Mơ thấy kính viễn vọng: Ánh mắt nhạy bén –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
1. Bàn tay nhóm Thổ
Cách nhận biết: Bàn tay vuông vắn, khá dày, ngón tay ngắn. Bàn tay không có nhiều vân nhưng đường nét đậm, đường trí tuệ thẳng. Cổ tay lớn, gốc ngón tay cái có bắp thịt dày và cứng.
Tính cách: Họ rất lý trí, làm đến nơi đến chốn nhưng cũng tùy hứng, không thích ứng nhanh, không dễ từ bỏ, cố chấp.
Ngành nghề phù hợp: Là những người thích tận hưởng thiên nhiên, trải nghiệm những việc mới mẻ, tính cách liều lĩnh, có thể chịu được khổ cực, thận trọng và thực tế, đáng tin tưởng, họ có năng khiếu sáng tạo thiên bẩm, làm tốt trong ngành nhiếp ảnh, âm nhạc.
2. Bàn tay nhóm Gió
Cách nhận biết: Bàn tay vuông vắn, ngón tay thon dài, đầu ngón tay có hình tròn hoặc hình nón. Bàn tay không có nhiều vân nhưng đường nét đậm. Lòng bàn tay ẩm ướt, màu sắc hơi trắng, thịt dày, có độ đàn hồi.
Tính cách: Là những người tài năng, có năng lực lãnh đạo, công bằng và chính nghĩa. Không ham hư vinh, tuân thủ trật tự, ý chí kiên định.
Ngành nghề phù hợp: Với tính cách hoạt bát, nhạy cảm, tò mò, không thích cuộc sống bình thường, sở trường về ngôn ngữ, họ hiểu rõ về công nghệ mới, thích hợp làm việc liên quan đến truyền thông như: báo chí, dịch thuật, xuất bản.
![]() |
3. Bàn tay nhóm Hỏa
Cách nhận biết: Bàn tay vuông vắn, ngón tay thon dài. Bàn tay có nhiều vân, nhưng chỉ có vài đường vân đậm. Đầu ngón tay có hình tròn hoặc hình nón, đốt ngón tay không rõ ràng, móng tay hồng hào.
Tính cách: Bạn suy nghĩ nhanh, phản ứng linh hoạt, nhạy cảm, yêu ghét rõ ràng, thông minh lanh lợi, có năng lực học tập.
Ngành nghề phù hợp: Với tính cách hướng ngoại, hài hước, thú vị, nhiệt tình, hoạt bát, hăng hái, thích thách thức bản thân, họ có sức hút mê người và khí chất đặc biệt. Những người như vậy dễ trở thành lãnh đạo trong một tập thể, thích hợp làm việc liên quan đến nghệ thuật.
4. Bàn tay nhóm Thủy
Cách nhận biết: Bàn tay vuông vắn, ngón tay thon dài, đầu ngón tay hình nón. Vân ở lòng bàn tay khá nhỏ, nhiều và nhạt. Lòng bàn tay có màu trắng.
Tính cách: Họ thông minh, tài hoa, có năng lực học tập, quan sát nhạy bén, thích ứng trong mọi hoàn cảnh, suy nghĩ nhanh.
Ngành nghề phù hợp: Là những người nhạy cảm, tính tình hay thay đổi, không coi trọng vật chất, không thích cạnh tranh, thích sự yên tĩnh; nhưng họ thiếu khả năng phán đoán, thiên về tình cảm hơn lý trí, khí chất nho nhã, thích hợp làm việc liên quan đến âm nhạc, thơ, nghệ thuật.
Chocopie (theo Sina)
Tên sao | Đẩu phận | Âm dương ngũ hành | Hóa | Chủ | Khả năng | Tứ hóa |
Thiên đồng | Nam đẩu (thứ 4) | Dương thủy | Phúc | Phúc đức | Giải ách, kéo dài tuổi thọ, chế hóa | Bính: Lộc, Đinh: Quyền, Canh: Kị |
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thiên đồng là dương thủy. Là chòm sao thứ tư trong chòm sao Nam Đẩu. Hóa khí là phúc, cung chủ là cung phúc thọ, có khả năng kéo dài tuổi thọ, giải ách, chế hóa. Nếu miếu vượng thì không sợ kiếp sát xâm hại, không sợ nằm đồng cung với các hung tinh, Thiên đồng nằm ở 12 cung đều chủ phúc thọ. (Tuổi trẻ chủ về Phúc, tuổi già chủ về Thọ, phúc nhiều thì Thọ ít, phúc ít thì Thọ nhiều.)
Sao Thiên Đồng có phúc, nên không cần phải nỗ lực cũng có thể hóa giải được hung hại của sáu sát tinh Hỏa Linh Kình Đà Không Kiếp một cách tự nhiên, hơn nữa, lực xung sát của các sát tinh lại có thể tăng cường sức sáng tạo của sao Thiên đồng, nhưng lại dẫn đến cảm giác "có phúc không biết hưởng" hay "số vất vả".
Sao Thiên đồng có khả năng tăng tuổi thọ, bảo vệ sinh mệnh, là sao hưởng phúc, chủ về cuộc đời bình yên, coi trọng hưởng thụ vật chất. Mệnh nam gặp sao này sẽ thiếu ý chí, thiếu quyết tâm, thường chỉ biết nói mà không biết làm, không có nỗ lực phấn đấu vươn lên, không có quyết tâm sáng tạo đổi mới, bởi vậy, sao này hợp với mệnh nữ không hợp với mệnh nam.
Thiên đồng hóa Lộc là tốt, chủ về hưởng thụ, có "khẩu phúc" (được ăn ngon), nhưng tính cách dễ lười biếng uể oải. Sao Thiên đồng hóa Quyền chủ về vất vả, không được hưởng phúc. Nếu đồng thời gặp sao Khoa và Quyền, thì không những không lười biếng, mà còn là người lạc quan, tích cực tiến thủ. Thiên đồng hóa Kị chủ về bận rộn vất vả, kỵ nhất lại gặp hai sao Văn xương và Văn khúc, vì hai sao này đều là sao Giờ, nên tính hung của chúng (kém hài hòa, gặp nhiều bất mãn, hoặc mất vân bằng chức năng cơ thể) sẽ ập đến rất nhanh, khiến cho những phúc đức của Thiên đồng sẽ nhanh chóng tiêu biến.
Sao Thiên Đồng gặp cát tinh sẽ tốt lành, gặp Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Thiên lương, chủ về hiển quý. Hợp với người sinh năm Nhâm Ất, miếu vượng mà trấn mệnh tại cung Tị, Hợi, không hợp với người sinh năm Canh. Đóng tại cung Thìn, Mão không tốt, đóng tại cung Dậu Tuất chủ về oán hận, không nên rơi vào cung mệnh, thân. Gặp bốn sát tinh Kình Đà, Hỏa Tinh trấn tại Tị Hợi là hình và hãm, dễ bị tàn tật cô độc.
Sao Thiên đồng chủ về hài hòa, dễ tính, có phúc, nhưng đến trung niên hoặc về già mới được hưởng phúc, tuổi nhỏ và lúc trẻ phải vất vả nỗ lực. Nếu như sao Thiên đồng chỉ chủ về sống để hưởng phúc, thì thời trẻ không thể tự lập nghiệp, vận thế dễ gặp trở ngại.
Sao Thái âm và Thiên Đồng nếu trấn tại cung mệnh, hoặc cung Điền Trạch tại Tý, là cách cục "Nguyệt sinh thương hải" (trăng mọc trên biển) chủ về sẽ có được chức quan cao quý. Nếu bốn sao Thiên cơ, Thái âm, Thiên đồng, Thiên lương tập hợp lại ba cung Mệnh - Tài - Quan là cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương" có lợi cho sự nghiệp giáo dục, văn hóa, truyền thông đại chúng. Nếu Thiên Đồng và Thái âm trấn mệnh tại Ngọ, lạc hãm lại gặp sát tinh, tạo thành cách "Nguyệt Đồng ngộ sát", chủ về thân hình gầy gò hư nhược, gặp nhiều chuyện không như ý.
Trong thiết kế nhà kiểu cũ, đại đa số đều có ban công rộng, các tòa nhà mới xây hiện đại thường chỉ thiết kế sân thượng ở tầng thuợng, ở các tầng không thiết kế ban công nữa. Kỳ thực phong thủy ban công có ý nghĩa quan trọng. Rốt cuộc ban công có tác dụng phong thủy như thế nào?
Trong phong thủy, ban công đại diện cho Minh đường. Một gia đình nếu có ban công trước phòng khách, có nghĩa là tài vận thuận , phong thủy cực tốt. Tại hướng này nếu gặp cát tinh, như năm 2015 hướng Đông, hướng Đông Bắc là hướng tốt, nếu ban công nằm ở phương vị của những cát tinh này thì đặc biệt chiêu tài.
Vì thế mỗi năm ban công lại có cát hung khác nhau, như ban công ở vị trí chính tài, năm này bạn nên thường xuyên ra ban công hóng gió hoặc ngắm cảnh, thậm chí là phải thường xuyên mở cửa chính hướng ra ban công đế hấp thu tài tinh ở hướng này.
Ví dụ, năm 2015 ban công nằm ở hướng mà Nhị hắc (Đông Nam), Ngũ hoàng (Tây) đến, năm này cửa số và cửa chính hướng ra ban công nên hạn chế mở, đồng thời nên đặt vật phong thủy để hóa giải. Vì thế dùng hay không dùng ban công, cần dựa vào việc lưu niên phi tinh của năm đó ảnh hưởng đến cát hung của ban công hay không để quyết định.
Điểm thứ hai phải lưu ý, đó là ban công đại diện cho Minh đường, từ ban công nhìn ra ngoài, phản ánh cát hung của một ngôi nhà. Những gì nhìn thấy từ ban công, tương đương với hướng tinh trong ngôi nhà.
Nhìn ra ngoài từ ban công, nếu bên trái có nhiều tòa nhà, có nghĩa là hướng Thanh long vượng. Bên phải có nhiều tòa nhà, có nghĩa là hướng Bạch hổ vượng. Nếu các tòa nhà bên phải cao hơn các tòa nhà bên trái, có nghĩa là Bạch hổ mạnh hơn Thanh long, chủ nữ giới ngang ngạnh và nhiều thị phi.
Nếu nhìn thấy không gian trước mặt thấp lõm, có nghĩa là Minh đường sâu rộng, khả nảng tụ tài khá mạnh. Trước mặt có đỉnh của các tòa nhà cao tầng hướng về phía trước, chủ làm việc gì cũng trắc trở, kiếm tiền chỉ có thể nhanh, không thể tụ tài.
Trong phong thủy ban công có hiệu ứng Minh đường, vì thế không được biến ban công thành nơi để các đồ lặt vặt, không được để chổi lau nhà, cũng không nên phơi quần áo ở đây, hơn nữa cũng không được để nước bẩn ứ đọng.
Vì thế ban công là nơi nhận định một gia đình có được Minh đường tốt hay không; nhất định ban công càng rộng càng nhiều tiền của, càng to càng tốt.
Các cảnh tượng nhìn thấy từ ban công quyết định cát hung đặc biệt là đối với bên trái Thanh long, bên phải Bạch hổ, phía trước Chu tước, phía sau Huyền vũ của ngôi nhà.
Nhiều gia đình biến ban công thành nơi để các đồ lặt vặt nhu chổi lau nhà hoặc treo quần áo, như vậy đã phá vỡ hoàn toàn hiệu ứng phong thủy là dùng ban công làm Minh đường. Hơn nữa ban công dễ tích tụ nước bẩn, đặt các đồ lặt vặt vào đấy dễ tạo ra bệnh truyền nhiễm từ muỗi và tạo môi trường cho vi khuẩn sinh sôi nảy nở.
Rốt cuộc nên đế những đồ vật nào ở ban công ?
Nếu không quá kỵ Mộc, đương nhiên tốt nhất là bạn nên đặt chậu cây cảnh có hoa lá tươi tốt, có thế mang lại oxy và không khí trong lành. Nhưng phải lưu ý, khi cây khô héo hoặc có sâu phá hại thì phải lập tức thay, nếu không có thể mang lại kết quả trái ngược.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
LUẬN GIẢI CÁC CHÍNH TINH
Phân loại các chính tinh theo đặc tính chủ yếu
· Đế tinh: chủ tể các sao, Tử Vi
· Phúc tinh: phúc, thọ, Thiên Đồng, Thiên Lương
· Thiện tinh: huynh đệ, phúc thọ, Thiên Cơ
· Quý tinh: quan lộc, Thái Dương
· Phú tinh: của cải, Thái Âm
· Quyền tinh: tài lộc, uy quyền, Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thất Sát
· Tài tinh: tài lộc, Vũ Khúc, Thiên Phủ
· Đào hoa tinh: Liêm Trinh
· Ám tinh: cản trở, Cự Môn
· Hung tinh:
o dâm tinh, Tham Lang
o hao tinh, Phá Quân
o tù tinh, Liêm Trinh
LUẬN GIẢI CÁC PHỤ TINH
Phân loại các phụ tinh theo đặc tính chủ yếu
Các sao tốt
· Quý tinh:
o Lộc Tồn
o Ân Quang
o Thiên Khôi
o Hóa Lộc
o Thiên Quý
o Thiên Việt
o Long Trì
o Tấu Thư
o Phượng Các
o Thiên Mã
· Phú tinh:
o Lộc Tồn
o Hóa Lộc
· Quyền tinh:
o Hóa Quyền
o Quốc Ấn
o Quan Đới
o Tướng Quân
o Phong Cáo
o Đường Phù
· Phúc tinh:
o Ân Quang
o Hóa Khoa
o Thiên Hỷ
o Thiên Quý
o Thiên Giải
o Thiếu Dương
o Thiên Quan
o Địa Giải
o Thiếu Âm
o Thiên Phúc
o Giải Thần
o Hỷ Thần
o Thiên Thọ
o Thiên Đức
o Bác Sỹ
o Tràng Sinh
o Nguyệt Đức
o Đẩu Quân
o Đế Vượng
o Long Đức
o Thiên Y
o Thanh Long
o Phúc Đức
o Thiên Trù
· Văn tinh:
o Thiên Khôi
o Văn Xương
o Phong Cáo
o Thiên Việt
o Văn Khúc
o Quốc Ấn
o Hóa Khoa
o Lưu niên văn tinh
o Thai Phụ
· Đài các tinh:
o Tam Thai
o Bát Tọa
o Lâm Quan
o Hoa Cái
o Đường Phù
· Đào hoa tinh:
o Đào Hoa
o Hồng Loan
Các sao xấu
· Sát tinh:
o Địa Kiếp
o Thiên Không
o Hỏa Tinh
o Địa Không
o Kiếp Sát
o Linh Tinh
o Kình Dương
o Đà La
· Bại tinh:
o Đại Hao
o Thiên Khốc
o Suy
o Tiểu Hao
o Thiên Hư
o Bệnh
o Tang Môn
o Lưu Hà
o Tử
o Bạch Hổ
o Phá Toái
o Mộ
o Thiên La
o Tử Phù
o Tuyệt
o Địa Võng
o Bệnh Phù
o Thiên Thương
o Thiên Sứ
o Quan Phù
o Tuế Phá
· Ám tinh:
o Hóa Kỵ
o Thiên Riêu
o Thiên Thương
o Phục Binh
o Thiên Sứ
o Quan Phù
o Cô Thần
o Quả Tú
o Quan Phủ
· Dâm tinh:
o Thiên Riêu
o Hoa Cái
o Mộ
o Mộc Dục
o Thai
· Hình tinh:
o Thiên Hình
o Quan Phù
o Thái Tuế
Các sao không tốt, không xấu
· Tả Phù
· Dưỡng
· Triệt
· Hữu Bật
· Tuần
Nguồn: www.thuvienkhoahoc.com
Tả ao Phong thủy nhất trên đời
Họa phúc cầm cân định chẳng sai.
Mắt Thánh trồng xuyên ba thước đất,
Tay Thần xoay chuyển bốn phương Trời.
Chân đi Long Hổ luồn qua gót,
Miệng gọi Trâu Dê ứng trả lời.
Ai muốn cầu sao cho được vậy
Ấy ai Địa lý được như ngài.
Nhà Phong Thủy nổi tiếng của Việt nam Tả Ao tên thật là NGUYỄN ĐỨC HUYỀN, người làng Tả Ao thuộc tỉnh Hà tĩnh. Cụ sống vào đời Chúa Trịnh , gia đình quá nghèo, cha lại mất sớm, mẹ bị mù nên phải tìm đủ mọi việc để giúp đỡ mẹ già. Lúc bấy giờ có một ông thầy thuốc người Tầu nổi tiếng về khoa chữa mắt, nên cụ tìm đến xin được hầu hạ thầy để thầy ra tay tế độ chữa mắt cho mẹ mình. Ông thày Tầu thấy cụ siêng năng, chăm chỉ lại thông minh nên đã truyền cho cụ một số phương cách chữa mắt. Nhờ vậy mà cụ chữa được mắt cho mẹ. Khi nghe tin ông thày Tầu sắp về nước, cụ vội vã đến xin phép thầy đi theo hầu hạ và học hỏi thêm về khoa chữa mắt. Ông Thầy bằng lòng. Thế là cụ bôn ba theo thầy Tàu và được truyền dạy tất cả những gì mà ông thày Tầu có được về nghề chữa mắt, nhất là khi ông thày Tầu đã quá già.Từ đó cụ tự chữa cho nhiều người lành bệnh mắt, danh cụ vang khắp vùng.Có một thày Địa lý nổi danh trong vùng bị đau mắt, nghe danh cụ , liền cho người dẫn đến gặp cụ. Chỉ trong một thời gian ngắn ,cụ đã chữa khỏi bệnh mắt cho ông thầy Địa lý. Thầy Địa lý mừng quá, đem vàng hậu tạ, nhưng cụ không nhận mà chỉ xin được làm đệ tử môn Địa lý Phong thủy mà thôi. Thấy người có tài đức lại có chí ham học hỏi, nên thầy Địa lý không ngần ngại đồng ý truyền hết những gì về Phong thủy mà mình có được. Chẳng bao lâu, cụ đã thành thạo tất cả những gì mà vị thày Địa lý đã truyền cho mình. Tương truyền khi học xong nghề thầy, ân sư người Tầu thử tài môn đệ trước khi "tốt nghiệp" : ông thầy chôn 100 đồng tiền xuống mô hình bãi cát rồi bắt cụ Tả Ao cắm kim vào đúng lỗ mỗi đồng. Cụ Tả Ao châm đúng giữa 99 đồng, chỉ có hơi lệch 1 đồng. Thầy Tầu than: "Thôi nghề của ta từ nay truyền sang nước Nam rồi!", ông thầy Địa lý công nhận cụ là người sáng trí, tài cao, đức trọng, nên không tiếc rẻ công sức mình truyền dạy cho. Khi dời nước Tầu về nước, cụ đã chữa mắt cho rất nhiều người, ngoài ra cụ còn đi tìm những vùng đất tốt và nghiên cứu các Long mạch, các Địa linh ở quanh vùng. Cụ không vì tiền bạc, danh vọng mà đi tìm các cuộc đất tốt cho những kẻ không xứng đáng được hưởng. Dù cụ giới hạn về khoa địa lý, nhưng nhiều người đã tìm đến cụ để nhờ cụ giúp tìm đất tốt cho nhà cửa, mồ mả, phương hướng thuận lợi cho họ. Dân chúng thời bấy giờ đã gọi cụ là cụ Tả ao ( Làng Tả ao ), danh tiếng của cụ vang đi khắp nơi và người đương thời truyền tụng cho nhau nhiều giai thoại của cụ Tả ao ngay còn lúc cụ còn sống.
