng như vậy là rất mực vậy. Khi nói dùng 6 với 4, lại gồm dùng nghĩa với Thể. Khí dương làm Trời là nhà của Thần, mà Thần là Khí linh diệu nơi biến hóa. Thể âm làm Đất, lại là nhà của Khí vậy, Khí làm Thể nơi chỗ lưu động đầy đủ vậy. Khí tuy là nhà của Thần, khi biến lấy 6, 6 gấp Thiên tham, Càn vận 6, 6 mà biến vòng khắp. Thể tuy là nhà của Khí, theo chia lấy 4, 4 gấp Địa lưỡng, Khôn chứa 4, 4 mà chịu thành vậy. Cho nên, 6 Khí Trời lấy thần diệu muôn vật mà buổi trăng ứng đấy 4 Thể. Đất lấy Khí hợp, tiếp Trời mà vật tượng nhân đất, xét đấy. Lấy Thể cùng Khí gồm vậy, nên Khí biến, tóm lấy 6 vòng khắp, 6 nhân theo 6 mà 1, 10, 100, 1000 đấy, tuy trải 360 vận còn như 360 ngày vậy.

Trời 6 Đất 4. Trời lấy “khí” làm “chất”, lấy “thần” làm “thần”. Đất lấy “chất” làm “chất”, lấy “khí” làm “thần”, duy Người có đủ gồm muôn vật mà làm muôn Vật dùng thông, nhe tiếng chim muông lấy theo loài mà điều bầy đều theo 1, chẳng gì chẳng hay đó là Người vậy. Suy đến việc khác cũng chẳng việc gì chẳng thế, duy Người được Trời Đất giao cho để chịu mệnh, còn tất cả các loài khác thì không vậy. Đời người thực nói là rất quý vậy. Trời Đất cùng theo quý mà không tự quý là trái với lẽ của Trời Đất, sự chẳng lành chẳng gì to bằng vậy.

Lại nhân đồ tròn 6 theo 4 mà nói, Trời gấp “tham” mà 6, Đất gấp “lưỡng mà 4. “Khí” lấy 6 biến, tuy là nhà của “thần”, Trời nổi lên trên mà “khí” chuyển làm “chất”, “thần” ứng vi diệu theo để dụng nên lấy “thần” làm “thần”, chết ở trong mà “thần” lấy làm thiêng đó vậy. Thể lấy 4 phần, là nhà của “khí”, Đất ngưng đọng xuống dưới mà “chất lấy làm “chất”, “khí” lưu hành theo để biến hóa, nên lấy “khí” làm “thần”. Do đó, “chất” lấy làm thực, “khí” lấy làm hư vậy. Càn tư thủy, nên “thần” dụng “thần”, Khôn tư sinh nên “khí” dụng “thần”. Cho nên loài Vật có vạn Trời vạn Đất, mà “thần khí” trọn vẹn duy chỉ có loài người. Vậy Xuân mà loài Người thiêng, tiếng thú đều hay 1, mà Người không gì không hay biết, mọi việc khác đều thế. Ở loài khác, khi gốc ở Trời mà chia bẩm thụ ở mặt Trời dương thì ở âm thường chẳng đủ. Còn khi gốc ở Đất mà chia bẩm thụ bên trong âm thì ở dương thường chẳng đủ vậy. Người thì hợp Trời Đất, mặt Trời dương mặt Trăng âm cùng giao nhau biến hóa, mà gồm được lấy làm dùng, cho nên 1 hay “không” theo chẳng hay, coi loài khác dùng sinh quý như thế nào đây. Trời Đất sinh Người, cùng lấy rất quý, chẳng tự quý mà cam hạ xuống cùng với Vật, đó là trái với lý sinh, há chẳng phải bất tường dùng to lớn du! Cho nên, quân tử dẫm lên “tình”, trở lại “tính” dùng làm quý vậy.

âm không 1, dương không 10, dương không 10 cho nên không đủ ở sau, âm không 1 cho nên không đủ ở đầu.

Trời khởi ở số “1” trước tiên, Đất bắt đầu khởi ở số “2” làm đầu, cho nên âm không có số “1”. Số Đất sau cùng là 10, số Trời sau cùng là 9, cho nên dương không có 10, không 10 thì 1, 3, 5, 7, 9 là số không đủ ở sau, không “1” thì 2, 4, 6, 8, 10 là số chẳng đủ ở đầu. Việt Châu bàn: trước không nói 1, còn lấy đấy để làm “thể”, sau không nói 10, dấu đi lấy đấy để làm “dụng”. 10 dùng sau cũng như 1 dùng theo trước, như đồ quẻ Phục thì 1 dùng trước cũng như 10 theo sau ở đồ quẻ Khôn vậy, trước sau dùng hội Trinh nguyên cùng giao, theo 1 động 1 tĩnh mà dùng ở khoảng giữa. Điều này như ở ngoài ý gốc, sẽ sinh giải vậy.

Tham hàng ngũ lấy biến, lẫn đầu theo số mà Trời Đất xung nhau, ngày đêm giao nhau. Số “1” này là số đầu mà chẳng phải số vậy, cho nên 2 với 2 mà làm 4, 3 với 3 làm 9, 4 với 4 làm 16, 5 với 5 làm 25, 6 với 6 làm 36, 7 với 7 làm 49 đó là đều dùng theo biến. Số đại diễn là gốc của toán pháp sao? Lấy tóm số dùng khai triển lên chẳng qua ở vuông tròn cong thẳng vậy, số trừ là số tiêu vậy. Toán pháp dẫu nhiều chẳng qua dùng ở đây vậy.

Bầy Hà đồ số Trời Đất mà tỏ rõ sen hàng lấy biến, lẫn lộn hợp cả theo ganh đua để mà dùng. Số trời đất với số cùng xung nhằm ngày đêm cùng biến, cùng giao nhau. Xung ấy là trước sau biến mà khẩn tiếp. Giao ấy là kia với đây hợp mà cùng đắp đổi nhân lên. “Tham” thì trời 1 đất 2 liền hợp, hàng ngũ thì 1-4 hay 2-3 dùng đắp đổi gồm tính, bởi thế mà “tham” nhân hàng ngũ nhân lên làm lẫn lộn làm hợp cả lại, số “không” chẳng cùng cực, biến “không” chẳng thông, theo mà chẳng biến ấy là “1” vậy, “1” làm số dùng đầu là lấy số sinh tóm số, mà chẳng phải khá lấy số mệnh vậy. Cho nên một vật chẳng rằng số vật 1, 1 như 1 vậy. Từ 1, 1 trở lên 2, 2 rồi 3, 3 rồi 4, 4 rồi 5, 5 rồi 6, 6 rồi 7, 7 nhân mà nhân lên đấy, làm 4, làm 9, làm 16, làm 25, làm 36, làm 49, chẳng phải số dùng chửa theo biến vậy. Phàm cất lên Trời 25 số, Càn số sách là 36, đại diễn dùng 49 số, quẻ 64 số, Tỉnh Nguyên phạm 81 số, đều tùy sở dụng dùng biến, mà lần lượt đủ vòng khắp vậy. Bèn biết 1 chẳng biến, là thể tóm dương vậy, sau 1 trở lên đều biến, dùng để hợp với âm vậy. Đại diễn rằng 1 phân, đôi treo 1 đếm 4 về lẻ, hợp đốt ngón tay mà dùng 49 thẻ, biến hóa suy Trời theo tức là gốc toán pháp vậy. Lấy vuông tròn vòng kính (lối tắt) vẹo, thẳng, câu, huyền, toán phép nhiều ít, số chẳng qua ấy. Theo nhân lên thời sinh, trừ thời tiêu, số thực có phép, coi đấy làm dùng, bỏ đây thời biệt, không bởi đâu toán vậy.

Dương tôn mà thần, tôn cho nên soi được vật, thần cho nên dấu được cách dùng. Lấy đạo sinh Trời Đất muôn vật, mà không tụ thấy. Trời Đất muôn vật cũng lấy phép dùng đạo, dương là đạo chưng dùng, âm là đạo chưng thế. Dương dùng âm, âm dùng dương. Khi lấy dương làm dùng thời tôn âm, lấy âm làm dùng thời tôn dương.

Trời dương thể tròn rất tôn mà nhà ở thần, vì tối đất thấp mà nhà ở khí đó vậy. Khi tôn như vậy thì vật đều bị sai khiến. Càn sai khiến Khôn cùng với 6 Tý, mà mặt Trời sai khiến chẳng cùng Tinh Thần, khi Thần vậy dấu dùng, Khôn cùng 6 Tý dấu cách dùng ở Càn, Nguyệt cùng Tinh Thần dấu cách dùng ở nhất Nhật đó vậy. Sai khiến vật mà các loài ứng theo, theo rõ rệt điều nhân đợi nói. Dẫu như dùng thời về theo ở đạo Thái cực, trời đất muôn vật, đều gốc ở đạo sinh ra, mà dấu cách dùng mà chẳng tự thấy, đó là nhà ở thần diệu mà cấp ngàn vạn vậy. Bèn biết dấu cách dùng là cái gốc sai khiến vật. Trời Đất dùng to, muôn vật dùng yên, phạm vi khúc thành, ít chẳng phải lấy phép ở đạo vậy. Đạo cùng làm cách dùng dương đạo 1 mà thôi. Tự theo chia mà nói, âm làm Thể mà dương làm Dụng, mà lần lượt dùng giao tôn âm Dương, Nguyên hợp Chấn đến Đoài đều dùng Dương, âm trên Trời tôn âm, từ Tốn đến Cấn đều dùng âm, trên Dương thời tôn Dương. âm vốn thấp mà sai khiến ở Dương, ở dấu cách dùng, thời có lý tôn âm. Dương vốn tôn mà sai khiến ở âm, tuy Dương ở dấu cách dùng, thời càng thấy thực lý tôn Dương. Cho nên sai khiến vật lấy dùng âm vậy, dấu cách dùng là để tôn Dương vậy.

âm ngõ hầu ở Đạo, đó là lấy cảnh hướng tới Đạo, 6 biến mà thành 36, 8 biến mà thành 64, 12 biến mà thành 384 cũng như 49 biến mà thành 384 vậy.

Đạo hợp âm Dương mà Dương rõ rệt còn âm lại dấu, dấu mà chẳng thấy Đạo không khá trỏ, song âm tĩnh lấy thai, Dương dùng động âm thể lấy ý kín Dương chưng dùng, theo ngõ hầu ở Đạo vậy. Cũng rõ rệt vậy, cho nên Đại diễn lấy số chẳng dùng bỏ dùng, cảnh huống đấy, phương cho dùng Đạo vậy. Tới Thi sách quái biến mà nói, Đạo tức là số mà còn, theo 6 biến, 7 biến, 8 biến, 12 biến, 49 biến, 64 biến, biến với biến nhận lên nhau không chẳng phải Đạo càng biến mà càng có, bèn lấy thành 36, 47, 64, mà số đếm thì Càn sách gồm cả quái số, hào số, không gì chẳng đủ vậy. Ấy lại số với số cùng chức, cùng lấy cảnh huống Đạo dùng, càng diễn mà càng vô cùng vậy, mà gốc ở theo Đạo dùng theo khắp biến ấy, dương làm chưng dùng đều có chẳng biến ấy, âm làm chưng thể vậy. Cho nên âm ngõ hầu theo Đạo vậy.

Dương chẳng thể đứng một mình, tất được âm mà sau đứng. Cho nên Dương lấy âm làm nền. âm chẳng thể tự thấy, hẳn đợi Dương mà sau thấy, cho nên âm lấy Dương làm sướng, Dương biết theo đầu hướng theo tới thành, âm bắt chước phép ở Dương mà trọn theo công lao.

Độc Dương chẳng đứng, lấy âm làm nền, âm một mình chẳng thấy, đợi Dương bèn sướng, lẻ chẵn cùng dựa nhau, thể dụng cùng nên nhau. Cho nên, Càn biết trước mà hướng Khôn dùng thành, là được âm vậy. Khôn bắt chước mà trọn công lao Càn, là âm theo Dương vậy. Xem Trời từ Lâm trở lên, xem Đất từ Độn trở xuống theo tượng, nên du! Trời lấy Thái biến Tỉnh, Đất lấy Tỉnh biến Thái, theo sướng dùng tượng du!

Dương hay biết mà âm chẳng hay biết, Dương hay thấy mà âm chẳng hay thấy. Hay biết hay thấy ấy có làm cho nên tính dương “có” mà tính âm “không”. Dương có theo chẳng lệch, mà Am không theo cũng chẳng lệch. Dương có đi mà âm thường ở, “không” chẳng lệch mà thường ở ấy làm thực, cho nên thể của Dương thường hư mà thể của âm thường thực vậy.

Tính Dương sáng, tính âm mờ. Sáng thì hay biết, hay thấy mà rõ rệt cách dùng, rõ rệt “có”. Mờ thì chẳng hay biết, hay thấy, mà dấu cách dùng “không”. Cho nên rõ nhân là Dương, mà dấu cách dùng là âm. Nhưng Dương lấy biết làm trước, âm lấy tác thành làm trước, lấy mờ dùng thành mà chửa xét theo thành, cho nên có theo cũng chẳng lệch, thành lấy hết mà dùng trước, mà đã thâu tóm theo trước, cho nên không theo chẳng lệch Dương tạo ra “có” mà mới, mới mà ráo đi cũ, thời “có” bỏ đi vậy. âm giữ “không” mà cũ, cũ mà ngậm mới, thời thường ở vậy. Vì dùng làm thể ở, Dương động mà làm khách, âm tĩnh mà làm chủ. Thực rằng ấy, nhà khí lấy thể thấy làm hư mà thể thực làm thuộc vậy. Theo “không” chẳng lệch mà thường ở ấy phải du! Hư rằng ấy, nhà thần lấy khí thấy làm thực, mà thực lại hư vậy, theo “có” chẳng lệch, mà “có” đi ấy phải du! Nếu Thần thời Nhật Nguyệt Tinh dùng theo trải, “không” theo chẳng lệch, mà thường Tinh lấy ở Nhật Nguyệt Tinh tượng “có” mà thể hư, Thần thời tượng “không” mà thể thực, song Nguyệt cũng thể âm, mà cùng với Nhật Tinh đồng ấy là đồng ở Trời chưng dùng mà Thần thời chẳng dùng chưng thể, cho nên chuyên nói tới Thần vậy.

Khí biến mà Hình hóa, Hình có thể chia, mà Thần không thể chia. Dương sinh âm cho nên Thủy thành trước. âm sinh Dương cho nên Hỏa thành sau, âm Dương cùng sinh vậy, thế Tinh cùng đợi vậy. Ấy lấy Dương đi thời âm kiệt (hết), âm hết thời Dương diệt. âm đối Dương làm 2, song Dương đến lại thời sống, Dương đi thời chết. Trời Đất muôn vật sống chết chủ ở Dương thời về đấy dùng 1 vậy.

Nói về biến hóa, thì có chia Khí với Hình, Khí dương thuộc Trời, biến là Khí thuộc Trời, lấy vật theo biến. Hình âm thuộc Đất, hóa là Hình thuộc Đất, lấy vật để hóa. Cho nên, Nhật Nguyệt Tinh Thần thành tượng ở Trời, đó là đều ứng với Khí dùng biến. Thủy Hỏa Thổ Thạch thành chất ở Đất, đó là đều theo Hình dùng hóa. ông Việt Châu lấy thượng quái biến thuộc về Khí, còn hạ quái biến thì thuộc về Hình. Biết lại 1 thấy vậy. Song Khí ấy là nhà Thần, Khí biến thành Hình mà Thần đủ vậy. Hình thì có thể phân chia, như Ngũ hành đều thành mà Hình có thể phân chia mà gọi đấy. Thần thì chu lưu mà không thể phân chia, cũng như Ngũ hành chưa thành Hình trở về trước, cùng thành Hình trở về sau, không gì không phải 1 Khí ấy gây nên đi quanh ở trong, thần diệu mà chẳng phải bởi đâu phân chia ra vậy. Kia 1 lấy 4 biến, Hình phân chia mà Thần hợp, theo khá biết vậy. Thử xem Thủy Hỏa đã thành, cái nào trước cái nào sau, bèn lấy cái cớ âm Dương đợi nhau, Dương sinh ở âm, trước thành là Thủy, âm sinh ở Dương, sau thành là Hỏa. Thủy dùng sinh lấy ở Trời 1, Hỏa dùng sinh lấy ở Đất 2, Thủy đã thành lấy ở Đất 6, Hỏa đã thành lấy ở Trời 7. Như vậy, 1 với 2, 6 với 7 mà trước hay sau chẳng đợi phải nói, bèn biết âm làm Thể, Dương làm Tính, âm cũng sinh Dương, Thể đợi Tính, Tính cũng đợi Thể, cả đôi chẳng thể thiếu nhau. Nếu Dương đi là có Thể mà không có Tính, theo đó mà xét, âm lấy kiệt mà âm hết, nếu âm hết là có Tính mà không có Thể, Thể xét vậy Dương lấy diệt, ấy cho nên động tĩnh đổi gốc sinh thành Đạo để dùng, hết thảy đều đầy đủ ở số vậy. Đạo để dùng nói rằng: âm Dương đều 1 vậy, lấy âm đối Dương thì làm 2, mà sở chủ duy nhất Dương, Dương tôn mà Thần lấy để sai khiến âm đó vậy. Cho nên, Dương lại (đến) Phục, muôn vật quay về sinh, Dương đi hết thì muôn vật tới chết, hợp Trời Đất là hợp sinh với thành, muôn vật biến và hóa, theo sống và chết đều là 1 chủ ở Dương đến hay đi, dẫu có 2 mà quy về ở 1 đó vậy.

Trong Dương là dương Nhật vậy, trong Dương là âm Nguyệt vậy, trong âm là dương Tinh vậy, trong âm là âm Thần vậy, trong Nhu là nhu Thủy vậy, trong Nhu là cương Hỏa vậy, trong Cương là nhu Thổ vậy, trong Cương là cương Thạch vậy. ôi, 4 tượng ấy nếu lẫn lộn với nhau mà dùng đấy, Nhật Nguyệt là âm Dương của Trời, Thủy Hỏa là âm Dương của Đất, Tinh Thần là Cương Nhu của Trời, Thổ Thạch là Cương Nhu của Đất. Trăng ban ngày khó thấy, nên làm âm ở trong Dương, Tinh ban đêm khó thấy, nên làm Dương ở trong âm. Mặt Trời thấy ở ban ngày, mặt Trăng thấy ở ban đêm, mà nửa chẳng thấy là sao vậy? Tinh (sao) nửa thấy ở đêm, là bậc sang hèn vậy. Mặt Trời theo bầu Trời mà chuyển, mặt Trăng theo mặt Trời mà đi, Tinh (sao) theo mặt Trăng mà thấy. Cho nên, Tinh (sao) bắt chước mặt Trăng, mặt Trăng bắt chước mặt Trời, mặt Trời bắt chước Trời. Trời nửa sáng nửa tối, mặt Trời nửa đầy nửa thiếu, mặt Trăng nửa đầy nửa khuyết, Tinh (sao) nửa động nửa tĩnh, đó là ý nghĩa âm Dương vậy. Trong Dương có âm, trong âm có Dương, đó là đạo Trời vậy. Trong Dương dùng mặt Trời dương là đạo nắng đó vậy, trong Dương dùng âm vậy, lấy theo Dương dùng loại, cho nên thấy nắng ở ngày. Trong âm dùng Dương là Tinh (sao) vậy, sở dĩ hay thấy ở đêm, trong âm dùng âm là Thần vậy. Trời Đất vậy, Thần số 12 (1 với 2) Nhật Nguyệt giao hợp, rằng là thần thần, Thể Trời đó vậy, Thể của Trời là Khí không có Vật đó vậy, Tinh làm mặt Trời theo, Thần làm mặt Trăng theo.

Trong Thiên, Thái dương làm mặt Trời, đó là Dương trong Dương, Thái âm làm mặt Trăng nên làm âm trong âm, Thiếu dương làm Tinh đó là Dương trong âm, Thiếu âm làm Thần đó là âm trong Dương. Càn Đoài đều 4 tượng dùng Thái dương, Càn 1 Đoài 2 mà Đoài làm mặt Trăng, là âm đẹp ở trong Dương, lấy chia ở ngang cắt nửa trên Thiên dương, cho nên Đoài làm âm ở trong Dương Càn. Ly 3 Chấn 4 tượng dùng Thiếu âm, mà Chấn làm Thần, là âm ẩn ở trong âm, lại chia ở ngang cắt nửa ở dưới Địa âm, cho nên Chấn làm âm ở trong âm Ly. Đến Khôn Cấn cúng làm 4 tượng dùng Thái âm, ở Đất nói rằng Thái nhu mà Khôn 8 Cấn 7, lại chia cương với nhu làm Thủy làm Hỏa giống như Càn Đoài vậy. Khảm Tốn đồng làm 4 tượng dùng Thiếu dương, ở Đất nói rằng Thiếu cương là Khảm 6 Tốn 5, trong cương lại chia cương với nhu làm Thổ làm Thạch, giống như Ly Chấn vậy. Tuy Dương dùng nội Thiên có khác đôi chút, mà theo bên trong mà biệt bạch gãy gọn vậy. Cho nên suy ra nói 4 tượng chưng dùng, lại như có lẫn lộn dùng biến Càn mặt Trời, Đoài mặt Trăng thuộc Trời, trong Dương dùng Dương, cùng với âm là Khôn thủy Cấn hỏa, lấy Đất theo Trời, thì cũng thuộc Đất. Trong âm dùng Dương, trong âm có Ly làm Tinh, Chấn làm Thần đều thuộc Hỏa, trong Dương dùng dương Cương mà âm Nhu, Khảm làm thổ Tốn làm thạch, đó là lấy Trời coi Đất, thì tự thuộc Đất. Trong âm dùng dương Cương mà Nhu âm, đó là đạo lập nên Trời, nói rằng âm với Dương mà Cương với Nhu đã đủ. Đạo lập nên Đất nói rằng Nhu với Cương mà âm với Dương đều còn, cho nên có thể nói rằng giao cùng lẫn mà hợp lẫn lộn với nhau, không có gì khác là trong Trời có Đất, trong Đất có Trời. Lại suy cho tỏ tường, ngày là Dương, mà mặt Trăng cũng có thể thấy, đó là âm đẹp ở trong Dương. Đêm là âm, mà Tinh có khi mới thấy có khi không thấy, đó là Dương thấy ở trong âm. Duy Trời ngày Dương đêm âm thì lúc nào cũng vậy, không lúc nào chẳng thấy như vậy, mặt Trời thì thấy ở ngày, mặt Trăng thì thấy ở đêm, nửa chẳng thấy này thì theo Tháng dùng Sóc (1), Vọng (15), Hối (30), Huyền (8 và 25), đầy với chẳng thường, mà Tinh dùng thấy ở ban đêm, cũng nửa thấy ẩn lặn. Thần mà thấy ở ban ngày là quý, nửa thấy mà theo về đêm là tiện (hèn). Theo Dương tôn âm sai khiến, cũng như thứ bậc vua tôi đó sao? Hay nửa thấy, lại chẳng những Nguyệt Tinh là thể, Nhật dùng chuyển theo Trời, Nguyệt dùng đi theo Nhật, Tinh dùng thấy theo Nguyệt, cho nên Tinh dùng nửa mà thấy về đêm, lấy theo bắt chước Nguyệt mà Nguyệt phần nửa chẳng thấy ở đêm, theo lúc đầu thì chẳng phải bắt chước theo Nhật với Trời. Trời dùng sáng tối làm hai phần nửa, mà đầy với cùng với mỗi phần nửa. Tinh theo Nguyệt bắt chước mà động tĩnh cũng theo phần nửa, âm dương theo nhau nghĩa vốn như thế. Cho nên đạo Trời âm dương thay đổi nhau đều dấu cái gốc, cùng giao nhau cùng làm “có”. Nhật Dương trong Dương đạo làm nắng, mà Nguyệt thì âm trong Dương mà chẳng nói rét, lấy theo loài Dương mà hay thấy ở ngày. Còn Tinh là Dương trong âm chỉ thấy về đêm. Thần thì âm trong âm mà làm Trời dùng Đất, xưa nói rằng: chỗ không Tinh thì đều là Thần, cũng như nơi không Thạch thì đều là Đất. Số Thần gồm 12 mà bảo rằng là nơi Nhật Nguyệt giao hợp. Vì Thần là Thể của Trời, theo đầy khắp đều Khí, mà không có vật tượng trưng có thể chỉ ra được, lấy phụ ở Nhật Nguyệt dùng theo, thì Tinh làm Nhật theo, chia Dương sáng mà có thể thấy, Thần làm Nguyệt theo, theo âm tối nên chẳng dễ thấy. Cho nên Nhật Tinh chép lấy 10 Cán (phần thân cây, Can vậy) Nguyệt Thần chép lấy 12 Cành (Chi vậy), chính theo để dùng mà chia đều thâu tóm ở đây vậy.

