Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Dựa theo phong thủy chọn chuẩn thùng rác cho gia đình

Thùng rác là đồ vật được xuất hiện thường xuyên trong các ngôi nhà Việt. Theo phong thủy, thùng rác mang nhiều uế khí, điều này không tốt cho gia vận. Hãy cùng lichngaytot.com tìm hiểu thêm về phong thủy thùng rác.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Vị trí thùng rác
Phương vị là nhân tố vô cùng quan trọng trong phong thủy, vậy nên gia chủ cần chú ý vị trí của thùng rác. Thông thường, thùng rác nên đặt tại hướng Đông Nam lệch Đông, Tây Bắc lệch Bắc, Đông Bắc lệch Bắc, đây đều là vị trí được cho là "lá rụng về cội". Khi thùng rác nằm tại vị trí trên thì gia vận sẽ không gặp vận xui, vận hạn
2. Số lượng thùng rác
  Bởi vì thùng rác là đồ vật tượng trưng cho sự ô uế nặng, vậy nên số lượng thùng rác trong nhà nên càng ít càng tốt, ví dụ như trong phòng ngủ, phòng bếp tốt nhất không nên đặt thùng, nếu không thì đem đến uế khí cho cả căn phòng, điều này không tốt đối với gia vận.

Chon thung rac chuan phong thuy cho gia dinh hinh anh 2
 
3. Kích cỡ thùng rác
 
Kích cỡ và thể tích thùng rác cần phải nhỏ, như vậy uế khí tồn tại trong phòng càng ít. Hơn nữa, khi kích thước thùng rác trong nhà càng nhỏ, thì tần suất đổ rác càng lớn, điều này giảm thiểu lượng uế khí tích trữ.
Chi Nguyễn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dựa theo phong thủy chọn chuẩn thùng rác cho gia đình

Liệu tiền tài có cuồn cuộn đến?

Sao Vũ khúc tọa cung Tài bạch, chủ có duyên đặc biệt với tiền tài, có tham vọng, hứng thú kiếm tiền, khi sự nghiệp thành đạt thì tiền tài sẽ cuồn cuộn đến.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vũ khúc là sao chính tài, là chủ cung Tài bạch, khi tọa thủ cung Tài bạch, chủ sẽ có duyên đặc biệt với tiền tài, có tham vọng và hứng thú kiếm tiền, giỏi quản lý tiền nong. Tiền tài của sao Vũ khúc giống như mỏ vàng, cần phải khai thác, tinh luyện, đúc. Nỗ lực với sự nghiệp kinh doanh, sau khi sự nghiệp thành đạt thì nguồn tiền tài sẽ cuồn cuộn đến.

tien-tai-cuon-cuon

Sao Vũ khúc có tham vọng lãnh đạo và quyền lực, làm việc cẩn thận có kỷ luật, có chủ kiến, biết mình biết người, kỳ vọng cao vào bản thân, cần cù lao động, thích hợp đi theo ngành nghề như tài chính tiền tệ, tài chính, chứng khoán, kinh doanh chế tác vàng bạc.

Sao Vũ khúc cần phải không ngừng sáng tạo phát triển, trải qua thử thách lâu dài mới có thể phát huy tiềm năng, trước những năm trung niên khó có được thu hoạch, nếu không thì tài đến tài đi cuối cùng thì sẽ hai bàn tay trắng.

Sao Vũ khúc lý trí độc lập, không chịu thua, không thể dựa vào tổ nghiệp, khỏi nghiệp từ hai bàn tay trắng hoặc đạt được thành tựu tương đương.

Sao Vũ khúc rất mẫn cảm với 4 Hóa tinh, Vũ khúc hóa lộc, có thể tăng thêm nguồn tài và cơ hội tiến tài, kinh doanh buôn bán có thể phát đạt. Vũ khúc hóa quyền, có thể đảm đương một lĩnh vực một phương diện, có quyền uy, nên phát triển theo hướng nghiệp võ.

Vũ khúc hóa khoa, có tài năng trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, có lợi cho việc phát triển nghiên cứu văn học nghệ thuật, công thành danh toại, nên đi xa để kiếm tiền. Vũ khúc hóa kỵ, dễ có hiện tượng gián đoạn, khó khăn nhiều, thường không có chỗ quay về.

Sao Vũ khúc giỏi quản lý tiền nong, tính tình ổn định, ngoài sao Vũ khúc hóa kỵ ra thì thích hợp kinh doanh buôn bán liên quan tới kim loại, giao thông,1 sau khi sự nghiệp thành đạt thì có thể có được tiền tài khả quan. Sao Vũ khúc hóa lộc hoặc gặp sao Lộc tồn, Hóa lộc, kinh doanh buôn bán càng thu được nhiều lợi nhuận.

Sao Vũ khúc thích gặp 6 cát tinh, có thể tăng khí thế của Tài tinh, nhiệt tâm trong trò chơi tiền bạc, phát triển tương đối thuận lợi, nguồn tài có thể mở rộng.

Sao Vũ khúc gặp 4 sát tinh Dương, Đà, Hỏa, Linh ngoài việc thích hợp với bản tính của kim loại ra thì càng cần có tài năng kỹ thuật về kim loại, ngoại khoa, nha khoa, chế tác cơ khí thành ngũ kim. Sao Vũ khúc gặp Sát, Phá, Lang lại gặp thêm 4 Hóa tinh thì biến động và lực kích phát rất lớn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Liệu tiền tài có cuồn cuộn đến?

Top 4 con giáp dễ kết hôn trong năm 2016 - Tuổi ngọ - Xem Tử Vi

Top 4 con giáp dễ kết hôn trong năm 2016, Tuổi ngọ, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Top 4 con giáp dễ kết hôn trong năm 2016, tu vi Top 4 con giáp dễ kết hôn trong năm 2016, tu vi Tuổi ngọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Top 4 con giáp dễ kết hôn trong năm 2016

Bạn đang là người độc thân và mong muốn sẽ cập bến tình yêu trong năm 2016. Cùng 12 điềm danh top những con giáp có số dễ kết hôn trong năm Bính Thân này nhé.

1. Người cầm tinh con Ngựa

Trong năm 2016 vận khí của người tuổi Ngọ rất hanh thông, việc gì cũng thuận buồm xuôi gió, đặc biệt là đường tình duyên lại khởi sắc mạnh mẽ.

Chỉ cần những chàng trai, cô gái tuổi Ngựa chịu thay đổi sở thích “xê dịch” của mình, dành nhiều thời gian quan tâm tới đối phương, tình yêu ắt thăng hoa tột độ, tỉ lệ kết hôn cao ngất ngưởng.

top-4-con-giap-de-ket-hon-trong-nam-2016

2. Người cầm tinh con Rắn

Trong danh sách con giáp kết hôn năm 2016, chắc chắn có người tuổi Tỵ. Tuổi tác và những điều kiện về công việc, kinh tế của những con Rắn rất phù hợp cho chuyện hôn nhân.

Theo tử vi năm 2016 , những ai đã có “gấu” cần thúc đẩy mạnh mẽ mối quan hệ để tạo bước đột phá và hai bạn có thể hợp pháp hóa “về chung một nhà”.

Ngược lại, ai còn cô đơn lẻ bóng cần nắm bắt mọi cơ hội để tìm tình yêu đích thực cho mình. Chính bạn, người trong cuộc, cũng phải bất ngờ với tốc độ phát triển tình cảm đôi bên, thậm chí một đám cưới rình rang sẽ được diễn ra vào nửa cuối năm 2016.

3. Người cầm tinh con Hổ

Trong năm 2016 người tuổi Dần bước sang tuổi 30. Lúc này công danh sự nghiệp của người tuổi Dần cũng “hòm hòm”, có được những thành công bước đầu trong cuộc sống.

Vậy còn chần chừ gì nữa, hãy tính chuyện hôn nhân càng sớm càng tốt, kẻo “cái tuổi nó đuổi xuân đi”, bù đầu bù óc phấn đấu đến khi nhìn lại vẫn chỉ có một mình lẻ bóng.

4. Người cầm tinh con Dê

Đối với người tuổi Mùi có thể nói, họ vừa thoát khỏi áp lực trong năm tuổi. Bính Thân chính là năm mở màn cho những dự định lớn lao trong cả sự nghiệp và tình cảm của con giáp này.

Tới giờ, bạn đã đủ chín chắn để có thể chịu trách nhiệm về bản thân mình cũng như gánh vác cuộc sống cho một gia đình bé nhỏ. Tuy không phải vội vàng đưa ra quyết định hôn nhân đại sự, nhưng nếu tình cảm đã “chín muồi”, bạn cũng không nên do dự mà bỏ lỡ cơ hội được cùng người ấy đi tới tận đầu trời cuối đất.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 4 con giáp dễ kết hôn trong năm 2016 - Tuổi ngọ - Xem Tử Vi

Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Quý Tỵ

Tử vi người sinh ngày Quý Tỵ cả cuộc đời có quý nhân phù trợ, tuy nhiên hay ưu sầu về tình duyên. Nam mệnh nên chú ý về hôn nhân, tránh tai nạn tửu sắc.
Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Quý Tỵ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi người sinh ngày Quý Tỵ cả cuộc đời có quý nhân phù trợ, sở hữu nhiều tài năng, tuy nhiên hay ưu sầu về tình duyên. Nam mệnh nên chú ý về hôn nhân, tránh tai nạn tửu sắc.


Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Quy Ty hinh anh
 
Ngày Quý Tỵ có Thiên Nguyên tọa mệnh tàng Ấn - Tài - Quan, mệnh chất kết hợp Thủy Hỏa Kim Thổ, hóa giải nạp âm của Âm Thủy trường lưu, điều này tạo nên tính cách tín- nghĩa - lễ - trí. Mệnh chủ nên hợp tác với người sinh ngày Mậu Thân, đường đời tất gặp Mậu Thổ.
  Trụ ngày Quý Tỵ có Tỵ Hỏa là sao Chính Tài, tàng khí Bính Hỏa và Mậu Thổ. Mệnh chủ sinh ngày Quý Thủy mẫn cảm, EQ cao, Quý Thủy khắc chế Tỵ Hỏa nên có quyền quản lý nhưng năng lực không dủ, vậy nên cần chú ý tiểu tiết của sự việc để đưa ra phán đoán đúng. Tỵ Hỏa tàng khí Mậu Thổ nên tích cách có chút tủy hứng, thích sự khen ngợi. Ngày Quý Tỵ thích hợp với nữ mệnh.  
Thưởng trà - giao thoa của tu tâm và nghệ thuật
Tĩnh tâm và tu tâm là một trong những điều quan trọng nhất mà Phật muốn chúng sinh hướng tới. Bởi có tĩnh tâm thì mới rũ bỏ tham, sân, si; có

Người sinh ngày Quý Tỵ có học thức, tài năng, được người đời coi trọng, cả cuộc đời được quý nhân phù trợ. Họ đa phần thích hợp làm trợ thủ, thiếu chút ý chí để trở thành lãnh đạo.  Mệnh chủ trụ ngày Quý Tỵ nên đặc biệt chú ý về vấn đề sức khỏe. 
  Xem tử vi trọn đời người sinh ngày Quý Tỵ thấy sự ưu sầu về tình duyên. Nam mệnh hai lần thay đổi tình duyên, cần đề phòng việc trải qua hai cuộc hôn nhân, đồng thời nên tránh tai nạn về tửu sắc trong cả cuộc đời. Nữ mệnh phần lớn có chồng làm kinh doanh, sở hữu số mệnh hạnh phúc, tuy nhiên tránh sự càm ràm, nếu không hôn nhân sẽ dễ dàng đổ vỡ.  
Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Quy Ty hinh anh 2
 
Bát tự trụ ngày Quý Tỵ thích hợp kết hôn với người sinh ngày: Giáp Thìn, Giáp Dần, Giáp Thân, Giáp Tuất, Giáp Ngọ, Ất Tỵ, Ất Mão, Ất Mùi, Bính Ngọ, Bính Thìn, Bính Thân, Bính Tuất, Đinh Dậu, Đinh Mùi, Đinh Tỵ, Mậu Thân, Mậu Thìn, Mậu Dần, Kỷ Dậu, Kỷ Mão, Kỷ Mùi, Canh Thân, Canh Dần, Canh Tý, Tân Dậu, Tân Hợi, Tân Mão, Tân Mùi, Nhâm Dần, Nhâm Tuất, Nhâm Thìn, Nhâm Tý, Quý Mão, Quý Hợi.
► Xem tử vi hàng ngày của bạn cập nhật mới nhất

Chi Nguyễn

Xem Clip thu nạp kiến thức về Nợ đời con người phải gánh

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Quý Tỵ

Tết Trung Thu: 12 con giáp mặc đồ màu gì để khai vận phong thủy

Tết Trung Thu, người tuổi Thân nên mặc những trang phục có màu đỏ, tím, cam… màu mang đặc trưng của hành Hỏa để hút vận may. Cách khai vận cho 12 con giáp
Tết Trung Thu: 12 con giáp mặc đồ màu gì để khai vận phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Mùa thu Kim vượng, nhất là vào dịp Tết Trung Thu. Bản thân Dần mang ngũ hành mệnh cách thuộc Mộc, khó tránh tình trạng bị Kim khắc chế, vận thế cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Tận dụng sự hỗ trợ từ ngũ hành Thủy, làm giảm ảnh hưởng khắc chế từ Kim, lại dưỡng Mộc tốt, tuổi Dần nên lựa chọn những trang phục có màu xanh dương làm chủ đạo, tông màu đặc trưng của hành Thủy, trong dịp này ắt sẽ gặp nhiều may mắn. 

► Mời các bạn tham khảo: Ý nghĩa Tết Trung Thu theo truyền thống dân gian
  

Tuổi Tý

  Dịp Tết Trung Thu trong tháng 8 âm lịch, tiết trời Thu mát mẻ, nhưng đôi khi lại mang màu tẻ nhạt, ảm đạm. Tý Thủy được ngũ hành Kim sinh cho, mặc quần áo có màu trắng, bạc cũng phù hợp, nhưng có phần hơi đơn điệu.   Vì thế, trong tiết Thu này, người tuổi Tý có thể phối kết hợp trang phục và phụ kiện có thêm chút sắc đỏ, mang tới sự tươi vui cũng như nhiều điều may mắn.  
Tet Trung Thu 12 con giap mac do mau gi de khai van phong thuy hinh anh
 

Tuổi Sửu

  Tuổi Sửu có ngũ hành mệnh cách thuộc Thổ, trời thu lại mang ngũ hành Kim, Thổ dưỡng cho Kim, cảm giác như mẹ dành toàn bộ tâm huyết cho con, nên thân nhược khí hao.    Chính vì thế, bản mệnh cần tăng cường năng lượng cá nhân bằng cách sử dụng những gam màu ấm, sáng như vàng chanh, đỏ, tím, cam… mà cách ứng dụng màu sắc tốt nhất để gia tăng vận khí bản thân chính là thông qua trang phục. Hãy bổ sung những chiếc váy, áo, giày dép mang màu sắc đó làm chủ đạo để cảm nhận mỗi ngày là một ngày vui.

 

Tuổi Dần

 

Mùa thu Kim vượng, nhất là vào dịp Tết Trung Thu. Bản thân Dần mang ngũ hành mệnh cách thuộc Mộc, khó tránh tình trạng bị Kim khắc chế, vận thế cũng bị ảnh hưởng ít nhiều.    Tận dụng sự hỗ trợ từ ngũ hành Thủy, làm giảm ảnh hưởng khắc chế từ Kim, lại dưỡng Mộc tốt, tuổi Dần nên lựa chọn những trang phục có màu xanh dương làm chủ đạo, tông màu đặc trưng của hành Thủy, trong dịp này ắt sẽ gặp nhiều may mắn.   

Tuổi Mão

  Tương tự như tuổi Dần, người tuổi Mão có ngũ hành mệnh cách thuộc Mộc. Có thể sử dụng phối kết hợp giữa trang phục và phụ kiện màu xanh dương và xanh lá để mang lại nhiều may mắn, giúp vận khí chuyển biến tích cực.

 

Tet Trung Thu 12 con giap mac do mau gi de khai van phong thuy hinh anh
 

Tuổi Thìn

 

Thìn Thổ dưỡng và sinh Kim, vận khí tự thân cũng có phần bị suy nhược. Để tăng cường vận khí ấy, người tuổi Thìn nên chọn những trang phục có hệ gam màu vàng như vàng nhạt, vàng chanh, cam, vàng cam… 

 

Tuổi Tỵ

 

Tuổi Tỵ mang ngũ hành mệnh cách thuộc Hỏa. Tuy nói Hỏa khắc Kim, nhưng mùa thu Kim rất vượng, Hỏa còn bị khắc ngược lại. Vì thế, cần làm Hỏa vượng thêm để có thể chế ngự sự hoành hành của Kim.    Sử dụng những trang phục và phụ kiện có màu xanh lá, màu đặc trưng của hành Mộc, sẽ giúp Hỏa lực mạnh hơn, nâng cao vận khí của bản mệnh. Vì Mộc sinh Hỏa, giúp bản mệnh khai vận tốt đẹp trong mùa Trung Thu này.  
Nàng giáp kết hôn càng lâu càng hạnh phúc 3 con giáp đếm tiền mỏi tay trong tháng 8 Hội những con giáp lười nhất quả đất, bạn có tên trong đó không?

Tuổi Ngọ

 

Tương tự trường hợp của Tỵ, Ngọ Hỏa cũng cần được thúc vượng vận khí bản thân để chống lại sức ảnh hưởng từ Kim vượng. Vì thế, nên mặc trang phục có màu xanh lá để khai vận dịp trăng tròn năm nay.  

Tuổi Mùi

  Mùi Thổ sinh Kim, ý chỉ bản mệnh tuổi Mùi sinh cho mùa Thu, vận khí hư hao, cần được bồi đắp, tăng cường. Do đó, trong dịp Tết Trung Thu này, người tuổi Mùi nên lựa chọn những trang phục màu vàng sáng để thúc đẩy vận khí gia tăng.  
Tet Trung Thu 12 con giap mac do mau gi de khai van phong thuy hinh anh
 

Tuổi Thân

  Mùa Thu mang ngũ hành Kim, kết hợp với Thân Kim, Kim khí ngày càng cường vượng. Kim quá vượng cũng khiến vận khí bản thân hư hao. Vì thế, nên tận dụng hành Hỏa (Hỏa Kim tương khắc) để chế ngự sự hoành hành ngang ngược của Kim, mang tới điều an lành, may mắn cho bản mệnh. Xem thêm: Mệnh Kim hợp màu gì?   Theo đó, người tuổi Thân nên mặc những trang phục có màu đỏ, tím, cam… màu mang đặc trưng của hành Hỏa để hút vận may trong dịp Tết Trung Thu này.  