Một trong những giai thoại nổi tiếng nhất của cụ Tả Ao là chữa thế đất cho làng Hành Thiện ở Nam Định: cụ đi tới làng Hành Thiện thấy đất làng hình con cá chép bơi ra biển, phù sa mỗi ngày một bồi thêm đất làm làng hưng phát, chỉ hiềm con cá chép không có mắt nên không phát khoa danh. Dân làng nghe cụ nói bèn hậu đãi trà rượu và khẩn khoản xin cụ đặt lại hướng làng. Cụ Tả Ao thấy dân làng tử tế liền chỉ cho làng đào một cái giếng lớn làm mắt cho con cá chép, từ đấy dân làng bắt đầu phát khoa danh, nhất là họ Đặng.
Cụ Tả Ao đi xem đất suốt từ Nghệ Tĩnh ra các làng mạc ở khắp miền Bắc và trong gia phả của nhiều gia đình còn ghi lại những công trình địa lý phong thủy của cụ. Nhiều chuyện khôi hài do quần chúng thêm thắt như chuyện cụ Tả Ao thấy dân làng kia rất xấu tính mà lại xin cụ để kiểu đất nào có thể "đè đầu thiên hạ", cụ liền tìm cho làng một kiểu đất khiến dân làng dần dần theo nghề "húi tóc" có thể "đè đầu vít thiên hạ" đúng như ý nguyện!
Tương truyền cụ đang đi chơi ngoài bãi biển thấy sóng gió nổi lên ầm ầm biết là hàm rồng 500 năm mới há mồm một lần ở biển Đông, liền chạy về nhà mang cốt mẹ ra định ném xuống hàm rồng, nhưng vì thương tiếc chần chờ nên hàm rồng đóng lại, biển khép êm sóng lặng như trước!
Lúc sắp chết, cụ dặn con cháu khiêng mình ra miếng đất đã định trước là đất địa tiên "nhất khuyển trục quần dương" (một con chó đuổi đàn dê), nhưng không kịp đành dừng lại nửa đường phân kim lựa cho chính mình một miếng đất phúc thần đời đời ăn hương hoa mà thôi.
Tương truyền ông để lại 2 bộ sách về địa lý:
Địa Lý Tả Ao (Địa Đạo Diễn Ca) 120 câu
Dã Đàm Tả Ao Tầm Long Gia Truyền
Sau này có nhiều dị bản chép lại và có nhiều tên khác:
Địa lý Tả Ao di thý chân chính pháp
Tả Ao chân truyền di thý
Tả Ao chân truyền tập
Tả Ao tiên sinh bí truyền gia bảo tàng
Tả Ao tiên sinh địa lý
Tả Ao tiên sinh thý truyền bí mật cách cục
Bản quốc Tả Ao tiên sinh địa lý lập thành ca
Nếu như nữ tuổi Mão, tuổi Thân và tuổi Mùi là những con giáp dễ tìm thấy tình yêu đích thực của mình thì với người tuổi Thìn, chuyện thắng thua, thành bại lại quan trọng như chính sinh mệnh của họ vậy. Tại sao lại nói như vậy? bởi lẽ đây là những con giáp có tính hiếu thắng. Chúng ta cùng tìm hiểu xem những con giáp nào có tính hiếu thắng trong bài viết dưới đây nhé!
Nội dung
Người tuổi Thìn không muốn người khác biết được điểm yếu của mình vì sợ sẽ bị kiểm soát hoặc thua kém. Họ luôn chủ động tìm cách thể hiện điểm mạnh của bản thân, đồng thời coi đó như thế mạnh bất biến, khiến người khác phải nể phục. Bởi vậy, với họ, chuyện thắng thua, thành bại vô cùng quan trọng, như chính sinh mệnh của mình vậy.
Con giáp này có sở thích vô cùng đặc biệt là chạy đua với người khác để chứng tỏ bản thân và giành được địa vị cao hơn mọi người. Trong suy nghĩ của họ lúc nào cũng tồn tại sự so bì cao thấp. Bao giờ họ cũng phải là người giành chiến thắng chung cuộc mới cảm thấy thực sự hài lòng.
Người tuổi Mão hay tự trách và không hài lòng với những gì mình đang có. Thậm chí, khi đứng trước gương, họ không muốn nhận hình phản chiếu trong đó là bản thân, vì cho rằng mình vẫn còn kém cỏi, chưa làm nên điều gì đáng để tự hào. Bởi chính suy nghĩ quẩn quanh, bí bách đó khiến con giáp này luôn nỗ lực không mệt mỏi, thích ghanh đua “ngầm” với người khác để có được kết quả mơ ước.
Với xuất phát điểm là mong muốn xích gần khoảng cách với mọi hơn nữa và mong đóng vai trò quan trọng trong tập thể, nên người tuổi Sửu đã luôn cố gắng hết mình để hoàn thiện bản thân. Song do tính hiếu thắng nên những suy nghĩ tưởng chừng đơn giản đã biến thành tham vọng của người tuổi Sửu.
Suốt cuộc đời, người tuổi Dần luôn mong muốn có được những điều tốt đẹp, nhưng vì tỷ lệ giữa năng lực và tham vọng quá chênh lệch nên thành công đến với họ không mấy dễ dàng. Với họ, hiếu thắng cũng là cách giúp bản thân vươn lên, bởi có sự ganh đua sẽ nảy sinh sự phát triển và thành công. Chỉ có điều, người tuổi này chỉ thích hiếu thắng nửa vời, giữa chừng mà khó khăn hoặc nhàm chán là họ sẽ không ngại ngần từ bỏ.
Anh chàng tuổi Thân
Đặc điểm dễ nhận thấy ở những anh chàng tuổi Thân là nhiệt tình, tự tin, có tinh thần trách nhiệm với công việc. Trong cuộc sống, họ lãng mạn, không câu nệ tiểu tiết và vô cùng hào phóng.
![]() |
Trong mắt họ, tiền bạc vật chất chỉ là vật ngoài thân, tình cảm con người mới chính là yếu tố gắn kết bền vững. Với bạn bè, chàng tuổi Thân không bao giờ tính toán thiệt hơn huống chi là nửa kia của mình. Họ sẵn sàng rút hầu bao để chiều theo sở thích của người yêu mà không một lời ca thán.
Anh chàng tuổi Mùi
Những chàng trai tuổi Mùi điềm tính, khoan dung và vô cùng thủy chung trong tình yêu. Họ sẵn sàng hy sinh cả bản thân chứ không riêng về tiền bạc cho ý chung nhân của đời mình.
![]() |
Người tuổi Mùi có thói quen tiêu tiền phóng khoáng đồng thời cũng cật lực kiếm tiền để không bao giờ rơi vào tình trạng “viêm màng túi”. Dù đối phương có đòi hỏi vấn đề vật chất đến đâu, chàng tuổi Mùi vẫn vui vẻ đáp ứng vô điều kiện.
Anh chàng tuổi Dậu
Tính cách con trai tuổi Dậu thẳng thắn, quyết đoán và rất coi trọng tiền tài, danh vọng. Họ biết cách tiêu tiền đúng mục đích và không bao giờ “vung tay quá trán”. Tuy nhiên, khi đã rơi vào lưới tình, thói quen của họ biến mất lúc nào không hay.
![]() |
Với người yêu, anh chàng tuổi Dậu sẵn sàng đánh đổi cả sự nghiệp mà bản thân đã tốn bao công sức gây dựng. Trong mắt họ, chỉ cần đối phương cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc là được, bản thân họ vất vả ngang dọc ra sao cũng chỉ là chuyện nhỏ như con thỏ.
Mr.Bull (theo Dyxz)
Vấn đề xem hạn, đại hạn, tiểu hạn để biết những sự việc biến đổi trong thời gian tới là điều rất nhiều người học tử vi mong mỏi học tập và xem cho thành thục. Xem hạn không phải quá khó nhưng cũng không phải dễ. Để luận đoán hạn và kết luận chính xác, người xem cần phải suy luận thực sự kỹ càng và tỉ mỉ.
Trong bài đầu tiên hướng dẫn về cách xem đại hạn và tiểu hạn cơ bản, chắc chắn nhiều người đã xác định được phương pháp xem hạn một cách tương đối tổng quan. Ở bài này, chúng tôi xin gửi tới quý vị và các bạn cách xem hạn chi tiết hơn. Hi vọng mọi người ngày càng tiến bộ, xem bách phát bách trúng.
1.Lưu ý chung về Hạn
Khi xem xét Hạn ta luôn lấy các cung số của bản thân làm gốc (Mệnh Thân Tài Quan Tật). Cho dù ở bất cứ Đại Vận, Tiểu Vận,… nào Cung số nào thì các tính chất của Mệnh Thân Tài Quan Tật không thay đổi. Có chăng họ chỉ thay đổi cách nhìn nhận mà thôi.
Đại Vận là hoàn cảnh tác động lên ta, ta phải đối mặt trong giai đoạn 10 năm của Đại Vận. Trong 10 năm đó bản thân ta vẫn vậy, hoàn cảnh đó tác động tới ta ra sao mà thôi từ đó vẫn cái nghiệp đó, cái nghề đó, cái tính cách đó hay tai Ách đó ta thế nào với hoàn cảnh đó.
Tiểu Vận là hoàn cảnh ta phải đôi mặt trong một năm ta đi qua. Xấu tốt tùy thuộc vào cách cục của Phi tinh lưu động tại mỗi năm.
Tương tự với Nguyệt vận và thời vận,… cũng hiểu như vậy.
Khi xem xét về Hạn (Đại Hạn hay Tiểu Hạn hay Nguyệt hạn,…) thì cung nhập Hạn là cung số tại giai đoạn đó ta phải bận tâm nhiều, chịu sự chi phối nhiều nhưng không phải chỉ xem xét ở cung đó thôi. Ta phải xem xét được toàn bộ 12 cung số trên lá số Tử Vi để quyết đoán.
Có khi Tiểu Hạn xấu nhưng Mệnh Hạn tốt có khi ta vẫn toại ý thì ta đoán khác và ngược lại.
Một năm bất kỳ ta hoàn toàn tìm được các cung xấu tốt ra sao.
Để có thể xem xét được Hạn cần phân định được các nhóm sao cơ bản trong Tử Vi để xem xét. Nguyên tắc bao giờ cũng cần có 2 bộ sao cùng đặc tính gặp nhau mới xảy ra sự kiện đó.
2.Hạn và quy tắc định Hạn
Đại Hạn đầu tiên đóng tại Mệnh;
Không dùng lưu niên Đại Hạn. Chỉ dùng Đại Hạn và Tiểu Hạn;
Nguyệt hạn, Nhật hạn áp dụng như Tiểu Hạn. Tất cả đều được xem xét tại gốc Tiểu Hạn.
Không quan tâm đến hạn Nhi đồng, như 1 tuổi coi ở đâu, 3 tuổi coi ở đâu,… chỉ quan tâm đến Tiểu Hạn. Và hãy chờ nhập vào số cục rồi hãy xem. Dễ hiểu là Hỏa Lục Cục hãy chờ đến 6 tuổi ta hãy xem.
● Đại Hạn: là thời gian 10 năm (thập niên), được tính dựa theo Cục và tuổi Âm, Dương. Mỗi thập niên được ghi vào một cung, bắt đầu từ cung Mệnh trở đi trong đó:
Dương Nam, Âm Nữ thì ghi theo chiều Thuận, Âm Nam, Dương Nữ thì ghi theo chiều Nghịch.
Thủy Nhị Cục bắt đầu bằng 2, rồi 12, 22, 32… Mộc Tam Cục bắt đầu bằng số 3, rồi 13, 23, 33… Kim Tứ Cục bắt đầu bằng số 4, rồi 14, 24, 34… Thổ Ngũ Cục bắt đầu bằng số 5, rồi 15, 25, 35… Hỏa Lục Cục bắt đầu bằng số 6, rồi 16, 26, 36…
Phương pháp xác định Cục sẽ được trình bày ở Phần tiếp theo của Tài liệu.
Thí dụ: Dương nam, Mộc Tam Cục, bắt đầu ghi số 3 ở cung Mệnh, rồi ghi số 13 ở cung Phụ Mẫu, ghi 23 vào cung Phúc Đức,…
● Tiểu Hạn: là thời gian 1 năm, được ghi theo vòng chu vi Địa bàn, mỗi cung ghi một tên. Nếu là Trai thì ghi theo chiều Thuận. Gái thì ghi theo chiều Nghịch. Cách xác định gốc Tiểu Vận được tổng hợp trong “Bảng 3-2” sau đây:
Năm sinh
Cung khởi lưu niên
Dần, Ngọ, Tuất
Thìn
Thân, Tý, Thìn
Tuất
Tỵ, Dậu, Sửu
Mùi
Hợi, Mão, Mùi
Sửu
Bảng 3-2: bảng định khởi Lưu niện Tiểu Vận
Ví dụ: 3 tuổi Hợi, Mão hay Mùi thì ghi chữ Hợi, chữa mão hay chữ Mùi ở
cung Sửu.
● Nguyệt Hạn: là thời gian 1 tháng;
● Nhật Hạn: là thời gian trong ngày;
● Thời Hạn: là các giờ trong 1 ngày.
3.Những lý luận về Đại Hạn và phương pháp xem Đại Hạn
Như vậy ta cần hiểu Đại Vận là hoản cảnh sống mới tác động lên ta (Mệnh Thân Tật,..) là giai đoạn 10 năm mà ta phải đối mặt. Xấu tốt tùy thuộc vào Đại Hạn có các Sao, Bộ sao có phù hợp với các cách cục ở Mệnh Thân hay không.
Khi ta hiểu Đại Hạn là hoàn cảnh ta tới đó; vi như người sinh ra tại Hà Nội (Mệnh họ) nhưng lại có những giai đoạn vào Sài Gòn làm việc, có những giai đoạn lại vào Đà Nẵng làm việc,… thì coi như Sài Gòn hay Đà Nẵng là một hoàn cảnh mới, môi trường mới giống như Đại Hạn. Khi ta tới đó Mệnh Thân Tật ta có gì thì ta vẫn vậy. Không thể hiểu khi đến đó ta lại là người có tính cách khác, ta vẫn phải là ta, đi đâu cũng là ta, tới Đại Vận nào cũng là ta, ta đến Sài Gòn hay đến Đà Nẵng thì kiến thức, tri thức, nghiệp vụ, tình cảm, tính cách trước ta thế nào giờ ta vẫn vậy có chăng là trước ta đang thiếu gì thì đến đây có gì, trước ta đang sợ gì thì đến đây có gì mà thôi. Giống như ta đang ở Hà Nội, được đi đường tốt nhưng lại phải đi tới vùng sâu vũng xa mà đường xá khó đi, như vậy là hoàn cảnh khắc nghiệt,….
Điều cần thiết nhất vẫn là nhớ, hiểu được lý tính các sao, các bộ sao quan trong, các sao cần gặp và kỵ gặp với mỗi sao, bộ sao.
Cần phân định các nhóm sao trong Tử Vi để quyết đoán.
Vi dụ 1; một người có thiên hướng chuyển động nhưng cả một thời gian dài, có khi từ bé tới 30 tuổi họ cũng không đi đâu quá xa cả. Nhưng đến 1 Đại Vận X nào đó có ít nhất một bộ sao cùng tính chất chuyển động. Khi đó họ sẽ đi.
Vi dụ 2; Một người có Bộ CƠ NGUYỆT ĐỒNG LƯƠNG hay SÁT PHÁ THAM đáo hạn HỎA LINH rất mệt mỏi nếu có BỆNH PHÙ hay DIÊU Y ở Mệnh Thân, Tật hay tại gốc Đại Hạn mà Mệnh SÁT PHÁ THAM rất dễ vào bệnh viện,….
Ví dụ 3: Người có TỬ VI tại Mệnh nếu không có TẢ HỮU thì làm vua cũng như không vì không có quần thần nhưng khi đáo hạn có TẢ HỮU tất có quần thần,…
4.Những lý luận về Tiểu Hạn, Nguyệt Hạn, Thời Hạn,… và phương pháp xem
Để xem xét Tiểu Hạn, Nguyệt Hạn, Thời Hạn người xem Hạn cần lưu được các sao lưu động.
Trong pham vi của phương pháp Tử Vi này chúng ta sử dụng khoảng 46 sao lưu động cho phần Tiểu Hạn. Khi xem xét đến Nguyệt Hạn ta lưu thêm các sao Tháng (5 sao), xem xét đến Nhật Hạn Lưu thêm các sao Ngày và các sao an theo Ngày và Tháng (2 sao) xem đến thời hạn lưu thêm các sao Giờ và các sao an theo Ngày và Giờ
(10 sao).
Sử dụng Can Chi của Năm, Tháng, Ngày Giờ để tiến hành Lưu sao
Sau khi an toàn bộ các sao lưu động của Năm hoặc Tháng hoặc Ngày hoặc Giờ ta coi bản đồ các sao này như 1 lá số thứ 2. Mang lá số cố định ghép với lá số Phi tinh lưu động để xem xét. Quan tâm tới tính kết bộ giữa các sao để quyết đoán, cần phân định các nhóm sao trong Tử Vi để quyết đoán. Đặc biệt là các sao và nhóm sao Kỵ nhau. Quan tâm tới Tứ Hóa của năm, bộ Tam Minh và ngôi sao PHƯỢNG CÁC để quyết đoán ảnh hưởng tốt đẹp hay kết quả của 1 năm lên các cung số.
a. Tiểu Hạn
Được hiểu như ý nghĩa của Đại Hạn, tuy nhiên phương pháp luận đoán lại chủ yếu dựa vào Lưu Phi Tinh của năm nghiên cứu, xem xét.
Liên tưởng tới các phương trình phản ứng Hóa học hay sử dụng chất xúc tác để gây phản ứng. Để dễ hiểu ta cũng coi các sao Lưu động như các chất xúc tác để đánh thức các sao cố định. Ví dụ: Một cung có TRIỆT cố định, đến năm có Lưu TRIỆT ở cung đó được xem là xấu, khi đó ý nghĩa của TRIỆT được phát tác. Một người muốn thay đổi cũng cần có các sao, bộ sao lưu động hội về cung cần thay đổi để có sự thay đổi. Một cung Điền Trach có HÓA LỘC cố định đến năm có Lưu HÓA LỘC tại đó tất sẽ sinh ra LỘC,… Cung có Tai, Ách, Họa, Nạn cần các sao để kích động cho Tai, Ách, Họa, Nạn tác họa. Ví như năm nào có KHÔI VIỆT đặc biệt là VIỆT lưu vào cung Tật rất vất vả với Tật Ách,… muốn có sự khơi sự (lập công tý hay làm một việc gì đó) cần có sự kích hoạt để ngôi sao có ý nghĩa KHỞI SỰ được đánh thức,…. Và mọi vấn đề khác cũng vậy cả mà thôi.