Trời lấy cương làm đức nên nhu chẳng thấy. Đất lấy nhu làm Thể nên cương chẳng sinh. Đó là do lấy Chấn của Trời dùng làm âm, lấy Tốn của Đất mà dùng làm Dương. Đất thuộc âm, khi có Dương mà âm bắt chước theo, bởi vậy rất âm đó là Thần vậy, rất Dương đó là Nhật vậy. Bắt đầu khởi ở dùng Trời, mà Đất theo thì chỉ có Thủy Hỏa mà thôi, đó là lấy trên Đất thì đều là Vật có Chất vậy, âm phục Dương mà Hình Chất sinh, Dương phục âm mà Tính Tình sinh. Dương sinh âm, âm sinh Dương, Dương khắc âm, âm khắc Dương. Dương khi dùng chẳng khá phục âm mà chẳng thấy ở Đất, âm khi dùng chẳng khá khắc Dương mà chẳng thấy ở Trời. Phục Dương dùng Đất thì Thể tất nhu, đó là do sợ Dương mà làm Dương theo dùng. Phục Dương dùng Trời thì Thể tất cương, đó là do chống đối Dương mà làm âm theo dùng. Cho nên, Thủy Hỏa động mà theo Dương, Thổ Thạch tĩnh mà theo âm. Nhật ở chung thủy thì sinh (có đầu có cuối), khi lìa xa thì chết, giao với không giao bởi dùng, rằng nói vậy.

Chấn làm Thần của Trời, mà sao không thấy, đức Trời cương mà nhu lấy phục vậy, do bởi phục nhu cho nên chẳng thấy. Tốn làm đá đất chẳng sinh ấy, thể đất nhu mà cương lấy nhắc nhở vậy. Khắc thì chẳng thể sinh, Chấn dương mà âm hào nhiều, Tốn âm mà hào dương nhiều. Đất sinh âm mà âm bắt chước dương, bắt chước dương để làm tôn dương thành tượng, dùng để nói rằng Càn dương để cho âm bắt chước theo đấy, bắt chước theo phép dùng đó là Khôn, cho nên rất mực âm chẳng bằng thần, rất mực dương chẳng bằng nhiệt. Chấn đến dùng Càn là đức ở số Trời, như Đất thì Khôn làm Thủy, Cấn làm Hỏa, đó là bắt chước theo Trời dùng Nhật và Thần mà thôi. Phàm đã là tôn dương mà sai khiến vật, đó đều bởi âm (thấp) mà dùng làm chưng dụng vậy. Khi lấy bầy ra ở trên Đất như Thủy Hỏa Thổ Thạch, thì mọi vật chẳng gì chẳng thành chất, nguyên theo hình chất bàn về sinh, thì trong âm phục (nép) dương sẽ suy theo Tính Tình cũng dùng sinh, khi dương phục âm, lại lần lượt thay nhau làm gốc rễ dương bèn sinh âm, ví như Ly dùng dương tiêu, Khảm dùng âm sinh đó vậy. âm cũng sinh dương, như Khảm dùng âm tiêu thì Ly dùng dương sinh, ngày theo cùng với sinh, biết theo cùng khắc. Đây sinh kia, là âm dương loại vậy. Cho nên Đất âm bắt chước theo Trời cách dùng, cốt do xem ở cách dùng là phục với khắc vậy. Dương có thể rễ phục mà cũng chẳng dễ phục, như Khảm một hào dương có thể phục, trên Tốn hai hào dương thì chẳng dễ phục, chẳng dễ phục thời chẳng thấy ở Đất, cho nên Đất Hỏa thường thấy ngấm ở Thạch. âm có thể dễ khắc mà cũng chẳng dễ khắc, như Ly một hào âm có thể dễ khắc, trên Chấn hai hào âm thì lại chẳng dễ khắc, chẳng dễ khắc này chẳng thấy ở Trời, cho nên Thần của Trời thường thấy hợp ở Nguyệt. Khi bàn về dương phục, lại có ít có nhiều, như Khôn có 12 hào dương và 36 hào âm (Khôn, Bác, Tỷ, Quan, Bĩ, Tụy, Tấn, Dự), Cấn có 20 hào dương và 28 hào âm (Khiêm, Cấn, Khiển, Tiệm, Độn, Hàm, Lữ, Tiểu quá), đây là dương phục ít, đó là âm theo thể của nhu mà sợ dương, bèn làm dương theo dùng, Khảm có 20 hào dương và 28 hào âm, Tốn có 28 hào dương và 20 hào âm, đây là dương phục nhiều, đó là âm theo thể của cương mà chống dương, bèn làm âm theo dùng. Cho nên Khôn Thủy và Cấn Hỏa, thì Tính của Hỏa cương mà Thể lại nhu, cùng với Thủy đều động chẳng tĩnh nên đều theo dương, đó là vì còn biết sợ dương vậy, Khảm Thổ với Tốn Thạch thì Tính nhu mà Thể lại cương, Thổ với Thạch đều tĩnh mà không động nên đều theo âm, vì chống đối với dương vậy. Qua đây, biết âm bắt chước theo dương cũng còn dương dùng cách phục để làm đứt vậy. Nhật Càn giữa Nam cung Ngọ, Thủy Khôn giữa Bắc cung Tý, Nhật mà ở Thủy cung Tý đó là Càn giao với Khôn, đây là dương lại đến, là quẻ Phục rồi quẻ Lâm quẻ Thái, muôn vật bèn theo sinh. Nhật mà ở Hỏa giao với Khôn cung Ngọ, thì Nhật với Thủy xa lìa, đây là dương lại đi, là quẻ Cấu rồi Độn rồi Bĩ, muôn vật thì 9 phần chết. Theo đây bảo rằng, Nhật ở Nam cung Ngọ thì muôn vật bắt đầu chất biến đổi đó vậy, cho nên Nhật Thủy ở trên thì giao nhau mà chẳng nên lìa vậy.

Dương ở trong Dương thì không dễ mà biến, là Càn vậy, nên một năm chỉ cất lên 12 tháng. âm ở trong âm cũng chẳng dễ biến, là Chấn vậy, nên một ngày dùng chỉ có 12 giờ thôi vậy. Đoài là âm ở trong Dương là Thái dương, Ly là Dương ở trong âm là Thiếu âm, đều có thể biến, nên số ngày trong tháng có thể không đồng đều vậy. Lấy số âm thì lấy 12 để khởi, lấy số dương thì lấy 30 để khởi, mà thường còn 2 và 6 vậy. Cất lên Năm thấy Tháng, cất lên Tháng thấy Ngày, cất lên Ngày thấy Giờ, đó là dương thâu tóm âm vậy, đó là Trời có 4 biến ngậm Đất có 4 biến, Nhật dùng biến ngậm Nguyệt và Tinh Thần dùng biến vậy. Kinh Dịch dùng sinh số 129600, chia ra làm 4320 Thế, đó là số to tiêu trưởng diễn ra làm 30 năm dùng Thần số, tức là theo số vậy. Một năm có 360 ngày, chia ra có 4320 Thần, lấy 30 nhân lên đấy được theo số vậy. Phàm Giáp Tý và Giáp Ngọ làm đầu của Thế, đây là số làm kinh Thế, như Can ngày Giáp tháng Tý, đó là Tinh Giáp Thần Tý, lại nói rằng: đó là số kinh Thế mà Nhật Giáp Nguyệt Tý, Tinh Giáp Thần Tý cũng theo đấy vậy. Vốn chỉ có 1 khí, khi sinh thì làm Dương, khi tiêu thì làm âm, cho nên 2 đó mà lại chỉ 1 mà thôi, 4 đó mà chỉ 2 mà thôi, 6 đó mà chỉ 3 mà thôi, 8 đó mà chỉ 4 mà thôi. Đây chỉ nói về Trời mà chẳng nói về Đất, cũng như chỉ nói về Vua mà không nói về bề tôi, nói Cha mà không nói về Con, nói Chồng mà không nói về Vợ. Song Trời có được Đất thì muôn vật mới có sinh, Vua có được bề tôi thì muôn giáo hóa mới được thi hành, Chồng được Vợ, Cha được Con thì đạo nhà mới thành. Cho nên, có 1 thì tất có 2, có 2 thì tất có 4, có 3 thì tất có 6, có 4 thì tất có 8, Nhật-Nguyệt-Tinh-Thần cộng vào làm Trời, Thủy-Hỏa-Thổ-Thạch gộp vào làm Đất, tai-mắt-mũi-mồm hợp làm cái đầu, tủy-máu-xương-thịt cộng làm thân, đó là 5 dùng số vậy.

âm Dương có khí có tượng, khí thuộc “không” mà chẳng dễ thấy, tượng thuộc “có” mà chẳng dễ biến, lấy 4 quẻ tượng của Trời mà nói thì Càn là dương ở trong dương, đó là thuần dương, là lẻ đó vậy. Lấy năm để dùng 1 tượng của Trời là quẻ Càn, khi cất lên 12 tháng thì có thể biết về 1 năm. Chấn là âm ở trong âm, là chẵn vậy, Nhật dùng 1 tượng này, chẳng khá khi cất lên 12 Giờ mà có thể thấy được. Đó là rất chuẩn mực của tượng khi dùng to hay nhỏ, ở đây cũng chẳng dễ biến đó vậy. Theo nhau mà chẳng khó biến ấy, thì khi nói về Năm phải kể tới Tháng, nói về Ngày thì phải kể tới Giờ. Ngoài số dùng là 12 ra, dẫu Năm có sai đầy hay rỗng theo Phân, mà cũng chẳng lấy biến theo số thường vậy.

Quẻ Đoài và Ly đều 2 lẻ 1 chẵn, Đoài thì làm âm ở trong dương, đó là Tháng (Nguyệt) dùng theo số của Ngày vậy. Ly thì làm dương ở trong âm, là Tinh dùng theo Tháng, đều có thể biến, rằng nói vậy. Năm lấy Tháng để chép, mà Tháng thì được chia làm 12 tháng, Ngày thì lấy Sao, Tinh tú để chép, mà Ngày được chia theo số là 30 ngày, có thể phân chia thì có thể biến, lấy số âm theo Chi của Tháng, tức là lấy theo 12 phần khởi từ Tý đến Hợi là đủ khắp vòng. Số dương theo Can của Ngày, tức là lấy theo 30 phần khởi từ Giáp Tý đến Quý Tị thì cũng đủ một nửa của khắp vòng vậy. Như vậy, thì 12 làm số của 1 Nguyên, cũng là số của Hội, còn 30 là số của 1 Hội dùng số của Vận đó vậy, mà Vận dùng số của 12 Thế, thế dùng 30 năm, cũng tức là còn ở ấy vậy. Nói rằng thường còn 2 và 6, tức là 12, nói rằng số đương lấy số 30 thì thường còn số âm là 12, hoặc lấy số âm là 30 thì số dương thường còn là trong 12, đó tức là Nhật, Nguyệt, Tinh, Thần lấy theo để suy ra Nguyên, Hội, Vận, Thế, thông qua đây có thể nhận biết vậy. Cho nên, cất lên Năm thì có thể thấy được số của Tháng, cũng như cất lên Nguyên thì thấy được Hội; cất lên Tháng thì có thể thấy được số của Ngày, cũng như cất lên Hội thì thấy được Vận; cất lên Ngày thì có thể thấy được số của Giờ, cũng như cất lên Vận thì thấy được Thế. Tất cả đều lấy số dương 30 thâu tóm số âm 12 mà thấy được vậy. Khi dương thâu tóm âm, thì Trời bèn ngậm Đất, gồm Thủy-Hỏa-Thổ-Thạch là 4 biến của Đất, tương đương với 4 biến của Trời là Nhật-Nguyệt-Tinh-Thần. Trong 4 biến của Trời lại quy về ở Nhật (thâu tóm về), Nhật 1 biến mà ngậm 2, mọi biến thông để đầy đủ thì 1 quẻ biến thành 4 quẻ, bỏ hào Sơ, lấy giao biến hào Thượng, trong hào dương thâu tóm hào âm thì có thể thấy vậy. Bởi đó để suy 64 quẻ biến thành 256 quẻ, đều là dùng cái lý 1 ngậm 4. Cũng là nói lấy số sinh của Dịch 1, 2, 3, 4, 5 đó vậy.

Lấy số 1 làm số của Nguyên, 2 làm số của Hội, 3 làm số của Vận, 4 làm số của Thế, tương đương với số 129600. Lấy số 4320 mà kể là số thâu tóm của Thế về 1 Nguyên thẻ số lẻ, thì bỏ số 5 lại dùng 1 là ý đó vậy. Phàm chứa âm dương tiêu trưởng số lớn mà diễn 30 năm làm 1 Thế, số của Thần cũng là số này vậy. ôi, 6 tháng làm 1 biến, có thể làm 1 năm tiêu trưởng của số nhỏ, 6 Hội 1 biến tương đương với 1 Nguyên khi tiêu trưởng số lớn, lấy số nhỏ để thấy được số lớn, theo số lần 1 Thế được số năm 1 Nguyên, còn khi lấy số lớn để thấy được số nhỏ thì số năm 1 Nguyên, tức là số Thần của 1 Thế đó vậy. Suy theo số mà diễn ra, từ 1 năm khởi, 1 năm có 360 ngày, 1 ngày có 12 giờ, thì số giờ của 1 năm là 4320, 30 năm làm 1 Thế, lấy 30 x 4320 = 10800 giờ, đó là 30 năm theo 360 ngày, 30 x 4320 = 129600, đó là 30 năm theo 4320 giờ của 1 năm, Thần tức là Thế vậy, là Giờ đó vậy. Nếu chia mỗi 10 năm làm 4320 giờ, mà Thế thì lấy số 30 tương ứng với Giáp Tý Giáp Ngọ làm khởi đầu. Giáp Tý thì Đông chí dương đến được quẻ Phục, Giáp Ngọ thì Hạ chí âm đến được quẻ Cấu, mà đến Quý Hợi thì 6 âm cùng cực, Quý Tị thì 6 dương cùng cực, đều tương đương với 30 năm. Theo đồ số kinh Thế (kinh Giờ) thì Nhật theo Giáp, Nguyệt theo Tý, Tinh theo Giáp còn Thần theo Tý, có nghĩa là Nhật và Tinh thì theo dương Can, Nguyệt và Thần thì theo âm Chi, thay đổi nhau theo thứ bậc, Nhật Giáp dùng 1, thì biết rằng 1 là số đứng đầu của Đạo, Nhật làm rường cột cho Vua, mà còn theo đều phép của bầy Tôi vậy. Càn thâu tóm Khôn với 6 Tý, Nhật thâu tóm Nguyệt, Tinh, Thần vốn chỉ làm 1 khí mà thôi, mà lần lượt sinh từ quẻ Phục đến quẻ thuần Càn, sinh này là dương đó vậy, từ quẻ Cấu đến quẻ thuần Khôn mà lần lượt tiêu, tiêu này là do âm đó vậy. Dương sinh thì vật mở, âm tiêu thì vật đóng, nên âm dương là 2 kỳ thực chỉ là 1 khí dùng làm biến đổi vạn vật vậy. Thái Thiếu gồm 4, vốn là 2 khí dùng để chia, nên hào thì có 6 hào mà cũng không lìa ở 3 vạch, quẻ thì có 8 cũng chỉ trong có 4 biến. Xét đấy, thâu tóm làm 1, 1 này làm dương, là Trời vậy, là Vua, là Cha, là Chồng, nói rằng dùng làm cương (rường) theo ra thì là âm Đất vậy, tôi vậy, vợ vậy, con vậy, có thể nói rằng dùng làm kỷ (phép) âm thâu tóm dùng dương, nói cương mà chẳng nói kỷ là khá vậy. Cho nên Nguyệt Tinh đều tóm dùng theo Nhật, đó là dương vốn tôn vậy. Song dương vốn chẳng vần chuyển một mình, tất có được âm để sánh đôi, như Trời, như Vua, như Chồng, như Cha, tất sẽ có Đất, có bề tôi, có vợ, có con, để hợp mà sinh muôn vật mà thành Đạo của Trời Đất, đạo vua tôi, đạo cha con đạo nhà vậy. Nên có 1, 2, 3, 4 thì có 2, 4, 6, 8 theo nhau cùng sánh đôi, cùng diễn ấy thế vậy. Số 5 là sinh số tới cực ở giữa để mà tóm theo 1 chẳng dùng, mà biến 1 duy thì chỉ có 4 biến theo vậy. Cho nên, Nhật-Nguyệt-Tinh-Thần hợp làm 1 Trời, Thủy-Hỏa-Thổ-Thạch hợp làm Đất, tai-mắt-mũi-môm hợp làm 1 đầu, tủy-máu-thịt-xương hợp làm 1 thân, đều 4 cộng mà thành số 5 vậy, nhưng vẫn tóm theo 1 mà thôi.

Dịch có 64 quẻ 384 hào, đều từ ở trong đồ hết, mà Nhật, Nguyệt, Tinh, Thần thay nhau đắp đổi trái phải ở Trời, lẫn lộn giao qua lại, điều lý rành rành, tự nhiên thành tượng dọc dùng văn (vẻ sáng) là văn của Trời thấy đó vậy. Theo tới số sinh mà nói, Càn lấy 1 làm đầu đứng trước, dùng làm gốc của Trời. Theo tới số thành mà nói, Khôn lấy 2 làm thành, làm hình dùng gốc ở Đất. Từ Phục cho tới quẻ Càn dương sinh dùng thành, từ Cấu đến Khôn, thì thành trở lại dùng sinh. Phàm theo tiến đổi không phương, không gì chẳng phải Đạo cư ngụ ở trong, Đạo ấy là tông tổ Trời Đất muôn vật, ở Trời Đất sinh ra vật, thì vật dùng vạn đấy mà thôi, ở Đạo sinh Trời Đất, cũng ở muôn vật, vật dùng vạn đấy mà thôi. ôi, Đạo ấy là gì? Thái cực vậy. Dịch có Thái cực vốn dĩ đã thâu tóm Trời Đất muôn vật theo ở trong vậy.

Trở lên là Hà đồ Trời Đất toàn số thiên thứ nhất, lấy tiết đầu làm cương lĩnh, các tiết theo sau để phát minh nghĩa của tiết đầu. Tóm bàn theo số 1 mà 2, 2 mà 4, 4 mà 8, 8 mà 16, 16 mà 32, 32 mà 64 là Đạo sinh Trời, Trời sinh Đất, Đất sinh muôn vật, là Thái cực 1 âm dương vậy. Theo ngược, 64 mà 32, 32 mà 16, 16 mà 8, 8 mà 4, 4 mà 2, 2 mà 1 là muôn vật về Đất, Đất về Trời, Trời về Đạo, âm dương 1 Thái cực đó vậy, thấy Hoàng cực tóm ở 1 Nguyên, kinh Thế xem vật, đủ ở đây vậy.

TIêN THIêN TƯỢNG SỐ

Trời Đất định ngôi, tỏ rõ Phục Hy làm 8 quẻ, 8 quẻ tỏ rõ giao lẫn lộn nhau mà thành 64 quẻ. Số đi qua là thuận (số vãng), là số thuận Trời mà đi quay theo bên tả (trái), thì đều là quẻ đã sinh, đó là số vãng vậy. Biết lại đó là ngược (tri lại), như ngược Trời mà đi, đều là quẻ chưa sinh, cho nên nói ràng “tri lai” vậy. ôi, Dịch từ ngược mà thành vậy, nói thẳng giải ý đồ, như ngược mà biết 4 mùa vậy.

Theo thuận số Trời quay bên Trái (tả) mà tiến thì được quẻ đã sinh, đều nói rằng “số vãng” (số đi). Theo ngược Trời đi bên phải (hữu) tiến mà được quẻ chư sinh, đều nói rằng “tri lai” (biết lại). Duy có định ngôi thì chẳng thay đổi, rằng thông khí, rằng chẳng cũng tìm nhau, rằng lẫn lộn nhau, đều Dịch nói ngược lại vậy. Ngược thì “biết lại”, dùng lấy ngược lại để biết 4 mùa. Chấn sơ là Đông chí, Ly Đoài trung là Xuân phân, Càn cuối giao là Hạ chí, đây là dương Nhật tiến mà thứ tự thuận sinh. Dịch mà Hạ chí, dương bèn đi ngược bên phải trong âm mà tiêu dần đó vậy, Tốn sơ là Hạ chí, Khảm Cấn trung là Thu phân, Khôn cuối giao là Đông chí, âm Nhật tiến mà thứ tự thuận sinh, Dịch mà sau Đông chí âm bèn đi ngược bên trái trong dương mà cũng tiêu đó vậy. Qua lại đẩy nhau, tiêu trưởng nhân lên với nhau, 4 mùa vòng quanh, số âm dương thuận ngược, theo đó mà có thể hiểu biết vậy. Làm Trời rất trơn, tựa như lấy Trời đi bên trái đi bên phải, lấy cảnh huống thuận - nghịch, mà đều dùng chữ “nhược” (nếu như) mà suy nghĩ, chưa thể chấp nê, sau nói rằng: dương đi trong dương, âm đi trong âm, số đi đều thuận. Dương đi trong âm, âm đi trong dương, số đi đều nghịch.

Thái cực động tĩnh chia, 2 nghi lập, là 1 chia 2 vậy. Dương trên giao với âm, âm dưới giao với dương, 4 tượng sinh vậy, Dương giao với âm, âm giao với Dương mà 4 tượng Trời sinh vậy, cương giao với nhu, nhu giao với cương, mà Đất sinh dùng 4 tượng vậy. 8 quẻ lẫn lộn giao nhau mà muôn vật sinh, chia âm chia dương, thay đổi dùng nhu cương, cho nên Dịch có “ngôi” mà thành dùng đó vậy. 10 chia làm 100, 100 chia làm 1000, ngàn chia làm vạn, nha gốc có thân, thân có cành, cành có lá, càng to thì càng nhỏ, càng bé thì càng nhiều, hợp dùng làm 1, diễn ra ấy làm vạn. Cho nên Càn lấy chia đấy, Khôn lấy hợp đấy, Chấn lấy làm trưởng đấy, Tốn lấy làm tiêu đấy. Trưởng thì chia, chia thì tiêu, tiêu thì hợp, là 4 chia 8 vậy.

Gốc mà thân, thân mà cành, cành mà lá, đều lấy chia mà có, hợp mà tóm. Lấy 1 càng to thì số theo càng nhỏ, diễn mà chia đấy lấy vạn, càng ít theo số càng nhiều. Diễn mà càng nhiều, là theo ở dương mở, Càn thì chia, là ở dùng ngôi Vua đó vậy, cho nên Càn lấy chia dùng hợp mà càng to, theo ở âm dùng Khôn hợp hấp thụ dùng dấu, nên Khôn lấy hấp. Theo mở mà bầy ra ở nghi bên trái, bắt đầu từ Chấn, mà Nhật rải đều ở trưởng, nên Chấn lấy theo trưởng. Theo hấp mà bầy ra ở nghi bên phải, theo Tốn, mà Nhật theo về ở tiêu, nên Tốn lấy theo tiêu. Lớn còn gốc lớn mà cành lấy chia, lại cành lớn thì lá lấy chia. Phục mà đến Càn, càng lớn thì càng chia, do đó Càn là cùng cực số chia vậy, cho nên Nhật lớn thì chia, kịp đến số chia cùng cực, Càn chuyển Cấu, thì tiệm tiêu vậy. Tiêu thì lá tiêu mà cành lấy hấp, cành tiêu mà thân cây lấy hấp, từ Cấu đến Khôn, càng tiêu càng hấp, Khôn là cùng cực của số hấp. Cho nên nói tiêu thì hấp, khi đến số hấp cùng cực thì lại lớn, do đó Ly Đoài lớn để chia, đi theo bởi đang trong cảnh tiến, Khảm Cấn tiêu để hấp, theo bởi đang ở vào cảnh về.