Tuổi Dậu

  Tương tự tuổi Thân, người tuổi Dậu nên kết hợp hài hòa trang phục và phụ kiện mang yếu tố đặc trưng của hành Hỏa như đỏ, cam, tím… để hút may mắn, đào hoa trong dịp trăng tròn này. Xem thêm: Mệnh Hỏa hợp màu gì?  

Tuổi Tuất

  Tuất Thổ sinh Kim, mang hàm ý bản mệnh tuổi Tuất sinh cho mùa Thu, khiến vận khí tự thân hư hao, cần được tăng cường và hỗ trợ về mặt phong thủy. Vì thế, con giáp này nên lựa chọn những trang phục màu vàng sáng để thúc đẩy vận khí gia tăng, giúp khai vận thuận lợi.  

Tuổi Hợi

 

Bản mệnh Hợi mang ngũ hành mệnh cách thuộc Thủy. Mùa Thu lại thuộc Kim, Thủy khí vì thế được tăng cường (Kim sinh Thủy).   Nhưng nếu làm nước ấm hơn một chút, sẽ bớt cảm giác lạnh lẽo, tẻ nhạt. Người tuổi Hợi nên bổ sung vào tủ quần áo của mình trang phục có màu đỏ, hồng, cam… nhằm mang tới sự vui tươi và mang lại nhiều vận may.   Việt Hoàng  
Trung Thu 2016, vận trình 12 con giáp có biến động gì lớn?
Trong dịp tết Trung Thu 2016, người tuổi Tý đón nhận khá nhiều tin vui. Thời điểm trước ngày rằm, vận đào hoa vượng, thúc đẩy tình cảm dạt dào, tình yêu lứa

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tết Trung Thu: 12 con giáp mặc đồ màu gì để khai vận phong thủy

Bi hài chuyện xông đất ngày Tết

Xông đất đầu năm từ lâu đã trở thành tục lệ phổ biến của người Việt ngày đầu năm. Và có không ít chuyện bi hài về vấn đề này.
Bi hài chuyện xông đất ngày Tết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết năm ngoái, Hoàng (19 tuổi, tập thể Đại học Bách Khoa, Hà Nội) đi chơi với bạn gái từ chiều tối 30. Hết ngắm hoa, ngắm phố, họ lại đến một cuộc nhậu linh đình với nhóm bạn. Ăn uống hát hò đến 10 giờ đêm, cả hội phóng ra đường, rồi chen chân trong đám đông đón giao thừa và xem bắn pháo hoa. 1h sáng, mệt phờ, Hoàng từ chối lời rủ rê đi chơi tiếp của đám bạn, về nhà để ngủ.

Nhưng vừa dừng xe, cậu đã nghe tiếng mẹ nói vọng xuống rằng cậu chưa được vào nhà, vì ông anh trai, người có nhiệm vụ xông đất năm nay, vẫn chưa về: “Con chịu khó đi loanh quanh đâu đó chơi thêm lát nữa đi. Năm nay thằng Hưng hợp tuổi, nó xông đất cho may mắn, nhé”. Hoàng rút điện thoại gọi anh thì được trả lời: “Anh về ngay đây, 15 phút nữa có mặt”. Cậu đi loanh quanh một lát rồi quay lại, mẹ vẫn chưa cho vào. Lại gọi điện cho anh, lại được hứa về ngay, cứ thế mãi đến 2h30, Hoàng mới được vào nhà khi ông anh ham vui về xông đất.

Hầu như các gia đình Việt Nam đều quan tâm đến chuyện xông đất đầu năm, với quan niệm người đầu tiên bước chân vào nhà mình sẽ đem đến điều may hoặc rủi trong suốt cả năm, tùy thuộc vào việc họ có “tốt vía”, có hợp tuổi, hợp mạng với gia chủ hay không. Nhiều người rất cầu kỳ trong chuyện chọn người xông đất, và thực sự sợ hãi nếu người đầu tiên đến nhà mình trong năm mới lại không được như ý. Điều này dẫn đến lắm chuyện buồn cười như trường hợp của Hoàng.

 

 

Đối với Kiên, 25 tuổi, sống ở Thanh Xuân, Hà Nội, chuyện xông đất năm ngoái lại là một kỷ niệm vui. Là người độc thân, quê ở xa, bố mẹ đã qua đời nên anh không về quê mà đón năm mới ở Hà Nội. Cũng vì lý do này, một đồng nghiệp mời anh xông đất và ăn Tết cùng gia đình ở Hoàng Mai. Đêm 30 là phiên trực của người bạn này, anh ta dặn: “Cậu cứ đến đi, tớ đã dặn cả nhà rồi. Sau giao thừa vài tiếng tớ sẽ trốn về”.

 

Theo hướng dẫn của bạn, Kiên vào ngõ rồi đến ngách, loanh quanh mãi mới đến đúng số nhà được dặn, bấm chuông gọi cửa. Một cậu bé chạy ra hớn hở: “A, chú là bạn của chú cháu, đến xông đất phải không ạ?”. Đoán đây là đứa cháu mà bạn vẫn kể, Kiên tươi cười gật đầu. Anh vào nhà chúc mừng năm mới, rồi cùng uống sâm banh, nói chuyện rôm rả. Lát sau, anh con trai trở về, cả nhà ồ lên vui sướng, lại rót sâm banh. Trước lúc cụng ly, anh ta bảo bố mẹ giới thiệu khách, lúc đó ai nấy mới ngớ người ra. Hỏi lại, hóa ra vì nhà bạn Kiên ở quá sâu, đường lại quanh co nên sau khi đi vòng vèo, anh vào đúng số nhà nhưng lại là của một ngách khác.

Sau phút ngỡ ngàng, ai nấy lại nâng ly chúc mừng cho cuộc kỳ ngộ. Hai chàng trai trẻ làm quen, nói chuyện khá ăn ý. Kiên đang định nhờ hướng dẫn cho địa chỉ mình cần đến thì có điện thoại: “Cậu đang ở đâu đấy? Sao giờ này còn chưa tới”, anh chàng đồng nghiệp thắc mắc. Anh ta vô tình đã trở thành người xông đất ngoài dự kiến bởi về đến nhà vẫn chưa thấy bạn đâu.

“Lúc biết mình nhầm, tôi ngượng chín cả mặt. Nhưng hóa ra đó lại là duyên lành đầu năm, vì tôi có thêm một người bạn, một gia đình thân thiết”, Kiên tâm sự.

Đối với phần nhiều gia đình Việt Nam khác, xông đất chỉ đơn thuần là một mỹ tục có ý nghĩa tượng trưng, không đặt nặng chuyện chọn người. Ông Cường, sống ở Sơn Tây, Hà Nội, nói: “Năm nào nhà tôi cũng phân công thằng cháu nội xông đất. Tôi không biết tuổi nó có hợp không, nhưng vì cả nhà quý nó nhất nên dành cho nó cái vinh dự ấy. Vả lại, nó đáng yêu như thế, không thể đem đến điều xấu được”.

Còn chị Mai, nhà ở Đức Thọ, Hà Tĩnh, cho biết năm nào nhà chị cũng phân công một ai đó trong gia đình xông đất, nhưng nhiều khi vì chuyện nọ chuyện kia nên sự việc xảy ra không như dự kiến. “Có khi người xông đất là họ hàng, hoặc bạn của chú em chồng. Nhưng là ai thì cả nhà cũng đều niềm nở đón tiếp. Đầu năm có khách đến chơi là quý lắm”.

Và với thái độ này, cả người xông đất lẫn gia chủ đều vui vẻ, nhẹ nhõm, sự may mắn trong năm mới cũng theo đó mà đến.

(Theo Zing.vn)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bi hài chuyện xông đất ngày Tết

Luận về sao Thất Sát

Thất Sát trong hệ Nam đẩu, thuộc âm hỏa âm kim còn gọi là hỏa hoa chi kim, như sắt nung đỏ bắn ra những hoa lửa, chủ về sinh sát, tính chất của một thượng tướng. Hỏa hoa bắn tung ra ngoài, nhưng âm kim lại nội liễm cho nên tâm tính vừa âm trầm vừa dễ giận dữ.
Luận về sao Thất Sát

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Trong Tử Vi Khoa Thất Sát đựơc coi là hung sát tinh. Bất luận số đẹp hay số xấu, hễ đã có Thất Sát vào Mệnh hay Thân thế tất phải trải qua những chuyện hung hiểm hoặc có một thời gian bị lắm chướng ngại. Sách viết:”Nhị cung phùng chi định lịch gian tân” (Mệnh Thân có Thất Sát phải nếm trải gian nan tân khổ)

Một khi có Thất Sát thủ Mệnh phải xem kỹ những vận hạn, nếu vận tốt đến càng sớm để thành công sớm thì hậu vận lại càng tối tăm với thất bại. Thiếu niên đắc chí ắt lúc bị thất ý ảnh hưởng đến hết đời. Nếu tuổi trẻ bôn ba chìm nổi đến trung niên mới phát đạt thì nhờ kinh lịch đã thâu lượm như thanh gươm tôi luyện kỹ rồi sự phát đạt ấy mới hay.

Thất Sát có những thế đứng sau đây: đơn thủ ở Dần Thân Tí Ngọ và Thìn Tuất, với Liêm Trinh nơi Sửu Mùi, với Tử Vi ở Tỵ Hợi, với Vũ Khúc ở Mão Dậu.

Sách viết:”Thất Sát cư hãm địa trầm ngâm phúc bất vinh”. Hãm cung cho Thất Sát là Mão Dậu và Thìn Tuất, nhưng đáng ngại là Mão Dậu gọi bằng cách “Sát hãm Chấn Đoài” (Chấn là Mão, Đoài là Dậu)

Lý luận cho rằng Thất Sát không có hãm địa là sai. Vũ Khúc Thất Sát ở Mão Dậu mà đứng cùng với các hung sát tinh rồi lại gặp vận có lưu hung sát tinh thì tai họa không nhỏ, phần lớn do sự lầm lỡ của chính mình mà ra. Vũ Khúc Thất Sát chỉ nên dựa vào nghề nghiệp mưu sinh an thân, tham vọng lắm thêm phiền. Thất Sát vốn ưa vẫy vùng nhưng ở Dậu Mão hãm chẳng khác gì con cá trong chậu quậy cựa lắm cũng thế thôi, đôi khi còn sinh nguy hiểm. Nếu như có được Hỏa Tinh Tham Lang thì sự đắc ý không bền, nay được mai mất.

Thất Sát hợp nhất với Tử Vi (đã nói ít nhiều trên phần luận về Tử Vi). Sách viết:”Tử Vi Thất Sát hóa Sát vi quyền”.

Thất Sát đóng Dần cung xung chiếu trên cao là Tử Vi Thiên Phủ. Thất Sát đóng Thân cung xung chiếu ở dưới có Tử Vi Thiên Phủ gọi bằng cách “Thất Sát ngưỡng đẩu” hay “Thất Sát triều đẩu”.

Thất Sát khi đã biến thành Quyền rồi không nên hội tụ với Văn Xương Văn Khúc Long Trì, Phượng Các. Vì đã xung sát thì xung sát luôn, đừng luẩn quẩn văn vẻ làm gì. Nửa văn nửa vũ, thành nửa mùa tất hành động mâu thuẫn và thành công kém ác liệt.

Thất Sát đã gặp sao Tử Vi để hóa vi Quyền rồi thì không nên thấy Hóa Quyền nữa sẽ vì thế mà quyền lực quá nặng thành ra con người cô khắc, quan hệ giao tế sinh lắm kẻ thù, càng không nên thấy Hỏa Tinh quyền lực khốc liệt khiến cho kiêu căng mà lâm nguy hiểm, thân phận lưu ly, lục thân ghẻ lạnh, không ai muốn khuông phù. Dù có sự nghiệp thật đấy nhưng đầy gian nan và lúc về già cô quạnh.

Thất Sát một khi hóa thành Quyền lại rất cần gặp Hóa Lộc, Lộc Tồn, Tả Hữu, Khôi Việt, có Tham Lang đứng với Hóa Lộc càng tốt, còn như Tham Lang đứng với Linh Tinh thì phải trải thiên ma bách triết mới thành công.

Cổ nhân luận Thất Sát thủ Mệnh cho rằng sao này đóng ở bốn cung: Dần Thân Tí Ngọ kể làm thượng cách. Ở Dần với Thân là “Ngưỡng đẩu” với “triều đẩu”, ở Tí Ngọ thì gọi bằng “Hùng tú càn nguyên cách”

Hai ông Ngô Cảnh Loan và Vương Đình Chi đưa ra luận cứ đáng chú ý rằng:”Thất Sát Ngọ mới đúng “hùng tú càn gnuyên” Thất Sát ở thủy cung Tí là phá cách” vì Thất Sát vốn thuộc Hỏa Kim và nói thêm:”Liêm Trinh Thất Sát đóng Mùi cũng kể là “hùng tú càn nguyên”. Như vậy thay vì Dần Thân Tí Ngọ nay theo hai ông là Dần Thân Ngọ Mùi.

Thất Sát tại Ngọ, cung Phúc Đức có Liêm Trinh, Liêm Trinh là âm hỏa nung nấu rèn đúc âm kim của Thất Sát.

Hai ông còn cho rằng Thất Sát không nên gần văn tinh tại Mệnh hay tam hợp chiếu, nhưng lại rất cần có văn tinh ở Phúc Đức. Nhờ những văn tinh Xương Khúc Long Phượng Hóa Khoa đóng Phúc Đức làm che giảm ngọn lửa Liêm Trinh thì cuộc đời ít gian nan.


Trên đây là những lời bàn đáng cho ta suy gẫm thêm. Riêng tôi cũng thấy điều Thất Sát đóng Tí không bằng đóng Ngọ.


Thất Sát âm kim âm hỏa, kim bị hỏa luyện tính tình dũng mãnh cương cường, là con người của hành động chủ động làm việc tích cực bởi vậy Thất Sát mới được coi làm tướng tinh.


So với Thiên Cơ Thiên Lương thì Cơ Lương mang khuynh hướng tư tưởng lý thuyết trong khi Thất Sát xông pha chấp hành. Thất Sát chỉ huy lãnh đạo, Cơ Lương điều hành. Thất Sát điều khiển, Cơ Lương vẽ kế hoạch. Bởi vậy cuộc đời Thất Sát thường có những nút chuyển biến dữ dội triệt để, lên thật cao và xuống thật thấp tùy theo vận hay hay dở.

Người xưa e ngại Thất Sát vào nữ Mệnh có những câu ca sau đây:

Nữ Mệnh sầu phùng Thất Sát tinh

Bình sinh tác sự quả thông minh

Chí cao khí đại vô nam nữ

Bất miễn hình phu lịch khổ tân

(Thật đáng buồn khi số gái có sao Thất Sát, làm việc thông minh tháo vát, tham vọng nhiều và xông xáo như con trai, khó tránh đựơc chuyện khắc chồng và phải bôn ba vất vả)

Thất Sát cô tinh Tham tú phùng

Hỏa Đà tấu hợp phi vi quí

Nữ mệnh đắc thử tính bất lương

Chi hảo cô phòng vi tì thiếp

(Thất Sát Cô Thần gặp Tham Lang gặp thêm Đà Hỏa ắt là không quí. Số nữ tính bạc bẽo liều lĩnh đưa đến khắc hại chồng làm thiếp hầu)

Thất Sát Dần Thân nữ mệnh phùng

Ác sát gia chi dâm sảo dung

Cánh phùng cát hóa chung bất mỹ

Tì thiếp thị phụng chủ nhân ông


(Thất Sát tại Dần Thân mà số nữ có kèm sao hung nữa là người nhan sắc, tính tình khéo nhưng sảo, dù gặp cát tinh cũng vừa chưa hẳn là đẹp ắt phải có bận khắc phu)

Đời trước cổ nhân sợ người đàn bà sắc sảo, tháo vát, xông xáo, tự lập nên mới đưa ra những câu phú trên. Thời nay không câu nệ vào những câu phú cổ hủ ấy nữa. Nữ mệnh Thất Sát bây giờ đều là những người đàn bà thành công làm việc giỏi, chỉ cái chuyện khắc phu thì vẫn vậy thôi.

Có một điều khá chính xác là: Thất Sát tại mệnh nữ đi cùng Đào Hoa Hỏa Tinh không ai không bạc tình. Thất Sát vào cung Phúc Đức của số nữ tình duyên không ai không lận đận nhỡ nhàng. Bởi vậy mới có câu phú:”Thất Sát đan cư Phúc Đức nữ nhân thiết kị tiện vô nghi” (Thất Sát một mình ở cung Phúc Đức số nữ lao đao vất vả dễ rơi vào tình trạng lẽ mọn)

Bàn về câu:”Thất Sát Liêm Trinh đồng vi lộ thượng mai thi” (Thất Sát đồng cung với Liêm Trinh thủ mệnh lúc chết chôn bên đường). Thất Sát Liêm Trinh chỉ đóng cùng ở hai chỗ Sửu và Mùi. Trong khi Thất Sát Mùi cung đã được coi làm cách tốt “hùng tú càn nguyên” thì tại sao còn có câu này?

Các nhà số học Trung Quốc lập luận:”Liêm Sát đồng vị chỉ gặp hung nguy khi đóng tại Sửu thôi, còn Mùi cung thì không và phải có những sát tinh như Kình Đà Hỏa, Hóa Kị thì mới đi tới chỗ lộ thượng mai thi, mà lộ thượng mai thi không hoàn toàn là cứ phải vùi thây bên đường, ý bóng của nó là cái chết bất chợt, cái chết không ở trên giường bệnh hay ở trong nhà. Hoặc là chết như một nhà chính trị bị ám sát, hoặc chết như một tên ăn cướp bị bắn giữa đường. Vấn đề là cân đo những hung sát kị tinh nặng nhẹ mức nào?

Số Liêm Sát không bị hung sát kị tinh tất nhiên không “lộ thượng mai thi”. Một điều chắc chắn hễ đã số Liêm Sát dù ở Sửu hay Mùi thì cũng không (?) bốn mươi năm đi làm thầy giáo hay nói khác đi là phải có cuộc sống của kẻ phiêu lưu hoặc có một chút khác thường.

