Mơ thấy ghế tay vịn: Lên hoặc xuống chức –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
Nắm bắt số lượng cá cảnh cải thiện tài vận gia chủ![]() |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Xét về số đào hoa, nam giới tuổi Dậu có đường nhân duyên tốt, dễ dàng gặp được người bạn đời của mình hơn. Nữ giới tuổi Dậu lại không được suôn sẻ trong đường tình duyên. Ngay cả khi đã chung sống với người bạn đời của mình, họ cũng gặp phải nhiều mâu thuẫn.
|
| (Ảnh chỉ mang tính chất minh họa) |
Nam tuổi Dậu thuộc mẫu người ưa hành động. Song, tình cảm của họ cũng rất mãnh liệt. Trang phục truyền thống sẽ phù hợp và tạo sức hấp dẫn riêng cho người này.
Nữ tuổi Dậu thường thích chọn gam màu sặc sỡ cho trang phục. Tuy nhiên, hình thức này không tạo được ấn tượng cho người khác. Họ nên thay đổi cách ăn mặc. Phong cách thời trang trẻ trung kết hợp với ngôn từ, cử chỉ hài hòa sẽ giúp nữ giới tuổi Dậu tạo được sức hấp dẫn đối với người khác giới hơn.
Theo phong thủy, một số vật dụng sẽ mang lại may mắn cho người tuổi Dậu như sau: hoa lan, quả lê, ngọc lục bảo.
(Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp)
Nếu áp dụng phương pháp dọn dẹp nhà cửa khoa học, hợp lý và đúng phong thủy, bạn vừa có thể tiết kiệm được thời gian, công sức mà lại mang đến nhiều may mắn, tài lộc cho gia đình mình trong năm mới.
Cho dù năm mới vừa qua, bạn có thể không may mắn ở một số chuyện, nhưng hãy tin rằng “tống cựu nghinh tân”, tức đuổi cái cũ, xấu đi thì cái mới, cái tốt sẽ đến. Trong số những cái cũ và xấu ấy, bụi bặm là nguyên nhân đầu tiên tác động xấu đến phong thủy của nhà bạn. Vì vậy, bạn hãy bắt đầu việc quét dọn nhà cửa với tâm trạng phấn khỏi và theo gợi ý dưới đây:

1. Dọn dẹp theo nguyên tắc
Bạn nên quét dọn theo nguyên tắc từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài: Bắt đầu từ tầng thượng đi xuống nhà dưới, từ bếp ra ngoài sân. Lau sạch bụi bám trên bề mặt các đồ vật bằng gỗ, kim loại, đặc biệt là gương, kính để tái kích hoạt các thuộc tính tự nhiên của ngũ hành trong đồ vật.
Sau đó quét dọn những góc nhà đầy bụi bặm, mạng nhện. Hãy nghĩ rằng những chỗ bụi bám chính là nơi tàng trữ xui xẻo, bạn cần chịu khó lau chùi thật sạch sẽ. Những đồ hư cũ, không dùng được nữa thì nên vứt bỏ. Riêng với giày dép cũ, bạn có thể tận dụng để hóa giải xui xẻo cho những người phạm Thái Tuế, Tam Tai, năm hạn…
Trước ngày 25 tháng Chạp, hãy mang giày dép cũ bỏ tại ngã 3 đường gần nhà, sau đó tìm đường khác để quay về nhà. Đây là quan niệm giải hạn của các cụ ngày xưa. Việc mang đồ ra bỏ ở ngã ba đường sẽ giúp những vị khách lãng du thiếu thốn có đồ sử dụng, niềm vui của họ sẽ hóa giải hết vận hạn của ta.
2. Lưu ý vật dụng trong bếp
Theo phong thủy, bếp là nơi tích tụ tài lộc của cả gia đình. Bếp thuộc Hỏa, kỵ Kim, Thủy. Vì vậy, khi dọn dẹp, cần sắp xếp những vật thuộc Kim (như dao, muỗng, nĩa…) hay Thủy (tủ lạnh, nước uống…) tránh xa bếp. Nếu để dao gần bếp thì gây tán tài, tiền bạc hao hụt. Điều kỵ nhất là vị trí bếp đối diện với nhà vệ sinh. Trong trường hợp này, nên sử dụng quạt hút gió, quạt treo tường để thay đổi hướng gió trong khu vực bếp hoặc bố trí cây xanh để tăng Mộc tính, trung hòa giữa Hỏa – Thủy và khử mùi, lọc khí CO2 thải ra khi đun nấu.
3. Làm mới phòng khách
Ở phòng khách, bạn nên giặt giũ hoặc thay rèm cửa, sơn phết, thay giấy dán tường mới. Năm Qúy Tỵ nghiêng về hành Thủy nên bạn có thể chọn những màu sắc thuộc hành Kim như trắng, xám bạc, vàng ánh kim; hay hành Thủy như xanh dương, hoặc hành Mộc như xanh lá cây, xanh nõn chuối để tạo ra sự tương sinh (Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc) nhằm mang lại may mắn. Bạn cũng có thể treo tranh “Kim Kê hý Nhật” – “Gà trống vàng gáy mừng mặt trời” để thành công trong sự nghiệp, tiêu trừ tật bệnh. Nếu đang kinh doanh, việc trang trí hình tượng trâu kéo bắp cải, trâu kéo xe tiền sẽ giúp công việc thuận lợi.
4. Cẩn trọng với bàn thờ
Đối với khu vực thờ tự, hãy dùng khăn giấy ướt lau sạch bụi bặm cho các tượng (thần tài, thổ địa) hoặc ảnh trên bàn thờ. Tuy nhiên, nên hạn chế di chuyển tượng, ảnh và không dùng giẻ lau. Tiếp theo, hãy kê gọn bàn thờ cho hợp lý theo nguyên tắc: Bát nhang lúc nào cũng đặt xa tượng/ảnh nhất, nghĩa là gần với người thắp nhang nhất, khoảng ở giữa dùng để bày nước, trà, rượu, bình hoa hoặc là mâm trái cây khi cúng. Đối với những nhà thắp nhang nhiều, khi cúng vào ngày 30 tháng Chạp nên đốt hết phần chân nhang của năm cũ, lưu ý là không được vứt vào sọt rác.
Theo phong thủy, quan điểm kỵ di chuyển bát nhang trên bàn thờ là không đúng. Thật ra, việc đánh bóng lư đồng, bát nhang vào dịp lễ, Tết vừa thể hiện sự trang trọng vừa giúp “tống cựu nghinh tân”.

5. Tẩy uế để xua khí xấu
Cuối cùng, hãy nấu nước lá bưởi hoặc lá khổ qua (mướp đắng) để tẩy uế cho nhà cửa. Sau đó, mau thuốc xông nhà hay nhang trầm đốt lên để xua đi tất cả khí xấu, chuẩn bị đón một năm mới thật tinh khiết, nhiều niềm vui.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Dạo quanh thị trường hoa, cây cảnh những ngày giáp Tết, chúng tôi nhận thấy, năm nay, loại cây đang được dân chơi cây cảnh và hoa Tết chú ý, săn đón tìm hiểu đó là cây ghép ngũ quả hay còn gọi là cây ngũ phúc. Cây ghép ngũ quả gồm có 5 loại quả: Bưởi, cam, quýt, quất và phật thủ. 5 loại quả đó tượng trưng cho “mâm ngũ quả” tròn đầy của người Việt trong ngày Tết Nguyên đán. Và mỗi quả lại tượng trưng cho một ước nguyện, mong muốn khác nhau, như quả phật thủ tượng trưng bàn tay phật nâng niu che chở cho mái ấm gia đình; quả bưởi với gửi gắm mong muốn sự an khang ,thịnh vượng; quả cam, quýt, quất lại tượng trưng cho sự thành đạt, giàu sang, đầy đủ.

Chị Nguyễn Thị Nghĩa, một người dân bán quất và cây ngũ quả ở đường Nha Trang, T.P Thái Nguyên cho biết: Năm nay, nhà tôi buôn cây ngũ quả từ tỉnh Hưng Yên lên bán. Mặc dù giá bán khá cao, từ 2 đến 3 triệu đồng/cây nhưng có rất nhiều khách hàng đến tìm hiểu và đặt mua. Tôi đã bán được hơn chục cây. Còn anh Trần Quốc Hưng, ở phường Trung Thành, T.P Thái Nguyên, khách hàng mua cây ghép ngũ quả thì chia sẻ: Thật khâm phục tài năng của người nông dân đã trồng và ghép thành công 5 loại quả trên cùng một cây. Để có được một tác phẩm như vậy không biết bao nhiêu công sức, trí óc và đôi bàn tay khéo léo của nghệ nhân, bởi mỗi loại quả lại cho những thời gian ra hoa kết trái khác nhau. Mặc dù giá đắt hơn cây quất nhưng tôi vẫn chọn cây ghép ngũ quả bởi sự mới lạ, độc đáo.
Cùng với cây ghép ngũ quả, hoa mai cũng được khá nhiều người lựa chọn để trang trí ngôi nhà trong dịp Tết. Chị Nguyễn Thị Bình, ở xã Yên Lãng, Đại Từ cho biết: Hai vợ chồng tôi đều thích hoa Mai vàng, vì thế năm nào chúng tôi cũng xuống chợ hoa Tết ở T.P Thái Nguyên để chọn. Năm nay, Mai nở sớm nên giá bán cũng đắt hơn năm ngoái. Cùng nhau chọn cây cảnh dịp Tết và dọn dẹp nhà cửa, tôi thấy tình cảm gia đình cũng thêm gắn bó.

Ngoài cây ghép ngũ quả, hoa mai, hoa lan cũng được nhiều khách hàng ưa chuộng. Thời điểm này, tại chợ hoa Tết, đã có đủ các loại lan như: Nghinh xuân, Mokara, Hồ Điệp, Ngọc Điểm, Denro… được bày bán. Qua trò chuyện với những người bán và mua hoa lan, chúng tôi thấy việc chọn hoa còn tùy theo lứa tuổi và quan niệm, sở thích của từng người. Đối với những người am hiểu phong thuỷ, đi chợ hoa Tết không đơn giản là việc đến ngắm cây và chọn.
Chị Ngô Thị Hoàn, ở phường Trung Thành, T.P Thái Nguyên cho biết: Tôi chuộng hoa lan vì hoa nở rất đẹp, lâu phai, màu sắc rực rỡ. Yêu thích hoa lan nhưng tôi thường chọn Địa lan, vì hoa có màu vàng, tượng trưng cho sức sống, cát tường, sự may mắn và tạo cảm giác ấm áp cho ngôi nhà trong những ngày Xuân. Hơn nữa, tôi mệnh kim, trưng hoa màu vàng sẽ tốt cho việc kinh doanh, buôn bán của gia đình. Theo anh Nguyễn Tuấn Anh, người kinh doanh lan ở đường Hùng Vương, T.P Thái Nguyên, năm nay giá các loại hoa lan bán Tết không tăng so với ngày thường, vì thế nhiều người dân đã chuyển từ chơi các loại hoa thông thường sang chơi lan vào dịp Tết này. Trong số các loại hoa lan thì lan Hồ Điệp là loại được ưa chuộng nhất và đang bán rất chạy vì loại hoa này được xem là “chúa của các loại hoa lan”, thời gian hoa tươi lâu và dễ chăm sóc, chỉ cần mỗi tuần phun nước 2 lần vào hoa, 7 ngày tưới nước vào rễ một lần là hoa vẫn cứ tươi và có thể chăm sóc để chơi sau Tết.
Có thể thấy, sự đa dạng, phong phú trong các loại hoa, cây cảnh ngày Tết thể hiện sự năng động, nhạy bén của những người nông dân trong việc sản xuất ra các loại hoa, cây đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Và thú chơi hoa, cây cảnh ngày Tết không chỉ thể hiện sự tinh tế của tâm hồn người Việt mà còn mang ý nghĩa sâu xa: Mùa xuân sẽ mang tài lộc, bình an đến cho con người.
Khánh Thiện
Dưới đây là 12 nguyên tắc cơ bản khi chọn vị trí đặt gương để có thể khai thác được nhiều nhất tác dụng của chúng.