Như vậy để xem Tiểu Hạn, cần có các công thức luận đoán Hạn như: Hạn tình cảm (yêu, phản, chia tay, lập gia đạo,….), Hạn Tang chế, Hạn Chuyển động, Hạn nhà đất, Hạn công việc, Hạn sinh con, Bệnh tật, Kiện cáo, Bắt bớ, Tai nạn,… để xem xét luận đoán.
Về cơ bản cung số nào có bộ Tam Minh ta tìm thấy vui mừng ở cung số đó, cung số nào có LỘC ta tìm thấy tiền bạc tại cung đó, cung số nào có QUYỀN hay KHOA tức ở đó có dấu hiệu của hai sao này, cung số nào có BỆNH PHÙ tất liên quan đến ốm đau, bệnh tật, lo lắng suy nhược… Cung số nào có PHƯỢNG CÁC thì cung số đó được xem là hay. Ngôi sao PHƯỢNG CÁC có ảnh hưởng rất mạnh tới tính chất tốt đẹp của bộ TANG HƯ KHÁCH. PHƯỢNG CÁC làm cho 1 năm tưởng xấu lại hóa hay khi đi vơi bộ TANG HƯ KHÁCH,…. Đặc biệt cần nhớ một số cách cục đặc biệt để luận đoán vd: bộ THÂT SÁT BÁCH HỔ, ĐÀO HOA TANG MÔN, HỒNG LOAN BẠCH HỔ,… để quyết đoán nhanh về tính chất phức tạp không thuận lợi tại cung số có bộ sao này lưu vào.
b. Nguyệt Hạn và Thời Hạn,…
Không xem xét như các phương pháp khác, TVUD không xem xét theo phép an Tháng, Ngày, Giờ sau đó chạy quanh 12 Cung số.
Tất cả các Tháng, ngày, giờ nằm chung trong 1 cung Tiểu Hạn quan trong ta xem thế nào, dùng cái gì để xem mà thôi.
Vẫn là Phi Tinh lưu động, ứng với các Tháng, Ngày, Giờ ta luôn có cả Can Chi. Cũng giống như xem Tiểu Hạn ứng với Can Chi của Tháng, Ngày, Giờ nào ta dùng Phi Tinh tương ứng.
Khi xem xét đến Tháng, Ngày, giờ ngoài tính chất kết bộ của các sao thì các ngôi sao đơn lẻ rất quan trọng. Dùng bộ KHÔI VIỆT để kích hoạt ý nghĩa các sao và kết hợp với tính chất kết bè, bộ để luận đoán.
VD: Ngày X tại lá số của A tại vị trí THIÊN ĐỒNG (nằm bất cứ ở đâu) thấy lưu VIỆT của ngày thì ngày hôm đó A dễ có việc đi làm phúc hay được ngươi khác làm phúc,… Cần hiểu các ý nghĩa của sao để xem xét
5.Mệnh Hạn
Bạn đọc thường thấy người viết hay nhắc đến từ Mệnh Hạn nhưng có lẽ đa phần các bạn không quan tâm đến. Và chúng ta thường quan tâm đến Tiểu Hạn hay Đại Hạn mà thôi.
Mệnh hạn nghe có vẻ mơ hồ và khó hiểu. Thật ra cũng dễ hiểu và đến lúc các bạn cần hiểu. Vì Mệnh Hạn cũng là cái Hạn tại Mệnh đừng hiểu lầm từ này ghép đôi của Mệnh và Hạn và Mệnh hạn là từ riêng dung đẻ chỉ sự tốt xấu tai cung Mệnh của năm ấy.
Ví dụ như thế này bạn dễ hiểu. một người có chính tinh tọa thủ tại Mệnh bất kể nó hợp Mệnh hay là không. Ví dụ THÁI DƯƠNGcho là sáng sủa tốt đẹp nhưng không phải bao giờ họ cũng đắc ý và thành công, cũng không phải là do họ gặp Tiểu Hạn xấu hay Đại Hạn xấu. Mà còn do cái năm ấy không hợp với họ.
Ví dụ, người THÁI DƯƠNG rất kỵ năm Giáp, tất nhiên tháng Giáp ngày Giáp đều kỵ vì chữ Giáp, hóa khí THÁI DƯƠNG là HÓA KỴ. Từ đó người THÁI DƯƠNG dễ bị người ta ghét, nghi kỵ (nghi ngờ) rồi cấm đoán. Tự nhiên người THÁI DƯƠNG năm ấy vụng về hơn, hoặc cũng chẳng vụng về nhưng tự nhiên dưới con mắt nhiều người dễ bị ghét bỏ hơn, bình thường họ vẫn thế. Nhưng hôm nay họ dễ bị người ta chỉ trích, dễ ghét chưa kìa hay tự đắc, hoặc thấy kênh kiệu, hoặc là khoe khoang… và họ tìm ra được cái để chỉ trích nhưng năm trước đây, ngày trước đây họ lại không chỉ trích.
Lại ví dụ tiếp, Mệnh DƯƠNG LƯƠNG tại Mão vào năm Giáp ngoài lưu KỴ còn thêm lưu KÌNH, cái đố kỵ đó càng thêm mạnh mẽ. Hoặc bộ KỴ ĐÀ nếu như Mệnh ÂM DƯƠNG tại Sửu. Hoặc Mệnh có bộ CỰ NHẬT tại Tuất như trường hợp THÁI DƯƠNG tại Tuất lưu Hóa Kỵ tại đó còn làm cho cả CỰ MÔN bị mất tác dụng.
Ta hãy hình dung một người tự nhiên năm ấy bị xấu đi do Mệnh hạn, di chuyển trong Đại Hạn tương đối xấu và Tiểu Hạn cũng tương đối xấu. Tất mọi việc càng dễ thêm xấu. Với người THÁI DƯƠNG họ kỵ năm Giáp nhưng lại hợp năm Canh (do Canh và Giáp xung nhau, chữ Canh THÁI DƯƠNG hóa khí là HÓA LỘC) và năm TÂN hóa khí thành quyền. Nếu Đại Hạn hay Tiểu Hạn tương đối xấu nhưng gặp năm Mệnh hạn tốt đẹp cũng trở thành dễ chịu.
Cũng lý luận như thế người ÂM DƯƠNG chịu liền 2 năm Giáp Ất bị lưu KỴ. Trừ các trường hợp kỳ tài không nói làm gì nhưng các trường hợp cung Mệnh vốn đã không tốt đẹp bị lưu Kỵ thêm Kình hay Đà rất xấu cho các trường hợp NHẬT NGUYỆT. Tât nhiên người NHẬT NGUYỆT hợp các năm Mậu Đinh Canh Tân.
Theo những lý luận đã có, người có LIÊM TRINH rất kỵ các năm Bính, THAM LANG kỵ năm Quý. Nếu chỉ có KỴ thôi đã phiền lại có thêm ĐÀ, KÌNH TRIỆT càng phiền nhiều hơn. Những chi tiết này làm cho vận hạn đã xấu lại càng xấu hơn.
Chỉ có các sao không có hóa khí như bộ PHỦ TƯỚNG… là ít chịu hóa khí tác động, vì bộ này chủ yếu là đa phần được người ta thương. Nó bi xấu là do các chính tinh khác tác động. Và bị xấu do hàng Can Chi sẽ đề cập ở dưới.
Trên là phần lưu hóa khí các năm. Phần các sao trong bộ Can Chi cũng thế. Các sao CỰ MÔN, PHÁ QUÂN tọa thủ Mệnh không thích lưu LỘC TỒN hội họp tại Mệnh mà nó chỉ thích sao HAO. Bộ PHỦ TƯỚNG không hợp với KÌNH TRIỆT. THIÊN CƠ rất kỵ TANG MÔN. TỬ VI rất kỵ THIÊN HƯ TUẾ PHÁ, nhất là Hư TRIỆT… Nếu có những sao kỵ tất nhiên cũng có những sao đem lại vui mừng như ĐÀO HỒNG HỈ, Song Hỉ và Tứ Linh che chở Mệnh làm cho cung Mệnh có giá trị hơn. Như thế có nghĩa là Mệnh hạn năm này có thể tốt hay xấu, đối đầu với Đại, Tiểu Hạn.
Ngoài ra chú ý các bộ Can Chi tại cung Tật Ách, lưu tại cung Mệnh thường đem lại những tai ách. Một sao thuộc hàng Can thiên về việc làm và 1 sao thuộc hàng Chi thiên về trạng thái. Kể cả các trường hợp lưu tại Đại Hạn, Tiểu Hạn cũng là xấu vì nó đại diện cho tai ách.
Cũng thế các bộ Can Chi tại các cung, lưu động tại Mệnh hay đai Tiểu Hạn tất nhiên có việc liên quan đến cung đó. Ví dụ bộ Can Chi của cung huynh đệ lưu tại Mệnh hay đại, Tiểu Hạn tất nhiên có vấn đề liên quan, tốt xấu còn tùy thuộc vào hung cát tinh để luận đoán.
6.Cách tính Can Chi của tháng
Dựa trên cơ sở Can của năm theo lịch kiến dần (nguyên tắc ngũ dần)
Trước hết tháng giêng là tháng Dần, tháng Hai là tháng Mão…, mỗi tháng đi với một Chi nhất định
Muốn biết Can của tháng thì áp dụng phương pháp sau gọi là phương pháp Ngũ Dần:
Năm Giáp và Kỷ tháng giêng là tháng Bính Dần
Năm Ất và Canh tháng giêng là tháng Mậu Dần
Năm Bính và Tân tháng giêng là tháng Canh Dần
Năm Đinh và Nhâm tháng giêng là tháng Nhâm Dần
Năm Mậu và Quí tháng giêng là tháng Giáp Dần
7.Cách tính Can Chi của ngày
Dựa trên Can Chi của tháng. Theo nguyên tắc tháng giêng là tháng Giáp Tí thì ngày mùng một sẽ là ngày Giáp
Tí, mùng hai sẽ là Ất Sửu…Vì số ngày trong năm không chia chẵn cho 60, nên ta không thể có qui tắc tính Can Chi của ngày dựa trên Can Chi tháng được mà phải
tra lịch.
8.Cách tính Can Chi của giờ
Căn cứ vào Can Chi của ngày theo nguyên tắc ngũ Tý
Ngày Giáp và Kỷ giờ Tý là Giáp Tý;
Ngày Ất và Canh giờ Tý là Bính Tý;
Ngày Bính và Tan giờ Tý là Mậu Tý;
Ngày Đinh và Nhâm giờ Tý là Canh Tý;
Ngày Mậu và Qui giờ Tí là Nhâm Tý.
1. Nhà khoa học kể lại câu chuyện tâm linh
(Đọc trong Sự Sống Sau Cái Chết: Gánh Nặng Chứng Minh; Deepak Chopra; tiến sĩ y học; được tạp chí Time bình chọn là một trong 100 anh hùng và biểu tượng của thế kỉ XX. Dịch giả: Trần Quang Hưng; NXB Văn Hoá Sài Gòn, 2010).
(Ông nói: Trường ý thức là cơ sở của mọi hiện tượng trong tự nhiên bởi vì khe hở tồn tại giữa mọi electron, mọi ý nghĩ, mọi khoảnh khắc thời gian. Khe hở là điểm khống chế, sự tĩnh lặng ở tâm của sáng tạo, nơi vũ trụ liên kết mọi sự kiện).
Câu chuyện, đã trở thành nổi tiếng trong tài liệu cận tử, thuộc về một nghệ sĩ tên là Mellen-Thomas Benedict chết vì u não năm 1982. Việc ông chết một tiếng rưỡi rồi hồi tỉnh thật không thể tin được đối với các tiêu chuẩn phương Tây. Trong Phật giáo Tây Tạng ông có thể được coi là một delog, và các kinh nghiệm của Benedict chi tiết như mọi câu chuyện của các delog khác. Tôi sẽ kể chi tiết câu chuyện này vì cuộc du hành của Benedict thực sự đã cung cấp cả một bách khoa toàn thư về cõi sau sự sống.
Ông phát hiện ra mình ở bên ngoài thể xác, nhận biết rằng thi thể vẫn nằm trên giường. Lĩnh hội mở rộng-ông có thể nhìn bên trên, xung quanh và bên dưới ngôi nhà của mình-và ông cảm thấy mình bị bao bọc trong bóng tối, nhưng chẳng bao lâu một ánh sáng chói lòa trở nên rõ rệt. Ông di chuyển về hướng ánh sáng, biết rằng nếu rơi vào đó ông sẽ chết.
Tại điểm này, Benedict đã ra một quyết định kinh ngạc. Ông đề nghị kinh nghiệm dừng lại và nó dừng lại. Việc ông tìm cách khống chế những gì xảy ra sau cái chết có thể không làm một rishi ngạc nhiên, nhưng nó gần như duy nhất trong tài liệu cận tử.
Benedict ra lệnh dừng lại như vậy để ông có thể nói chuyện với ánh sáng. Trong khi ông hành động như vậy, ánh sáng thay đổi hình dạng liên tục, khi thì tạo nên hình Chúa Trời hay đức Phật, khi thì chuyển thành các hình thù phức tạp như đàn tràng mandala hoặc các hình ảnh nguyên bản và các kí hiệu như ông muốn.
Ánh sáng nói với ông (hay chính xác hơn là truyền thông tin vào tâm trí ông) rằng người chết được cho “một vòng liên hệ ngược” của các hình ảnh tương xứng với hệ thống tín ngưỡng riêng họ: tín đồ Thiên Chúa giáo nhìn thấy các hình ảnh Thiên Chúa giáo, Phật tử nhìn thấy các hình ảnh Phật giáo… Là một cái vòng, người chết có thể đi vào bên trong kinh nghiệm và tạo hình nó, như Benedict đã làm. (Ánh sáng giải thích rằng ông là một ca hiếm; đa số người ta đi tiếp mà không hỏi gì cả).
Việc Benedict nhìn thấy nhiều hình ảnh hoán đổi nhau có thể liên quan tới niềm say mê các tôn giáo và truyền thống tâm linh của thế giới sau khi ông bị chẩn đoán mắc ung thư. Sau đó Benedict nhận ra cái ông nhìn thấy thực ra là ma trận Bản Ngã Tối Cao, mà ông mô tả là “mandala của linh hồn con người”; chính là hình mẫu vũ trụ của ý thức.
Ông nhận ra mỗi người có Bản Ngã Tối Cao là siêu linh mà cũng là kinh mạch trở về nguồn. Những thuật ngữ này, gần như không thay đổi, nghe giống Vedanta thuần túy. Điều này gây nên sự ngờ vực, bởi vì Benedict có thể bị các kinh sách Ấn Độ ông đọc cách đó không lâu ảnh hưởng mạnh mẽ. Tuy nhiên, về phía ông, kinh nghiệm đã trải qua là hoàn toàn bột phát và hiện thực.
Hành: Thủy
Loại: Ác tinh
Đặc Tính: Thâm trầm, xảo quyệt, ganh ghét, trở ngại, đố kỵ, thị phi
Tên gọi tắt thường gặp: Kỵ
Là một phụ tinh. Một trong 4 sao của bộ Tứ Hóa là Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Kỵ.
Đắc địa: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
Hãm địa: Tý, Sửu, Dần, Mão, Tỵ, Ngọ, Thân, Dậu, Hợi.
Ý Nghĩa sao Hóa Kỵ Ở Cung Mệnh:
Tính Tình: Sao Hóa Kỵ ở cung Mệnh thì tính thâm trầm, thâm hiểm, ích kỷ, đa nghi, hay đố kỵ, ganh tị, ghen ghét người khác, và cũng hay gây sự với người ta. Nếu gặp các sao tốt thì trở thành người khôn ngoan, sâu sắc, có tay nghề sắc sảo, đặc biệt, tính tình cẩn trọng, được nhiều người kính nể.
Hóa Kỵ đắc địa ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi gặp Nhật, Nguyệt sáng đồng cung: Đây là một cách rất tốt. Hóa Kỵ trong trường hợp này được ví như mây ngũ sắc bên cạnh Nhật, Nguyệt sáng sủa. Có cách này sẽ hưởng phú quí lâu dài. Riêng ở Sửu, Mùi đồng cung với Nhật, Nguyệt nếu được thêm Tuần, Triệt án ngữ thì rất rực rỡ. Nhưng hay bị đau mắt hoặc đau thần kinh.
Hóa Kỵ ở Tý, Hợi có Hóa Khoa hội chiếu: Người khôn ngoan cẩn thận từ lời nói đến việc làm, được nhiều người kính trọng.
Hóa Kỵ ở Tý có Khoa Lương hội chiếu: Nếu có thêm cát tinh sáng sủa hội họp thì người có đức độ, danh vọng được người quý mến, hậu thuẫn. Đây có thể là một nhà hiền triết, nhân sĩ, dân biểu, nghị sĩ hữu danh.
Hóa Kỵ đồng cung với Liêm Trinh, Tham Lang tại Tỵ, Hợi: Hóa Kỵ khắc chế được sự bất lành, hóa giải nhiều hung họa do Liêm Trinh, Tham Lang tại Tỵ, Hợi gây nên. Tuy đây không phải là cách tốt, nhưng cũng khá giả, ít lo ngại về bệnh tật, tai nạn.
Sao Hóa Kỵ gặp Nhật hay Nguyệt cùng hãm địa: Trong trường hợp này ánh sáng Nhật, Nguyệt vốn không có lại bị thêm mây che nên rất xấu. Người hay bệnh hoạn, cô đơn, cực khổ, bị tai họa lớn, phải tha phương lập nghiệp và yểu tử.
Sao Hóa Kỵ, Cự Môn hay Hóa Kỵ, Đào Hoa (Hồng Loan) hay Hóa Kỵ, Tham Lang đồng cung: Rất dễ bị thủy tai (chết hụt, chết đuối) hay bị bắt bớ giam cầm. Riêng phái nữ gặp bộ sao này rất bất lợi, bị tai nạn trinh tiết như mất trinh, thất tiết, bất chính hoặc hôn nhân trắc trở, có thể không chồng hay phải lo buồn về gia đạo.
Sao Hóa Kỵ gặp Xương Khúc, Khôi, Việt: Học hành trắc trở, thi trượt hay vất vả, dù có đỗ cũng không thành danh. Trong quan trường hay bị dèm pha, ly gián.
Sao Hóa Kỵ, Thiên Riêu, Đà La ở liền cung: Họa vô đơn chí.
Hóa Kỵ, Phục Binh, Thái Tuế: Có sự thù hằn, cạnh tranh, kiện tụng lo lắng vì sợ bị mưu hại, trả thù.
Sao Hóa Kỵ, sát tinh đắc địa: Danh tài hoạch phát nhưng hoạch phát suốt đời lưu lạc. Nếu sát tinh hãm địa thì nguy cơ càng tăng, nghèo khổ, tai họa khủng khiếp, giảm thọ. Đó là họa hại của hung tinh hội tụ, sức phá gia tăng theo hệ số.
Ý Nghĩa sao Hóa Kỵ Ở Cung Phụ Mẫu:
Cha mẹ bất hòa, xung khắc. Nếu không thì cha mẹ và con cũng không hạp tính nhau. Càng đi với sát tinh ý nghĩa càng nặng.
Ý Nghĩa sao Hóa Kỵ Ở Cung Phúc Đức:
Bị giảm thọ. Mồ mả tổ tiên, ông bà có nơi bị úng thủy, ngập nước. Trong họ có người bị điên, bị bệnh về thần kinh, tâm thần hoặc bị bệnh phù thủng. Giòng họ có tay nghề khéo, có danh tiếng, nhưng hay bị cạnh tranh, gặp chuyện thị phi, nói xấu. Gặp các sao Địa Không, Địa Kiếp, thời vận giòng họ suy bại, nghèo nàn.