Càn Khôn định ngôi, Chấn Tốn mới 1 giao, Đoài Ly Khảm Cấn lại giao. Cho nên Chấn dương hãy còn ít mà âm vẫn nhiều, Tốn âm ít mà dương hãy còn nhiều, Đoài Ly dương dần nhiều, Khảm Cấn âm dần nhiều, ấy lấy Thần với hỏa mà chẳng thấy đó vậy.

Càn Nam sáng, Khôn Bắc tối, Trời Đất định ngôi, khi chưa giao âm dương, trên dưới chia vậy. 1 giao gồm Chấn Tốn là mới giao, Đoài Ly Khảm Cấn lại giao, là giao ở giữa và giao ở cuối. Chấn là Càn dương mới giao với Khôn âm, nên dương ít mà âm còn nhiều, Đoài với Ly thì dương dần nhiều. Tốn là Khôn âm trên giao với Càn dương, âm ít mà dương còn nhiều, Khảm với Cấn thì âm dần nhiều, Chấn làm thiên thần, Cấn làm địa hỏa, cả hai đều dương ít mà âm hãy còn nhiều khắc, cho nên Thần thường ẩn mà Hỏa ít âm nhiều chẳng thấy vậy. Ấy từ ích trở xuống đến Dự, sở dĩ là không, vô số đó vậy.

Trước Vô cực, âm hợp dương, sau Vô cực thì có tượng dương chia âm, âm làm mẹ dương, dương làm cha âm, cho nên mẹ dựng con trai trưởng mà làm Phục, cha sinh gái trưởng làm Cấu, ấy lấy dương khởi từ Phục, âm khởi từ Cấu vậy.

Trước nói 4 thì có thể, còn 1 thì không có thể, Trời dùng 4 biến đầy đủ mà 1 lui ở 5, Đất 4 biến đủ là 1 thì lui ở 10, đó là “có” “không” dùng tới cùng cực. Cho nên cơ cực nói rằng dựng mới mà “có” “không” vô cực, đó là Nhật hóa mà “không” vậy. Nói rằng, trước Vô cực vô thoán khá nghĩ thuần dùng âm hấp mà ngậm gốc dương, lấy âm làm mẹ dương mà nghẽn trai trưởng ở trong bụng, dương bèn theo bởi dấy lên từ Phục. Theo dùng dương mở mà chia cành dương, lại là dương làm cha âm mà sinh gái trưởng lúc ban đầu, âm bèn theo bởi khởi ở Cấu. Từ Tốn tiêu mà đến Khôn hấp, tĩnh ngậm dùng cực gốc Trời để sinh, từ Chấn trưởng mà đến Càn chia, động mở dùng cực hang nguyệt để ẩn núp, bèn biết ngàn biến vạn hóa linh diệu trong khoảng 1 động 1 tĩnh.

Ly ở Trời mà đương đêm, nên trong dương có âm. Khảm ở Đất mà đương ngày, nên trong âm có dương đó vậy. Chấn mới giao âm mà dương sinh. Tốn mới tiêu dương mà âm sinh. Đoài dương trưởng, Cấn âm trưởng. Chấn Đoài ở Trời thì dùng âm, Tốn Cấn ở Đất thì dùng dương. Trời lấy mới sinh mà nói, thì âm trên dương dưới, đó là nghĩa giao thái. Đất lấy đã thành mà nói đấy, cho nên dương trên mà âm dưới, ngôi tôn ti vậy.

Dương lấy âm làm “thể”, âm lấy Dương làm “tính”, động là “tính” vậy, tĩnh là “thể” vậy. Tại Thiên thì dương động mà âm tĩnh, tại Địa thì dương tĩnh mà âm động.

Hết tập 7

(Bài viết của cụ Hà Uyên)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: HOÀNG CỰC KINH THẾ TỰ NGÔN

Bài học cuộc sống : Ổ bánh mì và lão già kì quặc

Trong cuộc sống, luôn tồn tại luật nhân quả. Những gì bạn làm hôm nay là căn nguyên cho những sự việc sẽ đến với bạn trong tương lai bởi vậy hãy luôn sống tốt và không bao giờ phải hổ thẹn với lương tâm của mình bạn nhé!
Bài học cuộc sống : Ổ bánh mì và lão già kì quặc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một người phụ nữ nọ có thói quen nướng bánh mì cho gia đình, luôn làm dư một cái để lại cho người nghèo đói. Bà để ổ bánh mì dư bên ngoài thành cửa sổ cho người nghèo đi qua dễ lấy.

Bài học cuộc sống : Ổ bánh mì và lão già kì quặc

Ngày qua ngày cứ đến buổi, một ông lão gù lưng đến lấy ổ bánh mì đi.

Thay vì nói lời cảm ơn, ông ta vừa đi vừa lẩm bẩm những lời như niệm chú:

“Việc xấu ngươi làm thì ở lại với ngươi, việc tốt ngươi làm thì sẽ trở lại với ngươi”.

Điều này cứ diễn ra, ngày này qua ngày khác. Mỗi ngày, người già đến lấy bánh và lại lẩm bẩm câu :

“Việc xấu ngươi làm thì ở lại với ngươi, việc tốt ngươi làm thì sẽ trở lại với ngươi!”

Ngày qua ngày, người phụ nữ dần bực bội trong lòng nghĩ:

“Nhận được bánh, không biết cảm ơn còn lải nhải mấy lời khó chịu kia! Hắn ta muốn ám chỉ điều gì?”.

Rồi một hôm, chịu hết nổi, bà nghĩ cách làm cho ông già đi khuất mắt. Bà tự nhủ:

“Ta sẽ làm cho hắn mất dạng”.

Bà trộn thuốc vào ổ bánh mì dư bà thường làm, tay run run để bánh có thuốc độc lên thành cửa sổ, bỗng cảm thấy hốt hoảng:

“Ta làm gì thế này?”

Bà ném vội ổ bánh có thuốc độc vào lửa và thay một cái bánh khác lên thành cửa sổ. Như mọi khi, ông lão đến lấy bánh và lại lẩm bẩm:

“Việc xấu ngươi làm thì ở lại với ngươi; việc tốt ngươi làm thì sẽ trở lại với ngươi”.

Ông lão cầm ổ bánh vui vẻ rời đi, không ai biết trong lòng người phụ nữ vừa trải qua một trận chiến giận dữ dội.

Có một điều mà không ai biết đó là mỗi khi đặt ổ bánh mì cho người nghèo lên thành cửa sổ, bà lại cầu nguyện cho đứa con trai đi tìm việc làm xa, đã nhiều tháng không nhận được tin tức. Bà nguyện cho con trở về nhà bình an, mạnh giỏi.

Buổi chiều hôm đó, có tiếng gõ cửa. Khi mở cửa ra, bà ngạc nhiên thấy con trai mình đứng trước cửa…

Anh ta gầy xọp đi, quần áo anh rách rưới đến thảm hại. Anh ta đói lả và mệt. Khi trông thấy mẹ, anh ta nói:

Mẹ ơi, con về được đến nhà quả là một phép lạ. Khi con còn cách nhà mình cả dặm đường, con đã ngã gục vì đói, không đi nổi nữa và tưởng mình sẽ chết dọc đường, nhưng bỗng có một người gù lưng đi ngang, con xin ông ta cho con một chút gì để ăn, và ông ta đã quá tử tế cho con nguyên một ổ bánh mì ngon và chút nước.

Ông ta nói:

“Đây là cái mà tôi có mỗi ngày, nhưng hôm nay tôi cho anh vì anh cần nó hơn tôi!”

Bài học cuộc sống : Ổ bánh mì và lão già kì quặc

Khi người mẹ nghe những lời đó, mặt bà biến sắc. Bà phải dựa vào thành cửa để khỏi ngã. Bà nhớ lại ổ bánh mì có thuốc độc mà bà đã làm sáng hôm nay. Nếu bà không ném nó vào lửa thì con trai yêu quý của bà đã ăn phải và đã chết!

Ngay lập tức bà nhớ lại câu nói lặp đi lặp lại qua ngày của ông lão…

Bài học cuộc sống : Ổ bánh mì và lão già kì quặc

Trong cuộc sống, luôn tồn tại luật nhân quả. Những gì bạn làm hôm nay là căn nguyên cho những sự việc sẽ đến với bạn trong tương lai bởi vậy hãy luôn sống tốt và không bao giờ phải hổ thẹn với lương tâm của mình./

>> Xem BÓI TÌNH YÊU mới nhất 2016!

>> Xem BÓI NGÀY SINH mới nhất 2016!

Theo "Bài học cuộc sống".


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài học cuộc sống : Ổ bánh mì và lão già kì quặc

Sao Thiên Tướng - Chủ sự uy nghi, đôn hậu và can đảm

Tìm hiểu về ý nghĩa của Sao Thiên Tướng trong lá số tử vi. Thiên Tướng chỉ sự đôn hậu, can đảm, ưa thanh sắc, dễ đam mê chủ sự uy dũng công danh và tài lộc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Thiên Tướng - Chủ sự uy nghi, đôn hậu và can đảm

Sao Thiên Tướng - Chủ sự uy nghi, đôn hậu và can đảm

Sao Thiên Tướng thuộc chòm sao Nam Đẩu Tinh, tên thường gọi là Tướng (thuộc tính Dương Thủy).

Sao Thiên Tướng là một Quyền tinh, Dũng tinh chủ quan lộc và phúc thiện.

Sao Thiên Tướng miếu địa tại cung: Dần, Thân.

Vượng địa tại cung: Thìn, Tuất, Tý, Ngọ.

Hãm địa tại: Mão, Dậu.

Cung mệnh có sao Thiên Tướng tọa thủ dù đắc địa, miếu địa hay vượng địa là người có thân hình nở nang, da trắng, cao vừa tầm, có vẻ đẹp đẽ và uy nghi, rất thông minh, tính đôn hậu và thẳng thắn.

Sao Thiên Tướng khắc chế được tính nóng nảy của Sao Liêm trinh.

Thiên Tướng miếu địa, vượng địa hay đắc địa có thể khắc chế được tính hung ác của các sát tinh. Coi sát tinh như sao tùy thuộc.

Thiên Tướng gặp Kình đồng cung ví như dao kề trên đầu thường gây ra những chuyện chẳng lành.

Gặp Tuần, triệt án ngữ ví như ông tướng mất đầu hay ấn tín bị sứt mẻ, nên hết quyền lực lại gây ra những tai họa khủng khiếp. Thích ăn ngon mặc đẹp, ưa thanh sắc bề ngoài, và được hưởng phú quý giàu sang, phúc thọ song toàn.

Sao Thiên Tướng hãm địa thì thân hình nở nang nhưng hơi thấp, kém thông minh tính tình đôn hậu nhưng dễ đam mê và thích ăn chơi không biết lo xa. Suốt đời chẳng mấy khi được xứng y toại lòng, tuy nhiên vẫn được cơm no áo ấm và sống lâu.

Thiên Tướng miếu địa, vượng địa hay đắc địa gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp như Tử, Phủ, Vũ, Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả, hữu, Khoa, Quyền, Lộc tất được hưởng phú quý tới tột bậc và có uy quyền, danh tiếng lẫy lừng.

Tướng vượng địa gặp Kình, Đà hội họp thì nên chuyên làm về những ngành mang tính chất kỹ nghệ, kinh doanh hay buôn bán sẽ có nhiều tài lộc.

 Thiên Tướng miếu địa, vượng địa hay đắc địa gặp nhiều sao xấu xa và mờ ám nhất là các sát tinh sẽ có nhiều bệnh tật ở đầu, mặt.

Sao Thiên Tướng dù nằm ở vị trí nào tốt hay xấu mà gặp Tuần, Triệt án ngữ thì suốt đời khổ cực, công danh trắc trở, tiền bạc khó kiếm, thường phải ly tổ buôn ba. Hay mắc phải những tai nạn khủng khiếp như dao gươm, súng đạn.

Sao Thiên Tướng hãm địa, vượng địa, đắc địa hay hãm địa dù ở vị trí nào mà gặp sao Thiên Hình đồng cung thì thật khó thoát khỏi những tai nạn về dao búa, chắc chắn sẽ bị thương ở đầu, mặt hay tay chân.

Phụ nữ có sao Thiên Tướng thủ mệnh hãm địa là người có tài nhưng hay ghen tuông cả đời chẳng mấy khi được xứng ý toại lòng, phải buồn khổ vì chồng con.

Cung mệnh an tại Thìn, Tuất có Thiên Tướng tọa thủ là một cách quý.

Đàn bà có sao Thiên Tướng tọa thủ tại mệnh rất can đảm và dũng mãnh ví như một con gấu dữ. nếu Thiên Tướng miếu địa, vượng địa hay đắc địa thì lấy được chồng hiền, tài giỏi, sinh con quý.

Cung mệnh an tại Tý, Ngọ có sao Liêm Trinh và Thiên Tướng tọa thủ đồng cung giáp với Kình Dương khó tránh được cảnh tù tội.

Đàn bà mà cung mệnh có Thiên Tướng, Hồng Loan tọa thủ đồng ắt lấy được chồng tài giỏi và giàu sang.

 Đàn bà mà cung mệnh có Thiên Tướng tọa thủ gặp Khúc, Mộc, Cái, Đào hội họp là người rất xinh đẹp nhưng lại có tính dâm đãng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thiên Tướng - Chủ sự uy nghi, đôn hậu và can đảm

Lý do người Nhật tách biệt khu vệ sinh và nhà tắm

Cách thiết kế không gian riêng tư ở Nhật có nhiều điểm đặc biệt để chủ nhà có được cảm giác thoải mái nhất.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Ảnh hưởng truyền thống

Nước Nhật có tốc độ phát triển kinh tế, hiện đại hóa rất nhanh nhưng người dân vẫn giữ nhiều nét truyền thống. Một trong số đó chính là việc tách biệt khu vệ sinh.

Cũng giống như ở Việt Nam, trước đây, người Nhật thường bố trí nhà vệ sinh xa khu nhà chính, thường là ở giữa vườn tĩnh mịch hay cuối hành lang. Nhờ đó, khu vực này luôn có cửa sổ, ánh sáng tự nhiên, thông gió giúp nhà vệ sinh thoáng đãng. Không gian này cũng yên tĩnh, kín đáo, không ảnh hưởng tới sinh hoạt của các thành viên khác.

2. Giữ gìn vệ sinh

Việc bố trí WC ngoài vườn đảm bảo sự sạch sẽ, thông thoáng nhưng gây khó khăn vào mùa đông và buổi tối. Thêm vào đó, khi diện tích nhà bị thu hẹp, người Nhật buộc phải bố trí nhà vệ sinh gần chỗ ở hơn nhưng họ vẫn cố tách biệt WC với nhà tắm.

Họ quan niệm, khu vệ sinh trong nhà tích tụ nhiều cái bẩn còn nhà tắm là nơi làm sạch cơ thể. Bởi vậy, người Nhật thấy lạ khi người Mỹ và các nước khác lại ghép chung 2 khu vực này dù nhà rộng.

Theo Life Buzz, không chỉ thế, họ luôn phân biệt dép đi trong nhà và dép đi trong khu vệ sinh. Bạn nên tránh việc đi lẫn lộn hai loại dép này khi tới chơi nhà người Nhật.

ly-do-nguoi-nhat-tach-biet-khu-ve-sinh-va-nha-tam-1

Khu vệ sinh có dép riêng với ký hiệu rõ ràng để tránh nhầm lẫn. Ảnh: Japan Talk.

3. Tiện lợi trong sinh hoạt

Nếu như người phương Tây tránh nhắc tới nhà vệ sinh thì người Nhật không thấy ngại ngần bởi họ muốn tìm mọi cách để cải tiến chúng. Nhịp sống hàng ngày của người Nhật rất gấp gáp nhưng họ có nhiều cách tận hưởng cuộc sống.

Việc tách biệt 2 loại phòng này giúp cho người trong nhà có nhiều thời gian sử dụng không gian hơn. Dù diện tích nhà tắm nhỏ nhưng người Nhật vẫn cố bố trí bồn tắm. Bởi vậy, cách bố trí riêng 2 không gian giúp những người ngâm bồn thư thái, không ảnh hưởng tới các thành viên khác trong nhà.

Lam Huyền


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lý do người Nhật tách biệt khu vệ sinh và nhà tắm

Những lời chúc sinh nhật dành cho anh trai, em trai hay nhất

Những lời chúc sinh nhật dành cho anh trai, em trai hay nhất. Còn gì ý nghĩa hơn trong ngày sinh nhật của mình nhận được lời chúc ý nghĩa từ người thân
Những lời chúc sinh nhật dành cho anh trai, em trai hay nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những lời chúc sinh nhật dành cho anh trai, em trai hay nhất. Còn gì ý nghĩa hơn trong ngày sinh nhật của mình ngoài những món quà, bánh sinh nhật hay những lời chúc từ bạn bè và người thân đặc biệt hơn là lời chúc sinh nhật từ những người thân yêu nhất trong gia đình của mình.

Dưới đây là những lời chúc sinh nhật dành cho anh trai, em trai hay nhất mà chúng tôi muốn gửi tới các bạn. Cùng xem và lựa chọn cho mình một lời chúc ý nghĩa này để dành tặng người thân yêu quý trong gia đình mình nhé!

Những lời chúc sinh nhật dành cho anh trai, em trai hay nhất

Lời chúc sinh nhật dành cho anh trai

Chúc anh trai sinh nhật vui vẻ. Thêm một tuổi mới đẹp trai hơn, yêu đời hơn! ^^. Chúc anh làm ăn phát đạt, Thành công trong cuộc sống cũng như đường đời. Chúc anh những gì tốt đẹp nhất và may mắn trên mọi lĩnh vực.

———–

Happy birthday to you…Happy birthday to you… Happy birthday… Happy birthday… Happy birthday to you..
Chúc mừng sinh nhật anh!!!

———–

Em chúc anh trai em sinh nhật vui vẻ nè… Sớm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao… Ở trong đó giữ gìn sức khoẻ nha anh!!!

Happy Birthday! Em gái chúc Anh Trai yêu quý sinh nhật đầy ắp yêu thuơng và tiếng cười, thêm tuổi, thêm hạnh phúc, thêm nhiều niềm zui nhé!!! ^^

Chúc anh sinh nhật thiệt là vui vẻ, hay ăn chóng lớn và thiệt là nhìu quà! Happy Birthday!!! ^^

Sinh nhật anh trai yêu quý! Em gái chúc anh luôn luôn “vui vẻ, tươi trẻ, mạnh khoẻ, tính tình mát mẻ, cuộc đời suôn sẻ” và luôn luôn “tươi cười, yêu đời, ngời ngời sức sống” Happy birthday! ^^

Anh à! người bạn thân cuả em^^! hôm nay sinh nhật cuả anh rồi, em thì ở xa anh quá, buồn nhiều rồi, qua tuổi mới anh phải vui lên nhé! Hạnh phúc lên nhé! Yêu đời lên nhé! Em có quà cho anh đó nhưng đợi em xong việc em sẽ mang về cho anh. Tuy chậm trễ nhưng là tấm lòng ở tận nơi xa. Em mong anh luôn may mắn, em là đứa em hay buồn nhất. Cảm ơn anh đã ở cạnh an ủi và sẻ chia! cảm ơn anh! Anh trai của em! người bạn của em!!!

Hôm nay sinh nhật anh trai
Thằng em trai út tặng bài thơ thôi
Em đây xin chúc mấy lời
Mong anh tuổi mới, xuân ngời như hoa
Chúc anh vạn việc thăng hoa
Công danh sự nghiệp, tư gia yên bình
Anh em nặng nghĩa ân tình
Cùng một cha mẹ, chung hình chui ra
Anh em nay tạm xa nhà
Nhưng luôn che chở có hà chi đâu
Dù đời lắm nhiều bể dâu
Cầu chúc anh vững, tâm đầu ý chung
Gia đình trong ấm cả vùng
Dù đi khắp nẻo trung phùng bốn phương
Giờ đây sống xa quê hương
Anh em trọn giữ tình thương ruột già
Dù nay cha mẹ ở xa
Anh em mình vẫn thuận hòa ấm êm
Anh nhường nhin, em kính trên
Luôn lấy chứ “Nghĩa” đặt lên hàng đầu
Chúng ta xa quê đã lâu
May có anh cả, chị dâu ở nhà
Chăm sóc cho mẹ và cha
Lo cho em út ở xa chưa về
Tình anh nghĩa chị ân cần
Đói no sớm tối tảo tần vẫn vui
Chỉ cần cơm mắm,cà thôi
Có tình yêu ấy cuộc đời vẫn vui
Chúc anh luôn nở nụ cười
Để anh em với mọi người cùng vui
Khi xưa sắn luộc khoai nùi
Hương thơm vẫn tỏa ngàn đời không quên
Năm mới xuân đến tuổi lên
Chúc anh tất cả, công nên nghiệp thành…

Sinh nhật Anh! Chúc anh thêm tuổi mới, vui vẻ ,mạnh khỏe, học tập tốt và luôn thành công trên con đường mình đã chọn!^^ Happy Birthday!!!

Happy Birthday!!! Chúc anh tuổi mới vui vẻ, măy mắn, thành công trong cuộc sống, điều quan trọng là nhanh đưa chị dâu về cho em nhé!!! Cảm ơn anh trai nhé! ^^

Hôm nay là sinh nhật anh trai!
Chúc anh sức khoẻ cũng thấy ngượng vì anh khoẻ như Phạm Văn Mách rồi còn chúc nữa để bị bắt nạt à :)))
Tính thì hơi hâm hâm giống mình rồi còn chúc luôn vui vẻ liệu có ổn không nhể :))
Thôi không chúc gì cả … Mong cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên thế giới này sẽ đến với ” Anh Trai ”
Yêu anh … Đấm anh … Đá anh … Cắn a … Ôm a … Hôn anh! À cái này là hơi lố :)))
Đùa thôi … Happy Birthday nhé anh trai iêu quý của em!!! Hôm nào nhớ về đấy.

Đứa em gái ngốc chẳng thể nghĩ ra lời hay ý đẹp để chúc anh.Nhưng em nghĩ khỏi cần mĩ miều làm gì, thật mà chất anh nhỉ… Sinh nhật Anh! Em chúc anh thêm tuổi mới, sức khỏe mới, nhiều niềm vui mới và thành công trong cuộc sống! Đặc biệt hay ăn chóng béo ạ!^^

Hôm nay là ngày đặc biệt. Là ngày của 1 người mà em luôn tôn trọng, luôn yêu quí. Người mà đã từng là anh trai của em trong 1 khoảng thời gian dài :)) Tuy chả họ hàng gì cả nhưng cứ gọi là có chút thân. Lúc này là … ngày… Chúc Anh hôm nay sẽ thật hạnh phúc, vui vẻ :)) Gặp nhiều may mắn và mạnh khoẻ và dù có như thế nào thì cứ luôn phải mỉm cười nhé HAPPY BIRTHDAY!!!

Let my deep blessing always. Surround magnificent travel of your life. I hope in years to come you will have a good health and plain sailing.
Hãy để những lời chúc sâu lắng của tôi luôn ở bên cạnh cuộc sống tuyệt vời của bạn. Tôi hy vọng trong năm tới bạn luôn khỏe mạnh và thuận buồm xuôi gió trong công việc.