1. Đối với các các cửa hàng: Gương phải đặt sao cho có thể phản chiếu hình ảnh của những đồ vật, sản phẩm, không gian tốt nhất và không bao giờ đối diện với bất cứ đồ vật nào không tốt, đẹp. Lý tưởng nhất là nên đặt chúng ở vị trí có thể phản chiếu hình ảnh khách hàng khi họ bước vào cửa, điều này giúp tăng năng lượng dương, và là điều quan trọng để mang nguồn tài lộc vào cửa hàng của bạn.
2. Đối với không gian làm việc: Gương là một công cụ rất hiệu quả cho tăng gấp đôi nguồn năng lượng tốt tại nơi làm việc. Chúng đặc biệt hữu ích cho các cơ sở bán lẻ và nhà hàng. Nếu đặt một chiếc gương lớn ở gần phía trước của cửa hàng, nó sẽ có hiệu lực trong việc thu hút khách và nếu việc thanh toán tiền cũng được phản ánh trong gương, nó tượng trưng cho sự nhân đôi lợi nhuậntrong kinh doanh.
Tuy nhiên, nếu đặt gương trực tiếp tại bàn làm việc lại đưa đến những ảnh hưởng xấu. Vì điều này chẳng những không mang lại sự phát triển về sự nghiệp mà còn biểu thị số lượng công việc của bạn tăng gấp đôi, gây cảm giác mệt mỏi, áp lực.
3. Đối với không gian sống: Nên đặt gương ở phòng khách và phòng ăn là tốt nhất. Trong những căn phòng này, một tấm gương lớn từ sàn nhà lên tới trần là lý tưởng nhất cho việc tạo cảm giác mở rộng về không gian, điều này luôn được coi là mang lại may mắn.
Hiệu quả sẽ cao hơn, nếu chiếc gương này có thể phản chiếu những hình ảnh dễ chịu của không gian bên ngoài ngôi nhà như những hàng cây xanh, dòng sông, ngọn đồi, mang lại cảm giác về nguồn năng lượng thuần khiết từ thiên nhiên. Hình ảnh những hàng cây lớn mang lại năng lượng tăng trưởng, trong khi hình ảnh núi thể hiện cho các mối quan hệ thân thiết, nước là biểu tượng của sự thịnh vượng.
4. Không đặt gương trong phòng ngủ. Đây là một trong những điều đại kỵ về mặt phong thuỷ nội thất. Hạn chế đặt các đồ có bề mặt phản chiếu trong phòng ngủ, vì chúng sẽ thu hút các nguồn năng lượng không tốt từ bên ngoài vào, gây ra ra những ảnh hưởng xấu đến quan hệ hôn nhân của bạn. Khi gương phản chiếu hình ảnh cặp vợ chồng đang ngủ trong những giờ âm vật ăn đêm, thì họ dễ bị mất đi cảm giác, và năng lượng yêu đương của mình với người kia.
5. Trong nhà, gương được đặt tại khoảng không gian phía sau cửa chính, sẽ có tác dụng mở rộng không gian, tạo đường dẫn cho vận may và các nguồn năng lượng tốt vào nhà. Lưu ý: không đặt gương đối diện thẳng với cửa chính, mà nên đặt tại bức tường bên hông. Gương đặt tại vị trí này không cần quá lớn, mà chỉ cần có kích thước tương đối vừa phải.
6. Mở rộng một không gian nhỏ hẹp chật chội với gương. Những không gian nhỏ hẹp thường tạo cảm giác bức bối, tù túng. Sử dụng gương để tạo hiệu ứng trực quan về một không gian mở rộng là điều rất có lợi. Cố gắng cải thiện năng lượng của các góc hẹp, các căn phòng có diện tích khiêm tốn và các lối đi nhỏ theo cách này.
7.Gương ở khu vực vui chơi giải trí trong nhà của gia đình giúp tăng năng lượng dương và có tác dụng cao trong việc cải thiện các mối quan hệ. Gương để ở khu vực ăn uống cũng sẽ tăng thêm năng lượng dương.
8. Gương không bao giờ được phản chiếu hình ảnh của các hoá đơn, những tờ báo cũ hoặc hình ảnh lửa đang cháy. Vì vậy, khôn nên đặt gương trong văn phòng, nơi tất cả các các loại hoá đơn được đặt trên bàn làm việc trước khi chúng được trả tiền. Điều này tăng gấp đôi các hóa đơn tạo ra năng lượng của các khoản chi phí cao. Tương tự như vậy, gương tốt nhất không đặt trong nhà bếp, nơi phản chiếu ánh lửa là một điều rất không tốt. Và chắc chắn, hình ảnh chồng báo cũ gợi nhắc đến một gia đình luôn sống trong quá khứ.
9. Không bao giờ đặt một tấm gương bị nứt trong nhà bạn. Đây là một trong những điềm cực kỳ xấu đối với ngôi nhà của bạn. Ngay cả việc sử dụng những viên gạch kính lát tường là một ý tưởng tồi, vì điều này tạo ra hình ảnh phản chiếu bị biến dạng của những người sống bên trong nhà.
10. Bên trong các cửa hàng, gương tạo độ sâu của năng lượng. Ở đây, gương có thể phản chiếu hình ảnh các kệ đặt sản phẩm, tăng gấp đôi sản phẩm đang được hiển thị tạo cảm giác hàng hoá phong phú.
11. Gương trên trần nhà có thể tạo cảm giác cao hơn cho trần nhà thấp. Đây là chữa bệnh hiệu quả khi không sử dụng trong phòng ngủ hoặc trên diện tích là quá lớn. Tuy nhiên, nên hạn chế khi sử dụng phương pháp này. Trong một không gian nhỏ, gương có thể thực hiện tốt chức năng này, nhưng trong không gian quá lớn, chúng có thể trở thành một vấn đề Phong thủy.
12. Gương không nên phản chiếu hình ảnh chất bẩn, rác thải. Hãy cố gắng sắp xếp để chúng phản ánh những hình ảnh đẹp nhất như bầu trời trong xanh, dòng sông êm đềm…
i sự thay đổi và mỹ quan, từ đó đã thiết kế ra các loại hình dạng nhà khác nhau, ngoại trừ nhà hình chữ nhật, hình vuông ra còn có các loại nhà hình răng cửa, hình uốn khúc, hình hẹp dài, hình tam giác.
Có những nhà được thiết kế với hình dáng lập dị, kỳ quái, đối với nhà ở hình dạng không theo quy tắc, có người chấp nhận, có người lo lắng phải chịu ảnh hưởng không tốt. Dưới đây, từ góc độ phong thuỷ học chúng tôi đưa ra một số vấn đề lợi hại của hình dạng nhà để mọi người cùng thảo luận.

1. Nhà hình vuông – Tứ bình bát ổn, âm dương cân bằng.
Nhà hình vuông là chỉ những ngôi nhà có chiều rộng và chiều dài cơ bản bằng nhau. Từ xưa đến nay, nhà ở hình vuông đường như đã trở thành một “định thức”, không ai muôn thay đối nó.Mọi người cho rằng, nhà ở vuông vắn, tứ bình bát ổn, âm dương cân bằng mang khí thế ngay thẳng, không thiên không lệch phù hợp với quan niệm “trời tròn đất vuông, là loại hình dạng không thể thay thế. Nhưng hiện nay một số nhà thiết kế không đồng tình với quan điếm này, cho rằng hình dạng nhà quá vuông vắn thể hiện sự khô cứng. Nhận thức này quá thiên về mỹ quan. Trên thực tế, dù nhìn từ góc độ phong thuỷ học hay góc độ thực dụng, thì hình dạng nhà loại này không có gì có thể bắt bẻ được.
2. Nhà hình chữ nhật – Đầy đủ khí ngũ hành.
Nhà ở hình chữ nhật là chỉ kiểu nhà có kích thước dài rộng không bằng nhau, có người cho rằng tỉ lệ chiều dài và chiều rộng phải được tính toán thật tỉ mỉ, có vậy mới là hình dạng tiêu chuẩn. Nhà ở hình chữ nhật loại này hiện nay rất thường gặp, cũng giống với nhà ở hình vuông, nhà ở hình chữ nhật có ngụ ý mang lại nhiều may mắn tốt lành, không gian hình chữ nhật “hướng bát quái hoàn chính, khí ngũ hành đầy đủ”, là kiểu nhà lý tưởng nên ưu tiên chọn đầu tiên, về phương diện thiết kế nội thất, nhà ở hình chữ nhật dễ phân chia thành các không gian nhỏ hợp lý làm cho nhà có bố cục tăng phong tụ khí, mỗi thành viên trong nhà đều có thể tìm cho mình một không gian thích hợp.
3. Nhà hình hẹp dài – Âm dương không cân bằng.
Nếu là nhà ở hình chữ nhật cố nhiên là tốt, nhưng nhà ở hình hẹp dài là nhà có tỉ lệ giữa chiều dài và chiều rộng chênh lệch nhau quá lớn. Hình hẹp dài nói ở đây là muốn nói kích thước chiều dài lớn hơn rất nhiều lần chiều rộng. Loại nhà này hiện nay không phải là ít gặp trong những kiến trúc hiện đại, nhất là các khu biệt thự, rất nhiều nhà được thiết kế thành hình hẹp dài. Nhà ở loại này dù dài theo chiều Nam Bắc, ngắn theo chiều Đông Tây hay dài theo chiều Đồng Tây, ngắn theo chiều Nam Bắc đều biểu hiện không cân bằng âm dương.
Nói một cách tương đối thì nhà dài theo chiều Nam Bắc, ngắn theo chiều Đông Tây tốt hơn đôi chút. Nếu như diện tích kiến trúc nhà ở vượt quá 200m2, hình nhà loại này khá dễ thiết kế, có thể phân chia không gian trong nhà tương đối tốt. Nếu diện tích nhà ở dưới 150m2, thì rất khó bảo đảm các không gian bên trong nhà đều vuông vắn, thường là có sự méo mó. Cho nên, khi chọn nhà ở phải thận trọng xem xét đến hình dạng của nhà.
Những người xem tử vi, có lẽ không ai là không biết cái bộ này ?. Sách vở đều cho rằng, gặp bộ này là số: Nào là tự tử, nào là bị bức tử, bị độc tử, …Nhưng có lẽ, khi gặp nó, hầu như chỉ đoán đến thế thôi. Hạn gặp nó, tất bị hung họa nặng, có thể dẫn đến cái chết thảm thương. Bộ này ở cung nào, gây tai ách cho cung đó. Nhưng nặng nhất, và có ý nghĩa xác định phải là ở những cung: Mệnh – Thân, Phu/Thê, Tử tức, Phụ mẫu, Huynh đệ. Và cả những cung trong tam hợp hay xung chiếu với Mệnh.
Khi câu hỏi, có cái gì chế hóa, hay hóa giải được nó không ?. Gặp nó thì Cải số như thế nào ?. Thì với sự hiểu biết về nó đơn sơ như vậy, thời không thể giải được !. Vì thế, câu hỏi đặt ra, thực thì nó tác hóa như thế nào ?. là một lẽ tự nhiên.
Phải nói rằng, Linh Xương Đà Vũ rất độc. Cái độc của nó không phải chỉ là ở cái chết của đương số. Mà cái độc của nó nằm ở chỗ bức tử đương số. Cái chết nào rồi thì cũng là chết. Có cái chết nặng tựa Thái sơn, có cái chết nhẹ tựa Lông Hồng. Có cái chết đau đớn quằn quại, trên phương diện tinh thần cũng như thể xác. Có cái chết tưng tửng. Ra đi vào cõi vĩnh hằng mà cứ như không có chuyện gì xảy ra cả. Thì cái chết do bộ Linh Xương Đà Vũ gây ra, quả thật thuộc về cái chết đớn đau. Nặng nhất về tinh thần. Sau nữa là sự giày vò về thể xác.
Người xem tử vi có kinh nghiệm, thấy rằng đằng nào cũng chết, nếu gặp Linh Xương Đà Vũ thì thà gặp Kiếp sát Hình Hổ hơn. Nhìn về mặt lý số, thấy cái anh Kiếp sát Hình Hổ sát khí nặng như thế, sao lại bảo thà gặp nó hơn là gặp Bộ Linh Xương Đà Vũ ?.