Ý Nghĩa sao Hóa Kỵ Ở Cung Điền Trạch:
Trong đời, phải có lần bán nhà, hoặc bán đất, phá sản.
Ý Nghĩa sao Hóa Kỵ Ở Cung Quan Lộc:
Trừ phi gặp những bộ sao tốt nói ở trên, Sao Hóa Kỵ ở cung Quan chủ sự trắc trở về công danh, cụ thể như:
Chậm thăng tiến.
Bị chèn ép, bị tiểu nhân dèm pha.
Không được tín nhiệm.
Bất đắc chí trong quan trường.
Chính mình cũng hay dùng tiểu xảo hại đồng nghiệp.
Ý Nghĩa sao Hóa Kỵ Ở Cung Nô Bộc:
Bè bạn, nhân viên, đồng nghiệp, người giúp việc hay nói xấu, oán hại mình. Gặp các sao Phá Quân, Tang Môn, làm ơn nên oán.
Ý Nghĩa sao Hóa Kỵ Ở Cung Tật Ách:
Sao Hóa Kỵ đóng trong Tật Ách thì hay bị bệnh tật, tai nạn, khó sinh đẻ, đau mắt, yếu về khí huyết, dễ bị đau bụng, đau ở bộ phận tiêu hóa, đường ruột, đại tràng, bệnh trỉ hoặc bị ngộ độc do thức ăn.
Sao Hóa Kỵ là âm tinh cho nên đi với bộ phận nào của cơ thể đều gây trục trặc cho bộ phận đó. Chỉ có thể nói gây trục trặc mà thôi, chớ chưa hẳn làm cho bộ phận đó bị thương tàn vì sức phá của Hóa Kỵ rất tầm thường về mặt bệnh lý.
Hóa Kỵ với Nhật hay Nguyệt ở bất luận cung nào: Mắt kém hoặc cận thị, viễn thị, hay đau mắt. Hóa Kỵ đi với mắt nào thì mắt bên đó bị trục trặc.
Sao Hóa Kỵ, Cự Môn: Miệng méo.
Hóa Kỵ, Kình Dương hay Đà La: Hay ù tai, cứng tai, đôi khi bị điếc. Có tật ở chân tay.
Sao Hóa Kỵ gặp Đại Hao, Tiểu Hao: Hay đau bụng, tiêu chảy.
Hóa Kỵ, Thai: Bào thai không được mạnh.
Sao Hóa Kỵ với Nguyệt (nữ mệnh): Người nữ máu huyết xấu, có hại cho sự thụ thai.
Hóa Kỵ, Thiên Riêu: Đàn ông thận suy, dương hư.
Ý Nghĩa sao Hóa Kỵ Ở Cung Tài Bạch:
Hao tán tiền bạc, Hóa Kỵ ở Tài ví như Đại Tiểu Hao.
Sao Hóa Kỵ, Phục Binh: Bị trộm cắp, bị người ở lấy của.
Ý Nghĩa sao Hóa Kỵ Ở Cung Tử Tức:
Cha mẹ và con cái xung khắc nhau, con cái không hòa thuận nhau, giành giựt tài sản, tranh hơn thiệt.
Ý Nghĩa sao Hóa Kỵ Ở Cung Phu Thê:
Vợ chồng lục đục hay cãi vã. Sao Hóa Kỵ đi thêm với sao xấu khác, ý nghĩa bất lợi nặng hơn.
Sao Hóa Kỵ, Phục Binh: Vợ chồng bất hòa, khi ở khi đi. Lúc lấy nhau, hôn nhân bị cản trở. Khi đồng cư thì hay nói xấu nhau, có thể mưu hại nhau, hoặc bị người chia rẽ.
Sao Hóa Kỵ, Đào Hoa (Hồng Loan): Vợ chồng dễ lừa dối nhau, ngoại tình.
Hóa Kỵ, Thiên Riêu: Vợ hoặc chồng là người ham chơi bời, phóng đãng.
Sao Hóa Kỵ, Địa Kiếp, Thiên Hình, Thiên Riêu: Âm mưu hại vợ, chồng, giết chồng, giết vợ.
Tóm lại, Hóa Kỵ rất bất lợi ở cung Phu Thê, nhất là khi gặp sát tinh đi kèm.
Ý Nghĩa sao Hóa Kỵ Ở Cung Huynh Đệ:
Anh chị em xung khắc, tranh giành nhau về tài sản, không ở chung nhau được.
Hóa Kỵ Khi Vào Các Hạn:
Hạn gặp sao Hóa Kỵ thì việc làm bị trắc trở, bị người oán thù, mưu hại mình.
Gặp các sao Phục Binh, Linh Tinh, Hỏa Tinh, Đại Hao, Địa Không, Kình Dương, Thất Sát, Địa Kiếp chiếu là vào hạn nguy hiểm, chết người.
Hóa Kỵ, Thái Tuế, Phá Quân là hạn hay gặp chuyện thị phi, tranh cãi, tranh chấp lôi thôi.
Sao Hóa Kỵ, Thiên Hình, Địa Kiếp, nên đề phòng nạn dao kéo, đâm chém, cưa cắt, mổ xẻ.
Hóa Kỵ, Cự Môn là hạn đề phòng sông nước và lắm chuyện lôi thôi bực mình.
Sao Hóa Kỵ, Hồng Loan thì tơ duyên rắc rối.
Hóa Kỵ, Thái Âm, Thái Dương thì bị đau mắt, có tang cha mẹ.
Nguồn: TRUNG CHÂU TỬ VI ĐẨU SỐ TAM HỢP PHÁI - NGUYỄN ANH VŨ dịch.
Tương truyền, Tử Vi Đẩu Số có nguồn gốc từ Khâm Thiên Giám của triều đại nhà Đường, ở Lạc Dương, Trung Châu.
Trung Châu là tên một vùng đất cổ, tức "Trung Thổ", "Trung Nguyên". Theo nghĩa rộng, "Trung Châu" là chỉ toàn nước Trung Hoa, còn gọi là "Thần Châu", "Hoa Hạ". Nghĩa ban đầu của "Trung Châu" là chỉ vùng đất thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay, hay thuộc lưu vực sông Hoàng Hà. Vì vùng đất này ở giữa Cửu Châu thời cổ đại nên có tên gọi này. Phần lớn thời gian trong lịch sử, vùng đất này là trung tâm văn hóa, chính trị, và Kinh Tế của Trung Quốc. Thời cổ, Lạc Dương là vùng đất trọng yếu của Trung Châu tọa lạc ở bờ nam sông Hoàng Hà, miền tây tỉnh Hà Nam, phía Bắc dựa núi Mang Sơn, phía nam đối diện Long Môn, phía tây liền với Tần Lĩnh, phía đông là vách núi Tung sơn, ở giữa là một vùng bình nguyên. Nơi này địa hình hiểm yếu, đất đai phì nhiêu, nguồn nước dồi dào; trong lịch sử, đây là vùng đất mà các binh gia phải chiếm lấy, còn là nơi lý tưởng để lập quốc đô. Bắt đầu từ năm 770 TCN, trước sau đã có chín vương triều là Đông Chu, Đông Hán, Tào Ngụy, Tây Tấn, Bắc Ngụy, Tùy, Đường, Hậu Lương, và Hậu Đường, chọn nơi này làm kinh đô, vì vậy Lạc Dương được gọi là "Cửu Triều Cố Đô".
Vào thời Đường, thiên văn học và chiêm tinh học từ phía Tây Vực du nhập vào Trung Quốc đã thúc đẩy Tinh Mệnh Học của Trung Quốc phát triển một bước lớn, từ đó lịch pháp và bát tự sinh thần trở thành nhân tố trọng yếu trong Tinh Mệnh Học. Những hoạt động sôi nổi này chủ yếu tập trung ở Lạc Dương, Trung Châu.
Trong số các Đạo kinh truyền lại từ đời Đường có Bắc Đẩu Kinh, Nam Đẩu Kinh, Phật thuyết bắc đẩu thất tinh Diên Mệnh kinh, trong đó đã có những ghi chép tường tận về phương pháp bài bố sao mệnh chủ và sao thân chủ như trong Tử Vi Đẩu Số. Theo quan niệm của đương thời, sao mệnh chủ và sao thân chủ luôn là mấu chốt quan trọng của kiếp số nhân sinh, vì vậy Đạo Giáo có "Kì an lễ đẩu", "Kì nhương khoa nghi" (một loại nghi lễ cúng sao trong đạo giáo). Trong bắc đẩu kinh còn đề cập 12 cung, "Giáp cát trợ tinh", cho đến các cách cục hung dẫn đến các loại mệnh vận tai kiếp như trong Tử Vi Đẩu Số. Điều này cho thấy 3 cuốn kinh kể trên có liên quan mật thiết đến Tử Vi Đẩu Số sau này. Nếu các bản chú giải kinh văn thời ấy còn lưu truyền cho đến ngày nay, có lẽ chúng ta sẽ biết yếu quyết của Tử Vi Đẩu Số vào thời ấy tường tận hơn. Hiện tượng chọn Tử Vi làm sao tôn quý nhất trong 14 chủ tinh có nguồn gốc từ Bắc Đẩu Kinh, Nam Đẩu Kinh, trong đó ẩn chứa khái niệm "số" trong Huyền Học, hậu thế gọi là "Tử Vi Đẩu Số" thực sự có hàm ý uyên nguyên của nó.
Sau thời Bắc Tống, các hệ thống tinh mệnh học dần dần hoàn thiệt, Ngũ Tinh Thuật (Thất Chính Tứ Dư) và Tử Bình thuật đã phát triển thành 2 lưu phái Tinh Mệnh học lớn ở Trung Quốc. Trong đó, Ngũ Tinh thuật phái Cẩm Đường là chi phái Thất Chính Tứ Dư nổi tiếng nhất thời ấy, nguồn gốc xuất phát từ Mật Tông, tổ sư là Nhất Hạnh(CN. năm 683 - 727), người đời Đường, tên tục là Trung Trục, có sách truyền lại là Hư Thục Ngũ Tinh nguyên lưu; truyền đến tăng Xuân ở núi Thanh Thành, Xuân truyền cho tăng Phổ Trừng ở Giang Tây, Trừng truyền cho Tứ Minh tăng Huệ Minh ở Chiết Giang, Minh truyền lại cho quốc sư nước Liêu là Gia Luật Sở Tài. Gia Luật là một dòng họ quý tộc nổi tiếng đời Liêu, có rất nhiều người làm quan lớn và văn nhân học sĩ. Ba quyển Tinh Mệnh Tổng Quát là do Hàn Lâm học sĩ Gia Luật Thuẩn biên soạn. Sách sử không ghi tên ông, cho nên trong Tứ Khố đề yếu nghi là sách thác danh, nhưng trong quyển đầu ghi: "Nguyên Tự" thiên Gia Luật Thuần viết vào niên hiệu Thống Hòa thứ 2 (CN, ngày 10, tháng 9 năm 984); Văn Hồ các thư mục ghi là một bộ, không phân chia số sách; Lục Trúc Đường thư mục chia làm 5 sách, nhưng không ghi số quyển; bộ sách này thấy chép trong Vĩnh Lạc đại điển và Tứ Khố toàn thư, ngoài nhân gian không có truyền bản nào khác. Ngoài ra, bộ Hư Thục Ngũ Tinh nguyên lưu còn được chùa Thiên Giới cất giữ một bản; vào niên hiệu Hồng Vũ thứ 6, truyền lại cho Thương Quý Đổng. Truyền bản ngày nay phần nhiều là Cẩm Đường Ngũ Tinh, Chỉ Kim Hư Thục Ngũ Tinh Thiên Cơ thất ngũ phú. Do đó có thể thấy phái Cầm Đường là một phân chi Tinh Tông quan trọng. Còn có thể khảo chứng thư tịch Tinh tông trong bộ sách Trương Quả tinh tông chép trong Tứ Khố toàn thư, và Tinh Mệnh tố nguyên do Trương Quả trước tác, thân thế Trương Quả có ghi chép trong Tân Đường truyện - Phương Kĩ truyện. So sánh đối chiếu với phương pháp đoán mệnh của Thất Chính Tứ Dư, người ta thấy có nhiều dấu vết diễn biến thành Tử Vi Đẩu Số ngày nay.
Trong suốt khoảng thời gian từ đời Tống đến đầu đời Nguyên, Tử Vi Đẩu Số hầu như im hơi lặng tiếng, người ta không tìm thấy một văn bản nào khác liên quan đến Tử Vi Đẩu Số. Hiện chỉ lưu giữ được 1 bản chép tay sách các cổ quyết của Tử Vi Đẩu Số đời Nguyên.
Đến đời Minh, giai đoạn cuối thời kì chấp chính của Chu Nguyên Chương, vị vua khai quốc triều Minh này đã hạ lệnh cấm dân gian không được học thiên văn, cho nên Tinh tông mệnh lí học dần dần bị chìm trong bóng tối, mãi đến niên hiệu Gia Tĩnh thứ 26 (CN năm 1547) mới giải trừ luật cấm học thiên văn.
Tinh tông mệnh lí học thoát khỏi lệnh cấm này, dần dần từng bước hoàn thiện hệ thống. Tên gọi "Tử Vi Đẩu Số" sớm nhất được thất trong Tục Đạo Tạng, do Trương Quốc Tường, Chính Nhất thiền sư đời thứ 50 của đạo giáo, tập thành vào thời Minh Thần Tông niên hiệu Vạn Lịch thứ 35 (1607), trong đó có 3 quyển Tử Vi Đẩu Số, không rõ tác giả, căn cứ nội dung của 3 quyển Tử Vi Đẩu Số này thì đúng là thuật "Thập Bát Phi Tinh". Đầu đời Thanh, trong Tử bộ thuật số của Tứ Khố toàn thư, tổng cộng ghi nhận được 50 loại thuật số, bao gồm cả "Thập Bát Phi Tinh" và "Tử Vi Đẩu Số". Cũng chính vì vậy mà một số học giả cho rằng Tử Vi Đẩu Số là hình thức cải cách của "Thập Bát Phi Tinh" được thu thập trong Tục Đạo Tạng.
Tuy triều Minh cấm dân gian học thiên văn, nhưng cơ cấu triều đình vẫn có một cơ quan chuyên trách về khí tượng và thiên văn, gọi là "Khâm Thiên Giám", cho nên môn học thuật này vẫn phát triển trong cung đình hoàng gia. Vì nhân tố hoàn cảnh thời đại, Đẩu Số bị khoác lên một bức màn che, làm tăng vẻ thần bí của nó. Tử vi Đẩu Số bắt nguồn từ ngũ tinh thuật, do xuất phát từ Khâm Thiên Giám đời Đường ở Lạc Dương, Trung Châu, nên còn gọi là "Khâm Thiên Giám Bí Cấp".
Sách Tử Vi Đẩu Số toàn thư và Tử Vi Đẩu Số toàn tập đều đề do Trần Đoàn cuối đời Ngũ Đại sáng tác, trong dân gian thì lưu truyền thuyết Lữ Đồng Tân truyền Tử Vi Đẩu Số cho Trần Hi Di. Trần Hi Di lại mang Tử Vi Đẩu Số truyền cho các đồ đệ của mình, trong suốt mấy trăm năm, Tử Vi Đẩu Số mang hình thức bí truyền từ đời này sang đời sau, đây là một trong những nguyên nhân khiến sách Tử Vi Đẩu Số xuất hiện rất hiếm hoi.
Khoảng niên hiệu Gia Tĩnh đời Minh, La Hồng Tiên, một nhà kham dư gia ở Cát Thủy, Giang Tây, khắc in và lưu truyền sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư. Về sau Phan Hi Doãn, hiệu là Phụ Tử Tử ở Giang Tây, biên tập sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Tập, và hậu thích của Phan Hi Doãn là Dương Nhất Vũ ở Quan Tây, Phúc Kiến tăng bổ.
Hiện nay hai bản TVĐS này là tư liệu hàng đầu để nghiên cứu TVĐS cổ đại, nhưng đều là bản khắc vào thời kì Đồng Trị đời Thanh. Xét về nội dung thì biết được hai bản này về đại thể thì đại đồng tiểu dị, và không phải do một người biên soạn.
Vào khoảng cuối đời Minh đầu đời Thanh, toán học và Thiên Văn Học phương tây theo các giáo sữ Mục Ni Các, Thang Nhược Vọng, Nam Hoài Nhân, v.v... truyền vào Trung Quốc. Theo đó, Tinh Tông mệnh lí học và Trạch Cát thuật lại hưng khởi, càng làm cho khoa Tử Bình hưng thịnh hơn. Khoa Tử Bình đồng thời cũng hấp thu tinh hoa của Tinh Tông mệnh lí học. Việc ứng dụng các thần sát cũng xuất hiện nhiều trong khoa Tử Bình, còn khoa Tử Vi Đẩu Số thì ít người biết đến, nên càng mang sắc thần bí.
Trước năm 1950, phương thức đoán mệnh ở Đài Loang phần lớn chỉ dùng khoa Tử Bình. Sau đó trên thị trường lưu truyền cuốn Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư, do Trúc Lâm thư cục xuất bản vào năm 1958, sách đề do Hi Di Trần đoàn trước tác, ban đầu chi làm 2 tập, về sau in gộp thành một tập.
Trong khoảng thời gian từ 1947 - 1955, toàn Đài Loan không có thêm bộ TVĐS nào khác. Mãi đến giữa tháng 2, năm 1966, Phúc Châu Xuất Bản Xã mới xuất bản Thập Bát Phi Tinh Sách Thiên Tử Vi Đẩu Số toàn tập, đề tác giả là Đại Tống Hoa Sơn Hi Di Trần Đồ Nam, người tăng bổ là Bạch Ngọc Thiềm. Chủ của bộ sách cổ này là Thiết Bản Đạo Nhân Trần Nhạc Kì.
Điều đáng chú ý là, sách này ở phần phàm lệ của tác giả đề rằng:" Tử Vi Đẩu Số truyền thế, chia ra hai phái Nam Bắc, sách này thuộc Bắc Phái, là chính thống chân truyền, ứng nghiệm vô song, còn Nam Phái là bản lưu truyền trong dân gian, do hậu nhân ngụy thác tên của Hi Di, không ứng nghiệm, là ngụy thư gạt người..."
Bản sách này tự xưng thuộc Bắc phái, thực ra so với bản Thập Bát Phi Tinh Sách Thiên Tử Vi Đẩu số Toàn Tập do Tập Văn thư cục xuất bản năm 1971, nội dung hoàn toàn tương đồng, chỉ khác là không có câu kể trên.
Giữa TVĐS toàn thư và TVĐS Toàn tập có nhiều chỗ khác biệt, như sau:
(1) Mệnh Chủ:
Trong TVĐS Toàn Thư lấy địa chi cung mệnh làm chủ. Còn trong TVĐS toàn tập thì lấy địa chi năm sinh làm chủ.