Tuổi mới! Tình yêu mới! Hạnh phúc, may mắn, vui vẻ nha anh!^^ Thêm tí chút đập troai cho tuổi 22 nữa nè. Hehehehe :)))

Ố… ồ…. Bữa nay sinh nhật cậu. Em chúc cậu luôn vui _ trẻ _ khỏe và luôn thành công trong cuộc sống nhá!!! :)))

Happy Birthday! Chúc anh sinh nhật vui vẻ, hạnh phúc, thêm tuổi mới sẽ tràn đầy năng lượng, luôn vui vẻ và gặp nhiều may mắn. Chúc anh kiếm được thiệt nhiều tiền và ngày một phong độ hơn, và cuối cùng là sớm lộ diện “GẤU” nha anh :))) Happy Birthday anh!

Chúc mừng sinh nhật ông anh trai có 102 của tôi. Dù sao thì trên trái đất này cũng chỉ có 1 anh thôi nên chúc anh mau làm xong đồ án tốt rồi kiếm tiền về cho em tiêu với nhé. Dù là anh em nhưng chả bao giờ add FB nhau nên anh không đọc được rồi :))). Chúc anh tròn …tuổi!

Hôm nay không như ngày hôm qua , hôm nay là 1 ngày đặc biệt … Là ngày mà 1 ” con gà ” hâm hâm có mặt trên thế gian này cách đây 21 năm anh nhỉ? Chúc anh trai của em có 1 sinh nhật vui vẻ nha , sang tuổi mới với thành công mới, nhiều niềm vui mới, luôn mỉm cười và may mắn nhé anh…” Đường gập ghềnh nhiều sỏi đá có vấp ngã mới làm lên thành công ” Hãy vững tin và cố gắng theo đuổi con đường mình đã chọn – Sớm thành công rồi trở về với gia đình nha anh … hihoooo ¶¶¶••
không được gặp anh lên em không có quà âu, khi nào anh về đây em tặng bù nhá a zaiiiii .hehe

Happy Birthday Anh! Bảo là anh em nhưng mà chả nói chuyện mấy, ở nhà thì toàn mày tao =)) viết như này có hơi ngại nhưng mà không ngại bằng nói mồm. Chúc anh thêm tuổi mới sớm có người yêu rồi mau lấy vợ về càng ngày càng đẹp trai hơn :)) rồi cả hút thuốc ít thôi ăn thật nhiều vào để béo lên tí nữa, uống thật nhiều sữa để cao thêm tí nữa =)) Nói chung là đọc xong đừng có cười =)) Sinh nhật vuiiii vẻ

Happy birthday to ANH TRAI …
Anh trai yêu quý của em
Em Gái CHÚC ANH SINH NHẬT VUI VẺ nhé
tự nhiên thấy nhớ anh lắm í (hihi )
giữ bộn bề cuộc sống có đôi lúc mệt mỏi lắm, bon chen lắm, nhưng cố gắng lên anh nhé. Em gái chúc anh trai yêu quý sang tuổi mới người lớn hơn, cao hơn, đẹp trai hơn và thành công hơn nhé. Có yêu ai thì yêu chung tình anh nhé hêhe! :)))

Thức muộn đến giờ này chỉ để chúc sinh nhật anh trai yêu quý. Lại còn muốn là người đầu tiên chúc anh nữa chứ *****buồn*********buồn*********không biết mình có phải là người đầu tiên không đây. Nhưng dù sao cũng chúc anh sinh nhật vui vẻ sớm lấy vk để mình còn có cháu hí hí hí

Chúc anh trai iu quý luôn vui vẻ, khỏe mạnh, trắng trẻo đẹp trai và luôn vững tin trên con đường anh đã chọn nhé! Mẹ và mọi người luôn bên anh … em gái thương anh lắm …

Lời chúc sinh nhật dành cho em trai

Nhân dịp sinh nhật lần thứ… của em trai, chúc em luôn tươi khỏe, trẻ đẹp. Cầu mong những gì may mắn nhất, tốt đẹp nhất và hạnh phúc nhất sẽ đến với em trong tuổi mới.

I hope all your birthday dreams and wishes come true. ~ Chúc tất cả các ước nguyện của em trai trong ngày sinh nhật đều trở thành hiện thực.

Một ngày Sinh nhật thật ý nghĩa, đầy vui tươi và ngập tràn hạnh phúc nhé! Chúc em trai luôn cười tươi, cười duyên, cười e thẹn, cư¬ời trẻ trung và cười các kiểu hoài hoài trong ngày hôm nay! Happy Birthday ^^

Chúc mừng sinh nhật bạn và người thân ngập tràn tiếng cười và tràn đầy tình yêu thương. Hy vọng với những lời chúc sinh nhật anh trai được tổng hợp ở trên sẽ 1 phần nào đó giúp ích được cho bạn, thay lời muốn nói mang lại 1 chút niềm vui nho nhỏ nhưng thật ý nghĩa với người anh trai yêu quý của mình, bởi chúng ta sống để yêu thương.

Chúc mừng sinh nhật em trai, chúc em tuổi mới
Tươi như hoa thiên lý
Khỏe như đá kim cương
Sức mạng rắn phi thường
Vượt qua được mọi khó khăn vất vả

Happy Birthday! Chúc em trai Sinh nhật đầy ắp yêu thuơng và tiếng cười, thêm tuổi, thêm hạnh phúc, thêm nhiều niềm zui nhé!!!

Chúc em trai sinh nhật thiệt là vui vẻ hay ăn chóng lớn và thiệt là nhìu quá!!!

Tuổi mới ăn no chóng lớn, tiền bạc đầy nhà, gà đầy chuồng nhé em trai!!!

Hôm nay không như ngày hôm qua, hôm nay là một ngày đặc biệt, là ngày mà một thiên thần đáng yêu đã có mặt trên thế giới cách đây… năm. Luôn mỉm cười và may mắn em trai nhé.

Chúc em trai một sinh nhật thật nhiều ý nghĩa và hạnh phúc. Cầu mong mọi điều may mắn sẽ đến với em.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lời chúc sinh nhật dành cho anh trai, em trai hay nhất

Mơ thấy từ điển: Quá hiếu thắng sẽ bị dày vò bởi khó khăn –

Từ điển và bách khoa toàn thư đều là một dạng công cụ. Chúng có thể giúp con người tìm hiểu thế giới bên ngoài, nhưng lại không thể giúp con người hiểu biết hơn về bản thân mình. Mơ thấy từ điển có nghĩa là bạn rất hiếu thắng, sẽ bị dày vò bởi đau bu
Mơ thấy từ điển: Quá hiếu thắng sẽ bị dày vò bởi khó khăn –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy từ điển: Quá hiếu thắng sẽ bị dày vò bởi khó khăn –

Nhạc hòa tấu PHẬT GIÁO cực hay cho tâm thanh tịnh

Như một duyên lành, ## gửi tặng các bạn các bản nhạc Hòa tấu Phật giáo như một món quà tinh thần tri ân quý độc giả trong thời gian qua.
Nhạc hòa tấu PHẬT GIÁO cực hay cho tâm thanh tịnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Như một duyên lành, ## gửi tặng các bạn các bản Hòa tấu Phật giáo như một món quà tinh thần tri ân quý độc giả trong thời gian qua.
Người không tín Phật có đeo bản mệnh Phật được không? Phật pháp ứng dụng - đạo không xa đời Phật pháp nhiệm màu phải chăng là cầu gì được nấy? Ma quỷ trong Phật giáo - u mê còn đáng sợ hơn quỷ dữ Những bài kinh Phật hay cho Phật tử tu tại gia Phật dạy làm người: Lương thiện là việc không cần cố gắng Lời Phật dạy về cuộc sống: Đừng coi thường ai cả Sự kì diệu của Chú Đại Bi
Hạnh phúc chỉ đến với ta khi nào ta nhẹ lòng, thanh thản... Những bài Nhạc Phật như tiếng ru của mẹ, thanh thoát như lời kinh êm ấm. Mỗi âm thanh phát ra là một sự tĩnh lặng và êm dịu.   Mời các bạn cùng nghe và cảm nhận trong video clip dưới đây: 
 

► Cùng đọc Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhạc hòa tấu PHẬT GIÁO cực hay cho tâm thanh tịnh

Những cửa hàng sang tay, chuyển tay cần phải hiểu rõ nguyên nhân –

Trong trường hợp bình thường, chuyển nhượng cửa hàng có hai nguyên nhân thường thấy: Thứ nhất là kinh doanh không tốt: thứ hai là do sự chuyển đổi, di chuyển nơi ở của nhà kinh doanh hoặc những biến cố khác. Những người nhận chuyển nhượng đầu tiên ph

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ải làm rõ xem người kinh doanh hiện tại vì sao lại chuyển nhượng của hàng đó? Phí chuyển nhượng và thu nhập kinh doanh có phải là rất hợp lý hoặc phù hợp không? Ngành nghề kinh doanh có phải thích hợp với kỹ năng và cá tính của bản thân mình không? Cái gọi là “biết mình biết ta”, thì mới có thể thực hiện được cục diện mới và phát triển tốt.

khuonvienamthucviet7

Đầu tư vào loại hình cửa hàng kinh doanh mở rộng thị trường lớn, người đầu tư cần phải lưu ý xem vị trí cũng như toà nhà sở tại của cửa hàng này có phải là cửa hàng chủ điểm (mặt hàng chủ điểm) hay không. Nếu trong toà nhà đó không có cửa hàng chủ điểm thì có thể thấy định vị kinh doanh ở tòa nhà đó là không rõ ràng, những điều này đều sẽ có quan hệ đến tình trạng người đến lựa chọn cửa hàng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những cửa hàng sang tay, chuyển tay cần phải hiểu rõ nguyên nhân –

Các lễ hội ngày 3 tháng 7 âm lịch - Hội Thôn Ngọc Lịch

Hội Thôn Ngọc Lịch được tổ chức vào ngày mùng 3 tháng 7 hàng năm tại thôn Ngọc Lịch, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 3 tháng 7 âm lịch - Hội Thôn Ngọc Lịch

Các lễ hội ngày 3 tháng 7 âm lịch - Hội Thôn Ngọc Lịch

Hội Thôn Ngọc Lịch

Thời gian: tổ chức vào ngày 3 tháng 7 âm lịch.

Địa điểm: thôn Ngọc Lịch, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn ba vị đại vương Thành hoàng làng: Lâm Lang, Linh Lang, Ngọc Luyện, có tài đánh giặc thời Hùng Vương.

Nội dung: trong ngày lễ hội người dân Ngọc Lịch mỗ trâu để tế lễ các vị thành hoàng làng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 3 tháng 7 âm lịch - Hội Thôn Ngọc Lịch

Bẻ cành hái lộc có thật sự mang may mắn về nhà?

Các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cho rằng, việc đi xin lộc đầu năm mang ý nghĩa rất rộng, không đơn giản là hái mầm non bẻ cành.
Bẻ cành hái lộc có thật sự mang may mắn về nhà?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo TS Nguyễn Sỹ Toản, Trưởng khoa Di sản văn hóa, ĐH Văn hóa Hà Nội, tục hái lộc đầu năm tùy vào quan niệm, nhận thức và điều kiện môi trường sống của từng vùng miền mà con người sẽ có và nên có cách ứng xử phù hợp khi tham gia hoạt động tín ngưỡng trong dịp đầu năm mới.

Nếu sống ở vùng trung du, miền núi có thể sẽ thuận lợi hơn cho việc lựa chọn hái một cành chồi non trên các loại cây có sức sống mạnh mẽ, xanh tốt quanh năm như sanh, si, sung, đa với ý nghĩa biểu tượng mang lộc chồi, sự sinh sôi nảy nở về nhà. Nơi thành thị, đất chật người đông, ít cây xanh và thường được qui hoạch trên các đường phố, nếu cả trăm người hái lộc bẻ cành thì cây cối trơ trụi. Phong tục tốt đẹp trở thành hành động tàn phá môi trường.

“Dù sống ở vùng miền nào, có lẽ chúng ta nên thay đổi quan niệm, không nhất thiết phải bẻ cành hái quả mới là xin lộc đầu năm. Khi đi lễ đền, chùa đầu năm, ta thắp một nén hương, khấn Thần, Phật với tâm trong sáng, xin những điều may mắn, tốt lành đem về gia đình. Đó cũng là hình thức hái lộc theo đúng nghĩa và phù hợp với xu thế phát triển hiện nay”, ông Toản nói.

Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cho rằng, quan niệm bẻ cành càng to, càng nhiều lộc là cách hiểu “hết sức trần trụi”, hay nói đúng hơn là thiếu sự thiếu hiểu biết.

Ông Toản giải thích: “Giống như việc đi lễ đình, đền, chùa, một số người sai lầm khi tin rằng đem mâm cao, cỗ đầy, lễ vật nhiều thì được Thần, Phật ban tặng nhiều tài lộc, may mắn. Vậy người to khỏe, mạnh tay bẻ cành to sẽ có nhiều lộc hay sao? Thực hiện nghi thức tín ngưỡng để con người vững tâm hơn, từ đó tập trung phấn đấu vào năm mới. Hiểu được ý nghĩa sâu xa của phong tục hái lộc, ta sẽ không chen lấn xô bồ”. 

Nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Sỹ Toản chia sẻ, bản thân ông và gia đình chưa bao giờ hái lộc bằng hình thức bẻ cành cây đầu năm. Ông thường tự nhắc nhở bản thân và con cháu, tài lộc, danh vọng đều do nỗ lực của bản thân mình mà có chứ tuyệt nhiên không có sự ban phát của Thần, Phật cho người không nỗ lực rèn luyện phấn đấu.

Giáo sư Ngô Đức Thịnh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và bảo tồn văn hoá tín ngưỡng Việt Nam, Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa Quốc gia cho hay, ông cảm thấy  buồn khi chứng kiến cảnh cây cối tan tác đêm giao thừa những năm gần đây.

“Gìn giữ phong tục hái lộc là điều đáng quý nhưng bẻ cả cành to đem về nhà, đó là hành vi phá hoại, sai tín ngưỡng”, GS Thịnh nói.

Theo GS Thịnh, mọi người có thể xin lộc đầu năm bằng cách lấy những cành lộc tượng trưng được chuẩn bị sẵn ở đền, chùa, đặt lại đó chút tiền lẻ công đức. Hoặc người dân chọn mua cành lộc bán ở đường, mua một vài quả khế, cây mía hoặc một chậu cây nho nhỏ… đem về nhà trong ngày đầu năm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bẻ cành hái lộc có thật sự mang may mắn về nhà?

Bùa lỗ ban và thuật ếm nhà ngày xưa

Có những người học theo phép của Bùa Lỗ Ban,đã sử dụng Bùa Lỗ Ban để ếm căn nhà họ vừa xây dựng , kiến cho chủ nhà suy sụp , thậm chí chết tuyệt nọc cả nhà.
Bùa lỗ ban và thuật ếm nhà ngày xưa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Lời đề về Bùa Lỗ Ban

Ngày xưa, trong khi làm nhà , những người thợ và chủ nhà thường phát sinh những mâu thuẫn vì những người thợ lúc đó có địa vị rất thấp , chủ nhà không chỉ tiếp đãi họ qua loa sơ sài mà còn cắt giảm tiền công , thậm chí còn đánh , chửi họ. Để bảo vệ cho những lợi ích của mình và trừng trị những người chủ nhà bất nhân , trong những người thợ đó có những người học theo phép của Bùa Lỗ Ban,đã sử dụng Bùa Lỗ Ban để ếm căn nhà họ vừa xây dựng , kiến cho chủ nhà suy sụp , thậm chí chết tuyệt nọc cả nhà. Có những truyền thuyết nói rằng , những người thợ biết dùng Bùa Lỗ Ban , cứ 10 nhà họ phải ếm một nhà để nuôi Tổ nghề. Gặp phải nhà thứ 10 đối xử tốt với họ, những vị thày Lỗ Ban đó phải dựng một căn nhà giả và ếm vào đó , sau đó đốt đi mới khỏi bị Tổ hành. Có rất nhiều truyền thuyết trong dân gian nói về việc các người thợ ếm nhà và hậu quả xảy ra vô cùng thảm khốc cho gia chủ. 

2/ Bùa chú của người thợ .
Người thợ thường dùng bùa chú ở những nơi không có người để người khác không nhìn thấy được. Khi giở Bùa chú phải nhìn chăm chú vào lá bùa sau đó mới được thực hiện. 

3/ Phương pháp giải bùa của chủ nhà
Khi làm nhà, thợ đá , thợ xi măng và thợ mộc thường làm các loại bùa để đầu độc , yểm ma hoặc làm hại chủ nhà. Để hóa giải , vào ngày bắc xà( gác đòn dông -dienbatn), phải dùng 3 thứ súc vật trâu, dê , lợn để làm đồ lễ tế, ngoài ra phải chuẩn bị một bức hoành phi, báo cáo lên các vị Tướng, Thần và vị Sư Tổ Lỗ Ban rồi bí mật viết nội dung một lá Bùa với câu niệm chú : " Ác tương vô tri, cổ độc yểm ma, tự tác tự đương, chủ nhân vô thương " Sau khi niệm thầm xong 7 lần, người thợ làm lá bùa hại người đó sẽ gặp tai họa. Ngoài ra còn phải niệm :" Ngã phụng Thái Thượng lão quân sắc lệnh, tha đích chế tác đối ngã một hữu phòng ngại, nguyện bách vật hóa vi cát tường, cấp cấp luật lệnh ". Sau đó đem lá bùa đốt ở chỗ không có người, không được để cho người khác nhìn thấy, giấu màu đen vàng và máu chó vào trong rượu, khi bắc xà , đem rượu này rắc lên đầu người thợ , rắc liên tiếp 3 chén, rượu còn lại chia cho thợ thuyền cùng uống. Như vậy người thợ yểm bùa, yểm ma sẽ phải chịu hậu quả từ chính hành động của mình, trong khi mọi việc của chủ nhà vẫn có thể gặp may mắn và thuận lợi.

( GIẢI THÍCH ) .
Phép thuật do những người thợ thực hiện thường có thể khiến cho chủ nhà nảy sinh áp lực về tâm lý , vì vậy thời xưa khi xây nhà , sau khi chủ nhà và thợ phát sinh ra mâu thuẫn , chủ nhà sợ thợ cố ý dở trò ma mãnh trong quá trình xây dựng nên đã áp dụng biện pháp giải bùa như trên. Có một cách giải bùa khác nữa là : Chủ nhà vừa cầm một chiếc rìu gõ vào một thanh gỗ đặt giữa nhà và niệm chú : " Đảo hảo, đảo hảo , trụ thử trạch nội, thế thế ôn bão ".
Sau khi xây xong toàn bộ ngôi nhà , chủ đặt một chậu nước ở trong phòng, tất cả mọi người ở trong nhà đều cầm một cành liễu, nhúng vào nước rồi vẩy quanh phòng, vừa đi vừa niệm thần chú : " Mộc lang mộc lang, viễn khứ địa phương, tác giả tự thụ, vi giả tự thường, sở hữu yểm ma, vu ngã vô can, Cấp cấp như Thái Thượng Lão Quân lệnh sắc ". 
Vào thời xa xưa, bùa chú bị cho là có sức cảm ứng, hoặc lệnh cấm đối với quỷ thần hoặc giới tự nhiên, Khi thực hiện bùa thuật, Đạo sĩ thường dựa vào một số vật môi giới nào đó, chẳng hạn như nước bùa. Người xưa cho rằng, những thứ đã qua làm phép thuật này, cũng có ma lực của bùa thuật.
Bùa chú được vận dụng rông rãi trong Đạo giáo. Bùa chú của Đạo giáo thường dùng những từ ra lệnh như " như luật lệnh", "cấp cấp như luật lệnh". Thái Thượng Lão Quân cấp cấp như luật lệnh ",...
Nguyên nhân là do Đạo giáo được thành lập từ đời nhà Hán, các chiếu thư và bài hịch đời nhà Hán thường có các từ :"như luật lệnh". "như luật lệnh" có ý chỉ việc chấp hành pháp lệnh, về mặt ngữ khí , cụm từ này mang ý nghĩa " kẻ phạm luật phải bị truy cứu đến cùng ". Những cụm từ chính thức mô tả quyền uy của pháp luật và chính lệnh trước hết được tiếp nhận bởi các thày cúng dân gian, sau đó được truyền lại cho dân gian.
Trong nghi thức thực hiện pháp lệnh của Đạo giáo, người ta thường đọc các câu bùa chú, bấm ngón tay niệm thần chú hoặc Bộ Cương....chúng cùng với thư phù trở thành một thủ đoạn cơ bản của Đạo pháp. Bản thân những phép thuật này , có tác dụng giúp đỡ con người duy trì được sự cân bằng về tâm lý và niềm tin vào cuộc sống, trước sức mạnh phi thường không thể khống chế.
Trong " Đẩu pháp" giữa những người thợ và chủ nhà , ta có thể thấy rất nhiều yếu tố mê tín.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bùa lỗ ban và thuật ếm nhà ngày xưa

Luận dụng thần

Một bài viết về luận dụng thần của tác giả Hoàng Đại Lục. Mời các bạn cùng đọc.
Luận dụng thần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tác giả: Hoàng Đại Lục

Dụng thần là gì? Học giả mệnh lý hiện đại hầu như đều nhất chí cho rằng: Dụng thần tức là mấu chốt của bát tự, là một hai loại ngũ hành co thể gây nên những tác dụng phù ức, điều hậu, thông quan trong bát tự. Hoặc có thể nói, dụng thần chính là "thần" có thể làm cân bằng ngũ hành bát tự, có ích với nhật chủ, nói gọn là dụng thần cân bằng.

Lật giở các thư tịch mệnh lý hiện đại, chúng ta sẽ phát hiện đa số tác giả đều dùng phần lớn số trang sách để luận thuật tác dụng quan trọng của dụng thần và cả phương pháp lựa chọn dụng thần. Các vị ấy còn cho rằng dụng thần không thể bị tổn thương được, dụng thần mà có lực thì mệnh chủ sẽ cát, dụng thần bị thương thì mệnh chủ sẽ hung, do đó điều cơ bản nhất, quan kiện nhất, khó khăn nhất khi xem mệnh chính là tìm đúng dụng thần. Ví dụ như cuốn "Tứ trụ bác quan" do hai vị tiên sinh Lăng Chí Hiên và Trương Chí Xuân biên soạn, trong đoạn "Tường luận dụng thần" có nói: "Hạch tâm trung khu của tứ trụ mệnh lý học là ở tìm dụng thần, muốn biết sự gập ghềnh khúc khuỷu của đường đời nhân sinh, toàn phải nhờ vào dụng thần làm tọa độ để miêu tả. Tìm không ra tọa độ dụng thần, hoặc tìm sai tọa độ dụng thần sẽ thành " Một chữ sai, toàn bàn sai hết". Có thể nói quan điểm về dụng thần của cuốn này đã đại biểu cho mệnh lý hiện hành.

Thế nhưng, muốn tìm đúng cái dụng thần cân bằng này lại là một chuyện khó khăn dị thường. Bởi vì tiền đề của tìm dụng thần đầu tiên là phải nắm bắt chuẩn xác trình độ vượng suy cường nhược của ngũ hành trong bát tự. Mà sự vượng suy cường nhược của ngũ hành trong bát tự lại tùy theo sự giới nhập của tuế vận mà biến hóa không ngừng, muốn cân đo đong đếm nó khác nào đi cân đo đong đếm con khỉ có bảy mươi hai phép thần thông biến hóa! Cho nên thường ba vị mệnh sư phân tích cùng một bát tự sẽ đưa ra hơn ba kiểu vượng suy kết luận. Thế thì cũng như không có kết luận! Lăng Chí Hiên tiên sinh cũng vì thế mà vô cùng đau đầu, ông nói trong cuốn "Tứ trụ bác quan" rằng: "Cho dù là cao thủ mệnh lý đi nữa, khi họ đối diện với một số mệnh tạo có cách cục đặc thù hoặc sự cường nhược không rõ ràng thì cũng cảm thấy bó tay... Người viết cũng từng gặp qua những trường hợp kiểu này, tụ tập bảy tám vị dịch hữu cùng thảo luận, kết quả là mỗi người nói mỗi phách, chẳng ai chịu nhường ai, ai cũng phô ra một kiểu lý luận của riêng mình, cãi lý cả một ngày cũng không giải quyết được vấn đề. Thế đấy, có phải muốn phán đoán chính xác trình độ vượng suy cường nhược của ngũ hành bát tự còn khó hơn Phật Bà phán đoán Tề Thiên thật và Tề Thiên giả không nhỉ?

Nói cách khác, cho dù có ai vào một ngày nào đó dùng tuyệt kỹ tìm dùng thần này mà xem mệnh thì tỷ lệ chuẩn xác chưa chắc đã cao. Tại sao vậy? Đầu tiên, các cách như nhất khí chuyên vượng cách, tòng cường cách, tòng Sát cách, tòng Tài cách, tỉnh lan xoa cách, v.v... vốn không cần đến sự cân bằng ngũ hành của bát tự, cái gọi là dụng thần cân bằng không có chỗ dùng trong các loại cách này. Kế tới, cho dù là mệnh cách thông thường cần ngũ hành cân bằng, chỉ cần bát tự kết cấu không thỏa đáng, phá hoại mất cách cục thì cho dù thân cường Tài vượng hay thân Sát lưỡng đình đi chăng nữa mà dùng dụng thần cân bằng cũng khó đoán chuẩn cát hung họa phúc của người ta. Cho dù là danh sư nhiều năm nghiên cứu mệnh lý cũng không ngoại lệ. Tác giả bộ "Bát tự chân quyết khởi thị lục" là Tống Anh Thành tiên sinh trong bài "Nghiên cứu hỷ dụng thần" đã cảm khái nói: "Tác dụng của dụng thần đôi khi làm người ta cảm thấy khó hiểu, đi đến vận trình của hỷ dụng thần, chẳng những không thăng quan phát tài mà còn bị hao tổn trầm trọng, cơ hàn đói rách, có phải là hỷ dụng thần mà chúng ta chọn khác hẳn với hỷ dụng thần chân chính? Nghĩ tới đây hèn gì có người nghiên cứu hết bao nhiêu kinh thư cổ tịch mà vẫn không thể đột phá."

Nghe câu trên mà thấy rầu! Trải qua chín chín tám mươi mốt tai nạn mới lấy được chân kinh, ấy thế mà "nghiên cứu hết kinh thư cổ tịch mà vẫn không thể đột phá"! Cố gắng hết sức mới chọn được dụng thần mà không xài được!

Để tìm đột phá khẩu, giải cứu dụng thần cân bằng ra khỏi tình huống khó xử, có học giả bèn không thèm chấp vào cách chỉ chọn một dụng thần nữa, mà chọn mấy loại dụng thần từ trong một mệnh, nào là đại dụng thần, tiểu dụng thần, hoặc dụng thần thứ nhất, dụng thần thứ hai, dụng thần thứ ba, hoặc dụng thần cân bằng, dụng thần điều hậu, dụng thần cách cục v.v..., muốn đem càng nhiều dụng thần hơn nữa vô để bịt những lỗ hổng xuất hiện liên tục trong khi dự đoán. Dùng dụng thần cân bằng không thể xử được, bèn dùng dụng thần điều hậu và dụng thần cách cục để xử lý. Ví dụ như nhà mệnh lý học trứ danh là Lương Tương Nhuận tiền bối trong cuốn "Tế phê chung thân tường giải" đã dùng nhiều loại dụng thần để phê mệnh. Ông đã dùng dụng thần điều hậu của Dư Xuân Đài, lại còn dùng dụng thần cách cục của Thẩm Hiếu Chiêm (nhưng không chuẩn), hãy còn dùng dụng thần cân bằng của "Kim Bất Hoán" (thực ra cũng không phải nốt), kết hợp thêm với cả tứ giác hình xung hợp hội, thần sát, nạp âm, v.v... hổ lốn các phương pháp, thậm chí còn bao gồm cả những ngón vụn vặt xác suất trúng cực thấp như "Diễn cầm phu thê - tử nữ biểu".

Cái kiểu dùng nhiều loại dụng thần để xem mệnh này tuy có thể cầm cự được khiếm khuyết do chỉ dùng một dụng thần gây ra, nhưng phương pháp này tự thân nó lại không thể giải quyết được vấn đề mới nảy sinh như sau:

1. Dụng thần đã là mấu chốt của bát tự, thế thì, tổn hại dụng thần có ý nghĩa phá vỡ sự cân bằng ngũ hành trong bát tự, từ đó khiến mệnh chủ gặp tai nạn, đây là quan điểm được tuyệt đại đa số các học giả mệnh lý đồng ý. Nếu sử dụng nhiều dụng thần để đoán mệnh sẽ đồng thời xuất hiện nhiều điểm cân bằng, nhiều điểm mấu chốt. Vấn đề là, nhiều điểm cân bằng ấy có phải quan trọng như nhau không? Giả thiết câu trả lời là khẳng định, thế thì mỗi khi tuế vận phá vỡ bất cứ một điểm cân bằng nào trong đó, cả mệnh cục sẽ mất cân bằng, thế thì các điểm cân bằng còn lại có còn được gọi là điểm cân bằng nữa không? Còn tính là mấu chốt của bát tự nữa chăng?

2. Nếu như quyền lợi của nhiều dụng thần không đồng đẳng, thì cũng như Thị trưởng, Phó Thị trưởng và Trợ lý Thị trưởng vậy, quyền lợi to nhỏ khác hẳn nhau, thế thì, quyền lợi của loại dụng thần nào mới là to nhất? Lương Tương Nhuận tiên sinh cho rằng: "Điều hậu chi dụng, vi bát tự đệ nhất yếu nghĩa". Ông cho rằng dụng thần điều hậu là quan trọng bậc nhất. Thế mà trong "Kim Điếu Thùng" thì nói: "Nếu nhập cách thì lấy quí mà đoán, phá cục thì lấy bần mà đoán, nếu như cách (và) cục bị thương tổn phá hoại sẽ không cát, dù cho có cơ hội hồi thiên chuyển trục thì cũng không thể kiến công lập nghiệp được." Kim Điếu Thùng (Durobi chú thích: Danh gia mệnh lý thời xưa, có viết quyển Lão Kim Điếu Thùng) đem thành cách phá cách xem là tối quan trọng. Thường các mệnh lý học giả cho rằng cân bằng ngũ hành trong bát tự là điều tối quan trọng, và cho điều hậu dụng thần chỉ sử dụng trong trường hợp đặc biệt,, còn cách cục thì lờ luôn, luận cũng được không luận cũng được. Trước ba cách nói như trên, kẻ hậu học biết nghe ai đây nhỉ?

3. Mỗi khi nhiều loại dụng thần xảy ra giao tranh trên cùng một mệnh cục thì phải xử lý thế nào? Ví dụ ngày Canh kim sinh tháng Ngọ, là Chính Quan cách, nếu muốn thủy điều hậu, thủy là Thực Thương, chẳng phải đã phá Chính Quan cách hay sao? Lại ví dụ Tỉnh Lan Xoa cách, ba ngày Canh Tý Canh Thìn Canh Thân, sinh vào tháng Tý, địa chi Thân Tý Thìn toàn đủ, theo lý thuyết phải dùng hỏa để điều hậu, kim thủy Thương Quan hỷ kiến Quan mà, nhưng cách này lại yêu cầu không được gặp hỏa, ca quyết nói: " Tỵ Ngọ Mùi lâm thì đắng cay, Nhâm Quí phá, Bính Đinh xung, trụ và vận không gặp sẽ hiển danh". Câu này ý gặp Tỵ Ngọ Bính Đinh hỏa thì phá cách. Điều hậu dụng thần không hề được hoan nghênh ở đây. Lúc này điều hậu dụng thần có còn là dụng thần nữa không? Nếu bị thương khắc, mệnh chủ sẽ gặp tai hay không? Còn nữa, lúc dụng thần cân bằng và dụng thần cách cục phát sinh giao chiến thì phải hy sinh ai đây? Những vấn đề này đều là những nút thắt cứng của những ai theo thuyết dùng nhiều dụng thần, không ai thể gỡ được, kể cả chính họ.

Một dụng thần không được, nhiều dụng thần cũng không xong, phải làm sao bây giờ? Có người chủ trương phương pháp sau tiết Đông Chí thì đổi trụ năm, có người đề xướng đại vận không phân biệt nam nữ đều thuận hành, Lữ Văn Nghệ tiên sinh ở Sơn Đông kiên quyết chủ trương phế trừ cổ pháp, thứ nhất không bàn vượng suy, thứ hai không bàn cách cục, thứ ba không bàn dụng thần, thứ tư không bàn thần sát, chỉ dùng chiêu sinh khắc "Lữ thị bát tự mệnh lý" là xong. Nhưng, chẳng lẽ môn đoán mệnh của Từ Tử Bình thật vô dụng vậy sao? Các vị toán mệnh tiên sinh từ xưa tới giờ đều không có công phu thực sự hay sao? Hay là chúng ta đã nhầm lẫn điểm quan trọng nào đó? Như Tống Anh Thành tiên sinh nói: "Có phải chăng hỷ dụng thần mà chúng ta đã dùng khác hẳn với hỷ dụng thần thực sự?"

Vâng, chính xác là như vậy! Người viết sau khi nghiên cứu nghiêm túc, phát hiện hỷ dụng thần của hiện đại mệnh lý và hỷ dụng thần của mệnh lý cổ điển là hai thứ hoàn toàn khác nhau! Có ba chứng cứ như sau:

Thứ nhất, trong ba bộ mệnh lý cổ điển "Uyên Hải Tử Bình", "Tam Mệnh Thông Hội" và "Thần Phong Thông Khảo", không hề tìm thấy cái mà hiện đại mệnh lý gọi là dụng thần! Lật bất cứ sách mệnh lý hiện hành nào chúng ta cũng có thể thấy những chương tiết chuyên luận thuật về dụng thần, từ khái niệm về dụng thần phương pháp chọn dụng thần đều được giới thiệu kỹ càng. Nhưng trong các mệnh lý kinh điển như "Uyên Hải Tử Bình" v.v... lại không thấy bất cứ chương tiết nào chuyên luận thuật về dụng thần, cho dù là một đoạn ngắn cũng không có! Những loại "dụng thần" có tác dụng phù ức, điều hậu, thông quan không hề tìm thấy bất cứ chứng cứ nào trong ba quyển sách mệnh lý cổ này. Trời ạ, dụng thần là thứ quan trọng không thể thiếu được như thế, vậy mà cổ nhân lại không hề có một chuyên đề nào để giới thiệu, có phải là rất kỳ quặc không nhỉ? Đối với mệnh lý hiện hành mà nói, đoán mệnh mà không nhắc tới dụng thần thì chỉ là một kẻ a ma tơ. Thế nhưng tổ tông môn Tử Bình của chúng ta là Từ Tử Bình trong cuốn "Uyên Hải Tử Bình" sao không thấy nhắc tới vấn đề dụng thần vô cùng quan trọng này? Dù có kiệm lời tới đâu thì ít ra cũng để lại một đoạn ngắn chứ? Tiếc rằng chúng ta tìm nát trong mấy cuốn sách mệnh lý cổ kia mà vẫn không thấy! Cái mà chúng ta thấy là cổ nhân dùng đến một phần ba cuốn sách để nói đến cách cục, chuyện này thì sách mệnh lý hiện hành không hề có. Điều này chứng tỏ cái gì? Chứng tỏ rằng chỉ có một khả năng, đó chính là trong sách mệnh lý cổ điển căn bản là không hề có loại dụng thần cân bằng ngũ hành bát tự, nếu như có dụng thần thì e rằng dụng thần chính là cách cục.

Thứ hai, dụng thần của mệnh lý lưu hành hiện đại và dụng thần trong sách mệnh lý cổ điển, đặc trưng của cả hai hoàn toàn không phù hợp nhau. Chủ yếu biểu hiện trong ba mặt sau:

1. Dụng thần của mệnh lý hiện hành đặc trưng chính yếu ở chỗ tính bất khả tổn hại của nó. Dùng lời của Chung Nghĩa Minh tiên sinh trong cuốn "Bát Tự Khí Số Mệnh Lý Học" rằng: "Dụng thần là linh hồn của bát tự", "Nên dụng thần không thể bị thương tổn đến, không bị khắc hại hình xung v.v...". Thế nhưng cổ nhân trong "Tứ Ngôn Độc Bộ" lại chỉ ra rằng: "Cách cách thôi tường, dĩ Sát vi trọng, chế Sát vi quyền, hà sầu tổn dụng". Ý của "Hà sầu tổn dụng" chẳng phải là không sợ tổn hại đến dụng thần hay sao? Trong "Nguyệt Đàm Phú" cũng nói: " Cách hữu khả thủ bất khả thủ, dụng hữu đương khí bất đương khí". Nói rõ có lúc cần đến là có thể vứt luôn dụng thần.

2. Dụng thần của mệnh lý hiện hành, đặc trưng thứ yếu của nó là tính thiểu lượng. Nghĩa là dụng thần đã là điểm cân bằng ngũ hành bát tự thì dụng thần sẽ không thể là ngũ hành chiếm số lượng nhiều, bởi vì tổng cộng chỉ có tám chữ, số lượng nhiều lên sẽ phá vỡ cân bằng mà trở thành bệnh trong mệnh cục, cho nên dụng thần thường chỉ chiếm một hai chữ trong mệnh cục, không thể nhiều hơn. Cũng bởi vì phân lượng dụng thần ít cho nên mới sợ bị tổn hại! Thế mà nguyên chú của chương Thể dụng trong "Tích Thiên Tủy" nói: "Nhị tam tứ ngũ dụng thần giả, đích phi diệu tạo". Có nghĩa một bát tự mà có ba bốn năm dụng thần thì không phải mệnh tốt. "Cùng Thông Bảo Giám - Tam xuân Giáp mộc luận" nói: "Phàm dụng thần quá nhiều, không nên khắc chế, tiết đi mới hay". Câu này chúng ta còn có thể tìm thấy trong "Tam Mệnh Thông Hội". Vậy đấy, dụng thần trong sách mệnh lý cổ điển hóa ra còn có lúc đạt đến bốn năm cái, mà còn tiết đi mới tốt nữa!

3. Dụng thần trong mệnh lý hiện hành đặc tính thông thường của nó là tính chỉ có ích mà không có hại. Mệnh lý hiện hành cho rằng bất kể là Tài Quan Ấn Thực hay là Sát Thương Kiêu Nhận, chỉ cần khi được chọn làm dụng thần thì chỉ có ích mà không có hại, giữa chúng không có phân biệt thiện và ác, đã là dụng thần thì không thể bị khắc. Nhưng, dụng thần của cổ nhân không như thế. Chương Luận dụng thần trong "Tử Bình Chân Thuyên" viết: "Tài Quan Ấn Thực, thử dụng thần chi thiện, nhi thuận dụng chi giả dã. Sát Thương Kiêu Nhận, thử dụng thần chi bất thiện, nhi nghịch dụng chi giả dã". Có nghĩa là Tài Quan Ấn Thực là bốn dụng thần thiện, phải bảo hộ nó mà sử dụng. Mà Sát Thương Kiêu Nhận là bốn dụng thần ác, phải chế ước nó mà sử dụng. Đấy, loại dụng thần như vầy thì mệnh lý hiện hành chắc là không có nhỉ!

Thứ ba, cách dùng của dụng thần trong mệnh lý hiện hành và dụng thần trong sách mệnh lý cổ điển không giống nhau. Mệnh lý hiện hành cho rằng sự vượng suy cường nhược và bị khắc hay không của dụng thần vừa quyết định sự phú quí bần tiện của mệnh chủ và cũng chủ tể cát hung họa phúc của mệnh chủ, tác dụng của nó không có thứ nào khác có thể so sánh được. Nhưng chương Luận tướng thần khẩn yếu trong cuốn "Tử Bình Chân Thuyên" lại chỉ rõ: "Thương dụng thậm ư thương thân, thương tướng thậm ư thương dụng". Ý là thương hại đến dụng thần còn gay go hơn thương hại đến nhật nguyên, mà thương hại đến tướng thần còn gay go hơn thương hại đến dụng thần. Có thể thấy còn có tướng thần quan trọng hơn cả dụng thần. "Ngũ Ngôn Độc Bộ" lại nói: "Có Sát chỉ luận Sát, không có Sát mới luận dụng thần". Ý gì nhỉ? Có Thất Sát chẳng lẽ có thể không cần luận dụng thần hay sao? Câu này mệnh lý hiện hành không giải thích nổi. Trong "Bảo Pháp - Quyển nhị" cũng nói: " Phàm thuật xem Tử Bình, thủ cách bất định, thì xem mười sai đến chín". Chú ý nhé, ở đây nói "Thủ cách bất định" chứ không nói "Thủ dụng bất chuẩn" nhé! Có phải cổ nhân thủ cách (chọn cách cục) rõ là hiệu nghiệm hơn chúng ta ngày nay chọn dụng thần không? Thiên mở đầu của "Tinh Vi Thiên" nói: "Phàm khán nhân mệnh, chuyên luận cách cục. Phùng Quan khán Tài, kiến Tài nhi phú quí. Phùng Sát khán Ấn, hữu Ấn dĩ vinh hoa". Ở đây chỉ cường điệu "Chuyên luận cách cục" chứ không phải chuyên luận dụng thần nhé! Mà còn nói thẳng gặp Quan xem Tài, gặp Ấn xem Quan, không như mệnh lý hiện hành ngày nay trước hết phải xem thân vượng thân nhược, thân vượng thì dụng Tài Quan, thân nhược thì dụng Ấn Tỷ. Tại sao cổ nhân không chú trọng đến tiền đề quan trọng là xem thân vượng thân nhược vậy? Tại sao không nói "Phàm thuật xem Tử Bình, thủ dụng bất chuẩn (xác), xem mười sai hết chín"? Nguyên nhân thì chỉ có một thôi, đó chính là dụng thần mà cổ nhân nói tới khác xa lắc xa lơ với dụng thần mà ngày nay chúng ta nói!

Dông dài hồi lâu, chắc độc giả cũng muốn hỏi thế dụng thần trong sách mệnh lý cổ điển là gì thế?

Kỳ thực, định nghĩa dụng thần của cổ nhân rất đơn giản, tức: Dụng thần chính là vật khả dụng của nguyệt lệnh. Hai chữ "khả dụng" này có hai tầng ý nghĩa, một là có những thứ gì có thể dùng? Hai là dùng vào việc gì?

Nguyệt lệnh có những thứ gì có thể dùng? Có sáu thứ có thể dùng, tức: Tài, Quan, Ấn, Sát, Thực, Thương. Dùng vào việc gì? Dùng để cấu thành CÁCH CỤC. Tức là, dụng thần mà cổ nhân nói tới, kỳ thực chính là VẬT mà nguyệt lệnh dùng đến để cấu thành cách cục.

"Tử Bình Chân Thuyên - Luận dụng thần" nói rằng: "Bát tự dụng thần, chuyên cầu nguyệt lệnh. Dĩ nhật can phối nguyệt lệnh địa chi, nhi sinh khắc bất đồng, cách cục phân yên". "Thần Phong Thông Khảo - Thủ cách chỉ quyết ca đoán" nói rằng: "Dĩ nhật vi chủ bản, nhi thủ đề cương vi dụng. Thứ cập niên nguyệt nhật vi thực, phùng Quan khán Tài, phùng Tài khán Sát, phùng Sát khán Ấn, phùng Ấn khán Quan". "Bảo Pháp - Quyển nhị" nói: "Tử Bình chi thuật, dĩ nhật tử vi chủ, tiên khán đề cương vi trọng, thứ dụng niên nguyệt nhật thời chi, hội thành cách cục phương khả đoán chi, giai dĩ nguyệt lệnh vi dụng, bất khả dĩ niên thủ cách". Những lời trên của cổ nhân khi nói đến dụng thần, tất cả đều nhấn mạnh tìm ở nguyệt lệnh, các sách đều coi dụng thần với cách cục làm một. Chúng ta chớ có tưởng rằng cổ nhân nói không rõ ràng, không logic (như Từ Lạc Ngô đại sư tưởng thế), nói không rõ sự tồn tại của dụng thần cân bằng nào là phù ức, điều hậu, thông quan. Thực ra trong mắt cổ nhân, dụng thần chính là vật mà nguyệt lệnh dùng để cấu thành cách cục, hoặc nói dụng thần và cách cục là một.

Chính bởi vì dụng thần chỉ là vật mà nguyệt lệnh dùng để định cách, không phải ở bất cứ vị trí nào khác dùng để cân bằng ngũ hành bát tự, cho nên cổ nhân mới gồm dụng thần và cách cục vô làm một, và đem cách cục vật khả dụng của nguyệt lệnh gọi là nội cách, mà cách cục vật không khả dụng của nguyệt lệnh gọi là ngoại cách (xin tham khảo cuốn "Tử Bình Chân Thuyên Bản Nghĩa của tác giả). Chúng ta biết rằng mệnh lý hiện hành chọn dụng thần không chú trọng đến nguyệt lệnh, cho nên cách cục không phân làm nội cách và ngoại cách, hoặc nói không rõ nguyên do sự phân chia nội cách ngoại cách.

Chính bởi vì dụng thần là vật khả dụng của nguyệt lệnh, không hề là mấu chốt của cả bát tự, cho nên có lúc xuất hiện hiện tượng "dụng thần quá nhiều", dụng thần đã quá nhiều thì mới có câu " dụng thần có cái bỏ đi có cái không thể bỏ đi" và "ngại gì mà không tổn đến dụng thần (hà sầu tổn dụng)", thế mới xuất hiện cách cục câu "Khí Ấn tựuTài", "Khí Quan tựu Thực" v.v... Nếu không thì theo lối suy nghĩ của mệnh lý hiện hành thì chẳng ai giải thích rõ được mấy câu trên.

Chính bởi vì dụng thần là vật khả dụng của nguyệt lệnh, không nhất định là thứ có ích đối với nhật chủ, cho nên dụng thần mới phân thiện và ác, với thiện dụng thần Tài, Quan, Ấn, Thực phải sử dụng với tính chất phù trợ, đối với ác dụng thần Sát, Kiêu, Thương, Nhận thì phải sử dụng có tính chế ước. Cho nên "Ngũ Ngôn Độc Bộ" mới nói " Có Sát thì trước tiên luận Sát, không có Sát mới luận dụng", là bởi vì "Các cách suy cho rõ, lấy Sát làm trọng" ấy mà. Dụng thần của mệnh lý hiện hành phải luận trước cả Sát, lại còn không được chế ước Sát nữa.

Có người phản bác: Trong "Thần Phong Thông Khảo" tuy không có chương tiết chuyên luận dụng thần, nhưng còn có "Bệnh dược thuyết" trứ danh đấy thôi? Trương Nam nói "Dược" chẳng phải là dụng thần của mệnh lý hiện hành hay nói hay sao?

Đúng, mệnh lý hiện hành hay lấy thuyết bệnh dược của Trương Nam để mượn làm dụng thần cân bằng. Nhưng nếu chúng ta đọc kỹ nguyên văn sẽ phát hiện "Dược thần" mà Trương Nam nói chẳng phải là dụng thần cái gì cả. Nguyên văn: "Như dụng Tài kiến Tỷ Kiếp vi bệnh, hỷ kiến Quan Sát vi dược dã. Như dụng Thực Thần Thương Quan, dĩ Ấn vi bệnh, hỷ Tài vi dược dã". Ở đây chẳng phải rõ ràng nói trước "Dụng Tài", sau đó mới nói "Kiến Tỷ Kiếp vi bệnh, hỷ kiến Quan Sát vi dược" hay sao? Câu sau "Như dụng Thực Thần Thương Quan", cũng chính là lấy Thực Thần Thương Quan làm dụng thần. Tài là dụng, Tỷ Kiếp là bệnh, Quan Sát là dược ; Thực Thương là dụng, Ấn là bệnh, Tài là dược, ý quá rõ rồi gì nữa? Còn lý do nào để nói dược thần của Trương Nam chính là dụng thần không?

Kỳ thực, dược thần của Trương Nam chính là "Tướng thần" mà "Tử Bình Chân Thuyên" đã nói tới, chẳng qua Trương Nam không gọi nó là tướng thần mà thôi.

Có lẽ sẽ còn có người lấy những câu bình chú của Nhậm Thiết Tiều trong "Tích Thiên Tủy" để phản bác lại, Nhậm nói: "Ví như nhật chủ vượng, đề cương là Quan là Tài hoặc Thực Thương, đều có thể làm dụng. Nhật chủ suy, đừng tìm tứ trụ can chi vật có giúp thân làm dụng...". Dụng thần mà ông nói ở đây chẳng phải dụng thần cân bằng mà mệnh lý hiện hành hay nói sao?

Đúng, sự ra đời của mệnh lý hiện đại e phải lấy Nhậm Thiết Tiều làm công đầu. Vốn nguyên văn "Tích Thiên Tủy" và các sách cổ điển như "Uyên Hải Tử Bình" là nhất mạch tương thừa, nhưng qua tay hậu nhân chú thích, đặc biệt là sau khi qua tay Nhậm lão tiên sinh chú thích, thì cuốn "Tích Thiên Tủy" đã trở thành nền móng cho mệnh lý hiện hành.

Nhậm Thiết Tiều chú thích chương Bát cách trong cuốn "Tích Thiên Tủy": "Bát cách giả, mệnh trung chính lý dã. Tiên quan nguyệt lệnh sở đắc hà chi, thứ khán thiên can thấu xuất hà thần, tái cứu tư hà lệnh dĩ định chân giả, nhiên hậu thủ dụng, dĩ phân thanh trọc, thử thực y kinh thuận lý, nhược nguyệt phùng Lộc Nhận, vô cách khả thủ, tu thẩm nhật chủ chi hỷ kỵ, lánh tầm biệt chi thấu xuất thiên can giả, tá dĩ vi dụng". (Tám cách là chính lý trong mệnh. Trước phải xem nguyệt lệnh là chi gì, sau xem thiên can thấu xuất thần gì, tiếp coi cái gì nắm lệnh để định thật giả, sau đó chọn dụng thần để phân chia sự thanh trọc, đó thực là thuận lý theo kinh sách, nếu nguyệt lệnh là Lộc Nhận thì không chọn được cách, phải xem xét hỷ kỵ của nhật chủ mà tìm chi khác thấu thiên can mượn đỡ mà dùng). Có thể thấy, phương pháp thủ dụng định cách của họ Nhậm là cơ bản thống nhất với phương pháp "Bát tự dụng thần, chuyên cầu nguyệt lệnh", "Nguyệt Kiếp vô dụng, lánh tầm ngoại cách" trong "Tử Bình Chân Thuyên". Tiếc thay, họ Nhậm không hề thông hiểu mật pháp luận cách cục truyền thống này ("Tích Thiên Tủy" luận cách không kỹ càng bằng "Tử Bình Chân Thuyên"), trong khi gặp khó khăn trong lúc luận mệnh, ông đã không kiên trì giữ vững phương pháp này nữa. Cho nên ông sau chương "Bát cách" lại nói rằng: "Từ mấy mệnh trên có thể thấy, cách cục không thể chấp nhất. Không nên câu thúc ở các cách Tài Quan Ấn..., không liên can gì đến nhật trụ, vượng thì nên ức chế, suy thì nên phù trợ, Ấn vượng tiết Quan mừng Tài tinh, Ấn suy gặp Tài mừng Tỷ Kiếp, đây là phương pháp không thay đổi được". Hèn gì, kiểu phương pháp luận mệnh khinh cách cục, trọng cân bằng này của Nhậm Thiết Tiều chính là lam bản cho mệnh lý hiện hành ngày nay.

Còn chuyện nữa càng khiến người ta tiếc rẻ, sau Nhậm Thiết Tiều là Từ Lạc Ngô đại sư, ông chú thích "Tích Thiên Tủy" mà vô cùng sai lệch nguyên chú, làm cho kẻ hậu học dễ hiểu nhầm nguyên văn, từ đó trượt luôn vào vũng lầy mệnh lý hiện hành. Ví dụ như chương "Thể dụng" của "Tích Thiên Tủy" nguyên chú thích nói rằng: "...nhi nhị tam tứ ngũ dụng thần giả, đích phi diệu tạo". Ý là khi nguyệt lệnh dụng thần số lượng đạt tới bốn hoặc năm, như vậy thì không phải là mệnh tốt nữa. Ví dụ như nguyệt lệnh là Ấn tinh, khi có hai ba Ấn tinh nếu có Tài tinh khắc Ấn, cách cục sẽ thành "Khí Ấn tựu Tài" cách. Nếu Ấn lên tới bốn năm, Tài tinh sẽ không thể nào khắc Ấn được nữa, tốt nhất là dùng Tỷ Kiếp để tiết bớt Ấn, giống như ý của "Cùng Thông Bảo Giám" nói "Hễ dụng thần quá nhiều, không nên khắc chế, cần phải tiết đi mới hay". Nhưng nếu Ấn quá nhiều, một là không có Tài khắc, hai là không có Tỷ Kiếp hóa tiết, vậy nhất định không phải mệnh tốt rồi.

Ấy thế mà do Nhậm Thiết Tiều không hoàn toàn hiểu hết được khái niệm dụng thần này, cho nên khi ông phê chú đoạn trên bèn nói: "Nguyên chú nói rằng: hai ba bốn năm dụng thần thực không phải mệnh tốt. Đấy là nói bậy! Chỉ có tám chữ mà nếu khử đi bốn năm chữ dụng thần thì trừ nhật can ra chỉ có hai chữ không dùng, làm sao thế được!". Nghe ý ông là hiểu không thể có trường hợp một mệnh tạo mà có đến bốn năm dụng thần.

Từ Lạc Ngô đại sư cũng nói đế vào phụ cho họ Nhậm, nói rằng: "Như câu trong nguyên chú hai ba bốn năm dụng thần, họ Nhậm bài xích là phải. Dụng thần làm sao có hai được nói chi đến ba bốn năm dụng thần! (Xem chương Thể dụng tinh thần trong cuốn "Tích Thiên Tủy Bổ Chú của Từ Lạc Ngô)". Ông khăng khăng dụng thần chỉ có một mà thôi, tuyệt không có hai, nói gì đến bốn năm dụng thần! Ông đâu có biết, dụng thần mà nguyên chú "Tích Thiên Tủy" nói hoàn toàn không phải loại dụng thần mà ông và Nhậm Thiết Tiều nghĩ!

Thật là "Một chữ sai, toàn bàn hỏng bét", dụng thần mà sai rồi thì phương pháp luận mệnh cũng sai theo! Không ai ngờ và nghĩ được rằng như hai vị đại sư cấp nhân vật trong làng mệnh lý là Nhậm Thiết Tiều và Từ Lạc Ngô lại nhầm lẫn khái niệm hạch tâm nhất, cơ bản nhất, quan trọng nhất của mệnh học --- DỤNG THẦN!

Con rùa bò phía trước mở đường, con rùa phía sau bò theo. Cứ thế, ngàn ngàn vạn vạn kẻ hậu học theo sau đít hai ông Nhậm, Từ, thoát li khỏi tư tưởng chính tông của Từ Tử Bình, nhắm đến vũng lầy mệnh lý hiện hành vô biên vô tế phía trước mà tiến bước......

Lão Tử nói rất hay, "Ngũ sắc khiến người ta mù". Chỉ có mấy ông thầy bói mù (manh sư) mắt không nhìn được ngũ sắc nữa mới không mù quáng đi theo Nhậm, Từ. Họ đã không thể đọc các danh trước mệnh học của hai ông, cũng không thể tham duyệt tư liệu mệnh lý hiện hành, cho nên họ không bị bất cứ ảnh hưởng nào của mệnh lý hiện đại, vẫn cứ y theo phương pháp xa xưa của Tử Bình mệnh học. Có lẽ họ luận cách tinh xác không bằng "Tử Bình Chân Thuyên", hoặc họ mỗi người có một pho ca quyết luận mệnh cho riêng mình, nhưng khái niệm dụng thần và luận mệnh phép tắc là nhất mạch tương truyền với các kinh điển mệnh lý "Uyên Hải Tử Bình", "Thần Phong Thông Khảo", "Tam Mệnh Thông Hội", "Tử Bình Chân Thuyên" và "Tứ Ngôn Độc Bộ". Người viết quen biết một vị manh sư họ Dương, công phu của ông rất tinh thâm, nổi danh một vùng. Ông có thể thuộc lòng các ca quyết cổ điển như " Tứ Ngôn Độc Bộ", "Ngũ Ngôn Độc Bộ" và "Nguyệt Đàm Phú" v.v..., nhưng ông không hề biết tý gì về cái gọi là dụng thần cân bằng như phù ức, điều hậu, thông quan. Ông cũng giống như nhiều vị manh sư khác, bình thường chỉ nói về cách cục, không nói dụng thần, bởi vì ông giải thích rằng dụng thần chính là cách cục!

Đấy chính là bộ mặt thật của dụng thần, cho dù các thầy mệnh lý hiện đại mở miệng ra là nói tới nhưng cũng không biết tới nó!

Durobi dịch

Bổ sung chuyển từ Hán Việt ra Việt ngữ đoạn này, đoạn thứ 22 từ trên xuống, lúc dịch quên béng mất...

"Tử Bình Chân Thuyên - Luận dụng thần" nói rằng: "Bát tự dụng thần, chuyên cầu nguyệt lệnh. Dĩ nhật can phối nguyệt lệnh địa chi, nhi sinh khắc bất đồng, cách cục phân yên". "Thần Phong Thông Khảo - Thủ cách chỉ quyết ca đoán" nói rằng: "Dĩ nhật vi chủ bản, nhi thủ đề cương vi dụng. Thứ cập niên nguyệt nhật vi thực, phùng Quan khán Tài, phùng Tài khán Sát, phùng Sát khán Ấn, phùng Ấn khán Quan". "Bảo Pháp - Quyển nhị" nói: "Tử Bình chi thuật, dĩ nhật tử vi chủ, tiên khán đề cương vi trọng, thứ dụng niên nguyệt nhật thời chi, hội thành cách cục phương khả đoán chi, giai dĩ nguyệt lệnh vi dụng, bất khả dĩ niên thủ cách".

Chương Luận dụng thần trong sách Tử Bình Chân Thuyên nói rằng: " Dụng thần của bát tự, nên tìm ở lệnh tháng mà thôi. Lấy nhật can phối hợp với địa chi lệnh tháng, bởi do sinh khắc không giống nhau nên phân ra các loại cách cục".

Chương Thủ cách chỉ quyết ca đoán trong sách Thần Phong Thông Khảo nói rằng: "Lấy ngày làm thân gốc, mà lấy đề cương (lệnh tháng) làm dụng. Thứ đến lấy năm tháng ngày làm quả, gặp Quan thì phải xem Tài, gặp Tài thì phải xem Sát, gặp Sát thì phải xem Ấn, gặp Ấn thì phải xem Quan".

Quyển thứ hai của sách Bảo Pháp nói rằng: " Thuật xem Tử Bình, lấy ngày làm chủ, trước hết phải xem đề cương (lệnh tháng) là điểm quan trọng, kế đến dùng chi năm tháng ngày giờ, hội thành cách cục rồi mới có thể đoán, thường các trường hợp đều lấy lệnh tháng làm dụng, không được lấy năm để chọn cách.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận dụng thần

Phong thủy âm trạch: Những thế mộ tổn hại hậu thế (phần 1)

Xem xét từ góc độ phong thủy thì vận mệnh thăng trầm là dấu hiệu của phong thủy âm trạch có vấn đề. Cùng xem phần mộ có ảnh hưởng thế nào tới hậu thế.
Phong thủy âm trạch: Những thế mộ tổn hại hậu thế (phần 1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem xét từ góc độ phong thủy thì vận mệnh thăng trầm là dấu hiệu của phong thủy âm trạch có vấn đề. Vị trí huyệt mộ gặp tổn hại như bị yêm nước, ẩm ướt, ao hãm hoặc có ngoại vật xâm nhập thì vong linh bất an, sản sinh tác động xấu tới người ở dương thế. Cùng xem phần mộ có ảnh hưởng thế nào tới hậu thế, cát hung họa phúc ra sao.   Việc duy trì mộ bia và phần mộ hoàn chỉnh, yên tĩnh, sạch sẽ là rất quan trọng, vì thế mà mỗi năm vào dịp tiết Thanh Minh con cháu sẽ tới thăm viếng và sửa sang, chăm lo cho mộ ông bà tổ tiên. Truyền thống Thanh Minh tảo mộ này không chỉ xuất phát từ giá trị nhân văn hiếu lễ mà còn bắt nguồn từ việc coi trọng phong thủy âm trạch, tránh để phần mộ bị vùi lấp, xuống cấp.   Phần mộ có ảnh hưởng như thế nào tới hậu thế thể hiện rõ ràng nhất qua việc trong nhà sản sinh ra con cháu như thế nào.

Phong thuy am trach Nhung the mo ton hai hau the phan 1 hinh anh 2
 

1. Mộ phần sinh ra người mù

  Phần mộ mà phía trên có cây mọc ra, che kín mất mộ thì trong nhà có người trung tuổi, cao tuổi mắc bệnh về mắt. Rễ cây đâm vào mộ, quấn quanh hài cốt thì sinh ra người mù, trẻ có tật ở mắt.   Hướng Chính Nam, Tây Nam, Đông Nam của phần mộ nếu có quần thể núi, kiến trúc cao, vật thể đồ sộ, dòng sông lớn làm án sơn thì trong nhà nhiều người mắc bệnh mắt, có người cao tuổi bị mù lòa.   Phần mộ nhà mình và phần mộ khác chiếu thẳng vào nhau cũng sinh ra người mù trong nhà, nếu lệch trái thì ra nam mệnh có bệnh về mắt, nếu lệch phải thì ra nữ mệnh có bệnh về mắt.
Xem thêm bài viết 13 thế đất đại hung khi táng mộ
 

2. Mộ phần sinh ra người què

 

Mộ phần bất kể có hướng như thế nào mà ở bốn góc có chỗ ngoặt, đường rẽ thì sinh ra người què. Hoặc mộ phần nhìn ra đại lộ, chỗ ngoặt, phần đường bị chéo cũng sinh ra người què.   Trường hợp nữa là dòng sông từ xa chảy tới chiếu nghiêng qua, gọi là thế nước cắt chân, nước lớn thì có người què, nước nhỏ thì có người bị thương ở chân.   Phần mộ có hố nhỏ ở trên, quanh năm đọng nước cũng dễ sinh ra người què. Mộ có đường thẳng xuyên qua, không những sinh ra người què, người có bệnh ở chân, người bị tai nạn xe cộ, tai bay vạ gió mà người trong nhà còn phải đi ăn xin, xin cơm để sống.  

3. Mộ phần sinh ra người câm

  Mộ phần nhà mình và mộ phần nhà người khác chiếu thẳng vào nhau hoặc hai ngôi mộ tạo thành một đường thẳng nhưng nhà mình táng mộ muộn hơn thì sau 18 năm sẽ sản sinh ra người câm.   Dù mộ hướng về phía nào nhưng ở cung Cấn có giếng cổ, hố sâu thì trong nhà có nam mệnh bị câm. Nếu giếng ở cung Khôn thì sinh ra nữ mệnh bị câm, đặc biệt là thiếu nữ.
 
Phần mộ phía trước có sông nhỏ chảy qua, dòng phân nhánh thì trong nhà có người câm.  

4. Mộ phần sinh ra người điếc

  Theo phong thủy âm trạch, phía sau lưng mộ phần có nước xối vào thì sinh ra người điếc. Mộ tựa vào núi có nước chảy thẳng từ trên xuống xối vào mộ, dòng nước có tiếng vang thì người trong nhà không điếc cũng nặng khai, khó nghe.   Bất luận mộ quay hướng nào, nếu ở phương vị Càn có hố sâu lớn, vùng hộ sa có xuất hiện hố sâu thì sẽ sinh ra 5 loại người: người mù, người điếc, người chột, người què, người trọc, đồng thời đa số tuyệt hậu.  

5. Mộ phần sinh ra người thọt

  Phía trước minh đường có án sơn nghiêng lệch, thế núi ở hai bên minh đường nghiêng, không ngay ngắn, đa số sinh ra người có bước đi không bình thường, 90%  nam mệnh đau đầu, hai chân nghiêng lệch, mấy năm sau còn sinh ra nữ mệnh đi đứng nghiêng lệch. Chính là là ý sơn thủy bất chính, sinh người lệch chân.  

6. Mộ phần sinh ra người trọc

  Phía trước có sông suối ao hồ nhưng trời hạn thì khô, trời mưa có nước, ở bên trái thì sinh ra nam trọc, ở bên phải thì sinh ra nữ trọc, nếu trái phải đều có thì sinh ra người nam và nữ bị trọc.   Phần mộ táng trên đất trắng, đất phèn, màu đất thuần trắng giống vôi thì sinh ra người trọc. Màu đất hỗn tạp thì sinh ra người tóc thưa thớt. Nếu phát hiện tất cả khu mộ đều là đất trắng đất phèn thì bên trong có quý nhân, sinh ra người sắc mặt tái nhợt, không cao, thân hình mập, học hành rộng rãi.
Xem thêm bài viết Tìm hiểu 25 thế nước trong phong thủy âm trạch để chọn huyệt cát
 

7. Mộ phần sinh ra kẻ ngu si


Phong thuy am trach Nhung the mo ton hai hau the phan 1 hinh anh 2
 
Phía trước minh đường, trong cự ly 15m có chướng ngại thì trong nhà sinh ra người ngu si, bệnh thần kinh hoặc thầy cúng, bà đồng.   Phần mộ quanh năm âm u, nằm trong góc tối ám, bị cây cối hoặc kiến trúc lớn vây bọc cũng dễ dàng sinh ra người ngốc.   Trong mộ có rễ cây, tổ kiến, tổ mối cũng phạm lỗi phong thủy âm trạch, người nhà có trí tuệ không bình thường.  

8. Mộ phần sinh ra người quan hệ bất chính

  Trước hoặc sau mộ có núi, sông hình như cánh cung ngược, gọi là phản cung, chủ về nữ mệnh dâm tà, có qua lại bất chính với đàn ông. Phía trước phần mộ có đường nước quanh co uốn lượn tạo thành hình phản cung thì chủ nữ mệnh xa quê hương, nước lớn còn có thể xuất hiện tình trạng vợ giết chồng.   Bất luận mộ hướng về phía nào mà có nước lớn mênh mông như dòng sông lớn, hồ nước lớn, kênh mương thì nữ mệnh trong nhà có người bất chính hoặc nhà loạn, còn có thể xuất hiện người háo sắc, lăng nhăng, đào hoa, trong nhà thiếu quý tử, không có con trai tốt.   Phái trước minh đường có nước chảy từ hai phía tới, gọi là thế bát tự thủy, chủ nữ nhân tà dâm. Phong thủy âm trạch nhấn mạnh, thế bát tự thủy mà nước chảy mạnh thì vợ chồng không đi cùng đường tới già, tài sản tiêu tán, trong nhà có người bại vong.  

9. Mộ phần sinh ra người chết sớm

  Mộ phần dài ngắn không đều, phương dài phương ngắn thì trong nhà có người mất sớm. Bên trái dài hơn thì trưởng nữ mất sớm, nam mệnh thọ cao nhưng liên tục đổi vợ. Bên trái ngắn hơn thì nữ mệnh thọ cao nhưng đa số là thủ tiết nửa đời. Nếu lỗi này chiếm tới 1/3 số mộ tổ tiên thì xuất hiện trường hợp cả nhà mất sớm.   Nếu mộ phần ở vị trí mà bên trái và bên phải có những khoảng trống trải không giống nhau, độ chênh lệch quá lớn thì nam và nữ trong nhà có tuổi thọ cách biệt quá lớn.   Chỗ dựa phía sau mộ không đồng đều, một bên thấp một bên cao cũng xuất hiện tình trạng tuổi thọ dài ngắn không tương đồng.  

10. Mộ phần sinh ra người bị bệnh gan

  Mộ phần mà phía trước có đống đất nhô ra thành hình trứng gà thì trong nhà có người bị bệnh gan, đa số là chết vì chướng gan. Thế này gọi là thân chính sa, không những có người bệnh mà còn ảnh hưởng tới tài năng của con trai và xuất hiện quả phụ.   Trước mộ có hố nhỏ, nước nhỏ chảy tới đều dễ có người bị bệnh gan.
Xem thêm bài viết 15 lỗi phong thủy âm trạch tuyệt đối đừng mắc phải
 

11. Mộ phần sinh ra người bệnh phổi


Phong thuy am trach Nhung the mo ton hai hau the phan 1 hinh anh 2
 
Theo phong thủy âm trạch, phía trước phần mộ có hố sâu hố lớn, nhiều năm nước tồn đọng không chảy thì sinh ra người có bệnh gan, bệnh phổi.   

12. Mộ phần sinh ra người bệnh thận

  Phía trước phần mộ trong phạm vi 5m có hố sâu hố lớn, nhiều năm tồn đọng nước không thoát thì bất luận là hướng nào, đều sẽ sinh ra người bị bệnh thận. Nếu hố ở cung Khôn thì phụ nữ trong nhà bệnh nhiều năm, ở cung Càn thì người cao tuổi ốm đau, ở cung Cấn thì con trẻ có bệnh, ở cung Chấn thì xuất hiện người bị sét đánh chết.    Theo phong thủy truyền thống, phương Đông – phương Chấn là chấn động, tức là sấm, lôi công nâng chùy lên, đánh vào hố sâu. Phạm thế này thì hậu thế thiệt thòi lâu dài, không khá lên được.
2 đại nguyên tắc phong thủy khi táng mộ giúp con cháu ấm no Ngũ bất táng - táng vào chỉ có hung huyệt Những lưu ý chọn đất đặt mộ sau khi cải táng
Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy âm trạch: Những thế mộ tổn hại hậu thế (phần 1)

Tìm hiểu, công dụng của đá Tourmaline –

Tourmaline có rất nhiều màu sắc khác nhau. Do vậy mà người ta cho rằng tên nó bắt nguồn từ tiếng Singhalese, Tourmali, có nghĩa là “tinh thể nhiều màu”. Tourmaline xuất hiện ở một số mỏ đá quý của Việt Nam... Không chỉ tôn lên vẻ đẹp cho chủ nhân khi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tourmaline có rất nhiều màu sắc khác nhau. Do vậy mà người ta cho rằng tên nó bắt nguồn từ tiếng Singhalese, Tourmali, có nghĩa là “tinh thể nhiều màu”. Tourmaline xuất hiện ở một số mỏ đá quý của Việt Nam… Không chỉ tôn lên vẻ đẹp cho chủ nhân khi được sánh cùng họ mà Tourmaline còn có công dụng chữa bệnh rất tốt. Như vậy, đeo trang sức gắn đá Tourmaline vừa có tác dụng tô điểm vẻ đẹp cho chủ nhân vừa là lá bùa hộ mệnh sức khỏe.

Nội dung

  • 1 Tìm hiểu về đá Tourmaline
    • 1.1 Khu vực phân bố
    • 1.2 Thành phần và cấu tạo
  • 2 Công dụng của đá Tourmaline
    • 2.1 Tourmaline đen (loại phổ biến nhất trong phong thủy năng lượng)
    • 2.2 Tourmaline lam
    • 2.3 Tourmaline lục
    • 2.4 Tourmaline hồng
    • 2.5 Tourmaline vàng

Tìm hiểu về đá Tourmaline

Khu vực phân bố

Tourmaline xuất hiện ở một số mỏ đá quý Yên Bái , Nghệ An , Thanh Hóa , Gia Lai và nhiều nơi trên thế giới như Myanma , Madagaxca , Ấn Độ , Braxin , Kenya , Nga . Không chỉ tôn lên vẻ đẹp cho chủ nhân mà Tourmaline còn có công dụng về phong thủy và chữa bệnh . Như vậy, đeo trang sức gắn đá Tourmaline vừa có tác dụng tô điểm vẻ đẹp cho chủ nhân vừa là lá bùa hộ mệnh sức khỏe .

Thành phần và cấu tạo

Các khoáng vật trong nhóm Tourmaline là một trong những nhóm khoáng vật silicat phức tạp nhất. Sở dĩ Tourmaline có nhiều màu là do hiện tượng thay thế đồng hình các nguyên tố phổ biến trong thành phần các nguyên tố hoá học của khoáng vật này , sự thay thế đồng hình (dung dịch rắn) .

Đá Tourmaline có rất nhiều dạng, gồm không màu, nâu thẫm đến đen , nâu, đỏ, hồng, lam, lục, cam, vàng ,lam …và một viên đá Tourmaline có thể hiện diện hai đến ba màu , chính sự đa sắc này ở có tác dụng cân bằng năng lượng và phân bổ đều trên toàn bộ cơ thể .

Đá Tourmaline kết tinh trong tinh hệ 3 phương, với các yếu tố đối xứng: một trục đối xứng bậc 3 và 3 mặt phẳng đối xứng , đôi khi gặp các tinh thể hình trụ ngắn. Các tinh thể thường nhỏ có khi mức hiển vi, nhưng đôi khi có những tinh thể lớn tới vài chục cm chiều dài và đường kính tới 10 – 20 cm. Các mặt lăng trụ luôn mang dấu vết tăng trưởng dưới dạng vết khía dọc. Tập hợp thường thành tập hợp que, tập hợp phóng xạ hoặc hình tóc rối. Hiếm khi thành khối hạt đặc xít, đôi khi ẩn tinh.

Đá Tourmaline có rất nhiều dạng, gồm không màu, nâu thẫm đến đen , nâu, đỏ, hồng, lam, lục, cam, vàng ,lam …và một viên đá Tourmaline có thể hiện diện hai đến ba màu , chính sự đa sắc này ở có tác dụng cân bằng năng lượng và phân bổ đều trên toàn bộ cơ thể .

Công dụng của đá Tourmaline

Tourmaline đen (loại phổ biến nhất trong phong thủy năng lượng)

– Tourmaline đen hết sức hiệu quả khi cần tỉnh táo và cũng làm ổn định một số người hay “mơ mộng”.

– Là 1 chiến binh mạnh mẽ trước sự tiêu cực từ các cá thể khác, từ người thường đến người có năng lực tâm linh, nếu được sử dụng cùng với mica, tourmaline đen sẽ bộc phát sự tiêu cực đó ngược lại những ai đã phát ra nó. Chúng cũng hạn chế năng lượng xấu từ những thiết bị điện tử và phóng xạ.

– Tourmaline đen cũng hỗ trợ nâng cao sinh lực và sức khỏe, nó có thể sử dụng cho những bệnh về lưng và thận cũng như giúp giảm đau.

Tourmaline lam

– Tourmaline lam làm hoạt hóa chakra họng và trán, vì thế nó rất hiệu quả khi trị những bệnh về cổ họng, phổi và mắt.

– Không chỉ nâng cao khả cường truyền thông và trực giác để kết nối với thế giới tâm linh, tourmaline lam còn hỗ trợ bạn xóa bỏ những buồn đau.

– Tinh thể này còn được dùng để chữa các vết phỏng.

Tourmaline lục

– Tourmaline lục có liên hệ với chakra tim, giúp trải lòng và đem tới tình yêu cùng lòng trắc ẩn. Đây là một tinh thể giải phóng giúp cho cảm xúc có thể tỏa ra ngoài, đồng thời cứu bạn khỏi các nỗi đau từ quá khứ và loại trừ chất độc trong cơ thể.

– Tourmaline lục ổn định cảm xúc, từ đó loại trừ áp lực và lo sợ, giúp có những giấc ngủ ngon và mang đến yên bình. Chúng còn được dùng để trị những vấn đề về tim, tuyến ức và hệ miễn dịch, cũng như giúp lên cân.

Tourmaline hồng

– Đây là 1 tinh thể tuyệt vời cho chakra tim, chúng mang đến niềm vui và tình yêu, và thường được dùng làm quà tặng cho bạn hay người yêu.

– Tourmaline hồng giúp thư giãn, khiến bạn có cảm giác yên bình và an toàn, nó là sự chọn lựa tốt cho 1 số người từng bị ngược đãi. Nó sẽ làm dịu nhẹ nỗi đau mất mát.

– Về mặt thể chất, tourmaline hồng còn được sử dụng cho những bệnh về tim, phổi và da.

Tourmaline vàng

– Đá Tourmaline vàng kích hoạt chakra tinh thểm rối dương, sự sáng chế và trí thông minh, mang đến sự nhạy bén cho đầu óc và tăng cảm giác mạnh mẽ và can đảm. Tóm lại, tourmaline vàng rất thích cho những ai thuộc giới doanh nhân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu, công dụng của đá Tourmaline –

Phật dạy 20 điều khó của con người

Phật dạy người sống trên đời có 20 cái khó. 20 điều khó của con người là những việc mà phải vượt qua những tâm lý thường tình, những chông gai trắc trở.
Phật dạy 20 điều khó của con người

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phật dạy người sống trên đời có 20 cái khó. 20 điều khó của con người là những việc mà phải vượt qua những tâm lý thường tình, những chông gai trắc trở của cuộc sống mới có thể đạt được. Phật pháp vô biên, thiên địa bao la, thiện ác tùy tâm, tiến tới vô thường mới là đạo lý chân chính.

Phat day 20 dieu kho can buoc con nguoi tien toi hanh phuc hinh anh
 
1. Bần cùng bố thí đệ nhất khó. Bố thí giúp người khác là chuyện rất tốt, là nghiệp lành mà càng tích càng có phúc. Nhưng khó nhất ở trên đời không phải là vì có nên bố thí, vì thừa nên cho đi mà là chia sẻ cả khi mình cũng đói khổ, khó khăn, xuất phát từ chân tâm.   2. Phú quý học đạo đệ nhị khó. Phật dạy 20 điều khó của con người thì cái khó thứ hai là giàu sang mà vẫn chuyên tâm học đạo. Bởi hoàn cảnh tốt thường khiến con người hưởng thụ, không tĩnh tâm, danh lợi khiến người ta kiêu căng, ỷ thế. Vượt qua những điều này để khiêm tốn lễ nghĩa hướng về đạo phải thật có chí, coi vinh hoa như cảnh mộng.   3. Tận mệnh ắt phải chết là đệ tam khó. Hồng trần sinh ly tử biệt không thể không có ngày chia ly, ai chẳng ham sống sợ chết. Nhân sinh từ trước tới nay đều vô thủy, vô chung, mệnh tới nhân gian là cõi tạm, hiểu được điều này, coi việc sống chết như lẽ tự nhiên là điều khó.   4. Có được kinh Phật là đệ tứ khó. Gặp kinh, giác ngộ kinh, hiểu được Phật pháp, giáo lý đều phải nhờ duyên trong đời.   5. Thấy được giá trị của Phật là đệ ngũ khó. Không phải cứ bái Phật dâng lễ là hiểu được giá trị của Phật, người mà lòng giác ngộ, hiểu lễ nghi, hướng tới học Phật, noi gương Phật để thực hành trong đời mới thực sự là trân trọng giá trị của Phật.   6. Nhẫn nại chịu đựng là điều khó thứ sáu trong 20 điều khó của đời người mà Phật dạy. Dục vọng của con người là vô biên, tài sắc danh lợi đều khó chối bỏ, vượt qua được mà không lưu luyến là điều không dễ dàng.   7. Không tham cầu điều tốt là là điều khó thứ bảy. Tất cả chúng sinh đều có lòng tham, một đời tâm bất an. Nên tinh tiến khí trừ ngoài thân để trong lòng yên tĩnh, tâm nhẹ nhàng.   8. Bị nhục mà không sân là điều khó thứ tám. Trong luân lý nhà Phật, tham sân si là ba nguồn gốc tạo nên sự đau khổ, nhiễu nhương của cuộc đời. Nếu có thể rộng lòng nhẫn nại, bị làm nhục cũng không oán hận thì mới đích thực được giải thoát.   9. Không tham quyền thế là điều khó thứ chín. Chấp nhất quyền lực, hướng tới vị trí cao, nịnh nọt lấy lòng, không chịu được cơ hàn thì ai cũng làm được. Cái khó là không sa vào dục vọng tầm thường như vậy, sống đạm bạc giản đơn mà vẫn vui vẻ.   10. Gặp chuyện không quan tâm là điều khó thứ mười. Thiên hạ vốn phiền lòng vì tính toán, để ý từng chuyện, thả ra tuy khó nhưng thanh tâm, lòng thanh thản, không bị trói buộc.
Phat day 20 dieu kho can buoc con nguoi tien toi hanh phuc hinh anh
 
11. Học hành rộng rãi uyên bác là điều khó thứ mười một. Chuyên tâm học tập đã khó, thâm nhập tìm tòi nghiên cứu còn khó hơn. Việc trở thành người có trí tuệ thông sâu, năng lực mạnh mẽ cần bền lòng, bền chí.   12. Diệt trừ ngạo mạn là điều khó thứ mười hai. Nông cạn, khoe khoang chẳng lợi gì, no đủ hanh thông biết cúi đầu mới là chuyện tốt. Diệt trừ kiêu căng, khiêm tốn cung kính, hiểu lễ ở đời.   13. Không khinh việc học là cái khó thứ mười ba. Sóng lớp sau xô lớp trước, người sau vượt trôi hơn người trước là lẽ thường tình nên ở bất cứ vị trí nào cũng phải tôn trọng việc học tập, tiếp tục trau dồi chính mình.   14. Tâm bình đẳng là điều khó thứ mười bốn. Trời sinh chúng sinh như nhau, cùng là mạng, cùng nhân phẩm. Nhìn phẩm cấp, vị trí, học vị, tài sản mà phân sang hèn, quý tiện thì dễ, học bình đẳng mới thật gian nan.   15. Không nói thị phi là điều khó thứ mười lăm. Khẩu nghiệp là họa lớn, quản tốt miệng của mình mới an lành.    16. Tôn kính tri thức là điều khó thứ mười sáu. Thấy thầy tốt bạn hiền thì mở rộng nội tâm mà đón nhận, học tập.   17. Chăm chỉ học đạo là điều khó thứ mười bảy. Phật tính có sẵn trong mỗi con người, lười biếng thì mất đạo, bồi dưỡng ắt thành công.   18. Hóa độ người khác là điều khó thứ mười tám, Chúng sinh khó dạy, khuyên người khác hướng về điều thiện không dễ, phải kiên trì, chân tâm, bỏ nhiều thời gian công sức.   19. Thấy cảnh bất động là điều khó thứ mười chín. Tâm không chuyển theo cảnh, dù ở điều kiện nào cũng vẫn giữ được tấm lòng thiện lương, tốt lành như vốn có.    20. Tiện tay hóa duyên là điều khó thứ hai mươi. Bất biến tùy duyên đều làm tròn lý lẽ, chỉ hướng về con người, về đạo.   Phật đưa ra 20 điều khó của con người, mong rằng chúng sinh thấu hiểu, tự sửa bản thân, dần dần đẩy lui mọi thói xấu, tự vượt qua được tất cả những khó khăn, cản trở để hướng tới cuộc sống an lành.
Hà cớ gì cổ nhân có câu “Bệnh từ miệng vào, họa từ miệng ra” Gái kém duyên, muộn chồng lạc quan hơn khi nghe lời Phật dạy Lời Phật dạy: Đoán biết người có vận mệnh tốt hay xấu chỉ cần nghe họ nói
Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phật dạy 20 điều khó của con người

Xem tuổi hợp màu xe –

Theo phong thủy, khi chọn màu sắc cho xe, bạn nên chọn những màu hợp với mệnh của mình để đảm bảo may mắn và tài lộc sẽ đến với bạn. Dưới đây là bảng tra Ngũ hành theo năm sinh: 1970, 1971, 2030, 2031: Thoa xuyến Kim (Vàng trang sức) 1972, 1973, 2032

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong thủy, khi chọn màu sắc cho xe, bạn nên chọn những màu hợp với mệnh của mình để đảm bảo may mắn và tài lộc sẽ đến với bạn.

Dưới đây là bảng tra Ngũ hành theo năm sinh:

1970, 1971, 2030, 2031: Thoa xuyến Kim (Vàng trang sức)

1972, 1973, 2032, 2033: Tang đố Mộc (Gỗ cây dâu)

1974, 1975, 2034, 2035: Đại khê Thủy (Nước dưới khe lớn)

1976, 1977, 2036, 2037: Sa trung Thổ (Đất lẫn trong cát)

1978, 1979, 2038, 2039: Thiên thượng Hỏa (Lửa trên trời)

1980, 1981, 2040, 2041: Thạch lựu Mộc (Cây thạch lựu)

1982, 1983, 2042, 2043: Đại hải Thủy (Nước đại dương)

1984, 1985, 2044, 2045: Hải trung Kim (Vàng dưới biển)

1986, 1987, 2046, 2047: Lộ trung Hỏa (Lửa trong lò)

1988, 1989, 2048, 2049: Đại lâm Mộc (Cây trong rừng lớn)

1990, 1991, 2050, 2051, 1930, 1931: Lộ bàng Thổ (Đất giữa đường)

1992, 1993, 2052, 2053, 1932, 1933: Kiếm phong Kim (Vàng đầu mũi kiếm)

1994, 1995, 2054, 2055, 1934, 1935: Sơn đầu Hỏa (Lửa trên núi)

1996, 1997, 2056, 2057, 1936, 1937: Giản hạ Thủy (Nước dưới khe)

1998, 1999, 2058, 2059, 1938, 1939: Thành đầu Thổ (Đất trên thành)

2000, 2001, 2060, 2061, 1940, 1941: Bạch lạp Kim (Vàng trong nến rắn)

Bảng mầu tương hợp

images824093_bangmau

 

Ví dụ: Bạn sinh năm 1980 ==> mạng Thạch Lựu Mộc, tức là cây cối, mạng tương sinh ra bạn là mạng Thủy (nước), tương khắc với bạn là Kim (kim lọai).

Vậy màu hợp với bạn gồm màu xanh lá cây (màu của bạn), màu của thủy gồm không màu (như kim cương, pha lê), đen, xanh dương. Màu khắc với bạn là màu bạc, màu óng ánh.

Khi mua xe, nên chọn xe có màu tương sinh hay cùng hành, kỵ mua xe màu tương khắc với mạng của chủ nhân.

– Mua chiếc xe có màu tương sinh với mạng người chủ thì chiếc xe đó thường đem lại lợi lộc, khi lái xe sẽ thoải mái trong lòng, ít khi bị hư hỏng bất ngờ và nếu rủi ro có bị tai nạn thì thường bị nhẹ hơn màu tương khắc.

– Mua chiếc xe có màu cùng hành với người chủ cũng tốt, nó ít khi gây phiền phức nhưng cũng không được lợi bằng màu sinh nhập (cùng hành là cùng màu theo ngũ hành).

– Mua xe có màu tương khắc với mạng người chủ, thường làm cho sức khỏe người chủ trở nên suy yếu, trong lòng bực bội khi ngồi vào tay lái, bị buộc phải lái đi làm những việc mà trong lòng không muốn. Xe bị trục trặc thường xuyên, hao tốn tiền bạc để sửa chữa, bị cọ quẹt hay bị phá phách một cách vô cớ, khi xảy ra tai nạn thì bị thương tật và chiếc xe bị hư hại nặng nề có khi phải vứt bỏ.

Ngũ hành tương sinh

images582385_phongthuy_nguhanh

 

Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.

Tương sinh không có nghĩa là hành này sinh ra hành khác, mà là nuôi dưỡng, trợ giúp, làm cho hành kia có lợi. Thí dụ như: Thủy sinh Mộc, nước sẽ làm cho cây tươi tốt. Mộc sinh Hỏa, cây khô dễ cháy tạo nên lửa…

Sự tương sinh của ngũ hành có hai trường hợp:

– Sinh nhập: Hành khác làm lợi cho hành của mình.

– Sinh xuất: Hành của mình làm lợi cho hành khác.

Mộc sinh Hỏa: Hỏa được sinh nhập (được lợi), Mộc bị sinh xuất (sớm có thêm xe nữa là 2 xe).

Hỏa sinh Thổ: Thổ được sinh nhập (được lợi), Hỏa bị sinh xuất (sớm có thêm xe nữa là 2 xe).

Thổ sinh Kim: Kim được sinh nhập (được lợi), Thổ bị sinh xuất (sớm có thêm xe nữa là 2 xe)

Kim sinh Thủy: Thủy được sinh nhập (được lợi), Kim bị sinh xuất (sớm có thêm xe nữa là 2 xe).

Thủy sinh Mộc: Mộc được sinh nhập (được lợi), Thủy bị sinh xuất (sớm có thêm xe nữa là 2 xe).

Ngũ hành tương khắc

Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc.

Tương khắc có nghĩa là hành này làm hao mòn, diệt dần hay khống chế hành khác. Thí dụ như: Mộc khắc Thổ, rễ cây sẽ ăn hết phân của đất. Thổ khắc Thủy, đất sẽ ngăn chận làm cho nước không thể chảy qua được…

Sự tương khắc của ngũ hành cũng có hai trường hợp:

– Khắc nhập: Hành khác gây tổn hại hoặc kềm chế hành của mình. (Khi đi xe không hợp mệnh có thể dễ bị tai nạn)

– Khắc xuất: Hành của mình kềm chế hay gây tổn hại cho hành khác (Mình không bị hại nhưng xe dễ hỏng).

Mộc khắc Thổ: Thổ bị khắc nhập (bị hại), Mộc khắc xuất (không bị hại nhưng xe nhanh hỏng).

Thổ khắc Thủy: Thủy bị khắc nhập (bị hại), Thổ khắc xuất (không bị hại nhưng xe nhanh hỏng).

Thủy khắc Hỏa: Hỏa bị khắc nhập (bị hại), Thủy khắc xuất (không bị hại nhưng xe nhanh hỏng).

Hỏa khắc Kim: Kim bị khắc nhập (bị hại), Hỏa khắc xuất (không bị hại nhưng xe nhanh hỏng).

Kim khắc Mộc: Mộc bị khắc nhập (bị hại), Kim khắc xuất (không bị hại nhưng xe nhanh hỏng).

Màu sắc theo ngũ hành

– Mộc: Màu xanh lá cây nhạt hoặc đậm (green).

– Hỏa: Màu đỏ hay màu huyết dụ (burgundy).

– Thổ: Màu vàng, da cam gạch nhạt hay đậm hoặc màu vàng nhũ (gold).

– Kim: Màu trắng, màu bạc hay xám nhạt (gray hoặc silver).

– Thủy: Màu đen, tím thẫm hay xanh da trời nhạt hoặc đậm (blue).

Mạng theo ngũ hành

Mạng Kim, gồm có các tuổi:

Nhâm Thân 1932 và Quý Dậu 1933; Canh Thìn 1940 và Tân Tỵ 1941; Giáp Ngọ 1954 và Ất Mùi 1955; Nhâm Dần 1962 và Quý Mão 1963; Canh Tuất 1970 và Tân Hợi 1971; Giáp Tý 1984 và Ất Sửu 1985.

Mạng Mộc gồm có các tuổi:

Nhâm Ngọ 1942 và Quý Mùi 1943; Canh Dần 1950 và Tân Mão 1951; Mậu Tuất 1958 và Kỷ Hợi 1959; Nhâm Tý1972 và Quý Sửu 1973; Canh Thân 1980 và Tân Dậu 1981; Mậu Thìn 1988 và Kỷ Tỵ 1989.

Mạng Thủy gồm có các tuổi:

Bính Tý 1936 và Đinh Sửu 1937; Giáp Thân 1944 và Ất Dậu 1945; Nhâm Thìn 1952 và Quý Tỵ 1953; Bính Ngọ 1966 và Đinh Mùi 1967; Giáp Dần 1974 và Ất Mão 1975; Nhâm Tuất 1982 và Quý Hợi 1983.

Mạng Hỏa gồm có các tuổi:

Giáp Tuất 1934 và Ất Hợi 1935; Mậu Tý1948 và Kỷ Sửu 1949; Bính Thân 1956 và Đinh Dậu 1957; Giáp Thìn 1964 và Ất Tỵ 1965; Mậu Ngọ 1978 và Kỷ Mùi 1979; Bính Dần 1986 và Đinh Mão 1987.

Mạng Thổ gồm có các tuổi:

Mậu Dần 1938 và Kỷ Mão 1939; Bính Tuất 1946 và Đinh Hợi 1947; Canh Tý 1960 và Tân Sửu 1961; Mậu Thân 1968 và Kỷ Dậu 1969; Bính Thìn 1976 và Đinh Tỵ 1977; Canh Ngọ 1990 và Tân Mùi 1991.

Nhìn vào bảng liệt kê các mạng, biết tuổi mình thuộc mạng gì, so với màu của ngũ hành để lấy màu sinh nhập cho mạng mình thì biết được mình hợp với màu nào, nên mua xe theo màu đó. Nếu khó tìm màu sinh nhập, chọn màu cùng hành cũng tốt. Ví dụ: Người mạng Thổ sinh năm 1968 có thể đi xe màu đỏ, màu vàng, màu trắng, tránh các màu xanh, đen.

Màu sắc của đồ vật sử dụng như xe máy, ô tô, quần áo giày dép, đồ dùng thường xuyên… cũng có tác động gián tiếp ức chế hay tăng cường đối với ngũ hành của bản mệnh. Nếu chọn lựa màu sắc của trang phục, các đồ vật sử dụng phù hợp với ngũ hành bản mệnh thì cũng mang lại những kết quả tốt, góp phần cải thiện được những thiếu khuyết của bản mệnh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tuổi hợp màu xe –

Phong thủy nhà đất. Chọn đất tốt để xây nhà đẹp –

Kiến thức phong thủy. Nhà mới xây lại kẹp giữa hai bên là nhà cũ là thế phú quý hiển hách. Nhà ở nửa cũ nửa mới là thế bần hàn… Hình thế tốt – xấu của nhà và đất Việc chọn đất bao gồm hướng và thế đất là vô cùng quan trọng đối với việc mua nhà, xây n

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kiến thức phong thủy. Nhà mới xây lại kẹp giữa hai bên là nhà cũ là thế phú quý hiển hách. Nhà ở nửa cũ nửa mới là thế bần hàn…

Hình thế tốt – xấu của nhà và đất

Việc chọn đất bao gồm hướng và thế đất là vô cùng quan trọng đối với việc mua nhà, xây nhà. Có rất nhiều yếu tố để xét tính cát – hung (tốt – xấu) của thế đất nhà mà bạn không nên bỏ qua.

Tường rào kín kẽ, bốn vách rõ ràng, giếng trời sáng sủa, quy cách nhất quán là nhà phú quý.

Nhà nhỏ mà cao, trơ trọi một mình không có thế dựa, bốn xung quanh không có gì che chắn, là thế nhà đơn lạnh.

image_90735_phong_thuy_nha_dat

Nam bắc đều có nhà lớn, đông tây đổi hướng, thế như tranh giành lẫn nhau, bên trái bên phải đều cao lớn nguy nga là thế nhà phản nghịch.

Nhà nghiêng cửa vẹo mưa dột gió lùa, là thế nhà đau ốm. Nhà cửa tối tăm, quá rộng hoặc quá chật đều là thế nhà yêu quái. Nhà cửa nứt vỡ, vách tường sạt lở, đầu kèo hở hoác đó là thế đất đơn độc, khổ sở.

Dương trạch có nền móng vuông vắn, ngay ngắn, dễ xem phương hướng tốt. Nếu như quá cao, quá rộng, quá nhỏ hẹp hoặc méo vẹo, thò thụt, dễ khiến hao của mất người.

Nền đất quá cao, trước sâu sau lẹm, nước không tụ lại, lan man không tập trung, là thế nhà bần cùng. Nhà cao mà đất hẹp, tiền của và nhân đinh (con người) đều hao tổn. Nhà thấp mà đất rộng, trong vòng một đời sẽ giàu có.

Phòng ngủ và phòng khách cũng khác nhau. Phía trước phòng khách có thể để khoảng không rộng rãi, nhưng nếu không gian phía trước phòng ngủ quá rộng thì khí sẽ tản mát.