Thật ra, tuy sách vở đều đề cập bốn sao, đủ cả bốn sao: Linh tinh, Văn xương, Đà la, Vũ khúc. Nhưng thật ra, cái bộ này, nhân của nó là Linh Xương Đà. Mà hạt nhân trung tâm lại chỉ có Xương Đà mà thôi !. Thực ra Vũ khúc không phải là cái nhân họa của bộ này. Người ta có thể thấy, nếu không phải là Vũ khúc, có thể là một sao khác. Chẳng hạn như thế Vũ khúc bằng Kiếp sát, hoặc cả bộ như Cơ Lộc Mã cũng vẫn nguy hiểm như là với Vũ khúc. Nhưng cái cách bức tử con người ta sẽ khác nhau, cũng như nguyên nhân kích hoạt cái bộ Linh Xương Đà sẽ khác nhau mà thôi.
Điểm đặc biệt, nếu là Vũ khúc, thì bất kể Vũ có thể miếu vượng, vẫn hung hiểm như thường. Bởi vì đó là do khả năng chế giải của Vũ khúc với Linh Đà, đặc biệt là Đà la âm hiểm và tàn độc, khi Vũ khúc gặp nó, khác nào Chuột gặp Mèo đang đói. Thế nhưng Linh Xương Đà mà gặp phải Thiên phủ thì đương số chỉ lao đao thôi, chứ sức mấy mà bức tử nổi đương số. Tùy mỗi cách cục gặp Linh Xương Đà, mà gia giảm hung họa khác nhau.
Vũ khúc thì bị bức tử vì cùng quẫn. Âm Dương thì bị bức tử vì tuyệt vọng, bế tắc không tìm thấy ánh sáng cuối đường hầm. Cơ Lộc Mã thì bế tắc, tuyệt đường sinh nhai, chứ không phải là cứ đi ăn mày là thoát. …
Như đã nói, cái Nhân của nó là Linh Xương Đà. Nhưng cái Hạt nhân trung tâm, chính là Đà Xương. Có điều, nó liên quan đến sự thành cách. Không phải cứ thấy Xương Đà là tá hỏa tam tinh.
Việc thành cách, kiểu gì cũng có những dạng sau đây:
-Mệnh – Thân hay trong tam hợp có cả Xương lẫn Đà, và chỉ khi chúng thực là sao bản mệnh mới đúng là thành cách Xương Đà. Khi ấy, vào Vận, chỉ cần gặp Linh, các cách cục tham gia hội họp ra sao, đều là ở vị thế thay cho Vũ khúc mà thôi, đó gọi là biến cách. Gặp một Linh, là đủ quyết đoán rồi. Nếu ngay trong mệnh thân không có sao hay cách cục hóa giải Xương Đà, hay có sao ngăn chặn Đà la. Thì Họa tất sẽ xảy ra.
-Gặp cả ba sao này trong mệnh – thân và tam hợp, mà không có sao hay cách cục khác chia cắt chúng, thì cách này thành với điều kiện Đà Xương phải là sao bản mệnh, còn nếu chỉ có Linh là sao bản mệnh thì cũng không sợ, cho dù cách cục đã thành.
-Nếu chỉ có một sao Xương hay Đà, dù là sao bản mệnh, khi nhập vận gặp Đà hay Xương, thì cũng không thành cách. Nhưng trái lại, gặp Linh thì vẫn hung hiểm như thường, nhưng khi ấy không phải là hung hiểm của bộ Linh Xương Đà. Vì thế, dù có thấy cả bộ, chớ có đoán rằng đương số sẽ bị bức tử !. Đoán như thế, mu rùa có thể bị đập bể có ngày đó.
-Xương và Đà gặp nhau kết thành hạt nhân trung tâm của cách, cũng phải xét đoán cho tinh. Đừng thấy khi Đà la độc thủ Dần – Thân là miếu địa mà đã vội cho hạt nhân này là cách cục tốt. Đừng tưởng Văn xương yếu liễu đào tơ, khuê các mà gặp được người anh Hùng – Đà la độc thủ cung VCD tại Dần -Thân là miếu địa, dẫu có gia thêm Bắc đẩu bội tinh (Ấn Tướng) để trở thành anh hùng QDND mà đã vội mừng. Các bậc phụ mẫu chớ có đem gả bán con gái mình vào những nơi như vậy. Đừng tưởng đó là trai anh hùng, gái thuyền quyên gặp nhau. Nhầm to đấy. Ây là đưa con gái mình vào chỗ chết. Sướng cũng chết, mà khổ cũng chết. Còn khi Đà la hãm địa, thì khỏi nói rồi.
-Sợ nhất là khi Xương gặp Kỵ. Nó mà thành cách Xương Đà, thì chả cần gặp Linh. Đơn sơ như vậy cũng đủ hồn về chín suối rồi, bởi khi ấy cả hai đứa đều “tranh nhau” làm sao bản mệnh.
Còn nhiều biến cách nữa, từ cái hạt nhân này. Mỗi biến cách đều có những luận giải khác nhau. Cần cẩn thận xét đoán, không thì nó tốt lại tưởng là xấu và ngược lại. Đơn cử như Linh Xương Đà hội đủ thành cách là cách cực xấu. Nhưng nếu có thấy Vũ được thay bằng Cự – cho dù là hãm địa – mà hóa Quyền thì trước cùng cực, nhưng sau đại phát, cách này là phản vi kỳ cách, người có cách này, làm quân nhân thì lên tướng, cầm quân đánh đông dẹp bắc, uy quyền khét tiếng. Đi buôn thì lỗ lên lỗ xuống, trốn chui trốn lủi, cuối cùng hanh thông, độc bá thiên hạ (đây chỉ là cách dùng hình ảnh thôi nhé, đừng tưởng thành vua thành chúa, rồi khi không được làm vua, làm chúa đến đòi đập mu rùa thì oan khiên lắm).
Xem thế, bộ Linh Xương Đà thật vi diệu, nhiêu khê. Phải tường tận thì mới mong cải được số do nó gây ra.
Không phải cứ thấy Linh Xương Đà, thầy bói kê đơn Cải số, là cứ cho một toa thuốc là sẽ giải được đâu. Có khi uống nhằm thuốc độc, nặng thêm, đẩy con người ta tới chỗ cùng cực hơn đó.
Ví như lá số Endopain. Lá số này, dẫu có thấy Đà la nhị hợp cũng không thành cách Xương Đà được. Vì vậy, lá số này không bị hại về Linh Xương Đà cố định. Nhưng ở vận 44-53 tất sẽ bị hại, lý do chính là bộ Linh Xương Đà Sát lưu động bị Liêm Phủ ở Mệnh rung dữ dội kích hoạt mà sụp đổ.
Số này, đại vận này giàu có, mặc dù từ nay đến lức 44 có một lần bị rung chuyển, nếu nói về số lượng nhà cụ thể, thời tử vi, như Tôi thì bó tay, đơn giản là vì, một triệu đô, người ta có thể mua vài ba căn nhà, nhưng cũng có khi lại chỉ có một căn mà thôi. Cũng có thể dùng Mai hoa dịch hay các môn khác mà đoán ra số lượng nhà cửa đã có. Nếu theo tử vi, chúng ta có thể xem xét ở dạng, tổng số tài sản, ước lượng là bao nhiêu. Thời, cái lá số này, vào thời điểm này thì tiền mặt không có bao nhiêu, đủ dùng xài (tiền mặt có bao nhiêu đều nhăm nhe đầu tư buôn bán). Nhưng tài sản nằm trong bds cũng đã có trên 10 triệu Mỹ kim rồi.
Sơ lược về cách Linh Xương Đà Vũ là như vậy !.
Nên nhớ, không phải là hỏi cách giải bộ này, mà phải là cải số, khi bị bộ này tác hóa. Tuy nhiên, biết được căn nguyên của nó, mới chỉ là bước đầu gọi là chẩn đoán bệnh. Còn giải, tức là kê toa thuốc ra sao, lại là chuyện khác, chuyện của cải số. Có những nguyên tắc của nó.
Đây là một vấn đề, về thường lý, nó rất nan giải. Từ đó dễ dẫn đến những ngộ nhận sau:
-Sau khi tìm được phép Cải số, ví dụ như trường hợp của Jany. Việc tìm người có lá số như đã được chỉ dẫn là vô cùng khó. Ngay cả khi đã tìm được rồi, chắc gì người ấy đã có thể cùng với mình kết thành phu thê ?.
Về thường lý thì đúng là vậy. Nhưng về lý số thì không như vậy !.
Thật vậy. Lấy ví dụ, người có bệnh. Tìm thầy có khả năng chữa đúng được bệnh cho mình là khó. Nhiều khi, với bệnh nan y, lại vô cùng khó. Nhưng đó là công cuộc, là vận động nhân sinh. Nó không thuộc về cái gọi là lý luận của y học. Vì thế, đương nhiên, không chỉ bệnh nhân, người nhà của bệnh nhân, bạn bè, …cùng nỗ lực tìm kiếm. Đó chính là sự vận động nhân sinh, là sự nỗ lực của con người trong việc chữa bệnh. Còn khi gặp rồi, đương nhiên, khi người thầy thuốc thấy đúng con bệnh mà mình có khả năng chữa. Có khi nào người thầy thuốc đó từ chối không chữa, để mặc cho bệnh nhân chết không ?. Có thể có, nhưng ít lắm. Và cái phần trăm nhỏ nhoi đó, nó không thuộc về cái gọi là lý luận y học. Nó thuộc về y đức.
Cải số cũng gần giống như vậy. Tìm được người đúng như đã được chỉ dẫn. Khó thật. Nhưng đó là sự vận động của con người, sự cố gắng, bản lĩnh và nghị lực cùng với biết bao nhiêu nhân tố khác nữa !. Có thể người ta bảo rằng, gặp được đó cũng là Phúc. Vâng !, đúng là Phúc. Nhưng trên phương diện mệnh lý tử vi, thì phúc đó không phải là phúc theo cái lý của tử vi !. Đó là cái Phúc tổng quát hơn nhiều. Nó thuộc về lý luận nào, chẳng ai nói tới cho cụ thể được. Có người thì bảo đó là do Phúc thực tại. Ừ thì là Phúc thực tại. Khi mà ta không sờ được nó, không thấy được nó bằng xương bằng thịt. lại chẳng có một cái lý luận cơ bản nào hướng dẫn. Thì nói thế nào mà chẳng được. Thế nên, nếu nói Mệnh, mà chẳng nói là mệnh lý tử vi, thì nói thế nào mà cũng được. Nhưng ở đây, rõ ràng, bệnh được chỉ ra trên mệnh, chính là theo cái lý của tử vi. Thì muốn chữa cái bệnh đó, thời dùng chính lý tử vi mà chữa. Chứ nếu chỉ nói chung chung như : Bảo con bệnh rằng: cứ tu đi, làm việc thiện, hãy thanh tâm, hãy ăn chay, mà quên đi cái cần có là phải dùng y học để chữa bệnh, thì đó đâu phải là chữa bệnh. Mệnh cũng thế. Phải nói bằng chính cái lý của tử vi thời để chữa cho cái mệnh lý tử vi.
Tất nhiên, trong nhiều trường hợp, mệnh vẫn có thể chữa, hay cải được bằng những phép chữa mệnh tổng quát hơn trên nền tảng mệnh lý tổng quát nhất. Nhưng rõ ràng, người ta, nếu theo phương pháp đó, từ xưa đến nay, vẫn đã và đang, có lẽ cũng là sẽ vẫn làm thì không thể có một môn học xác định. Cũng như kiểu chữa bệnh bằng tập thể dục vậy. Tất nhiên sẽ khỏe mạnh, nhưng y học sẽ không thể phát triển nếu cứ lấy đó làm phương pháp bao trùm cho hết thảy.