(2) Tứ Hóa:
Năm CAnh và năm Nhâm phương pháp an khác nhau. Trong quyển 2 TVĐS toàn thư, phương pháp an của năm Canh là "Nhật Vũ Đồng Âm"; nhưng trong quyển 4 thì lại có mục cổ lệ, phương pháp an là "Nhật Vũ Đồng Tướng"; phương pháp an của năm Nhâm là "Lương Vi Phủ Vũ". Trong TVĐS toàn tập, phương pháp an của năm Canh là "Nhật Vũ Âm Đồng"; phương pháp an của năm nhâm là "Lương Vi Phụ Vũ".
(3) Hỏa Tinh, Linh Tinh:
Trong quyển 2 của TVĐS toàn thư, chỉ lấy địa chi của năm sinh làm chủ, không thấy nói phải phối hợp với giờ sinh hay không; nhưng theo cổ lệ ghi trong quyển 4 thì lại thấy rất rõ ràng là không phối hợp với giờ sinh (ngoài ra, bản đầu tiên còn ghi người sinh năm Tị Dậu Sửu thì Hỏa Tinh ở cung Mão, Linh Tinh ở cung Tuất); phương pháp an trong TVĐS toàn tập là lấy địa chi năm sinh phối hợp với giờ sinh.
(4) Độ sáng của sao:
Trong quyển 2 và quyển 3 của Tử Vi Đẩu Số toàn thư có liệt kê thành 1 bảng các sao ở 12 cung có 7 cấp độ sáng: miếu, vượng, đắc địa, lợi ích, bình hòa, không đắc địa, hãm. Trong TVĐS toàn tập không có bảng liệt kê này, nhưng có "Vượng cung hãm địa cát hung chi đồ" và "Thập nhị cung Lộc Quyền Khoa Kỵ miếu vượng luận"
(5) Đại Hạn:
Trong TVĐS toàn thư, khởi đại hạn là dương nam âm nữ lấy ttru7o7co1 cung mệnh 1 cung (tức là cung phụ mẫu), đi thuận; âm nam dương nữ thì từ sau cung mệnh một cung (tức cung huynh đệ), đi nghịch. Còn trong TVĐS toàn tập, khởi đại hạn từ cung mệnh rồi mới đi thuận hay đi nghịch.
(6) Lưu niên Thái Tuế Thần Sát:
Trong Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư, lưu niên thái tuế thần sát chỉ có "Tứ Phi tinh quyết Tang Hổ Khách Phù", tức là chi an năm thần sát của "lưu niên Thái Tuế thập nhị chi Thần Sát". Trong Tử Vi Đẩu Số toàn tập, lưu niên Thái Tuế thần sát thì an 11 cát thần, 47 hung sát, tổng cộng 58 thần sát.
TVĐS toàn thư và TVĐS toàn tập đều có ghi phương pháp an lưu niên tam cát thần "Thiên Đức, Nguyệt Đức, Giải Thần", phà phi thiên tam sát "Tấu Thư, Tướng Quân, Trực Phù".
(7) Thiên Không và Địa Không:
Trong TVĐS toàn thư lấy địa chi giờ sinh đi nghịch và đi thuận để an Thiên Không, Địa Kiếp. Còn TVĐS toàn tập thì lấy Thiên Không của TVĐS toàn thư gọi thành Địa Không; còn lấy địa chi của năm sinh an một sao khác trước Thiên Không một cung. Do đó có thể biết, Thiên Không và Địa Kiếp của TVĐS toàn thư chính là Địa Không Địa Kiếp của TVĐS toàn tập; còn Thiên Không của TVĐS toàn tập khác với Thiên Không của TVĐS Toàn Thư.
Có một số sao thần sát trong hai cuốn đều có cách an và có giải thích (như Thiên Mã, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hồng Loan, Thiên Không, Địa Kiếp, Hóa Kị, Thiên Thương, Thiên Sứ, Thiên Hình, Thiên Riêu, Thiên Khốc, Thiên Hư); có một số sao thần sát trong 2 cuốn đều có phương pháp an nhưng không có giải thích (như Thiên Hỉ, Tam Thai, Bát Tọa, Đài Phụ, Phong Cáo, Long Trì, Phượng Các, Tiệt Không, Tuần Không); có một số sao trong TVĐS toàn thư không có, nhưng trong TVĐS toàn tập có phương pháp an (như Thiên Tài, Thiên Thọ, Thiên Quan, Thiên Phúc, Ân Quang, Thiên Quý, Cô Thần, Quả Tú, Kiếp Sát, Hoa Cái, Đào Hoa Sát, Đại Hao, Phá Toái, Địa Không).
Điều đáng ngạc nhiên là, có một số sao như Giải Thần, Thiên Vu, Phỉ Liêm, Thiên Nguyệt, Âm Sát, trong TVĐS toàn thư lẫn TVĐS toàn tập đều không có, nhưng hiện nay sách TVĐS nào cũng thấy.
Hai Bộ Sách TVĐS toàn thư và TVĐS toàn tập có một điểm chung, đó là đều đề cập đến La Hồng Tiên. Theo truyền thuyết, vào đời Minh, La Hồng Tiên từng chỉnh lí Đẩu Số, nhưng về sau sự phát triển cũng không có chứng cứ rõ ràng. Hai bản TVĐS toàn thư và toàn tập lưu truyền trong dân gian vào khoảng cuối triều Minh đầu triều Thanh, nhưng thời bấy giờ dường như ít người xem trọng TVĐS, cho nên phát triển khá chậm, trong khi đó khoa Tử Bình lại rất thịnh hành. Lúc sách TVĐS được đưa vào Đạo Tạng, Đẩu Số vẫn im hơi lặng tiếng (xét về mặt văn bản). Mãi đến năm 1911, TVĐS tuyên vi của Quan Vân Chủ Nhân (thuộc Bắc Phái) mới tái hệ thống, chú giải, bình luận TVĐS một lần nữa.
Năm 1950, xuất hiện hai nhân vật khá quan trọng trong lịch sử phát triển TVĐS, đó là Thiết Bản Đạo Nhân và Hà Mậu Tùng (cao thủ Tam Hợp Phái). Tư tưởng của một phái muốn phát huy ảnh hưởng, thu nhận môn đồ, trước thư lập thuyết là điều bắt buộc, nhưng trong số môn đồ phải có người dương danh thiên hạ mới càng quan trọng, trong 2 người kể trên, Hà Mậu Tùng lão tiên sinh đúng là có đủ 2 điều kiện này. Đại đệ tử của ông là Tử Vân, nhờ trước thư lập thuyết, nói những điều tiền nhân chưa nói, ngày nay đã trở thành nhất đại tông sư trong giới nghiên cứu đẩu số.
Trong khoảng thập nhiên 50 của thế kỷ 20, TVĐS danh gia Lục Bân Triệu (cao thủ Tam Hợp Phái) đến Hương Cảng công khai trương bảng đoán mệnh, độ chính xác khá cao khiến ông nổi tiếng như cồn, ông còn mở lớp dạy, về sau những bài giảng của ông được xuất bản với tên Tử Vi Đẩu Số Giảng Nghĩa. Trong thời kì này còn có một người nổi danh trước Lục Bân Triệu là Trương Khai Quyển, biệt hiệu "Vô Muộn Trai Chủ", với cuốn Tử vi Đẩu Số mệnh lý nghiên cứu, được Vương Đình Chi xưng tụng là cao thủ Bắc Phái.
Vào thập niên 60 của thế kỷ 20, trong giới nghiên cứu Đẩu Số ở Đài Loan xuất hiện một người tên là Trương Diệu Văn, đại tông sư của "Thái Phái". Vốn là tiến sĩ kinh tế học, vào khoảng những năm 1966 trở về trước ông ở Nhật Bản dạy học, tự xưng mình là truyền nhân đời thứ 13 của Minh Đăng phái (tức Thấu Phái). Năm 1967 ông trở về Đài Loan, mang TVĐS của Thấu Phái truyền bá tại Đài Loan. Phái Đẩu Số này có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của TVĐS ở Đài Loan giai đoạn này. Các bản dịch Đẩu Số từ tiếng Nhật sang tiếng Hán cũng dần dần xuất hiện, thời kì đầu có A Bộ Thái Sơn, về sau có Bảo Lê Minh, v.v... đều là các tác gia thuộc nhóm nghiên cứu đẩu số Đông Dương.
Đương thời, có rất nhiều bản dịch TVĐS của A Bộ Thái Sơn xuất hiện ở Đài Loan, cho nên ông khá nổi tiếng. Ông là người trong thấu phái, Đẩu Số của ông đương nhiên theo phương pháp "quá tiết khí".
Tương truyền người sáng lập Thấu Phái là một phụ nữ đời Minh tên Mai Tố Hương.
Thấu phái gọi Đẩu Số là "Tử Vi chiêm tinh thuật"; phái này thần thoại hóa các "tinh diệu", lấy bối cảnh cuộc chiến tranh giữa nhà Ân và nhà Chu thời viễn cổ, mang các nhân vật trong Phong Thần diễn nghĩa gán vào các tinh diệu. Đặc điểm của Thấu phái là vấn đề "quá tiết khí" khi khởi mệnh bàn. Đến khoảng giữa thập niên 80 của thế kỉ trước, do giới nghiên cứu Đẩu Số ngày càng tăng và càng chuyên sâu hơn, đương thời, quan điểm này của Trương Diệu Văn bị khá nhiều học giả Đẩu Số công kích. Do đó Thấu Phái Đẩu Số lưu truyền đến ngày nay ko còn như trước kia, phần lớn đều bỏ không dùng nguyên tắc "quá tiết khí".
Khoảng giữa thập niên 70 của thế kỉ trước, TVĐS ở Đài Loan dần dần thịnh hành. Trong số các nhân vật xuất hiện vào thời kì này có một người đáng được đề cập, đó là Lương Tương Nhuận, ông là lão tiền bối trong giới nghiên cứu Tử Bình, các tác phẩm về TVĐS của ông cũng rất có giá trị, phần nhiều viết chung với bà Lương Thiên Lan.
Trước năm 1981, trong giới nghiên cứu Đẩu Số còn có ba người khác nổi tiếng khác là Lục Dị Công, Khổng Nhật Xương, Chung Trực Lâm.
Có thể nói trước thập niên 80 của thế kỉ 20, TVĐS giống như đang ở trong thời kì tiềm phục, cho đến năm 1982, TVĐS tân thuyên của Tuệ Tâm Trai Chủ ra đời, giới nghiên cứu Đẩu Số mới nổi cơn sóng gió mạnh kéo dài hơn 10 năm. Trong quá trình này, nhiều phương diện bí truyền ẩn tàng của TVĐS đã được đưa ra ánh sáng.
Người gây ảnh hưởng sớm nhất ở giai đoạn này có thể nói là Tuệ Tâm Trai Chủ, tên tuổi của bà có ấn tượng rất sâu trong phần lớn độc giả ở Đài Loan và Hương Cảng. Trước năm 1980, người học Đẩu Số phần nhiều tham dự các lớp học nhỏ là chính, nhưng từ lúc Tuệ Tâm Trai Chủ bắt đầu bàn luận Đẩu Số trên báo, giống như đã thổi vào Đẩu Số một luồng sinh khí mới. Tuệ Tâm Trai Chủ đã sử dụng ngôn ngữ thường ngày dễ hiểu để giải thích Đẩu Số, khiến những điều cổ truyền khó hiểu trở thành rất dung dị. Bộ sách TVĐS tân thuyên có thể nói là rất thành công, về sau bà viết thêm nhiều cuốn khác cũng đều thành công. Sự thành công của bộ sách TVĐS tân thuyên không phải là ngẫu nhiên, nó đã làm cho độc giả thời ấy có thể tự lập mệnh bàn và tự mình phân tích từng cung. Nhưng do bà dùng cách giải đoán từng cung cho dễ hiểu, nên cũng khiến người đọc dễ hiểu lầm về kĩ thuật và quy tắc luận đoán Đẩu Số. Tóm lại, đối tượng của bà là đại chúng phổ thông, vì vậy có mặt hạn chế, không đi sâu vào sự tinh tế của Đẩu Số, nhưng cũng không phải là không có tuyệt kĩ.
Từ lúc Đẩu Số bắt đầu được xem trọng, nhiều tác phẩm Đẩu Số ra đời, thuyết của các nhà trăm hoa đua nở. Một số thì giảng giải tâm pháp cổ truyền, một số thì chủ trương Đẩu Số và Tử Bình phối hợp tham chiếu, một số thì thần bí hóa, mang Đẩu số gộp chung với tôn giáo, một số khác thì tuyên bố mình được truyền bí pháp chép tay của tiên sư, v.v... Trung số này đáng chú ý có những người sau đây:
- Ngô Tình, đáng tiếc sách của ông này hầu như đã tuyệt bản, rất khó mua trên thị trường. Ông phê bình Đẩu Số cổ truyền rất nghiêm túc. Một số đặc điểm trong sách của ông như: Phần lớn các sao nhỏ trong Đẩu Số ông đều không dùng tới, Thiên Thương và Thiên Sứ theo thuyết cổ truyền có thể đoán sinh tử, ông cho rằng chỉ hù dọa người ta; thuyết "miếu, vượng, lợi, hãm" cũng không dùng, v.v... Thuyết của ông toàn bộ trọng điểm nằm ở sự biến hóa của tứ hóa, cho rằng Hóa Lộc và Hóa Kị mới là nhân tốt quyết định. Đồng thời ông còn nhấn mạnh mình có "bí kíp ngàn năm bất truyền". Thuyết của ông ngày nay ảnh hưởng mạnh trong lưu phái Phi Tinh trong Bắc Phái TVĐS.
- Sở Hoàng, phải kể là người đầu tiên công khai phương pháp bày bố tinh bàn trên bàn tay, trước ông, các sách Đẩu Số phần lớn đều chỉ căn cứ vào "cổ quyết". Ông trước thư lập thuyết, chủ trương Đẩu Số và Tử Bình phối hợp tham chiếu, trong Đẩu Số còn ứng dụng một số nguyên lí đoán mệnh của Tử Bình. Trong thuyết tương sinh tương khắc, tác giả còn sáng tạo ra lí luận "Lạp Hoàn", dùng để giải thích vận tác giữa các tinh diệu với phép tắc bát tự, cũng được cho là thành một pháo.
- Chính Huyền Sơn Nhân, là người sáng lập ra thuyết "thiên địa nhân TVĐS", nói Đẩu Số là do "thần tiên" dạy cho ông. Chính Huyền Sơn Nhân viết rất nhiều sách Đẩu Số, trong đó nói nhiều về quá trình và tinh thần cầu đạo của ông. Chính Huyền Sơn Nhân mang các sao trong TVĐS liên hệ với chư vị tiên nhân ở trên trời, thần bí hóa TVĐS đến cực độ. Đồng thời, chủ trương "Cung can phi xuất tiên thiên tứ hóa tinh".
- Phan Tử Ngư trương bản đoán mệnh khá sớm, học trò rất đông, trước tác cũng không ít, phải kể là rất thịnh hành một thời. Đặc sắc trong các trước tác Đẩu Số của ông là lời đoán mệnh phán như đinh đóng cột.
- Tử Vân là học trò của Hà Mậu Tùng, một cao thủ Tử Vi Đẩu Số thời kì đầu. Năm 1987, ông xuất bản cuốn Đẩu Số dữ nhân sinh, làm chấn động giới nghiên cứu Đẩu Số ở Đài Loan và Hương Cảng. Trong cuốn Đẩu Số dữ nhân sinh, Tử Vân tự thuật quá trình nghiên cứu Đẩu Số của mình, và thuyết minh quan điểm của ông về tính chất và ứng dụng của 12 cung. Trong thời gian này, sách Đẩu số liên tục được xuất bản với số lượng lớn, nhưng phần nhiều chẳng có cống hiến gì. Riêng sách của Tử Vân tiên sinh được cho là đã bổ sung những chỗ trống trong Đẩu số cổ truyền. Ngày nay trong giới nghiên cứu Đẩu Số, người được tôn là bá chủ về phương diện kĩ thuật luận đoán chính là Tử Vân tiên sinh. Nhất là vào năm 1990, trong Đẩu số luận hôn nhân, Tử Vân tiên sinh đã đưa ra thuyết "Thái Tuế nhập quái pháp" và nguyên tắc "Tương khê", đã giải quyết vấn đề kĩ thuật mà cả trăm năm nay không cách nào giải thích, nhờ vậy cũng đã giải quyết chỗ khiếm khuyết trong bộ Hiện đại Tử Vi của nhóm Liễu Vô Cư Sĩ. Thuyết này đã biết Đẩu Số thành một phương pháp chỉ ra xu thế và phương hướng của mệnh vận; từ đó Đẩu Số có cách để phân biệt những người sinh ra cùng một giờ có mệnh vận khác nhau. Đây đúng là một bước đột phá trong lịch sử phát triển TVĐS.
Vai trò của Tử Vân tiên sinh rất quan trọng trong hệ phái Tam Hợp. Về cơ bản, phương pháp luận Đẩu Số của ông cũng tương tự như Vương Đình Chi, lấy truyền thống làm chính tông, làm khung giá cho phép luận đoán, lấy bối cảnh thực tế để diễn giải, tổng hợp cổ kim, và rất chú trọng phương diện tâm lí, sinh lí, nhân tính để ứng dụng trong luận đoán.
Trước năm 1989, Tử Vân đã cho ra đời bộ Đẩu Số luận danh nhân, các sách này đã gây sự chú ý trong giới nghiên cứu Đẩu Số, va đã có uy danh. Năm 1990, trong lúc thị trường chứng khoán của Đài Loan đang từ thịnh chuyển thành suy, phong trào đầu tư vào cổ phiếu bị giảm mạnh, Tử Vân lại hoàn thành cuốn Đẩu Số luận cầu tài, sách này đưa ra phương pháp luận đoán mới, bổ sung phép đoán của tiền nhân, cho rằng, hễ tiền có được nhờ đầu cơ hay đầu tư, cần phải xem cung phúc đức. Tức là, tiền kiếm được không do sức lực hay trí lực của bản thân thì không xem ở cung tài bạch. Trong cuốn đẩu số luận hôn nhân, về phương diện lí luận và thực tế luận đoán của Đẩu Số, đều có sự phát triển mang tính đột phá.
Ngày nay, địa vị của Tử Vân trong giới nghiên cứu Đẩu Số ở Đài Loan được xếp ngang hàng với Vương Đình Chi của Trung Châu Phái ở Hương Cảng. Học trò của ông cũng rất đông, trong số đó nổi tiếng nhất là Liễu Vô Cư Sĩ và Tuệ Canh. Ngày nay ở Đài Loan tên tuổi Liễu Vô Cư Sĩ cũng khá lớn.
Trong số những người còn lại phải kể đến Khôn Nguyên và Vu Ngoan Dã Nông, thực ra đây chỉ là một người, "Vu Ngoan Dã Nông" là biệt danh mà sau này ông ít dùng đến. Khôn Nguyên có nhiều bút danh như Hoàn Hữu Thủy Ngân, Lam Thần, Trịnh Giả Học. Trước tác Tử Vi Đẩu Số của ông có bộ Tử Vi Đường Áo khá nổi tiếng.