Nếu đem hai câu viết ở mục Chú giải Thái vi phú: “Thất Sát Liêm Trinh lưu đãng thiên nhai (Mệnh có Liêm Sát sống nơi chân trời góc biển) và Thất Sát Liêm Trinh đồng vị lộ thượng mai thi” thì cái lý nó gần gần nhau, đã chân trời góc biển làm sao còn chết ở quê nhà?

Ngoài ra Thất Sát Liêm Trinh mà đóng Thiên di, (tất nhiên thủ Mệnh là Thiên Phủ Mùi hay Sửu) nếu Thiên Phủ bị Tuần Triệt hay gặp hung sát tinh cũng gặp cái chết của đồng vị Liêm Sát đã nói trên.

Sau hết là Thất Sát ở hai cung Thìn Tuất. Thìn Thiên La, Tuất Địa Võng. Thất Sát sao của hành động không dễ thích ứng không dễ thuận tòng như Liêm Phủ vào hai cung ấy. Vì Thiên Phủ Liêm Trinh mềm dẻo, biết theo thời thế, biết đứng vào hàng lối. Do đó Thất Sát Thìn Tuất kể như hãm địa, do sức ép của Thiên La Địa Võng và do sức tranh thoát dữ dội của Thất Sát.

Thất Sát Thìn Tuất ý chí kiên cường, có chủ kiến và độc lập tính nhưng phải trăm cay ngàn đắng mới thành tựu nếu được cát tinh phò trợ. Còn như quá nhiều hung sát tinh vây bọc chỉ nên học một sảo nghệ mà an thân. Vì đối cung là Liêm Phủ cho nên hung tinh đáng ngại nhất cho Thất Sát Thìn Tuất là sao Hóa Kị đứng đối cung đó là giảm hẳn khả năng thích ứng thuận tòng, chỉ còn bất mãn phẫn nộ, tất nhiên sẽ cực hơn.


Về sao Thất Sát lâm Thân có hai câu phú hầu như mâu thuẫn:

Thất Sát lâm Thân chung thị yểu

Thất Sát cư Thân hưởng đắc an toàn chi phúc


Yếu hay Phúc chỉ là vấn đề hãm hay đắc địa thôi. Ngoài ra còn phải xem thêm các hung sát kị tinh nữa mới chỉ định cho rõ được.


Thất Sát có nhiều câu phú cần nghiên cứu:


- Thất Sát cư Quan đắc vị uy áp vạn nhân

(Thất Sát đóng Quan Lộc đắc địa, uy quyền. Uy quyền gồm vị thế và oai nghiêm. Thất Sát cư Quan chỉ huy mật vụ đắc lực)


- Thất Sát phùng Thái Tuế trí dũng hữu dư

(Thất Sát đi bên Thái Tuế vừa dám làm vừa giỏi liệu công việc)


- Sát Phá hỉ trợ Kình Dương

(Thất Sát Phá Quân có Kình Dương trợ thành công mau phát mạnh nhưng nhiều nguy hiểm ví như người cưỡi cọp)


- Thất Sát thủ tha tài vi kỷ vật

(Thất Sát tinh tấn lướt được đằng chân lên đằng đầu, lấy của người làm của mình)

- Thất Sát Phá Quân nghi xuất ngoại, chư ban thủ nghệ bất năng tịnh
(Mệnh Thất Sát hay Phá Quân nên làm nơi xa, có nghề nhưng không giỏi tay nghề lắm. Đây là chỉ vào Thất Sát Phá Quân hãm)

- Thất Sát trùng phùng tứ sát, yêu đà bối khúc trận trung vong

(Thất Sát hãm thêm Hỏa Linh Không Kiếp thì dễ có tật trên người, thường gặp hiểm nguy nơi trận mạc)


- Thất Sát Hỏa Dương bần thả tiện đồ tể chi nhân

(Thất Sát hãm thủ Mệnh gặp Kình Dương Hỏa Tinh chỉ chuyên ăn người và hung bạo, cũng không nên danh phận được)


- Thất Sát thủ chiếu, tuế hạn Kình Dương, Ngọ sinh nhân Mệnh an Mão Dậu chư hưng vong

(Thất Sát thủ hay chiếu Mão Dậu, niên vận gặp Kình Dương, người tuổi Ngọ gặp một ngã rẽ thay đổi cuộc đời mình)


- Sát Kình tại Ngọ, mã đầu đới tiễn, tương giao sát điệu, Bính Mậu nhân mệnh vị nan toàn

(Mệnh Thất Sát Kình Dương ở Ngọ, gặp vận nhiều sát tinh, người tuổi Bính Mậu nguy đến tính mạng)


- Thân phùng Sát Phá Liêm Tham hạn lâm Địa Võng Hình Khôi sát điệu Kỵ Đà xâm nhập, Thục gia trường nội, Dực Đức mệnh vong

(Cung Thân có Sát Phá Liêm Tham hội tụ đến vận hạn vào cung Địa Võng (Tuất) có Kỵ Đà, Thiên Hình, Thiên Khôi như ông Trương Phi bị ám toán chết ngay trong trướng phủ)


- Sát cư Ly Khảm nam nhân, thê hiền đa hội, mạc ngộ Kiếp Riêu số phụ ái cô thân. Nữ mệnh trai oán hồng nhan nan tự chủ

(Thất Sát thủ Mệnh Ngọ số trai gặp vợ hiền, nhưng nếu có Kiếp Riêu thì lại thích sống độc thân. Còn mệnh Nữ thường oan trái rơi lệ vì tình)


- Sát phùng Hình Hổ hãm tại tử cung thai lệ chi ai

(Sát gặp Hình Hổ tử cung, đến già chưa thấy tay bồng con thơ)


- Sát Phá Tham tại Nữ mệnh nhi ngộ Văn Xương ư Tân Đinh tuế sương phụ chi nhân
(Mệnh Sát Phá Tham gặp sao Văn Xương người nữ tuổi Tân Đinh thì góa chồng hoặc ly phu)


- Sát Phá Tham tại phối cung đắc Quyền Lộc Khúc Xương mệnh phụ chi nhân
Quí tuế ưu phùng Cô Quả, quả phụ chi nhân

(Cung phu có Sát Phá Tham đắc địa hội Quyền Lộc lấy chồng quyền chức cao làm mệnh phụ nhưng tuổi Quí mà thấy thêm Cô Thần, Quả Tú thì lại thành quả phụ góa chồng)


- Sát Riêu cư hỏa địa nữ nhân ba đào xuất hải, phùng Quyền Lộc tham bác chi nhân
(Thất Sát Thiên Riêu thủ Mệnh ở Tỵ hay Ngọ đàn bà có cuộc sống lênh đênh, được Quyền Lộc thì sành sỏi thành công gây cơ dựng nghiệp)


- Sát Hình tọa củng liêm trực vô tư

(Mệnh Thất Sát hội chiếu Thiên Hình hoặc đồng cung là người liêm khiết chính trực)

- Mệnh VCD hạn ngộ Trúc La Đào Hồng, Suy Tuyệt, Khổng Minh nan cầu trường thọ
(Mệnh không chính tinh vận đến Trúc La; Sát Phá Tham hội với Đào Hoa, Hồng Loan và Suy hay Tuyệt như Khổng Minh có lập đàn cúng tế vẫn khó thọ)


- Sát Phá Liêm Tham tam kỳ gia hội lai triều, Hồng Hình Tả Hữu uy danh nhất thế chi nhân

Phùng Kị Không Triệt chung thân tác sự nan thành

(Sát Phá Liêm Tham đắc địa hội tụ vào Mệnh cùng với Khoa Quyền Lộc Hồng Loan Thiên Hình Tả Hữu là người uy danh lừng lẫy. Nhưng hễ bị Tuần Triệt Hóa Kị thì làm việc gì cũng chẳng nên vì làm toàn chuyện bốc giời mà không có phận)

- Thất Sát đan thủ Mệnh viên vô khả cửu trùng lâm chi hạn

(Thất Sát Thìn Tuất vận lại gặp Thất Sát thì khó tránh tai ương thất bại)


- Mấy người thủy ách, hỏa tai

Sát Liêm ngộ Hỏa, Riêu ngồi Kị Tham


(Sát Liêm gặp Hỏa Tinh hay bị nạn cháy nhà. Thiên Riêu gặp Hóa Kị Tham Lang dễ vướng tai nạn sông nước)


- Dần Thân Sát Kị trùng gia

Thương chiêu đá mạ thật là gian truân

(Cung Dần Thân Thất Sát đứng cùng Hóa Kị, thường bị đẩy đưa vào những chuyện gây gổ, đánh chửi nhau phiền toái)


- Sinh con điếc lác ngẩn ngơ

Bởi cung tử tức Sát Đà Kiếp Không


- Sát phùng Phù Hổ hay đâu

Dã Tràng thưa ấy âu sầu ngục trung


- Sát tinh chiếu ở cung Đoài

Vì người tham của Phật đài họa toa

(Câu này không rõ nghĩa lắm)


- Ngôi cao chức trọng công hầu

Mệnh Thân Sát Phá ở đầu Ngọ cung


- Liêm tại Mùi đứng cùng Thất Sát

Tính cang kiên tài cán đảm đương

Được thêm Kỷ Ất sinh nhân

Anh hùng trí dũng mười phần khá khen


- Sát Kình ở tại Ngọ cung

Tai ương chìm nổi luôn trong cuộc đời

Nhưng Giáp Kỷ là người cái thế

Bậc anh hùng địa vị thênh thênh


- Kìa nữ mệnh Đinh Tân hai tuổi

Sát Phá Tham lại hội Văn Xương

Ấy là góa bụa đáng thương

Nếu không cũng chịu dở dang duyên tình


- Thất Sát phùng Dương Đà ư Tật ách tàn tật chi nhân

(Thất Sát gặp Dương Đà ở cung Tật Ách tất có tật thương)


- Thất Sát lưu niên Bạch Hổ hình lục tai truân

(Thất Sát hãm thủ mệnh lưu niên gặp sao Bạch Hổ tất bị kiện tụng cò bót)


- Thất Sát lâm Thân Mệnh, lưu niên Hình Kị tai thương

(Thất Sát vào Thân Mệnh, lưu niên có Hình Kị gặp tai nạn thương tích)


- Sát lâm Tuyệt địa hội Dương Đà Nhan Hồi yểu triết

(Sát đứng với sao Tuyệt gặp Kình Đà không thọ)


- Thất Sát Phá Quân chuyên ý Dương Linh chi ngược

(Thất Sát Phá Quân hãm địa thủ mệnh gặp Kình Dương, Linh Tinh cuộc đời khó khăn chướng ngại, dễ thành dễ bại)


- Cung Tỵ ấy Sát là đẹp quá

Nếu mà Tuyệt Hỏa cùng ngồi

Ấy phường tàn nhẫn hôi tanh sá gì


- Thìn Tuất Thất Sát xem qua

Kình Hình hội ngộ ắt là đảo điên


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về sao Thất Sát

Phong tục Xông đất và cách chọn người hợp tuổi năm 2017

Xem tuổi xông đất năm 2017 để chọn tuổi xông nhà năm 2017 đúng mệnh của Gia chủ, tìm hiểu nguyên tắc cơ bản lựa chọn tuổi xông nhà tuổi xông đất người xưa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

xem tuổi xông nhà năm 2017

Văn hóa của người Á Đông nói chung và người Việt nói riêng, ngày mùng Một đầu năm mới hết sức thiêng liêng và quan trọng. Mọi người đều giữ gìn từ lời ăn, tiếng nói cho đến việc đi lại, thăm hỏi lẫn nhau. Ngay sau thời khắc chuyển giao giữa năm cũ với năm mới, vận thế của mỗi người và ngôi nhà mà họ sống trong đó được coi là hoàn toàn đổi mới, người bước chân vào nhà sẽ là sứ giả mang theo những điều tốt lành cho gia chủ và những thành viên trong nhà. Đó gọi là tục xông đất, xông nhà hay đạp đất.

Người Việt tin rằng việc xông đất ảnh hưởng sâu sắc tới vận mệnh, công việc làm ăn của gia đình trong cả năm. Bởi vậy, các bậc cao niên rất thận trọng đối với người đầu tiên đến nhà. Việc chọn người đến xông đất đầu năm được lựa chọn kỹ càng, tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Nếu có nhiều điều kiện để lựa chọn, người chủ nhà thường xem xét nhiều yếu tố như: hợp tuổi với gia chủ, vận hạn năm nay tốt đẹp, có nhân cách tốt, tính tình vui vẻ, hòa hiếu. Hoặc năm nay những người quen không được tuổi, người chủ nhà sẽ lựa người đức cao, tính tốt, hiền lành là được. Cẩn thận hơn, không tìm được người phù hợp, gia chủ có thể tự mình xông đất trong năm nay.

Cách chọn tuổi xông đất xông nhà thích hợp

Có nhiều cách để tính tuổi xông đất, nhưng cơ bản nhất thì mọi người hay tìm người tam hợp hoặc lục hợp với tuổi của mình. Dưới đây là bảng 12 con giáp và bảng tra tam hợp, lục hợp

Sửu Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi
Lục hợp Sửu Hợi Tuất Dậu Thân Mùi Ngọ Tỵ Thìn Mão Dần
Tam hợp Thân Tỵ Ngọ Hợi Thân Dậu Dần Hợi Tỵ Dần Mùi
Thìn Dậu Tuất Mùi Sửu Tuất Mão Thìn Sửu Ngọ Mão

Hàng trên cùng là tuổi của gia chủ theo Địa Chi, hàng thứ 2 và thứ 3 là tuổi của khách lục hợp hoặc tam hợp với gia chủ.

Ví dụ: tuổi gia chủ là Tý, lục hợp là tuổi Sửu, tam hợp là tuổi Thân và Thìn. Những người khách hợp với gia chủ tuổi Tý là tuổi Sửu, tuổi Thần và tuổi Thìn.

Cách xem thủ công chỉ xét có một yếu tố Địa Chi trong những yêu tố liên quan đến Âm Dương Ngũ Hành và không thay đổi theo từng năm. Ngoài ra khi chọn cũng cần phải xem những tuổi kỵ với mình. Để chính xác và chi tiết theo ngày tháng năm sinh gia chủ và năm 2017 Đinh Dậu, bạn có thể sử dụng tiện ích Xem tuổi Xông đất 2017 trên trang web tra cứu của Xem Tướng chấm net

Chọn người xông đất xông nhà cho công việc quan trọng

Năm mới đến, mỗi nhà đều có những công việc quan trọng cần phải làm trong năm như cưới hỏi, nhận chức, có thêm con, thêm cháu hoặc con em trong nhà chuẩn bị thi vượt cấp, thi đại học v.v.v Với những nhà Phong thủy, áp dụng các triết lý về Âm Dương và Ngũ Hành có thể chọn tuổi Xông Đất để giúp chủ nhà cầu phúc đức, cầu tài lộc, cầu quan lộc hay cầu khoa bảng.

– Cầu phúc đức: chọn tuổi xông đất giúp gia chủ năm nay thêm nhiều phúc phận. Những gia đình có con cháu trong nhà nay đã thành đạt hết, muốn vun đắp cây phúc để mang lại những điều tốt lành, bình an thường sử dụng cách này.

– Cầu tài lộc: chọn tuổi xông nhà giúp gia đình năm nay có thêm của cải, vật chất. Những gia đình mong muốn năm nay tài chính được tốt hơn, có của ăn của để, buôn bán thuận buồm xuôi gió thường sử dụng cách này,

– Cầu quan lộc: xem tuổi xông đất giúp con cháu trong nhà năm nay đường công danh, sự nghiệp được tươi tốt, hưng thịnh.

– Cầu khoa bảng: xem tuổi đất giúp con cháu trong nhà năm nay liên quan đến việc thi cử, khoa bảng đều hanh thông, không gặp phải những chắc trở không đáng có.

– Đón lộc đầu năm: Xác định hướng đặt cây cảnh, cây đào, cây quất, cây mai ngày Tết để rước lộc đầu năm vào nhà theo tuổi Gia chủ

Văn hóa Việt và những câu chúc đầu xuân

Câu chúc Tết là lời mở đầu khi mọi người gặp nhau vào những ngày Tết. Đối với những bậc cao niên, lời chúc thường là “Bách niên giai lão”, đối với cha mẹ là “sức khỏe và bình an”, đối với anh chị em thì “hạnh phúc, may mắn” và với cháu chắt là “chăm ngoan, học giỏi”. Câu chúc đầu xuân tùy đối tượng mà áp dụng cho phù hợp. Đối với những người đi xông đất, thường đã biết trước ý muốn của gia chủ mà chuẩn bị những câu chúc tết đúng ý của chủ nhà.

Câu chúc tết thì muôn hình muôn vẻ, có thể chỉ là những câu nói bình thường như:

“Chúc mừng năm mới. Chúc toàn gia năm nay mạnh khỏe, làm ăn phát đạt, mọi sự đều như ý.”

Hoặc những câu có vần hơn:

“Chúc mừng năm mới. Đa lộc, đa tài, đa phú quý. Đắc thời, đắc thắng, đắc nhân tâm.”

Người hay văn thơ thì đọc thơ chúc tết cho gia chủ:

Cung kính mời nhau chén rượu nồng. 
Chúc mừng năm đến, tiễn năm xong. 
Tân niên phúc lộc khơi vừa dạ. 
Xuân mới tài danh khởi thỏa lòng. 
Vạn chuyện lo toan thay đổi hết. 
Sự gì bế tắc thảy hanh thông. 
Như anh, như chị, bằng bè bạn. 
Ý nguyện, duyên lành, đẹp ước mong.

Anh chị em, bạn bè đã có gia đình, câu chúc cũng mang nét trẻ trung

Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua. 
Phúc lộc đưa nhau đến từng nhà. 
Vài lời cung chúc tân niên mới. 
Vạn sự an khang vạn sự lành.

Hoặc những câu vui vẻ, hiện đại:

“Chúc mọi người năm mới, tiền vào bạc tỉ, tiền ra rỉ rỉ, miệng cười hi hi, vạn sự như ý, cung hỉ, cung hỉ!” 

Còn những bạn trẻ chúc nhau bằng những câu vui nhộn, dí dỏm như:

“Chúc bạn: 12 tháng phú quý, 365 ngày phát tài, 8760 giờ sung túc, 525600 phút thành công 31536000 giây vạn sự như ý”

Và đầy ẩn ý, hóm hỉnh:

Năm mới, chúc bạn 4 chữ vàng để sống:
Sống cho lẽ PHẢI
Sống cho chân THẬT
Sống biết kiên NHẪN
Sống bằng lương TÂM

Hay theo nét văn hóa cổ truyền, tặng cho chủ nhà những câu đối tết hay:

• 1
Lộc biếc, mai vàng, xuân hạnh phúc
Đời vui, sức khoẻ, tết an khang

• 2 
Trời thêm tuổi mới, người thêm thọ
Xuân khắp dương gian, phúc khắp nhà

• 3 
Già trẻ gái trai đều khoái Tết
Cỏ cây hoa lá cũng mừng xuân

• 4 
Tết trong nhà, Tết ra ngoài phố
Lộc trên trời, lộc xuống nhân gian

• 5 
Xuân sang cội phúc sinh nhành lộc
Tết về cây đức trổ thêm hoa

• 6 
Mai vàng nở rộ mừng năm mới
Đào hồng khoe sắc đón xuân sang

• 7 
Cạn ly mừng năm qua đắc lộc
Nâng cốc chúc năm mới phát tài

• 8 
Tối Ba mươi đá thằng Bần khỏi cửa
Sáng mồng một nghênh ông Phúc vào nhà

• 9 
Xuân an khang đức tài như ý
Niên thịnh vượng phúc thọ vô biên

• 10 
Xuân đáo bình an tài lợi tiến
Mai khai phú quý lộc quyền lai

• 11 
Chúc Tết đến trăm điều như ý
Mừng xuân sang vạn sự thành công

• 12 
Tăng phúc tăng quyền tăng phú quý
Tấn tài tấn lộc tấn vinh hoa

• 13 
Xuân sang hạnh phúc bình an đến
Tết tới vinh hoa phú quý về

• 14 
Tân niên tân phúc tân phú quý
Tấn tài tấn lộc tấn bình an

• 15 
Ngoài ngõ mừng xuân nghênh phúc lộc
Trong nhà vui Tết đón bình an

• 16 
Trai gái cười vui mừng đón Tết
Trẻ già hoan hỉ đón xuân sang

• 17 
Tết đến gia đình vui sum họp
Xuân về con cháu hưởng bình an

(Xem Tướng chấm net)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong tục Xông đất và cách chọn người hợp tuổi năm 2017

Ngũ hành Kim - Tổng hợp ý nghĩa các nạp âm

Nạp âm của ngũ hành Kim có 6 đại diện là Sa Trung Kim, Kiếm Phong Kim, Kim Bạc Kim, Bạch Lạp Kim, Thoa Xuyến Kim, Hải Trung Kim. Xem ý nghĩa các nạp âm của Ngũ
Ngũ hành Kim - Tổng hợp ý nghĩa các nạp âm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nạp âm của ngũ hành Kim có 6 đại diện là Sa Trung Kim, Kiếm Phong Kim, Kim Bạc Kim, Bạch Lạp Kim, Thoa Xuyến Kim, Hải Trung Kim.

 
Ngu hanh Kim - Tong hop y nghia cac nap am  hinh anh
 
Kiếm, Sa Kim phong lưỡng ban kim Mộc mệnh nhược phòng tức khắc hiềm Ngoại hữu tứ Kim giải kỵ Hỏa Kiếm sa vô Hỏa bất thành hình.

 
Ngũ hành Kim gặp Hỏa thì thành Thủy mà trở thành đồ dùng hữu dụng. Kim gặp Thủy thì sinh, Thủy nhiều thì Kim chìm, mà Kim mạnh thì thành Thủy, danh lợi lưỡng toàn. Kim khắc Mộc, Mộc nhiều thì Kim khuyết, Mộc yếu thì Kim mạnh tất trở nên sắc bén. Kim sống nhờ vào Thổ, Thổ nhiều thì Kim bị vùi lấp, Thổ sinh Kim mà Kim nhiều thì Thổ tất thay đổi.  

1. Hải Trung Kim - Vàng dưới biển


Đào Tông Ngại viết: "Giáp Tý, Ất Sửu là Hải Trung Kim, Tý thuộc Thủy lại là hồ nên vượng Thủy, lại có thêm Kim tử bởi Tý, mộ của Sửu nên Thủy vượng mà Kim tử vì thế gọi là Vàng dưới biển". 
Hải Trung kim giấu khí, có tên mà vô hình, giống như một bào thai trong bụng mẹ, tên có Kim nhưng thực chất lại không có Kim, bị vùi lấp giữa đại dương mênh mông. Giống như Long Cung cất giấu bảo vật, hoài thai long tru trong bụng đang đợi người đến khai thác, phát hiện thì mới thành bảo ngọc.
 Hải Trung Kim trong ngũ hành Kim còn mang ý nghĩa khoáng kim bị cất giấu dưới đáy biển, thi thoảng sẽ phát ra những ánh sáng óng ánh nhưng vì giữa đại dương xa xôi nên còn chờ người có duyên mới phát hiện được.
 

2. Kim Bạc Kim - Vàng pha bạc


Đào Tông Ngại viết: "Nhâm Dần, Quý Mão là Kim Bạc Kim, Dần Mão vượng Thổ, Thổ vượng Kim tất suy, nay Kim lại tuyệt tự tại Dần, hoài thai tại Mão nên Kim bất lực còn gọi Vàng pha bạc". 
Kim Bạc Kim được rèn luyện mà trở thành những tấm kim mỏng manh, vừa mỏng vừa yếu nên sức dẻo dai rất mạnh, thường được dùng để dán ở tượng Phật hoặc các loại vũ khí khiến vẻ bề ngoài trở nên đẹp đẽ lung linh và cũng làm tăng lên giá trị của đồ vật đó.
Giống như một người thích mua thể diện, trang trí vẻ tài lộc bên ngoài của mình vậy, có chút hư vô, xa hoa không chân thật.
 

3. Bạch Lạp Kim - Vàng chân đèn


Đào Tông Ngại viết: "Canh Thìn, Tân Tỵ là Bạch Lạp Kim, Kim được dưỡng từ Thìn, sinh từ Tỵ hình thành sơ chất Kim ban đầu nên chưa thể cứng rắn nên gọi là Vàng chân đèn". 
Bạch Lạp Kim là Kim trong khoáng, Kim khí vừa hình thành nên còn yếu, Bạch Lạp Kim còn là hợp kim từ kim cương nên có thể xuyên qua những đồ thuộc Kim. Bạch Lạp Kim như viên thạch ngọc trải qua rèn rũa trong khoáng thạch “đắm chìm trong ánh sáng của nhật nguyệt, tụ khí âm dương đất trời” nên hình thành thể ánh sáng là màu thuần chất của Kim.
 

4. Sau Trung Kim - Vàng trong cát


Đào Tông Ngại viết: "Giáp Ngọ, Ất Mùi là Sa Trung Kim, Ngọ là đất vượng Hỏa, Mùi là đất tang Hỏa, Hỏa tang thì Kim nhỏ giọt, bại mà nhỏ bé không thể thịnh vượng nên gọi là Vàng trong cát". 
Vàng trong cát do Kim khí mà thành chỉ có thể trà trộn vào cát, Kim chất cứng hơn cát chất, hai loại hòa trộn nên nếu chỉ có Kim thì khiêm tốn nhỏ bé, không thể mạnh mẽ mà có thêm cát thì bạc nhược yếu mềm, chỉ một cơn gió là xóa nhòa tất cả.
Sa Trung Kim thực chất không ổn định  vì có quá nhiều tư duy vụn vặt, như một người cá tính hay thay đổi vậy.
 

5. Kiếm Phong Kim - Vàng mũi kiếm


Đào Tông Ngại viết trong ngũ hành Kim: "Nhâm Thân, Quý Dậu là Kiếm Phong Kim, Thân Dậu là Kim chính vị, lại kiêm thêm Quan, Thân là vượng đế, Dậu Kim sinh vượng trở nên cứng rắn vô địch như kiếm, nên gọi là Vàng mũi kiếm". 
Trong ngũ hành nạp âm thì Kiếm Phong Kim có Kim khí thịnh nhất nên rất sắc bén, sắc đến độ lộ phong khí. Kiếm Phong Kim sắc bén nên cũng kinh qua trăm đao ngàn trảm, ánh kiếm vung vạn trượng, kiếm khí bức chết người.
Một thanh kiếm vị trí sắc bén nhất chính là mũi kiếm, trong đó chính vị của Kim là Thân Dậu cũng chính là nơi sắc bén nhất, Kim vượng thì mới mạnh giống như một người háo thắng, thích lấn lướt tranh luận, chỉ cần vui vẻ là có thể hòa nhập.
 

6. Thoa Xuyến Kim - Vàng trang sức


Đào Tông Ngại viết: "Canh Tuất, Tân Hợi là Thoa Xuyến Kim, Kim bức Tuất thành tang, bức Hợi thành bênh, Kim mang bệnh tật mà trở nên yếu đuối nên gọi là Vàng trang sức".
Thoa Xuyến Kim là trang sức làm từ Kim, nên có Kim khí ẩn giấu, chỉ có hình thù biến đổi không còn là Kim ương ngạnh nữa. Thoa là vòng tay vòng cổ, Xuyến là trang sức chuyên cho khuê các nhà giàu dùng từ xưa, tất cả đều tịnh, thanh, mang khí chất thanh tú diễm lệ. Như một tiểu thư khuê các nhìn có vẻ yếu đuối nhưng bên trong lại mạnh mẽ kiên cường.

► Tham khảo thêm: Mệnh Kim hợp màu gì?

Góc trắng tinh khôi cho chủ nhà mệnh Kim
Lichngaytot.com
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngũ hành Kim - Tổng hợp ý nghĩa các nạp âm

Lễ Thần Tài

Văn khấn lễ Thần Tài. Thần Tài là vị thần mang tài lộc cho gia đình, mỗi khi làm việc gì, gia chủ thường cầu khấn Thần Tài.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Ý nghĩa:

Thần Tài là vị thần mang tài lộc cho gia đình, mỗi khi làm việc gì, gia chủ thường cầu khấn Thần Tài.

Người xưa thờ Thần Tài ở nơi xó xỉnh xuất phát từ điển tích:
Có một tên lái buôn tên là Âu Minh khi qua hồ Thành Thảo, Thủy thần cho một cô nô tỳ tên là Như Nguyện. Âu Minh đưa Như Nguyện về nuôi trong nhà làm ăn ngày càng trở nên phát đạt. Sau đó, vào một ngày tết, vì lý do nào đó, Âu Minh đánh Như Nguyện. Như Nguyện quá sợ hãi chui vào đống rác và biến mất. Từ đó, Âu Minh làm ăn thua lỗ, sa sút, chẳng mấy chốc trở nên nghèo xác nghèo xơ.

Hóa ra Như Nguyện chính là Thần Tài hiện hình. Từ đó người ta lập bàn thờ để thờ. Lại có tục kiêng hót rác trong ba ngày đầu năm là vậy. Vì người ta sợ hót rác là hót luôn cả Thần Tài trong đó thì việc làm ăn sẽ không phát đạt. Việc thờ Thần Tài ở nơi xó xỉnh cũng có nguồn gốc từ đây.

Bàn thờ Thần Tài:
- Bàn thờ Thần tài chỉ được lập ở những nơi góc nhà, xó nhà chứ không phải nơi sạch đẹp, trang trọng như bàn thờ Tổ Tiên hay bàn thờ Thổ Công.

- Bàn thờ Thần Tài là một chiếc khảm nhỏ, sơn son thếp vàng, phía trong khảm bài vị Thần Tài hoặc là thùng gỗ dán giấy đỏ xung quanh, phía trong dán bài vị, cũng được viết lên giấy đỏ. Bài vị được viết bằng mực nhũ kim với nội dung sau:
+ Ngũ phương Ngũ thổ Long thần,
+ Tiền hậu địa Chúa Tài thần.

Hai bên bài vị có câu đối:
+ Thổ năng sinh bạch ngọc,
+ Địa khả xuất hoàng kim.

Có nghĩa là: Đất hay sinh ngọc trắng, đất cũng cho vàng ròng


Nội dung câu đối có thể thay nhưng bao giờ cũng phải có một đôi.

- Trước bài vị là bát hương kê trên 100 thoi vàng giấy. Hai bên là hai cây đèn nhỏ đủ thắp. Trong khám đặt mấy cốc nước, chén rượu, một mâm bồng bày hao quả, phẩm vật khi cúng lễ.

- Có nhà khắc lên khám mấy chữ đại tự và có đôi câu đối ca tụng sự giúp đỡ của Thần Tài và cầu mong của gia chủ.

Cúng Thần Tài

- Người xưa cúng Thần Tài quanh năm, không chỉ vào dịp giỗ , Tết, Sóc Vọng mà vào bất kỳ lúc nào thấy cần cầu xin. Ngày thường, người ta cúng Thần Tài đơn giản, chỉ có trầu, nước, trái cây,….Còn trong các dịp giỗ, Tết, Sóc Vọng thì cúng Thần Tài bằng cỗ mặn.

- Thông thường người ta chỉ thắp hương thờ Thần Tài vào buổi chiều hàng ngày.

2. Văn khấn Thần Tài:

- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.
- Kính lạy ngài Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
- Con kính lạy ngày Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân.
- Con kính lạy Thần tài vị tiền.
- Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này.
Tín chủ con là………………………………………………………….
Ngụ tại……………………………………………………………………
Hôm nay là ngày…….tháng…….năm……………………………….
Tôi chủ thành sửa biện, hương hoa, lễ vật, kim ngân, trà quả và các thứ cúng dâng, bầy ra trước án kính mời ngài Thần Tài tiền vị.
Cúi xin Thần Tài thương xót tín chủ, giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật phù trì tín chủ chúng con an ninh khang thái, vạn sự tốt lành, gia đạo hưng long thịnh vượng, lộc tài tăng tiến, tâm đạo mở mang, sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ cúi xin được phù hộ độ trì.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ Thần Tài

Những lời chúc valentine ngọt ngào

Trong ngày lễ tình nhân hãy dành những lời chúc valentine ngọt ngào nhất dành tặng người mà bạn yêu nhất, chọn lời chúc valentine hay nhất tặng người tình
Những lời chúc valentine ngọt ngào

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mùa valentine đến rồi, hãy dành cho người yêu của bạn những lời chúc valentine ngọt ngào nhất, lãng mạn nhất vào ngày lễ tình nhân.

Trong tình yêu, một món quà không bằng một lời nói, một lời nói không bằng một cảm xúc. Hãy mang đến cho người bạn yêu một cảm xúc ngọt ngào qua lời chúc valentine hay nhất và ý nghĩa nhất. Hãy thể hiện tình yêu của bạn, tấm lòng của bạn, tâm hồn của bạn để người ấy biết rằng, bạn yêu người ấy biết dường nào.

Sau đây là những lời chúc valentine ngọt ngào hay nhất và đầy ý nghĩa, tuy chưa đủ để thể hiện hết tình yêu của bạn với người ấy nhưng nó đủ để cho người ấy biết cảm xúc của bạn về người ấy. Nào, hãy trao lời chúc ngày valentine tới một ai đó ngay bây giờ

Những lời chúc valentine ngọt ngào và hay dành cho bạn gái

Anh yêu những điều em làm, lời em nói. Yêu cách em trở thành một phần cuộc sống của anh mỗi ngày. Valentine ấm áp, Hạnh phúc trọn vẹn, em nhé!

—–

Tặng niềm vui để em ngọt ngào, tặng nụ cười để em rạng rỡ, tặng trái tim anh nóng cháy để em mãi là người yêu của anh. Chúc em hạnh phúc trong dịp Valentine này!

—–

Không có ánh mặt trời, làm sao có cầu vồng sau cơn mưa. Em là ánh mặt trời, khiến cuộc đời anh thêm rạng rỡ. Chúc em mãi tỏa sáng trong trái tim anh. Valentine ấm áp nhé em!

Anh sẽ là dòng sông, để em là biển rộng. Anh sẽ là gió lộng, để em là mây bay. Hãy để anh luôn được ở bên em trong cuộc đời này! Gửi em Valentine đầy yêu thương.

Cảm ơn em đã đến bên anh, cho anh biết thế nào là sự ngọt ngào, hạnh phúc của tình yêu. Lễ tình nhân ngọt ngào em nhé.

Tối qua anh đi ngủ với một nụ cười vì anh biết anh sẽ mơ thấy em… Và sáng nay anh thức dậy cũng với một nụ cười vì anh biết em không là một giấc mơ.

“Châu Âu ngủ, Châu Á cũng đang ngủ, Châu Mỹ đang tối dần, chỉ có đôi mắt đẹp nhất trên thế giới này đang đọc tin nhắn của anh. Happy Valentine Day!”.

“Nếu có bản án dành cho anh vì đã yêu em thì anh xin đứng trước toà và nhận bản án chung thân được bên em suốt đời…”

Nếu anh không bao giờ gặp em, anh sẽ không thích em. Nếu anh không thích em, anh sẽ không yêu em. Nếu anh không yêu em, anh sẽ không nhớ em. Nhưng anh đã làm, đang làm và sẽ làm đó là mãi yêu em và yêu em thật nhiều. Hôn em…

“Chào quý cô. Đây là tổng đài tin nhắn. Ấn phím 1 để có 1 lời khen. Phím 2 cho một lời chúc tốt đẹp. Phím 3 cho 1 nụ hôn. Phím 4 cho 1 cuộc hẹn. Nếu muốn tất cả hãy bấm số của tôi nhé”

Anh xin Chúa một bông hồng và ngài đã cho anh cả một vườn hoa, anh xin Chúa một giọt nước, ngài cho anh cả một đại dương, anh xin Chúa cho anh một thiên thần và ngài tặng em cho anh.

Một ngày anh có thể không gọi điện và nhắn tin cho em lúc thức dậy và trước khi đi ngủ, nhưng hãy tin rằng không ngày nào là không mở đầu và kết thúc với ý nghĩ về em.

Em bị triệu đến tòa án vì đã bước vào ước mơ của anh, đánh cắp trái tim anh, và cướp đi mọi cảm xúc trong anh. Em bị kết án ở bên anh mãi mãi. Em có gì biện hộ không?

Những lời chúc valentine hay nhất và lãng mạn dành cho bạn trai

Em xin lỗi anh hôm nay em bị hạn chế nhắn tin cho anh rồi… Hôm nay khám bệnh, bác sĩ bảo em phải hạn chế với những gì ngọt ngọt… mà anh lại ngọt ngào số một. Em đang liều mạng với tin nhắn này đấy. Happy Valentine-Day.

Em mong rằng em sẽ nhận được món quà rất lớn từ anh – Đó chính là tình yêu của anh, có được không anh?

Trong mắt anh, em nhìn thấy ngày mai… Trong vòng tay của anh, em tìm thấy tình yêu. Yêu anh hôm nay và mãi mãi.

Lần đầu tiên em nhìn thấy anh, em đã thấy tình yêu… Lần đầu tiên anh chạm vào em, em đã cảm nhận được tình yêu. Và sau những khoảng thời gian đó, anh vẫn là người duy nhất em yêu.

Theo khoảng cách, em đang ở xa anh. Bởi ý nghĩ, em đang rất gần anh. Còn về tình cảm thì trái tim em đã ở trong anh rồi.

Cảm ơn anh đã cho em những kỉ niệm tuyệt vời của ngày hôm qua, hạnh phúc ngập tràn của ngày hôm nay, và lời hứa ngọt ngào của tất cả những ngày sau đó!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lời chúc valentine ngọt ngào

Lời khuyên chọn chồng của cha dành cho con gái

Lời khuyên chọn chồng của cha dành cho con gái. Lắng nghe những lời khuyên chân thành từ một người cha dành cho con gái yêu dấu
Lời khuyên chọn chồng của cha dành cho con gái

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lời khuyên chọn chồng của cha dành cho con gái. Lắng nghe những lời khuyên chân thành từ một người cha dành cho con gái yêu dấu đang ở độ tuổi đẹp nhất của đời người để biết cách chọn chồng lý tưởng nhất.

Với mong muốn con gái mình sẽ luôn hạnh phúc và được sống trong tình yêu thương trọn đời, một người cha đã chia sẻ những lời nhắn nhủ chân thành để con gái đưa ra sự lựa chọn chính xác nhất khi tìm kiếm người đàn ông sẽ lấy làm chồng. Hãy cùng theo dõi xem đó là những bí quyết gì nhé!

Lời khuyên chọn chồng của cha dành cho con gái

1. Hãy hẹn hò với chàng trai làm cho con hạnh phúc, nhưng chỉ lấy người còn có thể khiến con cười nghiêng ngả
Một anh chàng chỉ để hẹn hò là khi anh ta thấy con ủ rũ mà chỉ khiến con cảm thấy nỗi buồn giống như những dấu tay ấn hằn trong tâm trí. Hãy đồng ý kết hôn với người biết làm cho con cười vui khi con vừa mới khóc một trận nức nở. Cuộc đời này không dễ dàng, con ắt sẽ gặp nhiều đau đớn. Thế nên con phải được ở bên một người có thể giúp con chịu đựng được tất cả. Hài hước là thước đo tuyệt vời của trí thông minh. Khi con thấy chán ghét cuộc sống này, hãy tìm cho ra người sẽ biến những thứ vô vị trở nên có ý nghĩa.

2. Xem thử trong lòng bàn tay của anh ta có vết sẹo nào không, nếu có thì đó là một dấu hiệu tốt, chứng tỏ cậu ta từng mày mò làm nhiều thứ
Những dấu vết đó cho thấy anh ta đã biết cách để bảo vệ mình. Với một người đàn ông chính nghĩa, bàn tay thô ráp đáng giá hơn một bàn tay mềm mại, vì chúng đã được “muối” bởi cuộc đời này!
Chai sạn chứng tỏ chàng trai đó đã từng “sống”, đã từng trải qua nhiều sương gió, bởi lẽ có một điều chắc chắn: ở đời này người ta tàn nhẫn với nhau lắm. Phải mạnh mẽ để vượt qua tất cả và tất nhiên người đàn ông mà con sẽ gắn bó đời mình phải vững chãi để giúp con tựa vào những lúc khó khăn.

3. Trước khi đồng ý trao hạnh phúc của con cho nguời đó, hãy chọc giận để xem chàng trai đó tức giận như thế nào, hãy dọa dẫm để xem anh ta sợ hãi ra sao, khát khao thế nào, đau khổ bao nhiêu…
Vì lẽ stress có thể làm thay đổi một người. Khi con bắt gặp người yêu con đang uống rượu giải sầu, hãy chuốc cho chàng say mèm đi rồi tha hồ khai thác những nỗi niềm trong lòng mà chàng ta chưa chia sẻ với con. Thêm nữa, con nhớ phải biết rõ những đam mê, những thứ người đó “nghiện”, để làm gì, để xem người yêu có đề cao vị trí của con trước mấy thứ đó hay không?

Phải thuộc nằm lòng rằng con người ta không ai thay đổi được ai cả. Một khi đã sinh ra như thế nào đó rồi thì tính khí đó không thể nào mài mòn đi được. Thế nên ngỡ như bây giờ con đã không ưa một tính nết nào đó của người đó, ắt hẳn con sẽ còn ghét nhiều hơn nữa sau mười năm chung sống. Có thể con yêu người ấy nhiều nên nghĩ mọi việc sẽ êm xuôi nhưng khi đã không hợp thì không tài nào thay đổi được.

4. Tin tưởng vào bản năng của mình.
Nếu anh ta từng khiến con cảm thấy không an toàn, không chắc chắn thì con đừng phí sức ngồi bào chữa cho hắn, chỉ cần đứng dậy và bỏ đi. Đó là tất cả những gì phải làm. Giữ cho mình an lành còn hơn là phải hối tiếc sau này.

5. Nếu anh ta đã coi tiền bạc quan trọng hơn cả con, anh ta sẽ tiếp tục đẩy con xuống đáy danh sách ưu tiên của anh ta sau này
Việc anh ta không có khả năng chu cấp những thứ con muốn là một chuyện và việc anh ta rủng rỉnh tiền trong túi nhưng lại chẳng bao giờ mua tặng con một bó hoa lại là chuyện khác. Con nên nhớ rằng tình và tiền là kẻ thù không đội trời chung, có đến 62% vụ li dị là do những bất đồng về chuyện tiền bạc. Cho nên khi con muốn chọn chồng chuẩn nhất, phải chắc chắn rằng anh ta biết việc giữ con quan trọng hơn giữ tiền của anh ta

6. Cách cậu ta đối xử với động vật thể hiện cách cậu ta đối xử với trẻ em (chính là con của con sau này)
Động vật thường chỉ hiếu động bằng một nửa trẻ em mà thôi mà con cái thì dễ thương nhưng đôi khi cũng rất quậy phá, nhiều lúc chúng ta cũng phải nổi cáu và làm những điều quá với chúng. Vậy nên nếu một chàng trai luôn ân cần, nhẹ nhàng với những động vật nhỏ bé thì đối với những đứa con sau này, anh ta cũng sẽ rất dịu dàng chăm sóc, không bao giờ đập đánh quá tay.
Con cũng đừng quên để ý cách anh ta đối xử với cô lao công hay chú xe ôm, người phục vụ… đó sẽ nói lên được rất nhiều điều!

7. Không tôn trọng con thì đừng có mơ là xứng với con
Con phải tin rằng con sinh ra xứng đáng để được yêu thương và tôn trọng. Nếu một chàng trai không nhận ra chân lý này thì đó chính là mất mát của cậu ta. Thế nên khi một chàng trai muốn con phải thay đổi vì chàng ta, hãy mạnh mẽ, cứng như đá và đừng lung lay ý nghĩ. Con vốn đã diệu kỳ theo cách của riêng mình!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lời khuyên chọn chồng của cha dành cho con gái

Tìm may mắn cho người tuổi Đinh Mão

Tuổi Đinh Mão số vất vả, tâm thanh thản nhưng thân không nhàn. Thuở nhỏ gặp nhiều khó khăn nhưng nhờ thông minh, tốt bụng nên càng lớn cuộc sống càng yên ổn,
Tìm may mắn cho người tuổi Đinh Mão

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc đời: phúc lộc dồi dào, tương lai tốt đẹp.

 
Người tuổi Đinh Mão năm 18 tuổi gặp nhiều may mắn, học hành đỗ đạt, thành danh, đường tình duyên và tài lộc đều thuận lợi.

Những tuổi đại kỵ với Đinh Mão là: Canh Ngọ, Bính Tý, Nhâm Ngọ, Giáp Tý. Nếu kết hợp làm ăn với những người này sẽ bị thua lỗ; nếu kết duyên sẽ không có hạnh phúc.

Những năm khó khăn nhất trong cuộc đời nữ Đinh Mão là tuổi: 20, 23, 27, 40; nam là: 16, 18, 24, 28, 30, 36, 40, 43.

Tính cách: Đây là người thẳng thắn, bộc trực, tự lập, không thích nhờ vả, luồn cúi người khác.

Nữ Đinh Mão có khiếu thẩm mỹ, rất ưa chuộng cái đẹp. Họ còn có giác quan thứ 6 nên rất nhạy cảm, ưu điểm này đã giúp họ nhiều lần tránh được những nguy hiểm trong cuộc sống.

Nam giới Đinh Mão tính hay tự ái, nhược điểm này đã ảnh hưởng xấu tới các mối quan hệ và sự nghiệp của họ.

Tình duyên: Tuổi Đinh Mão có số đào hoa nhưng hay gặp trắc trở trong tình cảm.

Nữ sinh vào các tháng: 2, 3, 4, 7, 8, 9, 10; nam sinh vào các tháng: 1, 2, 3, 4, 6, 7, 9, 10, 11 số phải kết hôn 2 lần mới được hạnh phúc, yên ổn, khá giả.

Tuổi đinh Mão nên tránh kết hôn với các tuổi: Đinh Dậu, Quý Dậu, Kỷ Mão để không phải chịu cuộc sống túng thiếu, vất vả.

Gia đạo: Tuổi này trung vận, hậu vận êm đềm. Năm 36 tuổi sẽ gặp phải sóng gió nhưng cũng tai qua nạn khỏi.

Công danh, sự nghiệp: Tuổi Đinh Mão tuy công danh, sự nghiệp đến muộn nhưng lại vững chắc. Bước sang tuổi 40 sự nghiệp càng tiến triển tốt đẹp, có danh tiếng.

Tuổi này nên kết hợp với tuổi Mậu Thìn, Nhâm Thân, Giáp Tuất để việc làm ăn thuận lợi, phát đạt.

Tiền bạc: Tuổi Đinh Mão tài lộc không ổn định nhưng từ năm 38, 39 tuổi tiền tài sẽ dồi dào, làm ăn may mắn, bội thu.

Lưu ý: Cần đề phòng tiền bạc khi kết hợp với bạn bè kỵ tuổi để tránh hao tổn, bất lợi.

(Theo 12 con Giáp và tính cách con người qua năm sinh, tuổi Mão)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm may mắn cho người tuổi Đinh Mão

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Lời Phật dạy: Tham sắc dục thì sẽ phải nhận quả báo

Tham sắc dục hay tà dâm là tội ác nặng nề, trời không dung, đất không tha. Sau khi chết đi sẽ bị đày xuống địa ngục và chịu sự đày đọa khủng khiếp.
Lời Phật dạy: Tham sắc dục thì sẽ phải nhận quả báo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


 

Tà dâm là tội nặng, trời đất không dung, khi thác xuống địa ngục hối không kịp vì sự đày đọa khôn thấu, người xưa rất ý thức được điều này. Có một câu chuyện vẫn được dân gian lưu truyền để răn dạy người đời giữ gìn chung thủy trong cuộc sống lứa đôi.   Cổ ngữ có câu: “Làm việc phải theo Thiên đạo”. Họ cho rằng, người tham háo sắc dục, ý niệm, hành vi bất chính không chỉ làm tổn hại đến danh tiết và bản tính thiện lương của bản thân mà còn trái với Thiên lý, nên phải chịu sự trừng phạt. Câu chuyện về người đàn ông tham háo sắc dục dưới đây là một ví dụ.
Loi Phat day Tham sac duc thi se phai nhan qua bao hinh anh 2
Ảnh minh họa
Trước đây có một vị thư sinh tên là Lý Sinh, vô cùng chăm chỉ đọc sách, giỏi viết văn. Trên đường đến kinh thành dự thi, anh ta quyết định nghỉ lại qua đêm ở một nhà trọ bên đường.   Đêm trước, người chủ quán trọ vốn nằm mộng gặp Thổ Địa và Thổ Địa nói với ông rằng: “Ngày mai sẽ có một vị tên là Lý Sinh đến nghỉ trọ tại quán của ông. Ông phải đối đãi tốt với anh ta, bởi vì anh ta có mệnh thi đỗ khoa bảng!”   Sáng sớm ngày hôm sau, quả nhiên Lý Sinh đã đến. Ông chủ quán trọ ân cần chiêu đãi đồ ăn ngon và còn cung cấp xe ngựa cho anh ta đi.   Lý Sinh thấy quá lạ bèn hỏi chủ quán: “Vì sao ông lại đối đãi tốt với tôi như vậy?”   Chủ quán liền kể lại giấc mộng đêm qua của mình cho Lý Sinh nghe. Lý Sinh nghe xong vô cùng cao hứng, liền nghĩ mãi rằng: “Mình sắp đỗ đạt công danh rồi! Nếu mình mà làm đại quan thì mình phải bỏ ngay người vợ xấu xí hiện tại của mình và lấy người vợ mới xinh đẹp hơn mới phải!”   Sau khi Lý Sinh rời đi vào sáng hôm sau, người chủ lữ quán lại mộng thấy Thổ Thần đến nói với ông rằng: “Lý Sinh này có ý định bất lương, công danh còn chưa thành mà đã nghĩ đến chuyện vứt bỏ người vợ tào khang, giờ thì anh ta đã không còn hy vọng đỗ đạt nữa rồi.”   Mấy hôm sau, Lý Sinh lại trở về quán trọ ấy nhưng ông chủ quán trọ lại đối xử với anh ta vô cùng lạnh nhạt, thậm chí còn không cho phép anh ta ở lại qua đêm.   Lý Sinh không hiểu vì sao liền hỏi người chủ quán trọ nguyên nhân. Chủ quán trọ liền nói lại những lời mà Thổ Thần đã nói với ông cho Lý Sinh nghe. Lý Sinh nghe xong kinh sợ và cảm thấy vô cùng xấu hổi, vội vã rời đi. Về sau, quả nhiên là Lý Sinh không đắc được chút công danh nào.   Lý Sinh chỉ có một ý nghĩ sai trái, vậy mà mệnh của anh ta vốn đắc công danh đã bị hủy đi, phúc báo bị tước mất hết. Người xưa nói, hết thảy họa phúc của một người đều không tách rời với lòng dạ của người ấy, cát hung, họa phúc đều do tâm người tạo ra.   Trời đất không thiên vị ai, con người chiêu mời phúc hay họa hết thảy đều là ở tâm của mình khởi lên. Đã không muốn hối hận, sao không cẩn thận ngay từ ban đầu khởi niệm? Chỉ có tâm tồn thuần thiện, ước thúc hết thảy những hành vi bất thiện của bản thân mình, không đắc tội với Thiên Địa Thần linh, thì mới đắc phúc.
Loi Phat day Tham sac duc thi se phai nhan qua bao hinh anh 2
Hình phạt cho người tà dâm dưới địa ngục vô cùng khủng khiếp
Quan hệ tình dục ngoài hôn nhân chính là tội tà dâm. Hành vi này trời đất không dung, quỷ thần phẫn nộ. Ngay khi một ý niệm dâm dục khởi phát, thậm chí trước khi hành vi nào đó xảy ra, đã là phạm tội lỗi lớn (tạo nghiệp to lớn). Nếu phạm lỗi, không chỉ người đó đã gây ra tai họa lớn cho chính mình, mà còn mang tới bất hạnh cho con cái họ.   Sự lạc thú từ tội tà dâm chỉ là nhất thời, nhưng tội nghiệp mang lại thì thật to như núi. Đối với những người phạm tội tà dâm, một số thì bị mất mạng, một số thì bị mất chức vị, một số hủy hoại gia đình và một số thì bị tuyệt tự. Một người có thể có mệnh phú quý, nhưng nếu phạm tội tà dâm, anh ta có thể trở nên khốn khổ lao đao suốt cuộc đời. Một người có thể có mệnh được hưởng phúc và thọ, nhưng nếu phạm tội tà dâm, anh ta có thể bị tật nguyền hay chết yểu. Một người có thể có vợ hiền thục và tiết hạnh, nhưng nếu phạm tội tà dâm, bạn đời của anh ta có thể trở nên lẳng lơ và phóng đãng.

ST.

Lời Phật dạy: Đời người là mộng ảo Lời Phật dạy: 3 điều CÒN thì không biết, MẤT đi mới biết Lời Phật dạy: Trong cuộc đời có 3 cái KHỔ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lời Phật dạy: Tham sắc dục thì sẽ phải nhận quả báo

Xem tướng đàn ông giỏi kiếm tiền

Xem tướng đàn ông giỏi kiếm tiền, tướng người giàu có, cần phân biệt đàn ông thông minh và đàn ông giỏi kiếm tiền là khác nhau cho dù liên quan tới nhau
Xem tướng đàn ông giỏi kiếm tiền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người thông minh chưa chắc giỏi kiếm tiền bởi đấy là 2 yếu tố khác nhau cho dù chúng có liên quan mật thiết với nhau. Xem tướng đàn ông giỏi kiếm tiền và thành đạt thường có trán rộng, ấn đường sáng tỏ, miệng tươi, thần thái tự tin, có lực.

Đi tìm tướng đàn ông giỏi kiếm tiền

Xem tướng đàn ông mà miệng rộng, đôi môi căng mọng, cằm đầy đặn

“Đàn ông miệng rộng thì sang”, ý chỉ những anh chàng có đặc điểm này có cuộc sống phú quý, nhiều tài lộc.

Nếu có thêm đặc điểm đôi môi căng mọng, cằm đầy đặn hoặc hai cằm thì chứng tỏ phúc khí càng lớn, nhiều may mắn về tài lộc, đặc biệt rất dễ phát tài bất ngờ. Ngoài khả năng kiếm tiền dễ dàng, người này còn biết tích lũy tiền bạc cho mục đích lớn lao.

Vì thế, hiếm khi thấy họ tiêu xài hoang phí. Nhưng với người thân, bạn bè, họ luôn mở rộng “hầu bao” để giúp đỡ mà không mong được đền đáp.

Đàn ông có tướng trán cao và rộng

Trán cao và rộng, đầy đặn là biểu hiện của trí tuệ sâu sắc, kiến thức rộng rãi, dễ thành đạt lúc thanh niên.

Trên trái đất, có hàng tỷ người với những gương mặt khác nhau, tuy nhiên, nhân tướng học thông qua thống kê và khái quát đã chỉ ra rằng, hầu hết những người đàn ông có vầng trán cao và rộng là những người có thiên chất, thông minh xuất chúng, họ có óc quan sát, khả năng lĩnh hội và trí tưởng tượng phong phú, dễ thích ứng hoàn cảnh thực tại. Trán cao và rộng, đầy đặn là biểu hiện của trí tuệ sâu sắc, kiến thức rộng rãi, dễ thành đạt lúc thanh niên.

Tướng đàn ông có đôi tai to và dầy

Đàn ông có tai to, dầy, vành tai rõ ràng, gần như tướng tai của phật Di lặc là tướng rất đẹp. Xem tướng mạo của các doanh nghiệp, những ông chủ giàu có phần lớn đều là những người có đôi tai dầy và to. Họ là những người có điều kiện kinh tế lý tưởng, nên đủ khả năng đem lại cuộc sống yên vui, ổn định cho một nửa của mình!

Khoảng cách giữa hai đầu lông mày rộng, sắc, Ấn đường sáng sủa

Khoảng cách giữa hai đầu lông mày cũng là vị trí của Ấn đường, nó cho biết mức độ hanh thông về tài vận của mỗi người. Ấn đường sáng sủa, vận thế càng khởi sắc, cơ hội phát tài phát lộc ngày càng nhiều.

Khoảng cách ngày càng rộng thì tài lộc càng hanh thông, tốt đẹp. Ngược lại, nếu khoảng cách giữa hai đầu lông mày hẹp, cho thấy cuộc sống của chủ nhân gặp nhiều sóng gió, thăng trầm, tài lộc kém sắc.

Người đàn ông có xương lông mày nhô cao

Nam giới có phần xương lông mày nhô cao, đầy thịt, đầu lông mày rộng là tướng đại quý. Những người sở hữu quý tướng này thường có tính cách lạc quan, sống tích cực, luôn hừng hực khí thế phấn đấu và có nghị lực phi thường, họ rất dễ thành công trong sự nghiệp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng đàn ông giỏi kiếm tiền

Đèn Trung Thu, giá trị truyền thống dần bị mai một

Các loại đèn Trung Thu truyền thống như đèn ông sao, đèn cá chép đang dần bị mai một theo dòng chảy hối hả của cuộc sống hiện đại.
Đèn Trung Thu, giá trị truyền thống dần bị mai một

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Dòng chảy hối hả của cuộc sống khiến Tết Trung Thu mai một dần những giá trị truyền thống vốn có của nó, trong đó có các loại đèn Trung Thu truyền thống. 

► Tra cứu Lịch âm dương, Lịch vạn niên nhanh chóng và chuẩn xác nhất tại Lichngaytot.com
 

1. Đèn Trung Thu truyền thống

 
Den Trung Thu, gia tri truyen thong dan bi mai mot hinh anh
 
Rằm tháng 8 âm lịch là ngày Tết dân gian của người Việt. Vì thế, không có lý do gì mà bố mẹ lại không dành tặng các bé những món đồ chơi truyền thống, vừa nhằm mục đích gìn giữ giá trị văn hóa, để các bé hiểu thêm về ý nghĩa Tết Trung Thu, lại mang tới cho trẻ những trải nghiệm thú vị mà chỉ dịp Trung Thu mới có.   Nhắc tới đồ chơi dành tặng con trẻ trong dịp Tết TrungThu không thể không kể tới những chiếc đèn Trung Thu truyền thống như đèn ông sao, đèn cù. Bởi đó là những món đồ chơi Trung Thu truyền thống, có từ lâu đời và được gìn giữ tới ngày nay.   Đối với đèn ông sao, dù là ngày xưa hay bây giờ, chiếc đèn ông sao 5 cánh vẫn là món đồ chơi được các em bé rất yêu thích với nhiều màu sắc rực rỡ.   Đèn cù còn có tên gọi khác là đèn ông sư. Đây là món đồ chơi truyền thống quen thuộc mỗi dịp Trung Thu về. Nhưng ngày nay, dường như các loại đèn Trung Thu đã bị lãng quên một phần và được thay thế bởi nhiều mặt hàng đồ chơi khác với kiểu dáng bắt mắt, công năng thú vị hơn.  
Den Trung Thu, gia tri truyen thong dan bi mai mot hinh anh
 

2. Giá trị truyền thống dần bị mai một

 
Den Trung Thu, gia tri truyen thong dan bi mai mot hinh anh
 
Tết Trung Thu ở Việt Nam không chỉ là dịp tết đoàn viên, gia đình sum vầy bên nhau, sẻ chia, trao gửi tâm tình. Nó còn là dịp tết dành cho thiếu nhi. Vì thế, mỗi độ trăng tròn hàng năm, khắp nơi trên đất nước đều tổ chức Tết Trung Thu linh đình với mâm cỗ hoa quả đầy ắp, những chiếc đèn trung thu rực rỡ sắc màu, đoàn múa lân tưng bừng...   Những năm trở lại đây, thị trường đồ chơi Trung Thu cho trẻ em ngày càng sôi động với nhiều mẫu mã được đầu tư cả về thiết kế lẫn chất liệu. Vì có quá nhiều sự lựa chọn, nên một số gia đình đã lãng quên những món quà Trung Thu truyền thống.   Trung Thu chính là dịp để người Việt hướng về giá trị truyền thống, lưu giữ nét đẹp nguồn cội văn hóa. Mỗi người trong chúng ta đều có tuổi thơ gắn liền với truyền thống, văn hóa của dân tộc. Mỗi dịp Trung Thu về, không chỉ con trẻ háo hức mà lòng người lớn cũng xốn xang cảm xúc. Vậy nên, đừng bao giờ để giá trị truyền thống ấy bị mai một, dù cuộc sống có hối hả, tất bật tới đâu. 
Việt Hoàng   Tết Trung Thu: Nguồn gốc và ý nghĩa
Tết Trung Thu diễn ra vào đúng giữa thu, tức ngày rằm tháng 8 âm lịch. Đây là nét văn hóa từ lâu đời, nhưng chưa có văn bản nào xác minh rõ về nguồn gốc là bắt


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đèn Trung Thu, giá trị truyền thống dần bị mai một

Những loài thực vật phong thủy –

Hồ lô Hồ lô thuộc giống thực vật dây leo. Đây leo chằng chịt, quả kết sai trĩu, hạt nhiều, người ta cho đó tượng trưng cho loại cây mang ý cát tường, con cháu thịnh vượng. Chi "mạn" cùng hiệp âm với “vạn", ngụ ý muôn đời dài lâu, bền vững. Dân gian c

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hồ lô

Hồ lô thuộc giống thực vật dây leo. Đây leo chằng chịt, quả kết sai trĩu, hạt nhiều, người ta cho đó tượng trưng cho loại cây mang ý cát tường, con cháu thịnh vượng. Chi “mạn” cùng hiệp âm với “vạn”, ngụ ý muôn đời dài lâu, bền vững. Dân gian cho rằng: hồ lô cát tường và có thể tránh tà khí. Trong Tết Đoan Ngọ của dân gian, người ta thường cắm cành hoa đào trong hồ lô.

Khí công hiện đại ngày nay đã xem xét và chứng minh rằng hồ lô có chức năng cách tuyệt khí trường. Tục ngữ có câu “bất tri hồ lô ly mại đắc hà dược”, tức là khó có thể thấu suốt những vật trong hồ lô. Phân tích từ góc độ trường khí phong thủy, những đường nét uốn lượn của hồ lô có bao hàm hình chữ “S” đó bã chức năng thần kỳ giữa ranh giới phân định của Âm dương thái cực. Chính vì vậy, hồ lô thường được ứng dụng trong việc hoá giải hung khí trong phong thủy.

ngo-thu-du

Ngô Thù Du

Cây Ngô thù du: có hương thơm ngào ngạt, phát triển nhất vào dịp tết Trùng Cửu (mùng 9 tháng 9 âm lịch), màu đỏ đậm, dân gian vào những ngày này thường cắm Thù Du, làm men Thù Du để tránh tà. Trong sách Quần phương phổ có viết: “Ngày mùng chín tháng chín ngắt hoa Thù Du cài lên mủ có thể tránh được tai ương, trừ được ma quỷ”. Trong bài văn Thái bình ngự lâm cũng có dẫn sách Tạp Ngũ Hành Chí cũng viết: Trồng cây Ngô Thù Du bên cạnh nhà có thể tăng tuổi thọ, giải trừ được bệnh hoạn.

Trong Hoa kính cũng có nói: ‘Tinh tắc hà biên, dĩ chủng tủ thụ, diệp lạc kỳ trung, nhân ẩm thị thủy, vĩnh vô ôn dịch” (nghĩa là: bên cạnh giếng hoặc bên sông nên trồng loại cây này, khi lá rơi xuống giếng đó, con người uống nước đó, sẽ không bao giờ mắc bệnh tật). Đời Hán bên Trung Hoa có tranh Cát tường vẽ Ngô Thù Du, để thêu có thêu hình Ngô Thù Du. Tết Trùng dương của Trung Quốc vào ngày 9 tháng 9 hàng năm cũng thường gọi là ngày “hội Thù Du”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những loài thực vật phong thủy –

Ý tưởng đặt tên cho sản phẩm –

Một chữ “i” nhỏ bé cũng làm nên hào quang của Apple với iMac, iCloud, iPhone và iPod. Một chữ “i” nhỏ nhưng đặt tên cho sản phẩm có thể là một trong những thách thức khó khăn nhất đối với doanh nghiệp (DN). Bởi vì, ẩn trong cái tên là sợi dây liên kế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một chữ “i” nhỏ bé cũng làm nên hào quang của Apple với iMac, iCloud, iPhone và iPod.

Một chữ “i” nhỏ nhưng đặt tên cho sản phẩm có thể là một trong những thách thức khó khăn nhất đối với doanh nghiệp (DN). Bởi vì, ẩn trong cái tên là sợi dây liên kết với khách hàng, mô tả DN, phân biệt sản phẩm…

Sẽ khó khăn hơn khi phải chọn một cái tên để phổ biến tại nhiều thị trường trên thế giới. Sự hữu ích của việc có một tên duy nhất cho một sản phẩm được tính bằng hiệu quả truyền thông, thời gian thâm nhập thị trường và sau đó là doanh số.

Khó khăn nhất là sự phù hợp với văn hóa, ngôn ngữ bản địa được áp dụng chung cho một cái tên. Chẳng hạn, Unilever bán một sản phẩm chất tẩy rửa mang tên Jif tại nhiều quốc gia nói tiếng Anh.

Khi đưa sản phẩm này sang các thị trường khác, Unilever chọn cái tên Cif. Bởi vì, âm “J” tại nhiều nước rất khó phát âm. Sau đó, vào năm 2001, Unilever đã đổi tên sản phẩm này sang Cif tại phần lớn các thị trường cũ, nhằm tiết kiệm tiền bạc và tránh sự nhầm lẫn.

Theo Jack Halpern, Giám đốc Điều hành Công ty Từ điển The CJK Dictionary Institute và Frankie Patman – nhà ngôn ngữ học của Tập đoàn Máy tính IBM, rào cản ngôn ngữ là trở ngại lớn gây ra những tình huống rủi ro cho nhiều DN phương Tây.

Chẳng hạn, tên gọi ban đầu của hãng Coca – Cola tại Trung Quốc được phiên âm thành “Kekoukela”, có nghĩa là “Cắn đuôi con nòng nọc sáp” hoặc “Con ngựa cái nhồi sáp”, tùy theo khẩu âm của từng địa phương. Coca – Cola phải viện tới các giáo sư ngôn ngữ địa phương để tra cứu trong 40.000 từ đồng âm mới tìm ra được tên mới “Kokoukole” (khả khẩu khả lạc), với nghĩa “Vừa vui, vừa ngon”.

Để phù hợp với chiến lược phát triển mới, Peugeot đã thay đổi cách đặt tên sản phẩm đã giữ hơn nửa thế kỷ qua nhằm phân biệt rõ phân khúc mà nó hướng tới tại thị trường Trung Quốc.

Theo cách đặt tên mới, chữ số cuối được cố định là 1 hoặc 8. Nếu tên xe kết thúc bằng số 1, nó sẽ là những chiếc xe giá re,û còn số 8 là những chiếc xe cao cấp hơn. Điều đơn giản là người Trung Quốc hoặc người châu Á nói chung rất sùng bái con số 8 như một con số đem lại may mắn!

Theo Harold Schifman, một giáo sư về ngôn ngữ ở Đại học Pennsylvania, đặt tên sản phẩm có thể phụ thuộc vào từng lĩnh vực riêng biệt. Chẳng hạn, đối với xe hơi, một cái tên Đức hoặc Ý là tốt nhất; hoặc đừng bao giờ lấy một cái tên Pháp để đặt cho xe hơi, vì những từ tiếng Pháp thường gợi đến liên tưởng về các sản phẩm thời trang, nước hoa…

Hay thị trường Đông Á là nơi những cái tên tiếng Anh thường gây ấn tượng hơn cả. Nó gợi đến những sản phẩm nhập khẩu từ phương Tây – đại diện cho chất lượng, mẫu mã tốt hơn, đẹp hơn hàng bản xứ.

Nhưng trong bối cảnh nhiều quốc gia đang bảo vệ mạnh mẽ văn hóa địa phương, nhiều công ty đa quốc gia chọn một từ địa phương có cùng ý nghĩa với thương hiệu toàn cầu của họ. Ngoài ra, bên cạnh tên gốc của các DN này cũng đề tên đã dịch sang ngôn ngữ địa phương.

Đó là chuyện lớn của những DN đa quốc gia hoặc tìm đường xuất khẩu. Nhưng việc đặt tên sản phẩm cũng là khó khăn ngay cả đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Những câu chuyện về tên sản phẩm quốc tế cho thấy, cho dù tự mình làm hoặc thuê ngoài thì chủ DN cũng cần phải nắm một số kiến thức cơ bản trong vấn đề này.

???????????????????????????????????????

1.Khu biệt

Thông thường một cái tên mới có vẻ như là giải pháp để thu hút sự chú ý của khách hàng. Nhưng trước khi đặt tên, cần phải xác định cái tên này sẽ gợi ra được tính năng, dịch vụ hay chương trình mới?

Cũng có thế kết hợp tất cả các yếu tố này trong một cái tên. Ví dụ, eBay đồng thời là một trang web, một trung tâm mua sắm và nhà bán đấu giá. Hiện đang có hai xu hướng trong đặt tên cho sản phẩm.

Xu hướng thứ nhất là doanh nghiệp sử dụng những từ ngữ được phát minh, sáng tạo ra, nghe trừu tượng. Xu hướng thứ hai là dùng những cái tên không trừu tượng nhưng lại không liên quan gì đến lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp.

2. Mục tiêu

Hãy nhớ tới đối tượng mà cái tên đang hướng đến. Đó là khách hàng. Vì vậy, không để cho sở thích cá nhân ảnh hưởng đến việc đặt tên.

Cái tên không phải là những gì bạn thích, mà là những gì số đông khách hàng thích. Đặt mình trong vị trí của khách hàng và cố gắng tìm ra phần quan trọng nhất của doanh nghiệp/ sản phẩm để trả lời câu hỏi: Tại sao khách hàng chọn bạn chứ không phải đối thủ cạnh tranh của bạn?

3. Chức năng

Một tên có thể làm được nhiều việc, từ truyền đạt thông điệp, phân biệt sản phẩm hoặc dịch vụ trên thị trường, thiết lập mối quan hệ với những thứ khác. Nhưng một cái tên không thể làm tất cả mọi thứ.

Vì vậy, bạn sẽ cần phải tìm ra những công cụ tiếp thị khác như: mô tả, thông tin chi tiết, tên bổ sung…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý tưởng đặt tên cho sản phẩm –

Ngày “Thái Bạch Chu Thương” kỵ đón dâu –

Các ngày Thái Bạch không phụ thuộc vào tháng. Ngày kỵ đón dâu (âm lịch) Phương Thái Bạch soát 1-11-21 Thái Bạch đóng chính ở phương Đông 2-12-22 Thái Bạch đóng chính ở phương Đông Nam 3-13-23 Thái Bạch đóng chính ở hướng Nam 5-15-25 Thái Bạch đóng ch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các ngày Thái Bạch không phụ thuộc vào tháng.

cuoi653

Ngày kỵ đón dâu (âm lịch)

Phương Thái Bạch soát

1-11-21

Thái Bạch đóng chính ở phương Đông

2-12-22

Thái Bạch đóng chính ở phương Đông Nam

3-13-23

Thái Bạch đóng chính ở hướng Nam

5-15-25

Thái Bạch đóng chính ở hướng Tây

6-16-26

Thái Bạch đóng chính ở phương Tây Bắc

7-17-27

Thái Bạch đóng chính ở hướng Bắc

8-18-28

Thái Bạch đóng chính ở phương Đông Bắc

10 – 20 – 30

Thái Bạch đóng chính ở thiên vô kỵ

* Lưu ý:
Sao Thái Bạch đóng ỏ’ phương, hướng nào thì tránh đón dâu về phương hướng đó (lấy nhà gái làm Tâm). Riêng thiên vô kỵ thì kỵ mọi hướng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngày “Thái Bạch Chu Thương” kỵ đón dâu –

Xem bói tử vi tháng 6 tháng đầu năm 2015 của người tuổi Sửu

Xem bói tử vi 6 tháng đầu năm 2015 của người tuổi Sửu: công danh, sự nghiệp, tình duyên, tài lộc, vận hạn...diễn biến như thế nào? Cùng Lịch ngày Tốt tìm hiểu
Xem bói tử vi tháng 6 tháng đầu năm 2015 của người tuổi Sửu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nhé!