Khi đã tìm ra rồi. Thì khỏi lo. Một lá số đã ứng như thế, khi gặp nhau, họ sẽ thấy sự cần thiết phải có nhau. Về mặt lý số, đó gọi là ứng số. Cho dù trên lá số của Jany, người chồng đúng số là người chẳng ra gì !.
xem ra, có vẻ thấy mâu thuẫn ?. Nhưng thực không phải vậy. Bởi đây là sự vận dụng những nguyên lý tổng quát nhất, có tính chất nền tảng của tử vi vào thực tiễn đời sống. Có thể hình dung như thế này:
Một chiếc xe ô tô. bạn đang lái nó, nhưng đến giữa đường bị hỏng, chẳng hạn như két nước làm mát bị vỡ. Khi đó, đương nhiên chiếc xe đó bị hỏng, không thể tiếp tục được hành trình. Nếu cố gắng thực hiện hành trình, thời máy sẽ cháy. Hệ lụy của nó là vô lường. Nhưng nếu bạn là người có kiến thức về động cơ, hay xe. Bạn sẽ có cách khắc phục nó để đi tới nơi có thể sửa chữa. Hoặc như bạn có cái quạt điện, nhưng nó lại bị nóng khi chạy, chạy lâu sẽ cháy. Bạn tìm cách làm mát nó, thì bạn sẽ dùng được nó.
Tôi lấy ví dụ đó, để cho thấy rằng, con người ta, đối với hệ động lực hoạt động theo các nguyên lý vật lý, thì khi nó bị sự cố, muốn khắc phục sự cố, người ta cũng phải vận dụng những định luật khác khả dĩ khắc phục được sự cố đó. Các định luật đó cũng vẫn sẽ là những định luật vật lý. Thì ở cải số cũng vậy. Trường hợp trên lá số gặp người chồng chẳng ra gì, thì bằng những nguyên lý vận hành mà tử vi tiềm tàng, chúng ta khai thác nó, vận dụng nó đúng đắn thì những điểm yếu trên lá số, như lá số Jany về người chồng, rồi cả việc sinh đẻ, là có khả năng khắc phục.
Nếu Bạn là cái người có biết về trường hợp giờ Kim sà, mà Tôi đã đưa ra tới ba lá số: Một lá số của người thầy, hai là số của người con nuôi, và cuối cùng là số của người con dâu. Tổ hợp cả ba lá số đó chính là đã có sự sắp xếp về lý số để cho cái mục tiêu Cải số, khắc phục cái tính lý nguy hiểm của giờ Kim sà có thể được thực hiện.
Bạn nói đúng. Việc tìm những lá số đó khả dĩ đối với thời đại ngày xưa. Nhưng ở thời đại ngày nay, người ta vẫn nỗ lực được, và cao nhất là bằng tâm và đức. Cùng với sự kiên tâm, tất sẽ có khả năng thành công. Với sự lần lượt, đầu tiên phải tìm cho được người thầy. sau đến đứa con nuôi. Cứ kiên tâm làm, cánh cửa vào kho tàng dần sẽ mở toang !.
Tôi không còn bao nhiêu bài nữa, cũng như đã hứa không tranh luận. Nhưng viết như apollo như trên, thật là chẳng hiểu gì cả. Không chỉ có thể chứng minh ràng mạch cái bộ Linh Xương Đà Vũ, mà cách này còn có thể nhìn từ nhiều khía cạnh để nhìn rõ bản chất.
Vì thế, apollo có hiểu hay không, không còn là vấn đề của Tôi, nhưng trong chủ đề này của Tôi, Là người đề cập đến cách cục này, nên vì trách nhiệm với bạn đọc, ở mức độ cho phép, Tôi viết thêm ý nữa, nếu bạn đọc có hiểu, thì tốt, nếu không hiểu thời đành chịu.
Trước hết cần thấy rõ bản chất hung họa của bộ Linh Xương Đà Vũ. Do bức đương số đến chỗ tự vẫn. Tiến trình của hung họa cũng do đó mà bộc lộ rõ ràng. Từ Hung đến Sát. Ta thấy rõ, Đà chủ hung, Linh chủ sát. Tuy rằng cả hai đều âm độc. Từ đó mà suy, thấy rõ Đà đến trước, Linh đến sau. Ép đương số cho đến chết. Quá trình là rõ ràng, chẳng có cái chết nào chết trước, phiền muộn, lo lắng sau cả !!! Xem Bộ Linh Xương Đà Vũ, thấy ngay Đà là hung, Linh thì Sát, Vũ là kết cục cũng là nội dung của họa hại, bởi thế, nếu không phải là Vũ, mà là Cơ Lộc Mã thì tuyệt đường sinh nhai mà chết. Còn nhiều biến cách nữa.
Biến cách Linh Đà Xương Vũ rất phức tạp và tinh tế. Trong đó, thấy rõ chỉ có ba sao đóng vai biến hóa là Xương Đà Vũ. Mỗi biến hóa là một biến cách. Chỉ có Linh cố định, ngồi ỳ một chỗ. Nhưng như thế không có nghĩa đó là nhân. Cái nhân của cách cục ở đây chỉ rõ là cái nhân gây họa. Chứ không phải là một cái nhân tĩnh tại.
Có hiểu được lẽ biến hóa đó, mới có thể hy vọng vận dụng được biến hóa của Linh Xương Đà Vũ.
Đừng nhìn thấy, đương số nào bị dính Linh Xương Đà Vũ là có kết cục của cái chết, rồi nói rằng Linh chủ Sát, gây nên cái chết mà cho rằng đó là hạt nhân trung tâm. Nắm bộ này theo cách đó, thì làm sao hiểu được biến hóa và vận dụng biến cách của Kiếm chiêu, qua một chiêu này.
Bao nhiêu trường hợp ví dụ mà mọi người đã hỏi, đủ thấy biến hóa của Bộ này như thế nào. Nếu lấy sự cố định của Linh mà luận làm trung tâm, thì làm sao hiểu được căn nguyên, cội rễ của hung họa.
Viết đến thế này là quá nhiều. Tôi sẽ không trình bày thêm.
Nguồn Sưu tầm
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
sức khỏe mọi người. Để quầy hàng được như ý, bạn có thể tham khảo và áp dụng những gợi ý sau:
![]() |
| Tì hưu - con vật mang lại may mắn |
- Quầy hàng nên bố trí ở phương vị sinh khí. Hướng tốt nhất mang lại vượng khí là hướng Thanh Long (phía bên trái - tính từ trong cửa hàng ra).
- Quầy thu ngân nên xa vòi nước, tránh “lậu thủy”.
- Phòng tài vụ là nơi lưu giữ tiền bạc của cửa hàng nên cũng cần lựa chọn kỹ tránh hao hụt.
Trong quầy hàng có thể bày thêm cá cảnh trang trí. Tuy nhiên, cần lưu ý trong bể cá nên có một con cá vàng đen. Vì màu đen là màu của Thủy và cũng là tượng trưng cho tiền bạc.
Để tăng thêm tài vận, cửa hàng nên đặt các con vật: nghê đá, tỳ hưu hoặc cóc tía ba chân.
Cửa hàng nên có hiên che mưa che nắng, tạo không khí ấm cúng. Mặt tiền của nó nên có hè đường đủ rộng để tụ khí.
(Theo Bí ẩn thời vận)
|
Năm Tỵ là các năm: 1941, 1953, 1965, 1977, 1989, 2001, 2013...
Năm Dậu là các năm: 1945, 1957, 1969, 1981, 1993, 2005, 2017...
Năm Sửu là các năm: 1949, 1961,1973, 1985, 1997, 2009, 2021...
Tình yêu với người tuổi Dậu - sự yêu thương gắn bó hết mình
Người tuổi Tỵ và tuổi Dậu có cùng suy nghĩ, thị hiếu. Họ yêu mến và tôn trọng lẫn nhau. Tỵ có thế mạnh về chỉ đạo chiến lược và là người có thể nhìn thấy những cơ hội lớn. Dậu lại là người kiên gan, bền chí, đầy quả quyết và có kỹ năng hành động để mang lại kết quả. Dậu sẽ lắng nghe và ngưỡng mộ kế hoạch khéo léo, tài tình của Tỵ.
![]() |
Tỵ thuộc hành Hỏa, Dậu thuộc hành Kim, Hỏa kiểm soát Kim. Trong trường hợp này, Tỵ lấn át, nắm quyền kiểm soát. Bản tính dễ thông cảm khiến Dậu sẵn sàng nhường bước trước vai trò quan trọng hơn của Tỵ. Và không có gì ngạc nhiên khi Dậu hoàn toàn bị khuất phục trước vẻ hấp dẫn của Tỵ.
Với người tuổi Sửu - một tình yêu sâu đậm
Người tuổi Sửu và tuổi Tỵ có thể dễ dàng tìm thấy sự bổ sung và lợi ích cho nhau. Sửu bị hấp dẫn bởi sự quyến rũ và những tham vọng ở Tỵ. Ngược lại, Tỵ bị lôi cuốn bởi sự mạnh mẽ và vẻ đáng tin cậy ở Sửu. Cả 2 đều trân trọng sự kết hợp này. Sự hỗ trợ mà họ dành cho nhau sẽ tăng cường mối quan hệ theo thời gian.
Về phương diện quyền lực, những mưu tính của Tỵ có ảnh hưởng lớn hơn của Sửu, nhưng chính Sửu lại là người hoàn thành những công việc quan trọng, có tầm vóc. Quan hệ của họ không bị ảnh hưởng bởi những thế lực bên ngoài. Tình yêu giữa họ sẽ ngày càng vững mạnh.
Trong ngũ hành, Tỵ thuộc hành Hỏa, Sửu thuộc hành Thổ, Hỏa sinh Thổ. Vì vậy, người này sẽ đóng vai trò hỗ trợ người kia. Ở đây, Tỵ sẽ hỗ trợ Sửu. Ngược lại, để tránh bị tiêu hao năng lượng, Tỵ cần bổ sung thêm Hỏa hoặc được Mộc giúp đỡ. Cả 2 đều bằng lòng với vai trò của bản thân.
(Theo Phong thủy trong tình yêu)
- Trích từ: TÌM HIỂU VỀ NGUYÊN LÝ NGŨ HÀNH trong TỬ VI KIẾN GIẢI của Đặng Xuân Xuyến -
Khi coi lá số, người luận giải Tử Vi bao giờ cũng ngó qua mối tương quan giữa hành của bản Mệnh với hành của Cục, sao và cung an Mệnh để tìm nhanh nét phác thảo chính cuộc đời của đương số. Càng hội tụ nhiều sự sinh nhập cho bản Mệnh thì lá số đó càng đẹp, càng được nhiều lợi điểm về sự may mắn, lộc tài... Ngược lại, hành bản Mệnh càng chịu nhiều sự khắc nhập từ Cục, sao và cung an Mệnh thì lá số đó càng xấu, càng kém may mắn, thậm chí còn bất hạnh.
Khi xét về tương quan giữa hành của bản Mệnh với hành của Cục, sao và cung an Mệnh, người coi số thường chỉ chú trọng tới Cục, sao và cung an Mệnh xem sinh - khắc thế nào với hành của bản Mệnh, nhưng có người cẩn thận hơn còn xét cả mối tương quan giữa sao và cung an Mệnh cũng trong mối tương quan ngũ hành để chi tiết hơn hiệu lực của các tinh đẩu ảnh hưởng tới đương số như thế nào.

Việc xét tương quan Ngũ hành của bản Mệnh với Cục, sao và cung an Mệnh tuân thủ theo 5 nguyên tắc sau:
Đây là nguyên tắc quan trọng nhất, xét về tương quan giữa hành khí của sao và hành bản Mệnh.
1. Hành sao sinh hành Mệnh: Trường hợp này hành sao bị hao tổn, bị chiết giảm mà ảnh hưởng xấu tốt của sao bị yếu đi nên Mệnh được hưng vượng lên, nghĩa là sao làm lợi cho Mệnh cho dù đó là cát tinh hay hung tinh. Nếu là cát tinh sáng sủa thì đưa đến lợi ích trọn vẹn cho Mệnh nhưng nếu cát tinh lạc hãm thì Mệnh tuy cũng hưởng lợi nhưng không được toàn vẹn vì sao bị hãm địa. Nếu là hung tinh sáng sủa thì các tính chất tốt xấu của nó cũng khiến bản Mệnh hưng thịnh lên và nếu hung tinh lạc hãm thì cũng ít bị nguy hại hơn vì hành sao bị hao tổn nên ảnh hưởng xấu của nó không thể tác họa mạnh tới Mệnh, trong khi bản Mệnh lại được hưng thịnh vì đã được sao phù sinh.
2. Hành sao đồng hành cùng hành Mệnh: Trường hợp này cả hai đều được hưng vượng lên. Mọi ảnh hưởng tốt xấu của sao dù là cát tinh hay hung tinh lên Mệnh vẫn phát huy mạnh mẽ ảnh hưởng của chúng, tuy nhiên bản Mệnh mang những đặc tính của sao nên sao đó thuộc về mình, mình hoàn toàn chỉ huy được sao một cách trọn vẹn vì thế hành khí của bản Mệnh được hưng thịnh lên, do đó hành sao đồng hành với bản Mệnh thì tốt nhất.
3. Hành Mệnh sinh hành sao: Trường hợp này hành khí của sao được hưng thịnh lên, trong khi bản Mệnh bị hao tổn. Vì hành khí của sao hưng thịnh lên nên cho dù cát tinh có sáng sủa cũng không đem lại lợi ích cho Mệnh mà còn làm cho Mệnh bị hao tổn khi sao phát huy tính chất của nó. Tệ hại nhất là khi hung tinh lạc hãm sẽ gây bất lợi cho Mệnh nhiều hơn do các tính chất xấu của nó phát huy ảnh hưởng.
4. Hành sao khắc hành Mệnh: Trường hợp này hành khí của sao vẫn giữ nguyên, nhưng bị giam cầm nên không hoạt động được còn bản Mệnh bị hao tổn, thiệt hại rất nhiều, có nghĩa, sao hoàn toàn chủ động gây nhiều điều bất lợi cho bản Mệnh. Cho dù cát tinh miếu vượng thì mọi tính chất tốt đẹp của sao cũng không đem lại điều gì tốt lành cho bản Mệnh thậm chí còn làm cho Mệnh bị mệt mỏi, tuy nhiên vì là cát tinh nên cũng đỡ lo ngại. Còn nếu là hung tinh thì thật là bất lợi cho Mệnh, nhất là khi hung tinh hãm địa thì tính chất xấu của nó càng làm cho bản Mệnh thêm bất lợi, nguy hại.
5. Hành Mệnh khắc hành sao: Trường hợp này hành sao bị tổn hại, suy yếu nên cường độ ảnh hưỡng xấu tốt của sao bị giảm rất nhiều trong khi Bản Mệnh bị giam cầm nên không hoạt động được, nghĩa là sao đó không thuộc về mình và bản Mệnh không chỉ huy được sao. Dù là cát tinh sáng sủa hay lạc hãm thì Mệnh cũng chịu ảnh hưởng không nhiều tính chất tốt hay xấu của sao. Hung tinh đắc địa hay hãm địa cũng vậy, do hành Mệnh khắc hành sao làm cho hành khí của sao bị suy yếu đi nhiều nên ảnh hưởng tính chất xấu tốt của sao lên Mệnh không còn là bao trong khi hành Mệnh bị giam cầm không hoạt động được nên trường hợp này cũng không tốt cho bản Mệnh.
Xét tương quan giữa hành Mệnh và hành cung an Mệnh để xét đoán Mệnh thịnh hay suy.
1. Hành cung sinh hành Mệnh: Trường hợp này hành bản Mệnh nhờ được hành cung sinh xuất nên bản Mệnh thêm vững chắc, hưng thịnh. Đây là trường hợp tốt nhất khi xét mối tương quan giữa hành Mệnh và hành cung.
2. Hành cung đồng hành cùng hành Mệnh: Trường hợp này hành bản Mệnh bình hòa với hành cung nên cả 2 đều hưng thịnh nên không xấu. Vì không có sự sinh - khắc giữa hành bản Mệnh và hành cung nên mối tương quan này không thật tốt, cũng không thật xấu mà chỉ ở mức bình thường. Tuy nhiên, sự bình hòa về hành cũng thêm một lợi điểm cho lá số nếu so với 3 trường hợp dưới đây.
3. Hành cung khắc hành Mệnh: Trường hợp này hành bản Mệnh bị hành cung khống chế, làm suy tổn sinh khí nên xấu nhất. Trong trường hợp này, bản Mệnh luôn bị mỏi mệt, nguy hại và bất lợi nên rất cần có sự phù trợ của các sao để quân bình sự bất lợi cho lá số.
4. Hành Mệnh khắc hành cung: Trường hợp này hành bản Mệnh tuy khắc xuất hành cung nhưng bản Mệnh cũng không được lợi ích gì, vì để làm suy yếu hành cung thì hành bản Mệnh phải tổn hao nguyên khí nên bản Mệnh bị giam cầm, không hoạt động được. Trường hợp này tuy không phải xấu nhất nhưng cũng là điểm bất lợi cho lá số khi xét về tương quan giữa hành bản Mệnh với hành cung.
5. Hành Mệnh sinh hành cung: Trường hợp này hành bản Mệnh sinh xuất cho hành cung nên hành khí của cung được hưng vượng lên, tốt thêm lên nhưng bản Mệnh lại bị tiết khí, hao tán vì thế nên xấu. Đây cũng là điểm bất lợi cho lá số, rất cần có sự phù trợ của các sao để quân bình lại sự bất lợi này.
Xét tương quan giữa hành của tam hợp cục của cung an Mệnh với hành bản Mệnh.
1. Tam hợp cung Mệnh sinh hành Mệnh: Trường hợp này hành bản Mệnh được hưng thịnh nên tốt nhất.
2. Tam hợp cung Mệnh đồng hành hành Mệnh: Trường hợp này hành bản Mệnh và hành của Tam hợp cung Mệnh bình hòa, cả 2 đều được hưng thịnh lên, không có sinh - khắc nên tốt. Tuy nhiên vì bình hòa nên mức độ tốt thua kém trường hợp Tam hợp cung Mệnh sinh hành bản Mệnh.
3. Tam hợp cung Mệnh khắc hành Mệnh: Trường hợp này hành bản Mệnh bị suy tổn nhiều, bị chết nên xấu nhất.
4. Hành Mệnh khắc hành Tam hợp cung Mệnh: Hành bản Mệnh tuy khắc thắng (khắc xuất) nhưng cũng chẳng được lợi ích gì vì bản Mệnh bị bó tay, không hoạt động được nên xấu.
5. Hành Mệnh sinh hành Tam hợp cung Mệnh: Trường hợp này hành bản Mệnh bị tiết khí hao tán, suy kiệt nên xấu nhì.
Xét tương quan giữa hành cung với hành sao. Nguyên tắc này tương đối không quan trọng, chỉ mạng ý nghĩa gia giảm chút ít.
1. Hành cung sinh hành sao: Trường hợp này đẹp nhất vì sao được cung phù trợ, nuôi dưỡng, bồi đắp nên hành khí của sao được hưng thịnh.
2. Hành cung đồng hành với hành sao: Trường hợp này bình thường, không xấu, không tốt vì hành của cung bình hòa với hành của sao nên hành khí của sao không thay đổi.
3. Hành sao sinh hành cung: Trường hợp này xấu vì hành sao sinh xuất cho hành cung nên bị hao tổn, tiết khí mà yếu đi.
4. Hành sao khắc hành cung: Trường hợp này cũng xấu bởi hành sao tuy khắc thắng hành cung nhưng không có lợi gì vì bị giam cầm không hoạt động được.
5. Hành cung khắc hành sao: Trường hợp này xấu nhất vì hành sao bị khắc nhập nên thiệt hại nhiều nhất, những ý nghĩa tốt đẹp của sao đã bị khắc chế mà kém đi về hiệu lực.
Xét tương quan giữa hành của bản Mệnh với hành của Cục.
1. Hành Cục đồng hành với hành Mệnh: Trường hợp này cả hai hành không có sự sinh - khắc nên cả 2 đều được hưng vượng lên nên tốt.
2. Hành Cục sinh hành bản Mệnh: Trường hợp này hành bản Mệnh được hành Cục phù trợ, bồi đắp, nuôi duỡng vì thế được hưng thịnh nên tốt. Đây là trường hợp tốt nhất khi xét về tương quan giữa hành bản Mệnh với hành Cục.
3. Hành bản Mệnh sinh hành Cục: Trường hợp này xấu vì hành Mệnh bị suy yếu do sinh xuất cho hành Cục, trong khi hành Cục được hưng thịnh (nhờ được hưởng sinh nhập) nên không tốt cho bản Mệnh.
4. Hành bản Mệnh khắc hành Cục: Trường hợp này cũng không đẹp vì hành của bản Mệnh tuy khắc xuất hành Cục nên cũng bị hao tổn hành khí vì thế mà bản Mệnh bị giam cầm, bó tay không hoạt động được. Dẫu vậy, trường hợp này cũng không có hại, mà chỉ ở mức trung bình.
5. Hành Cục khắc hành bản Mệnh: Trường hợp này xấu nhất trong mối quan hệ giữa hành Cục và hành Mệnh. Ở đây, hành khí của bản Mệnh bị suy thoái do chịu sự khắc nhập từ hành Cục.
(Trích trong TỬ VI KIẾN GIẢI của Đặng Xuân Xuyến, nxb Thanh Hóa)

Bài viết được tác giả gửi đến trang nhà Xem Tướng chấm net, tháng 7 năm 2015
Một số sách của tác giả Đặng Xuân Xuyến đã xuất bản như:
Lễ chùa, đình, đền: Lễ giao thừa ở nhà xong, người ta kéo nhau đi lễ các đình, chùa, miếu, điện để cầy phúc cầu may, để xin Phật, Thần phù hộ độ trì cho bản thân và cho gia đình. Và nhân dịp người ta thường xin quẻ đầu năm.
Kén hướng xuất hành: Khi đi lễ, người ta kén giờ và kén hướng xuất hành, đi đúng hướng đúng giờ để gặp sự may mắn quanh năm. Ngày nay, người ta đi lễ nhưng ít người kén giờ và kén hướng.
Hái lộc: Ði lễ đình, chùa, miếu, điện xong, lúc trở về người ta có tục hái một cành cây mang về ngụ ý là lấy lộc của Trời đất Phật Thần ban cho. Trước cửa đình cửa đền, thường có những cây đa, cây đề, cây si cổ thụ, cành lá xùm xòa, khách đi lễ mỗi người bẻ một nhánh, gọi là cành lộc. Cành lộc này mang về người ta cắm trước bàn thờ cho đến Với tin tưởng lộc hái về trong Ðêm giao thừa sẽ đem lại may mắn quanh năm, người Việt Nam trong buổi xuất hành đầu tiên bao giờ cũng hái lộc. Cành lộc tượng trưng cho tốt lành may mắn. Về tục xuất hành cũng như tục hái lộc có nhiều người không đi trong Ðêm giao thừa, mà họ kén ngày tốt giờ tố trong mấy ngày đầu năm và Ði đúng theo hướng chỉ dẫn trong các cuốn lịch đầu năm để có thể có được một năm hoàn toàn may mắn.
Hương lộc: Có nhiều người trong lúc xuất hành đi lễ, thay vì hái lộc cành cây, lại xin lộc tại các đình đền chùa miếu bằng các đốt một nắm hương hoặc một cây hương lớn, đứng khấn vái trước bàn thờ, rồi mang hương đó cắm tại bình hương bàn thờ Tổ tiên hoặc bàn thờ Thổ Công ở nhà. Ngọn lửa tượng trưng cho sự phát đạt. Lấy lửa tự các nơi thờ tự mang về, tức là xin Phật Thánh phù hộ cho được phát đạt tốt lộc quanh năm. Trong lúc mang nấm hương từ nơi thờ tự trở về, nhiều khi gặp gió, nấm hương bốc cháy, người ta tin đó là một điềm tốt báo trước sự may mắn quanh năm. Thường những người làm ăn buôn bán hay xin hương lộc tại các nơi thờ tự.