Kế đến là Phál Quảng Cư Sĩ và Nam Bắc Sơn Nhân, trong hai người thì Pháp Quảng Cư Sĩ trước tác nhiều hơn, ông có một bộ tùng thuy Truy Tung Chính Thống Đẩu Số, khá thịnh hành vào thời điểm đó, hơn nữa còn có tính liên tục khá mạnh, kéo dài cho đến ngày nay. Còn Nam Bắc Sơn Nhân, tên thật là Đồng Bành Niên, đương thời lấy danh nghĩa "Chính Tông Bác Phải TVĐS" để đoán mệnh, tác phẩm xuất bản không nhiều, chỉ có một quyển Chính Tông TVĐS toàn thư mà thôi.
Bắt đầu từ năm 1984, TVĐS bước vào thời đại mới, có thể quy công cho một nhóm người, trong số đó có 2 nhân vật trung tâm là Hoàng Trung Lâm, và Chu Vi. Nhờ nỗ lực của họ, Đẩu Số hiện đại hóa dần dần rõ nét, lí thuyết mệnh lí mang tính khoa học bắt đầu được xây dựng. Hoàng Trung Lâm có bút danh là Liễu Vô Cư Sĩ, vốn là một kí giả, về sau ông nghiên cứu mệnh lí và bắt đầu viết sách đẩu số vào năm 1981. Năm 1984 ông viết cuốn Tử Vi luận mệnh, làm cho ông có tiếng nói trong giới nghiên cứu đẩu số. Cuốn sách này khá thành công, sau đó trong khoảng thời gian từ năm 1985 đến 1986 ông đã hoàn thành bộ sách quan trọng 7 quyển là Hiện đại tử vi, đây là bước đầu tiên quan trọng trong công cuộc hiện đại hóa Đẩu Số.
Nội dung cuốn Tử Vi luận mệnh chủ yếu là phê phán các tác phẩm của các đại sư thời đó, và từ những luận chứng của mình, tác giả đã đưa ra quan niệm và kĩ thuật luận mệnh mới. Đương nhiên lúc đó các đại sư cũng phản kích dữ dội. Sau cuốn TV mệnh luận, LVCS trở thành nhân vật ưu tú mới trong giới nghiên cứu Đẩu Số. Nhờ phương pháp luận và mô thức khảo cứu hiện đại, Liễu Vô Cư Sĩ còn được coi là nhân vật trí thức phát biểu về mệnh lý truyền thống.
Bộ hiện đại tử vi ra đời từ năm 1985 đến 1986, tổng cộng gồm 7 tập. Về tác giả, ngoài Liễu Vô Cư Sĩ, còn có giáo sư Hứa Hưng Trí, thuật sĩ Tuệ Canh, Quách tiên sinh, Tượng Sơn Cư Sĩ, Phi Vân Cư Sĩ,...
Trong bộ hiện đại Tử Vi (HĐTV) có một phần gọi là "Tử Vi quảng trường", tức là phần đăng thư do độc giả gửi đến và giải đáp của các tác giả, đây cũng là một sáng kiến, và cũng là nhân tố khiến bộ sách này có sức ảnh hưởng khá lớn vào lúc đó. Bộ HĐTV mỗi tập đều có đặc sắc, nhất là tập 7, có nhiều quan niệm đáng chú ý. Điều đáng được nhắc đến là nỗ lực hiện đại hóa Đẩu Số của bộ sách này. Trong đó đưa ra quan điểm cần nhấn mạnh tính thời đại trong việc tìm hiểu bản chất của Đẩu Số. Một số vấn đề khác còn đợi sự nỗ lực của hậu học. Phương hướng của phái Hiện Đại là sử dụng logic để khảo nghiệm mệnh lý, từ đó xác nhận khả năng và chỗ hạn chế của đẩu số, đây là bước tiến lớn trong việc hiện đại hóa đẩu số. Vì trước đó, quan niệm của người luận mệnh đẩu số là: bất kể sự tình nào cũng đều có thể dựa vào mệnh bàn mà đoán ra, dù mệnh tạo có quan hệ với người khác hay không. Nhưng trong bộ HĐTV lại phủ định nguyên tắc bành trướng này, chủ trương rằng, đối với những sự vật mà bản thân mình có thể quyết định được, Đẩu Số mới có thể luận đoán, nếu mệnh tạo không có quan hệ gì với người khác thì không cách nào luận đoán, trừ phi ở trong mối quan hệ với họ. Đây là thành tựu lớn của bộ Hiện Đại Tử Vi, tuy chỉ hoàn thành một nửa trước. Về nửa sau liên quan đến "điều kiện ở trong mối quan hệ" thì phải đợi sư phụ của ông là Tử Vân giảng giải.
Vào tháng 3 năm 1985, trong giới nghiên cứu Đẩu Số xảy ra một sự kiện lớn, đó là sự xuất hiện của bộ sách "thiên cổ bí cấp" gọi là Hoa Sơn Khâm Thiên Tứ Hóa Tử Vi Đẩu Số phi tinh bí nghi, là bí truyền của Tố Tâm Lão Nhân truyền lại cho Sái Minh Hoành. Sự xuất hiện của nó tạo thành một trào lưu cực lớn về sau, ban đầu được rao bán trên tạp chí Tinh tướng với giá một vạn năm ngàn nguyên (đơn vị tiền tệ của Đài Loan), sau giá nâng lên tới ba trăm vạn nguyên.
Phi Tinh phái là một chi của Bắc phái TVĐS cũng nổi rộ lên trong thời kì này, hiện đang rất thịnh hành ở Đài Loan và Trung Quốc lục địa. Đại biểu nổi tiếng hiện nay là Lương Nhược Du mà sự phụ của Lương Nhược Du là Chu Thanh Hà, một cao thủ tiền bối của Phi Tinh Phái, nội dung TVĐS của phái này sẽ được trình bày đầy đủ trong Trung Châu Tử Vi Đẩu Số - Tứ Hóa Phái của cùng tác giả Nguyễn Anh Vũ.
Có nhiều người cho rằng TVĐS Phi Tinh phái là do người cận đại phát minh. Sở dĩ có sự hiểu lầm này, là do họ cứ nghĩ rằng TVĐS phi tinh bí nghi của Sái Minh Hoành là căn nguyên Phi Tinh phái. Rất nhiều người cho rằng TVĐS của Phi Tinh phái là do Sái Minh Hoành tự sáng chế ra.
Thực ra, trước khi TVĐS phi tinh bí nghi lưu truyền rộng rãi, lí luận TVĐS của Phi Tinh phái đã xuất hiện từ lâu. Vả lại, Phi Tinh Phái cũng có nhiều phân chi, Sái Minh Hoành cũng là một chi phái trong số đó, nhưng là phái được nhiều người biết đến vào thời kì này.
Ngoại trừ các bậc tiền bối như Ông Phúc Dụ, Phương Ngoại Chân, Từ Tăng Sinh, và Lương Nhược Vọng (học trò Sái Minh Hoành)... còn có một số người ít ai biết đến ở Trung Quốc lục địa, nhưng cũng là cao thủ truyền dạy theo truyền thống Bắc Phái Phi Tinh. Ngay như ở Đài Loan, chỉ nói số đồng môn cùng lứa với Sái Minh Hoành, ít nhất cũng có năm người. Hơn nữa, Sái Minh Hoành trong quyển 1 của Khâm Thiên tứ hóa TVĐS phi tinh bí nghi cũng có nói, "bí nghi" là do ông tập đại thành truyền thống Phi Tinh TVĐS. Cho nên, phải nói "bí nghi" là sở học của ông được truyền thừa mới đúng. Ví dụ như "Phi Tinh chuyển yết quan quyết" trong Khâm Thiên tứ hóa TVĐS phi tinh bí nghi (Phan Tử Ngư gọi là "Phi Yến Quỳnh Lâm", ông được bí truyền từ TQ lục địa) đã lưu truyền rộng rãi trước khi "bí nghi" xuất hiện, rất nhiều phái xem nó là "bí bảo".
Tử Vi đẩu số của bắc phái Phi Tinh (hay còn gọi là Tứ Hóa Phái) có nhiều truyền thừa khác nhau, lí luận của các chi hệ đều đại đồng tiểu dị. Đương nhiên, trong đó cũng có xuất hiện tư duy mới. Như "Đồng bộ đoán quyết" của Phương Ngoại Nhân chính là phát hiện độc đáo, nhưng nếu nghiên cứu tỉ mỉ nội chung của nó, chúng ta sẽ phát hiện kết luận của Phương Ngoại Nhân không tách rời lí luận cơ bản của Bắc Phái Phi Tinh, Phương Ngoại Nhân cũng nói thẳng, "Đồng bộ đoán quyết" chỉ là suy luận ra từ nền tảng truyền thống, chứ không phải là phát minh nguyên lý gì.
Tử Vi Đẩu Số đang trong giai đoạn hưng khởi, sự xuất hiện một nguồn tư liệu mới đã gây thêm hứng thú cho giới nghiên cứu Đẩu Số. Truyền thống Bắc Phái Phi Tinh đặc biệt ở chỗ vận dụng tứ hóa khác với truyền thống của Tam Hợp Phái. Phái này cho rằng sau khi lập xong mệnh bàn tiên thiên, trong 12 cung đều có thiên can riêng, thiên can của cung mệnh ngoại trừ dùng để tương phối với địa chi (nạp âm) để tính toàn bày bố 14 chính tinh, nó còn được dùng để bày ra một bộ tứ hóa, như vậy mệnh bàn tiên thiên sẽ thêm một tầng biến hóa, việc luận đoán cũng theo đó mà thâm sâu hơn. Càng tinh vi hơn là, không phải chỉ có cung mệnh phi xuất một bộ tứ hóa, mà 11 cung còn lại cũng vậy.
Trước tác của các cao thủ nổi tiếng trong Bắc Phái Phi Tinh gồm có Sái Minh Hoành, Tử Dương, Từ Tăng Sinh, Phương Ngoại Nhân, Khuyến Học Trai Chủ, Lương Nhược Du,v.v... đều có cống hiến đã kể. Phương pháp luận mệnh của họ khá phức tạp, nếu có điều kiện các bạn nên tìm hiểu trong Trung Châu Tử Vi Đẩu Số - Tứ Hóa Phái của cùng tác giả Nguyễn Anh Vũ.
Cũng trong khoảng thời gian này Vương Đình Chi xuất hiện và tự xưng mình là truyền nhân của phái Trung Châu, công nhận Tử vi Đẩu Số Giảng Nghĩa của Lục Bân Triệu là truyền bản của Khâm Thiên Giám Bí Cấp, và tiết lộ nội dung bí truyền Tử Vi Tinh Quyết của môn phái Trung Châu. Ảnh hưởng của Vương Đình Chi khá lớn ở Hương Cảng, về sau lan rộng qua Đài Loan, Singapore, Bắc Mĩ, v.v... kéo dài cho đến ngày nay. Phương pháp luận mệnh của ông là nội dung chủ yếu của bộ Trung Châu Tử Vi Đẩu Số - Tam Hợp Phái mà chúng tôi biên soạn để giới thiệu đến bạn đọc ở đây.
Nhờ sự thành công của bộ Hiện Đại Tử Vi, một số tác giả cũng bắt đầu viết sách, như Đường Sơn Dật Sĩ, Tuệ Canh, v.v... Trong số đó, các công trình của Tuệ Canh Thuật Sĩ là có ảnh hưởng nhất. Tác phẩm của Tuệ Canh là Tử Vi Đẩu Số khai vận toàn tập, trong đó quan niệm và ứng dụng của 12 cung, cho tới tính chất các tinh diệu đều được ông giảng giải rất tinh tế. Đây là sự kiện xảy ra sau năm 1988.
Cũng trong khoảng thời gian này, có một số học giả mới cũng trước thư lập thuyết, trong đó cũng có vài người đáng chú ý, như Ngô Đông Tiều trong Đẩu số tân quan niệm, Trần Thế Hưnh trong Tử Vi Đẩu Số đạo luận, Phúc Canh trong Đẩu Số tâm lí học, Tượng Sơn Cư Sĩ trong Thiên Tinh Đẩu Số bí cấp và Thiên Tinh Đẩu Số chân cơ điển phạm. Nhưng sách này phần lớn thảo luận về đặc tính cơ bản của tinh diệu và các cách cục, cũng có thành tựu.
Trong thời gian này, Liễu Vô Cư Sĩ mang Tử Vi Đẩu Số tuyên vi và Tử Vi Đẩu Số toàn tập ra chú giải; sau đó ông còn đem hết tâm lực ra để hệ thống hóa phương pháp Đẩu Số của mình, lúc này Liễu Vô Cư Sĩ đã dần dần có những quan điểm khác với sư phụ của mình là Tử Vân. Ông đề xuất một số điều, ví dụ như: Bỏ Lộc Tồn, Thiên Mã và các sao cấp 2; ông còn đề xuất: phế bỏ Hóa Quyền và Hóa Khoa, tứ hóa chỉ còn Hóa Lộc và Hóa Kị; ngoài ra còn có một số nguyên tác "khoa học thích dụng tính".
Lúc này TVĐS lộ rõ sức quyến rũ của nó. Ngày nay, có thể nói TVĐS chia thành hai dòng chính:
- Một là, chủ yếu lấy tinh diệu để luận đoán, gọi chung là Tam Hợp Phái (hay Nam Phái). Trong số các chi lưu thuộc Tam Hợp Phái, thì phái Trung Châu Vương Đình Chi là có hệ thống hoàn bị nhất.
- Hai là, chủ yếu lấy "tứ hóa" để luận đoán, gọi chung là Tứ Hóa Phái (hay Bắc Phái). Trong số các chi lưu thuộc hệ phái Tứ Hóa, thì Khâm Thiên Môn là có hệ thống nghiêm cẩn nhất.
Riêng tại Trung Hoa lục địa, trào lưu nghiên cứu thuật số nói chung, TVĐS nói riêng, cũng khá rầm rộ. Các lưu phái Tử Vi Đẩu Số ở đây phần lớn đều có khuynh hướng tổn hợp hai dòng chủ lưu kể trên. Đáng kể nhất có:
- Tử Vi phái do Vũ Quảng Thịnh sáng lập, chủi trương dung hợp tinh hoa của các phái hệ, với nguyên tắc "Đơn giản và trực tiếp thâm nhập chủ đề". Lí luận đẩu số của ông rất có giá trị tham khảo.
- "Kì Môn Phái", đại biểu hiện nay là Đại Đức Sơn Nhân với bộ Tử Vi Đẩu Số tinh thành, v.v... Ông chủ trương lấy các nguyên tắc của bản môn làm nền tảng, và cũng dung hợp tinh hoa của các phái để luận đoán.
► Xem Lịch vạn niên, lịch vạn sự chuẩn nhất tại Lichngaytot.com |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
![]() |
► ## giúp bạn tra cứu: Tử vi trọn đời theo ngày sinh chuẩn xác |
1. Sự kết duyên giữa nam Bính Dần 1986 và nữ Bính Dần 1986
Xung hợp niên mệnh theo ngũ hành
Niên mệnh Nam là Hỏa. Niên mệnh Nữ là Hỏa. Như vậy:
Niên mệnh nữ và niên mệnh nam không sinh không khắc với nhau.
Đánh giá Ngũ hành sinh khắc: Bình
Điểm: 1/2 điểm
Thiên can xung hợp
Thiên can Nam là Bính. Thiên can Nữ là Bính. Như vậy:
Thiên can của nữ bình hòa với thiên can của nam => Bình
Điểm: 1/2 điểm
Địa chi xung hợp
Địa chi Nam là Dần. Địa chi Nữ là Dần. Như vậy:
Địa chi của nữ và địa chi của nam không xung không hợp nhau.
Đánh giá Địa chi xung hợp: Bình
Điểm: 1/2 điểm
Bát trạch nhân duyên
Nam có cung mệnh là Khôn. Nữ có cung mệnh là: Khảm.
Xét theo tám cung biến hóa thì cung Khôn kết hợp với cung Khảm tạo nên Tuyệt Mệnh => Đại hung
Điểm: 0/2 điểm
Đoán số theo Cao Ly Đầu Hình
Theo khoa đoán số của CAO LY ĐẦU HÌNH thì Nam dụng Can, Nữ dụng Chi. Thiên can của nam là Bính, địa chi của nữ là Dần, như vậy:
Lúc đầu ăn ở đầm ấm, sau e phải phân ly. Phải ăn ở có đạo nghĩa thì mới tốt về sau.
Đánh giá Cao Ly Đầu Hình: Bình
Đánh giá: 1/2 điểm
Tổng kết luận: Tổng điểm: 4/10 điểm
Xem tuổi vợ chồng giữa 2 tuổi này có chỉ số tương đối thấp.
Xem tuổi vợ chồng tuổi Bính Dần
2. Sự kết duyên giữa nam Bính Dần 1986 và Nữ Đinh Mão 1987
Xung hợp niên mệnh theo ngũ hành
Niên mệnh Nam là Hỏa. Niên mệnh Nữ là Hỏa. Như vậy:
Niên mệnh nữ và niên mệnh nam không sinh không khắc với nhau.
Đánh giá Ngũ hành sinh khắc: Bình
Điểm: 1/2 điểm
Thiên can xung hợp
Thiên can Nam là Bính. Thiên can Nữ là Đinh. Như vậy:
Thiên can của nữ bình hòa với thiên can của nam.
Đánh giá Thiên can xung hợp: Bình
Điểm: 1/2 điểm
Địa chi xung hợp
Địa chi Nam là Dần. Địa chi Nữ là Mão. Như vậy: Địa chi của nữ và địa chi của nam không xung không hợp nhau.
Đánh giá Địa chi xung hợp: Bình
Điểm: 1/2 điểm
Bát trạch nhân duyên
Nam có cung mệnh là Khôn. Nữ có cung mệnh là: Khôn.
Xét theo tám cung biến hóa thì cung Khôn kết hợp với cung Khôn tạo nên Phục Vị (Quy Hồn), bình an => Tiểu cát
Điểm: 1/2 điểm
Đoán số theo Cao Ly Đầu Hình
Đánh giá Cao Ly Đầu Hình: Hung
Đánh giá: 0/2 điểm
Tổng kết luận : Tổng điểm: 4/10 điểm
Xem tuổi vợ chồng giữa 2 tuổi này có chỉ số tương đối thấp.
3. Sự kết duyên giữa nam Bính Dần 1986 và nữ Bính Thìn 1988
Xung hợp niên mệnh theo ngũ hành
Niên mệnh Nam là Hỏa. Niên mệnh Nữ là Mộc. Như vậy:
Niên mệnh nữ tương sinh với niên mệnh nam vì Mộc sinh Hỏa. Quan hệ tương sinh là sinh nhập, mệnh nữ tốt cho mệnh nam.
Đánh giá Ngũ hành sinh khắc: Đại cát
Điểm: 2/2 điểm
Thiên can xung hợp
Thiên can Nam là Bính. Thiên can Nữ là Mậu. Như vậy:
Thiên can của nữ bình hòa với thiên can của nam.
Đánh giá Thiên can xung hợp: Bình
Điểm: 1/2 điểm
Địa chi xung hợp
Địa chi Nam là Dần. Địa chi Nữ là Thìn. Như vậy:
Địa chi của nữ và địa chi của nam không xung không hợp nhau.
Đánh giá Địa chi xung hợp: Bình
Điểm: 1/2 điểm
Bát trạch nhân duyên
Nam có cung mệnh là Khôn. Nữ có cung mệnh là: Chấn.
Xét theo tám cung biến hóa thì cung Khôn kết hợp với cung Chấn tạo nên Họa Hại (Tuyệt Thế) => Hung
Điểm: 0.5/2 điểm
Đoán số theo Cao Ly Đầu Hình
Đánh giá Cao Ly Đầu Hình: Hung
Đánh giá: 0/2 điểm
Kết luận: Tổng điểm: 4.5/10 điểm
Xem tuổi vợ chồng giữa 2 tuổi này có chỉ số không cao lắm
4. Sự kết duyên giữa nam Bính Dần và nữ Kỷ Tị 1989
Xung hợp niên mệnh theo ngũ hành
Niên mệnh Nam là Hỏa. Niên mệnh Nữ là Mộc. Như vậy:
Niên mệnh nữ tương sinh với niên mệnh nam vì Mộc sinh Hỏa. Quan hệ tương sinh là sinh nhập, mệnh nữ tốt cho mệnh nam.
Đánh giá Ngũ hành sinh khắc: Đại cát
Điểm: 2/2 điểm
Thiên can xung hợp
Thiên can Nam là Bính. Thiên can Nữ là Kỷ. Như vậy:
Thiên can của nữ bình hòa với thiên can của nam.
Đánh giá Thiên can xung hợp: Bình
Điểm: 1/2 điểm
Địa chi xung hợp
Địa chi Nam là Dần. Địa chi Nữ là Tị. Như vậy:
Địa chi của nữ và địa chi của nam phạm Lục Hại (Dần hại Tỵ), phạm Tứ Hành Xung (Dần – Thân – Tỵ – Hợi), lại phạm Tương hình (Dần – Tỵ – Thân chống nhau).
Đánh giá Địa chi xung hợp: Hung
Điểm: 0/2 điểm
Bát trạch nhân duyên
Nam có cung mệnh là Khôn. Nữ có cung mệnh là: Tốn.
Xét theo tám cung biến hóa thì cung Khôn kết hợp với cung Tốn tạo nên Ngũ Quỷ => Đại hung
Điểm: 0/2 điểm
Đoán số theo Cao Ly Đầu Hình
Đánh giá Cao Ly Đầu Hình: Cát
Đánh giá: 2/2 điểm
Kết luận : Tổng điểm: 5/10 điểm
Xem tuổi vợ chồng giữa 2 tuổi này có chỉ số ở mức trung bình
Trong Nhân tướng học, mũi là cơ quan có vị trí rất quan trọng để nhận định và phán đoán về một người. Mũi nằm ở vùng trung tâm của gương mặt, còn được gọi là "đỉnh của Ngũ nhạc". Ngũ nhạc" trên khuôn mặt của mỗi người, ngoài mũi là "đỉnh của Ngũ nhạc", còn có trán là "Bắc nhạc", gò má bên trái là "Đông nhạc", gò má bên phải là "Tây nhạc" và cằm là "Nam nhạc", sống mũi thẳng, thanh tú cho thấy vận thế càng về sau càng tốt và chắc chắn tương lai sẽ trở thành người có quyền thế, địa vị cao trong xã hội, được hưởng cuộc sống vinh hoa phú quý. Tài khố (kho của) tiên thiên của mỗi người được thể hiện ở phần mũi. Vì vậy, có thể nói rằng, hình dạng của mũi sẽ có ảnh huởng trực tiếp đến đời sống vật chất, kinh tế của mỗi người.
1. Xem tướng mũi bàn về Sơn căn
Sơn căn là gì? Sơn căn là nơi khởi điểm của mũi, nằm ở giữa hai mắt và trên đường thẳng của sống mũi. Nếu bạn dùng ngón tay, đặt ở chính giữa trán, di chuyển theo đường thẳng đứng đi xuống. Ngay khi vào khu vực giữa 2 đôi mắt, bạn thấy ngón tay bị thụt xuống do đi vào chỗ lõm, di chuyển tiếp lại thấy ngón tay được đưa lên đi vào sống mũi. Chỗ lõm xuống vừa vặn với ngón tay đấy là vị trí của Sơn căn.
Sơ căn là phần giữa mắt và sống mũi
Cơ sở của sự nghiệp thường được biểu hiện rõ ràng trên sơn căn của mỗi người. Đồng thời, tình trạng sức khoẻ cũng được thể hiện qua bộ phận này.
Những người có Sơn căn lõm sâu xuống thường không có chí tiến thủ, lười nhác có thái độ tiêu cực trong mọi việc. Sức khoẻ của họ cũng không được tốt, dễ mắc liều bệnh tật. Họ cũng thường không có chủ kiến, chịu nhiều ảnh hưởng từ bạn bè người xung quanh nên thường xuyên bị "dắt mũi", bị lừa gạt hoặc thậm chí lầm đường lạc lối, nên cần hết sức cố gắng, nỗ lực vươn lên, cố gắng nhiều sẽ gặt hái được nhiều và cũng phải nỗ lực trong thời gian tương đối dài mới có được thành tựu.
Ngược lại, những người có Sơn căn đầy đặn, nhô cao, không có nốt ruồi xấu sẹo, sẽ luôn có chủ kiến, có khả năng phán đoán tương đối tốt, có quý nhân phù trợ nên sự nghiệp sẽ phát triển tốt. Có cơ sở vững chắc, ổn định, không gặp khó khăn về sức khoẻ nên chắc chắn sự nghiệp của họ cũng sẽ rất hanh thông, thuận lợi.
2. Xem tướng mũi bàn về Sống mũi
Sống mũi thẳng, không gồ ghề và có chiều dài phù hợp với gương mặt được coi là đẹp.
Những người có sống mũi thẳng thường rất lương thiện, trong sáng, hành vi đàng hoàng, quang minh chính đại, mọi người đều muốn được làm quen và kết bạn với họ nên họ sẽ có được những mối quan hệ tốt đẹp, thường có được bạn đời tốt đẹp, sự nghiệp và tài vận đều rất hanh thông, thuận lợi.
Ngược lại, những người có sống mũi lệch, vẹo hoặc gồ ghề thường có tâm địa, suy nghĩ thường không tốt đẹp, lúc nào cũng chỉ muốn tranh giành phần hơn với người khác.
Độ dài của sống mũi cũng là một trong những căn cứ tham khảo quan trọng trong khi nhìn nhận về một con người.
Những người có sống mũi tương đối dài thường thiếu quyết đoán, làm việc hay chần chừ, do dự nên để lỡ nhiều cơ hội tốt. Lời khuyên dành cho họ là phải cố gắng sửa chữa khuyết điểm, cần tích cực, quyết đoán hơn nữa.
Ngược lại, những người có sống mũi ngắn lại thường hành xử thô lỗ, vụng về và hay nổi nóng, làm bất cứ việc gì cũng muốn hành động nhanh chóng, dùng nhiều tiểu xảo, dám mạo hiểm, khá kiên quyết theo ý kiến bản thân.
3.Xem tướng mũi bàn về Chuẩn đầu
Chuẩn đầu là gì? Chuẩn đầu chính là vị trí nhô cao lên rõ rệt nhất trên phần chóp mũi. Đây cũng là một trong những căn cứ tham khảo quan trọng nhất của mũi. Khả năng kinh tế của một người mạnh hay yếu thường được thể hiện qua chuẩn đầu.
Chuẩn đầu nằm ở phẩn giữa chóp mũi. Những người có chuẩn đầu đẩy đặn thường rất coi trọng tình cảm, thích kết giao bạn bè. Ngoài ra, hình dạng của chuẩn đầu cũng đại diện cho tiểm năng kinh tế mạnh hay yếu. Những người có chuẩn đầu to sẽ có tiềm lực kinh tế tốt, biết cách đẩu tư tiền bạc để sinh lời nên sẽ thu được nhiều thành tựu lỏn, vận thế càng ngày càng tốt đẹp.
Chuẩn đầu to, không có sẹo hay nốt ruồi xấu cho thấy người này rất có tiềm lực về kinh tế. Bằng các kế hoạch đầu tư tài chính khôn ngoan, người này sẽ nhanh chóng tích lũy được nhiêu của cải, vận thế càng ngày càng tốt đẹp hơn.
Ngược lại, những người có chuẩn đầu lõm, bên trên có vết sẹo hoặc nốt ruồi xấu thường không có tiềm lực kinh tế mạnh, thường bị chi phối bởi cảm xúc. Họ dễ thay đổi, hay bị ảnh hưỏng bởi mọi người xung quanh, hay lãng phí tiền bạc một cách tự tiện, lại không biết cách đầu tư khôn ngoan nên sẽ phải "mang công mắc nợ" thậm chí dẫn đến phá sản.
Những người có chuẩn đầu đầy đặn thường rất coi trọng tình cảm, thích kết giao bạn bè và luôn trân trọng người khác, đặc biệt là bạn đời của mình. Họ củng chăm chỉ làm việc và chì kiếm tiền bằng những công việc đàng hoàng, trong sạch
Những người có chuẩn đầu nhọn, rủ xuống bên dưới hoặc khoằm lại như mỏ diều hâu thường có nhiều mưu sâu kế hiểm, luôn thích đấu đá hơn thua với người khác. Với dạng người này, tốt nhất nên tránh càng xa càng tốt, tốt nhất không nên giao du quá thân thiết với họ.
4. Xem tướng mũi bàn về Cánh mũi
Cánh mũi còn gọi là "thương khố", tượng trưng cho nơi cất giữ tiền tài của mỗi người.
Những người có cánh mũi dày và đây đặn thường sẽ không bao giờ phải lo lắng về chuyện tiền bạc. Đối với họ, "tiền đi rồi sẽ quay trở lại" nên họ thường rất rộng rãi với bạn bè. Tuy nhiên, không phải lúc nào họ cũng "vung tay quá trán" mà cũng biết tiết kiệm những khi cần thiết.
Những người trên cánh mũi có vết sẹo hoặc nốt ruồi xấu thường rất sùng bái; đồng tiền và luôn thích theo đuổi những giá trị vật chất. Tuy nhiên, họ cũng thường bị bạn bè làm cho liên luỵ bởi những phiên toái không đáng có. Nếu hai cánh hếch lên, có thể nhìn thấy cả lỗ mũi thì những người này sẽ có tính tình vui vẻ.
Khoảng cách tốt nhất giữa hai đầu lông mày là bao nhiêu? Lấy bề rộng của đẩu ngón tay làm thước đo tiêu chuẩn. Khoảng cách tốt nhất giữa hai đầu lông mày là bằng độ rộng của một ngón tay rưỡi. Nếu khoảng cách này bằng hoặc lớn hơn bẽ rộng của hai đầu ngón tay là quá rộng, không tốt.
- Xem tướng mũi đẹp là mũi rộng, sống mũi dài, cánh mũi dày và đầy đặn, cho thấy tài vận vượng phát mạnh mẽ. Ngược lại, tướng mũi xấu bao gồm mũi nhọn, nhồ, sống mũi gầy, cánh mũi nhỏ, đều chủ về vận mệnh không tốt đẹp.
- Mũi sư tử là dạng mũi có bể ngang rộng và hơi bẻ ra, đáy dặn. Những người có dạng mũi này sẽ rất thông minh, sáng dạ, cuộc sống giàu sang phú quý.
- Sống mũi tuy ngắn nhưng phần đầu mũi và cánh mũi lại bẻ ra rất to và đầy đặn. Những ngưòi có dạng mũi này khi về già sẽ có nhiểu tiền tài, của cải, được hưởng cuộc sống vui vẻ, sung túc.
- Tướng mũi dài và rộng là người ý chí kiên cường. Những người có mũi dải và rộng thường có ỷ chí rất mạnh mẽ, kiên cường. Họ cũng có nhiều khả năng phi phàm trong nhiều lĩnh vực, được mọi người khâm phục, mến mộ.
Nữ mệnh tuổi Bính Dần sinh năm 1986 tuổi con Hổ.
Cung Khảm, mạng lư trung hỏa (lửa trong lò) thuộc Đông tứ mệnh.
Màu sắc hợp với màu trắng, bạc, kem, thuộc hành Kim (giúp tương sinh tốt). Chọn màu đen, xám, màu xanh nước biển sẫm thuộc hành Thủy giúp mệnh tương vượng.
Hướng tốt hợp với nữ sinh năm 1986: Chọn hướng Bắc phục vị để được sự giúp đỡ, hướng Đông thiên y được thiên thời che chở, hướng Nam diên niên giúp mọi sự ổn định, hướng Đông Nam sinh khí để có phúc lộc vẹn toàn.
Xem tử vi nữ mệnh Bính Dần trong năm 2016
Tuổi Bính Dần tiền vận rất khổ cực, âu sầu, tâm trí không được yên vui, lo nghĩ triền miên, cuộc sống lên xuống không chững đỗi. Vào trung vận cũng nhiều lao đao lắm, chưa bao giờ có được sự thảnh thơi, cho nên cuộc sống vào thời kỳ tiền vận thường bị hăm dọa, trung vận cũng có nhiều sầu khổ lo âu về cuộc sống, hậu vận mới an nhàn và thảnh thơi được.
Tóm lại: Cuộc đời của tuổi Bính Dần vào tiền vận thì khổ sở, trung vận lao đao, hậu vận, mới được an nhàn.
Về tình duyên tiền vận cung có nhiều khó khăn rồi mới thành. Theo tướng số và tử vi, tuổi Bính Dần về tình duyên chia ra làm 3 giai đoạn như sau:
Sinh vào những tháng 2, 6, 8 và 10 âm lịch thì cuộc đời của bạn có 3 lần thay đổi tình duyên và hạnh phúc. Còn nếu bạn sinh vào tháng 2, 4, 7, 9, và 11 âm lịch thì cuộc đời của bạn có hai lần thay đổi tình duyên và hạnh phúc. Nếu bạn sinh vào những tháng 1, 5 và 12 âm lịch thì cuộc đời bạn hoàn toàn được hạnh phúc và không có thay đổi về tình duyên.
Trong việc hôn nhân bạn cần phải lựa chọn những tuổi hợp với tuổi của mình thì mới có thể tạo được một cuộc sống đầy đủ và vui tươi. Nếu bạn cọn được những tuổi sau đây để kết hôn thì bạn sẽ sống một cuộc sống hoàn toàn giàu sang hay ít ra cũng dư giả về tiền bạc, cuộc đời hoàn toàn sung sướng. Đó là khi bạn chọn kết hôn với các tuổi Đinh Mão, Canh Ngọ, Quý Dậu, Ất Hợi, Giáp Tý, Quý Hợi.
Vào những năm khi bạn ở độ tuổi 22 28, 34, 40, 46 và 52 tuổi là những năm xung kỵ tuổi, bạn không nên kết hôn vào độ tuổi này. Nếu việc kết hôn thành thì phải gặp cảnh xa vắng triền miên, sầu khổ, âu lo về việc gia đình, nhưng năm này mà có chồng rồi thì gặp phải cảnh xa vắng luôn luôn.
Còn nếu bạn sinh vào những tháng 2, 3 và 9 âm lịch thì tình duyên của bạn có nhiều thay đổi, cuộc đời bạn phải trải qua nhiều đời chồng, rất đa đoan về tình duyên.
Công danh nếu có cũng chỉ ở mức độ tầm thường, nếu không có công danh thì việc làm ăn có nhiều tấn phát. Phần gia đạo từ 40 tuổi trở đi sẽ được êm ấm không có gì xảy ra có thể làm cho gia đạo ở trong sự bão tố cuộc đời.
Sự nghiệp được vững chắc từ lúc vừa vào 40 tuổi. Tiền bạc có cơ hội phát triển vào tuổi 42 trở đi, vào tuổi này thì mới dư giả, có cơ hội tạo được sự nghiệp và tiền bạc đầy đủ.
Trong việc làm ăn hay hợp tác làm ăn, nữ mệnh Bính Dần cần lựa chọn những tuổi hợp với mình mới làm ăn dễ thành công, nhanh thăng tiến được. Đó là những người ở tuổi Đinh Mão, Canh Ngọ, Quý Dậu. Ba tuổi này rất hợp với tuổi Bính Dần trong mọi khía cạnh trong cuộc đời.
Từ 18 đến 25 tuổi: Năm 18 tuổi nên đề phòng vấn đề tình cảm, coi chừng bị lợi dụng. Năm 19 tuổi sẽ gặp một chuyện tình đẹp, nhưng rồi cũng vẫn bị tan vỡ. Năm 20 tuổi kỵ tháng 6, kỵ màu đen và kỵ đi xa. Từ năm 21 đến năm 23 tuổi, trong ba năm này nhất định bạn sẽ gặp được người tình lý tưởng của bạn. Năm 24 tuổi, năm này nếu bạn lập gia đình thì sẽ rất tốt. Năm 25 tuổi là năm đầy đủ hạnh phúc, cuộc đời bắt đầu phát triển từ đây.
Từ năm 26 đến năm 30 tuổi: Đây là khoảng thời gian đẹp nhất của đời bạn, gia đình thì êm ấm hạnh phúc, con cái đều được như ý, nếu bạn đã có gia đình thì tiền bạc và tài lộc vào như nước. Bạn nên lợi dụng những điều tốt nhất này để xây dựng sự nghiệp vì đây là những năm của bạn, không hề có sự thất bại hay buồn phiền.
Từ năm 31 đến năm 35 tuổi: Cuộc đời con người ta như nước thủy triều, vì vậy có khi lên thì sẽ có khi xuống, đây là những năm xuống của cuộc đời bạn, vì suốt khoảng thời gian này nhất định bạn sẽ bị lừa gạt, hao tài tốn của hoặc sẽ bị đau bệnh triền miên, làm ăn thất bại, việc gì cũng không thành. Tuy nhiên về bổn mạng nhờ có quý nhân phù trợ nên vẫn được vững vàng.
Từ năm 36 đến năm 40 tuổi: Khoảng thời gian này là khoảng thời gian yên tĩnh của đời bạn, tài lộc trung bình, tuy nhiên sẽ có một vài sự sôi nổi về vấn đề tình cảm, hãy đề phòng, bạn có thể vì một phút yếu lòng nào đó mà có thể làm cho hạnh phúc gia đình của bạn bị sứt mẻ hoặc sụp đổ bất ngờ.
Từ năm 41 đến năm 45 tuổi: Năm 41 tuổi, năm này hơi xấu vào nhữn g tháng đầu năm, vào tháng 6 trở đi thì khá. Năm 42 tuổi năm này có nhiều triển vọng tốt đẹp nghề nghiệp, tài lộc có kết quả mỹ mãn. Năm 43 tuổi, năm này có kỵ vào tháng 3 và tháng 6, ngoài ra những tháng khác trung bình. Năm 44 tuổi năm này tài lộc tốt đẹp, toàn năm thu nhiều thắng lợi về nghề nghiệp và tình cảm. Năm 45 tuổi năm này có tốt đường tài lộc vào những tháng đầu năm, những tháng cuối năm có hơi xấu.
Từ năm 46 đến 50 tuổi: Năm 46 tuổi, khá tốt và có thể làm được nhiều việc vĩ đại trong đời, năm này tài lộc vượng phát. Năm 47 và 48 tuổi hai năm này trung bình không lên cao cũng không xuống thấp. Năm 49 và 50 tuổi hai năm này vượng phát về vấn đề tài lộc và vấn đề tình cảm nhất là những tháng 4 và tháng 7 đại lợi.
Từ năm 51 đến năm 55 tuổi: Khoảng thời gian này việc àm ăn trung bình. Năm 51 tuổi, có hao tài đôi chút. Năm 52 tuổi có phần thu hoạch được nhiều tiền bạc. Năm 53 tuổi, khá hay về đường tình cảm, năm này có kỵ tháng 4. Năm 54 tuổi toàn năm đều xấu nên đề phòng tai nạn và bệnh tật. Năm 55 tuổi năm này bình thường, không có chuyện gì xảy ra quan trọng.
Từ năm 56 đến năm 60 tuổi: Khoảng thời gian này nên cẩn thẩn về bổn mạng và thân thể. Năm năm khó tránh được điều xấu làm cho thân phận có nhiều rầu buồn, hãy cố gắng sống một đời sống đạo đức, ăn ở hiền lành thì trời Phật độ.
Mùa xuân - giàu có
Tuổi Chuột, tuổi Rồng, tuổi Mèo, tuổi Ngựa, tuổi Khỉ
Những người tuổi Chuột, Rồng, Mèo, Ngựa, Khỉ sinh vào mùa xuân sẽ rất biết cách kiếm tiền, tìm kiếm cơ hội mới khá nhanh. Tuy vậy, bản thân họ không cần biết kiếm được nhiều tiền hay ít tiền đều không nỡ tiêu. Thông thường, hoặc là tích góp lại, hoặc là mua vật gì đó có thể tăng giá trị để tích lũy nhiều tiền hơn. Họ cũng không thích cho người khác vay tiền, có đôi chút kẹt xỉ, nhưng lúc nào cần hào phóng thì vẫn rất hào phóng.
Mùa hè – khỏe mạnh
Tuổi Hổ, tuổi Dê, tuổi Rắn, tuổi Rồng, tuổi Chó
Những con giáp Hổ, Dê, Rắn, Rồng, Chó sinh vào mùa hè, ngoài biết làm việc ra, còn rất biết hưởng thụ cuộc sống, cũng biết chăm lo cho mình và mọi người. Những người này đặc biệt chú ý đến sức khỏe của mình và những người xung quanh. Họ thích giúp đỡ người khác, do vậy tình trạng sức khỏe của họ rất tốt, thường không bị già. Càng nhiều tuổi thì họ càng có nhiều sức hấp dẫn.
Mùa thu – có phúc
Tuổi Mèo, tuổi Lợn, tuổi Chuột, tuổi Trâu, tuổi Hổ
Những người tuổi Mèo, Lợn, Chuột, Trâu, Hổ sinh vào mùa thu, vừa sinh ra tài vận đã rất tốt. Số mệnh của họ trường khi không còn tiền thì tiền tài sẽ tự động đến. Đồng thời bọn họ có nhiều người theo đuổi nhưng lại rất biết giữ chừng mực, có giới hạn rõ ràng chứ không hề lạm dụng. Họ có khả năng biểu đạt ngôn ngữ tốt, nên đi đâu cũng được mọi người yêu quý, may mắn lúc nào cũng bám xung quanh nên khi gặp khó khăn cũng rất nhanh chóng giải quyết.
Mùa đông – phú quý
Tuổi Dê, tuổi Trâu, tuổi Rắn, tuổi Chó, tuổi Gà
Thời niên thiếu của những người tuổi Dê, Trâu, Rắn, Chó, Gà sinh vào mùa đông thường trắc trở, cuộc sống phần nhiều khó khăn. Nhưng bước vào thời thanh niên trở đi, khi mà tự mình có thể độc lập tự chủ, sẽ nỗ lực kiếm kiến, dần dần từ không thành có. Không chỉ bước thẳng tới cuộc sống giàu có mà đồng thời họ cũng nhận được sự tôn trọng và công nhận từ những người xung quanh. Những người này có cuộc sống nửa cuối đời sung túc, có thân phận và địa vị.
Những câu hỏi Tết Đoan Ngọ là ngày gì? Nguồn gốc, ý nghĩa của ngày Tết Đoan Ngọ với người dân Việt Nam ta như thế nào?... là những thắc mắc nhiều người quan tâm. Theo sách Phong Thổ ký thì Tết Đoan Ngọ còn gọi là Tết Đoan Dương. Đoan nghĩa là mở đầu, Ngọ là giữa trưa, Đoan Ngọ là bắt đầu lúc giữa trưa; còn Dương là mặt trời, là khí dương Đoan Dương nghĩa là bắt đầu lúc khí dương đang thịnh. Sở dĩ Tết này được gọi là Tết Đoan Ngọ, chính vì tháng 5 âm lịch là tháng bắt đầu nắng to, khi dương đang thịnh như mặt trời vào lúc giữa trưa. Theo địa bàn thì phương Nam là chính Ngọ, mà Ngọ là ngôi dương, cho nên tết này là Tết Đoan Dương. Hơn nữa, tháng Năm cũng lại là tháng Ngọ trong một năm.
![]() |
![]() |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
trang nhã sẽ tăng thêm vượng khí cho môi trường sống.
![]() |
(Ảnh chỉ mang tính minh họa) |
Hãy đặt nữ trang để tăng thêm vẻ rực rỡ cho bàn trang điểm. Chúng có thể được làm bằng thủy tinh màu hoặc pha lê và sẽ phát ra năng lượng đầy hứng khởi vào buổi sớm. Hãy đặt một tấm gương thật tốt với khung đẹp để phản chiếu gương mặt tươi vui của bạn.
(Theo Phong thủy đem lại sức sống cho bạn)
Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!
Lời răn dạy của phật
Khẩu: Miệng, lời nói. Nghiệp: Cái hậu quả của việc làm thiện hay ác trong kiếp trước thể hiện ra trong kiếp hiện tại bằng sự hạnh phúc hay đau khổ. Khẩu nghiệp là cái nghiệp do lời nói từ miệng mình gây ra, nên Khẩu nghiệp cũng được gọi là Ngữ nghiệp.
Khi nói Khẩu nghiệp là có ý nói: Khẩu ác nghiệp. Khẩu ác nghiệp có 4 tội:
– Vọng ngữ (nói láo)
– Ỷ ngữ (nói thêu dệt)
– Lưỡng thiệt (đâm thọc)
– Ác khẩu (chửi rủa).
“Lời nói không thể thấy, không thể cầm nắm được, hình như không có tướng, thế mà tự xưa nay đã gây nên biết bao nụ cười và nước mắt. Có phản ứng tức có tác nhân. Nói đến nhân là nói tướng. Vậy tướng của lời nói là gì? Người nóng nảy thì hay nói lời xúc xiểm, người dối trá thì lời nói trơn tuột, chẳng thể bắt bẻ họ, nhưng cũng không thể hiểu tâm họ ra sao? Người thâm hiểm thì nói xúc phạm đến kẻ khác bằng giọng nói như hiền từ… tất cả ngôn ngữ này đều phát sinh từ một gốc, đó là Tâm; Và do đó tướng của ngôn ngữ là Tâm. Tâm Phật thì lời nói là pháp thiện, Tâm chúng sanh thì lời nói thành ác nghiệp. Tâm chúng sanh có muôn ngàn tướng thì lời nói cũng gây muôn ngàn nghiệp báo.
Nên quan sát ngôn ngữ của một người là quan sát tâm người ấy. Cách biểu lộ Tâm ở mỗi người mỗi khác, cho nên gọi mỗi người có một ngôn ngữ riêng cũng đúng. Con hãy hiểu họ theo Tâm, đừng chỉ nghe hời hợt bằng tai. Ðó là quan sát âm thanh.
Khi con “không thích lắm” một điều gì, con thường nói “rất ghét” điều ấy. Ở một người chín chắn hơn, họ sẽ nói “không chú ý lắm”. Nếu chỉ hiểu theo cái nghe của tai thì hai lời nói này là 2 sở thích khác nhau. Từ đó gây biết bao điều ngộ nhận.
Ðể quan sát được âm thanh như thật, con không thể dùng cái nghe của tai. Con hãy nghe bằng Tâm. Dùng Tâm mà hiểu tâm, mà tâm nào có thể hiểu tất cả các thứ tâm của chúng sanh? Ðó là tâm Phật. Con không thể thấy tất cả các tâm của người đối thoại, chắc chắn con không thể hiểu hết lời nói của họ. Cho nên chớ vội phản ứng theo cái nghe của riêng mình. Lời nói là Tâm, cho nên Tâm ác sinh lời nói ác. Dù được ẩn giấu, dù người không phát hiện, hay không phản ứng thì điều ác đã sinh, vẫn đem lại quả báo Ác cho con.
Câu nói dân gian “Khẩu xà tâm Phật” là sai hoàn toàn, Phật chẳng bao giờ nói lời độc ác, hại người, là tính cách các con dùng để tả Rắn. Ở mỗi người có cách nói thương khác nhau, có cách biểu hiện Từ Bi khác nhau. Như hạnh sai biệt của các Bồ Tát, thị hiện là Phán quan cũng xét xử công minh, khó có thể gọi là Ác tướng.
Chư Tổ mắng chửi đệ tử từ tâm không, để giáo hóa nhẫn hạnh hay khai ngộ Chân tánh, chẳng thể gọi là Ác khẩu. Nhưng người tự cho mình có Tâm lành, nên buông lời không kềm chế, mỗi lời nói gây hại cho kẻ khác không kể xiết, lại ngụy biện bằng câu “Khẩu xà Tâm Phật” thì khẩu nghiệp ấy thật khôn lường. Từ Tâm Phật thì lời ấy dù thế nào cũng mang lợi cho người nghe. Ngược lại, chỉ gây hại đó gọi là Ác khẩu. Và Tâm Ác sinh tướng Ác, sinh khẩu Ác, sinh nghiệp Ác, sinh Ác báo.
Con hãy cẩn thận lời nói. Lời nói là hơi thở từ miệng. Mà sống chết theo từng hơi thở ra vào, cho nên sống chết cũng theo từng lời nói mà đến đi.
Tôn giả Ma Ha Mục Kiền Liên là vị có thần thông đệ nhất. Nhưng Đức Thế Tôn đã nhiều lần cảnh cáo ông không được tùy tiện hiển hiện thần thông. Tại sao? Bởi vì không phải ai ai cũng có thần thông. Nếu quý vị hiện thần thông một cách bừa bãi, sẽ làm người thế tục kinh sợ, rồi khiến họ mê thích thần thông, sùng bái thần thông. Thế thì người có thần thông sẽ được cúng dường lớn, còn người không có thần thông chắc là chẳng ai muốn cúng dường. Bởi vậy Đức Phật mới không cho đệ tử tùy tiện hiện thần thông, với dụng ý là bảo hộ người tu hành đời sau này.
Người tu hành không nên tự khoe khoang về đức hạnh, như nói là mình đã khai ngộ, mình là Tổ Sư hay là Bồ Tát. Đó là đại vọng ngữ, tương lai chết đi sẽ đọa địa ngục bạt thiệt cắt lưỡi. Đây tuyệt hẳn không phải là những lời hí luận giỡn chơi. Chỉ những hạng người vô tri, vô thức mới có thứ hành vi tự mãn như thế. Ví như người nào đó thật sự giàu có, họ tuyệt đối sẽ không nói với người khác rằng: “Các anh có biết không? Tôi có bấy nhiêu hột xoàn, bấy nhiêu ngọc quý. Tất cả tài sản bảo vật của toàn thế giới, nếu so ra cũng không nhiều bằng của tôi đâu”. Nếu quý vị tuyên truyền như thế, tức làm mục tiêu cho bọn trộm cướp, chúng nhất định sẽ chú ý đến quý vị và tìm cách cướp đoạt châu báu đó.
Tu đạo cũng tương tự như thế, không nên nói với người khác rằng: “Tôi có thần thông. Tôi có thể nghe Phật và Bồ Tát nói chuyện. Tôi có thể thấy Phật, Bồ Tát hiện ra trước mặt”. Hoặc giả có như thế, tức là tạo cơ hội cho Ma Vương thừa dịp nhập vào hợp tác với quý vị, chỉ huy quý vị để làm quyến thuộc của nó. Bất luận gặp cảnh giới nào, người tu hành cũng nên nhận rõ cảnh giới, chớ để cảnh giới xoay chuyển và nên dùng định lực để chuyển cảnh giới. Không nên hồ đồ, nói năng bừa bãi là mình chứng được thần thông gì, thấy được cảnh giới gì. Quý vị nên hiểu đó là do ma tác quái, nó khiến quý vị mất đạo tâm mà phát cuồng. Đó chính là hiện tượng bị “tẩu hỏa nhập ma”, chứ không phải là cảnh giới thật. Trong kinh Lăng Nghiêm có nói rất rõ về năm mươi loại ấm ma.
Tôi hy vọng mọi người nên triệt để nghiên cứu thấu đáo để khỏi bị nhầm lẫn. Nếu không thì sau này có hối hận cũng không kịp. Người tham thiền không nên chấp vào cảnh giới, gọi là: “Phật đến thì chém Phật, ma đến thì chém ma”. Bất luận ai đến, mình cũng chém hết. Đó là không chấp tất cả các pháp hữu vi, không chấp tất cả các hình tướng. Người tu hành nên chuyên cần nhất tâm dụng công, nếu được vậy thì còn thời gian đâu để lo những chuyện tào lao. Hơn nữa cũng không nên cống cao ngã mạn, mà cũng đừng tham danh, tham lợi. Nếu như quý vị có thứ tư tưởng và hành vi như thế, tức quý vị bị rơi vào cảnh giới của ma rồi. Người tu hành dù ở trong hoàn cảnh nào cũng không nên tự mãn, không được kiêu ngạo, hoặc nghĩ mình là nổi bật, phi thường. Hãy cẩn thận, không nên sai lầm về nhân quả. Nếu không, chúng ta không tưởng tượng nổi hậu quả sẽ như thế nào.
Người tu hành chủ yếu là tu giới thanh tịnh, tức là ba nghiệp thân, khẩu, ý đều nên thanh tịnh. Người có thần thông, tuyệt đối không được nói là mình có thần thông; Hà huống mình vốn không có thần thông mà nói bừa nói láo, há đó không phải là tạo nhân để đọa địa ngục sao? Điều đó quả thật là đáng sợ!
>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?
Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>
Những ác nghiệp tuyệt đối không được phạm phải
Nếu như một người có thể bình an, vui vẻ và khoan khoái mà vượt qua cuộc đời này, thì người đó quả thực là một người vô cùng may mắn. Nhưng nếu muốn tận lực để nghĩ cách thoát khỏi những thống khổ và phiền não này, để chúng ta mỗi ngày đều được sống một cách vui vẻ tự tại, không nuối tiếc, thì cũng không phải là điều quá khó – chỉ cần bạn tin tưởng vào “nhân quả”, nhớ kỹ câu “thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo” (làm điều thiện được thiện báo, làm điều ác bị báo ứng), đồng thời ghi nhớ một số việc nhất định không được làm sau đây, vì những việc này ảnh hưởng cực kỳ lớn tới cả cuộc đời của bạn
1. Bất hiếu với cha mẹ
Cha mẹ sinh ra ta và nuôi dưỡng ta, ân đức sâu đậm, trong chú đại bi có nói rằng, con người báo đáp vài tỷ kiếp cũng chưa hết được ân đức của cha mẹ. Người bất hiếu với cha mẹ, trời đất đều không dung. Hơn nữa, ngay cả cha mẹ mình còn không hiếu lễ kính trọng, làm sao có thể lãnh đạo người khác? Làm sao có thể thuyết phục công chúng?
2. Tham dâm háo sắc
Người tham dâm háo sắc, trong tâm có tà, thiếu ngay thẳng chính khí, sự nghiệp sẽ rất không thuận lợi, là việc làm vi phạm đạo đức, không thể viên mãn. Hơn nữa, người tham dâm háo sắc, sức khỏe khẳng định là bị hao tổn, làm sao có thể không mắc bệnh?
3. Yêu chuộng tiện nghi, cực kỳ keo kiệt, rất ít khi làm việc thiện
Người trong tâm tham lam và keo kiệt, nghèo khó thường sẽ không rời xa, không làm việc thiện, không có phúc đức, miệng ăn núi lở. Xem tử vi 2016 thấy rằng kiểu người này không có lòng thương người, không có nhân duyên, cũng nhất định khuyết thiếu tâm giúp đỡ người khác, vậy có thể nào thành công trong sự nghiệp được? Mặc dù có thể nhất thời vui vẻ, sung sướng, nhưng cuối cùng thì tiền tài cũng ra đi.
4. Thường xuyên sát sinh
Mỗi một sinh mệnh tồn tại, đều có nhân duyên đặc biệt của nó; các sinh mệnh được sinh ra không phải là để tạo điều kiện cho con người sát sinh. Người thường xuyên sát sinh, trong tâm khuyết thiếu thiện niệm, làm sao có thể đạt được thành công trong sự nghiệp và gặp hoàn cảnh tốt trong cuộc đời?
5. Không tôn kính bậc thầy, kiêu căng ngạo mạn
Đã là thầy giáo của mình, dẫn dắt mình, khẳng định là có chỗ ưu tú hơn mình. Nếu như mình không có chút khiêm tốn nhã nhặn nào, luôn cho rằng họ giảng chỗ này không tốt, làm không tốt hay là dẫn dắt không đúng, vậy thì làm sao có thành tựu gì đây? Bởi vì trong tâm lúc nào cũng phập phồng không yên, không có “vương giả phong phạm”. Khổng Tử viết: “Tam nhân hành, tất hữu ngã sư” (mấy người đồng hành, trong đó nhất định có thể lấy một người làm thầy của mình), người không khiêm tốn, lẽ nào có thể là người rộng lượng?
6. Trộm cắp
Khái niệm trộm cắp vô cùng rộng, chỉ cần đó không phải là đồ của mình mà chiếm dụng nó thành của mình, cho dù là cầm một tờ giấy hay một cây bút của công ty thì đều được coi là trộm cắp. Mặc dù chúng ta có lúc làm như thế mà trong tâm thấy rất quang minh chính đại, cũng rất thản nhiên, nhưng đó vẫn là một hành vi loại này. Nó làm tiêu hao rất nhiều phúc đức của bản thân mình, hơn nữa, bạn sẽ một lúc nào đó phát hiện ra mình cũng sẽ bị tổn thất một cái gì đó tương đương. Còn có một nhóm những người chuyên môn đi trộm cắp, nhưng cho dù “trở lên giàu có” rồi, thì cuối cùng vẫn rơi vào kết cục nghèo khổ bi thảm.
7. Thường hay nói láo hại người
Sự hòa thuận giữa người với người, ăn ở phải đạo, coi trọng sự chân thành lẫn nhau, kiêng kỵ “hư tình giả ý” (đạo đức giả). Bất luận là người nhà ruột thịt thân thích hay mối quan hệ bạn bè với cấp trên, chỉ cần bạn thường ngày dùng ngôn ngữ chân thật, thành tâm đối xử tử tế, nhất định sẽ đạt được tín nhiệm của người khác. Ngược lại, thường xuyên bịa đặt những chuyện giả tạo dù chỉ một chút, hoặc là đã dưỡng thành “thuyết hoang tâm bất hoảng” (nói dối mà trong tâm không chút sợ hãi), dần dần thành “phản xạ có điều kiện” mà thuận miệng nói láo với bất kỳ ai, có khi chỉ vì một câu nói dối tùy tiện mà phải trả giá vô cùng thê thảm.
>>Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé!
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
► Xem đường chỉ tay đoán biết vận mệnh chính xác |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Alexandra V (theo VV)