Với nhà ở thì giếng trời tượng trưng cho tài lộc. Căn nhà phía trước mặt sẽ là án sơn. Giếng trời có kích cỡ hợp lý sẽ tụ tài; căn nhà phía trước có chiều cao vừa phải, tương quan chủ – khách cân xứng sẽ được phúc.

Nhà phía trước nếu như quá cao là thế chủ bị ăn hiếp, nếu như quá thấp là thế khách không tương xứng, quá gần là thế bức bách, quá xa là thế trống trải. Mái nhà phía trước gần, nhà nên thấp, mái nhà phía trước xa, có thể cao nhỉnh lên một chút.

Sự cát hung của nhà ở đều dựa vào những điểm đó. Còn như đại sảnh phía ngoài cũng lại khác, giếng trời của đại sảnh là tiểu minh đường, mà tiền sảnh phía trong cổng là trung minh đường còn cổng là tầng án sơn thứ hai.

image_90737_nha

Khoảng không phía trước cổng là đại minh đường, còn triền sơn (sa núi phía trước nhà) là tầng án sơn thứ ba. Tiểu minh đường cần phải kín và tập trung, trung minh đường nên rộng rãi hơn, hình dáng nên vuông vắn. Đại minh đường cần rộng rãi, nhưng cũng không nên trống trải quá.

Sách xưa có viết “nhà hẹp người đông, tức người khắc nhà là cát; nhà rộng người ít tức là nhà lấn người, là hung”.

Lại viết “nhà cũ bị kẹp giữa hai bên là nhà mới xây thì tuyệt đối không nên ở vào đấy. Nhà mới xây lại kẹp giữa hai bên là nhà cũ là thế phú quý hiển hách. Nhà ở nửa cũ nửa mới là thế bần hàn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy nhà đất. Chọn đất tốt để xây nhà đẹp –

Điểm mặt 4 chòm sao chém gió giỏi nhưng làm dở

Lời nói gió bay, vì thế, đừng bao giờ quá tin tưởng 4 chòm sao giỏi chém gió dưới đây kẻo phải nghe họ hứa hẹn cả đời mà chẳng thấy hành động thực tế đâu cả.
Điểm mặt 4 chòm sao chém gió giỏi nhưng làm dở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lời nói gió bay, miệng nói mà tay không làm thì chẳng có ý nghĩa gì cả. Vì thế, đừng bao giờ quá tin tưởng 4 chòm sao giỏi chém gió dưới đây kẻo phải nghe họ hứa hẹn cả đời mà chẳng thấy hành động thực tế đâu cả.


► Xem thêm: Bí mật 12 cung hoàng đạo cùng những tin tức Horoscope được cập nhật mới nhất

Diem mat 4 chom sao chem gio gioi nhung lam do hinh anh 2
 
Song Tử   Chòm sao bạo miệng Song Tử tất nhiên là nói giỏi, khua môi múa mép giỏi nhưng làm thì chưa chắc đâu nhé. Có một số việc, Song Tử rất nhanh nhẹn nhận phần, hứa hẹn hùng dũng khiến người khác thập phần tin tưởng công việc sẽ kết thúc tốt đẹp, nhưng cuối cùng chỉ nhận về thất vọng. Độ chém gió thành thần của Song Tử đã cao tới mức, có 1 nói thành 100, có 10 nói thành 1000 rồi nên điều đó có gì là lạ đâu.
Nhân Mã   Lạc quan mù quáng và tin tưởng quá độ chính là điều biến Nhân Mã thành chòm sao giỏi chém gió. Do không cân nhắc năng lực cùng điều kiện thực tế, quá coi trọng bản thân, không lường trước khó khăn, nhìn nhận sự việc đơn giản nên Mã Mã tự tin sẽ làm tốt, hứa hẹn rất hoành tráng. Cuối cùng, sóng gió ập tới, thực tế phũ phàng khiến họ thất hẹn. Dù không cố lừa đảo hay khoác lác nhưng kết quả lại biến thành người như vậy.
4 chòm sao có trí thông minh hơn người 3 chòm sao nữ có tấm lòng vị tha, độ lượng 3 chòm sao nói KHÔNG với tình một đêm

Bạch Dương
  Bạch Dương là chòm sao thành thật, tại thời điểm hứa hẹn họ thật sự là muốn làm tốt, nhưng bản tính khoác lác, khoe mẽ không sao bỏ được nên thêm mắm dặm muối, thổi phồng năng lực lên nhiều lần khiến đối phương cảm thấy rất tín nhiệm. Dẫu cố gắng trân trọng sự tin tưởng ấy bao nhiêu nhung vì năng lực thực chất có hạn nên bạch Dương vẫn không thể hoàn thành sự việc hoàn hảo, tốt đẹp như họ từng chém gió trước đây. Cũng vì thế mà mác khoác lác cứ đeo bám mãi thôi.
Diem mat 4 chom sao chem gio gioi nhung lam do hinh anh 2
 
Sư Tử
  Chòm sao kiêu ngạo như Sư Tử dễ gì mà có 1 nói 1, có 2 nói 2. Họ phải thể hiện bản lĩnh, tâng bốc bản thân để người khác phải trọng vọng. Thói ham hư vinh đến chết không chừa ấy đã nhiều lần mang tới rắc rối cho Sư Tử và những người khác khi mà hoàn thành công việc không đúng với hứa hẹn ban đầu thì họ lại quay ra đổ lỗi xằng bậy chứ nhất định không chịu nhận trách nhiệm về mình. Một vài lần, người khác sẽ tự khắc hiểu lời nói có Sư Tử có mấy phần đáng tin.    3 chòm sao lúc nào cũng vui vẻ như trẻ thơ Chỉ điểm cách giải tỏa áp lực trước kì thi cho 12 chòm sao Chỉ số thông minh của 12 cung hoàng đạo Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm mặt 4 chòm sao chém gió giỏi nhưng làm dở

Quẻ Quan Âm: Văn Quân phỏng Tương Như

Quẻ Quan Âm thứ 71 Văn Quân phỏng Tương Như đoán rằng dù trước mặt cố con đường khác có thể đi, nhưng ẩn giấu trong đó là gai góc mọc đầy.
Quẻ Quan Âm: Văn Quân phỏng Tương Như

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 71 được xây dựng trên điển cố: Văn Quân phỏng Tương Như hay Văn Quân thăm Tương Như.

Đây là quẻ trung bình thuộc cung Thìn. Nếu không thoát được những vẫn đề hiện tại, cảm thấy mọi con đường đều mờ mịt thì tốt nhất cứ thuận theo tự nhiên và thiên mệnh của bản thân. Khi đã ra khỏi vòng giam hãm, hành sự hãy cẩn thận trước tiên.

Bất xuất trùng trùng, sự do thiên mệnh, chấn phóng trung khai, thiết nghi cản thũ.

Điển cố quẻ Quan Âm: Văn Quân phỏng Tương Như

Trác Văn Quân là con gái Trác Vương Tôn rất giàu có ờ huyện Lâm Cùng đời Hán, xinh đẹp lại đa tài, yêu thích âm nhạc. Tư Mã Tương Như vốn là môn khách của Lương Hiếu Vương Lưu Vũ em trai của Hán cảnh Đế. Sau khi Lượng Hiếu Vương chết, Tương Như trở về quê cũ ờ Thành Đô, nhưng gia cảnh nghèo khó, không biết sống bằng gì. Trước kia, Tương Như rất thân thiết với huyện lệnh ờ Lâm Cùng là Vương Cát, bèn đến huyện Lâm Cùng làm khách, được Vương Cát tiếp đãi long trọng.

Có một lần Vương Cát nói với Tương Như rằng, ở huyện Lâm Cùng có nàng Trác Văn Quân dung mạo xinh đẹp khiến chim sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn, nay đang ở góa tại nhà mẹ đẻ, kết duyên cùng nàng sẽ rất đẹp đôi. Tư Mã Tương Như nghe xong, chỉ cười mà lắc đầu.

Cha của Trác Văn Quân cũng thích kết giao với những người hiển quý và văn nhân mặc khách, thường xuyên mở tiệc chiêu đãi. Một hôm, ông lại mở tiệc chiêu đãi tân khách. Trác Văn Quân nghe nói Tư Mã Tương Như cũng đến, bất giác động lòng, liền trốn sau bức mành quan sát. Tư Mã Tương Như là văn nhân nổi tiếng đương thời, lần này Trác Vương Tôn quả thực có mời Tương Như, cùng với nhiều danh nhân khác và quan viên trong huyện.

Tiệc rượu đến lúc cao trào, mọi người đều rất hứng khởi. Vương Cát nói: “Mọi người từ lâu đã nghe danh Tư Mã Tương Như có tài thơ phú, kỳ thực Tương Như còn có tài đàn hát, nay gặp dịp tốt cảnh đẹp, sao không mời Tương Như tiên sinh đàn một khúc nhạc?” Mọi người nghe vậy, đồng thanh hưởng ứng. Tư Mã Tương Như không thoái thác được, liền cầm lấy cây đàn của chủ nhân, đàn thử một khúc ngắn. Tương Như cũng biết rằng còn có một người đang nghe trộm, đó chính là Trác Văn Quân. Vì thế Tương Như trổ hết tài nghệ, tấu lên khúc nhạc “Phượng cầu hoàng” rung động lòng người để thể hiện tình cảm mến mộ của mình. Lời của khúc nhạc đó như sau:

Phượng hề, phượng hề quy cố hương, Ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng
Thời vị ngộ hề vô sở tương, Hà ngộ kim hề thăng tư đường!
Hữu diễm thục nữ tại khuê phường, Thất nhĩ nhân hà độc ngã trường.
Hờ duyên giao cảnh vi uyên ương, Hồ hiệt cương hề cộng ao tường.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Văn Quân phỏng Tương Như

18 gợi ý bài trí văn phòng để công việc thành công

Kết hợp bí quyết phong thủy hài hòa trong cách sắp xếp và trang trí văn phòng giúp bạn đạt được thành công dễ dàng và nhanh chóng hơn.
18 gợi ý bài trí văn phòng để công việc thành công

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 

Vì chúng ta dành rất nhiều thời gian ở văn phòng, điều quan trọng là phải kết hợp những bí quyết phong thủy hài hòa trong cách sắp xếp và trang trí. Dưới đây là một số ý tưởng để hoàn thiện nơi làm việc sao cho thuận phong thủy, nhanh chóng đạt được thành công hơn:

1. Khi lựa chọn văn phòng, bạn nên chọn một không gian càng xa phòng ngủ càng tốt. Phòng làm việc với một lối đi riêng bên ngoài là lý tưởng nhất, mặc dù nó không phải luôn luôn là một lựa chọn thực tế.

2. Không ngồi ở vị trí tạo thành đường thẳng trực tiếp với cửa. Trường hợp này khiến bạn phải đón nhận sự tấn công của nguồn năng lượng tiêu cực. Thay vào đó, chuyển ghế ngồi của bạn sang vị trí khác để tránh năng lượng tiêu cực đi qua cơ thể.

3. Trang trí một chậu cây xanh tươi tốt, khỏe mạnh và cao lớn trong khu vực làm việc. Nó không chỉ giúp tăng cường năng lượng tốt khi bạn làm việc, mà còn giúp hấp thụ năng lượng tiêu cực và phá hoại xung quanh. Một cây xanh mềm mại với phần gốc rộng, chắc chắn là lựa chọn tuyệt vời.

4. Bố trí bàn làm việc ở vị trí tránh xa cửa và lưng của bạn không đối diện với cửa. Theo phong thủy, đây được gọi là vị trí chỉ huy, có khả năng thu hút năng lượng mạnh mẽ và thành công hơn đến với khu vực làm việc của bạn. Luôn ghi nhớ rằng bạn phải ngồi ở vị trí nhận được sự thành công chứ không phải quay lưng lại với nó.

5. Nếu lưng của bạn buộc phải quay về phía cửa khi ngồi vào bàn làm việc, bạn có thể giảm bớt ảnh hưởng tiêu cực bằng cách nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của cửa. Hãy treo gương hoặc bất kỳ đồ vật phản chiếu nào xung quanh bàn làm việc để bạn có thể nhìn thấy mọi chuyện diễn ra sau lưng.

18 goi y bai tri van phong de cong viec thanh cong hinh anh
Trồng cây xanh trong văn phòng để thanh lọc không khí

6. Tránh kê bàn làm việc của bạn trực diện với bàn làm việc của người khác. Lý do, đây là tình huống phong thủy xấu, mời gọi năng lượng tiêu cực bao gồm gia tăng sự căng thẳng, đối đầu trong công việc. Lưu ý này đặc biệt quan trọng với ai dùng chung văn phòng với nhiều người.

7. Nếu có thể, kê bàn ở nơi mà bạn không đối diện với với một bức tường. Nếu không thể, cố gắng làm cho bức tường trở nên “vô hình” bằng một số thủ thuật nhỏ như treo tranh ảnh, dán giấy dán tường…

8. Lấp đầy góc tường phía sau bàn làm việc. Mục đích là để tái tạo lại cảm giác về một ngọn núi (phong thủy hỗ trợ) để cung cấp năng lượng hỗ trợ cho tâm trí và cơ thể bạn.

9. Tạo ra một điểm nhấn trong phòng làm việc. Điều này rất quan trọng trong việc thiết kế thành công cho bất kỳ không gian nào, bao gồm cả phòng làm việc. Trường hợp không có điểm nhấn, năng lượng của toàn bộ không gian sẽ bị phân tán ở nhiều hướng, không thể hỗ trợ tốt cho bạn.

10. Góc đầu tiên bạn nhìn thấy khi bước vào phòng làm việc phải được lấp đầy bằng một yếu tố cao, mạnh mẽ. Ví dụ, bộ khung ảnh theo chiều dọc sẽ mang đến năng lượng tốt.

11. Tối ưu hóa ánh sáng tự nhiên sẵn có khi làm việc trong văn phòng. Nếu có cửa sổ, để trần hoặc kéo kín rèm cửa hoàn toàn trong suốt ngày làm việc. Nhiều nghiên cứu cho thấy sự hiện diện của ánh sáng tự nhiên ảnh hưởng trực tiếp đến sự hài lòng với công việc của bạn.

12. Đèn huỳnh quang không bao giờ là ý tưởng tốt đẹp cho nơi làm việc. Nếu không có lựa chọn nào khác, cân nhắc việc đặt một chiếc đèn bàn nhỏ (sử dụng bóng đèn LED, Halogen…) trên bàn làm việc để cung cấp đủ ánh sáng, đồng thời tạo ra bầu không khí thoải mái, dồi dào năng lượng.

13. Trồng 1 – 2 cây xanh thanh lọc không khí. Văn phòng nổi tiếng là có mức từ trường điện cao phát ra từ các thiết bị điện làm ô nhiễm không khí. Cây xanh thanh lọc không khí sẽ giúp gia tăng lượng khí oxy cung cấp cho não bộ cũng như làm mới lại tổng thể bầu không khí, giữ cho năng lượng tích cực luôn ở mức cao nhất có thể.

14. Luôn giữ nơi làm việc sạch sẽ và ngăn nắp. Sự lộn xộn sẽ phá hoại năng lượng và động lực của bạn. Trong khi đó, một không gian sạch sẽ và có tổ chức tiếp thêm sức mạnh, nhiệt huyết để bạn làm việc hiệu quả hơn.

15. Chọn lựa tranh ảnh nghệ thuật để treo trong phòng làm việc một cách cẩn thận. Bạn nên chọn tranh ảnh thể hiện được năng lượng của những khoảnh khắc hạnh phúc, sôi động và có màu sắc đẹp, gợi cảm hứng cho người xem.

16. Nếu nơi làm việc của bạn có nhiều hơn 1 cánh cửa, không nên mở tất cả cùng một lúc. Điều này tuân theo nguyên tắc phong thủy để giữ tiền bạc, của cải đi vào không bị thất thoát ra ngoài qua một cánh cửa khác.

17. Trường hợp công việc của bạn đòi hỏi rất nhiều sự sáng tạo, bố trí máy tính ở hướng Bắc hoặc hướng Tây. Có thể đặt máy tính ở hướng Đông Nam nếu mục tiêu của bạn có thu nhập cao.

18. Đừng quên kết hợp yếu tố âm – dương trong không gian làm việc. Cân bằng màu sắc sáng và tối, bề mặt mềm và cứng, kết cấu mịn và thô. Nó giúp tạo ra sự yên tĩnh, có tổ chức, cởi mở và nhất là tối đa hóa những nỗ lực của bạn.

 Theo Tuviglobal


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 18 gợi ý bài trí văn phòng để công việc thành công

8 điều xui xẻo chớ mắc phải khi trang trí nhà cửa

Ai cũng muốn có 1 căn nhà đẹp và rất chú trọng trang trí nhà cửa. Nhưng đôi khi hành động vô tình của chúng ta lại phạm phong thủy, khiến cho xui xẻo ập tới.
8 điều xui xẻo chớ mắc phải khi trang trí nhà cửa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ai cũng muốn có một căn nhà đẹp và đầu tư nhiều tâm sức vào để trang trí nhà cửa. Nhưng bạn cũng nên chú ý đến phong thủy, bởi đôi khi hành động vô tình của chúng ta có thể khiến cho xui xẻo ập tới mà không hay.   Trang trí nhà cửa, trang trí nội thất còn được coi là một môn nghệ thuật. Chúng ta ai cũng muốn trang trí cho nhà mình thật đẹp, giàu tính thẩm mĩ, nhưng có lẽ không hề biết rằng nếu không đủ hiểu biết thì vô hình trung, chúng ta có thể phạm phải đại kị phong thủy mà gây ra những điều xui xẻo cho cả gia đình.


8 dieu mang xui xeo khi trang tri nha cua
 
  Vậy khi trang trí nhà cửa, cần tránh không mắc phải những điều cấm kị gì trong phong thủy? Hãy cùng Lịch ngày tốt đi tìm câu trả lời nhé.  

1. Nhà có quá nhiều gương

  Trong phong thủy, gương đại diện cho âm hàn, dễ chiêu gọi tà khí. Nhà treo nhiều gương có tốt không? Nếu trong nhà để quá nhiều gương thì dễ khiến cho gia chủ hao tài mạt vận, mua sắm tiêu xài vô độ, chi tiêu vượt quá mức khả năng có thể chi trả được, kinh tế gia đình càng ngày càng đi xuống.  

2. Đồ làm bếp hay nồi cơm bị nứt vỡ


khong de do lam bep da hong trong nha


 
Nhà bếp cũng giống như kho tiền tài vậy, chính vì thế đồ dùng nhà bếp không chú ý có thể gây ra những hậu quả không lường trước được. Nếu đồ làm bếp hay nồi cơm đã bị hỏng hay nứt vỡ thì tốt nhất bạn hãy vứt bỏ đi, đừng giữ lại trong nhà, nó sẽ khiến cho tài vận càng ngày càng tệ, Thần Tài xa lánh, chẳng muốn bước vào cửa nhà.  

3. Xà nhà áp đỉnh

  Xà nhà áp đỉnh sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và tâm trạng của gia chủ. Bạn không nên kê giường, bàn trà, bàn ăn hay bàn làm việc dưới dầm nhà. Tuy nhiên cũng không khó để hóa giải xà nhà phạm lỗi phong thủy. Nếu không thể tránh được kê đồ đạc như trên dưới xà nhà do không gian có hạn thì phải thiết kế nội thất sao cho phù hợp, ví dụ làm thêm trần nhà để che chắn dầm nhà đó đi. Sức khỏe đi xuống, tâm trạng tồi tệ, chẳng có gì lạ khi mà công việc lẫn tiền bạc đều bị ảnh hưởng.  

4. Cánh cửa, khung cửa bị cong hay nứt


cua va khung cua khong duoc cong venh nut vo
 
Hãy kiểm tra kĩ phần cánh cửa, khung cửa của nhà bạn. Đây là điều cực kì quan trọng bởi tài khí vào nhà qua cửa lớn, nếu phần cửa nhà bạn bỗng nhiên bị cong hay nứt vỡ mà không kịp thời sửa chữa thì Thần Tài chẳng buồn ghé tới, thay vào đó là vận nghèo khổ sẽ đeo bám các thành viên trong gia đình.  

5. Đồ đạc trong phòng ngủ không cân đối

  Phòng ngủ là không gian riêng tư của mỗi người, với các cặp vợ chồng thì đó là thiên đường tình yêu của họ. Chính vì thế mà nếu đồ đạc trong phòng ngủ không cân đối thì cũng như quan hệ vợ chồng thiếu hài hòa, lâu dần sẽ dễ nảy sinh mâu thuẫn, vợ chồng tranh cãi xích mích, gia đình bất ổn không yên.  

6. Đặt cây cảnh, hoa lá thích hợp với phòng khách trong phòng ngủ

  Có những loại cây, loại hoa chỉ thích hợp đặt ở phòng khách, nếu đặt ở phòng ngủ sẽ phá phong thủy, gây bất hòa trong quan hệ vợ chồng. Ví dụ nếu đặt hoa ở đầu giường sẽ dễ phạm đào hoa dữ, hai vợ chồng có tình cảm ngoài hôn nhân, dần dần khiến cuộc sống vợ chồng xa cách, gia đình tan vỡ. Đây là điều đại kị trong trang trí nhà cửa, chỉ sơ sảy một chút thôi cũng có thể khiến cho tai họa ập tới.   Phòng ngủ thích hợp bày những cây cảnh lá to rộng, có thể giúp cho tình cảm vợ chồng ngày càng thêm thắm thiết, cũng thúc đẩy vận trình tài lộc cho gia chủ. Ngược lại thì những cây lá nhỏ có thể tạo ra trường khí không tốt, khiến chủ nhân dễ vướng phải những rắc rối không đâu, làm gì cũng không suôn sẻ.  

7. Đầu giường có gắn gương, dễ gọi mời ma quỷ


dau giuong gan guong
 
Đầu giường gắn gương là một điều nên tránh khi trang trí nhà cửa, bởi theo phong thủy nhà ở nó khiến cho chủ nhân dễ bị đau đầu, mất ngủ, còn dễ gọi mời ma quỷ đến nhà.  

8. Dưới giường và nền nhà để nhiều đồ đạc

  Trong cuộc sống, nhiều người không hiểu rằng gọn gàng sạch sẽ có thể đem lại vận khí tốt cho gia chủ. Thực ra phong thủy không quá phức tạp như mọi người tưởng tượng, nó có những ứng dụng rất thiết thực ngay bên cạnh chúng ta. Bạn đừng nên để đồ đạc lung tung bừa bãi dưới sàn nhà cũng như ở dưới gầm giường, bởi nó sẽ khiến cho khí xấu lan tràn, khí tốt bị ngăn cản, ảnh hưởng đến vận khí của cả gia đình. 
An An

Phong thủy nhà ở không tốt, bảo sao bạn vẫn độc thân Tại sao mãi vẫn nghèo? Vì chưa biết những lưu ý phong thủy ảnh hưởng tới tài vận

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 8 điều xui xẻo chớ mắc phải khi trang trí nhà cửa

Nhà ở trên đất hình tam giác phải cải tạo như thế nào? –

Đất hình tam giác là điều cấm kỵ rất lớn đối với phong thuỷ nhà ở Nếu mảnh đất nhà bạn rộng thì cải tạo bằng cách cắt rời ba góc, xây tường bao quanh, hoặc trồng một hàng cây để ngăn cách. Phần cắt rời ra, không được sử dụng làm nhà ở, chỉ có thể trồ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đất hình tam giác là điều cấm kỵ rất lớn đối với phong thuỷ nhà ở

av

Nếu mảnh đất nhà bạn rộng thì cải tạo bằng cách cắt rời ba góc, xây tường bao quanh, hoặc trồng một hàng cây để ngăn cách. Phần cắt rời ra, không được sử dụng làm nhà ở, chỉ có thể trồng hoa hay làm vườn rau hoặc bỏ trống.

Nếu không có không gian thừa có thể cắt bỏ một bên góc, chủ nhà phải luôn duy trì màu xanh cho phần góc rời (như trồng cây cối, hoa cỏ).

Nếu có điều kiện, bạn nên chuyển đến nơi khác sinh sống


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhà ở trên đất hình tam giác phải cải tạo như thế nào? –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd