Tình duyên người tuổi Dậu và người tuổi Sửu năm 2014 –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Men theo con đường rợp bóng cây cuối khu biệt thự Tây Hồ ở thủ đô Hà Nội, giữa bát ngát hương sen và cảnh đất trời hòa quyện trong ánh nắng chiều tà, doi đảo nhỏ được người xưa ví là “bãi đất cá vàng” nhô ra giữa mặt nước lung linh, đúng là cái thế “đầu rồng, thân rồng, rùa cõng” khiến khách vãn cảnh cảm thấy âm dương đối đãi, tâm hồn mình thư thái lạ.
Vượt qua cổng Phủ Tây Hồ sừng sững bên cây đa cổ, con đường vào phủ uốn lượn theo mép hồ lơ thơ liễu rủ lại đưa bước chân du khách tới hai cây vối lớn hiếm thấy và một cây si cổ thụ ngay trước cửa Động Sơn Trang, vươn những chùm rễ đại ra mặt nước cho chim chóc đua nhau về làm tổ.
Cảnh đẹp nên thơ ấy là một trong những lý do khiến Phủ Tây Hồ luôn thu hút khách thập phương đến bằng đường bộ cũng như bằng đò trên hồ Tây. Truyền thuyết về công trình văn hóa tín ngưỡng được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia này cũng là điều khiến không ít du khách trầm trồ tán thưởng.
Sự tích vị Thánh Mẫu thờ trong Phủ Tây Hồ được người dân tổng Thượng, huyện Phụng Thiên xưa (nay là vùng Yên Phụ, Nghi Tàm, Tây Hồ, Quảng Bá, Xuân La, Vạn Dâu) kể lại rằng: Quỳnh Hoa là con gái Ngọc Hoàng thượng đế ở Đệ nhị Thiên Cung, do đánh rơi chén ngọc dâng rượu chúc thọ đã phải xuống trần gian đầu thai làm Giáng Tiên - con gái thường dân Lê Thái Công ở An Thái - Vân Cát - Vụ Bản - Nam Định vào năm 1557. Lớn lên, có nhan sắc tuyệt trần, lại giỏi thi thơ, song lấy chồng và sinh con - một trai, một gái - thì Giáng Tiên chớp mắt thăng thiên đình. Nàng giáng trần lần thứ nhất để gặp lại người thân, có hai nữ thần Quế Nương, Thị Nương hậu vệ; lần hai hiển linh để cứu nhân độ thế, trừng phạt kẻ bất lương trêu ghẹo người này, lại gia ơn cho kẻ khác và du ngoạn khắp chốn danh lam, giáng bút đề thơ.
Có truyền thuyết kể rằng chính tại mảnh đất Phủ Tây Hồ ngày nay, Quỳnh Hoa đã tái ngộ xướng họa thơ văn cùng Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (lần thứ nhất đàm đạo tại xứ Lạng) trong vai cô chủ quán tửu lâu Tây Hồ phong nguyệt, ít ngày sau Trạng Bùng quay lại đã thấy biến mất cả người lẫn quán, chỉ còn hồ nước mênh mông. Quỳnh Hoa đã được dân chúng lập phủ thờ, đặt tên là Bà Chúa Liễu Hạnh, được xem là một trong bốn vị “tứ bất tử”, là tấm gương về sự tự mình tạo lấy hạnh phúc.
Bà Chúa Liễu Hạnh theo quan niệm dân gian đã trở thành một mẫu quyền năng vô lượng và phân thân, hóa thân thành các thần linh cai quản muôn mặt của vũ trụ: Mẫu Cửu Thiên Huyền Nữ cai quản trên trời, Mẫu Thượng Ngàn cai quản núi rừng, Mẫu Thủy (hay Mẫu Thoải) cai quản trên sông biển, thể hiện sự ngưỡng mộ chân thành, coi trọng vai trò của người mẹ.
Phủ Tây Hồ bao gồm cổng làm kiểu tam quan, kiến trúc chính 3 nếp (Tam tòa thánh mẫu); phương đình, tiền tế, hậu cung; Điện Sơn Trang, khu nhà khách, lầu Cô, lầu Cậu. Di tích Phủ Tây Hồ hiện còn lưu giữ được khối di vật khá phong phú mang giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật thuộc thế kỷ XIX, XX như bộ tượng tròn gần 300 pho, hoành phi, câu đối…Đặc sắc nhất là bức đại tự ghi: “Thiên tiên trắc giáng” (Tiên trời xuất hiện) và bức hoành phi ở cửa cung đề: “Mẫu nghi thiên hạ” (làm mẹ của cả thiên hạ).
Độc đáo nhất ở Phủ thờ là ba pho tượng nữ thần đặt song hành: Mẫu Thượng Ngàn là vị mặc áo xanh lá cây tượng trưng cho rừng, nơi con người xưa sinh sống bằng các loại củ; Mẫu Thoải (thủy) là vị mặc áo trắng, tượng trưng cho nước; Mẫu Địa là vị mặc áo vàng, tượng trưng cho đất. Ba vị mẫu này hợp thành Tam phủ, giải thích quá trình tiến hóa của cư dân Việt, từ rừng núi, sông suối xuống đồng bằng định cư trồng lúa nước. Cũng theo quan niệm Tam phủ thì, cai quản thiên phủ có thiên quan ban phúc lộc cho con người, cai quản địa phủ có địa quán xá bỏ tội lỗi cho con người, cai quản thủy phủ có thủy quan cởi bỏ mọi chướng ngại, khó khăn cho con người. Với sức mạnh huyền bí ban phúc, xá tội và giải ách, tín ngưỡng Tam phủ rất hấp dẫn mọi người.
Vào dịp tết đến xuân về, du khách thường đổ về đây rất đông, vì cùng với việc lễ cầu may, họ còn thưởng ngoạn cảnh đẹp Tây Hồ, nhớ về “áo mây xe gió” của bà chúa Liễu Hạnh. Được coi là nơi linh thiêng nên phủ Tây Hồ được nhiều người đến cúng lễ và cầu phúc, cầu lộc, nhất là vào ngày 3 tháng ba và ngày 13 tháng tám âm lịch.
Trong họ tôi có lệ cấm không được mang bộ “Đông A Di Sự” cho người ngoài đọc và không được dạy Tử Vi cho những người thiếu tư cách đạo đức. Thành ra nhóm Đông A của chúng tôi, số người ngoại tộc chưa quá 60, trong khi nội tộc trên 100 người. Những người ngoại tộc hầu hết trên 30 tuổi, trong khi nội tộc có người mới…15 tuổi, những người nội tộc hay làm xấu hơn ngoại tộc.
Trong năm Giáp Dần, người làm xấu nhất lại là đứa cháu gái của tôi. Nó tên là Thi Thi (tên gọi ở nhà). Ông anh họ tôi, cha của Thi Thi xuất thân là thẩm phán, nên có mặc cảm mình ác. Ông muốn Thi Thi làm luật sư để chuộc tội cho cha. Năm 1973, Thi thi đậu cử nhân luật, tôi gửi vào văn phòng một luật sư già cho nó tập sự. Ông luật sư già thương nó lắm, coi nó như con vậy. Nên thay vì gọi ông bằng thầy, nó gọi ông bằng bố. Tất cả những vụ nhỏ, ông giao cho nó hết.
Thi Thi tuổi Tân Mão, tháng 1, ngày 9 giờ Hợi, mệnh Cự Cơ tại Mão được Lộc, Khoa, Khúc, Tuế phò trợ.
Cự thì nói giỏi, Cơ thì tinh khôn mưu trí, Cự có Lộc thì tham ăn, hay khóc, hay được ăn, gặp hạn sát tinh thì hay thâm tài, tức…tham nhũng. Nhưng có Khoa, Khúc thì nó đẹp, dù có tham nhũng đến mấy cũng không bị tù. Vì trong khoa Tử Vi, Văn Khúc, Hóa Khoa là hai Đại Giải Thần (cách đây 6 năm khi làm Thẩm phán quân sự, tôi đã cố buộc tội nhiều can phạm tham nhũng, mệnh có Khoa, mà không được). Hội đủ các sao nói giỏi như vậy, nên Thi Thi lợi dụng triệt để cái sở trường của nó, cái gì nó cũng dùng lời nói để vượt qua lọt. Nịnh bố, nịnh mẹ, nịnh chú, nịnh thầy, nịnh cả quan tòa để xin tha cho tội nhân.
Thi Thi học Tử Vi từ năm 18 tuổi, do cha dạy, song chỉ học giải đoán tâm tính, hình dạng và trợ cách, phá cách thôi. Sau khi tập sự luật sư, nó xin tôi cho dự các buổi họp của nhóm Đông A. Tôi đồng ý, đây là đầu mối của việc phiền phức.
Trong một buổi họp, Thi Thi bàn tử vi một bác sĩ sản khoa trong nhóm. Nhân nghe vị bác sĩ này nói có thể cho sản phụ sinh sớm hay trễ hơn một số ngày. Trong ngày có thể dùng máy hút, hút hài nhi ra đúng giờ ấn định nào đó. Sau buổi họp về, Thi Thi nói cho bạn nó, bà M, vợ một tỷ phú nghe. Bà M rất tin Tử Vi, bà cho biết bà sinh vào tháng 5 song không biết ngày nào. Vậy Thi Thi tìm cho ngày, giờ tốt nhất, để bà nhờ Bác sĩ hút đứa trẻ ra.
Thi Thi “chế tạo” ra một lá số làm sao đủ bộ Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khoa, Quyền, Lộc. Đã vậy nó còn tham lam thêm Lộc Tồn, Thiên Mã, Thái Tuế để được cách “Lộc Mã giao trì”. Nó đưa ra tuổi Giáp Dần, tháng 5 chỉ có giờ Thìn ngày 2, 16, 25 thì:
- Mệnh lập tại Dần, Vũ, Tướng, Khoa, Mã, Tuế, Lộc Tồn.
- Quan tại Ngọ, Tử, Hữu, Long Xương, Tướng Quân.
- Di tại Thân, Phá, Quyền, Tả, Khúc, Phượng.
- Tài tại Tuất, Liêm, Phủ, Lộc.
Nghĩa là lá số “siêu đẳng nhân”. Bà M đến một bảo sanh viện tư danh tiếng, xin với bà giám đốc làm cách nào cho đứa trẻ ra đời từ 8g30 – 9g30 ngày 16 tháng 5 âm lịch (Giáp Dần). Bà được toại ý. Đứa trẻ ra đời với lá số đã định sẵn, Thiên Mệnh không ở trong tay Thượng Đế, mà ở trong tay cô gái 23 tuổi. Vấn đề thật phiền phức.
Việc xảy ra làm chấn động nhóm Đông A. trong nhóm có tới trên 10 vị là Bác sĩ, Dược sĩ. Kể cả thân hữu thì có tới mấy chục, các vị kéo lên trụ sở của nhóm tại Thủ Đức để bàn về vấn đề đó. Nếu sự thực đứa trẻ cưỡng sinh ra mà được hưởng số đã định theo người thì năm Ất Mão sẽ là năm Việt Nam sinh ra toàn trẻ có văn cách, giàu sang (vì tuổi Ất thì Hóa Lộc phò Thiên Cơ, Hóa Quyền phò Thiên Lương. Muốn có số tốt ngoài Lộc Tồn, Tả, Hữu, Xương, Khúc ra phải có Quyền Lộc… nên phải được bộ văn đoàn Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương thủ). Tương lai sẽ có cửa hàng bán lá số chế tạo, giải đoán sẵn. Sẽ có cuốn sách in hàng trăm lá số của đủ loại người, với lời giải đoán, bán cho các sản phụ, các bảo sanh viện tha hồ ra giá…
Chúng tôi họp nhau bàn cãi cả ngày không đem lại kết quả nào. Tôi tìm được 2 đoạn sách nói về việc cưỡng sinh.
Đoạn thứ nhất chép trong sách “Triệu thị minh thuyết Tử vi kinh”, phần biên tiểu sử Hi Di tiên sinh. Khi Thái Tổ hỏi số của tiên sinh, ông cho biết vì thân mẫu ông sinh ông non 1 tháng, nên số đó không do trời, không đúng với sự vận hành tinh tú.
Đoạn thứ hai chép về số Nguyễn Linh Nhan trong sách Đông A Di Sự. Mẹ Nhan có mang 8 tháng rưỡi, bị đá đè dập đầu gần chết. Cha Nhan phải nhắm mắt chém chết vợ cho khỏi đau đớn, rồi mổ bụng mang hài nhi ra. Đúng số thì Nhan đẹp trai, phúc thọ song toàn (Tử, Hữu, Vũ, Tướng, Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khoa, Quyền, Lộc). Nhưng sự thật Nhan chết thảm về tay Trần Bắc Đại tướng quân, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Vì vậy đứa trẻ bị tai nạn đẻ non đều không xác định được số.
Mấy vị bác sĩ trong nhóm Đông A, trở về bảo sanh viện lục số tìm những tuổi trẻ đẻ non tháng, rồi truy tìm địa chỉ đến thăm. Sau 2 tháng, chúng tôi tìm được số đến gần 40 đứa trẻ sinh thiếu tháng từ 1959 đến 1962, đem lá số đối chiếu với sự thực: Hình dạng tính tình, vận hạn đều khác nhau xa vời.
Cuối cùng chúng tôi ghi vào phần phụ lục của tài liệu nghiên cứu: ”Nhân sinh hữu mạng, con người sinh ra đều có ngày giờ, tháng năm ứng vào sự vận hành của Thiên Hà. Cưỡng sinh hay bị tai nạn sinh sớm đều không xác định được cung số. Khi giải đoán các lá số sinh non phải dè dặt. Trong 38 lá số sinh non từ 1959 đến 1962 đã khảo nghiệm, có 32 lá số sai 80%...3 lá số sai 50%... 2 lá số sai 30% và 1 lá số đúng 80%.”
Sau vụ này Thi Thi bớt tự đắc, ông anh tôi la rầy thì nó lại nịnh: “Đến cả họ mình và bao nhiêu người trong nhóm Đông A còn không biết cưỡng sinh là được hưởng số hay không, huống hồ là nó. Nhờ nó, vấn đề được đặt ra và nghiên cứu tinh tường”.
đây sẽ giúp mỗi người trong chúng ta giảm bớt được phần nào những điều không may trong cuộc sống ngày càng tốc độ này.
– Để tránh bị lừa đảo hoặc dụ dỗ về phương diện tài chính, hãy mang theo một túi đỏ đựng các tép tỏi nhỏ. Tốt nhất là dùng phần tỏi nhỏ ở trong lõi tỏi dài, sẽ có tác dụng tiêu trừ năng lượng của sự dối trá.
– Trước cửa nhà nên treo gương bát quái hướng ra ngoài tránh các nguồn năng lượng xấu.
– Treo tranh gà, đại bàng trắng để phòng tránh chuyện thị phi, chơi xấu trong công sở. Bày Kỳ Lân, linh thú kết hợp sức mạnh của rồng và ngựa trong văn phòng thúc đẩy công việc kinh doanh tiến triển thuận lợi, quan hệ đồng nghiệp.
– Đeo vòng tay bạc trắng có tác dụng củng cố lại sức khỏe, đặc biệt là các bệnh xương cốt hoặc hô hấp. Có thể dùng thìa đĩa, bình đựng thức ăn bằng bạc để hóa giải các bệnh tiêu hóa.
– Trong năm nay, tránh đục đẽo, tu sửa, khoan cắt tại khu vực phía Bắc của không gian sống và không gian làm việc, sẽ phạm họa Tam Sát. Chẳng may đã động rồi hay nhất thiết phải tu tạo nhà cửa thì tránh bắt đầu kết thúc công việc này ở cung Bắc, nếu đã trồng cây, đào hồ ở khu vực này thì phải chuyển cây, lấp hồ. Tránh gây ồn ào, dập cửa mạnh, bật TV, âm thanh lớn ở đây.
– Các sao xấu của năm như La Hầu, Kế Đô, Thái Bạch… ngoài lễ dâng sao giải hạn thì có thể dùng cách xông muối không gian sống – làm việc hay tắm muối ngăn ngừa, hạn chế những sự việc xấu. Bên cạnh đó, khi dọn về văn phòng hoặc nơi ở mới, bạn nên dùng muối để gột rửa những việc không may xảy ra với chủ cũ.
– Muối cũng có thể hấp thụ năng lượng tiêu cực mà không cần dùng tới lửa. Nếu gia đình thường xảy ra bất hòa và cãi nhau, bạn dùng bát đựng nước muối trừ tà cho vào góc phòng để hấp thụ ám khí hoặc đơn giản là rắc muối lên sàn nhà, sáng thức dậy đi chân không lên lớp muối ấy.
– Có thể tăng cường vận may về tài lộc và an khang bằng cách dùng nước muối phong thủy kết hợp với kim loại (tiền đồng) để trừ tà khí, thu hút vận may. Khoa học cũng giải thích tác dụng tích cực của phương pháp này trên cơ sở là tiền đồng phản ứng với nước muối tạo ra ion âm trong không khí. Khói bụi, vi khuẩn mang điện tích dương, ion âm sẽ bám vào khiến tạp chất đủ nặng để rơi xuống đất, lọc sạch bầu không khí. Ion âm còn giúp giảm mệt mỏi, căng thẳng, đau đầu, hỗ trợ quá trình hấp thụ ô-xy giúp của con người.
Tuyệt đối tránh gương hướng về phòng ngủ, chỗ làm việc. Nếu nhà chật bắt buộc phải bày nơi ấy thì khi không sử dụng, lấy vải đỏ che lên hoặc xoay mặt gương vào để tránh tác dụng xấu.
► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình |
![]() |
Ảnh minh họa |
Thiên Tướng thuộc Nhâm Thủy, Nam đẩu tinh, hóa khí là Ấn, người xưa quan niệm như một vị quan trông coi về ấn tín, trong khi Thiên Cơ được coi làm mưu thần. Thiên Tướng và Thiên Cơ đều mang chung một khuyết điểm là thiếu khả năng lãnh đạo, nhưng lại khá hay giỏi về mặt phò tá. Trên căn bản Thiên Tướng khác Thiên Cơ ở chỗ: Thiên tướng tài về hành chính, còn Thiên Cơ tài về tham mưu.
Thiên Tướng đắc thời làm to hay ở địa vị phó hay thứ. Tính tình Thiên Tướng cẩn trọng, ăn nói cẩn thận, làm việc chậm và kỹ, đối với người có thủy có chung, chịu đựng, gánh vác, thông minh và ưa giúp đỡ. Thiên Tướng ở địa vị lãnh tụ thường thất bại.
Thiên Tướng đứng cùng sao xấu biến ra xấu, đứng cùng sao tốt biến ra tốt. Luận về sao Thiên Tướng luôn luôn phải kết hợp với các sao khác, không thể tách riêng biệt ra để mà nói lên nhân cách của sao này. Tỉ dụ Tướng đi với Hóa Lộc hoặc Hóa Lộc xung chiếu là người rất quyến rũ đối với đàn bà con gái.
Tướng đi với Hoa Cái, Đào Hoa đàn bà đẹp và lẳng. Tướng đi với Hồng Loan thì đẹp mà đoan chính lấy chồng sang. Tướng đứng cùng Liêm Trinh gặp Phụ Bật là thầy thuốc giỏi. Tướng đi với Khoa Hình Quyền cung Ngọ lẫy lừng về nghiệp võ.
Thiên Tướng giữ ấn tín dĩ nhiên chủ về quyền lực, quyền lực lớn nhỏ tùy thuộc các sao phụ tá nhiều hay ít. Quyền lực về mặt nào còn phải xem nó kết hợp với sao nào. Xin nhắc lại, quyền lực của Thiên Tướng chỉ là thứ quyền lực tương đương chứ không phải quyền lực lãnh đạo.
- Cùng với Tử Vi tại Thìn Tuất- Cùng với Liêm Trinh ở Ngọ Tí- Với Vũ Khúc ở Dần Thân- Một mình ở Sửu, Mùi, Tỵ, Hợi, Mão, Dậu
Về Tử Vi Thiên Tướng xin xem luận về sao Tử Vi.Về Thiên Tướng Liêm Trinh xin xem luận về sao Liêm TrinhVề sao Thiên Tướng Vũ Khúc xin xem luận về sao Vũ Khúc
Còn Thiên Tướng độc tọa Sửu Mùi. Đóng Sửu hay Mùi thì cung Phối cũng là Liêm Tham hoặc Tỵ hoặc Hợi. Đóng Sửu gặp Tử Vi Phá Quân xung chiếu từ Mùi, đóng Mùi gặp Tử Phá xung chiếu từ Sửu.
Thiên Tướng trên bản chất là con người phấn đấu, cái sức xung phá của Tử Phá kế là mạnh, khiến chí tiến thủ của Thiên Tướng tăng cao. Nếu như được sự phù trợ của Tả Hữu Quyền Lộc mới thành công, đựơc sự phò trợ của Xương Khúc thành ra tài hoa vào lãnh vực văn nghệ hợp cách. Thiên Tướng Sửu Mùi không Tả Hữu, không Quyền Lộc, không Xương Khúc ắt là vất vả.
Thiên Tướng Sửu Mùi đường vợ con phiền não. Số nữ tự lo lấy thân không có phận được nhờ chồng. Thiên Tướng ở Tỵ với Hợi đứng một mình, cung xung chiếu là Vũ Khúc Phá Quân, nếu gặp các phụ tinh đẹp đẽ thì tay trắng dựng nên cơ đồ.
Thiên Tướng khi ở Tỵ Hợi tất Thê cung là Tử Tham Mão hay Dậu, nếu lấy vợ hay chồng hơn tuổi thì vợ mới đảm đang quán xuyến, chồng mới lo toàn. Trường hợp vợ hay chồng trẻ hơn thì nuôi chồng hay khổ vì vợ. Nhất là Tử tham ấy lại cặp với Đào hoa, Mộc Dục, Thiên Riêu, Thiên Hình.
Thiên Tướng Tỵ Hợi làm việc giỏi, quản thủ tiền bạc vững chắc, ham hưởng thụ, không phải con người có lý tưởng.
Có câu phú: “Tỵ Hợi Tướng Binh Ấn nhập ư Bính Nhâm nhân, quyền hành chấn động, vận hữu Lộc Quyền hao điệu tài sản vượng tăng” (Nghĩa là Thiên Tướng thủ Mệnh tại Tỵ Hợi mà người tuổi Bính Nhâm có Phục Binh, Quốc Ấn thì có quyền hành gặp vận Quyền Lộc, Song Hao hay Phá Quân đắc địa tất hoạch phát tiền tài). Qua câu phú trên cho thấy Thiên Tướng còn hợp với Quốc Ấn Phục Binh và Tướng Quân nữa.
Thiên Tướng độc thủ Mão hay Dậu. Tại Mão gặp Liêm Phá từ cung xung chiếu, Mão không phải đất miếu mà là đất hãm. Thiên Tướng Mão chí phấn đấu bền bỉ, nhưng thiếu tự tin, quá lo xa thành ra bảo thủ cầu an nên không tiến bộ, thường ít dám đương đầu với khó khăn, thảng hoặc khi gặp hiểm nguy không phải là tay quyền biến.
Thiên Tướng Dậu cũng thế, nếu như các vận đi tốt đẹp còn khả thủ, ngược bằng vận trình xấu thì rất phiền, cuộc đời vướng víu như kẻ mắc vào lưới. Thiên Tướng Mão Dậu thì Thê cung Tham Vũ ở Sửu hay Mùi. Cung này có nhiều phụ tinh tốt thì vợ tháo vát đảm lược, nếu như Thê cũng lại có cả Hỏa Tinh, Linh Tinh hoặc Hóa Quyền thì bà vợ nắm quyền hành tuyệt đối. Thê cung hội hợp luôn cả những dâm tinh hay Đào hoa tinh thì chính cống là Võ Đại Lang vậy (Trong Thủy Hử truyện Võ Đại Lang bị vợ Phan Kim Liên quanh năm suốt tháng đi với trai)
Người đời sau qua kinh nghiệm đưa ra một cách cục kể là hấp dẫn và đúng về Thiên Tướng đóng Mão cung như sau: “Tướng lâm chấn địa, Đào Hồng Tả Hữu Quyền Xương diện hoa vũ bá vận phùng Phá Đà Kình Kiếp Lã Bố do dâm mãn kiếp” (Nghĩa là Mệnh an tại Mão có Thiên Tướng thủ hội Đào Hồng Tả Hữu Quyền Xương mặt đẹp như ngọc, võ nghệ hơn người gặp vận Phá Đà Kình Kiếp như Lã Bố vì mê Điêu Thuyền mà phá hỏng đời mình)
Thiên Tướng rất hiểm nguy, nếu gặp Triệt án ngữ Mệnh cung
"Thiên Tướng Tuần Triệt trước miềnKhi lâm trận địa đầu liền phân thây"
Thiên Tướng ngộ Triệt dễ là số bất đắc kỳ tử, tuy nhiên phải phối hợp thêm các hung sát tinh khác mới rõ rệt. Thiên Tướng hoàn toàn không chịu Hỏa Tinh, Linh Tinh. Bị Hỏa Linh người thủ Mệnh Thiên Tướng dễ đứng đầu với tai nạn gây thương tích
Luận về Thiên Tướng, sách Đẩu Số Toàn Thư đưa ra hai câu đáng chú ý:
a. “Thiên Tướng, Tham Liêm Vũ Phá Dương Đà sát tẩu, sảo nghệ an thân” (Thiên Tướng gặp Tham Lang, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân và các sát tinh Kình Đà tấu hội thì giỏi tay nghề, tạo dựng cuộc đời an định)
b. “Phùng Phủ khán Tướng” (Có Thiên Phủ phải tìm Thiên Tướng, không thấy nói “Phùng Tướng khán Phủ”)
Câu a đã xong vì quá rõ ràng. Dưới đây chỉ bàn về câu b thôi. Gặp Phủ phải tìm Thiên Tướng ý chỉ rằng nếu Thiên Tướng hay đẹp sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự tốt xấu của Thiên Phủ. Thiên Phủ thật ra không cần các sao đi theo thế tam hợp bằng sao Thiên Tướng như đã nói ngay từ đầu. Vậy thì ta cũng có thể nó: “Phùng Tướng khán Phủ”. Phủ bao giờ cũng đi với Tướng, đương nhiên theo cung cách an sao thì hễ đã có Tướng phải có Phủ đứng theo thế triều củng, hoặc tam hợp mà gặp nhau để ảnh hưởng lẫn nhau.
Nếu Thiên Tướng được hội hợp Thiên Phủ đứng với Hóa thì Thiên Tướng đắc lực hơn. Nhược bằng Thiên Phủ vốn không có Lộc đứng bên mà lại đi cùng các sát tinh thì Thiên Tướng cũng vì thế kém hẳn. Tại sao? Vì Thiên Phủ đứng với Sát tinh có nghĩa là kho rỗng, kho lộ tất nhiên phải gây phiền cho Thiên Tướng.
Về sao Thiên Tướng sách Tử Vi Đẩu Số còn đưa ra hai cách cục khác là: “Hình Kỵ hiệp Ấn” và “Tài Ấm hiệp Ấn”. Như đã biết, Thiên Tướng hóa khí là Ấn, và sao Thiên Lương là Ấm.Thiên Tướng đứng đầu, cung trước mặt phải là Thiên Lương, cung sau phải là Cự Môn.
Nếu như Cự Môn đi kèm với Hóa Lộc thì mới là “Tài Ấm hiệp Ấn” chủ về phú qúy. Trường hợp Thiên Tướng đóng ở Mão hay Dậu, Hóa Lộc đứng cùng Thiên Lương ở đằng trước thì không kể như Tài Âm hiệp.
Nếu Cự Môn đi kèm Hóa Kị thì lại biến ra Hình Kị hiệp Ấn cuộc đời sẽ phiền toái lận đận. Tại sao Thiên Lương biến thàn Hình? Đẩu Số Toàn Thư ghi rằng: “Thiên Lương là hình biến chi tinh”. Cứ thấy Kị đằng sau lập tức Thiên Lương chuyển ra Hình.
Trường hợp Thiên Tướng đằng trước Kình Dương, đằng sau Đà La cũng kể là Hình Kị hiệp Ấn, vì hóa khí của Kình Dương là Hình, hóa khí của Đà La là Kị.
Trường hợp Thiên Tướng với Vũ Khúc có Hóa Kị, hoặc đứng với Liêm Trinh có Hóa Kị, đằng trước Kình phía sau Đà thì lại thêm ra một cách cục khác gọi bằng “Kình Đà hiệp Kị” cách cục này còn ác liệt nữa, dễ vướng vào quan tụng, tai nạn, thăng trầm dữ dội. Kình Đà hiệp Kị chỉ thủ phận không nên đua chen mới yên.
Bàn sang câu: “Thiên Tướng chi tinh Nữ mệnh triền, tất đương tử qui cập phu hiền” (Thiên tướng vào số nữ chồng hiền, con thành đạt. Cách này cần hội tụ Khoa Quyền Lộc thì mới được phu hiền, tử quí. Bởi vậy Liêm Tướng thủ mệnh ở Tí mà người nữ tuổi Kỷ, hoặc Liêm Tướng tại Ngọ mà tuổi Giáp mới thật là hợp cách.
Câu phú:”Nữ mệnh Thiên Tướng Hữu Bật phúc lai lâm” ý chỉ sao phò tá Hữu Bật rất tốt với số Nữ Thiên Tướng thủ Mệnh nhưng hai sao ấy phải ở cùng một cungnếu chiếu theo tam hợp thì giảm đi. Tuy nhiên có một điểm xấu cho cách này là chồng thường có thiếp hầu, do đó ở vào hiện đại cách Thiên Tướng Hữu Bật không còn thể gọi là phúc lai lâm nữa. Ngày xưa ông chồng có thiếp hầu là chuyện thường, bây giờ là chuyện rắc rối.
Nữ mệnh Thiên Tướng không nên có Văn Xương Văn Khúc, vì gặp Xương Khúc người đàn bà thông tuệ mà thân phận mỏng, không thọ, dễ làm thiếp. “Thiên Tướng Xương Khúc nữ đa thị thiếp” “Nữ mệnh Thiên Tướng thủ mệnh, ngộ Xương Khúc xung phá, thiên phòng thị thiếp chi lưu”.
Xin xem thảo thêm những câu phú về sao Thiên Tướng:
- Thiên Tướng tối hỉ cư Thê vị(Nam mạng có Thiên Tướng đồng Thê cung tất gặp người vợ đảm lược quán xuyến)
- Tướng ngộ Cái Đào Khúc Mộc thuần tước dâm phong, hạn ngộ Cơ Riêu vô phu tự giải cố miên(số nữ Thiên Tướng gặp Hoa Cái Đào Hoa Mộc Dục Văn Khúc thì nhan sắc xinh đẹp nhưng dâm đãng, vận gặp Thiên Cơ Thiên Riêu đêm nằm thao thức tơ tưởng chuyện gái trai như con chim chìa vôi đến ngày động đực)
- Tướng Liêm tại Ngọ, Khoa Hình Quyền củng, Hàn Tín đạt cao võ thượng chi công(Mệnh lập Ngọ Liêm Tướng thủ hội Khoa Hình Quyền như Hàn Tín xưa đăng đàn bái tướng lập võ công oanh liệt).
- Tí Ngọ Tướng Liêm phùng Phụ Bật thái y đắc thế(Mệnh đóng Tí hay Ngọ Liêm Tướng thủ được Tả Hữu thì làm thầy thuốc giỏi).
- Thiên Tướng Tử Vi Thân phùng Phá, kiêm ngộ Vượng Tuần đa mưu yếm trá(Thiên Tướng Tử Vi thủ Mệnh Thân, Phá Quân mà gặp Tuần Không, Đế Vượng là con người lắm mưu lắm thủ đoạn và gian hùng)
- Thiên Tướng Tử Vi Tuất Thìn khởi năng đạt công danh chi chí(Thìn Tuất an Mệnh Tử Vi Thiên Tướng thủ không gặp thêm cát tinh thì khó nên danh phận với đời).
- Ấn mang liệt vị phong hầu,Sao lành Tướng Cáo hội vào Mệnh cung(Cung Mệnh có Thiên Tướng Phong Cáo thì công danh địa vị cao)
- Thiên Tướng Không Kiếp cư quanCông danh chẳng được tân toan nhiều bề(Thiên Tướng gặp Không Kiếp ở Quan Lộc, công danh chịu lắm khó khăn cay đắng thăng trầm gian nan)
- Thiên Tướng ngộ Lộc xung trung tọaCửa mận đào có gã tình nhân(Mệnh Thiên Tướng gặp Hóa Lộc chiếu hay Hóa Lộc đứng cùng thì dễ quyến rũ đàn bà con gái, cũng thường là số đa thê)
"Tướng miếu hoặc hãm gặp ngayTuần Triệt án ngữ thân nay khó toànHoặc bị súng đạn đao gươmHoặc lâm tai nạn thương đó mà"
Cung quan Tướng đóng xem quaHễ bị Tuần Triệt khó mà rạng danh
"Tướng Hồng số gái yên vuiChồng sang kết nguyện phúc thôi dồi dàoNếu gặp Khúc Cái Mộc ĐàoVẫn là phúc trọng tính âu đa tình"
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
![]() |
Trồng hoa giấy đúng cách có thể hóa giải một số thế nhà hung sát |
► Mời các bạn xem hướng nhà theo tuổi để không phạm phải đại kị |
Bài này dịch và chú bởi anh tuetvnb tại diễn đàn Lý số Việt Nam.
Trong Tử vi, 14 chính tinh chi phối rất mạnh mẽ trên toàn lá số. Nắm được bản chất và đặc tính của 14 chính tinh là mấu chốt của việc luận đoán. Xưa nay các sách đều viết rất nhiều, tuy nhiên cũng rất cần tham khảo thêm nhiều quan điểm. Tôi dịch phần “thập tứ chủ tinh tính chất” của nhà nghiên cứu nổi tiếng Vương Đình Chi để cùng tham khảo.
Vương Đình Chi là nhà nghiên cứu Lý Học nổi tiếng ở Hồng kông, nhưng sở trường nhất là Tử Vi, ông theo quan điểm của Trung Châu phái. Đọc Tử vi của Vương ĐÌnh Chi, về cơ bản cũng không ngoài nguyên lý chung của Tử vi, tuy nhiên cách nhìn nhận, lập luận và đánh giá có đôi chút khác biệt, vì thế tôi có thêm vào đôi lời bàn luận sau mỗi phần dịch để sáng tỏ thêm.
Vì kém về ngôn ngữ nên chắc sẽ có nhiều lỗi dịch thuật, mong được chỉ giáo.
Các đặc tính của tinh diệu dưới đây bao gồm các tình chất cơ bản của tất cả 14 chính tinh. Chỉ nêu những nét chính yếu, cần cái gì, kỵ cái gì. Bên trong cũng chỉ ra một ít cách cục đặc biệt như Nhật nguyệt phản bối, Mã đầu đới tiễn v.v.. Mặc dù không nhiều lắm nhưng nếu cẩn thận hiểu được thì cũng biết được đôi chút phép tắc cơ bản của Tử vi đẩu số.
Tử vi thuộc Âm Thổ, là Chủ tinh Bắc đẩu, hóa là Đế Quân, thường là chủ tinh ắt sẽ cần “Quần thần củng chiếu”. Chính vì thế mà Tử vi nhất định phải được Quần thần củng chiếu mới là thượng cách, nếu không thế, chỉ là cách cục bình thường.
Quần thần ở đây là: Phủ Tướng, Phụ Bật, Xương Khúc, Khôi Việt. Nếu như hội hợp được Phủ Tướng ắt sẽ mạnh mẽ, có tài, có thế. Là tượng của Đề Hoàng nên cần sự trợ sức của Phụ Bật, nêu có trợ lực, lòng dạ cũng rộng rãi.
Nếu có Xương Khúc cùng hội hợp, thì có học thức, có trí tài, cũng có khả năng làm giảm nhẹ cái tính cao ngạo, chủ quan của Tử Vi. Khôi việt hội hợp thì cá nhân gặp nhiều cơ hôi, có khả năng gia tăng địa vị.
Nếu như Quần Thần xa lánh, trở thành Cô Quân, chủ quan quá sâu, tâm cao khí ngạo mà mừng giận thất thường, không khéo đối xử với người.
Nếu gặp Không vong, Hoa cái thường có tư tưởng độc tài. Gia Tứ Sát là vua vô đạo, thuộc hạ cách, nếu thêm Phúc cung không tốt thì là người hèn mọn dung tục.
Phụ Bật, Xương Khúc, Khôi Việt là bộ sao Lục cát, đối với Chủ tinh có sự trợ giúp rất lớn.
Chủ tinh ở đây là Tử Vi, Thiên Phủ, còn người sinh ban đêm là Thái Âm nhập miếu, sinh ban ngày là Thái Dương nhập miếu, nhưng phải được đối diện nhau, nếu chỉ thấy một thì không mạnh mẽ.
Nhất là Tả Hữu Khôi Việt, nếu như chỉ gặp một sao thì giống như không gặp.
Lời bàn: Vương tiên sinh cho rằng Tử vi tuy thân là Đế tinh, nhưng cái LỰC của Tử vốn là do Quần Thần mang lại, cho nên nếu được Quần thần củng chiếu thì mới là thượng cách, bằng không thì chỉ bình thường. Ngoài ra, Vương tiên sinh còn cho rằng một trong những tính xấu cảu Tử vi chính là Tâm tính cao ngạo, chủ quan. Nếu không có sự trợ giúp của Văn tinh, quý tinh mà lại gặp hung sát tinh ắt là sẽ thành kẻ thô lậu. Quan điểm của Vương tiên sinh về các sao đi từng cặp như Tả Hữu, Khôi Việt cho rằng phải đủ cả cặp mới có tác dụng, nếu đơn lẻ một mình thì tác dụng giảm sút, coi như không có.
Về phần phân định Âm Dương, Vương tiên sinh cũng có quan điểm hơi khác, vì như Tử vi, các sách đều cho là Dương Thổ, nhưng Vương tiên sinh lại cho rằng Tử vi thuộc Âm Thổ, ấy cũng là điều bất cập.
Thiên Cơ thuộc Âm Mộc, là sao thứ nhất của chòm Nam Đẩu, giống như Mưu thần, thích việc cơ biến, khi thiện, khi ác. Nếu được Xương Khúc, Long Trì Phượng Các, cùng Hóa Khoa thì thông minh tuyệt đỉnh, có khả năng dụng thành chính đạo. Nếu chẳng gặp được cát diệu, mà lại gặp Hóa Kỵ, Sát tinh cùng với các sao bất lương thì tính chất của Thiên Cơ trở thành Bất lương, gian trá. Có thể thấy rằng Thiên Cơ đối với các phụ tinh là sát tinh thì đặc biệt nhạy cảm.
Hóa Quyền có khả năng tăng cường tình ổn định của Thiên Cơ, cũng gia tăng khả năng đối kháng với sát tinh là Hóa đẹp nhất vậy. Hóa Khoa gia tăng khả năng thông minh tài trí của Thiên Cơ, cũng là sao Hóa rất tốt đối với Thiên Cơ. Hóa Lộc thì làm cho cái trí mưu của Thiên Cơ chỉ thích sử dụng trong kinh doanh, là kẻ chỉ thích kiếm tiền.
Hóa Kỵ làm cho Thiên Cơ trở thành mưu lợi, chỉ thích đi ngang về tắt.
Thiên cơ lâm Phúc đức cung mà gặp Sát tinh thì cũng không nặng lắm. Tâm chẳng được nhàn, nhiều dự định, toan tính. Nếu gia Hóa Kỵ thì tâm phiền mà thường nông cạn.
Thiên Cơ vốn được gọi là sao “Thiện Biến” cho nên tình cảm thường thay đổi mạnh, hoặc tư tưởng thay đổi mạnh. Thường là sao biến đổi mạnh thì ắt sẽ rất nhạy cảm với sát tinh, cho nên rất cần Hóa Quyền để tăng độ ổn định. Mà Thiên Cơ lại vốn có bản chất của mưu thần, bởi vậy khá thích hợp với vai trò phụ tá.
Lời bàn: Vương tiên sinh rất coi trọng Tứ Hóa, bởi vậy nên cho rằng Tứ Hóa có thể cải biến được tinh chất của các tinh diệu, cụ thể là Thiên Cơ. Quan điểm của Vương tiên sinh đánh giá Thiên Cơ là sao rất cơ biến, có khả năng thích nghi cao, có khi thiện, có khi ác, phụ thuộc vào hệ thống các sao phụ tinh hội hợp. Đặc biệt ông cho rằng nếu Thiên Cơ cư Phúc cung, có khẳ năng chế sát, hóa giải tác dụng xấu của một số sát tinh khi hội hợp vào Phúc Cung.
Thái Dương thuộc Dương Hỏa, là sao chủ tại trung thiên, là sao của quan lộc, chủ quý. Là chủ tinh của người sinh ban ngày, rất tốt nếu cư cung Quan Lộc.
Phán đoán sự cát hung của Thái Dương, trước hết phải xem các vị trí miếu vượng, cư các cung Dần Mão Thị Tỵ Ngọ Mùi là cung miếu vượng.
Thích hợp với người sinh ban ngày, người sinh ban ngày gặp Thái Dương miếu vượng thì rất đẹp, nếu lạc hãm thì giảm nhiều sự tốt đẹp. Người sinh ban đêm nếu có gặp Thái Dương miếu vượng cũng bình thường, mà nếu lạc hãm thì hung. Lại phải xem kỹ các Phụ tinh là Sát tinh hội hợp để luận đoán cát hung của Thái Dương.
Thái Dương chủ quý, Hóa Quyền, Hóa Khoa càng tăng thêm tính chất quý hiển của Thái Dương, nhưng cần lưu ý là tại xã hội hiện đại thì chuyện Tài Phú rất quan trọng, cho nên cái sự thanh quý của Thái Dương chưa hẳn đã toàn mỹ. Bởi thế Thái Dương rất cần Hóa Lộc, nếu có Hóa Lộc, Lộc Tồn hội hợp là chân mệnh của Phú Quý vậy.
Thái Dương chiếu khắp vạn vật, cho mà không nhận, cư tại Ngọ cung là cách Nhật Lệ Trung thiên, rực rỡ mà rất thịnh, có khả năng danh lớn hơn lợi, cũng chưa hẳn là kết cấu đẹp. Trong cái ánh sáng ấm áp của Thái Dương, người ta rất thoải mái. Cho nên cần xem xét kỹ tất cả các đặc tính của tinh diệu, được ở trong cái ánh sáng ấm áp của Thái Dương thì là đại phúc hậu vậy.
Thái dương ở trên trời vận hành không ngừng, chiếu sáng mặt đất, cho nên Thái Dương chủ về ĐỘNG, cho mà không nhận. Cho nên các lời bàn về Thái Dương xưa này đều giống nhau ở chỗ cho rằng Thái Dương quan trọng ở chỗ “Quý”, trước phải có “Quý” (danh tiếng) rồi sau mới giầu có. Chẳng qua, nếu không luận như thế thì Thái Dương cũng có một điểm là có bản chất cái Danh lớn hơn cái Lợi. Nhất là Thái Dương càng sáng thì càng rõ bản chất này.
Lời bàn: Đối với Thái Dương, Vương tiên sinh cho rằng chỉ thực sự Quý đối với người sinh ban ngày, ngoài việc xem xét các phụ tinh hội hợp thì việc đặt ra vấn đề đồi với người sinh ban ngày hay ban đêm cũng được Vương tiên sinh rất coi trọng. Bàn về chữ Quý của Thái Dương, Vương tiên sinh đã có ý kiến rất thực tế khi gắn với xã hội hiện đại, cổ nhân thì cho rằng Quan Quý là đứng đầu, nhưng Vương tiên sinh không đánh giá cao cái Quan Quý mà lại xa rời Thực Lộc của Thái Dương, cho rằng đó là điều không toàn mỹ lắm. Khác với cổ nhân, Vương tiên sinh cho rằng Thái Dương là người có tinh thần quảng bác “cho mà không nhận”, trong khi đó cổ nhân thì lại cho rắng Thái Dương có tính chuyên quyền. Riêng điểm này thì không mấy đồng tình với Vương tiên sinh, bởi lẽ Thái Dương vốn là Thuần Dương, dương cương đến cùng cực, thì cái việc lấn át, chuyên quyền không phải là không có.
Vũ Khúc thuộc Âm Kim, là sao thứ 6 của chòm Bắc đẩu, lấy hành động kiếm tiền làm chính, tính cách thì cương liệt, quyết đoán.Rất tốt nếu cư Quan lộc, Tài bạch cung, nếu lâm vào cung Mệnh và các cung Lục thân thì không tốt, ngại vì tính cương khắc thái quá.Người Vũ khúc tính cứng rắn, cho nên rất ngại Dương Đà cũng như Thiên Hình vì tính cô khắc càng tăng.
Sao Vũ Khúc đối với Tứ Hóa cũng đặc biệt nhạy cảm, gặp Hóa lộc thì rất tốt vì Vũ khúc là tài tinh, Hóa lộc cùng một tính, nên tài khí càng vượng, cũng có thể giảm nhẹ tính cương khắc của Vũ Khúc. Hóa quyền, Hóa kỵ gia tăng tính chất cương liệt của Vũ khúc cho nên đồi với Vũ khúc không được tốt lắm. Nếu gặp Hóa kỵ, cứng quá ắt gãy, vì thế Vũ Khúc – Hóa kỵ thường thường là Bại cục ở chỗ đó.
Người Vũ khúc tính cô khắc, cho nên cần Văn Xương, Văn Khúc cùng hội hợp để trung hòa, cũng giống thế – rất cần Thiên Phủ đồng cung. Thiên Phủ là tài khố (kho tiền), hai tài tinh gặp nhau là một sự kết hợp rất tốt, nếu lại có Hóa Lộc, Lộc Tồn thì càng đẹp.Tương đối mà nói, Vũ Phá với Vũ Tướng là hai tổ hợp khó hoàn mỹ, chủ yếu là do Phá Quân gia tăng tình ĐỘNG, lúc này việc gặp Lộc tinh mới tỏ ra rất quan trọng. Trong Tứ Sát, Vũ khúc sợ nhất Hỏa Linh, bất luận là tính chất nào của Vũ Khúc cũng đều không tốt khi gặp hai sao Hỏa Linh. Vũ khúc ngoại trừ sợ Hỏa Linh ra, đôi khi cũng không tốt nếu gặp Xương Khúc, nhất là gặp một mình Văn Khúc (đương nhiên Văn Khúc – Hóa kỵ thì càng tệ) “song khúc hội” nhất định sẽ có khuyết điểm. Cần lưu ý trong Đẩu số có một cách là Linh Xương Đà Vũ là bại cục.Vũ khúc là tài tinh, nhưng có khá nhiều khuyết hãm, vì thế không nên cừa nhìn thấy Tài đã cho là tốt.Nhưng Vũ khúc lại có hành động tương đối cao thượng, cho nên rất tốt nếu gặp được Khôi Việt cùng với Thiên Cơ hội hợp.
Lời bàn: Vương tiên sinh thật chí lý khi luận rằng “Vũ khúc tuy là tài tinh nhưng có quá nhiều khuyết điểm, vì thế chớ thấy TÀI mà cho là tốt”, chẳng thế mà cái cách Linh Xương Đà Vũ vốn dĩ xưa này là Bại cách, tối hung. Vương tiên sinh cho rằng Vũ Khúc có một đặc tính cố hữu là Cô Khắc, nhưng bản chất của cái việc Cô Khắc này là do tính cương cường mà ra, từ đó có thể suy ra rằng nếu Vũ Khúc được các phụ tinh là văn tinh, quý tinh trợ giúp thì có thể chế ngự được cái tính cô khắc cương cường của Vũ Khúc. Luận Tử vi như thế, xưa nay quả là hiếm có. Qua lời luận của Vương tiên sinh, cũng có thể thấy rằng cái sự phối hợp với nhau mới là quan trọng, một tinh tú đơn lẽ không làm nên được điều gì, mà cái sự cát hung phần nhiều làm nên ở các phụ tinh, tá tinh vậy.
Thiên Đồng thuộc Dương Thủy, là sao thứ tư trong chòm Nam Đẩu, ví như Phúc tinh, chủ hưởng thụ và ý chí.
Nếu có Hóa Lộc cũng với cát tinh hội hợp thì tốt, nhưng cũng ngại vì tham hưởng thụ mà thành mềm yếu. Nguyên do lúc này gặp được hoàn cảnh tốt một số ít sát tinh cũng đủ kích động, gặp sự kích động này Thiên Đồng dễ thành tựu lớn nên người ta cũng thêm khó khăn vất vả. Chỉ thấy sát mà không thấy lộc, thì là không tốt đối với Thiên Đồng. Thiên Đồng cũng rất ưa Hóa Quyền, vì có thể tăng cường ý chí, bằng như hội đủ Lộc Quyền Khoa Kỵ, mà sát diệu không nặng nề thì cũng chủ phú quý song toàn. Ngại nhất là Thiên Đồng Hóa Kỵ là cách cục xấu.Thiên Đồng tuy là Phúc tinh, nhưng cái Phúc ấy cũng có khuyết điểm, hơn thế nữa phải đắc Lộc mới thực sự là Phúc. Tuy nhiên, khi đắc Lộc trừ phi có cách cục đặc biệt tốt, không thì vẫn phải trải qua một đoạn gian khổ, có lúc rất vất vả, cũng không phải là tốt. Nếu không phải như đã luận thì trừ phi có cách cục rất khác lạ. Thông thường Thiên Đồng đều có một điểm là “vãn vận” (vận muộn), cho dù Thiên Đồng được đánh giá là Phúc, cũng có lúc nhầm lẫn.
Lời bàn: Xem ra quan điểm của Vương tiên sinh chú trọng nhiều vào vấn đề tài lộc, chính vì thế mà rất đề cao các Lộc tinh, tuy nhiên đối với Thiên Đồng thì ngoài cái đặc tính cố hữu, còn cần phải xem xét thêm cái vị trí miếu vượng của nó. Ở đây, một đặc tính quan trọng của Thiên Đồng mà Vương tiên sinh chỉ nhắc đến một cách mơ hồ, đó là tính canh cải thất thường. Vương tiên sinh cho rằng Hóa Quyền có thể giải trừ được cái tính canh cái hay thay đổi của Thiên Đồng. Phần phân tích về việc Thiên ĐỒng hội Lộc tinh, lập luận của Vương tiên sinh rất sắc bén, cho rằng không phải là điều tốt, hé lộ quan điểm về việc kích động hoàn cảnh của sát tinh. Tuy nhiên, so với quan điểm của cổ nhân thì có lẽ tình chất cảu Thiên Đồng chưa được Vương tiên sinh nêu rõ ràng lắm.
Liêm trinh thuộc Âm Hỏa, là sao thứ 5 của chòm Bắc Đẩu, hóa khí là Tù tinh, chủ về tình cảm và lý trí, lại có tên là Thứ Đào Hoa. Liêm trinh gặp thiện thì thành thiện, gặp ác sẽ thành ác.Liêm trinh là một sao có sự biến hóa tốt xấu khá lớn, nhất định phải chú ý cẩn thận.
Nếu gặp Hóa Lộc thì tốt, chủ về tình cảm hòa hợp, ngại gặp Hóa Kỵ, chủ về tình cảm tan vỡ, hoặc gặp tai ương về máu huyết. Cùng với Sát Phá Tham hội hợp, tất sẽ rất cần Lộc tinh cùng hội mà sát tinh không được cường mạnh, thì cũng có thể gọi là tốt. Nếu không gặp cát tinh mà lại gặp hung tinh thì hình thương khó tránh. Được Thiên phủ cùng hội hợp, lại thêm Xương Khúc (văn xương, văn khúc) và Lộc tinh, có khả năng phát huy cái mặt tốt lành của Liêm trinh, đó là cách cục đẹp nhất của Liêm trinh. Cùng với Thiên tướng hội hợp, mà Thiên tướng vốn tốt lành, cũng là cách đẹp. Hội hợp với Tử Vi, Thiên Phủ không gặp ác tinh thì rất đẹp. Các tổ hợp trên đây gọi là “Gặp thiện thì theo thiện”. Liêm trinh chủ về tâm tư tình cảm, nếu tốt thì tình cảm phong phú, là người cao nhã vui tính, Xấu thì tự tư tự lợi, thậm chí không thể khống chế được tình cảm của chính mình, Liêm Trinh là sự phản ảnh sâu sắc tinh thần, khi suy đoán cần phải hết sức cân nhắc, đặc biệt là khi Liêm Trinh mang nặng tính đào hoa và tình cảm.
Lời bàn: Đoạn này không thấy Vương tiên sinh nhắc đến sự tương tác của Liêm trinh với Hóa Quyền, Hóa Kỵ, bởi một trong những đặc tính quan trọng của Liêm trinh là Tù tinh, vì thế mà khi gặp Quyền Kỵ tính chất sẽ thay đổi rất mạnh mẽ. Vương tiên sinh có lẽ đã quá chú trọng vào đặc tính Đào Hoa của Liêm, cho rằng đấy là sự ảnh hưởng mạnh mẽ, quan điểm này cũng cần phải suy ngẫm thêm.
Thiên Phủ thuộc Dương Thổ, là chủ tinh của chòm Nam Đẩu, giống như kho tiền. Nguyên nhân là do quan hệ của Chủ tinh, cho nên cũng cần “quần thần đồng hội”, so sanh với tử vi thì tính cách bảo thủ hơn, sức khai sáng không bằng, cũng không có cái mạnh mẽ quyết liệt chủ quan của Tử vi. Dễ đối xử với người hơn Tử vi. Nếu được quần thần đồng hội, lại thêm gặp được Lộc tinh, chủ về khả năng vừa công vừa thủ, quyết đoán lớn lao. Nếu chẳng gặp được Hóa lộc hoặc Lộc tồn, thì là người hành sự cẩn trọng, lợi cho việc giữ gìn cơ nghiệp. Nếu không có Lộc tinh mà lại gặp được các cát tinh khác, giống như rời xa quần thần, mà biểu hiện của Thiên phủ là tiến thoái khó khăn, nếu gặp sát tinh thì chỉ nên nấn ná đợi thời cầu tài. Đóng ở Tài Bach, Quan lộc cung thì hoàn hảo, bởi vì xã hội ngày nay người người cầu tài theo mệnh, miễn là Mệnh cung, Phúc Đức cung không kém, chỉ là mánh khóe cầu tài quá khích mà thôi. Nhưng nếu đóng ở Mệnh cung thì dễ phát triển thành gian trá, phù thịnh.Thiên Phủ là Nam Đẩu, Tử vi là Bắc đẩu. Tử vi chủ lãnh dạo, chủ phát tán, chủ quý. Thiên Phủ chủ cất giấu, chủ phú, chủ giữ gìn cơ nghiệp, nói một cách tương đối là đầy đặn. Trừ phi là Thiên phủ gặp cách xấu đặc biệt (gặp sát tinh chẳng gặp Lục Cát, lại chẳng gặp Khoa Lộc, gặp toàn sao tạp bất lương) còn không dù có gặp “gian” cũng chẳng lộ ra là “gian”.
Lời bàn: Tính của Phủ vốn ôn lương hòa hoãn, tuy sức khai sáng không bằng Tử vi, nhưng cũng là chủ tinh. Cho nên lập luận rằng rất cần Quần thần hội hợp là rất sắc bén. Qua quan điểm của Vương tiên sinh thì thấy rằng vai trò của Phụ tinh vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, trong đoạn này, cái lập luận về tính “gian” của Phủ là hoàn toàn mới mẻ. Bởi cổ nhân xưa nay vẫn cho rằng Thiên Phủ ôn lương, do vậy nếu nói rằng “nhược cư vu mệnh cung, tắc khả năng phát triển vi gian trá, xu viêm phụ thế” thì có vẻ như hơi khiên cưỡng. Đành rằng Thiên Phủ “phù thịnh bất phù suy” nhưng chưa hẳn đã đến nỗi phát triển thành gian trá. Điều này nên xem xét cẩn trọng.
Thái Âm thuộc Âm Thủy, là sao ở trung thiên, chủ tinh của người sinh ban đêm. Miếu vượng tại Dậu Tuất Hợi Tý Sửu, hợp với người sinh ban đêm, nếu người sinh ban ngày mà lại có Thái âm lạc hãm, thì tức là không hợp.
Thái dương chủ phát tán, chủ quý, còn Thái âm thì chủ thu giấu, chủ phú, cho nên Thái Âm cũng bao gồm ý tứ của Tài tinh, nhưng cái Tài tinh này so với Vũ Khúc có điểm khác nhau. Vũ khúc lá hành động cầu tài, mà Thái âm thì thuộc kế hoạch, mang tính chất phụ tá. Có lúc lại có khả năng nắm giữ quyền lực tiền tài, giống như Thái Dương, cần sự trung hòa.Cho nên khi Thái âm cư ở cung hãm, mà được Tả Hữu Khúc Xương Lộc Quyền tương hội thì vẫn là đẹp, Thái Âm miếu vượng mà hội được cát tinh thì Hóa Kỵ không hại được.Nhưng tổ hợp của Thái Âm không ổn định, nếu lại gặp Xương Khúc thì trại lại, lại bị tình cảm lãnh đạo. Nếu lại gặp Sát tinh thì có thể trở thành trò đùa của quyền lực.So với Thái Dương, Thái Dương chủ Động, chủ phát xạ, chủ truyền bá, chủ quý. Còn Thái Âm chủ Tĩnh, chủ thu nhận, chủ Phú. Nhưng nếu như thu nhận quá thịnh, thì sẽ là người nhiều tâm kế, lòng dạ thâm sâu, rất khác biệt so với Thái Dương. Chính là do Thái Dương tự mình tỏa sáng, tỏa nhiệt, Nhưng Thái Âm thì ngược lại, được diếu sáng bởi Thái Dương, nếu không có Thái Dương chiếu đến, thì Thái âm tối đen như mực.Dùng cách ví von mà nói, thì có một sự khác biệt giữa Thiên phủ “thâm trầm”, khác với Thái Âm là “Âm Sâm” (Âm Sâm có nghĩa là ảm đạm).
Lời bàn: Trong đoạn này Vương tiên sinh đã căn cứ vào tính chất Âm-Dương của 2 sao Thái Âm – Thái Dương để lập luận. Thái Âm vốn dĩ xưa nay vẫn được coi là Tài tinh, theo Vương tiên sinh thì tính Tài của Thái Âm chính là do đặc tính “Thu liễm” mà ra, bởi vậy về mặt tư tưởng, Thái Âm tham lam hơn, không quảng bác như Thái Dương. Đặc biệt, trong đoạn này Vương tiên sinh đã thể hiện hai quan điểm. Thứ nhất, Vương cho rằng Thái Âm cần phải có ảnh sáng của Thái Dương mới huy hoàng được, bởi vậy nếu được đắc cách Nhật Nguyệt thì mới thự sự hoàn mỹ. Thứ hai, Vương cho rằng “Thái Âm miếu vượng thì Hóa Kỵ không làm gì được”, đây chính là điểm khác biệt của Trung Châu Phái khi an Hóa Kỵ cùng với Thái Âm cho tuổi Canh. Điều này xưa nay vẫn tranh cãi, tuy nhiên ta có thể rút ra một điều rằng, cho dù An Hóa Kỵ với Thái Âm, hay Hóa Khoa với Thái Âm, thì tuổi canh gặp cách này vẫn là đẹp.
Tham lang thuộc Dương Mộc, khí thuộc thủy, ví như Tình Dục và Vật Dục, còn gọi là Chính Đào Hoa, nếu được chế hóa thì vẫn có thể tốt. Nếu được chế hóa, tình dục vật dục đặt được cân bằng, mà lại được cát tinh hội hợp thì là cao cách vậy. Nếu không được chế hóa mà lại gặp sát tinh hội hợp, không cần biết là thiên về tình dục hay vật dục, nhưng đều có khuyết điểm.
Hóa Lộc gia tăng vật dục còn Hóa kỵ thì giảm bớt dục vọng. Tử Tham mà được Tả Hữu Xương Khúc là được chế hóa, Vũ Tham mà được Hỏa Linh là được chế hóa, nếu lại hội được Cát Tinh, Cát Hóa, có thể làm đại tướng, uy chấn biên cương.Liêm Tham ngộ Không, Thiên hình, Hóa kỵ là được chế hóa, có khả năng tình dục mạnh, thơ rượu phong lưu mà biến thành văn nghệ, nghệ thuật.Nếu không được chế hóa mà lại gặp Kình Dương, Đà La thì vì sắc mà rước họa.
Tham lang cũng là chủ biến, nhưng cái biến của nó là “đổi thang mà không đổi thuốc” (chỉ thay đổi cái vỏ bề ngoài mà bản chất thì không đổi), mượn màu son phấn để che giấu toan tính.Tham Lang cũng là một tay giao tiếp đối đáp thiện nghệ, nhưng cái ứng đối của nó phần nhiều là ở tửu sắc phong lưu. Cũng đôi khi thích các sự vật thần bí, thuộc loại quỷ quỷ quái quái, nhưng cái sở thích của nó là loại đông tây thần bí, mà tịnh không phải là nghiên cứu chuyên sâu.Cũng dựa trên tính chất tương đối của Tham Lang, nếu gặp được Xương Khúc, ngộ Không, cũng với Thiên Hình có thể phát huy tiềm năng nghệ thuật của Tham Lang.
Lời bàn: Vương tiên sinh có đưa ra quan điểm về các cách chế hóa đối với sao Tham Lang trong từng trường hợp. Tuy nhiên dường như Vương tiên sinh không coi trọng các tính chất về tài khí của Tham Lang, ngay cả khi gặp Hỏa linh, điều này có khác so với các quan điểm xưa nay. Có một điều mới ở đây là Vương tiên sinh cho rằng Thiên Hình có thể chế giải được tính dâm của Tham Lang, cũng cần phải xem xét.
Thuộc Âm Thổ, khí thuộc Âm Kim, là sao thứ hai trong chòm Bắc Đẩu.
Trong đẩu số, Cự môn là ám tinh, nhất định phải có Thái Dương miếu vượng hội chiếu, hoặc Lộc Quyền hội hợp mới có thể giải được tính ám của Cự Môn. Nếu không có Thái Dương hội chiếu hoặc Lộc Quyền cứu giải, Cự Môn sẽ đem lại thị phi, nghi kỵ.
Cự môn còn được ví như tài ăn nói, nếu cát thì nói hay, giỏi biện, nếu hung thì ăn nói giảo hoạt. Nếu hội Thái Dương hãm, Hình Kỵ thì dễ rước cái họa khẩu thiệt, thậm chí kiện cáo. Năng lực đối kháng sát tinh của Cự môn rất yếu, cho nên tuyệt không nên gặp sát tinh, rất cần cát tinh cùng với Hóa Lộc, Hóa Quyền, cải hóa được Cự Môn, không chỉ ăn nói tuyệt vời mà thậm chí còn có thể trở thành nghề nghiệp, có thể làm luật sư, diễn thuyết gia, thuộc hàng có đẳng cấp, lại có khả năng truyền bá, tiếp thị tài ba. Nếu được cách cục thích hợp phối hợp thì phú quý không thiếu.
Cự môn còn biểu trưng của chướng ngại lớn, che lấp tất cả mọi thứ. Trong đời người có thể có một giai đoạn gian khổ đối với lịch trình, hoặc một giai đoạn thương tâm đối với chuyện cũ. Hoặc biểu trưng cho người thích nói, dùng ngôn từ che giấu người khác, biểu hiện là người thao thao bất tuyệt, thích tranh luận. Nếu như cách cục tốt (Như đắc Hóa Quyền lại gặp Xương Khúc), có học thức lại có sức biểu đạt tốt, như vậy đương nhiên tuyệt không phải là phường nói hão.Kỳ thực, tại hiện đại, Cự môn được đánh giá cao hơn so với cổ đại nhiều lắm, bởi vì hiện thời là cần phải bao quát, tiếp thị xã hội. Từ việc cạnh tranh tổng thống của nước Mỹ đến một nhân viên tiếp thị, đều cần đến việc ăn nói linh hoạt (bất kể là nói thật hay không thật). Tóm lại là những người ăn nói rất tốt, tuyệt không thể thiếu Cự môn.
Lời bàn: Vương tiên sinh đánh giá rất cao khả năng ăn nói của Cự Môn vì nó hợp với xã hội hiện đại, tuy nhiên cần phải nhớ rằng chỉ thực sự tốt khi Cự Môn đắc cách hội Quyền Lộc, Xương Khúc. Đoạn Vương tiên sinh luận rằng “Trong đời người có thể có một giai đoạn gian khổ đối với lịch trình, hoặc một giai đoạn thương tâm đối với chuyện cũ” thật là sắc bén. Duy chỉ có điều, chưa thấy Vương tiên sinh phân tích về tính Tài khí của Cự Môn.
Thuộc dương thủy, là ngôi thứ hai trong chòm Nam đẩu, hóa khí lá Ấn tinh, được ví như cái ấn đeo của Hoàng Đế, cho nên nếu ở trong tay Hoàng đế anh minh thì là cứu tinh của nê dân, mà trong tay Hôn quân bạo chúa thì tàn hại bách tính – giúp cho phường hung bạo. Bởi vậy, bản chất của Thiên tướng là gặp Cát thì Thiện, gặp Hung thì Ác. Thiên tướng hoàn toàn chịu hoàn cảnh của bên ngoài mà biến hóa, khi luận đoán phải hết sức cẩn thận.
Trong Tứ Sát, Thiên tướng sợ nhất Hỏa Linh, cho nên có thuyết nói rằng “Thiên tướng Hỏa linh trùng Phá, tàn chướng” – (Thiên tướng Hỏa linh mà gặp Phá, tàn tật), có khả năng có cố tật, hoặc thân thể yếu đuối nhiều bệnh tật.
Đoán sự cát hung của Thiên tướng tất phải xem xét Lân cung (hai cung bên cạnh bản cung), như Cự Môn Hóa Kỵ giáp bên sẽ thành cách “Hình Kỵ giáp Ấn” (do Thiên Lương là Hình) – không tốt. Như Cự Môn Hóa Lộc, là cách “Tài Ấm giáp Tướng” (Thiên Lương là Ấm), là một kết cấu đẹp của Thiên Tướng. Đương nhiên vẫn chủ yếu là xem sự phân bố của Lục Cát, Lục sát mà đoán định.
Một đặc trưng lớn nhất của Thiên Tướng là “không có tính cách” (đây là một thuật ngữ dùng trong luận đoán, không có nghĩa là người có Thiên tướng thủ mệnh không có tính cách).
Cho nên trong mưới bốn chính tinh chỉ có Thiên tướng là rất coi trọng Lân cung, bị ảnh hưởng rất mạnh từ hai cung bên cạnh bất luận là Hình Kỵ giáp, Tài Ấm giáp, hay Dương Đà giáp.
Giáp Hỏa Linh, giáp Khoa Quyền, cũng như giáp Khôi Việt … đều có ảnh hưởng mạnh đến Thiên Tướng. Tại lá số mà Thiên tướng gặp cách giáp cung, đôi khi lại biểu hiện tính cách không thể làm chủ bản thân, như vẫn nói là “hình thể giống người mạnh” (thành ngữ – ý nói về cái hình thì trông giống người mạnh, mà không phải là mạnh).
Thiên Tướng cũng có tính chất tương tự như Thiên Cơ. Đều dựa phần nhiều vào phụ tá.
Lời bàn: đoạn luận về Thiên tướng này của Vương tiên sinh chưa thật sắc xảo lắm. Có lẽ Vương tiên sinh quá coi trọng cái sự ảnh hưởng của Lân cung đến Thiên Tướng. Gần như các quan điểm của Vương tiên sinh đều trái ngược với những nhận xét của cổ nhân về Thiên tướng. Theo “đẩu số toàn thư” thì bản chất của Thiên Tướng vốn là Ấn tinh (ấn là con dấu, con triện), biểu thị cho uy quyền, tài lộc hơn thế nữa với nhận xét về tính tình của Thiên Tướng “kiến nhân nan hữu trắc ẩn chi tâm, kiến nhân ác hữu bất bình chi khí” (gặp người khó thì động lòng trắc ẩn, gặp kẻ ác thì nổi sự bất bình), thì càng không thể nhận xét rằng “thiên tướng là sao không có tính cách”. Tính cách “gặp thiện theo thiện, gặp ác theo ác” của Thiên tướng không thể hiện rõ ràng lắm. Với các nhận xét về cách cục của Thiên tướng như ở trên chưa được thuyết phục lắm, ví như cách Hình Kỵ giáp Ấn mà bảo rằng Thiên Lương là Hình thì thật là chưa chính xác vậy, hơn thế nữa, bản chất của Hình Kỵ khi giáp Ấn không phải do Ấn tinh tạo nên, mà bất cứ sao nào khi gặp các cách GIÁP như Giáp hình kỵ, Giáp Dương Đà, Giáp Không Kiếp cũng đều xấu vậy, không hẳn chỉ có Thiên tướng. Dịch đoạn này cảm thấy nghi ngờ, không chắc có phải là quan điểm của Vương tiên sinh hay chỉ là do người sau thêm thắt vào? Người đọc cũng cần tham khảo và chắt lọc thêm vậy. Ngoài ra, một đặc tính về Tài của Thiên tướng chưa thấy được nhắc đến, vì Tướng và Phủ luôn trong tam hợp cho nên mới có câu “Phủ Tướng triều viên, nãi vi y lộc chi thần”, là thần của y lộc. Có lẽ đây cũng là một thiếu sót chăng?
Thuộc Dương Thổ, là ngôi thứ 3 trong chòm Nam đẩu, hóa khí là ẤM TINH, nhưng cũng lại hóa vì HÌNH TINH. Nguyên nhân Thiên Lương hóa khí là Hình tinh là do nó lại có tính chất “cương khắc cô kỵ”, nếu như lúc này mà lại gặp Thiên Hình cung Kình Dương thì tình cương khắc sẽ mạnh lên, cho nên cách này là không tốt.
Nhưng Thiên Lương cũng có tính chất của cái bóng che chở, tức là ẤM (hán việt: Ấm tức là cái bóng che chở của cha mẹ, bề trên, bởi Lương là biểu trưng của Phụ Mẫu). Ấm (tính chất) tức là tiêu tai đặc trưng lớn nhất là “tiên phá hậu lập” (trước phá đi rồi sau mới lập thành), trước đắng mà sau mới có vị ngọt. Nhưng mà trước phải có tai vạ thì sau mới phát huy được tính chất của Thiên Lương. Tuy nhiên, cuối cùng thì cái Hung cũng sẽ tiêu tán hết, nhưng độ biến hóa họa phúc của đời người quá lớn, cũng không phải là điều tốt.
Thiên Lương rất tốt nếu gặp Hóa Lộc, nhưng cũng tốt nếu là Hóa Khoa, lúc ấy sẽ cái mặt tốt đẹp lương thiện của Thiên Lương sẽ biểu hiện mạnh mẽ nhất. Nếu được Phụ Bật Xương Khúc cùng hội hợp thì lại càng có khả năng phát huy cái tình chất “ẤM” của Thiên Lương, càng về sau càng mạnh. Thiên Lương có khả năng tiêu tai giải khó, sở dĩ Thiên Lương cũng hay làm nên cái sự “tiêu tai” là bởi Thiên Lương chủ quý, nên có thể hóa khí thành khoa tinh.
Trong cách cục Thiên Lương – Hình Kỵ: Cái ánh sáng màu sắc của Thiên Lương Hình Kỵ thì ít, mà cái sự âm u của Thiên Lương Hình KỴ thì nhiều. Tại sao lại chiếu sáng?
Đại khái là nếu được Thái Dương miếu vượng chiếu rọi thì tỏa sáng, hoặc đắc khoa quyền hội lợp mà tỏa sáng (đương nhiên nếu lại được thêm Thái dương miếu vượng hòa cùng Khoa Quyền chiếu sáng nữa thì cực tốt). Thứ nhì là nếu gặp được Thái Âm thì cũng tốt nhưng trường hợp này Thiên Lương trở nên thâm trầm, nội liễm (thâu nhận vào bên trong). Nếu như những điều ở trên hoàn toàn không có, Thiên Lương trở nên lén lén lút lút, soi mói bắt bẻ, không hợp với người khác. Lúc này sẽ phát huy đầy đủ cái tính Hình của Thiên Lương.
Lời bàn: Dịch đến đây, mới thấy được Vương tiên sinh giải thích vì sao Thiên Lương lại hóa khí là Hình Tinh. Cũng là một ý kiến mới, khi ông cho rằng Thiên Lương có thêm tính chất Cương-Khắc-Cô-Kỵ. Nhưng trên thực tế, và theo các tài liệu, quan điểm khác thì dường như tính chất này không rõ ràng lắm, có phần mờ nhạt. Nhưng ở đây, Vương tiên sinh rất coi trọng cái cách Thiên Lương gặp Hình Kỵ, có lẽ đây là quan điểm riêng của ông, cũng là một điều cần chiêm nghiệm. Tất nhiên, là tính chất của Thiên Lương cũng như bất kể một sao nào, đều phụ thuộc vào cái sự miếu hãm của nó, chứ không hẳn chỉ có đắc cách như Vương tiên sinh nhận xét. Cái điều Vương tiên sinh luận rằng “tiên phá hậu lập” rất xuất sắc, bởi vì Lương là Ấm tinh, vốn là thừa hưởng của tiền nhân để lại, ở đời mấy ai giữ được, nếu không phải là nội lực tự cường. Việc Lương gây nên sự biến đổi họa phúc lớn của đời người, chưa hắn chỉ có thế, có lẽ cần xem xét thêm các điều kiện khác nữa chăng.
Thuộc âm kim, là ngôi thứ 5 của chòm Nam đẩu, là chiến tướng trên trời.Là kẻ xung phong hãm trận, giết giặc trên chiến trường, vì thế Thất sát mang theo tính chất cương khắc.
Thất sát không nên gặp Hình Kỵ vì sợ rằng quá cô khắc, nếu mà lại hội thêm sát tinh nữa, thì đời người càng thêm gian khổ.
Chế được cái tính cương khắc của Thất Sát, chỉ có Lộc tinh ở Tỵ (1), hội Hóa Lộc hay Lộc tồn đều tốt, có thể làm cho cái tính cương khắc của Thất sát hóa thành chuyên nghiệp, hoặc công nghệ, trong cái sự phân công rất tinh tế của xã hội hiện đại, người chuyên nghiệp cũng tương đương với khái niệm giầu có.
Ngoại trừ Lộc tinh ra, để chế hóa cái tính ác của Thất sát là Tử vi, gọi là “hóa sát vi quyền” (biết SÁT thành QUYỀN). Khi Thất sát và Tử vi cùng gặp nhau hoặc đối cung với nhau mà được quần thần cùng hội vào, lại tránh được sát tinh phá phách thì mới là hợp cách. Giống như Đại tướng nhận lệnh của Để tọa, khí khái phi phàm, nếu lại hội thêm được Lộc tinh thì phú quý khỏi phải bàn. Nếu có sát tinh trùng phá, thì khả năng là sẽ trở thành mệnh của một nhà công nghiệp.
Thất sát là tướng quân, trực tiếp nhận mệnh của hoàng đế xuất ngoại đánh trận, nhưng phía sau có quân quyền, hoàn toàn phụ thuộc vào chuyện quân lương mà thành sự, vì thế mà Thất sát rất cần gặp Lộc (rất tốt nếu gặp cả song Lộc). Mà Thất sát vốn là đại tướng nên ưa độc đoán độc hành, vì thế mà Tả Hữu Xương Khúc đối với Thất Sát cũng không quan trọng lắm. Cũng giống như Vũ Khúc, Khôi Việt tương đối quan trọng đối với Thất sát.
Thất sát cũng giống như Tham Lang, đều là chủ BIẾN, nhưng phúc độ của Sát lớn hơn Tham Lang vậy.
(1) Câu này hơi tối nghĩa, nguyên văn viết là “ Hóa Thất Sát đích cương khắc, duy Lộc tinh tỵ” – Chữ TỴ trong văn bản này là Chi Tỵ trong 12 địa chi, nhưng như thế không có nghĩa, ngờ rằng là nhầm với chứ TỴ nghĩa là TRÁNH ĐƯỢC.
Lời bàn: Đối với Thất Sát, điểm quan trọng là cái tính CƯƠNG KHẮC, Vương tiên sinh đã phân tích rằng “không nên gặp Hình Kỵ vì sợ quá cô khắc, nếu gặp thêm sát tinh thì đời người là càng thêm gian khổ”, lý luận của Vương tiên sinh rất sắc bén, cổ nhân đã có câu “Thất Sát – Thiên Hình, cương táo nhi cô”, trở nên cứng rắn, khô khan mà lại cô độc. Đương nhiên là cuộc đời sẽ vì thế mà kinh lịch gian tân. Tuy nhiên, cái sự lập luận ấy cần phải dựa trên tính lý của Sát mà luận, chứ chỉ căn cứ vào cái chuyện ví von Sát là chiến tướng mà phân tích, thì e rằng sẽ rơi vào chuyện suy diễn thường tình. Và cũng cần phải xem xét thêm luận điểm cho rằng Lộc tinh có thể giải trừ được cái tính cương khắc của Sát, điều này chưa hẳn đúng lắm, bởi Lộc tinh tuy có thể biến cái sự sát phạt của Thất sát thành tài phú, nhưng cái tính cương cường thì khó lòng vì thế mà mất đi được. Có thể trong xã hội hiện đại tiền bạc có thể đánh bóng con người, nhưng cái tính cương khắc của tinh diệu thì khó lòng cải biến được, cũng là điều cần suy ngẫm.
Phá quân thuộc dương Thủy, là sao thứ 7 trong chòm Bắc đầu. Tính chất “chiến tướng” tương tự như Thất sát nhưng khác làở chỗ: Thất sát là tướng mà Phá quân là tiên phong, do vậy Phá quân hóa khí là Hao.
Bởi Phá quân “năng công bất năng thủ”– hợp với thế tiến công hơn phòng thủ, nên Phá quân tọa mệnh so với Thất sát có tính “động” nhiều hơi. Dù cho hội được tử vi thì cũng không thể vì thế mà “hóa phá vi quyền”– Tử vi dụng Phá quân thành quyền tinh được, ngược lại tính động của Phá quân còn làm ảnh hưởng đến tính ổn định của Tử vi.
Phá quân gặp sát tinh mà không có cát tinh phù trợ, có thể bị hình thương trên thân thể.
Phá quân tốt nhất bản thân Hóa lộc, tốt nhì là hội được Lộc. Khi đó sẽ cải thiện bản tính động. Với Hóa quyền cũng có thể tương tự như trên nhưng không tốt bằng Hóa lộc.
Nếu được phụ tá tinh và cát tinh hội chiếu, tránh được sát tinh thì là tổ hợp tốt nhất cho Phá quân, khi đó Phá Quân có thể vừa “công”, vừa “thủ”, gặp vận đích thực là chiến tướng, cách cục này không phải nhỏ.
Phá Quân cũng là chiến tướng, nhưng so với Thất Sát thì kém một bậc, sở dĩ Thất Sát có thể thụ mệnh Hoàng Đế một cách đường đường chính chính, nhưng Phá Quân mà trực tiếp thụ mệnh Hoàng Đế liền có điểm không hợp, vì thế tổ hợp Tử Vi Phá Quân tốt đẹp khi tính chất ổn định của Tử Vi được duy trì.
Không có Lộc thì Phá quân như chiến tướng bị hao tổn, không có hậu phương, chung cuộc cũng bại hoặc bị hạ thấp. Chính thế nên muốn phòng trừ cái việc “chiến tướng bị hao tổn” thì quan trọng phải tậm trung tâm lực vào chỉ một việc. Phá Quân thủ mệnh không thể là người nhàn nhã, lắm ý niệm.
Lời bàn: Về Phá Quân thì cũng có nhiều quan điểm trái chiều nhau. Ở đây, có lẽ Vương tiên sinh quá coi trọng hình ảnh “chiến tướng” khi đem so sáng với Thất sát, nhưng có lẽ về bản chất thì Phá Quân khổng hẳn thê. Sở dĩ Tử vi không làm cho Phá hóa Quyền được là chính vì cái tính phản nghịch của nó. Khác với Thất Sát chỉ là “thừa hành chính lệnh”. Trong quan điểm của Vương tiên sinh thì cho rằng Phá Quân cần hội nhiều cát tinh mới quý, tuy nhiên cần phải xem xét trong trường hợp Văn tinh, vì Phú nói “Phá quân hội văn tinh nhất sinh bần sĩ”. Phá quân vốn là “nghi loạn bất nghi trị” hợp với thời loạn hơn là lúc yên ổn, có lẽ vì thế mà một số quan điểm cho rằng phải được sát tinh đắc cách phò trợ mới tốt, như Phá đắc Không Kiếp vậy. Tuy nhiên, theo quan điểm của một số nghiên cức thì thấy rằng, Phá đắc sát tinh, tuy có thể phấn phát nhất thời nhưng chắc chắn sẽ phải trả giá, cũng không phải là điều tốt. Như thế, có nghĩa là Phá thể hiện tính cô độc cực cao, chẳng hợp với nhóm nào. Cũng nên chiêm nghiệm.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Tranh Phong Thủy trước đây ít hoặc chưa từng xuất hiện ở Việt Nam, nhưng ở Trung Hoa, cái nôi của nghệ thuật Phong Thủy thì đã rất thịnh hành. Tranh Phong Thủy là một loại tranh được thiết kế đặc biệt cho ngành Phong Thủy. Bởi vì ngoài tác dụng trang trí, nó còn có tác dụng điều hòa sinh khí, mang lại tài lộc, sức khỏe, thịnh vượng cho căn nhà, đồng thời chấn tà khí, xua đuổi những điềm dữ, điềm hung. Sở hữu những bức tranh Phong Thủy trong nhà, gia chủ vừa cảm thấy an tâm để làm ăn, lại có thêm những tác phẩm nghệ thuật giúp ngôi nhà trở nên quyến rũ và hấp dẫn hơn.
Để hỗ trợ cho công việc, không ít doanh nhân đã lựa chọn những vật khí phong thủy - những vật được coi là mang lại tài lộc, thành công cho chủ nhân. Và những vật khí mà doanh nhân lựa chọn thường là chuông gió, con vật linh thiêng, pha lê, thủy tinh, thuyền vàng, rồng, tiền xu, tranh phong thủy, đá quý, Ngê, Kỳ Lân, Rùa, Cây tài cây lộc… Riêng với tranh phong thủy, với mỗi loại tranh về con vật khác nhau, lại mang trong mình một ý nghĩa khác nhau và công dụng riêng:
Ngựa: Ngựa là hình ảnh của sự kiên nhẫn, sự bền bỉ, lâu dài, sự may mắn và mang lại tài lộc. Với những nhà kinh doanh, họ thường chọn hình tượng con ngựa để trang trí trong nhà mình hay chính nơi làm việc. Theo phong thủy, biểu tượng này treo ở nơi làm việc có thể mang lại nguồn tài lộc, sự phát đạt trong kinh doanh, sự nhanh nhạy và thăng tiến tiền tài, khiến những công việc dự định sẽ nhanh chóng hoàn thành hơn dự kiến và đạt kết quả cao hơn mong muốn. Với nhà riêng tranh ngựa cũng dùng cho những người hay đi xa, giúp chuyến đi thành công tốt đẹp như ngạn ngữ "Mã Đáo Thành Công".
Vị trí gợi ý:
Nên treo tranh vẽ ngựa tại những vị trí đẹp trong nhà, hi vọng có được may mắn. Tốt nhất là treo tranh gần bàn làm việc nơi gần cửa sổ hoặc chỗ Tài Vị trong nhà.
LƯU Ý: tránh đặt tranh ngựa trong bếp, trong nhà tắm.
No1. Tuổi Tý
Xem bói trong 5 năm nữa, vận may về tiền bạc của những người cầm tinh con Chuột siêu vượng. Bản thân con giáp này lại rất đam mê chuyện kiếm tiền nên khó mà bỏ lỡ cơ hội này.
Đặc biệt, khả năng trúng thưởng bất ngờ của con giáp này rất cao, thậm chí họ có thể giàu sụ chỉ sau một đêm thôi đấy. Do đó, đôi khi bạn có thể thử vận may của mình bằng cách mua vé số, biết đâu điều đó sẽ mang lại số tiền kếch xù mà bạn có nằm mơ cũng không thấy.
No2. Tuổi Mão
Xem tử vi cuộc đời của những người cầm tinh con Mèo khá may mắn, đặc biệt về phương diện tiền bạc. Bạn thấy đấy, xung quanh mình không ít người tuổi Mão có thể giàu lên trông thấy chỉ sau một đêm thôi.
Dựa vào vận may trời ban cộng thêm với sự nỗ lực không mệt mỏi, việc có được cuộc sống giàu sang phú quý trong 5 năm nữa đối với họ chỉ là chuyện nhỏ mà thôi.
No3: Tuổi Ngọ
Khả năng kiếm tiền của người tuổi Ngọ cứ gọi là siêu việt. Đặc biệt là những người có đầu óc kinh doanh, buôn bán thì số lợi nhuận họ thu về nhiều theo cấp số nhân mỗi năm.
Do đó, cơ hội để họ làm chủ cuộc sống giàu có, dư giả tiền của sẽ tăng dần theo thời gian. Trong 5 năm nữa, chắc chắn con giáp này sẽ tạo nên tiếng vang lớn trong xã hội với khối tài sản khổng lồ của mình.
No4: Tuổi Dậu
Trong 5 năm tới, vận thế của người tuổi Dậu lên như diều gặp gió, lại xuất hiện quý nhân phù trợ nên mọi sự đều thành công rực rỡ. Hơn thế, với ý chí kiên định và nghị lực vươn lên trong cuộc sống, chắc chắn họ sẽ chinh phục được mọi mục tiêu đề ra.
Theo Boi.vn
![]() |
thôi miên |
Ngoài nhà hoặc đất bị ngã 3 đâm vào thường bị nhiều người chê là xấu, ngôi nhà đầu voi đuôi chuột cũng thường bị coi là xấu trong phong thủy và cả dân gian.
Về dân gian thì mọi người hay nói là nhà đầu voi đuôi chuột sẽ làm người ta làm ăn lụn bại vì khởi đầu thì hoành tráng (như con voi), đến về sau thì lại teo tóp, thu hẹp hoạt động lại (chẳng những từ con voi biến thành con chuột mà còn biến thành đuôi của con chuột mới ghê. Hic hic). Do đó những ngôi nhà đầu voi đuôi chuột thường giá cũng rẻ hơn. Có lẽ cũng từ tâm lý này mà người đi mua nhà, mua đất thích “đất nở hậu” tức là đầu chuột đuôi voi (ban đầu thì khởi nghiệp như con chuột và về sau thành công, to lớn như con voi; ai mà không ham).
Về phong thủy thì nói rằng, nhà đầu voi đuôi chuột không tốt cho hậu vận, tuổi thọ người già không cao và nguy cơ hô hấp sức khỏe cũng như bệnh tật nhiều.
Vậy thì tại sao nhà đầu voi đuôi chuột thì xấu?
– Trước tiên, nhìn theo khí động học, không khí, gió lưu chuyển từ ngoài cửa chính căn nhà đi vào, ban đầu vào theo tiết diện lớn (ví dụ nhà có chiều ngang phần trước sân rộng 4m) nhưng khi vào bên trong thì tiết diện lưu chuyển khí lại teo tóp dần dần đến cuối nhà là hẹp nhất (ví dụ nhà có chiều ngang phần sau đuôi nhà rộng 2m) thì khí sẽ lưu chuyển càng về cuối nhà càng gấp hơn, tốc độ nhanh hơn. Như chúng ta đã nói, khi cùng 1 lưu lượng khí di chuyển thì việc thay đổi đột ngột hoặc dần dần tiết diện lưu chuyển sẽ làm gia tăng tốc độ khí lưu chuyển. Lấy ví dụ như chúng ta việc chúng ta bóp nhỏ đầu ống nước thì dĩ nhiên nước phun ra sẽ mạnh và tốc độ dòng chảy nhanh hơn. Như vậy thì trong nhà khí lưu chuyển không phải với tốc độ đều đặn, thoải mái mà lúc vào thì bình thường, càng di chuyển về cuối nhà càng gia tăng tốc độ làm nhiễu loạn dòng khí trong nhà làm người trong nhà sinh hoạt, đi từ trước ra sau sẽ cảm thấy có gì đó không thoải mái dù vẫn không biết lý do là tại sao.
– Thứ 2, vẫn xét tiếp theo khí động học, một ngôi nhà tốt là phải có “đầu vào-đầu ra”, tức không khí phải lưu chuyển. Kỵ nhất là khí tù đọng. Như chúng ta để thử một ly nước uống. 5 phút sau chúng ta uống ngay ly nước đó thì không có gì xấu xảy ra. Nhưng nếu để sang 1 ngày sau, 5 ngày sau mà chúng ta uống ly nước đó vào bụng thì chắc chắn bị đau bụng. Nước vẫn là nước, không có ai đem pha thêm chất này kia vào, nhưng khi để tĩnh 1 thời gian đã biến chất. Sự việc này chúng ta thấy thường xuyên khi đi vào rừng, nếu người đi rừng có kinh nghiệm họ sẽ uống nước ở dòng suối đang chảy dù cho nhìn qua thấy có bụi bẩn, đất cát lẫn vào làm màu nước đục ngầu; còn người thiếu kinh nghiệm sẽ uống ngay vũng nước mưa trong vắt tinh khiết tù đọng lâu ngày ở dưới các gốc cây. Dĩ nhiên uống nước đang chảy thì không sao, còn uống nước tù đọng lâu ngày dĩ nhiên là “có sao trăng” liền. Việc này cũng giống như chúng ta mở cửa bước vào ngôi nhà không có người ở khoảng 1 tuần thì cảm nhận ngay sự ngột ngạt, hơi thở khó chịu. Người nằm 1 chỗ đọc sách xem phim cả ngày và người suốt ngày lao động chân tay ; đến cuối ngày thì thử hỏi xem ai mệt mỏi hơn? Tĩnh là xấu, động là tốt. Về căn nhà đầu voi đuôi chuột thì khí di chuyển từ ngoài đường vào sẽ không thoát ra được và bị tù đọng ở phần cuối ngôi nhà. Do đó ai đã từng đi vào tham quan ngôi nhà đầu voi đuôi chuột nếu đứng lâu ở phần đuôi sẽ thấy cảm giác ngột ngạt, khó chịu. Phần “đuôi chuột” lúc này đóng vai trò túi chứa khí tù đọng, ở phần này khí không lưu chuyển được.
– Thứ 3, thử quan sát xem cách kết cấu cấu trúc của một ngôi nhà bình thường. Thông thường từ ngoài cửa chính bước vào là phòng khách của nhà, phần giữa ngôi nhà thường được đặt phòng ngủ, phòng làm việc; còn phần cuối tức “cái đuôi chuột” thường bố trí bếp. Như vậy khu vực túi khí tù đọng mà lại được bố trí bếp thì thử hỏi, khói bếp có thoát ra bên ngoài được hay không hay lại bay lẩn quẩn trong nhà, làm người khác hít phải thêm CO2 sinh ra do không khí bị đốt cháy? Chưa kể, bếp là không gian chế biến thức ăn, đồ uống đảm bảo dinh dưỡng cho cả nhà; người ở trong bếp nấu ăn mà hít không khí tù đọng thì làm sao minh mẫn, sáng suốt mà chế biến món ăn dinh dưỡng; hít khí tù đọng và CO2 càng làm đầu óc mụ mị, người khó chịu nóng bức nên đem hết cảm giác bực bội vào trong đồ ăn thức uống gây độc thêm cho cả nhà khi ăn vào. Đó là chưa nói tới vai trò cực quan trọng của bếp trong phong thủy. Theo nhiều trường phái phong thủy bát trạch, dương cơ, thì bếp đóng vai trò rất quan trọng, tạo sinh khí, không khí ấm cúng cho cả căn nhà; dù hướng nhà có xấu thì vẫn dùng bếp để hóa giải được. Đem bếp đặt vào “cái đuôi con chuột” như vậy là không khôn ngoan rồi!
– Thứ 4, điểm này rất quan trọng, mong mọi người để ý kỹ. Như đã nói ở trên, phần đầu voi thường đặt phòng khách, phần giữa nhà thường đặt phòng ngủ, và bếp thường đặt ở đuôi chuột. Quan sát thói quen sinh hoạt của con người, ta sẽ thấy khi còn trẻ, thanh niên thì người ta thích ở phòng khách hơn vì có nhiều thứ giải trí vui chơi như xem TV, đọc sách, học hành…; khi ở giai đoạn trung niên, người ta thường thích nghỉ ngơi, ở trong phòng ngủ là vì giai đoạn này là giai đoạn tập trung kiếm tiền tốt nhất, sau một ngày đi làm mệt mỏi, cái người ta mê nhất là cái giường; và khi về già, người ta thích lụi cụi ở sau bếp, nhóm lửa nấu ăn, đun trà. Như vậy khi càng lớn tuổi thì người ta ở phần “đuôi chuột” hít khí tù đọng nhiều hơn; do đó dễ giảm tuổi thọ và đi theo ông bà sớm. Như vậy thì nhà đầu voi đuôi chuột tuy xấu nhưng không phải xấu với mọi lứa tuổi. Tuổi trẻ ở nhà này vẫn tốt vì họ sinh hoạt ở phần “đầu voi” nhiều hơn; còn càng về trung niên, tuổi cao thì nhà này rất xấu.
– Thứ 5, “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”. Khi sinh hoạt ở trong 1 không gian méo mó, không vuông vức thẳng thớm như vậy, về lâu dài những người này từ trong vô thức sẽ có cái nhìn lệch lạc về mọi vấn đề, hay bị ảo giác, tín hiệu thị giác truyền lên não làm cho não trạng đáng giá sự việc sự vật bị sai lệch.
Cách hóa giải: _ Để hóa giải thì cần nhận rõ nhà đầu voi đuôi chuột là nhà có chiều ngang phần đầu và phần đuôi khác biệt nhau nhiều (ví dụ: 4m và 3.5m.v.v..) chứ nếu chênh lệch vài cm thì có hề gì vì vốn không có căn nhà nào xây dựng mà “hoàn hảo từng cm” được. Để không cho người trong nhà bị lệch lạc góc nhìn, não bị sai lệch, ảo giác thì cần gắn gương tráng thủy phản chiếu ở tường bị hẹp. Để không cho khí tù đọng ở “đuôi chuột” thì phần này cần gắn quạt để thổi không khí lưu động, hướng ra ngoài để khí liên tục lưu chuyển. Động mới tốt, tĩnh không tốt.
Như trên đã nói về nhà đầu voi đuôi chuột, chúng ta đều hiểu tác hại của những ngôi nhà không vuông vức, nay Yeuphongthuy xin xét mở rộng thêm các nhà có hình dạng khác phổ biến ngoài xã hội mà trong quá trình đi xem nhà giúp gia chủ thường thấy (nhà hình tam giác, nhà tóp bụng, phình bụng, nhà hình thang, nhà hình L, nhà Zig Zag). Ông bà ta cũng như văn hóa Châu Á thường đề cao sự hài hòa, vuông vắn, tròn trịa chứ không thích hình dạng méo mó, nhô ra lệch vào hay không đối xứng.
Có lẽ ai khi mua đất, mua nhà cũng mong muốn ngôi nhà mình vuông vắn, dễ coi nhưng mà nhiều khi hầu bao và mong ước không cân bằng với nhau nên đành phải mua mảnh đất xấu, rồi thì vì muốn tranh thủ xây dựng cho hết diện tích đất để sử dụng chứ không nở bỏ phí diện tích đất nên hình dạng ngôi nhà nhìn từ trên xuống cũng méo mó đủ kiểu theo đúng hình dạng khu đất. Tuy nhiên cũng không loại trừ trường hợp nhiều gia đình khi mua mảnh đất rộng rất đẹp nhưng theo chỉ bảo của kiến trúc sư (vì muốn khuyến khích gia chủ xây nhà kiểu lạ, sáng tạo để hồ sơ kinh nghiệm của mình thêm phong phú) mà thành ra xây nhà méo mó đủ kiểu (thường gặp nhất là các ngôi nhà biệt thự vì đất rộng; chứ nhà phố thì thường chỉ có 1 kiểu hình chữ nhật thôi). Lưu ý ở phần này là chúng ta chỉ nhìn hình dạng căn nhà theo hình chụp từ trên cao xuống (giống như dùng vệ tinh chụp thẳng từ trên cao) chứ không xét góc nhìn từ mặt tiền hay các mặt hông, bên của ngôi nhà.
Người phụ nữ đẹp phương Tây phải hội đủ 27 tiêu chuẩn sau:
1-Ba thứ trắng: da, răng và đôi bàn tay.
2-Ba thứ đen: mắt, đôi mi và đôi mày.
3-Ba thứ hồng: môi, má và móng tay.
4-Ba thứ dài:, chân, tóc và tay.
5-Ba thứ ngắn: răng, tai và đôi bàn chân.
6-Ba thứ nở: ngực trán và mi mắt.
7-Ba thứ hẹp: miệng, eo và gót chân.
8-Ba thứ bụ bẩm: cánh tay, đùi và bắp chân.
9-Ba thứ nhỏ: núm vú, mũi và đầu.
Cái đẹp của phụ nữ dưới con mắt thẩm mỹ thế tục có những điểm tương đồng với nét đẹp nhân tướng học, nhưng về phương diện tướng pháp áp dụng các nguyên lý Âm Dương và Dịch học thì “trong Âm có Dương, trong Dương có Âm”, và “vật cùng tắc biến, vật cực tắc phản” (vật đến tận cùng thì biến đổi, khi đến cùng cực thì trở lại gốc cũ), thì trong cái đẹp (Dương) thường ẩn chứa cái xấu (Âm), chẳng hạn dung mạo xinh đẹp mà giọng nói khàn khàn như tiếng vịt đực, dáng mảnh mai mà đi đứng nặng nề như đàn ông,v.v… và cái đẹp cùng cực làm cho nhạn sa, cá lặn, trăng thẹn, hoa nhường của tứ đại mỹ nhân Trung Hoa cũng ẩn chứa những nét tướng xấu như bàn chân lớn (Tây Thi), ngực nhỏ (Chiêu Quân), tai nhỏ (Điêu Thuyền), mắt lộ ánh mắt yếu (Dương Quý Phi) làm cho cuộc đời của các mỹ nhân không toàn mỹ, như thế những nét đẹp mỹ nhân trên rõ ràng tương phản với các nét đẹp tướng pháp.
Một nét đẹp của mỹ nhân đi đến chỗ cùng cực trở thành tướng xấu điển hình là người con gái có da thịt mềm mại, êm như bông là tướng cách “tiện dâm”.
Thuý Kiều qua ngòi bút Nguyễn Du cũng có những nét đẹp và tài hoa phát tiết quá độ nên “tướng sĩ” đã nhìn ra được cái hồng nhan bạc phận của nàng từ thuở ấu thơ:
“Nhớ từ năm hãy thơ ngây,
Có người tướng sĩ đoán ngay một lời:
Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa. (Kiều).
Trong buổi giao thời giữa văn minh Âu Tây và văn hóa còn khép kín Á Đông các chàng trai Nam bộ đã nghiêng về nét đẹp tân thời trong mấy câu dân ca sau:
“Một yêu mặt trắng má tròn
Hai yêu môi mọng thoa son điểm hồng
Ba yêu mắt sáng mày cong
Bốn yêu mái tóc nực nồng nước hoa.
Năm yêu mảnh áo ngắn tà
Sáu yêu quần trắng là đà gót sen
Bảy yêu vóc liễu dịu mềm
Tám yêu giọng nói vừa hiền vừa vui
Chín yêu học thức hơn người
Mười yêu, yêu cả đức tài hình dong!”
Dĩ nhiên những nét tướng cân đối, sáng sủa, thùy mị, dịu dàng, đôn hậu, thơm tho thì cái nhìn thế tục và tướng học đều cùng một quan niệm.
Nói rõ hơn những nét tướng lành và đẹp của mỹ nhân Á Đông xưa nay được người đời công nhận gọi là chín tướng đẹp (cửu mỹ tướng) gồm:
1-Đầu tròn, trán phẳng, quang nhuận.
2-Xương thịt cân đối, thân hình thon mảnh, da dẻ mịn màng.
3-Da trắng, mặt trắng hơi hồng, môi hồng hào tươi tắn.
4-Mắt phụng, mày nguyệt (vành trăng non, lá liễu).
5-Ngón tay búp măng, lòng bàn tay dày.
6-Giọng nói êm dịu, rõ ràng, khoan thai.
7-Đi đứng ngay ngắn, khoan thai, ngồi thư thái, đoan chính.
8-Cười dịu dàng, đôn hậu, không ầm ĩ chát chúa, không lẳng lơ, không hở lợi.
9-Da thịt thơm tho tự nhiên.
Những tướng cách trên nói lên sức khoẻ tốt (điểm 1, 2, 3, 6, 9), tính nết tốt (điểm 6, 7, 8) và cả hoàn cảnh giáo dục gia đình tốt (6, 7, nếu lại có thêm một nền tản học vấn khá nhất định người phụ nữ sẽ trở thành vợ hiền, mẹ hiền, hỗ trợ tốt chồng con trên con đường công danh sự nghiệp, xây dựng gia đình hạnh phúc.
Ngoài ra cổ nhân còn đưa ra chín tướng xấu của phụ nữ gọi là cửu ác đối lập với cửu mỹ ở trên gồm:
1. Mặt xấu, hai gò má cao, hại chồng.
2. Yết hầu lộ, đem lại tai họa.
3. Đầu xù, mặt bẩn, thấp hèn.
4. Đi uốn éo như rắn bò, hoặc như chim sẻ nhảy, nghèo hèn.
5. Mày giao nhau áp sát gần mắt, cùng khốn.
6. Trên mũi có vết móc câu, khắc hại chồng.
7. Mắt tứ bạch (tròng trắng lộ ra bao 4 phía tròng đen), hung hãn vụng dại.
8. Giọng nói khàn đục như đàn ông, khắc sát phu.
9. Tóc xoăn xoắn ốc, nghèo hèn và khắc con cái.
Người xưa thường coi trọng cái đức của người đàn bà hơn cả “cái nết đánh chết cái đẹp”, có lẽ họ nhìn thấy bao nhiêu triều đại sụp đổ vì mỹ nhân, bao nhiêu gia đình tan nát vì kỹ nữ đến nổi nguyên lý "mỹ nhân thường tác kỹ” trở thành chân lý?
Vì thế về tướng lý phụ nữ chỉ có sắc đẹp không thôi thì không phải là quý tướng.
Ngày xưa các hồng nhan phần lớn thường rơi vào hoàn cảnh làm thiếp hoặc vợ lẽ, còn thời hiện đại phụ nữ được giải phóng thì các minh tinh màn bạc, siêu người mẫu thường nổi tiếng nhiều chồng, khi lấy chồng ít khi ở địa vị nguyên phối hay người vợ đầu. Trái lại những người phụ nữ ở vị trí nguyên phối thường không có sắc đẹp đến tuyệt điểm mà thường là những người có tướng cách tốt.
Theo các sách tướng cổ thì những nét tướng tốt ấy là:
-Ngũ nhạc đoan hậu, thần khí uy nghiêm, mắt đẹp thanh nhã không đẹp mê hoặc, hành động thông minh nhanh nhẹn như nước chảy, âm thanh êm mà trong sáng như ngọc rơi là tướng vương phi.
-Cốt khí lỗi lạc, ngũ nhạc đoan hậu, thần sắc ôn hòa là tướng phu nhân.
-Sắc khí của trán và mũi sáng sủa tươi nhuận. Sống mũi chạy dài nối với ấn đường gọi là mũi “thông thiên đình”, các bộ vị ngũ nhạc cân xứng là tướng cực cao sang.
-Mặt rồng, phần trước cổ như hình phượng là tướng hoàng hậu (ngày xưa). Thời nay, chính quyền phải chia sẻ quyền lực cho nhiều người, nhiều trung tâm, nên vợ nguyên thủ không nhất thiết có tướng cách tốt như hoàng hậu.
-Mặt tròn, ngũ quan lục phủ cân bằng, má ửng hồng, tóc dài đen bóng sẽ lấy chồng hiền và phú quý.
-Thân hình trên dưới đều đặn, mắt đen bóng thì thông minh. Mũi, lưỡng quyền cân xứng suốt đời phú quý phong lưu.
-Xương thịt tương xứng, tóc đen như lông quạ, trán rộng tròn bằng phẳng (không sẹo), xương gò má bằng phẳng rộng rãi sáng sủa, mũi thon, tai trắng và dầy, môi hồng răng trắng, tiếng nói như chim yến hót, lời lẽ ôn tồn, phong cách uy nghiêm là tướng sang quý.
-Mắt đen trắng phân minh, thần khí sáng sủa. Giận mà bình tĩnh, không dữ không tục, giọng trong trẻo như chuông vàng là tướng chồng sang con hiển đạt, sống đời quyền quý.
-Trán thẳng, góc trán chân tóc không khuyết hãm, mắt đẹp, phần thịt dưới mắt đầy, tai mọng tròn, hàm đầy, nhân trung dài, bàn tay mịn đỏ hồng, tính tình khoan hòa là tướng giàu có.
-Mặt chữ điền, sắc đen thân trắng (hoặc đen hơn thân mình), chân mày trăng non, răng đều như hạt lựu, ngón tay búp măng, lưng rộng bụng tròn, da thịt thơm tho thì vừa giàu vừa sang.
Tướng pháp tướng tốt ẩn bên trong bao giờ cũng hơn vẻ đẹp bề ngoài.
Phụ nữ “đào hoa diện” có sắc mặt phơn phớt hồng (màu hoa đào) và nét mặt thanh tú thường là sắc đẹp tuyệt mỹ, nhưng người xưa cho là tướng “hồng diện đa dâm” cũng tương tự như người đẹp càng lẳng lơ càng được quí ông cho là đẹp não nùng đều là tướng cách hạ tiện.
Những nét tướng ẩn bên trong gồm có:
1-Đầu vú đỏ tựa chu sa (chu sa là bột sulfit thủy ngân đỏ).
2-Rốn đỏ như chu sa.
3-Da trắng trẻo, bộ tóc đen mượt dài chấm đất, trên một thân hình người đẹp da trắng nhuận với đôi mắt thanh tú, gọi là cách “Rồng đen quấn cột ngọc” (Ô long quyển trụ), là tướng “vượng phu ích tử”. Sách tướng cho rằng người đàn ông dù thất bại cùng cực cũng vẫn phục hồi giàu sang nếu người vợ có tướng này.
4-Thân thể tự có hương thơm (không nước hoa). Đây là tướng cách gọi là “không dắt hoa lan mà tự có hương thơm” (bất đới lan chi tự hương).
Đời Thanh ở vùng Tân Cương có một bộ tộc Hồi giáo do thủ lãnh Hoắc Tập Chiêm cai quản. Vợ Hoắc là Hương Phi nhan sắc diễm lệ, đặc biệt toàn thân tiết ra hương thơm ngây ngất, cao quý. Vua Càn Long nghe tiếng, rất say mê liền sai hai đại tướng thống lãnh đại quân tấn công bộ tộc đó. Vua Càn Long ra lệnh tránh mọi sát hại, cướp phá và quan trọng nhất là phải bắt sống Hương Phi. Hoắc Tập Chiêm kháng cự nhưng bị phản trắc bắn chết. Quân Thanh bắt được Hương Phi về dâng lên Càn Long. Hương Phi chưa biết chồng đã bị giết nên nàng vẫn mong đợi để gặp mặt chồng. Càn Long rất chiều chuộng sủng ái Hương Phi, vui lòng chờ đợi cơ hội nàng nguôi ngoai và chấp nhận nhưng đã sáu tháng trường, nhà vua vẫn tuyện nhiên không gần gũi được nàng dù chỉ là chuyện nắm đôi tay.
Say mê vẻ quyến rũ, Càn Long thường thừa lúc Hương Phi không hay biết, đứng ngẩn ngơ nhìn ngắm nàng không biết chán. Một bữa, Hương Phi vừa tắm xong hương thơm sực nức làm ông cầm lòng không đặng xông vào chỗ nằm của nàng, bị Hương Phi cự tuyệt tàn nhẫn, Càn Long đành lủi thủi đi ra và nói cho nàng biết đừng chờ Hoắc Tập Chiêm nữa, hắn đã chết rồi. Hương Phi từ khi biết tin chồng, ngày đêm khóc lóc, Càn Long càng tìm cách chiều chuộng nhưng chẳng lay chuyển được nàng. Hoàng Thái Hậu biết được chuyện, lo sợ rối loạn hậu cung, đã cho người ám hại nàng, Càn Long nghe tin ngày đêm than tiếc (1).
Người có tướng “bất đới lan chi nhi tự hương” là người cao quí, tao nhã, kiên trinh, đoan chính.
Trường hợp của Hương Phi là sự “anh hoa phát tiết ra ngoài” nên “nghìn thu bạc mệnh…”, chứ không phải thân thể thơm tho là nét tướng xấu đem lại tai họa cho nàng.
5-Đai ngọc quấn quanh eo (ngọc đới yêu vi): tướng “vượng phu ích tử.
Đời Thanh, ở huyện Nam Hải có sĩ tử Hà Nghiêu Luân thi mãi không đậu, nản chí, một thầy tướng bảo Luân:
-Đến vận cưới vợ sẽ lấy người vợ vượng phu ích tử, rồi mới có thể gặp công danh.
Luân thuật chuyện với bạn. Bạn Luân lại là người nghiên cứu tướng học và địa lý nói:
-Năm trước tôi lên tìm huyệt trên núi có gặp một cô gái 17 tuổi, người đen đủi, con lão tiều phu nhưng có tướng mạo tốt, tôi để ý thấy khi cô ta cúi xuống bên lườn eo có một thớ thịt nổi lên bọc lấy bụng như cái đai ngọc. Anh lấy cô ta nên lắm.
Luân bằng lòng và nhờ mai mối cưới hỏi cô bé mẹ mất sớm ở với cha ấy tên là Âu Tiểu Muội làm vợ. Quả nhiên từ khi lấy vợ, Luân thi khoa nào đỗ khoa nấy, được bổ làm quan.
Về sau, Hà Nghiêu Luân theo Tăng Quốc Phiên dẹp loạn Hồng Tú Toàn lập nhiều chiến công được phong tướng. Vợ Luân sinh được 3 trai sau này đều đỗ tiến sĩ.
6- "Hai rồng nằm ấp mặt trăng” (song long nhiễu nguyệt) và “Tơ vàng chầu mặt trăng” (kim tuyến triều nguyệt).
Đời vua Quang Tự, Lương Văn Vĩ lúc vinh qui về làng lấy vợ nhờ người bạn rất thân là Trần Như Hải rất tinh thông tướng pháp tìm cho được người vừa đẹp vừa có phúc.
Nhiều nhà giầu sang nghe tin đều cậy mai mối muốn gả con gái cho Vĩ. Từng cô một đều bị Hải chê, người thì mệnh yểu, người thì bạc phước, chẳng bằng lòng ai cả. Hải cho rằng đàn bà trên thế gian vừa đẹp vừa có phúc hiếm lắm, từ xưa đến nay, hồng nhan thường bạc mệnh. Cuối cùng Hải đã tìm ra được một cô gái tướng cách tốt hiếm vì cô ta xấu xí và đương làm tì nữ ở nhà người cô họ của Vĩ, và Như Hải đoan quyết cô ta có một “ẩn tướng tốt” đó là có âm mao thật dài kéo ra đến đầu gối xoăn lại thành từng vòng tròn sách gọi là song long nhiễu nguyệt, là tướng “vượng phu ích tử”, nếu Vĩ chấp nhận thì bỏ tiền ra mua về sẽ rõ. Vĩ gật đầu, lập tức sai gia nhân sang nhà người cô họ.
Về sau Lương Văn Vĩ làm đến chức “thái sử hàn lâm” giàu sang có một dinh thự nguy nga và nghiêm mật ở huyện Tân Hội.
Còn tướng “Kim tuyến triều nguyệt” hay "Kim tuyến triều âm" là tướng bà Lã Hậu, vợ Hán Cao Tổ âm mao dài bảy thước (1 thước Tàu = 1 xích= 10 tấc = 0,23 m) óng ánh như tơ vàng.
Muốn xem được các ẩn tướng này phải là nhà tướng pháp ở mức độ thượng thừa ngày xưa, có lẽ những bí kíp này nay đã thất truyền.
Quan sát tướng mỹ nhân đặc biệt đôi mắt, mắt đẹp có hai dạng: đẹp “mị” và “tú”. Mị là nét đẹp mê hoặc còn tú là nét đẹp thanh nhã.
Theo tướng pháp thì mị là chiều chuộng, nũng nịu, vuốt ve, lẳng lơ còn tú là đoan trang, dịu dàng, trong sáng, hiền hòa, nhưng không kém phần hấp dẫn như đôi mắt người “Kỳ nữ” của thi sĩ Đinh Hùng:
“… Những buổi đó, ta nhìn em kinh ngạc,
Hồn mất dần trong cặp mắt lưu ly,
Ôi mắt xa khơi! Ôi mắt dị kỳ!
Ta trông đó thấy trời ta mơ ước.
Thấy cả một vầng đông thuở trước,
Cả con đường sao mọc lúc ta đi,
Cả chiều sương mây phủ lối ta về,
Khắp vũ trụ bỗng vô cùng thương nhớ.”…
Đàn ông thuộc Dương, đàn bà thuộc Âm nên đôi mắt đàn ông phải có thần quang tức ánh mắt có thần mạnh mẽ, ngược lại ánh mắt đàn bà phải hòa hoãn thuần tĩnh, kỵ mắt đàn bà lộ ánh mắt hung dữ khiến người đối diện phải sợ hãi, dấu hiệu của sự khắc sát chồng con, tai họa và cô độc suốt đời.
Nhưng người phụ nữ có ánh mắt yếu đuối, nhát sợ, khiến người ta thương hại thì nếu được yêu chuộng cũng không tránh khỏi bị đàn ông dụ dỗ hoặc phụ bạc.
Chỉ có đôi mắt hoà hoãn hiền thục, toát ra vẻ phúc hậu uy nghi mới được mọi người thân thiện, kính trọng và vị nể. Đây chính là những đặc tính của đôi mắt “tú”.
Tại sao có nhiều người phụ nữ rất đẹp lại làm nghề kỹ nữ, cũng như nhiều minh tinh màn bạc, nhiều người mẫu thời trang nổi tiếng xinh đẹp (không phải nhờ vào mỹ phẩm và thời trang che lấp những khiếm khuyết trên thân thể) lại có cuộc tình sóng gió và cuộc đời bất hạnh?
Đây là trường hợp mà Tướng học cổ thường nói tới là cách cục “thanh trung hữu trọc” (trong cái đẹp có cái xấu). Sau đây là những phá tướng thường gặp ở các mỹ nhân:
1-Vóc dáng xinh đẹp mà thiếu nét uy nghi:
-Mặt đẹp mà tay chân thô kệch.
-Hai gò má quá thấp.
-Môi nhỏ, mỏng.
-Da mặt trắng trẻo mà da cổ, tay chân đen sì.
-Da tuy trắng nhưng quá khô.
-Eo thon mà bụng dưới sệ, rốn thô.
2-Vóc dáng đẹp mà có nét nam tính, hình khắc:
-Mũi to cao quá độ.
-Có lông măng đậm như ria mép.
-Đôi vai quá to, dầy quá mức.
-Chân to hoặc chân cong, tay cong.
-Dáng dấp cứng.
-Ngực ưỡn.
-Môi mỏng miệng rộng.
-Giọng nói đục rè, giọng khàn khàn như giọng đàn ông.
-Hai gò má quá cao (khắc chồng).
3-Lòng không chính:
-Đôi mắt không nhìn thẳng, đong đưa hoặc liếc xéo.
-Ngồi không ngay thẳng, mới tới nơi đã ngồi bịch xuống.
-Cười miệng không cân phân và hở lợi, tiếng cười thô kệch.
-Tiếng cười nghe thô kệch.
-Hay nói bậy, nói xấu người khác.
-Ăn nói không rõ ràng, các âm dính vào nhau.
-Trí kém.
Ngoài ra còn nhiều nét tướng nữa ảnh hưởng đến tướng cách của một mỹ nhân làm thay đổi hoàn toàn số phận họ vì con người là tổng hòa của quá nhiều mối quan hệ, đòi hỏi một cái đẹp hoàn hảo là điều “bất khả” nên người con trai vùng sông nước Nam bộ có cái nhìn thực tế hơn về “người yêu trong mộng” trong mấy câu hát sau đây:
“Một thương em giỏi bán buôn,
Hai thương mái tóc cài gương trên đầu,
Ba thương cặp mắt bồ câu,
Bốn thương môi mỏng, má bầu xinh xinh,
Năm thương giọng nói hữu tình,
Sáu thương trán rộng, thượng đình em cao,
Bảy thương vóc liễu má đào,
Tám thương da trắng hồng hào dễ ưa,
Chín thương sóng mũi dọc dừa.
Mười thương em đẹp mà chưa có chồng”.
TƯỚNG CÁCH VỀ PHẨM HẠNH CỦA MỸ NHÂN
Em về cắt rạ đánh tranh,
Đốn tre chẻ lạt cho anh lợp nhà,
Sớm khuya hòa thuận đôi ta,
Hơn ai gác tía, lầu hoa một mình
Ca dao
Trong xã hội bùng nổ thông tin hiện đại sự giao tiếp cũng rộng mở, nếu chúng ta biết được một số dấu hiệu tướng học của người đối diện, sẽ dễ dàng phòng ngừa và giải quyết mâu thuẩn, giúp đỡ được mọi người trong cộng đồng. Có thể xác định tính cách của mỹ nhân nếu quan sát và ghi nhận được những nét tướng sau đây:
1) Những nét tướng phản ánh tính cách tốt:
-Sắc mặt vàng đỏ như ráng chiều là có mừng lớn, như mặt trời mới mọc thì vận tốt tới, sắc mặt vàng pha hồng thì mọi việc thuận lợi.
-Bước đi ẩn trọng, đoan trang, người nặng mà chân bước nhẹ nhàng như chiếc thuyền chở nặng xuôi theo dòng nước dễ dàng, là tướng sang cả.
-Ngồi chắc như núi, không cựa quậy, ngó ngoáy, khi đứng lên nhẹ nhàng không uể oải. Ngồi càng lâu tinh thần càng sáng suốt đều là tướng phú quý.
-Ăn chẩm rãi thì phức lộc, ăn ít mà mập là khoan hậu.
2) Những nét tướng phản ánh tính cách xấu:
-Ánh mắt hay liếc ngang (lườm), liếc xéo (nguýt), dù ăn nói lưu loát và dẻo cũng cần đề phòng tính tham.
Mẹ em tham thúng xôi dền
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng.
Em đã bảo mẹ rằng đừng
Mẹ hấm (lườm) mẹ hứ (nguýt) mẹ bưng ngay vào,
Bây giờ chồng thấp vợ cao.
Như đôi đũa lệch so sao cho bằng.( Ca dao).
-Khuôn mặt, môi miệng, mũi có vẻ phúc hậu nhưng khoằm nhọn hoắt (mũi chim ưng) tính gian tham, độc ác.
-Người đẹp đẽ mà da thịt lạnh là tướng dâm.
-Cười hở lợi , tính nết không trung thực.
-Đi thường co quắp, lệch lẹo do thiếu khí lực ở xương sống tính hạ tiện; Đi mỗi bước lại cúi đầu xuống thì gian tham. Đi vặn vẹo mình rắn gọi là xà hành, tính độc và nghèo hèn. Đi như chim sẻ nhảy (tước dược) thân phận cay đắng. Đi đầu ở trước chân, ăn hàng hoang phí.
-Ngồi chưa ấm chỗ đã nghiêng nghiêng ngả ngả thì đa dâm và nghèo khổ. Ngồi mà thiếu vẻ cung kính là bất cẩn. Ngồi rung đầu gối là hiếu dâm.
-Ngồi đứng rũ rượi là thần khí đã thoát, sắp chết.
-Vừa ngồi xuống đã thở dài là tướng chia cách chồng hoặc bỏ chồng theo trai. Ông bà ta thường nhắc:
“Ngồi buồn vuốt bụng thở dài,
Nhớ chồng thì ít nhớ trai thì nhiều”.
-Người đẹp mà vừa ngồi xuống đã nói huyên thuyên, hoặc hay chê bai, nói xấu, ác khẩu đều là hạng ganh tị, đố kỵ, không muốn ai hơn mình.
“Ngồi buồn dở ruốc nhau ra
Ruốc ông thì thối, ruốc bà chẳng thơm”. Ca dao
-Ăn vội vả mà ngửa đầu lên là người ngang ngạnh, vừa ngậm đồ ăn vừa nói hoặc ăn uống phát tiếng kêu xì xụp là tướng bần tiện. Ăn mà đổ tung toé là nghèo khổ gian nan. Ăn nhiều mà gầy ốm tính cách lông bông.
-Ngẩng đầu lên thấy toàn sắc xanh, đen thì làm việc gì cũng thất bại. Mặt đen sạm lại là gặp vận bĩ.
A-TƯỚNG CÁCH TỐT
I-TƯỚNG PHÚ QUÝ
Trong xã hội nông nghiệp các nước Á Đông, cuộc đời người phụ nữ được xem phụ thuộc vào số phận người chồng, nên trong tướng pháp xem thành đạt của chồng con là một phần lớn phú quý của người phụ nữ, thậm chí người con gái giống cha được cho là tướng tốt như trong câu ca dao sau đây ông bà ta đã có kinh nghiệm:
Con gái giống cha giàu ba họ,
Con trai giống mẹ tệ ba đời.
Qua chiêm nghiệm một số người thân, chúng tôi nhận thấy nhận xét này cũng có phần đúng.
Theo các sách tướng cổ thì người phụ nữ có những nét tướng sau (càng nhiều càng tốt) là tướng phú quý.
1-Tóc đen óng chuốt, sáng, chân mày thanh có thần khí.
Người phụ nữ da trắng trẻo, bộ tóc dài chấm đất, đen mượt gọi là cách “Rồng đen quấn cột ngọc” (Ô long quyển trụ) là tướng rất giàu có.
2-Trán tròn không thấp không cao, cổ dài.
3-Mặt đầy đặn, tròn như trăng rằm, quyền, trán không lộ, sắc hồng nhuận, sung sướng đến già.
4-Mắt đen trắng phân minh, cái nhìn sáng sủa, bình tĩnh, ngay thẳng và mạnh mẽ nhưng hiền hòa, khiến người đối diện phải kính nể.
5-Sống mũi thẳng và dài, ngay ngắn, cánh mũi cân xứng đầy đặn. Mũi phối hợp với lưỡng quyền thành một khối vững vàng.
6-Mang tai nảy nở, nhưng không bạnh ra phía sau.
7-Nhân trung dài, ngay ngắn, rõ ràng.
8-Miệng nhỏ, môi hơi dày và có sắc hồng tự nhiên,
9-Cằm tròn, đầy và vững vàng.
10-Tay đầy đặn, hồng hào.
11-Eo tròn, bụng tròn, lưng dầy là thân hình phúc lộc.
12-Thân thể có mùi thơm tự nhiên.
13-Ngồi chắc như núi, dung nghi đẹp đẽ.
14-Tướng đi chẫm rãi, khoan thai.
15-Tiếng nói âm hưởng trong trẻo, hơi dài.
16-Ngón tay thon, thẳng, chỉ tay mịn và rõ.
II-TƯỚNG VƯỢNG PHU ÍCH TỬ
Ý nghĩa vượng phu ích tử là nói về mặt mạng vận gia đình dù về nhà chồng với hai bàn tay trắng, hoặc cả hai khởi nghiệp còn nghèo, nhưng người phụ nữ sẽ mang lại nhiều may mắn, thành đạt cho chồng về sự nghiệp và đường con cái. Người phụ nữ vượng phu ích tử cần có những nét tướng đặc biệt sau:
1-Thân hình trên dưới đều đặn, xương thịt tương xứng.
2-Ngũ quan, lục phủ cân xứng dễ nhìn.
3-Mặt tròn, đầy đặn, xinh xắn. Tóc đen, đôi má ửng hồng, da dẻ trắng hồng tươi nhuận (trắng có pha chút hồng và vàng). Tiếng nói thanh như chuông vàng và từ tốn. Thúy Vân thuộc mẫu người “vượng phu ích tử” được Nguyễn Du mô tả có các nét tướng này:
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang,
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da…”
Xem tướng gương mặt phụ nữ đầy đặn phúc hậu chủ yếu ở nét cân phân, trong trường hợp người gầy thì khuôn mặt không tròn đầy được nhưng cần xương hai gò má không lộ, mặt mũi không hốc hác là tốt rồi.
4-Mắt dài, đen trắng phân minh, sáng sủa, phối hợp với chân mày thanh tú. Ánh mắt trong sáng, nhìn chính trực.
5-Mũi ngay ngắn thuộc loại mật treo (huyền đỡm tỵ) hoặc dọc dừa, tỵ lương và chuẩn đầu và tỵ lương sáng sủa, phối hợp với lưỡng quyền cân xứng vừa vặn.
6-Tai trắng và dầy, trán rộng và tròn trịa.
7- Lúc giận không dữ dằn, thô tục, lời lẽ ôn tồn.
8- Răng trắng và đều, cười tươi không lộ chân răng.
9- Bàn tay mịn đỏ hồng, ngón tay búp măng, lòng bàn
tay dầy và ấm, chỉ tay mịn và rõ. Ở cổ và lòng bàn chân có nốt ruồi.
10-Rốn hoặc khu vực dưới rốn có nốt ruồi son và xung quanh khu vực bụng có thịt nổi như một vành đai là tước cách sinh quý tử bất kể diện mạo đẹp hau xấu.
11- Xương lẳn, da nhuận.
12-Đi đứng khoan thai, vững vàng, nằm ngồi đoan chính.
III-TƯỚNG CAO QUÝ
Người phụ nữ cao quý diện mạo không hẳn xinh đẹp, đôi khi còn dưới mức trung bình, nhưng hầu hết đều toát ra vẻ sang trọng quý phái.
Các sách tướng đã đức két một số nét tướng phụ nữ cao quý như sau.
1-Tóc tốt đẹp: đen mịn, dài, mượt óng ả, không gẫy khúc cong queo. Tóc không xâm phạm vào trán làm hẹp trán.
Đàn bà tốt tóc thì sang.
Đàn ông tốt tóc tổ mang nặng đầu….
…Chồng yêu cái tóc nên dài,
Cái duyên nên đẹp, cái tài nên khôn. (Ca dao).
2-Trán tròn, cao trung bình, sáng sủa không có vết sẹo, văn vết.
3-Chân mày dài, thanh nhã có thần khí.
4-Ánh mắt sáng sủa, ngay thẳng và mạnh mẽ.
“Những người con mắt có ngời,
Mày dài quá mắt miệng cười có duyên,
Cả đời sung sướng như tiên,
Có chồng có lộc có quyền giàu sang. (Ma Y TTDC).
5-Vành tai đầy đặn và hơi hồng, dái to lớn và trắng hơn da mặt.
6-Mũi thẳng và lưỡng quyền không cao không thấp phối hợp cân xứng với mũi.
7- Cổ dài, tròn, da mịn.
8-Mặt cân xứng về xương và thịt, miệng nhỏ, môi hồng, răng trắng và đều, ngay ngắn, không lộ, không úp vào trong.
9-Giọng nói trong và ấm, giọng điệu thong thả nghiêm trang.
10-Ngón tay thon và thẳng, chỉ tay mịn và rõ.
11-Ngồi ngay ngắn, chắc như núi, nhưng đứng dậy nhẹ nhàng không uể oải, dung nghi nghiêm trang.
12-Đi đứng khoan thai, không uốn éo như rắn bò. Lối đi catwalk trên sàn diễn là theo phong cách phương Tây chỉ áp dụng để trình bày thời trang, không phải lối đi đứng đời thường.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Trong Tử vi sao Thái dương chủ về cha, chồng, do đó Thái dương ở miếu vượng chủ về người cha tốt, chồng tài, sự nghiệp thuận lợi, nhiều phúc khí, vợ hiền thục, có bất động sản.
-Sao Thái dương đóng tại Tý trong tử vi là mệnh lao lực, giàu tình cảm. Nếu cung Tử nữ cát lợi chủ về có quý tử, nên sớm rời xa quê nhà đến nơi khác phát triển, mệnh nữ nên làm vợ lẽ, mệnh nam dễ phạm đào hoa. Nếu chỗ Mùi không có sát tinh chủ về thất bại ít mà thành công nhiều. Nếu có sát tinh khó tránh gặp tai nạn xe, cơ thể gặp thương tổn, mắc bệnh lao, ung thư lại khó tránh họa kiện tụng tù ngục.
-Thái dương tại Sửu cóThái âm đồng cung, tính tình dễ thay đổi, cảm xúc bất định, lúc vui lúc buồn, lúc vui vẻ lúc u sầu, không dễ nắm bắt. Mệnh phạm đào hoa, sự nghiệp và tình cảm có trắc trở.
-Thái dương tại Dần chủ về có chí khí, có hoài bão, trước nghèo sau giàu, có nghề nghiệp chuyên sâu làm kế sinh nhai, có bất động sản, đa tài đa nghệ.
-Thái dương tại Mão chủ về tưống mạo đẹp, tấm lòng rộng mở, đa tài đa nghệ, có thanh danh tiền tài, có bất động sản, mẹ mẫu mực, kỵ uống rượu say. Mệnh nữ đoan chính, sớm lấy được chồng tài giỏi.
-Thái dương tại Thìn trong tử vi chủ về mệnh sinh ra trong gia đình danh giá, sớm được như mong muốn, thanh danh vang xa, có vợ hiền thảo, nhiều bất động sản, làm việc trở sau bình an. Mệnh nữ biết quản lý việc gia đình, cá tính đoan chính, sớm cưới chồng hiền, nên làm vợ lẽ, sau khi kết hôn không nên sống cùng mẹ chồng.Chỗ Hợi không nên có Dương nhẫn, Đà la, phạm Bạch hổ đề phòng phạm việc liên quan đến pháp luật, mệnh nữ lưu lạc phong trần.
-Thái dương tại Tỵ là ngưòi chí hướng cao xa, thích nổi trội, trước nghèo sau giàu. Chỗ Tuất có Hỏa tinh, Linh tinh tọa thủ chủ về có tài làm tướng, không sang thì giàu. Ngưòi sinh năm Ất dễ qua đời vì ung thư gan, mệnh nữ đoan trang sớm gả cho chồng hiền.Chỗ Hợi nếu có Dương nhẫn, Đà la tọa thủ chủ về tình cảm nhiều trắc trở (nam nữ cùng luận như nhau).
-Thái dương tại Ngọ là tượng mặt trời giữa trưa, chủ về ý chí cao xa, phúc lộc nhiều, nên sớm rời xa quê nhà, mệnh nữ nên làm vợ lẽ. Chỗ Dậu có Địa không, Địa kiếp nên hiến thân cho tôn giáo. Chỗ Sửu có sát tinh khó tránh gặp tai nạn xe, cơ thể gặp thương tổn, bệnh tật lại khó tránh họa lao ngục kiện tụng. Coi trọng đời sống tinh thần hơn đời sông vật chất, thích tĩnh lặng, giác quan thứ 6 nhạy bén, có thể học xem mệnh.
- Thái dương tại Mùi, nhật nguyệt cùng sáng, là người hào hiệp, tuy nhiên gia đạo dễ suy bại. Ngưòi sinh năm Đinh, năm Kỷ chủ về người ly tán, tiền tài hao tổn lại dễ mắc bệnh gan. Người sinh năm Quý dễ qua đời vì bệnh gan.
-Thái dương tại Thân là người học rộng, năng lực tốt, tuy nhiên quá trình làm việc nhiều trắc trở, cá tính trước chăm sau lười. Mệnh nam phạm đào hoa, mệnh nữ nên làm vợ lẽ. Nên học về xem mệnh, triết học, y học, máy tính.
-Thái dương tại Dậu trong tử vi là người làm việc có đầu không có cuối, có tài không gặp thời, phạm đào hoa. Thêm sát tinh dễ phạm việc liên quan đến pháp luật. Chỗ Tỵ có sát tinh dễ vì tình cảm mà ảnh hưởng đến công việc, cơ thể bị thương, kỵ uống rượu, không nên kinh doanh ngành chăn nuôi.
-Thái dương tại Tuất khó cầu danh, chỉ có cát tinh đồng cung mới có thể giàu. Là mệnh lao lực, người sinh năm Tân có thể qua đời vì ung thư gan, có tật ở mắt lại dễ phạm đào hoa. Chỗ Thìn có sát tinh là mệnh đam mê tửu sắc, đoản mệnh, cơ thế gặp thương tổn. Mệnh nữ gặp người không tốt, đa phần không biết quản lý gia đình, nên làm vợ lẽ, sau khi kết hôn không nên sống cùng mẹ chồng. Chỗ Dậu có sát tinh thường cơ thể dễ gặp thương tổn, chỗ Tỵ có sát tinh chủ về mệnh nữ lưu lạc phong trần.
-Thái dương tại Hợi ưa gặp Thiên mã, Lộc tồn, hóa lộc, Tam thai, Bát tòa, Văn xương, Tả phù, Hữu bật.
-Thái dương tại Mệnh đều chủ về duyên bạc với cha. Tại miếu vượng vì trợ lực của cha mà đội trời đạp đất, ở chỗ hãm là mệnh lao lực, cha mẹ không giúp đỡ. Mệnh nữ chủ về gặp ngưòi không tốt.
-Thái dương thêm sát tinh chủ về mắt bị thương lại chủ về cha cố chấp, chồng bảo thủ. Thái dương lạc hãm gặp Thiên hình chủ về phạm việc liên quan đến pháp luật. Thái dương đồng cung với Văn xương có thể học xem mệnh.
Phương Vị: Bắc Đẩu TinhHành: ThổLoại: Quý TinhĐặc Tính: Quyền Tước, Tài Lộc, Phúc Thọ
Ý Nghĩa Lộc Tồn Ở Cung Mệnh
Tính Tình
Người thông minh, học rộng, có tài tổ chức, sáng kiến, đứng đắn, tính nhân hậu, từ thiện.
Công Danh Tài Lộc
Lộc Tồn là sao phú, chủ sự dư về tiền bạc. Ý nghĩa công danh chỉ là thứ yếu. Sự giàu có thường do hai nguyên nhân:
![]() |
Tuổi Mậu Thìn (1988)
- Ngày, giờ nên tránh: Mậu Thìn, Mậu Tuất, Giáp Thìn
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Giáp Tuất
Tuổi Canh Thìn (1940, 2000)
- Ngày, giờ nên tránh: Canh Thìn, Canh Tuất, Bính Thìn
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Bính Tuất
Tuổi Nhâm Thìn (1952)
- Ngày, giờ nên tránh: Nhâm Thìn, Nhâm Tuất, Mậu Thìn
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Mậu Tuất
Tuổi Giáp Thìn (1964)
- Ngày, giờ nên tránh: Giáp Thìn, Giáp Tuất, Canh Thìn
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Canh Tuất
Tuổi Bính Thìn (1976)
- Ngày, giờ nên tránh: Bính Thìn, Bính Tuất, Nhâm Thìn
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Nhâm Tuất.
Theo Đời người qua 12 con giáp
![]() |
Tóm tắt các ý chính của các nạp âm tác động với nhau gây lên tốt và xấu
(Qua một số sách mà các cổ nhân để lại)
1 – Giáp Tý, Ất Sửu – Kim đáy biển : ?
2 – Bính Dần, Đinh Mão - Lửa trong lò : ?
3 - Mậu Thìn, Kỷ Tị - Gỗ rừng xanh : ?
4 – Canh Ngọ, Tân Mùi - Đất ven đường : Gặp gỗ rừng là mệnh quý. Gặp Kim là mệnh phú quý.
5 – Nhâm Thân, Quý Dậu – Kim lưỡi kiếm : Chỉ sợ lửa trong lò và lửa sấm sét
6 – Giáp Tuất, Ất Hợi - Lửa đỉnh núi : Là mệnh quý hiển nếu có thêm Mộc và Hỏa. Sợ Thủy nhất là gặp nước biển tương khắc thì hung thần tới nơi.
7 – Bính Tý, Đinh Sửu - Nước khe núi : Gặp Kim rất tốt, nhất là kim trong cát và kim lưỡi kiếm. Mệnh gặp nước suối cực quý. Sợ Thổ và Hỏa.
8 - Mậu Dần, Kỷ Mão - Đất trên tường : Gặp Thủy và Thổ là quý hiển trừ nước biển và lửa sấm sét.
9 – Canh Thìn, Tân Tị - Kim giá đèn : Thích Hỏa nhất là Ất Tị, thích Thủy nhất là Ất Dậu, Quý Tị, đó là các mệnh quý. Sợ Mộc khắc trừ khi gặp Hỏa yếu (chắc là lửa của ngọn đèn).
10 – Nhâm Ngọ, Quý Mùi - Gỗ liễu : Nó , thích Thủy và gặp đất mái nhà là tốt trừ nước biển. Nó gặp gỗ lựu cực xấu và gặp Hỏa dễ chết yểu.
11 – Giáp Thân, Ất Dậu - Nước ngầm : Gặp Kim trong cát hay Kim trang sức rất tốt, gặp Thủy và Mộc cũng tốt. Nếu trụ năm giờ đều có Thủy và tháng ngày đều có Mộc là mệnh cực quý.
12 – Bính Tuất, Đinh Hợi - Đất mái nhà : Cần có Mộc làm khung và Kim trang hoàng cực quý, Kim quý nhất là nhũ kim và kim lưỡi kiếm.Sợ gặp Hỏa trừ lửa mặt trời lại là mệnh phú quý.
13 - Mậu Tý, Kỷ Sửu - Lửa sấm sét : Gặp Thổ, Thủy hay Mộc có thể tốt hoặc không có hại.
14 – Canh Dần, Tân Mão - Gỗ tùng : Sợ lửa lò, nước biển. Gặp Kim đại quý .Trụ tháng ngày và giờ đều có Nhâm, Quý, Hợi và Tý là mệnh cực quý.
15 – Nhâm Thìn, Quý Tị - Nước sông : Gặp Kim là tốt gặp Thủy là xấu (dễ vỡ đê). Gặp đất mái nhà hay đất trên tường khó tránh khỏi tai họa cần có Kim để giải cứu. Gặp lửa đèn, lửa trên núi cực quý ngoài ra đều xấu.
16 – Giáp Ngọ, Ất Mùi – Kim trong cát : Nó là mệnh thiếu niên phú quý nếu gặp lửa trên núi, lửa dưới núi hay lửa đèn (để luyện nó thành vật dụng) nhưng nó cần gặp Mộc (để kiềm chế nếu Kim quá vượng) và Thủy như nước khe núi, nước suối và nước mưa (để khống chế Hỏa nếu Hỏa vượng). Nó sợ nước sông, nước biển, đất ven đường, đất dịch chuyển và cát trong đất (bởi vì nó dễ bị vùi chôn).
17 – Bính Thân, Đinh Dậu - Lửa dưới núi : Gặp Thổ và Mộc rất tốt, không thích lửa mặt trời, lửa sấm sét và lửa đèn.
18 - Mậu Tuất, Kỷ Hợi - Gỗ đồng bằng : Sợ nhất gặp kim lưỡi kiếm, thích Thủy, Thổ và Mộc. Sinh mùa Đông trong mệnh lại gặp Dần và Mão là mệnh quý.
19 – Canh Tý , Tân Sửu - Đất trên tường : Có Mộc là mệnh quý, gặp Thủy cũng quý trừ nước biển. Kim chỉ thích nhũ kim. Sợ Hỏa sẽ cháy nhà (vì tường này là tường của nhà được làm bằng rơm với đất bùn).
20 – Nhâm Dần, Quý Mão – Nhũ kim : Gặp đất trên thành, đất trên tường mới tốt như gặp Mậu Dần, riêng Quý Mão gặp Kỷ Mão đều là mệnh quý hiển.
21 – Giáp Thìn, Ất Tị - Lửa đèn : Nó là mệnh rất quý nếu nó gặp Mộc và Thủy như nước ngầm, nước khe núi và nước sông (dầu để thắp đèn) hay Kim lưỡi kiếm. Nó sợ gặp lửa mặt trời (đèn là vô dụng), lửa sấm sét (làm tắt đèn) và đất trừ đất mái nhà.
22 – Bính Ngọ, Đinh Mùi - Nước mưa : Sợ đất trên tường, đất mái nhà, đất trên thành, đất ven đường và đất dịch chuyển.
23 - Mậu Thân, Kỷ Dậu - Đất dịch chuyển : Nó thích nước tĩnh như nước ngầm, nước mưa và nước sông. Nó sợ nước biển, lửa trên núi và lửa dưới núi, gặp lửa sấm sét phải dùng Thủy để hóa giải lại là mệnh quý.
24 – Canh Tuất, Tân Hợi – Kim trang sức : Nó sợ gặp Hỏa, gặp Thủy cũng quý trừ nước biển, nó thích cát trong đất.
25 – Nhâm Tý, Quý Sửu - Gỗ dâu : Gặp cát trong đất, đất ven đường, đất dịch chuyển, nước ngầm, nước khe núi, nước sông đều tốt. Gặp gỗ tùng, gỗ liễu, gỗ rừng xanh đều quý. Sợ gỗ đồng bằng và gỗ lựu.
26 – Giáp Dần, Ất Mão - Nước suối : Gặp Kim rất tốt. Sợ gặp Thổ và Mộc trừ gỗ cây dâu là mệnh cực quý.
27 – Bính Thìn, Đinh Tị - Cát trong đất : Gặp Kim và Thủy là quý cũng như lửa mặt trời, gỗ dâu, liễu, ngoài ra các loại Mộc, Hỏa khác đều không tốt.
28 - Mậu Ngọ, Kỷ Mùi - Lửa mặt trời : Thích gặp Thủy, Mộc và Kim. Chỉ thích lửa đèn còn các loại lửa khác đều tương khắc. Thích gặp Thổ có thêm Kim và Mộc là mệnh quý. Lửa mặt trời đơn độc với Thủy là xấu.
29 – Canh Thân, Tân Dậu - Gỗ lựu : Gặp Thổ, Thủy, Mộc, Kim có thể thành tốt trừ nước biển sẽ bần cùng bệnh tật. Lửa mặt trời và lửa sấm sét có thể tốt nhưng cũng có thể xấu. Sinh tháng, năm, ngày hoặc giờ có Hỏa hoặc gặp gỗ liễu là mệnh quý.
30 – Nhâm Tuất, Quý Hợi - Nước biển : Gặp các loại nước cực tốt, nhất là Nhâm Thìn cực phú quý. Thích lửa mặt trời, kim đáy biển, gỗ dâu, gỗ liễu, đất dịch chuyển, đất trên tường, đất ven đường ngoài ra đều xấu nhất là lửa sấm sét.
(Các đoạn được tô đậm của các Nạp Âm trên đã đúng khi áp dụng vào các ví dụ trong thực tế.)
Các câu hỏi trọng tâm :
1 – Theo bạn, cách đây 3 đến 4 nghìn năm con người của chúng ta đã biết đến hệ mặt trời có 9 hành tinh hay chưa?
2 – Cách giải thích vì sao có 10 can và 12 chi liệu có thỏa mãn tính tò mò của bạn không? Cách giải thích này đã có tính chất khoa học (duy vật) hay nó vẫn còn mang nặng tính chất huyền bí (duy tâm) ? Bạn có cách nào giải thích khác không?
3 - Có một cao thủ về dịch lý bên Lý Học Ðông Phương cho rằng có 4 mùa trên trái đất là do quỹ đạo của trái đất quay quanh mặt trời theo hình elip. Theo bạn điều này có đúng hay sai, vì sao? Có cách nào chứng minh đơn giản hơn cách chứng minh ở trên hay không?
4 - Bạn thử kể ra các lực tương tác mà bạn biết của 10 vật thể được đưa ra ở trên lên con người nói riêng và các vật thể khác trên mặt đất nói chung là gì?
5 - Giả sử có 2 người cùng sinh ra tại một thời điểm của thời gian (cứ giả sử thời điểm họ sinh ra được tính chính xác tới 1/tỷ giây hay cứ cho là tuyệt đối - tức không có sự sai lệch về thời gian) thì họ có cùng sinh ra tại 1 vị trí trong không gian của vũ trụ hay không ?
Nguồn Sưu tầm
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
ra tích lũy được, con cái ngoan hiền hiếu thảo.
Trái lại một căn nhà có khuyết điểm về phong thủy thường mang lại nhiều trở ngại và bất ổn trong cuộc sống. Khi mua nhà hay thuê nhà ai ai cũng mong muốn có được một căn nhà hoàn chỉnh về phong thủy.
![]() |
(Hình minh họa) |
Thế nhưng trên thực tế hiếm khi các bạn có được cơ hội đó bởi nhiều yếu tố sau:
- Căn nhà hợp với chủ cũ khác tuổi tác của mình nên vấn đề phong thủy cũng có phần sai biệt.
- Sự thiết kế của căn nhà không phù hợp với nhu cầu hạnh phúc của gia đình trong mỗi giai đoạn cuộc đời.
Vì thế, khi vào ở một căn nhà chúng ta phải biết rõ khuyết điểm của căn nhà và thuật phong thủy có tác dụng điều chỉnh hay hóa giải những khuyết điểm kể trên để cuộc sống ngày càng tươi đẹp hơn.
Phương cách hóa giải cũng có rất nhiều và đa dạng phong phú. Tuy nhiên, chọn lựa phương cách hóa giải phù hợp với mức độ ảnh hưởng xấu để không gây ra những ảnh hưởng phụ khác đó là điều nên thận trọng. Và để hóa giải phong thủy của một căn nhà cần phải nghiên cứu từng bước một.
1. Nghiên cứu toàn bộ khuyết điểm căn nhà
Ðây là bước đầu tiên cũng là bước quan trọng nhất quyết định thành công hay thất bại trong việc hóa giải. Nếu công việc này làm không hiệu quả hay thiếu sót thì việc hóa giải chỉ nửa vời không đạt được kết quả mong muốn.
Nhiều người cho rằng gia chủ có một căn nhà hợp hướng là tốt đủ rồi, không cần quan tâm đến những điều khác. Ðây là một suy nghĩ sai lầm bởi một căn nhà tốt phải hội đủ và hài hòa tất cả yếu tố phong thủy trong căn nhà chứ không chỉ riêng phương hướng là đủ. Ví dụ một căn nhà đúng hướng nhưng tọa tạc trên một mảnh đất tam giác hay là ở trong nhà có bếp lò, nhà cầu, cầu thang nằm ngay giữa nhà thì cũng không tốt.
Tóm lại có rất nhiều điều cần phải quan tâm đến khi muốn biết một căn nhà hợp phong thủy hay không. Khi xét phong thủy một căn nhà là phải tổng hợp tất cả các yếu tố trong và ngoài căn nhà chứ không nên dựa vào một vài đặc điểm nào đó mà bỏ qua đặc điểm khác.
Nhận biết hết tất cả khuyết điểm của căn nhà là một điều cần thiết, vì có như vậy chúng ta mới có thể hóa giải triệt để những ảnh hưởng xấu đối với căn nhà. Có thể tạm phân loại các khuyết điểm về phong thủy như sau:
- Âm dương: Một căn nhà gặp khuyết điểm về âm dương thường rơi vào trường hợp cô dương hay cô âm. Trường hợp cô dương (hay dương thịnh) như sáng quá, chói lòa, màu sắc rực rỡ, ồn ào, náo nhiệt. Hay cô âm (hay âm thịnh) như u tối, thiếu ánh sáng, trống vắng, thiếu sinh khí, màu sắc ảm đạm, âm u, ẩm mốc bẩn thỉu mang nhiều âm khí đều không tốt cho gia chủ, ảnh hưởng đến hạnh phúc vợ chồng.
- Ngũ hành: Một căn nhà phạm khuyết điểm về ngũ hành thường do việc bố trí phòng ốc hay trang trí không thích hợp như là phối trí màu sắc, bông hoa, cây cỏ, bàn thờ, bếp, bồn cá, lò sưởi không đúng phương vị. Nếu có sự xung khắc thường mang lại sự xung đột bất hòa trong cuộc sống.
- Hình thể nhà và đất: Do khuyết điểm của thế đất không bằng phẳng, hình dáng khuyết tật, nhà cửa xây dựng mất cân đối, các cung vị bát quái bị lồi lõm.
- Phòng ốc: Sự bố trí phòng ốc trong căn nhà được hài hòa thuận vị là điều tốt đẹp. Những trường hợp như cửa phòng ngủ trực diện với phòng tắm; phòng ngủ nằm ngay trên bếp, bàn thờ; cầu thang trổ ra cửa, phòng tắm nằm ngay trên, phía trước cửa chính; cầu thang đổ ra cửa; ba cửa nhà thông thương; nhà hay phòng có hai lối rẽ; nền nhà cao thấp hay khuyết góc...đều gây ra những ảnh hưởng không tốt cho gia chủ.
- Những tác hại xấu do bên ngoài như ngã ba đâm vào, cột đèn, cây cổ thụ, biển báo, độ dốc, ao hồ sông rạch, núi đồi cản trở.
- Những tác hại xấu từ bên trong: Thường do sự bài trí không đúng phương cách như là kê bàn, ghế, tủ, góc nhà tạo nhiều cạnh đâm vào cửa chính, phòng ngủ, xà nhà chắn ngang đầu… Những yếu tố xấu này thường ảnh hưởng đến sức khỏe của những người sống trong nhà.
2. Nhu cầu hạnh phúc của gia đình
Ðây là bước thứ hai cũng không kém phần quan trọng. Cần biết đâu là nhu cầu hạnh phúc của gia đình trong đại vận hiện tại thì mới có thể đề ra những biện pháp hóa giải hữu hiệu.
- Với gia đình của người lớn tuổi, nhu cầu hạnh phúc chính yếu nhất là sức khỏe và tuổi thọ. Nếu muốn hóa giải khuyết điểm căn nhà thì phải chọn lựa những biểu tượng mang tính hòa hợp tươi vui nhưng trầm mặc như rùa, hồ lô, sáo trúc, tùng, tượng ngư tiều canh độc để bài trí trong nhà.
- Trái lại, vợ chồng son trẻ không muốn bị quấy nhiễu hạnh phúc có thể hóa giải phong thủy bằng những biểu tượng mang thể loại mạnh mẽ hơn như thú dữ, xương rồng, thanh kiếm, mũi tên sắc, súng đại bác.
- Trường hợp vợ chồng gay cấn, xung đột mong muốn có hạnh phúc thì nên chọn những biểu tượng phong thủy như Long Phụng hòa minh, đôi chim tỉa cánh, bông hoa mang màu sắc tươi mát và thích hợp với ngũ hành của hai người.
Nếu căn nhà xấu đối với người lớn tuổi mà dùng các biểu tượng như thú dữ, hay vật dụng hung hãn, chẳng những không có tác dụng tốt lại còn gây thêm áp lực nặng nề hay tạo thêm cảm giác lo ngại cho người lớn tuổi. Chúng ta có thể phân loại nhu cầu hạnh phúc của gia đình bao gồm các nhóm yếu tố sau:
1. Tiền tài
2. Hạnh phúc
3. Sức khỏe - tuổi thọ
4. Con cái
Do đó, cần tùy theo nhu cầu hạnh phúc của gia đình mình mà lựa chọn những biểu tượng hóa giải thích hợp.
(Theo Diaoconline)
► Cùng xem những tiết lộ thú vị về 12 cung hoàng đạo tình yêu |
![]() |
► Lấy lá số tử vi và xem vận mệnh cuộc đời, công danh, tình duyên của bạn |
![]() |
Rung đùi, chóp chép miệng, cắn môi dưới… là những thói quen tuy nhỏ nhưng ảnh hưởng rất lớn đến vận khí của chủ nhân.
1/. Rung đùi : Thói quen xấu này xuất hiện ở cả nữ giới và nam giới – nó mang ý nghĩa không tốt. Thậm chí thói quen rung đùi còn gây cảm giác khó chịu cho người đối diện. Nếu nam giới có thói quen rung đùi, anh ta khó có thể trở nên giàu có, thành đạt. Phái nữ hay rung đùi thường gặp khó khăn trong vấn đề tình cảm.
2/. Khạc nhổ bừa bãi : Người xưa quan niệm rằng, miệng có nhiều nước bọt là vận khí tốt. Nhổ nước bọt tức là nhổ đi “tài chính”, tiền bạc và may mắn. Vì thế chúng ta đừng nên khạc nhổ bừa bãi nhé, không chỉ mất đi tài vận mà còn gây mất thiện cảm nữa.
3/. Thường xuyên chớp mắt ; Cuộc sống của người này không khá giả. Người xưa quan niệm rằng, những người hay chớp mắt gặp gỡ và làm thân với người khác đa phần vì vật chất hơn tình cảm.
4/. Thói quen cắn môi dưới : Điều này đại diện cho sự thiếu chân thành. Đôi khi, người hay cắn môi thường bị quy chụp là kẻ nói dối, không thật lòng. Người ta thường cắn môi dưới khi cảm thấy không tự tin hay dấu diếm 1 điều gì đó.
5/. Không ngừng khụt khịt mũi : Người này không tự tin. Họ khó có thể diễn đạt hết những gì bản thân muốn nói hoặc là cảm thấy ngượng ngùng khi không biết phải làm gì khi đối diên với người khác. Vì vậy, họ hay bị nghi là không trung thực mặc dù thực tế, có thể họ không phải người như vậy.
6/. Thường nhón chân khi đi bộ : Khi đi bộ, bạn nên để cả bàn chân chạm đất. Theo nghiên cứu, người thích nhón chân khi đi bộ thường khó tính và sức khỏe không được tốt. Hay cáu gắt và để ý những chuyện nhỏ nhặt chính vì thế họ khó thành công và gặp nhiều rắc rối trong công việc. Tuổi thọ của những người này thường không cao.
7/. Chóp chép miệng : Khá nhiều người có thói quen chóp chép như đang nhai gì đó trong miệng. Họ làm điều này khi cảm thấy lo lắng, bất an hoặc nghi ngờ về suy nghĩ của người khác. Đây cũng là một thói quen gây ảnh hưởng đến may mắn của bạn, vì thế nếu có thói quen này bạn cần nên nhanh chóng sửa đổi nhé.
8/. Hay vuốt tóc : Những người có thói quen này thường rất là đào hoa, họ có khả năng cuốn hút người khác phái rất tốt. Nhưng thường thì chuyện tình cảm của họ không được tốt lắm.
9/ Ngoáy mũi : “Rõ ràng, đó là dấu hiệu của sự mất vệ sinh và thiếu nghi thức xã hội”. Một người vô tư ngoáy mũi trước mặt người khác sẽ không suy nghĩ đến tác động của hành vi này với những người xung quanh. Điều này có nghĩa đây là người rất nông cạn và ích kỉ. Đây là thói quen cực kì xấu, hãy bỏ ngay nhé!
>> Xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất!
>> Xem ngay VẬN HẠN 2016 mới nhất!
Cái tên thực sự có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với một con người. Cái tên nói lên tính cách, cuộc đời, và thậm chí là vận may của một con người. Đặt tên con là một việc hết sức ý nghĩa và tầm ảnh hưởng quan trọng đến tương lai và cuộc đời của con. Ngày xưa các cụ thường đặt tên con thật xấu để tránh những điều rủi và vô hình chung đã tạo ra những cái tên hết sức buồn cười và khiến trẻ bị xấu hổ cũng như ngăn cản nhiều bước tiến và sự tự tin cần có ở con mình. Đặt một cái tên hay và ý nghĩa chưa đủ, có nhiều điều kiêng kỵ trong vấn đề đặt tên. Dưới đây là 25 điều cấm kỵ bạn phải nhớ trước khi đặt tên cho con.
1. Tránh đặt tên con trùng tên với các người thân, họ hàng trong gia đình, đặc biệt là trùng tên với các cụ trong khoảng 3-5 đời hay các ông bà trong dòng họ gần gũi. Nếu vô tình đặt tên trùng như vậy, bạn hãy sử dụng tên ở nhà để thay thế cho tên chính đó nhé.
2. Đặt những tên quá cũ kĩ hoặc trùng lặp quá nhiều. Cho dù bạn cố đặt thêm những tên đệm, nhưng việc trùng lặp tên quá nhiều cũng không mấy hay ho.
3. Đặt tên quá thô tục, tối nghĩa. Những kiểu tên liên quan đến các bộ phận tế nhị của người, động vật, hay tên hàm ý có liên quan đến những thứ không trong sáng.
4. Đặt tên con với ý nghĩa nông cạn. Đôi khi những cái tên của bạn quá khoa trương và dễ trở thành trò chế giễu của mọi người.
5. Đặt tên mang ý nghĩa xấu liên quan đến bệnh tật, nhan sắc, tù túng.
6. Tránh đặt tên con theo các từ luyến láy. Cái tên đó sẽ hài hước nhưng dễ khiến trẻ chán ghét nếu bé không phải người mạnh dạn.
7. Tránh đặt tên chứa tên nước ngoài. Nếu không phải con lai tốt nhất bạn đừng đặt thêm các từ nước ngoài vào tên chính, hãy dùng nó làm tên ở nhà là được.
8. Không nên đặt tên con liên quan đến động vật không may mắn trong phong thủy.
9. Không nên đặt tên con khó phân biệt được giới tính.
10. Những tên liên quan đến sự vật hiện tượng không tốt lành như sấm, bão, lũ… cũng cần phải tránh.
11. Những tên chứa từ có liên quan đến thứ bậc vai vế trong gia đình cần phải tránh.
12. Những từ đa nghĩa , đồng âm , tục ngữ hay ngạn ngữ cũng nên tránh.
13. Tránh đặt tên theo người nổi tiếng. Vì sao, bởi họ rất dễ có những scandal không ngờ, chắc chắn bạn không muốn con mình liên quan phải không.
14. Không nên đặt tên con theo trào lưu, theo số đông . Cái gì là mốt thì sẽ rất nhanh lỗi mốt.
15. Không đặt tên con ám chỉ các bộ phận cơ thể
16. Không nên đặt tên con theo các từ ngữ cổ, các từ hán việt ít sử dụng.
17. Tránh những tên quá dài, quá ngắn, khó viết hoặc khó đọc.
18. Không nên đặt con tên vần A hoặc XYZ, khi trẻ đi học việc tên đầu sổ hay cuối sổ rất bất lợi.
19. Đặt tên con theo các đồ vật tế lễ, nghi thức cúng bái cũng cần tránh.
20. Đặt tên con theo các vị thần thánh, phật, chúa cũng cần tránh.
21. Đặt tên con có chứa thanh bằng , thanh trắc quá 3 từ liên tục.
22. Không nên đặt tên con liên quan đến tiền, kể cả tên đệm đọc lái liên quan đến tiền.
23. Tránh đặt tên con trùng với bố mẹ, nhiều gia đình đặt tên con trùng bố mẹ và khác tên đệm, điều đó sẽ gây rắc rối về sau.
24. Đặt tên con quá nổi bật là điều không nên. Một cái tên sáng nghĩa là đủ, không cần quá khoa trương.
25. Tránh đặt tên con theo các vị lãnh tụ , bậc thánh hiền, danh nhân.
Trên đây là 25 điều cấm kỵ phải nhớ trước khi đặt tên cho con, chúc các bạn tìm được những cái tên đẹp và ý nghĩa.
Bài tập 1:Ngày 3/11/1988, lúc tôi đang giảng dạy ở Nam Kinh, 1 người trong hội nghiên cứu Kinh Dịch của tỉnh nói với tôi:lúc 1 giờ 30 trưa hôm nay nhà bị mất hơn 1.000 đồng, nhờ đoán xem có thể tìm lại được không?(trang 444-sách CHU DỊCH VỚI DỰ ĐOÁN HỌC của Thiệu Vĩ Hoa).
Âm lịch là:Năm Thìn, tháng 9, ngày 24 giờ Mùi.Quẻ lập được có diễn số như hình bên.
-Chọn dụng thần:Tài tinh là dụng thần, trên thiên bàn gặp 1 và 12, trong đó 12 bị 6 xung, 1 gặp tam hợp Thân Tý Thìn(9-1-5) nên lấy Thiên tài 1 làm dụng thần.
-1 trên thiên bàn gia trên 11, mà 11 là Thực Thương chủ về con cái, 11 ở bản cung là trụ năm là nội nên đoán trẻ nhỏ trong nhà lấy chứ không bị trộm, vì 11 là dương kim nên đứa trẻ nam lấy dấu đi.
-1 dụng thần là một số hư chủ về mất giả tạo, ở đây gặp phải tam hợp lực rất mạnh nên 6 không tuyệt nổi với 1.
Bài tập 2:Bác sĩ Lưu ở công ty tôi muốn hỏi nữa năm sau con thi vào đại học được hay không(năm 1986, tháng 2, ngày 25, giờ Dậu âm lịch)-trang 348
-Quẻ lập được có diễn số như hình bên dưới:
-Chọn dụng thần:dụng thần là Ấn tinh, nhưng nay trên thiên bàn không gặp, quan sát cũng không, thời thần 10 lại không có.Trong trường hợp này ta có thể xem thiên bàn, lấy 10 thiên bàn làm dụng thần, lại có Văn Khúc 1 ờ trên.”Văn Khúc tới đất phụ mẫu đi thi là đỗ”.
-Về sau con ông Lưu đã đỗ Đại Học.
Bài tập 3 (thực tế):Năm Tân Mão, tháng 12, ngày 29, giờ Thân, một người tới nhà tôi bảo xem về việc tai nạn giao thông lành dữ thế nào, nhưng không nói tông phải ai, quẻ lập được có diễn số như sau:
-Đương lệnh 12 trên thiên bàn gặp 4, 4 lại gặp 12 nên đoán tông phải đứa trẻ nam.
-Trung bàn:2 và 10, 10 là Kim phản khắc 4 tử tôn, 2 là xe 2 bánh, 10 bị 12 tiết khí.
-Phá cục 8-4 mất nhánh 12 nên bị thương ở đầu rất nặng, may ra có 2 và 1 là nguyên thần sinh cho nên không đến nổi thiệt mạng, ngày 2 sẽ xuất viện, sáng mùng 2 tết đã xuất viện bình phục.
Bài tập 4:Chiều ngày 16/4/1986, Trương Hồng Bảo ở công ty tôi nói:ngày 18-2 giờ Thân âm lịch bị mất trộm.Nhờ xem có thể phá án được không?(trang 444-sách CHU DỊCH VỚI DỰ ĐOÁN HỌC của Thiệu Vĩ Hoa).
Quẻ lập được có diễn số như sau:
-Chọn dụng thần:Quan quỷ 3 làm dụng thần, 6, 7 làm số tài sản bị trộm.
-3 gia địa bàn số 5 nên kẻ trộm từ phương Đông Nam đến, có tất cả ba người(có ba số 3 ngoài bản cung), trong đó 2 nam+1 nữ(vì 4 dương, 9 âm, 11 dương).
-6 là tài sản mất gia trên 2 là đương lệnh, là về với chủ nhưng 7 gia trên 1 phản khắc, một phần tài sản không thể thu hồi.
-Tháng 3 hoặc tháng 5 âm lịch có thể phá án vì tháng 3, tổ số 4-3(khắc), 3-11(nhập mộ), 9-3(xung), tháng 5, tương tác 5-3 tương tuyệt kẻ trộm bị bắt.
-Đoán án có thể phá là vì Thực Thương cảnh sát 4 khắc chế 3.
Bài tập 5:Năm Nhâm Thìn, tháng 9, ngày 5, giờ Tỵ Trương Hoàn K muốn xem việc mất con có tìm lại được không?Quẻ lập có diễn số như sau:
-Chọn dụng thần:dụng thần thực thương không hiện, lấy thời thần 6 làm dụng thần.
-Dụng thần gia trên 1, nên đi về hướng Bắc, 6-1 tương tuyệt gặp nạn chết.
TỔNG KẾT: Sự mở rộng phương pháp dùng quẻ Thời không để phán đoán, phàm gặp sự việc đều có thể dùng đến nó để suy luận, cho nên ở đây không lặp lại nhưng ví dụ nêu trên.Đặc điểm quẻ Thời không hoàn toàn là sự vận dụng nguyên lý của từ trường, vận dụng duy nhất một phương pháp dựa vào chữ số cho đến loại tượng để luận sự đoán cát hung, vừa nhanh vừa chính xác.So với Dịch học, đây quả là phương pháp có phong cách đặc biệt.Kỹ xão vận dụng quẻ Thời không để dự đoán cực kỳ linh hoạt.Nhưng với quẻ Thời không, chỉ cần có cái nhìn toàn thể, áp dụng trọng điểm của số giờ, ngày, tháng, năm, dụng thần phân tích nội ngoại sinh khắc của tổ số, thiên địa bàn, nhìn ra chính xác loại tượng thì có thể đoán một mạch, khiến người khác phải kinh ngạc.
Mọi đóng góp vui lòng gửi thư qua email This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
![]() |
Cây khô quanh nhà là một trong những thế hình sát |
1./ Nguồn gốc tết Trùng Thập
Theo sách Dược lễ thì ngày 10 tháng 10 Âm lịch, là ngày lành, tháng tốt cây thuốc mới tụ được khí âm dương, kết được sắc tứ thời (Xuân, Hạ, Thu, Đông) trở nên tốt nhất. Vì vậy, các thầy thuốc rất coi trọng tết này.
Xưa Tết Trùng Thập được coi như ngày Tết của các vị thầy thuốc
(Hình minh họa)
Cũng theo Phan Kế Bính: ''Tết ấy (tức 10-10 âm lịch ) phần nhiều là các nhà đồng cốt và nhà thầy thuốc mới ăn thôi. Nhưng về nhà quê cũng nhiều nơi ăn, có nơi ăn to lắm, như ở vùng phủ Hoài, … " .
Các nhà thầy thuốc thì vì thu lễ thu tiền mà ăn tết một là để cung cấp, hai là để khoản đãi các đệ tử và các bạn hàng. Trong khi đó, những người được chữa lành bệnh và những người tin vào tử vi, bói toán thường có lễ tết rất to và các gia chủ được tết cũng bày lễ thịnh soạn để tạ ơn thần thánh
Nói chung Tết này là Tết các vị thầy thuốc, các ông Đồng, bà Cốt, họ thường làm cỗ bàn linh đình.
2./ Phong tục đón Tết Trùng Thập
Bên cạnh đó người dân khắp nơi cũng đón Tết Trùng Thập với những ý nghĩa, phong tục khác nhau.
Đối với một số vùng nông thôn gọi Tết Trùng Thập nôm na là tết Cơm mới, tết Thường tân. Các nhà lấy gạo mới làm bánh dày, thổi cơm và luộc gà dâng cúng gia tiên và thần, Phật mừng được mùa. Người ta cũng thường làm bánh giầy, nấu chè kho để cúng gia tiên rồi đem biếu những người thân thuộc.
Ở các vùng đồng bằng sông hồng, sông cửu long, các làng mạc từ miền bắc vào miền nam, tết mừng được mùa gọi là tết cơm mới ngày 10 tháng 10 đương giữa mùa gặt.
Có nơi còn gộp tổ chức Tết Cơm mới tháng mười (còn gọi là Tết Hạ nguyên) vào ngày rằm Tháng Mười hay ngày 31 tháng 10 Dương lịch để nhớ đến công của Tiên Nông (tiên của ruộng đồng) và để ăn mừng việc gặt hái của vụ mùa đã xong.
Tết Trùng Thập ở một số làm quê - Hình minh họa
Các dân tộc thiểu số ở rừng Việt Bắc hay trên cao nguyên Tây nguyên, hàng năm khi ngô lúa ngoài nương rẫy đã thu hoạch xong, cái ăn đã chắc chắn trong nhà, thế là cả bản, cả buôn ăn tết được mùa.
Cái Tết vui được mùa luân lưu khắp các nhà trong xóm kéo dài suốt tháng, đến khi ngoài trời có mưa mới, lại bắt đầu vào mùa mới.
Cả buôn, cả bản ăn Tết Trùng Thập - Tết Cơm mới. Hình minh họa
Vui được mùa, mong được mùa, ý nghĩa to lớn ấy là mừng lo và cầu mong của cả đất nước. Truyền thống phong tục ân nghĩa ấy có từ xa xưa tới nay./