Tháng Giêng - Giáp Dần


Thiên can: Giáp Mộc
Địa chi: Dần Mộc
Đặc trưng: Âm dương quân bình
Vận Thái tuế: Thiên can tương sinh, địa chi tương hại
Tháng này vận thế của người tuổi Sửu không tốt. Địa chi tương phá, mối quan hệ giao tiếp của bạn không tốt, dễ bị người xấu hãm hại và phá tài. Lời khuyên cho bạn là lên giữ mình, kiềm chế bản thân. Đời sống tình cảm không tốt, dễ phát sinh biến cố.
Phương vị tốt trong tháng: Tây, Nam
Màu sắc may mắn: Trắng, vàng

Tháng Hai - Ất Mão


Thiên can: Ất  Mộc
Địa chi : Mão Mộc
Đặc trưng: Âm khí vượng
Vận Thái tuế: Thiên can tương sinh, địa chi tương sinh
Tháng này vận thế của người tuổi Sửu tốt. Sự  nghiệp, công việc bước vào giai đoạn phát triển, tài vận cũng thu được những khoản đáng kể. Tuy nhiên, lưu ý người đã có gia đình thận trọng trong quan hệ với người khác giới, tránh rơi vào cảnh dẫn lửa thiêu thân. Người chưa kết hôn dễ tìm được lương duyên, nhưng vẫn cần cân nhắc tình cảm của đối phương. Về sức khỏe, đề phòng bất trắc, phá tài do sức khỏe.
Phương vị tốt trong tháng: Chính Đông, Tây Nam
Màu sắc may mắn: Lục, vàng


 

tuoi ty (11)
 


Tháng Ba – Bính Thìn


Thiên can: Bính Hỏa
Địa chi: Thìn Thổ
Đặc trưng: Âm dương quân bình
Vận Thái tuế: Thiên can tương khắc, địa chi tương sinh
Tháng này vận thế của người tuổi Sửu bất lợi, gặp nhiều khó khăn đặc biệt, dễ gặp họa thương thân tổn tài. Đời sống tình cảm cũng gặp nhiều cản trở, dễ nảy sinh mâu thuẫn, xung đột. Người đơn thân hỷ sự khó thành. Quan vận tháng này bất lợi, công việc áp lực gia tăng, làm nhiều mà hưởng ít. Sức khỏe tháng này cũng không tốt.
Phương vị tốt trong tháng: Bắc, Tây
Màu sắc may mắn: Đen, vàng

Tháng Tư – Đinh Tỵ


Thiên can: Đinh Hỏa
Địa chi: Tị Hỏa
Đặc trưng: Âm khí vượng
Vận Thái tuế: Thiên can tương khắc, địa chi ngang vai
Tháng này vận thế của người tuổi Sửu có phần thuận lợi. Tỵ Sửu tương hợp, công việc, sự nghiệp nhờ đó có được sự phát triển tốt; tài vận có bước chuyển biến khả quan, là thời cơ để đầu tư làm ăn, lập nghiệp. Đời sống tình cảm vận đào hoa vượng, dễ đi đến hon nhân, tình cảm lứa đôi ổn định. Chú ý an toàn giao thông.
Phương vị may mắn: Chính Tây, Đông Bắc
Màu sắc  may mắn: Trắng, vàng

 

Tháng Năm – Mậu Ngọ


Thiên can: Mậu Thổ
Địa chi: Ngọ Hỏa
Đặc trưng: Âm dương quân bình
Vận Thái tuế: Thiên can tương hợp, đại chi kiếp phá
Tháng này, vận thế của người tuổi Sửu cát hung lẫn lộn, khó phân biệt. Tuy nhiên chỉ cần an thân thủ kỷ, chuyên tâm làm việc sẽ có thể vượt qua khó khăn. Tháng này Ngọ Sửu tương hại, cần chú ý đề phòng tiểu nhập làm hại hoặc họa phá tài, hành sự thận trọng. Đời sống tình cảm: đào hoa vượng nhưng lại chứa đựng nhiều rắc rối tốt xấu đan xem, bất ổn.
Phương vị may mắn: Chính Nam, Tây
Màu may mắn: Hồng, trắng

Tháng Sáu – Kỷ Mùi


Thiên can: Kỷ Thổ
Địa chi: Mùi Thổ
Đặc trưng: Âm khí vượng
Vận Thái tuế: Thiên can tương khắc, địa chi tương sinh
Tháng này Sửu Mùi tương xung, vận thế của bạn bất lợi. Chính tài không thông, không phải là thời gian tốt để tiến hành việc đầu tư làm ăn lập nghiệp. Đời sống tình cảm gặp nhiều mâu thuẫn, người đơn thân khó có cơ hội tìm được duyên lành hoặc có sự biến về tình cảm. Cần có gắng tu thân dưỡng tính, chủ động vượt qua giai đoạn khó khăn. Trong giao tiếp xã hội cần thận trọng, tránh những khúc mắc và kẻ xấu.
Phương vị may mắn: Tây Nam, chính Đông
Màu sắc may mắn: Vàng, lục

(Theo Jixiangwu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tử vi tháng 6 tháng đầu năm 2015 của người tuổi Sửu

Biến động tình cảm trong tháng 7 của 12 con giáp

Chuyện tình cảm của người tuổi Hợi diễn ra thuận lợi vì được nhiều quý nhân giúp đỡ. Trải qua những mâu thuẫn hoặc sóng gió tình cảm, các cặp đôi thêm trân
Biến động tình cảm trong tháng 7 của 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chuyện tình cảm của người tuổi Hợi diễn ra thuận lợi vì được nhiều quý nhân giúp đỡ. Trải qua những mâu thuẫn hoặc sóng gió tình cảm, các cặp đôi thêm trân trọng những điều đáng quý ở hiện tại, từ đó hạ quyết tâm để chinh phục đích đến cuối cùng.


► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không
 
Tình cảm của người tuổi Tý   Vận thế tình duyên của người tuổi Tý trong tháng 7 khá tốt, do đó chuyện tình cảm có những chuyển biến tích cực hơn. Người độc thân vượng vận đào hoa, có cơ hội tìm được ý trung nhân; các cặp vợ chồng có những trải nghiệm thú vị về cuộc sống gia đình. 
Tình cảm của người tuổi Sửu   Dù vận thế tình duyên của người tuổi Sửu đang có xu hướng giảm, nhưng những người độc thân vẫn có cơ hội tìm được nửa kia cho mình, với điều kiện phải mở rộng trái tim và chủ động “bật đèn xanh” cho đối phương.   Tình cảm của người tuổi Dần   Tháng 7 không phải là thời điểm lí tưởng để người tuổi Dần bàn đến chuyện tình cảm hoặc kết hôn. Những cặp đôi đang yêu nhau hoặc đã kết hôn sẽ nảy sinh mâu thuẫn hoặc vướng họa khẩu thiệt thị phi, nhiều khả năng sẽ dẫn tới đổ vỡ.   Tình cảm của người tuổi Mão   Chuyện tình cảm của người tuổi Mão trong tháng 7 khá thuận lợi, đặc biệt nam mệnh độc thân vượng vận đào hoa nên dễ dàng tìm thấy nửa kia cho mình. Cuộc sống hôn nhân gia đình của các cặp vợ chồng tuy có xích mích nhỏ nhưng sức ảnh hưởng không lớn.   Tình cảm của người tuổi Thìn   Tương tự người tuổi Mão, người tuổi Thìn có vận thế tình duyên khởi sắc, chuyện tình cảm diễn ra suôn sẻ, hứa hẹn những bước tiến đột phá trong tình cảm đôi bên.

Bien dong tinh cam trong thang 7 cua 12 con giap hinh anh
Ảnh minh họa

Tình cảm của người tuổi Tỵ
Các mối quan hệ xã giao của người tuổi Tỵ trong tháng 7 đều hài hòa, mang lại không ít lợi ích về công việc và tình cảm cho bạn. Tuy nhiên, cần biết tiết chế cảm xúc, nếu quá phô trương sẽ khiến mọi người đàm tiếu hoặc sẽ phạm đào hoa sát.   Tình cảm của người tuổi Ngọ   Tháng 7 là thời điểm lí tưởng để chú ngựa hoang “dừng chân” ở một bến bờ cố định. Chuyện tình cảm của bạn khá suôn sẻ, có thể tính tới chuyện kết hôn thì càng tốt. Bởi nó không chỉ giúp người tuổi Ngọ ổn định tình cảm mà còn cả sự nghiệp và cuộc sống.   Tình cảm của người tuổi Mùi   Vận thế tình duyên của người tuổi Mùi trong tháng 7 lên xuống thất thường, không thích hợp để tính đến chuyện kết hôn hoặc chính thức hóa mối quan hệ nào đó. Tốt nhất bạn nên dành thời gian để suy xét lại tình cảm kĩ càng trước khi đưa ra quyết định quan trọng.
Tình cảm của người tuổi Thân   Chuyện tình cảm của người tuổi Thân có khởi sắc hay không phụ thuộc phần lớn vào thái độ của bạn. Nếu suy nghĩ tích cực và chủ động tạo cơ hội cho mình, tỉ lệ thành công khi chinh phục trái tim đối phương khá cao và ngược lại.
Tình cảm của người tuổi Dậu   Trong tháng 7, người tuổi Dậu vượng vận đào hoa, người độc thân cảm thấy hạnh phúc ngập tràn khi tìm thấy đối tượng phù hợp. Tuy nhiên, các cặp đôi đang yêu hoặc đã kết hôn cẩn thận trong các mối quan hệ xã giao, nếu không sẽ phạm đào hoa sát, gây rạn nứt tình yêu đôi lứa.   Tình cảm của người tuổi Tuất   Vận thế tình duyên của người tuổi Tuất trong tháng 7 bình ổn, không có nhiều biến động lớn. Tuy nhiên, nếu đã xác định được tình cảm, nên chủ động bày tỏ để đối phương được biết. Dù chưa biết kết quả ra sao nhưng ít nhất bạn cũng dũng cảm nói ra điều thầm kín.
Tình cảm của người tuổi Hợi   Chuyện tình cảm của người tuổi Hợi diễn ra thuận lợi vì được nhiều quý nhân giúp đỡ. Trải qua những mâu thuẫn hoặc sóng gió tình cảm, các cặp đôi thêm trân trọng những điều đáng quý ở hiện tại, từ đó hạ quyết tâm để chinh phục đích đến cuối cùng.   ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Biến động tình cảm trong tháng 7 của 12 con giáp

Những điều kiêng kị và Cách hóa giải khi đặt giường ngủ trong phong thủy

Vị trí giường ngũ rất quan trọng đối với chúng ta. Dựa vào học thuyết phong thủy, Xem Tướng chấm net đã liệt kê ra các lưu ý cơ bản khi đặt hay kê giường ngủ như sau

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vị trí của giường trong phòng ngủ rất quan trọng, giường ngủ phải được kê ở vị trí yên ổn nhất, kín đáo nhất, hơn nữa, từ đó có thể quan sát khắp phòng. Xem Tướng chấm net chọn lọc những điều cần lưu ý khi Kê giường trong phòng ngủ sau đây:

- Cửa phòng ngủ không được đối diện với giường: Sách Bát trạch minh cảnh viết: “Giường kỵ cửa phòng đối diện”, cửa là nơi không khí lưu thông, tất nhiên đặt giường ở nơi đó sẽ bị ảnh hưởng, người nằm trên giường dễ mắc bệnh hoặc khi ngủ tâm trạng sẽ luôn thấp thỏm không yên.

- Giường ngủ nên kê chỗ yên tĩnh. Giường kê gần chỗ đi lại, ra vào người ngủ trên đó dễ bị quấy nhiễu, khó ngủ ngon giấc.

phong thuy phong ngu

- Giưòng phảị có chỗ dựa, tốt nhất nên tựa vào tường nhà, nếu không sự nghiệp gia chủ có thể sẽ không vững vàng. Nếu hai phía đầu và đuôi giường đều không có chỗ dựa, phong thủy gọi là giường chữ “thân”. Vương Tư Sơn viết: “Giường chữ thân, tổn nhi lang” (tổn hại chồng, con). Điều này ngoài ra còn có liên quan đến yếu tố tâm lý và thói quen. Ngoài ra, nếu sau giường là một cây cột, mà giường chỉ dựa được một nửa thì cũng coi như không có chỗ dựa.

- Theo quan niệm phong thủy, giường ngủ phải kê song song hoặc vuông góc vối tường phòng ngủ.

Giường ngủ không được kê dưới xà nhà, nhất là vị trí xà nhà đè ngang phần ngực. Nếu không người ngủ trên đó sẽ dễ sinh bệnh.

Cửa phòng vệ sinh không được đối diện giường ngủ, để khí ô uế không trực xung cơ thể; ngoài ra, nếu đặt ở vị trí này tiếng động và ánh đèn của phòng vệ sinh cũng có thể gây ảnh hưởng đến người đang ngủ.

- Phía đuôi giưòng ngủ không nên đặt ban thờ, bố trí phòng vệ sinh hoặc bếp. Bàn thờ là nơi cung kính, giường ngủ hướng đuôi vào bàn thờ là đại bất kính. Mùi khói bếp, mùi hôi của phòng vệ sinh, không khí ẩm ướt cũng ảnh hưởng không tốt đến chất lượng giấc ngủ. Gương không được treo đối diện với giường. Gương có ánh sáng phản chiếu; nằm ngủ đối diện gương dễ làm cho thần kinh suy nhược, giấc ngủ sẽ không được sâu.

- Về khí trong phong thủy, bạn không nên kê giường ở gần hành lang.

- Không nên kê giường dưới tầng hầm, tầng hầm là nơi ẩm thấp, không có ánh nắng, không khí tù đọng, bất lợi cho sức khỏe cơ thể.

- Không nên kê giường ngoài hè hoặc ban công, vì không bảo đảm cách nhiệt, cách âm, giữ ấm, chống bụi, che ánh sáng, sương gió...

- Trong phòng ngủ, nếu kê hai chiếc giường đơn, nên kê cùng một chiều; nếu không sẽ dễ rơi vào cảnh anh em bất hòa, tranh giành, đấu đá lẫn nhau. Xét về mỹ quan và sự tiện dụng thì kê như vậy cũng rất hợp lý.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều kiêng kị và Cách hóa giải khi đặt giường ngủ trong phong thủy

Đường chỉ tay thể hiện EQ của bạn

EQ của một người có thể nhìn thấy được rõ nhất qua đường Trí Đạo, ngoài ra đường Sinh Đạo cũng phần nào thể hiện điều này.
Đường chỉ tay thể hiện EQ của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

EQ là một bộ những kỹ năng bao gồm: Biết mình; tính lạc quan; khả năng lựa chọn cách phản hồi cảm xúc phù hợp nhất; sự cảm thông với mọi người.

0-3328-1406282892.jpg

- Người có đường Trí Đạo ngắn thì trí tuệ xúc cảm không cao lắm. Trong tình yêu họ thích sự yên ổn, cho rằng một mối tình yên ổn mới là thực tế.

- Cuối đường Trí Đạo bị phân nhánh, nếu phân nhánh ngắn thì EQ rất thấp; nếu phân nhánh lớn, có thể coi như hai đường Trí Đạo thì người này có EQ khá cao.

- Người có Đường Trí Đạo sâu dài và rõ ràng, trong phương diện tình cảm biết nắm bắt cơ hội, nỗ lực đạt được danh tiếng và của cải nhờ vào trí thông minh của mình, nhưng nói chung trong tình yêu cũng dễ gặp khó khăn.

- Đường Trí Đạo uốn éo chứng tỏ suy nghĩ tình cảm phức tạp, sống thiếu nguyên tắc và khá vô tổ chức, nên hay ưu sầu buồn bã.

- Có hai đường Trí Đạo, là người "hai mặt", nhưng tính tình khá ôn hòa.

- Người có đường Trí Đạo quá dài, trong suy nghĩ và hành động luôn xem bản thân là trung tâm, do quá tự tin nên khó có thể đối mặt với thất bại.

-  Đầu đường Sinh Đạo cách xa đường Trí Đạo, tính tình kiêu ngạo, không biết kiểm soát cảm xúc của mình, EQ không cao.

- Đường Trí đạo mở rộng đế tận gò Thủy Tinh, là người tính tình kiên cường, không sợ khó khăn. Đồng thời EQ khá cao, giỏi giao tiếp, chuyện tình yêu cũng nhờ vậy mà thuận lợi.

- Sinh Đạo và Trí Đạo xuất phát cùng một điểm, thích làm việc theo kế hoạch, cẩn thận tỉ mỉ, nhưng là người dễ kích động, chuyện bé xé ra to, cho nên khó phát huy được tài năng của mình.

- Đường Trí Đạo gần với đường Sinh Đạo, sau đó cắt đường Sinh Đạo, kéo dài đến tận cổ tay, người này tính tình ích kỷ, yếu đuối, không làm được việc. 

- Trên nhánh của đường Trí Đạo có đường gạch chéo, EQ cao, sắc bén, sáng suốt, phù hợp làm kinh doanh, trong tình yêu có thể khiến đối phương yêu mình sâu đậm. 

Xem tiếp

Kunie

00-1403489294-362x0-3975-1406282484.jpg

Mức độ giàu có của bạn qua đường Thái Dương

Bạn có thể dể dàng tìm thấy đường Thái Dương của mình, chính là đường chỉ từ gốc ngón áp út kéo thẳng xuống.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đường chỉ tay thể hiện EQ của bạn

TRẺ TRỒNG NA, GIÀ TRỒNG CHUỐI

Tác dụng của cây chuối

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

TRẺ TRỒNG NA, GIÀ TRỒNG CHUỐI

Tục ngữ có câu: “Trẻ trồng na, già trồng chuối”. Đã có rất nhiều người từ chuyên gia sinh học tới các nhà nghiên cứu văn hóa, văn học đều tiến hành việc giải thích nghĩa lý của câu tục ngữ trên. Đại đa số đều có cách hiểu, vì chuối là loại cây ăn quả ngắn ngày, sinh trưởng nhanh, sớm cho thu hoạch, loại quả này khi chín lại mềm, nên người già trồng chuối vì vừa nhanh có thu hoạch, chuối lại mềm, so với người gia đã yếu răng. Trẻ trồng na, vì tuổi trẻ còn sức khỏe để đợi chờ và na có nhiều hạt, thì tụi trẻ mới ăn được.

Đó là một cách giải thích làm người ta thấy hợp lý, dễ hiểu và được nhiều người chấp nhận. Tuy nhiên, đặc điểm của ngôn ngữ là có tính võ đoán và tính đa nghĩa. Người bình thường, hay cách tiếp cận vấn đề hời hợt, thiếu sự sâu sắc sẽ dẫn đến những hiểu lầm đáng tiếc. Đứng dưới góc độ khoa học, tôi sẽ diễn giải vấn đề theo một góc nhìn mới.