Xông nhà: Thường cúng giao thừa ở nhà xong, người gia chủ mới đi lễ đền chùa. Gia đình có nhiều người, thường người ta kén một người dễ vía ra đi từ lúc chưa đúng giờ trừ tịch, rồi khi lễ trừ tịch tới thì dự lễ tại đình chùa hoặc ở thôn xóm, sau đó xin hương lộc hoặc hái cành lộc về. Lúc trở về đã sang năm mới, người này đã tự xông nhà cho gia đình mình, mang sự tốt đẹp quanh năm về cho gia đình. Ði xông nhà như vậy tránh được sự phải nhờ một người tốt, vía khác đến xông nhà cho mình. Nếu không có người nhà dễ vía để xông nhà lấy, người ta phải nhờ một người khác trong thân bằng cố hữu tốt vía để sớm ngày mồng một Tết đến xông nhà, trước khi có khách tới chúc Tết, để người này đem lại sự dễ dãi may mắn lại.
Trích “Tín Ngưỡng Việt Nam” - Toan Ánh
Mối quan hệ hợp, xung, hình, hại của các địa chi là một trong những yếu tố/căn cứ của mệnh lý học dùng để luận đoán vận mệnh con người. Thông thường thì gặp xung, hình, hại thì mệnh cục trắc trở; tương hợp thì gặp hung hóa cát, mọi việc thuận lợi.
| Địa chi | Tý | Sửu | Dần | Mão | Thìn | Tỵ | Ngọ | Mùi | Thân | Dậu | Tuất | Hợi |
| Tý | hợp | hình | tam hợp | xung | hại | tam hợp | ||||||
| Sửu | hợp | tam hợp | hại | hình xung |
tam hợp | hình | ||||||
| Dần | hình hại |
tam hợp | hình xung |
tam hợp | hợp | |||||||
| Mão | hình | hại | tam hợp | xung | hợp | tam hợp | ||||||
| Thìn | tam hợp | hại | hình | tam hợp | hợp | xung | ||||||
| Tỵ | tam hợp | hình hại |
hợp hình |
tam hợp | xung | |||||||
| Ngọ | xung | hại | tam hợp | hình | hợp | tam hợp | ||||||
| Mùi | hại | hình xung |
tam hợp | hợp | hình | tam hợp | ||||||
| Thân | tam hợp | hình xung |
tam hợp | hợp hình | hại | |||||||
| Dậu | tam hợp | xung | hợp | tam hợp | hình | hại | ||||||
| Tuất | hình | tam hợp | hợp | xung | tam hợp | hình | hại | |||||
| Hợi | hợp | tam hợp | xung | tam hợp | hại |
(Theo Dự đoán tứ trụ)
Tứ Lục tinh đại diện cho sự tin cẩn và ôn hoà, thích hợp nghề: trang điểm, làm đẹp, cắt tóc, quảng cáo, thiết kế nội thất, làm vườn, hương liệu, nước hoa, làm giấy, viết sách, văn học, nghệ thuật, bán hàng, giám đốc, hàng không, trang trại nuôi gà…

![]() |
| Một bức tường nghệ thuật đem đến tinh thần cho khu vườn |
![]() |
| Đài phun nước là ưu tiên số một trong phong thủy vườn |
![]() |
| Những chiếc đèn vườn xinh đẹp mang lại thẩm mĩ và sự ấm áp |
| Những bậc đá là dòng chảy năng lượng chính của khu vườn |
![]() |
| Bóng gương trả những năng lượng tiêu cực về nơi xuất phát |
Về biểu tượng thân thể thì Thiên Khôi là đầu, Thiên Việt là hai vai. Mệnh hay hạn có nhiều sao xấu hội họp thì bộ Thiên Khôi Thiên Hình (tượng là dao, kiếm) đồng cung chỉ việc đầu bị gươm dao chém phải, đầu thường có tì vết hoặc có sẹo. Nếu Mệnh có Thiên Việt Song Hao đồng cung hay Thiên Hình đồng cung thì dễ bị lệch vai, so vai. Về biểu tượng vật dụng thì Khôi chỉ văn bằng, nghị định, giấy khen, còn Việt thì chỉ bút nghiên. Trong tang chế thì Khôi Việt chỉ thầy cúng, ông sư, ông cha, người làm lễ tang
Khôi Việt vừa là văn tinh, vừa là quí tinh, chủ về khoa giáp, văn chương, quyền hành chức tước. Khôi Việt còn được gọi là Thiên Ất Quí Nhân. Cả hai sao đều không an ở hai cung Thìn Tuất (La Võng).
Cả hai sao đều miếu vượng ở cung ban ngày từ Dần đến Ngọ, hãm địa tại cung Thủy (Hợi Tí) và cung Thổ (Sửu Mùi), còn lại thì bình thường (tại cung Thân Dậu hành Kim). Ở vị trí cung ban ngày thì Khôi Việt giống như bằng cấp được đem ra cho công chúng xem, là người lãnh đạo được mọi người biết đến. Nếu xét về ngũ hành, khi ở cung ban ngày thì hoặc được cung sinh sao hoặc đồng hành với sao. Ở cung ban đêm hoặc tại Sửu Mùi thì ví như bằng cấp không được treo ra ngoài nên ít được người biết đến, là người có uy quyền ngấm ngầm. Nếu xét về ngũ hành thì ở cung ban đêm, hành sao khắc hành cung (Hỏa khắc Kim) hoặc hành cung khắc hành sao (Thủy khắc Hỏa) hoặc hành sao sinh hành cung (Hỏa sinh Thổ). Khôi Việt miếu vượng không nên gặp Tuần Triệt, giống như bằng cấp bị rách nát nên khoa trường thi cử bị lận đận hoặc không đỗ đạt cao được, hoặc học hành dang dở nhưng khi hãm địa thì rất cần Tuần Triệt, nhưng cũng phải lận đận ban đầu mới có được bằng cấp
Khôi Việt rất cần cho lá số quí cách bởi vì thiếu Khôi Việt thì giống như thiếu thiên uy, không được người kính nể, đặc biệt là mệnh Tử Phủ hoặc Nhật Nguyệt gặp Khôi Việt rất thích hợp (Hỏa sinh Thổ).
Khôi Việt thủ Mệnh là cách ư gia quốc vi nhân trưởng, cho dù có hãm địa cũng là cách trội hơn người bình thường. Có Khôi Việt thủ chiếu Mệnh thì được mọi người nể phục, có uy, luôn đứng đầu cho dù là hạng người nào (trùm du đãng hay vị lãnh tụ), ở nhà thì đứng đầu, được cha mẹ thương yêu hoặc có tiếng nói trong gia đình, hoặc là con trưởng, đoạt trưởng. Ra ngoài thì tùy theo lá số tốt xấu và vị tri đắc hãm mà luận đoán, tốt thì lãnh đạo thiên hạ, trưởng cơ quan ban ngành, xấu thì cũng được người nể phục, tiếng nói có trọng lượng và dễ kề cận lui tới với thượng cấp hoặc người có danh có chức quyền, được tin tưởng giao cho những việc quan trọng. Khôi Việt thủ chiếu Mệnh thì thông minh, có năng khiếu đặc biệt nên thường giỏi về một điều gì đó, có mưu cơ, quyền biến, có tài lãnh đạo, tổ chức, chỉ huy và có đầu óc không chịu thua người, muốn hơn người, có óc lãnh tụ, tính thích chỉ huy. Khôi Việt thủ chiếu mệnh thì tự ái rất cao, không thích bị nói nặng nhẹ và không chịu được lời nói nặng nhẹ. Người có Khôi Việt thì không có tính thù dai, chấp nhất, nhỏ mọn, là người dễ tha thứ, khoáng đạt, cao thượng, trừ khi gặp Không Kiếp,đặc biệt hãm địa thì dễ ăn miếng trả miếng do bị chạm tự ái. Tuy vậy cũng không phải là hạng người nhỏ mọn. Khôi Việt đặt nặng uy tín cá nhân, khi giao du với người lớn tuổi hoặc có chức quyền tiếng tăm thường có lợi, được giúp đỡ. Mệnh có Khôi Việt gặp hạn xấu thì được người giúp đỡ, thông thường là người có chức có quyền nên Khôi Việt giải hạn xấu cũng mạnh. Chú ý rằng Khôi Việt đủ bộ mới mạnh, nếu đứng một mình và bị hãm địa thì giảm thiểu rất nhiều ý nghĩa. So sánh giữa Khôi và Việt, nếu cùng đắc hãm như nhau thì tài năng quyền uy của Khôi mạnh hơn Việt, về vai vế trong gia đình thì Khôi thường là con trưởng, còn Việt là thứ đoạt trưởng. Theo nghĩa Hán Việt thì kẻ làm đầu sỏ cả một đảng gọi là "khôi".
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Trúc Loan (##)
![]() |
| Ảnh minh họa |
1. Nguyệt kỵ
Ngày 5, 14, 23 các tháng âm lịch.
2. Tam nương
Ngày 3, 7, 13, 18, 22, 27 các tháng âm lịch.
3. Nguyệt tận (ngày hối)
Ngày cuối của các tháng âm lịch.
4. Tứ ly
1 ngày trước tiết Xuân phân, Thu phân, Hạ chí, Đông chí.
5. Tứ tuyệt
1 ngày trước tiết Lập xuân, Lập hạ, Lâp thu, Lập đông.
6. Kim thần thất sát
- Năm Giáp, Kỷ: ngày Ngọ, Mùi.
- Năm Ất, Canh: ngày Thìn, Tỵ.
- Năm Bính, Tân: ngày Tý, Sửu, Dần, Mão.
- Năm Đinh Nhâm: ngày Tuất, Hợi.
- Năm Mậu, Quý: ngày Thân, Dậu.
Theo Bàn về lịch vạn niên
1. Cằm
Những người cằm chẻ hoặc tròn đầy đặn thường có số mệnh giàu sang. Đặc biệt, họ càng giàu về hậu vận, của cải sẽ vào như nước. Đó là thành quả của những năm miệt mài “cày” khi còn thanh xuân. Hơn nữa, những ai có đặc điểm cằm như trên thường rất dễ gần, đặc biệt sở hữu tài năng nắm bắt tâm lý của người đối diện.
Với các teen girl, nếu sở hữu cằm đầy đặn còn ám chỉ sau này sẽ là cánh tay phải đắc lực giúp chồng phát triển sự nghiệp.
2. Lông mày
Teen hãy để ý nhé, những người giàu có đều sở hữu cặp lông mày lá liễu. Hình vòng cung mềm mại của lông mày, kéo dài từ đầu mắt tới cuối cho thấy họ có tướng phú quý. Tính cách của họ thường là ôn hòa, mềm dẻo và khéo léo. Nếu là nữ giới, bạn sẽ lôi cuốn người khác bằng vẻ dịu dàng, lương thiện. Vậy nên, trên con đường sự nghiệp, bạn luôn gặp quý nhân phù trợ để vượt qua mọi rào cản một cách nhẹ nhàng.
![]() |
3. Vòng 3
Những người có vòng 3 đầy đặn thường rất kiên trì và nhẫn nại. Họ đặt mục tiêu trong cuộc sống theo từng giai đoạn một cách rõ ràng. Bằng sự nỗ lực, các mối quan hệ, họ sẽ cán đích một cách ngoạn mục. Đặc biệt, họ còn biết cách quản lý tiền bạc, chi tiêu tiết kiệm, đầu tư vào đâu để có lợi nhuận cao nhất. Vậy nên, số giàu sang sẽ luôn song hành với những ai có vòng 3 đầy đặn.
4. Nhân trung
Nhân trung rõ, dài và sâu đích thị là đặc điểm của người có số giàu sang. Họ được nể phục vì trí thông minh và sự quyết đoán. Thêm chút tính cách thích mạo hiểm, họ luôn gặt hái được thành công trong những thương vụ lớn. Hơn nữa, tâm tính của họ lương thiện, nên “lộc” không ngừng chảy về túi. Nếu là nữ, sau này bạn sẽ gặp nhiều thuận lợi về đường con cái. Chúng đều thừa hưởng những tướng số tốt của bố mẹ.
![]() |
5. Trán
Đặc điểm trán của người giàu sang thường là khá hẹp. Họ cực kỳ cẩn thận, quan tâm tới từng tiểu tiết. Độ kiên trì của họ cũng không khiến ai thất vọng. Đặc biệt, sự nhanh nhạy với các con số giúp họ hướng tới kinh doanh thuận buồm xuôi gió. Tuy nhiên, tính cách của người trán hẹp còn quá rụt rè, đôi lúc làm tuột mất cơ hội làm giàu. Do vậy, tài lộc đến với họ sẽ muộn màng hơn.
![]() |
![]() |
Bắt thóp cá tính các nàng qua hình dáng của trán |
Mr.Bull (theo DZYX)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Maruko (theo Meiguoshenpo)
Đây là thời điểm để con cái nhớ về công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Ngày này, rất nhiều người đến chùa thành tâm cầu an sức khỏe cho đấng sinh thành.
Theo quan điểm của nhiều người Việt ta, ngày rằm tháng 7 được coi là ngày quan trọng nhất trong năm. Nói như cố hòa thượng Thích Thanh Từ (chùa Quán Sứ, Hà Nội), lễ Vu Lan có nghĩa là ngày báo hiếu cha mẹ. "Ngày rằm tháng 7, ta phải cầu nguyện để đức Phật xá tội cho các linh hồn. Con cái phải hiếu thuận với cha mẹ ngay từ khi họ còn sống để sau này không phải hối tiếc".
Vu Lan là một trong những ngày rằm quan trọng nhất trong năm. Việc đi chùa thắp hương khấn Phật, cầu siêu là điều nên làm. Điều đó sẽ mang lại may mắn, an lành cho những người thân trong gia đình bạn.
Ngày Vu Lan là ngày báo hiếu cha mẹ đã có công sinh thành và nuôi dưỡng. Trong dịp lễ này, người dân nói chung và bà con Phật tử ngoài việc lên chùa cài hoa hồng, tụng kinh cầu siêu tỏ lòng báo hiếu với ông bà tổ tiên, cúng dường trai tăng, công đức để cha mẹ được sống trong cực lạc. Ngày đó vào chùa lễ Phật, nếu may mắn còn mẹ, bạn sẽ được gắn một hoa hồng lên áo. Nếu như không may, mẹ không còn nữa, bạn sẽ được gắn một bông hoa trắng.

Ngày Lễ Vu Lan, bạn nên đến chùa cầu siêu, cầu bình an, tỏ lòng báo hiếu với ông bà tổ tiên, cha mẹ.
Nếu bạn đang được ở cùng cha mẹ, hãy cùng họ lên chùa và tận hưởng những phút giây đoàn viên ý nghĩa. Nếu bạn đang ở xa gia đình, hãy chọn một ngôi chùa nào đó gần nơi bạn đang ở và thành tâm cầu nguyện cho cha mẹ.
Ở mỗi nơi trên đất nước Việt Nam, mỗi người lại có cách báo hiếu cha mẹ khác nhau, có người đi chùa cầu cho cha mẹ bình an, có người lại mua quà tặng cha mẹ,… nhưng điều quan trọng nhất là mỗi người hãy sống thật tốt, đối xử thật tốt với bố mẹ trong những ngày bình thường, ngay khi bố mẹ còn sống.
Hiện nay, cuộc sống ngày càng bon chen và bận rộn, sự quan tâm đến người thân trong mỗi chúng ta ngày càng thưa thớt hơn. Vì vậy, bạn hãy dành những thời gian rảnh rỗi để gọi điện, về thăm bố mẹ. Đó là món quà ý nghĩa nhất mà bố mẹ bạn nhận được.
| Phân biệt Lễ Vu lan và lễ cúng Cô hồn Một số người lầm tưởng Lễ Vu Lan và lễ cúng Cô hồn. Tuy nhiên, hai lễ này hoàn toàn khác nhau. Chúng gắn với hai sự tích khác nhau tuy nhiên lại tổ chức chung một ngày rằm tháng Bảy khiến cho nhiều người nhầm lẫn. 1. Lễ Vu lan Lễ Vu Lan gắn với tích về Mục Kiền Liên, đệ tử của Đức Phật, là một vị tôn giả tu luyện được nhiều phép thần thông, được liệt vào hạng thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử của Phật. Vì tưởng nhớ mẹ nên một ngày nọ Mục Kiền Liên dùng đôi mắt thần nhìn xuống địa ngục, thấy mẹ là bà Thanh Đề bị Diêm Vương đày làm quỷ đói do kiếp trước gây nhiều nghiệp ác. Thương mẹ nên ông dùng phép thuật xuống địa ngục để mang cơm dâng cho người. Bà Thanh Đề do lâu ngày nhịn đói nên khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình vì sợ các cô hồn khác đến tranh. Vì còn tính "tham sân si" nên khi bà đưa bát lên miệng, thức ăn đã hóa thành lửa đỏ không thể ăn được. Đau xót khi chứng kiến cảnh này, Kiền Liên cầu xin Đức Phật giúp mình cứu mẹ. Đức Phật dạy ông rằng một mình con không thể cứu được mẹ do ác nghiệp của bà quá nặng, chỉ còn cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong thành công. Vào ngày rằm tháng bảy, nhân lúc chư tăng mãn hạ (sau 3 tháng an cư kiết hạ) thì sửa một cái lễ đặt vào trong chiếc chậu để dâng cúng và thành khẩn cầu xin mới có thể cứu rỗi vong nhân khỏi địa ngục tăm tối. Mục Kiền Liên thành tâm làm theo lời Phật dạy, không những cứu được mẹ mà còn giải thoát được tất cả vong hồn bị giam cầm ở âm cung. Từ đó ngoài ý nghĩa "mùa hiếu hạnh", tháng bảy âm lịch còn gọi là tháng "xá tội vong nhân", tức là thời gian các vong hồn được thả tự do. Trong những ngày này, người dân thường lập đàn cầu siêu hoặc cúng thí (bố thí) thức ăn cho các cô hồn (tức là vong hồn không có người thân) để mong họ phù hộ cho mình. Từ đó về sau theo lời Phật dạy, các phật tử muốn báo hiếu cha mẹ thì cử hành lễ Vu Lan để cầu siêu cho các đấng sinh thành và cầu phá địa ngục cho những vong hồn. 2. Lễ cúng Cô hồn Một buổi tối, A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày sau, A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ miệng lửa, mặt cháy đen như nó. A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho phương cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói: “Ngày mai ông phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc thức ăn, và soạn lễ cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ được tăng thọ, còn tôi sẽ được sinh về cõi trên”. A Nan đem chuyện bạch với Ðức Phật. Đức Phật bèn cho bài chú gọi là “Cứu bạt diệm khẩu ngạ quỷ Ðà La Ni”. A Nan đem tụng trong lễ cúng và được thêm phúc thọ… Tục cúng Cô hồn bắt nguồn từ sự tích này nên ngày nay người ta vẫn nói cúng Cô hồn là Phóng diệm khẩu, với nghĩa gốc là “thả quỷ miệng lửa”. Về sau, lại được hiểu rộng thành các nghĩa khác như: Tha tội cho tất cả những người chết (xá tội vong nhân) hoặc Cúng thí cho những vong hồn vật vờ (cô hồn). Tóm lại, lễ Vu Lan và lễ cúng Cô hồn là hai lễ cúng hoàn toàn khác nhau. Một chuyện liên quan đến ông Mục Liên, một chuyện liên quan đến ông A Nan. Một lễ là để cầu siêu cho cha mẹ ông bà bảy đời, một lễ là để bố thí cho những vong hồn không ai thờ cúng. |
Bài viết của giáo sư TRẦN QUANG ĐÔNG
ĐÔI LỜI GIỚI THIỆU
Một thân chủ gặp việc chẳng lành, hoặc gặp việc phân vân khó giải quyết, tìm thầy Tử vi nhờ xem dùm, để từ đó có thể đưa ra quyết định. Sau khi đưa ngày, giờ tháng năm sinh ra, Thầy bấm tay, một lúc rồi nói. Đa số là dựa theo nét mặt và câu trả lời rồi nói tiếp, nói láo bốn phần, dựa theo nói năm phần may ra đúng ba phần. Thân chủ dễ tính vội cho là thần thánh.
Sự thực thân chủ muốn biết thầy có học đến trình độ sơ cấp về Tử vi hay không cứ hỏi ngay một lúc bằng này câu hỏi. Nếu đoán đúng 3 câu là tạm được. Nếu sai 3 câu là chưa học đến trình độ sơ đẳng.
Thí dụ: một nữ thân chủ 30 tuổi hỏi:
- Cha mẹ còn hay mất? Cha mất trước hay mẹ mất trước?
- Có mấy anh chị em? Anh em trai nhiều hay chị em gái nhiều?
- Học tới đâu?
- Lập gia đình năm nào? Đã có mấy còn? Những năm nào có con?
- Chồng là người thế nào? Làm nghề gì?
Tùy theo câu trả lời của thầy sẽ biết thầy có là người nói láo hay không. Chúng tôi xin minh xác trước rằng, mình chưa học đến trình độ sơ đẳng của khoa Tử vi. Mà chỉ tìm hiểu lịch sử khoa Tử vi, cùng những diễn biến trong Việt Nam sử và Trung quốc sử về khoa này. Những thư tịch mà tôi nghiên cứu trong thư viện tại Đông Kinh là những thư tịch người Nhật tịch thu của Trung hoa trong các cuộc Hoa chinh trước đây. Một số thư tịch tại thư viện Trung ương Đài bắc rất giá trị lại khác hẳn những sách của VN. Tại VN sách Tử vi bằng chữ Hán chép tay rất nhiều, phải khó khăn lắm mới cô đọng được.
Chúng tôi xin trình bầy ra đây để thức giả khỏi lầm lẫn khoa thiên văn Tử vi với những anh thầy bói nói láo. Cả gan hơn nữa những anh này còn dám viết sách lịch Tử vi vào đầu năm nữa.
Giáo sư TRẦN QUANG ĐÔNG
I. Nguồn gốc khoa Tử vi
Cho đến nay khoa Tử vi do ai đặt nền móng đầu tiên, lịch sử không chứng minh được rõ ràng. Căn cứ vào bộ Tử vi Đại toàn do các văn thần nhà Thanh dâng lên cho vua Càn Long (1736-1796) vào niên hiệu Càn Long thứ 41, bài tựa có chép:…”Bọn thần vâng tra cổ sử, chỉ biết Tử vi có từ đời Đông Tấn vào niên hiệu Vĩnh Hưng nguyên niên (304 sau Tây lịch) nhưng chưa đặt căn bản. Đến đời Tống, Thái Tổ cho mời đạo sĩ Trần Đoàn ở núi Phú Sơn vào chầu. Tiên sinh dùng khoa Tử vi tính vận hạn cho triều thần trăm sự đều đúng cả…” (Tử vi Đại toàn quyển 1 trang 14).
Xem như vậy thì khoa Tử vi có từ trước năm 963 là năm Tông Thái tổ mời Trần Hi Di tiên sinh vào cung xem vận mạng. Nhưng Khoa Tử vi do Trần Hi di tiên sinh và đệ tử của ông đặt căn bản nghiên cứu, nên sau này ông được tôn là Tổ sư.
Bộ sách Triệu Thị Minh Thuyết Tử vi kinh, do chính con cháu nhà Tống chép một đoạn kỳ thú về sự gặp gỡ giữa Hi Di tiên sinh và Tống Thái hậu. Nhờ khoa Tử vi mà Hi Di tiên sinh biết trước sau này hai người con của Tống Thái Hậu làm vua:
…”Cuối đời Hậu Châu ly loạn, Thái Hậu cho Thái tổ và Thái tông (Tức Triệu Khuông Dẫn và Khuông Nghĩa) vào hai chiếc thúng gánh trên vai chạy loạn. Khi qua núi Phú Sơn thì gặp Hi Di tiên sinh. Tiên Sinh hỏi niên canh bát tự của Thái tổ, Thái tông rồi bấm số, nói với Thái hậu:
- Bà phúc đức lắm hai người con sau này đều là đấng minh quân bình thiên hạ.
Thái hậu tạ ơn:
- Ngài nói chi lời nhạo báng? Con tôi đang đói khổ đây. Ngài có gì cứu giúp không?
Tiên sinh đáp:
- Sau này hai con bà đều làm vua bà thiếu gì dịp ban ơn mưa móc cho thiên hạ. Giang sơn này của bà cả. Bây giờ bà bán cho tôi hòn núi này đi, để lấy 10 lượng vàng mà tiêu.
Thái hậu đồng ý vì nghĩa rằng ông đạo điên, có ai đi mua núi bao giờ đâu?
Bà xé vạt áo Thái Tổ, Thái Tông cột vào chiếc đũa bỏ vào ống đũa làm văn tự đưa cho Hi Di tiên sinh.
Sau khi thống nhất giang sơn, vào niên hiệu Càn Đức nguyên niên (963) quan địa phương báo về rằng: Có đạo sĩ Hi DI ở núi Phú Sơn đuổi quan thu thuế về, và nói rằng núi này Thái Hậu đã bán cho ông ta. Thái Tổ hỏi lại sự tích Thái hậu nhất nhất thuật lại sự việc. Thái tổ cảm cái ân tặng 10 nén hạt Phú Sơn. Triều thần cho là bậc kỳ tài, xin đón về kinh hỏi việc quá khứ vị lai. Tháng 10 năm ấy tiên sinh về triều. Thái Hậu, Thái tổ và văn thần võ tướng được ngài tính theo khoa Tử vi cho biết hết quá khứ, vị lai. Tiên sinh có dâng lên Thái Tổ sách Tử vi Tinh nghĩa. Từ đấy các bậc vương hầu trong hoàng tộc đều được học khoa này, mỗi đời thêm vào các kinh nghiệm, điền khuyết những chỗ chưa đủ. Bậc Đế vương học khoa Tử vi để biết kẻ trung người nịnh mà dụng người,… (Triệu Thị Minh Thuyết Tử vi kinh quyển 1 trang 28).
II- Các môn phái Tử vi Trung hoa
Khoa Tử vi lưu truyền từ đời Tống (960) đến đời Thanh (1644) trải qua 684 năm, trong gần 7 thế kỷ đó khoa Tử vi đã chia ra làm ba rõ rệt.
Vua Càn Long có tham vọng thống nhất lại cho đúng. Nhưng cho đến nay sách vở thất tán, nên khoa này tại Trung Hoa không phổ thông và tinh vi như Việt Nam. Ba phái Tử vi đó là:
Sau đây chúng tôi xin lược trình qua sự xuất hiện của các phái.
1- Phái Triệu Gia
HI DI tiên sinh truyền sách Tử vi Tinh Nghĩa cho Tống Thái Tổ. Thái Tổ truyền lại cho các bậc Vương, Hầu trong hoàng tộc. Khoa Tử vi lưu truyền trong hoàng tộc đời Tống giữ một sắc thái đặc biệt có thể tóm lược như sau:
Khoa Tử vi lưu truyền trong tôn thất nhà Tống, đời đời ghi chú thêm các kinh nghiệm. Sau khi nhà Tống mất con cháu vẫn còn giữ được di thư. Người sau dùng chữ Triệu là họ của nhà Tống mà gọi phái này.
Sau đây là một vài câu chuyện còn ghi chép trong bộ sách Triệu Thị Minh Thuyết Tử vi Kinh.
Sau khi Tông Thái tổ thống nhất giang sơn cho nghĩa đệ là Trịnh ân ra trấn cõi ngoài. Ngài xem số thấy Trịnh âN sắp bị đại nạn e khó thoát chết. Số Trịnh ân Thiên Tướng, Tướng quân thủ mệnh tại Tý. Mà năm ấy đại hạn gặp Tuần, tiểu hạn gặp Triệt. Lưỡng tướng tối kị ngộ Tuần, Triệt. Huống hồ lưỡng Tướng gặp cả Tuần lẫn Triệt, Ngài xuống chiếu gọi Trịnh ân về kinh đợi qua năm sẽ cho ra trấn thủ lại. Không ngờ khi Trịnh ân về kinh thì xảy ra vụ gian thần mượn quyền Thái Tổ giết chết. Thái Tổ giết chết bọn gian thần trả thù cho nghĩa đệ, bồi hồi vì cố cưỡng lại số cứu nghĩa đệ mà rốt cuộc nghĩa đệ vẫn không thoát khỏi số. Vợ Trịnh ân là một võ tướng trí dũng tuyệt vời tên là Đào Tam Xuân, đã giúp Thái tổ dựng lên đại nghiệp. Thái Tổ đang ân hận nghĩa đệ bị giết, lại lo việc Tam Xuân vây hãm kinh đô, không cách thoát. Hoàng đệ là Triệu Khuông Nghĩa tính số tử vi rồi nói:
- Số của Hoàng huynh có cách: Tử Phủ Vũ Tướng dầu có Tả Hữu Khoa Quyền Lộc Tang Hổ, nhưng năm nay hạn ngộ Tuần, đế vô sở quyền, nên mới bị Quý phi mượn lệnh mà giết mất Trịnh ân. Bây giờ bị vây, tôi xem số của Đào Tam Xuân, Vũ khúc, Phá quân thủ mệnh tại Tý ngộ Lộc tồn Kiếp, Không, tại Thiên Di. Cung Quan Tử, Tham Lộc. Cung Tài Liêm Sát Tả Hữu Khoa. Hiện tại đây không ai có thể thắng nàng. Cái cách Kiếp, Không đắc địa của nàng là khắc tinh của cách Tử Phủ Vũ Tướng của hoàng huynh. Muốn lầm cho êm truyện này, phải tuân theo điều kiện sau: Tam Xuân có Vũ Phá thủ Mệnh, tính tình nhẹ dạ. Theo Tử vi thì chỉ có Thiên lương chế được tính ác của Phá quân, Lộc tồn chế được tính điên của Phá quân. Tôi xin đề cử Cao Hoài Đức, người có Thiên Lương thủ Mệnh tại Tý ngộ Khốc, Hư và Lộc tồn cư Thiên di tại Ngọ với Thái dương, ra thuyết phục Đào Tam Xuân.
Thái tổ chuẩn tấu. Quả nhiên Cao hoài Đức thuyết phục Đào tam Xuân rút binh. Về sau con cháu Trịnh ân phò nhà Tống cho đến khi mất nghiệp vò tay quân Mông Cổ.
Một lần khác, phải đề cử tướng ra trấn thủ biên cương Tống đế được các quan đề cử hai người. Triều đình tranh luận liên tiếp mấy ngày không kết quả. Sau cùng Tống đế tính số Tử vi thấy:
- Trương quang Đăng có cách Tử Phá thủ Mệnh Tả Hữu phù trì tại Mùi nhưng năm sau Đại hạn, Tiểu hạn trùng phùng ngộ Liêm Tham tại Hợi chắc chắn là chết. Nếu cử Đăng đi thì qua năm lại phải cử người khác.
- Dương Văn Quảng, tuổi Giáp, mệnh lập tại Dần, có Hình, Mã, được cách Tử Phủ Vũ Tướng, sách Tử vi nói rằng: “Hình Hổ cư Dần, Hổ đới kiếm hùng, tương phùng Đế cách, ư Giáp Kỷ nhân uy vũ trấn, động”. Nghĩa là: Thiên hình, Bạch hổ ở Dần Hổ đeo kiếm hùng. Người tuổi Giáp, Kỷ uy vũ trấn động.
Đó là cách “Mã đầu đới kiếm trấn ngự biên cương”. Vì vậy Tống đế quyết định cử Dương Văn Quảng ra trấn biên ải.
Quả nhiên năm sau Trương Quang Đăng chết. Khi nhà Tống mất nghiệp, con cháu còn lưu truyền công phu nghiên cứu Tử vi của họ Triệu qua bộ Triệu Thị Minh Tuyết Tử vi kinh.
2- Phái Hà Lạc
Sai khi Hi Di tiên sinh qua đời, đệ tử của ông chia ra làm hai phái. Phái đi về phương Nam chịu ảnh hưởng của khoa bói toán, nên đời sau gọi là phái Hà lạc. Họ thêm vào một số sao mới mà trong Tử vi chính nghĩa kinh không có. Cách an sao của họ cũng khác với HI Di tiên sinh, Những sao họ thêm vào, với tính cách quái dị, vô lý của khoa bói dịch, như: Thiên giải, Địa giải, Giải thần, Thiên quan, Thiên phúc, Thiên Tài, Thiên Thọ, Thiên y, Thiên Trù, Quán sách, Thiên xá…
Vòng Thái tuế có 5 sao, họ thêm vào 7 sao nữa thành 12 sao.
Đa số người của phái này dùng khoa Tử vi làm kế sinh sống, nên không bao giờ họ truyền cho nhau hết cái tinh vi. Bao giờ họ cũng giữ lại một số bí thuật. Đôi khi họ còn truyền sai cho nhau nữa. Vì vậy lâu ngày phái này bị mất hẳn gốc. Kinh nghiệm của họ thực nhiều, nhưng họ không truyền cho nhau thì đâu còn giá trị nữa. Các thầy Tử vi Tầu sang VN dạy lại cho người VN, họ vốn dĩ đã bị học lại không đúng với chính kinh, khi truyền lại họ còn dạy sai và dạy thiếu nữa, thì hỏi sao khoa tử vi VN không có những chỗ bế tắc khó giải thích.
Công trình của phái này còn chép trong bộ Tử vi âm Dương chính nghĩa nam tông.
3- Phái âm Dương
Học trò của Hi Di tiên sinh đi về phương bắc đã bị ảnh hưởng của âm Dương sinh khắc ngũ hành. Phía này có khuyết điểm là quá chú ý vào âm Dương sinh khắc mà quên mất tinh yếu của khoa Tử vi là Thiên văn. Đầu đời Mih một nhân vật quan trọng của phái này làm quân sư cho Minh Thái Tổ. Đó là Lưu bá ôn. Trọn đời Minh (1368-1643) phái này được trọng dụng. Kinh nghiệm của phái này rất nhiều, nhưng tiếc rằng đi quá xa với chính tinh nên không thành đạt cho lắm. Công phu của phái này còn lưu truyền bộ Tử vi âm Dương Chính nghĩa, Bắc Tông.
Niên hiệu Sùng Chinh thứ 16 nhà Minh (1643), Lý tự Thanh đem quân đốt phá Bắc kinh, thì bộ sách trên thất truyền. Sau Vĩnh Vương bị Ngô tam Quế thắt cổ ở Vân Nam, y có lưu giữ một bộ. Ngô tam Quế bị diệt, bộ này lọt vào tay các văn thần nhà Thanh.
4- Bộ Tử vi Đại toàn
- Niên hiệu Càn Long thứ 38 nhà Thanh, nhà Vua thấy danh sĩ thiên hạ xúm vào bài bác mình, chê bai Thanh triều làm giòng dõi mọi sợ phương Bắc mới tập trung những nhà học giả lại phong cho mỗi người một tước đặt dưới quyển Kỷ Duân, là việc trong viện Tử khố toàn thơ. Công việc của viện là tập trung tất cả sách vở, học thuật trong thiên hạ lại chú giải, ấn hành cho dân gian học. Bộ này được gọi là Tứ bộ bị yếu. Gồm có 4 bộ cả sách Tử vi trong thiên hạ lại chú giải thành bộ Tử vi Đại toàn, gồm 9 cuốn như sau:
Đặc biệt cuốn thứ nhì có nói đến khoa Tử vi tại VN, là công trình nghiên cứu của nhà Trần. Cuốn thứ 8 chép lại nguyên văn của sách “Đông A di sự” đời Trần.
5- Khoa Tử vi Trung hoa ngày nay
Có nhiều lý do giải thích tại sao khoa Tử vi Trung hoa ngày nay lại không thịnh hành và được nhiều người nghiên cứu đến nơi đến chốn như Việt Nam điều đó chúng tôi sẽ trình bày trong một bài sau.
KHHB số 74G1
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
| ► Mời các bạn: Xem phong thủy theo ngũ hành để đón lành tránh dữ |
![]() |
Hành: ThủyLoại: Tùy TinhĐặc Tính: Sạch sẽ vệ sinh, giỏi về nghề thuốc, y dược, cứu giải bệnh tật.Tên gọi tắt thường gặp: Y
Ý Nghĩa Thiên Y Ở Cung Mệnh