Cây chuối về đặc điểm sinh học là một loại cây thân mềm, thân được cấu tạo do nhiều lớp bẹ xếp khíp lại, trong mỗi bẹ chuối lại có cấu tạo mô có nhiều những khoang rỗng, ngoài những khoang rỗng đó thì thân cây chuối mọng nước, sinh trưởng rất nhanh, nó thuộc một loại cây ở vùng nhiệt đới.

                                      trong phong thủy

 

Sở dĩ có nhiều những khoang mô rỗng trong thân như vậy, nên cây chuối có khả năng hấp thu các loại khí độc và các điện tích âm rất tốt, bởi vậy trong các đám tang người ta thường làm những bát nhang tạm thời bằng thân cây chuối được cắt ra thành từng khoanh, thân chí có người còn bày cả một đoạn thân cây chuối non vẫn còn lá xanh. Sau vài ngày đám tang thì cây chuối đó vẫn chưa bị vàng lá. Trong đám tang, người ta thường làm như vậy vì khi người qua đời, nhịp sinh học ngừng hẳn, điện tích âm và khí lạnh từ xác chết tiết ra ngoài, khiến cho nhiệt độ trong căn phòng giảm đi, loại hàn khí và điện tích âm này có hại cho sức khỏe con người, những người có thể trạng yếu, dễ bị nhiễm lạnh và phát bệnh, những người bị chó dại cắn, khi chưa tiêm vacxin loại trừ mầm bệnh, gặp loại khí lạnh này sẽ kích thích vi rút gây bệnh dại phát bệnh (vì thế nên người bị chó cắn không được tới đám ma), phụ nữ có bầu gặp loại khí lạnh này cũng ảnh hưởng không tốt tới thai nhi, nếu nặng có thể bị hư thai. Bởi những nhân tố trên nhận thấy hơi lạnh và điện tích âm từ tử thi có hại cho sức khỏe con người cần phải tìm cách hạn chế và loại trừ. Cây chuối với nhiều các mô có khoảng rỗng có khả năng hút những luồng điện tích âm và khí lạnh đó, trung hòa điện tích và nhiệt độ môi trường rất lớn, nên có tác dụng bảo vệ sức khỏe cho những người có mặt tại đó. Ngoài ra, còn nhiều điều kiêng kị trong ma chay như không đến những nơi lễ hội, cưới hỏi,...

                        trong phong thủy

Xem thêm lá số tử vi trọn đời để xem tử vi tiên đoán như thế nào về cuộc đời của bạn.

Ngoài môi trường thực tế, cây chuối có tác dụng nhất định trong việc hóa giải các loại khí độc. Cụ thể mỗi khi bốc mộ xong, tại ngôi mộ cũ sau khi đã di chuyển hài cốt đi chỗ khác, người ta trồng lên đó một vài cây chuối, nhằm hóa giải những khí độc trong quá trình phân hủy tử thi, khi quá trình phân hủy tử thi, lượng khí độc tiềm ẩn trong đất, nay đào lên, nhất định lượng khí độc này sẽ có cơ hội lan tỏa trong không gian, đặc điểm của những loại khí độc này là có khối lượng tương đối nặng, gặp những cây chuối, nó sẽ được chế hóa và không còn nguy hiểm nữa.

Khi xây dựng những bể chứa nước, sau khi hoàn thiện, lượng xi măng, bột xây dựng…chưa được phân giải hết, dùng nước đó dễ có nguy cơ mắc bệnh ung thư, những người thợ xây dựng thường dùng những thân cây chuối thả xuống bể và bơm nước vào bể, như vậy nhờ cơ chế thẩm thấu qua màng tế bào, các tác nhân hóa học có nguy cơ gây bệnh đi từ nơi có mật độ cao, đến nơi có mật độ thấp sẽ được hút vào những mô rỗng của thân cây, từ đó tiêu trừ mầm bệnh, trả lại môi trường nước trong, tinh khiết bảo đảm cho sức khỏe.

                             trong phong thủy

Tại những vùng ô nhiễm, bị nhiễm hóa chất công nghiệp hoặc khí độc trong chiến tranh, người ta cũng dùng biện pháp này, trồng ở vùng đất đó những bãi chuối, để hóa giải khí độc, sớm trả lại môi trường trong lành cho con người. Không chỉ có vậy, theo các tài liệu y học dân tộc cổ truyền cây chuối còn là một bài thuốc quý, có tác dụng chữa chị hiệu quả nhiều loại bệnh thông thường, vì thế nên nó là một loại cây có rất nhiều lợi ích.

Người già so với thanh niên trai trẻ ở chỗ, tuổi thọ đã cao, sức đề kháng rất yếu, những thay đổi của thời tiết, môi trường, không khí độc hại, hơi lạnh, điện tích âm, trường khí xấu… đều có thể ảnh hưởng tới sức khỏe, nhiều khi ảnh hưởng rất nghiêm trọng. Còn thanh niên trai trẻ vốn dĩ rất khỏe mạnh, sức đề kháng cao, nên những ảnh hưởng của môi trường không quá nghiêm trọng và nguy hại như người già. Thanh niên trồng na, có thể là cây ăn trái lâu năm, hoặc vì giá trị kinh tế về lâu về dài, còn người già trồng chuối vì vừa tính chất ngắn hạn, thực tế trước mắt, còn kèm theo đó là cả một giá trị bảo vệ vô giá về sức khỏe. Bởi những tính chất khoa học và thực tế kinh nghiệm cuộc sống nên tôi công khai chia sẻ điều này với mọi người.

Hải Triều


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: TRẺ TRỒNG NA, GIÀ TRỒNG CHUỐI

Lựa cây phong thủy 12 con giáp phát tài phát lộc

Dưới đây là một vài lưu ý khi lựa chọn cây phong thủy cho 12 con giáp phát tài phát lộc, sự nghiệp hanh thông phơi phới.
Lựa cây phong thủy 12 con giáp phát tài phát lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Người tuổi Mão có quan điểm về tiền bạc khá thận trọng, khả năng nắm bắt cơ hội không tốt nên của cải tích lũy được cũng chậm, muốn phát tài không dễ dàng gì. Bởi vậy, để thúc đẩy tài lộc hưng vượng, cảm giác kiếm tiền dễ hơn, người tuổi Mão nên đặt một vài cành phát lộc (số lẻ mới hiệu quả) trên tủ lạnh nhà mình.

 
Tuổi Tý – Cây kim tiền

  Vốn là con giáp nhạy bén về tài chính, biết nắm bắt cơ hội đầu tư, nhưng lại không giỏi trong việc quản lý tài sản mình có được, người tuổi Tý nên đặt một chậu câu kim tiền trong nhà.    Loại cây phong thủy này vừa có tác dụng làm tăng vận may, giúp những ai cầm tinh con Chuột dám mạo hiểm, đương đầu với thử thách để nắm bắt cơ hội phát tài phát lộc cũng như quản lý tiền của tốt hơn.  
Lua cay phong thuy 12 con giap phat tai phat loc hinh anh
 

Tuổi Sửu – Cây dứa cảnh nến

  Cây dứa cảnh nến còn được gọi là dứa cảnh lệ, dứa cánh sen, ngôi sao đỏ, phong lộc hoa…    Người tuổi Sửu bản tính chân thành, chịu khó chịu khổ, làm việc theo hướng thực tế, nhưng lại khá bảo thủ nên số tiền kiếm được chưa gọi là nhiều. Do đó, con giáp này nên đặt chậu dứa cảnh nến ở bên trái bàn làm việc để trợ giúp con đường làm giàu của bạn.

Tuổi Dần – Cây ngũ gia bì

  Cây ngũ gia bì còn được gọi là chân chim bảy lá, chân chim hoa trắng, sâm nam…   Người tuổi Dần can đảm, dám mạo hiểm, có bản lĩnh nhưng lại không quá coi trọng tiền bạc. Bạn thích hưởng thụ quá trình kiếm tiền hơn là lúc có được tiền bạc. Đôi khi vì quá nóng vội mà bước vào con đường mạo hiểm khiến tiền tài tiêu tan.   Vì thế, con giáp này nên đặt một chậu cây ngũ gia bì tại phòng khách để giúp bản mệnh phát triển vững vàng, tài lộc ổn định, dễ tụ tài.  
Lua cay phong thuy 12 con giap phat tai phat loc hinh anh 2
 

Tuổi Mão – Cây phát lộc

  Người tuổi Mão có quan điểm về tiền bạc khá thận trọng, khả năng nắm bắt cơ hội không tốt nên của cải tích lũy được cũng chậm, muốn phát tài không dễ dàng gì.   Bởi vậy, để thúc đẩy tài lộc hưng vượng, cảm giác kiếm tiền dễ hơn, người tuổi Mão nên đặt một vài cành phát lộc (số lẻ mới hiệu quả) trên tủ lạnh nhà mình.  

Tuổi Thìn – Cây vạn niên thanh hoặc xương rồng cảnh

  Ngay từ khi sinh ra, người tuổi Thìn có tài vận tốt, làm việc gì cũng có tiền nhưng lại gặp tiểu nhân quấy phá, đường tài vận cũng ảnh hưởng đáng kể.    Bạn có thể đặt chậu vạn niên thanh hoặc xương rồng ở hướng Tây Bắc của phòng khách để hóa giải hung sát, phòng tránh tiểu nhân. Đồng thời đặt cây vạn niên thanh ở phía Đông Nam phòng khách để hút tài lộc.  
Lua cay phong thuy 12 con giap phat tai phat loc hinh anh 3
 

Tuổi Tỵ - Cỏ đồng tiền

  Tài vận của người tuổi Tỵ khá vượng nhưng ngặt một nỗi khả năng nắm bắt cơ hội lại không tốt, hay do dự nên bỏ qua thời cơ kiếm tiền.   Con giáp này có thể trồng một ít cỏ đồng tiền ở bậu cửa sổ để thúc đẩy tài vận thăng tiến, đồng thời trợ lực cho năng lực phân tích sâu sắc, giúp bạn mạnh mẽ và hành động thêm quyết đoán.

 

Tuổi Ngọ - Cây trầu bà

  Tài lộc của người tuổi Ngọ khá vượng, có thể kiếm được nhiều tiền nhưng lại mắc tật nói nhiều, không nể nang ai nên việc kinh doanh, buôn bán thường không thuận lợi.   Bạn nên đặt vài chậu cây trầu bà gần nhau để giúp tài lộc dễ ngưng tụ. Nhưng nên nhớ, vẫn dựa vào năng lực và sự cố gắng của bản thân là chính, tránh tham lam mà đầu tư vào các hạng mục rủi ro cao, gây thua lỗ.
Treo tranh phong thủy phòng ngủ hợp mệnh 12 con giáp
– Muốn nhân duyên và tài lộc khởi sắc hơn, gia chủ có thể cân nhắc tới việc treo tranh phong thủy trong phòng ngủ. Nhưng lưu ý, nên căn cứ

Tuổi Mùi – Lan quân tử

  Những ai tuổi Mùi không quá coi trọng tiền bạc và cũng không ham kiếm tiền. Con giáp này chỉ cố gắng để hoàn thành công việc được giao, khả năng phát tài không cao.   Do đó, bạn nên đặt một chậu lan quân tử ở góc phải bức tường đối diện với ghế sofa trong phòng khách để tăng vận quý nhân, giúp con đường làm giàu của bạn thêm thuận lợi.  

Tuổi Thân – Cây tùng bồng lai

  Tùng bồng lai còn được gọi là tùng lá văn trúc, tùng lá thiên môn đông…   Người tuổi Thân có năng lực kiếm tiền nhạy bén, biết nắm bắt cơ hội nhưng kiếm nhiều cũng tiêu xài như nước, không lo tiết kiệm nên chẳng tích góp được của ăn của để.   Con giáp này nên đặt một chậu tùng bồng lai ở phòng đọc sách (thư phòng) để tụ tài, tiền bạc thêm rủng rỉnh.  
Lua cay phong thuy 12 con giap phat tai phat loc hinh anh 4
 

Tuổi Dậu – Cây sen đá

  Tài lộc của người tuổi Dậu khá vượng, nhưng căn bản là không biết cách giữ tiền, đầu tư dễ thua lỗ, nguy cơ phá tài rất cao.   Nếu muốn hạn chế tình trạng trên và giữ được tiền của, người tuổi Dậu nên đặt chậu sen đá trong phòng khách.  

Tuổi Tuất – Cây kim ngân

  Tài vận của người tuổi Tuất bền vững, nhưng khả năng kiểm soát và quản lý tiền bạc không tốt, dễ bỏ qua cơ hội phát tài phát lộc.   Để trợ giúp việc tích lũy tiền tài, làm hưng vượng tài vận, bạn nên đặt chậu cây kim ngân ở phòng khách nhà mình.

Tuổi Hợi – Cây nhất mạt hương

  Đa phần người tuổi Hợi có cuộc sống sung túc, đầy đủ, thích ăn ngon mặc đẹp và hưởng thụ cuộc sống. Chính lối sống đó mà họ thường tiêu hết tiền, ít khi tiết kiệm được, tài sản dần ít đi.   Đặt một chậu cây nhất mạt hương trên bàn làm việc ở văn phòng, bạn sẽ lý trí hơn trong việc tiêu tiền, hạn chế chi tiêu tùy tiện. Nhưng nên nhớ, cần thường xuyên chạm vào lá cây thì mới có hiệu quả.  
► Tham khảo thêm những thông tin về: Phong thủy nhà ở và các Vật phẩm phong thủy chuẩn xác nhất

Việt Hoàng

Tướng không tốt, số chẳng lành, phong thủy thất cách, tại sao vẫn giàu?
Lẽ thường, một người muốn giàu có thì phải có nhân tướng tốt hoặc số mệnh tốt, hay là phong thủy tốt, tuy nhiên có người hoàn toàn không có một lợi điểm nào mà

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lựa cây phong thủy 12 con giáp phát tài phát lộc

Nét tướng cách ở phụ nữ luôn được phúc khí bao bọc

Phụ nữ có sống mũi cao, thẳng, Sơn Căn rộng và đầy, cánh mũi nở to thường có mệnh phú quý, là mệnh phu nhân, được gả vào gia đình giàu có, được phúc đức bao bọc cả đời.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Đôi môi hồng hào, hàm răng trắng đều
 
Đa phần những cô nàng có nét tướng cách này đều được cánh mày râu săn đuổi nhiệt tình. Vì sao ư, vì tính cách họ dịu dàng, giọng nói nhẹ nhàng dễ nghe.
 
Hơn thế, người này có ưu điểm rất lớn chính là tính cách dung hòa, điềm tĩnh, lại rất chu đáo, sau này sẽ là người vợ hiền, mẹ đảm, cuộc sống hôn nhân hạnh phúc, tốt đẹp. Đây chính là một trong những đặc điểm của tướng phụ nữ được phúc khí bao bọc.
 

Nhin ra tuong phu nu duoc phuc khi bao boc hinh anh 2
 
2. Tướng mũi cao và thẳng
 
Phụ nữ có sống mũi cao, thẳng, Sơn Căn rộng và đầy, cánh mũi nở to thường có mệnh phú quý, là mệnh phu nhân, được gả vào gia đình giàu có.
 
Người này thông minh lanh lợi, dù không thành công trên con đường học hành nhưng cũng giỏi ở ngành nghề đã chọn. 
 
Sau khi kết hôn, người này được nhờ chồng, đồng thời cũng phò tá tốt cho chồng. Vậy nên họ luôn được chồng yêu mến, cưng chiều.
 
3. Tướng cằm đầy đặn
 
Ưu điểm dễ nhận thấy ở người này là tính cách lạc quan, yêu đời, dễ hòa hợp, thân thiện với mọi người xung quanh.
 
Sách tướng cổ có ghi: “Phong hạm trọng di, vượng phu hưng gia”, nghĩa là phụ nữ có cằm đầy đặn, nhất là hai cằm là quý tướng, giúp hưng vượng nhà chồng.    Có được người vợ luôn được bao bọc bởi phúc khí này nâng khăn sửa túi, gia đình trong ấm ngoài êm, kinh tế ngày càng phát triển dồi dào.
 
Nhin ra tuong phu nu duoc phuc khi bao boc hinh anh 2
 
4. Chất tóc mềm mại
 
Chủ nhân của chất tóc mềm mại thường có tính cách điềm đạm, dịu dàng, suy nghĩ tích cực, cuộc sống an bình, thư thái. 
 
Trong gia đình, người phụ nữ này đóng vai trò cân đối hài hòa các mối quan hệ, chu toàn mọi việc trong nhà, bề trên người dưới đều ưng thuận.
 
5. Nhân trung sâu, rõ ràng
 
Đa phần phụ nữ có Nhân trung (phần ngấn rãnh môi trên thẳng từ mũi xuống) sâu, rõ ràng đều có khả năng sinh con tốt, con cháu đề huề. Hơn thế, chúng còn thông minh, nhiều phúc đức, có hiếu với cha mẹ. 
 
6. Phần dái tai to bản và dày dặn
 
Người có kiểu tai này nhất định được hưởng số mệnh tốt, phúc đức bao bọc cả đời. Bản thân họ khoan dung, độ lượng, hết mực quan tâm, chăm sóc người xung quanh, nhìn chung nhân duyên tốt đẹp. 
 
Phúc khí ở người phụ nữ này cực lớn, cả nhà bạn sẽ tiếp nhận được phúc khí của cô ấy, hưởng thụ cuộc sống an nhàn, dư dả về vật chất. 
 
Nhin ra tuong phu nu duoc phuc khi bao boc hinh anh 2
 
7. Khuôn mặt chữ “Điền”   Đặc điểm của khuôn mặt chữ “Điền” là trán hình vuông, khung xương quai hàm nhô ra, khuôn mặt đầy đặn phúc hậu. 
 
Chủ nhân của tướng mặt này có tâm tính lương thiện, lối sống phóng khoáng, rộng lượng, đối xử tốt với bạn bè, sẵn lòng giúp đỡ người khác. Do đó, họ dễ lọt vào “mắt xanh” của những gia đình danh giá, được hưởng số mệnh phú quý.
 
8. Mắt to, ánh nhìn có thần sắc   Phụ nữ có kiểu mắt to, thần sắc tốt đều xinh đẹp, tâm  hồn ngây thơ, trong sáng, tính cách cởi mở, tốt bụng và rất lạc quan. Chính vì thế mà được phúc khí bao bọc, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống. Lấy được chồng giỏi giang, thương yêu hết mực cũng là một trong những điều may mắn ấy.  
Ngọc Điệp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nét tướng cách ở phụ nữ luôn được phúc khí bao bọc

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd