Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Mơ thấy kiến trúc sư: Công việc và sự nghiệp tốt đẹp hơn –

Trong mơ xuất hiện hình ảnh người kiến trúc sư đang quy hoạch bản đồ xây dựng thành phố. Kiến trúc sư có thể là tượng trưng cho cái tôi của người nằm mơ. Cảnh tượng trong mơ với hàm ý công việc và sự nghiệp của bạn có thể sẽ trở nên tốt đẹp hơn, cũn
Mơ thấy kiến trúc sư: Công việc và sự nghiệp tốt đẹp hơn –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy kiến trúc sư: Công việc và sự nghiệp tốt đẹp hơn –

Chùa Vua - Hà Nội

Chùa Vua là tên gọi chung của quần thể kiến trúc bao gồm Thượng điện Hưng Khánh, Điện Đế Thích, Đền thờ Trần Hưng Đạo tọa lạc ở quận Hai Bà Trưng - HN
Chùa Vua - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Vua nằm tại số 33 phố Thịnh Yên, phường phố Huế, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Chùa Vua là tên gọi chung của quần thể kiến trúc bao gồm Thượng điện Hưng Khánh, Điện Đế Thích, Đền thờ Trần Hưng Đạo tọa lạc ở phố Thịnh Yên, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Chùa còn có tên gọi khác là chùa Hưng Khánh. Mặt chùa hướng Đông Nam. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.

Đi qua cổng tam quan với gác chuông rất đẹp là khoảng sân rộng lát bằng đá xanh, đây cũng chính là một bàn cờ tướng khổng lồ được kẻ bằng vôi. Ngày thường, những vị trí đặt quân trên bàn cờ được đặt các chậu cảnh. Trên thân chậu cũng ghi tên quân với tướng, sĩ, tượng, xe, pháo, mã… Đi qua sân đánh cờ là đến thẳng một tòa kiến trúc cổ, trên cửa có 3 chữ “Thiên Đế Điện”, đây là điện thờ Đế Thích. Thẳng hàng về phía bên trái điện là Thượng điện chùa cũng có kiến trúc tương tự.

Chùa được khởi dựng vào thời Lý mang tên Hưng Khánh tự cùng với điện thờ Đế Thích trở thành một trong Tứ Quán của kinh thành Thăng Long. Theo sách nhà Phật và thần thoại Ấn Độ, Đế Thích chính là thần Indra của đạo Bà La Môn, được coi là vua của các vị thần. Tín ngưỡng Phật giáo đã đưa Indra Đế Thích vào điện thờ cùng với thần Brama (Phạm Thiên). Hai vị này được coi là hai vị vua thần bảo vệ Phật pháp cho nên trong các chùa Việt Nam, đặc biệt là ở miền Bắc hiện nay thường có tượng Đế Thích và Phạm Thiên đặt hai bên tượng Đức Thích Ca Sơ sinh Cửu long phún thủy. Từ xa xưa, dân gian nước ta coi Đế Thích là vị thần có khả năng cải tử hoàn sinh và người đánh cờ giỏi nhất cả cõi người, cõi trời.

Đến thế kỷ 19, một võ tướng của Hoàng Hoa Thám là cụ Hoàng Đình Điều, sau khi chống Pháp không thành, đã tìm đến chùa Vua quy y xuất gia, rồi làm trụ trì chùa, sau này được Nhà nước ta tặng bằng khen có công với nước. Cũng chính ở chùa này, ông Nguyễn Phong Sắc, Xứ ủy Bắc Kỳ thường đi về ẩn náu trong những ngày trước cách mạng, cất giấu tài liệu dưới bệ tượng Đế Thích. Những ngày toàn quốc kháng chiến, chùa Vua là nơi chứa quân trang quân dụng và lương thực của quân đội ta, bởi vậy năm 1947 giặc Pháp đã đốt phá chùa. Ngày 10-4-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm chùa.

Ngày nay, chùa Vua còn lưu giữ được nhiều di vật quý giá bao gồm 14 pho tượng Phật và tượng Đế Thích cổ chế tác rất đẹp làm bằng gỗ hoàng đàn; hai đỉnh đồng thời Nguyễn, một quả chuông nhỏ thời Cảnh Thịnh, hai quả chuông to và hai chóe lớn cao chừng 1,6m đều được đúc từ thời Lê. Trong đó, pho tượng Đế Thích bằng gỗ cao 1,6m được tạo tác trong hình hài một ông vua ngự trên ngai vàng, đầu đội mũ miện, mặc áo cổn.

Một góc khuôn viên chùa
Một góc khuôn viên chùa

Với truyền thống tôn kính Đức Vua trời Đế thích, Đức Thánh Trần Hưng Đạo và Điện Mẫu, hàng năm, vào mùng 6 đến mùng 9 tháng Giêng âm lịch, các kỳ thủ lại nô nức tìm về chùa Vua ở phố Thịnh Yên, quận Hai Bà Trưng (Hà Nội) tham gia lễ hội cờ danh tiếng để phân tài cao thấp do Trung tâm TDTT quận Hai Bà Trưng và nhà chùa tổ chức.

Những người đoạt giải nhất tại hội thi cờ chùa Vua thường là những tên tuổi lừng danh của làng cờ Việt Nam như cụ Hứa Tiến (từng là kiện tướng cờ châu Mỹ), rồi các danh thủ cờ Cường, Phác – những kiện tướng của làng cờ tướng Việt Nam. Nguyễn Vũ Quân – kỳ thủ từng 2 lần vô địch cờ tướng Việt Nam năm 2004-2005 và Huy chương đồng thế giới cũng đã 2 năm liền giành giải nhất tại Lễ hội Chùa Vua. Kỳ thủ từ các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Campuchia… cũng tìm sang thi đấu trong hội chùa Vua, càng cho thấy sự danh giá của giải vô địch cờ tướng chùa Vua.

Khách thập phương đến xem hội lúc nào cũng đông nghịt, đứng vòng trong vòng ngoài, vừa xem vừa bình phẩm về các “quân cờ”, vừa đánh giá nước đi của đấu thủ mà hồi hộp mong đợi kết quả của trận đấu. Không khí vừa ồn ào sôi nổi, vừa căng thẳng, trí tuệ. Giá trị giải thưởng tuy không nhiều về vật chất, song có ý nghĩa về tinh thần, bởi đây là giải đấu có uy tín cao. Với những danh thủ đạt giải ba năm liền, sẽ được khắc tên vào bia đá của chùa. Chùa Vua được xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1992.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Vua - Hà Nội

Xem tướng ngũ quan trên khuôn mặt –

Ngũ Quan rên khuôn mặt của mỗi người chính là Tai, Lông mày, Mắt, Mũi, Miệng trong đó : Tai được gọi là Thái thính quan Lông mày được gọi là Bảo thọ quan Mắt được gọi là Giám sát quan Mũi được gọi là Thẩm biện quan Miệng được gọi là Xuất nạp quan. Ng
Xem tướng ngũ quan trên khuôn mặt –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngũ Quan rên khuôn mặt của mỗi người chính là Tai, Lông mày, Mắt, Mũi, Miệng trong đó :

  • Tai được gọi là Thái thính quan
  • Lông mày được gọi là Bảo thọ quan
  • Mắt được gọi là Giám sát quan
  • Mũi được gọi là Thẩm biện quan
  • Miệng được gọi là Xuất nạp quan.

Người xưa còn đưa ra những nhận xét chi tiết như: Lông mày căng ra ngay ngắn, mũi đoan chính, tai cao mà sáng, miệng rộng tựa hình dây cung đều là tướng cuối đời được hưởng phúc lộc.

Qua phân tích ngũ quan có thể phán đoán được vận thế, cát hung của một người. Lông mày nói lên việc người đó có sống thọ hay không. Con mắt nói lên năng lực ý chí và tâm địa lương thiện. Mũi nói lên sự giàu có và sức khỏe của một người. Miệng nói lên cuộc sống hạnh phúc và vận quý nhân của một người. Còn khi xem tướng tai, ta có thể biết được sức khỏe và địa vị của người đó.

Nội dung

  • 1 Tướng ngũ quan trên khuôn mặt
    • 1.1 Bảo thọ quan (Lông mày)
    • 1.2 Giám sát quan (Con mắt)
    • 1.3 Thẩm biện quan (Mũi)
    • 1.4 Xuất nạp quan (Miệng)
    • 1.5 Thải thính quan (Tai)

Tướng ngũ quan trên khuôn mặt

Bảo thọ quan (Lông mày)

Người có tướng lông mày dài, thanh tú thì thông minh, nhanh nhẹn, có phẩm chất cao quý, được hưởng cuộc sống giàu sang phú quý, tuổi thọ cao. Còn lông mày ngắn, rậm và thô, tính tình hung bạo, dễ nổi cơn thịnh nộ, cuộc sống nghèo hèn, lúc nào cũng trong tình trạng túng thiếu.

Hai lông mày giao nhau là dấu hiệu cho thấy vận khí không tốt. Trong lông mày có nốt ruồi đen chứng tỏ chủ nhân của nó thông minh, giỏi giang, dễ gặt hái được nhiều thành công trong sự nghiệp.

Giám sát quan (Con mắt)

Đôi mắt người thông minh và giàu có thường có thần sắc, lòng đen lòng trắng rõ ràng, mắt dài mà lại sâu. Mắt nhỏ nhưng dài và sâu thường sống thọ, ngược lại mắt nhỏ nhưng lại lồi thì dễ nóng giận, tuổi thọ không cao.

Người mắt tam bạch (lòng trắng nhiều hơn lòng đen) lòng dạ đen tối, tính cách hung ác, cuộc sống nghèo khó, vất vả.

Thẩm biện quan (Mũi)

Mũi thẳng, hai cánh mũi đầy đặn, lỗ mũi không hếch không lộ, đầu mũi tròn trịa là đặc trưng thường thấy ở nét tướng mặt của người có số mệnh sung sướng, cuộc sống giàu sang, hiếm khi phải lo lắng về vật chất.

Ngoài ra, nếu sống mũi khuyết hãm, đứt đoạn, lỗ mũi lộ, hai cánh mũi không đều chứng tỏ chủ nhân của tướng mũi này có cuộc sống vất vả, cơ cực, khó tích lũy tiền tài.

Xuất nạp quan (Miệng)

Miệng vuông vắn, không khuyết hãm, đôi môi đầy đặn và có sắc khí hồng hào, cộng thêm hàm răng trắng, đều đặn, Nhân trung dài và sâu là những dấu hiệu cho thấy chủ nhân của tướng mặt này có cuộc sống bình yêu, không phải trải qua nhiều sóng gió cuộc đời. Đặc biệt, cách nói năng, ứng xử của họ hài hòa, hiếm khi vướng vào những rắc rối thị phi.

Trái lại, người có tướng miệng tuy mở ra rộng nhưng khép vào lại rất nhỏ dễ dính vào họa khẩu thiệt thị phi, hay bị người khác soi mói, đố kị. Theo đó cuộc sống cũng nhiều thăng trầm, nhưng nếu nỗ lực hết mình, suy nghĩ phóng khoáng và lạc quan, mọi việc sẽ chuyển biến theo hướng tích cực.

Thải thính quan (Tai)

Tai có luân quách rõ ràng (vành tai), dái tai đầy đặn, tai áp sát đầu và cao quá lông mày, lỗ tai rộng là tướng phú quý. Chủ nhân của tướng tai này thông minh, hào phóng, cuộc sống sung túc và thường có tuổi thọ cao.

Nếu vành tai lật ngược, luân quách không rõ ràng, tai nhỏ mà vểnh là dấu hiệu cho thấy cuộc sống của người này vất vả, nay đây mai đó cầu tài mà không được như ý nguyện.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng ngũ quan trên khuôn mặt –

Đeo vòng tay bên trái hay phải để hóa giải điềm dữ và đón nhận điềm lành?

Đeo vòng tay đúng bên sẽ giúp cải thiện vận số đáng kể nhưng không nhiều người biết điều này.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vòng tay là một vật trang sức khá quen thuộc với nữ giới, đó không chỉ là một vật trang trí mà thông qua vòng tay còn thể hiện cá tính đặc sắc của chủ nhân. Tuy nhiên, chúng ta thường coi vòng tay là vật trang trí thông thường và luôn đeo tùy tiện miễn hợp mắt mình, nhưng không biết rằng việc chọn đeo vòng tay bên nào cũng ảnh hưởng rất nhiề đến vận mệnh của mình. 
Một số lời khuyên từ các nhà phong thủy trong việc đeo vòng tay sẽ giúp bạn cải thiện vận số tốt hơn. 
Bạn nên đeo vòng vào tay trái trong những trường hợp sau để gặp may mắn, thuận lợi
vong-tay-1
(ảnh: Internet)
1. Đeo vòng vào tay trái để được may mắn khi đi đến những điểm như phòng thi, trung tâm xổ số, các buổi rút thăm trúng thưởng... sẽ khiến vận may được sinh sôi dồi dào.

2. Trong những buổi họp, hội thảo quan trọng mà cần nắm phần thắng thì cũng nên đeo vòng vào tay trái để tăng sức mạnh nội lực,tỏa ra nguồn năng lượng vô tận khiến công việc suôn sẻ hơn. 
3. Khi cần giao dịch các vấn đề liên quan đến tiền bạc như vào ngân hàng, công ty chứng khoán... đeo vòng tay trái sẽ khiến đường tài lộc thông hanh, vận tiền tài trôi chảy.
4. Khi thăm viếng người cao tuổi, gia đình sếp của bạn, các giáo viên, thầy cô cũ, học giả hay người quan trọng cũng nên đeo vòng vào tay trái để ăn nói được suôn sẻ, tránh gây mất lòng.
5. Nên đeo vòng vào tay trái khi tham dự các buổi lễ quan trọng, khi thăm viếng nơi linh thiêng, lễ khánh thành, khai trương...
Bạn nên đeo vòng vào tay phải đối với những trường hợp sau 
vong-tay-2
(ảnh: Internet)
1. Đi đến những nơi âm thịnh dương suy như đám tang, viếng mộ, bệnh viện, những ngôi nhà hoang cũ hoặc rừng rậm thâm sâu
2. Đeo vòng vào tay phải khi phải đi ngang những nơi có giết chóc như lò mổ, tòa án, bệnh viện, đoạn đường nhiều tai nạn giao thông 
3. Những nơi có mùi ô uế như nhà tù, bãi rác, nhà vệ sinh công cộng và những nơi ô nhiễm, bẩn thiểu khác
4. Khi phải vào nơi có thể tiếp xúc với người nghiện hút, tù tội...
Theo các chuyên gia phong thủy, đeo vòng tay đúng hướng trong từng trường hợp sẽ giúp hóa dữ thành lành, tránh vận điều xấu vào thân và gặp được nhiều may mắn hơn.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đeo vòng tay bên trái hay phải để hóa giải điềm dữ và đón nhận điềm lành?

Những nguyên tắc quan trọng khi đặt bàn thờ Thần Tài

Cách bài trí Thần Tài cho cửa tiệm, hàng quán.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cách bài trí bàn thờ cúng Thần Tài

Trong cùng bàn thờ, dán trên vách là một tấm bài vị. Sau lưng bàn thờ Thần Tài cần phải là vách tường chắc chắn, không được trổ cửa sổ hay đục lỗ vì làm vậy thì tài vận không tụ được. Trong những trường hợp không thể đặt bàn thờ dựa lưng vào tường do phải chọn hướng thì cần tạo vách để tránh góc nhọn sau lưng bàn thờ và giúp bàn thờ nằm vững chắc. Hai bên, bên trái (nguyên tắc là từ ngoài nhìn vào) là ông Thần Tài, bên phải là Thổ Địa (thường bàn thờ Thần Tài thờ chung với ông Thổ Địa). Ở giữa hai ông là một hũ gạo, một hũ muối và một hũ nước đầy. Ba hũ này chỉ đến cuối năm mới thay. Giữa bàn thờ đặt một bát nhang và cần tránh động bát nhang khi lau chùi bàn thờ. Lọ hoa được đặt bên tay phải, đĩa trái cây bên tay trái. Hoa cúng Thần Tài nên là hoa hồng, hoa cúc, hoa đồng tiền. Trái cây nên chọn ngũ quả. Xếp 5 chén nước thành hình chữ thập để tượng trưng cho ngũ phương và ngũ hành phát sinh phát triển. Ông Cóc để bên trái, sáng quay Cóc ra, tối quay Cóc vào. Ngoài cùng trên mặt đất, nên chọn một cái bát hoặc đĩa sâu sứ hoặc thuỷ tinh thật đẹp, đổ đầy nước và rắc những cánh hoa hồng trên mặt (đĩa hoa này biểu trưng cho việc giữ tiền bạc khỏi trôi đi). Bên trên bàn thờ Thần Tài, có thể đặt thêm tượng Phật Di Lặc. Di Lặc Phật Vương sẽ quản lý và ngăn chặn các vị thần làm điều sai trái.

Một bàn thờ Thần Tài và Thổ Địa trong cửa hàng kinh doanh được đặt hợp phong thủy. Ảnh minh họa.

Chọn hướng đặt bàn thờ Thần Tài

Nguyên tắc đặt bàn thờ Thần Tài – Ông Địa là phải là vị trí quan sát được hết sự vào ra của khách. Có 2 hướng nên chú ý để chọn khi đặt bàn thờ, một là theo hướng tốt của chủ nhà, hai là theo hướng đón Khí (Lộc) bên ngoài khi vào nhà. Vì vậy khi đặt bàn thơ Thần Tài nên chọn lấy các cung Thiên Lộc, Quý Nhân để có thể thu nhận được nhiều tài lộc cho cửa hàng kinh doanh.

1. Cung Thiên Lộc:

Thiên Lộc là phương Lâm quan của Tuế Can. Nhà có cửa chính nằm trong cung Thiên Lộc rất tốt, may mắn. Bàn thờ Thần Tài nếu chọn cung Thiên Lộc sẽ mang lại những may mắn về tiền bạc, gia sản thăng tiến, nhà cửa vượng. Không những thế, đặt bàn thờ Thần Tài nằm trong cung này sẽ khiến cho gia chủ, cơ địa tốt tươi, thông minh, tuấn tú lại khéo léo, tài năng kinh doanh giỏi, làm ăn tiến phát. Vì vậy, hướng Thiên Lộc là được coi là hướng tốt nhất để đặt bàn thờ Thần Tài. Tuy nhiên, trước khi chọn hướng an vị bàn thờ Thần Tài bạn cũng nên quan tâm tránh các hướng có sự ảnh hưởng của hướng có sao Không Vong, Tử, Tuyệt. Nếu gặp Không Vong, Tử, Tuyệt thì Khí tán, tài không tụ, có lộc cũng như không. Nhiều người cho rằng hướng Thiên lộc phạm các sao Không Vong, Tử, Tuyệt gọi là hướng Tuyệt Lộc, dù tài sản có như nước, rồi cũng tiêu tan hết.

2. Cung Quý Nhân:

Quý Nhân Thiên Ất là vị Thần đứng đầu cát Thần, hết sức tĩnh mà có thể chế ngự được mọi chỗ động, chí tôn mà có thể trấn được phù trợ. Đặt bàn thờ Thần Tài vào cung Quý Nhân gia đạo sẽ được bình an, hỷ khí đầy nhà, làm ăn buôn bán may mắn, có nhiều khách hàng thân thiết và nhiều người giúp đỡ, gặp dữ hóa lành. Tuy nhiên nếu gặp Không Vong, Tử, Tuyệt thì nguồn Phúc giảm đi nhiều, hoặc nếu có mắc nạn cũng khó tránh, bởi nguồn cứu giải kém hiệu lực, người và gia súc bị tổn thất, kiện cáo, thị phi.

Cung Thiên Lộc tại hướng Đông-Nam, cung Quý Nhân tại hướng Tây-Bắc. Tuy nhiên, phải sử dụng la bàn để xác định rõ 2 cung này, tùy theo tuổi của gia chủ. Sau khi đặt bàn thờ Thần Tài ở các vị trí trên, nên có sự chuẩn bị cẩn thận, trước mặt bàn thờ phải quang đãng, sạch sẽ. Bàn thờ Thần Tài tuy thờ dưới đất nhưng vị thần này tính rất thích thơm tho, sạch sẽ. Vì vậy nên để sẵn một lọ nước hoa tươi và phải thường xuyên lau dọn, xức nước thơm cho bàn thờ được thơm tho.

Chuyên gia phong thủy Nguyễn An
(Trung tâm phong thủy Hoàn Kiếm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những nguyên tắc quan trọng khi đặt bàn thờ Thần Tài

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Những dấu hiệu phá tài trên khuôn mặt

Một ngày nào đó nếu trên khuôn mặt bạn xuất hiện những dấu hiệu dưới đây, cần phải hết sức thận trọng trong công việc và đi đứng xuất hành, tránh phá tài hoặc
Những dấu hiệu phá tài trên khuôn mặt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nguy hiểm rình rập.


► Lịch ngày tốt gửi tới bạn đọc công cụ xem tướng và xem bói tử vi để biết tính cách, số mệnh của mình

1. Giữa trán mọc nhiều mụn   Vị trí chính giữa trán chính là cung Quan lộc, cho biết tài vận, công việc và sự nghiệp của mỗi người. Nếu tại đây xuất hiện nhiều mụn nhọt là một trong những tín hiệu cho thấy chủ nhân sẽ bị phá tài. Ngoài ra, đây còn là dấu hiệu cho thấy công việc gặp nhiều trở ngại, tiền đồ sự nghiệp đang xuống dốc.   Tuy nhiên, dấu hiệu này xảy ra trong khoảng thời gian ngắn nên mức độ ảnh hưởng không quá nghiêm trọng. Nếu có quyết định quan trọng nào trong giai đoạn này, bạn có thể rời sang thời điểm khác, tránh bị thất bại nặng nề.

Nhung dau hieu pha tai tren khuon mat hinh anh
Ảnh minh họa
  2. Hai bìa trán có khuyết hãm, tổn thương   Tại vị trí hai bìa trán, nằm ngay phía trên hai lông mày còn gọi là cung Thiên Di, cho biết phần nào năng lực cầu tài, kiếm tiền của mỗi người. Nếu tại đây có khuyết hãm hoặc tổn thương, là dấu hiệu phá tài, tài vận bất ổn. Ngoài ra, người này cần hết sức thận trọng khi đi du lịch xa, tránh bị tai nạn xe cộ hoặc chấn thương nghiêm trọng.   3. Mắt to nhỏ bất thường   Thông thường người có mắt to mắt nhỏ không đều là do bẩm sinh. Nhưng nếu khi sinh ra hai mắt cân xứng, đến một thời điểm nào đó lại có kích cỡ to nhỏ không đều lại là điềm xui xẻo.

Như đã biết, khoảng cách từ phía dưới lông mày xuống mắt chính là cung Điền Trạch, chủ về của cải vật chất, bất động sản… Nếu vì lí do nào đó mà mắt to mắt nhỏ bất thường cũng là một trong những dấu hiệu phá tài, tổn hao tiền của, đường công danh sự nghiệp của người này cũng lên xuống bất ổn, tài vận giảm đột ngột.

4. Đầu mũi mọc mụn và ửng đỏ   Trong Nhân tướng học, mũi chính là cung Tài Bạch, chủ về tiền tài, danh vọng. Nếu đầu mũi mọc mụn nhọt và ửng đỏ trong một khoảng thời gian ngắn là dấu hiệu không lành, dễ bị phá tài, tiêu tán tài sản. Đặc biệt công việc, sự nghiệp gặp khó khăn, dễ vướng vào họa khẩu thiệt thị phi hay những tranh chấp lớn liên quan đến tiền bạc. 
Thanh Vân (Theo MGSP)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những dấu hiệu phá tài trên khuôn mặt

Sao Phi Liêm

Hành: Hỏa Loại: Tùy Tinh Đặc Tính: Mau lẹ, thịnh tiến Phụ tinh. Sao thứ 7 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác Sĩ, Lực...
Sao Phi Liêm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: HỏaLoại: Tùy TinhĐặc Tính: Mau lẹ, thịnh tiến
Phụ tinh. Sao thứ 7 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ.
Ý Nghĩa Phi Liêm Ở Cung Mệnh

Tướng Mạo
Phi Liêm là tóc. Nếu Phi Liêm đi cùng Hồng Loan là tóc dài, đẹp.
Tính Tình
Vui vẻ, lanh lợi, nhanh nhẹn.
Ý Nghĩa Phi Liêm Với Những Sao Khác

  • Phi Liêm nếu gặp nhiều sao tốt thì mang lại sự may mắn một cách nhanh chóng. Nếu gặp các sao xấu thì bất lợi cũng nhanh chóng.
  • Phi Liêm, Hổ: Gọi là Hổ mọc cánh, chỉ sự may mắn, gặp thời vận tốt, thành đạt (thi đậu, thăng quan, thương gia đắc lợi).
  • Phi Liêm Việt Hỏa Hình: Bị súng bắn, sét đánh. Người có cách này thường là không quân, khu trục hay trực thăng xạ kích.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Phi Liêm

Nốt ruồi trên môi nói lên điều gì ở bạn.

Nốt ruồi trên môi nói lên điều gì ở bạn? Đối với nốt ruồi nếu mọc ở một vị trí tốt sẽ mang lại may mắn và tài lộc cho người sở hữu. Tuy nhiên nếu mọc không đúng chỗ thì sẽ mang tới điềm báo xấu cho cuộc sống tương lai của bạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nốt ruồi trên môi nói lên điều gì ở bạn? Đối với nốt ruồi nếu mọc ở một vị trí tốt sẽ mang lại may mắn  và tài lộc cho người sở hữu. Tuy nhiên nếu mọc không đúng chỗ thì sẽ mang tới điềm báo xấu cho cuộc sống tương lai của bạn. Vậy nốt ruồi trên môi nói lên điều gì? Cùng Phong thủy số khám phá ý nghĩa nốt ruồi trên môi này nhé.

Nốt ruồi trên môi nói lên điều gì ở bạn.

Nốt ruồi ở môi dưới.

Vị trí nốt ruồi ở môi có ý nghĩa là gì? Nốt ruồi ở môi dưới thể hiện bạn là một người dễ gần, có tác phong làm việc cẩn thận, tỉ mĩ, nên dễ dàng đạt được sự tín nhiệm của cấp trên và đồng nghiệp. Ý nghĩa của nốt ruồi ở môi dưới cũng giống như ý nghĩa của nốt ruồi ở mơi dưới bên trái và nốt ruồi ở môi dưới bên phải.

Về phương diện tình cảm thì người có nốt ruồi ở môi dưới thường khéo léo che đậy tình cảm của mình, thích được người khác chủ động yêu thương. Nhất là đối với những người nữ thì họ hay bị động trong tình cảm, dễ bị bạn trai thất vọng. Họ có thể rung cảm trước một bạn trai thực sự nhưng không thường xuyên bày tỏ tình cảm với đối phương.

Nốt ruồi ở môi trên:

Nếu bạn có nốt ruồi ở môi trên thì có ý nghĩa rằng bạn sẽ không bao giờ rơi vào cảnh nghèo túi, thường xuyên được thưởng thức các món ăn sơn hào hải vị, mà được người khác bao ăn chứ ít khi phải bỏ tiền túi. Ý nghĩa của nốt ruồi ở môi trên cũng giống như nốt ruồi ở các vị trí như: nốt ruồi ở môi trên bên phải, nốt ruồi ở môi trên bên trái đều mang ý nghĩa về tài lộc cho bản thân người sở hữu.

Nhưng về phương diện tình cảm thì theo một số nhà nhân tướng học thì nốt ruồi trên môi ở đàn ông và phụ nữ đều có ý nghĩa là nốt ruồi sắc dục. Người có nốt ruồi ở môi thường dễ bị tranh chấp hay gặp nhiều phiền phức về tình cảm trai gái, hay có những mối tình tay ba, tay bốn. Những người có nốt ruồi ở vị trí này thường có dục vọng rất mạnh, trong tình yêu họ luôn chủ động tìm đến đối tượng hợp với mình, khéo léo bộc lộ tâm tư tình cảm, không thích gò bó trong lễ nghi truyền thống. Tuy đây là một tuýp người yêu nhanh nhưng tan vỡ cũng nhanh, nhưng thường cuối cùng họ lại là đối tượng bị tổn thương nhất.

Trên đây là bài viết tổng hợp các quan niệm về “ nốt ruồi ở môi trên và môi dưới nói lên điều gì” hay “ nốt ruồi ở môi có ý nghĩa gì?”. Để tham khảo những bài viết hữu ích khác, bạn có thể xem thêm tại đây:

+ Nốt ruồi trên môi có ý nghĩa gì?

+ Nốt ruồi ở yết hầu là tốt hay xấu

+ Nốt ruồi ở vai phải có ý nghĩa gì?

Key liên quan: nốt ruồi ở môi, nốt ruồi ở môi dưới, nốt ruồi ở môi trên, nốt ruồi trên môi dưới, bí ẩn nốt ruồi trên môi, nốt ruồi ở môi dưới có ý nghĩa gì, nốt ruồi ở môi trên bên trái, nốt ruồi môi dưới, nốt ruồi son trên môi, nốt ruồi ở môi dưới nói lên điều gì, nốt ruồi môi trên, nốt ruồi ở môi dưới bên trái, nốt ruồi dưới môi, nốt ruồi trên môi trên bên trái, nốt ruồi son ở môi dưới, nốt ruồi trên môi phụ nữ, ý nghĩa nốt ruồi son trên môi, nốt ruồi ở môi trên bên phải, nốt ruồi ở trên môi, nốt ruồi ở môi dưới bên phải, nốt ruồi trên môi trên, nốt ruồi trên môi có ý nghĩa gì, nốt ruồi trên môi đàn ông​


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nốt ruồi trên môi nói lên điều gì ở bạn.

Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có những loại ma nào?

Ma là một khái niệm trừu tượng, tên gọi phân biệt theo vùng miền. Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, có những loại ma nào?
Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có những loại ma nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

"Ma" là một khái niệm trừu tượng, tên gọi phân biệt theo vùng miền. Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, có những loại ma nào?


► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật

Ma là một khái niệm trừu tượng, là phần phi vật chất của một người đã chết (hay hiếm hơn là một động vật đã chết). Theo quan niệm của một số tôn giáo và nền văn hóa, con người gồm 2 phần là thể xác và linh hồn. Khi thể xác chết, linh hồn thoát khỏi thể xác. Nếu linh hồn đó không có cơ hội đầu thai hoặc nơi trú ngụ chung với các linh hồn khác mà tương tác với cõi thực có con người sẽ gọi là “ma”, “hồn ma” hoặc “quỷ”.

Trong tin nguong dan gian Viet Nam co nhung loai ma nao hinh anh
Ảnh minh họa

Những loại ma phổ biến:

 

Ma trơi

  Ma trơi hay ma chơi, là những đám lửa sáng lập lòe được nhìn thấy vào ban đêm ở những bãi tha ma. Đây là một hiện tượng tự nhiên duy nhất mà đến nay các nhà khoa học có thể giải thích được bằng tri thức khoa học, không hề thần bí như nhiều người mê tín (tưởng là ma) đã kể.   Ma trơi là hiện tượng các hợp chất phosphor được hình thành từ hoạt động của vi khuẩn sống dưới lòng đất phần mộ (gồm hai chất đó là Phốtphin (PH3) và diphotphin) trong xương người và sinh vật dưới mồ bốc lên thoát ra ngoài, gặp không khí trong một số điều kiện nhất định sẽ bốc cháy thành lửa. Các đốm lửa nhỏ với độ sáng khá nhỏ (xanh nhạt), lập lòe, khi ẩn khi hiện. Ban đêm mới thấy được ánh sáng còn ban ngày thì các đốm lửa này có thể bị ánh sáng mặt trời che khuất.   Hiện tượng ma trơi đuổi theo: khi gặp ma trơi, con người sẽ sợ, hoảng loạn và chạy. Khi đó sẽ sinh ra một luồng khí chuyển động làm ngọn lửa bay theo chiều gió theo hướng người chạy.  

Ma gà

  Ma gà có tên gọi khác là ma chài hoặc ma ngũ hải, có nguồn gốc từ một số dân tộc miền núi Lạng Sơn như Tày, Nùng…Đây cũng là một trong những điều bí ẩn lớn nhất tại các bản làng vùng cao. Những người tin vào sự tồn tại của ma gà cho rằng, nó được sử dụng như một loại bùa ngải có tác dụng đem lại may mắn cho gia chủ hoặc trù ếm kẻ thù từ xa. Kẻ bị nguyền có thể gặp phải trăm vàn xui xẻo tai họa như bệnh tật, tai nạn, bị thù ghét…   Cho đến bây giờ, chưa từng có ai biết hình dạng thật sự của con “ma gà”, tất cả chỉ dựa vào những câu truyện truyền miệng từ đời này qua đời khác, để rồi nó trở thành một hủ tục kinh dị ăn sâu vào tiềm thức những người dân vùng cao. Tất cả những người tin vào “ma gà” đều cho rằng không phải ai cũng “nuôi” được ma gà, chỉ có những người sinh ra trong gia tộc, dòng họ có truyền thống nuôi “ma” truyền lại mới có thể nuôi được. Ma gà được nuôi trong một cái hũ sành, để ở xó xỉnh tăm tối nhất, kín đáo nhất của ngôi nhà, cái hũ này sẽ được đậy kín trong mọi trường hợp. Mỗi tháng, vào một ngày nhất định, người nuôi “ma gà” phải tắm rửa sạch sẽ, khấn vái làm lễ cho “ma” ăn, thức ăn thường là một con gà sống. Nếu cứ đến ngày đó, “ma” không được ăn gì thì cũng phải “nhập” được vào một ai hoặc một con vật bất kỳ, nếu không gia chủ phải thế mạng. Ai đã bị con ma gà nhập vào, phải mời thầy cúng làm lễ trừ tà.  

Ma xó

  Ma xó có nguồn gốc từ phong tục của các dân tộc thiểu số ở vùng thượng du Tây Bắc, tại xứ Mán, Mèo. Khi nhà có người chết thì các thầy mo sẽ bó xác chết cho cứng lại rồi bỏ vào một cái quan tài dựng đứng đặt ở góc tối của ngôi nhà (loại quan tài này được tạo thành từ một thân cây rỗng ruột). Các thầy mo sẽ cúng cơm cho ma ăn mỗi ngày và ngày nào cũng gọi tên của nó cho đến khi con ma xó trả lời lại thầy mo bằng một hình thức tương tác tâm linh đầy bí ẩn. Sau một khoảng thời gian tương đối dài, thầy mo sẽ dạy cho con ma xó cách thức giữ nhà, khi thành công thì có mở cửa nhà cũng không ai dám vào nhà mà phá phách, trộm cắp.   Theo truyền thuyết, ma xó có uy lực rất lớn, nó có khả năng bẻ gãy cổ một người trưởng thành trong tích tắc. Khi ai đó tự ý bước vào nhà và chạm vào bất kỳ đồ vật nào của người bản xứ lúc vắng chủ, ma xó sẽ làm kẻ không mời đó trào máu ra thất khiếu mà chết đứng!
 

Ma lai

  Ma lai (còn gọi là ma lai ba khoang) là một loại ma trong truyền thuyết, chuyên đi ăn phân, nội tạng của người hay súc vật. Tương truyền Ma lai 3 khoang cũng là những cô gái đẹp ở vùng Tây Bắc, khu vực giáp ranh xứ Lào, đây là những thiếu nữ cực kì diễm lệ với cổ cao ba ngấn đỏ hồng….nhưng khi gần gũi lúc nào cũng có cảm giác phảng phất mùi tanh tưởi đâu đó!   Dân gian đồn rằng vào những đêm trăng khuyết, khi mọi người đều an giấc… chiếc đầu của cô gái này sẽ tách khỏi thân mình cùng với ba đốt sống ở cổ, mang theo cả bộ lục phủ ngũ tạng, đặc biệt là cà bộ ruột lòng thòng mà không một nhiểu máu!….Ma lai sẽ bay đi trong màn sương qua các bụi rậm để tìm phân hay hay đàm rải của con nguời thải ra mà ăn!…Nếu tìm không có thì nó sẽ tạm dùng cứt trâu còn lầy hay những xác cóc nhái chết sình trương… ma lai phải về nhập lại thân mình trước khi giờ Dần đến (trước 4 giờ sáng) vì khi có sáng mặt trời xuất hiện chiếu vào bộ ruột của nó thì con ma lai sẽ bị chết ngay lập tức!   Cũng có người cho rằng khi lật úp cái xác của ma lại trong lúc nó đã tách khỏi xác thì con ma lai không thể nhập vào xác được mà phải năn nỉ kẻ đã úp xác nó lại…Nếu kẻ ấy muốn nó chết thì cứ để đến lúc mặt trời lên! Tự khắc từ cổ thân hình đang nằm sấp kia sẻ trào hết máu ra…lúc ấy là hết đời thiếu nữ Ma lai.!  

Ma da

  Có thể phân loài ma này thuộc quái vật nước do môi trường sinh sống là ẩn mình dưới nước. Do Việt Nam là một đất nước có hệ thống sông ngòi chằng chịt nên việc con người bị chết đuối xảy ra thường xuyên nên dân gian kể nhau nghe câu chuyện ma da để hù dọa, răn đe lũ con nít chăng?
Trong tin nguong dan gian Viet Nam co nhung loai ma nao hinh anh
Thờ ma xó (Ảnh minh họa)
Loài ma da này thường được miêu tả như sau: Khi bạn bơi dưới nước nơi hoang vắng hay bơi qua một khúc sông chỉ có một mình thì ma da sẽ xuất hiện từ bên dưới, nó kéo cẳng chân bạn lôi sâu xuống dưới nước, kết quả là bạn chết ngộp. Có nơi miêu tả nó có hình dạng như một đứa trẻ con, có nơi nó như một tấm vải đen to lớn, có nơi thì ví nó có màu xanh, trơn nhớt như rong rêu bám dưới đáy sông. Nhưng dù gì đi nữa thì với tình trạng chết do đuối nước thường diễn ra thì câu chuyện về ma da sẽ vẫn được nhắc đến.
 

Bóng đè

  Bóng đè hay còn gọi là ma bóng đè không gây nguy hiểm đến con người. Theo mô tả của một số người từng bị bóng đè thì ma bóng đè có hình dáng như con người, đen như màn đêm. Khi bạn đang chìm vào trong giấc ngủ sâu thì bạn sẽ bị rơi vào trạng thái mơ màng, có thể bạn sẽ có cảm giác như thấy mình bị rơi từ trên cao xuống vực, hoặc thấy bị ai đó bóp cổ, bị chó đuổi, rắn tấn công…muốn chạy mà không nhúc nhích nổi. Có người cảm thấy như nghe có sức mạnh đè lên người mà không thể nào đẩy ra được, khó thở, có khi bị ảo giác nhìn thấy những hình ảnh khủng khiếp, hoặc nghe được âm thanh bí ẩn. Có người còn thấy hình như có ai đó đứng, ngồi bên cạnh hay cảm giác như bị đẩy ngã ra khỏi giường,… Đó là hiện tượng “bóng đè” mà mỗi người ít nhất 1 lần trong đời phải trải qua.   Về mặt khoa học, có rất nhiều nguyên nhân khiến bóng đè xảy ra. Nguyên nhân chủ yếu là do căng thẳng tâm lý, lo lắng hay stress do sức áp từ công việc, do đảo lộn chu trình của giấc ngủ, những yếu tố tâm lý này kích thích lên vỏ não, gây ra hiện tượng bóng đè. Do tư thế nằm ngủ, người để tay lên ngực khi ngủ sẽ gây khó khăn cho việc thở và dễ bị bóng đè. Cà phê và rượu cũng là tác nhân gây nên bóng đè. Cũng có khi bóng đè là dấu hiệu của một số bệnh tim mạch, nhưng những trường hợp này chiếm rất ít.   Ngoài những loại ma kể trên, còn có:   Ma men là vong hồn của những người say khi chết đi thành ma vẫn thường hay lôi kéo người khác say sưa tới chết.   Ma thần vòng là hồn ma của những người thắt cổ chết sau đó xui khiến người khác cũng thắt cổ tự tử chết như họ.   Ma trành hay còn gọi là ma cọp dữ, thường tìm dẫn cọp bắt ăn người khác để nó được đầu thai…   và nhiều loại ma khác như ma le, ma hời, ma lon…
ST.

11 tình huống chứng tỏ bạn có thể nhìn thấy Ma 9 điềm báo gặp ma và cách hóa giải trong tháng 7 ma khóc quỷ hờn Bỏ tiền lẻ bên người chết đường chết chợ để làm gì?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có những loại ma nào?

Chùa Sải - Hà Nội

Chùa Sải có tên chữ là Tĩnh Lâu tự. Chùa nằm bên bờ Hồ Tây - thành phố Hà Nội. Chùa Tĩnh Lâu được công nhận di tích lịch sử văn hóa ngày 26/6 /1996
Chùa Sải - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Sải có tên chữ là Tĩnh Lâu tự. Chùa nằm bên bờ Hồ Tây trên địa phận làng Hồ Khẩu thuộc tổng Trung, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức, nay là phường Bưởi, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Chùa Tĩnh Lâu được công nhận di tích lịch sử văn hóa ngày 26 tháng 6 năm 1996 của Bộ Văn hóa – Thông tin Việt Nam.

Theo tấm bia cổ còn lại tại chùa, ngôi chùa nằm trên một diện tích rộng lớn đến 10 công mẫu, sát mép nước hồ Tây. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa thì chùa Tĩnh Lâu có từ thời Lý. Trước đây chùa có tên gọi là Thanh Lâu tự và có tên gọi nôm là chùa Sải, về sau đến thời nhà Nguyễn thì đổi tên thành chùa Tĩnh Lâu.

Chùa Sải được dựng trong một khu vực có cảnh quan đẹp, phía trước chùa là hồ Tây, và cảnh quan toàn khu vực còn có sự hiện diện của chùa Trấn Quốc, đền Vệ Quốc, phủ Tây Hồ… tạo nên một quần thể di tích văn hóa.

Tam quan chùa làm theo kiểu vòm cuốn với kiến trúc hai tầng tám lá mái, được lợp ngói theo kiểu ngói ống giả vôi vữa tạo ra vẻ thanh thoát nhẹ nhàng. Khu chính điện của chùa được kết cấu theo kiểu chữ đinh (丁), gồm năm gian tiền đường và bốn gian hậu cung.

Mái chùa lợp ngói mũi hài, bờ nóc ở hai đầu kìm đắp hai dấu vuông, bờ dải phía dưới xây theo kiểu tam cấp trên trang trí các hoa văn hình chữ triện. Phía trước chùa được mở đầu bằng hai cột đồng trụ xây nối liền với tường hồi của gian tiền đường, trên đỉnh cột đồng đắp đôi nghê trong tư thế chầu nhằm thể hiện mục đích soi xét tâm linh con người trước khi bước vào cửa thiền. Dưới mỗi đôi nghê là mui luyện, lồng đèn và trên đó đều đắp các hình trang trí như đầu rồng, mặt hổ phù, hoa lá v.v. Thân trụ được tạo vuông các mặt để viết câu đối lên trên đó.

Trong chùa Tĩnh Lâu còn lưu giữ được những tác phẩm có giá trị mang phong cách nghệ thuật Việt Nam từ thế kỷ 17. Đáng chú ý là tòa Cửu Long của chùa được làm khác với các các tòa Cửu Long khác, mang dáng dấp của một chiếc lọng che (bảo cái).

Ba pho tượng Tam thế trong chùa được tạo tác vừa phải gần với kích cỡ của người thật, trong tư thế ngồi kiết già trên đài sen ba lớp với khuôn mặt thon nhỏ, sống mũi thẳng, miệng hơi mỉm cười và đôi mắt khép hờ như đang nhìn xuống. Ngoài ra còn có 38 pho tượng lớn nhỏ khác, trong đó bộ tượng A Di Đà cao 1,34m là bộ tượng lớn nhất trong Phật điện. Tại cửa ra vào còn treo một quả chuông đồng được đúc vào năm Cảnh Thịnh thứ 7 (1799), trên chuông khắc dòng chữ Thanh Lâu thiền tự (nghĩa là chuông chùa Thanh Lâu).

Trong chùa còn lưu giữ 15 tấm bia đá, khu vườn Tháp mộ cùng nhiều hoành phi, câu đối cổ đã khiến cho di tích chùa Tĩnh Lâu trở thành một công trình kiến trúc Phật giáo hoàn chỉnh và là một cấu trúc nguyên mẫu về chùa cổ Việt Nam.

Chùa Sải
Tháp mộ trong chùa

Tháng 4 năm 2007, tại chùa phát hiện một ngôi mộ cổ được táng theo kiểu “trong quan ngoài quách”. Với kiểu xây dựng hình mu rùa, bước đầu xác định ngôi mộ này dành cho một người đã khuất thuộc tầng lớp thuộc hàng vương thất, quan lại hoặc chí ít cũng là người giàu có. Trên nền đất chùa Tĩnh Lâu cách đây khoảng 40 năm cũng từng phát hiện một ngôi mộ của một công chúa. Hiện nay Sư cô Thích Đàm Chung đương kim trụ trì.

Chùa Tĩnh Lâu (chùa Sải) toạ lạc bên bờ Hồ Tây, tạo nên một danh lam thắng tích nổi tiếng ở đất kinh kỳ thu hút nhiều phật tử và du khách đến thăm quan và cúng bái.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Sải - Hà Nội

Vận trình của 12 chòm sao trong Tết Đoan Ngọ

Tháng 5 đi qua, tháng 6 đã tới, Tết Đoan Ngọ đã ở rất gần, cùng xem vận trình của 12 chòm sao xem ai có một mùa lễ tết vui vẻ và tốt đẹp nhất nhé.
Vận trình của 12 chòm sao trong Tết Đoan Ngọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tháng 5 đi qua, tháng 6 đã tới, Tết Đoan Ngọ đã ở rất gần, cùng xem vận trình của 12 chòm sao xem ai có một mùa lễ tết vui vẻ và tốt đẹp nhất nhé.


Van trinh cua 12 chom sao trong Tet Doan Ngo hinh anh 2
 
Bạch Dương ★★★★★   Trong vận trình 12 chòm sao Tết Đoan Ngọ thì Bạch Dương là rạng rỡ nhất. Nhân dịp này, nên xuất hành, đi du ngoạn, thưởng thức phong cảnh và hít thở không khí trong lành. Hãy đi cùng quý nhân Song Ngư, hướng tới phía Bắc may mắn sẽ thu hoạch được điều tốt. Đây cũng là cơ hội rất tốt để chòm sao này thổ lộ tình cảm với người thầm thương trộm mến.   Kim Ngưu ★★★☆☆   Vận thế của chòm sao Kim Ngưu có chút trục trặc, công việc ít nhiều khó khăn, trong nhà cũng có việc phiền lòng, nên cùng bạn bè đi du lịch để thả lỏng tâm tình. Màu da cam là màu may mắn của chòm sao này.
Song Tử ★☆☆☆☆   Sự nghiệp không thuận lợi, tình cảm rắc rối, Song Tử là chòm sao kém may mắn nhất dịp Tết Đoan Ngọ. Nhân cơ hội này, hãy cho bản thân một kì nghỉ, ở nhà xả hơi và nạp thêm năng lượng. Nên bày vật phẩm phong thủy khai vận ở hướng Đông để tăng may.   Cự Giải ★★★☆☆

Tài lộc có vào có ra, thận trọng khi mang tiền ra khỏi nhà. Nên cùng quý nhân Thiên Bình cùng nhau hợp tác.   Sư Tử ★★★★★   Vận thế của Sư Tử rất thuận lợi, ở công ty được cấp trên khen ngợi, đồng nghiệp hòa hợp, tình cảm thăng hoa, người độc thân gặp đào hoa vận. Chỉ có điều tài vận không tốt lắm, đừng ham mấy trò đỏ đen.   Xử Nữ ★★★★☆   Xử Nữ trong tết Đoan Ngọ vận thế không tồi, công việc ổn định, quan hệ đồng nghiệp tốt đẹp. Nhưng cần đề phòng những người lạ xung quanh, tránh nổi giận vì sẽ gây nên thị phi. Phương vị may mắn là chính Nam, quý nhân là chòm sao Cự Giải, màu tốt lành là xanh lục.
Tìm cách khai vận cho 12 chòm sao trong kỳ thi Quốc gia Chỉ số thông minh của 12 cung hoàng đạo Ước mơ thuở nhỏ cực dễ xương của 12 cung hoàng đạo
Thiên Bình ★★★☆☆   Tình cảm đặc biệt tốt, chòm sao Sư Tử có thể trợ giúp Thiên Bình rất nhiều. Hướng Đông Nam mang may đến, nên chọn địa điểm theo hướng này để tỏ tình, nhất định thành công.    Thiên Yết ★☆☆☆☆   Thiên Yết ăn Tết Đoan Ngọ cũng không yên ổn vì công việc khúc mắc, cần phải làm việc cần cù, chăm chỉ hơn để vượt qua. Tình yêu vì bận rộn mà không mặn mà. Tốt nhất là nên tập thể thao để cân bằng cuộc sống.   Nhân Mã ★★★☆☆   Nếu cứ sống theo khuôn phép cũ thì Nhân Mã sẽ cảm thấy rất vô vị, nhàm chán. Tình yêu mà cứ mãi đơn phương sẽ không có kết quả, cần cố gắng hơn, đôi khi phải mãnh liệt một chút. Màu may mắn là xanh lục.
Thiên Yết ★★★★☆   Tổng thể vận trình của Ma Kết đang thăng cấp, bất luận là sự nghiệp, tình yêu hay học hành đều tiến bộ, tài lộc cũng hanh thông. Hướng Tây là hướng tốt.

Van trinh cua 12 chom sao trong Tet Doan Ngo hinh anh 2
 
Thủy Bình ★★★☆☆   Tâm tình của Thủy Bình không ổn định, dễ bị ngoại cảnh chi phối, nên tin tưởng vào bản thân. Đông Nam là hướng may mắn, nên tranh thủ đi học thêm một nhạc cụ, sẽ giúp tâm tình thả lỏng hơn.
Song Ngư ★★★★☆   Trong Tết Đoan Ngọ, cung Song Ngư công việc và học tập đều tốt, nhưng tình cảm lại buồn phiền vì không tự tin. Nên tham khảo ý kiến của những người lớn tuổi để thêm kinh nghiệm.
Chỉ điểm cách giải tỏa áp lực trước kì thi cho 12 chòm sao Tìm cách khai vận cho 12 chòm sao trong kỳ thi Quốc gia 4 chòm sao tài lộc kém may trong nửa cuối năm 2016 Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận trình của 12 chòm sao trong Tết Đoan Ngọ

Xem tính cách theo giờ sinh

Người với người sinh ra đã có bề ngoài và tính cách bất đồng. Cùng Lịch Ngày Tốt tìm hiểu về tính cách theo giờ sinh để biết thêm thông tin nhé.
Xem tính cách theo giờ sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người với người sinh ra đã có bề ngoài và tính cách bất đồng. Bởi sự bất đồng đó mới có xã hội đa dạng, phân biệt được giữa người này với người kia. Sự khác nhau của con người với con người ngoài yếu tố di truyền, môi trường, hoàn cảnh thì giờ sinh cũng có góp phần quan trọng. Cùng Lịch Ngày Tốt tìm hiểu về tính cách theo giờ sinh để biết thêm thông tin nhé.

Gio sinh quyet dinh  ngoai hinh, tinh cach cua mot nguoi nhu the nao hinh anh
 
Một người từ lúc sinh ra, có giờ sinh khác nhau đã quyết định tính cách khác nhau, kéo theo đó là số mệnh khác nhau, ngoại hình khác nhau. Tính cách theo giờ sinh có ảnh hưởng lớn tới những bước phát triển tiếp theo. Cùng với ngày sinh, tháng sinh, năm sinh thì giờ sinh hợp thành bát tự - lá số tử vi trọn đời, định sẵn từ khi chào đời, không thể thay đổi, chỉ có thể định hướng.   Như vậy, người có giờ sinh giống nhau thì sao? Về cơ bản, những người trùng giờ sinh sẽ có một số đặc trưng về tính cách, ngoại hình tương tự nhau. Tuy nhiên, sự khác nhau về ngày tháng năm sinh, về gen di truyền, về ngoại cảnh môi trường sẽ tác động khiến sự khác nhau ở những con người này nhiều hơn sự giống nhau.  

Giờ Thân (15h-17h), giờ Dậu (17h-19h)

  Giờ Thân và giờ Dậu là lúc mặt trời ngả về hướng Tây, ngày sắp kết thúc, thuộc ngũ hành Kim. Người sinh vào giờ này thì dáng hình tương xứng, cân đối, khuôn mặt trắng trẻo tươi tắn, lông mày cao, mắt sâu. Tính cách quyết đoán cương nghị, sôi nổi nhiệt tình, biết rõ lễ nghĩa liêm sỉ. Nhưng xét về khuyết điểm thì hữu dũng vô mưu, quá nóng vội nên thường làm hỏng việc, không mưu thành việc lớn, thiếu điềm tĩnh, tự chủ.  

Giờ Dần (3h-5h), giờ Mão (5h-7h)

  Dần, Mão thuộc ngũ hành Mộc, chính là thời khắc ánh bình minh của một ngày mới vừa ló rạng, tràn ngập phấn chấn, mới mẻ. Người sinh ra vào thời khắc này bất luận là nam hay nữ đều có phong thái tú lệ, dáng người cao thon, xương dài, chân tay nhẵn nhụi, đặc biệt là có mái tóc óng ả, dày mượt khiến nhiều người phải cất lời khen ngợi.    Tính cách theo giờ sinh phán đoán rằng, người sinh giờ Dần, giờ Mão có lòng trắc ẩn và tinh thần bác ái, tính tình chất phác, không giả tạo. Khuyết điểm của người này là có lúc thiếu công bằng, sinh lòng ghen tị trùng trùng nên hay so đo, tính toán với người khác, không được rộng rãi.
Tham khảo thêm bài viết: Luận giải vận số của người tuổi Mão theo giờ sinh cùng tất cả vận trình của 12 con giáp trên trang lịch Ngày Tốt.
 

Giờ Hợi (21h-23h), giờ Tý (23h-1h)

  Tý, Hợi thuộc ngũ hành Thủy, màn đêm thăm thẳm bộc lộ, chính là thời khắc Thủy vượng nhất. Người sinh ra vào giờ này thì khuôn mặt có sắc thái đen, trong đôi mắt lộ ra ánh sáng trí tuệ, là người túc trí đa mưu. Lời nói cử chỉ thanh nhã, ôn hòa, khiến người khác khi tiếp xúc phải trải qua cảm giác đắn đo, suy nghĩ, dò xét. 
Gio sinh quyet dinh  ngoai hinh, tinh cach cua mot nguoi nhu the nao hinh anh
 
Khuyết điểm của người sinh giờ Tý, Hợi là do dự. thiếu quyết đoán, nhiều khi vô tâm đến vô thường, không quan tâm chú ý tới thời cuộc, đứng bên ngoài lề xã hội, buông bỏ tất cả.  

Giờ Tị (9h- 11h), giờ Ngọ (11h-13h)

  Tị, Ngọ thuộc ngũ hành Hỏa, là buổi ban ngày giữa trưa. Người sinh vào những giờ này thường có bàn chân nhỏ mà dài, lông mày rậm, tai nhỏ. Bởi sinh ra lúc Hỏa vượng nên tính tình chất phác, thật thà, nhiệt tình, làm người khiêm tốn, cung kính, biết trên biết dưới. Khuyết điểm của người này là làm việc không có đầu có đuôi, thường xuyên bỏ dở giữa chừng nên chưa đi tới kết quả như mong muốn.  

Giờ Sửu (1h-3h), giờ Thìn (7h- 9h), giờ Mùi (13h- 15h), giờ Tuất (19h- 21h)

  Sửu, Thìn, Mùi, Tuất thuộc ngũ hành Thổ, những người sinh vào các giờ này phần nhiều có dáng người tròn đầy, eo lớn, mũi nở, lông mày thanh tú, mắt đẹp. Tính cách theo giờ sinh báo rằng họ có chữ tín, trung thành, chí hiếu lại rộng lượng, là người quân tử điển hình.    Đây là loại người nói được làm được, không hứa suông, không nói xong để đấy. Khuyết điểm lớn nhất của họ là hướng nội và quá trầm tĩnh, đầu óc có lúc rất cố chấp, bảo thủ, không chịu tiếp thu cái mới cũng không chịu khắc phục những điểm còn thiếu sót của bản thân nên khiến người khác khó chịu, khó làm việc chung. Ngoài tính cách và ngoại hình, tử vi còn xác định mối quan hệ giữa tình yêu, hôn nhân và giờ sinh. Điều này cho thấy, yếu tố giờ sinh có ảnh hưởng cực kì quan trọng đối với cuộc đời của một người.

Giờ sinh hưởng trọn phúc khí của 12 con giáp Xem giờ sinh đoán tính cách cực chuẩn Coi số mệnh sướng khổ qua giờ sinh theo mùa

Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tính cách theo giờ sinh

Con đường sự nghiệp của người tuổi Ngọ

Người tuổi Ngọ không bao giờ hài lòng với những gì họ đã làm và luôn sợ rằng tài năng của mình sẽ bị mai một. Tuy nhiên, mọi người không thể phủ nhận rằng mỗi
Con đường sự nghiệp của người tuổi Ngọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

việc họ làm đều rất có ý nghĩa.

(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)

Về tài vận, người tuổi Ngọ ít khi phải lo lắng đến vấn đề tiền bạc. Họ có tài ngoại giao, khả năng ăn nói khéo léo. Chính vì vậy mà những người này thường kiếm tiền và trở nên giàu có dựa trên các mối quan hệ chứ không phải bằng một công việc ổn định cụ thể nào cả. Họ thường làm các công việc mang tính dao động, không chắc chắn. Do vậy, nguồn thu nhập của họ cũng không ổn định, thường là “được ăn cả, ngã về không”.

Cuộc đời những người này thường có nhiều thành công nhưng cũng không ít thất bại. Con đường tài vận của họ cũng giống như vậy. Nếu làm kinh doanh họ có thể lãi to và cũng có thể thua lỗ lớn. Người tuổi Ngọ cần nắm bắt được yếu điểm này để có sự điều chỉnh phù hợp.

Ở tuổi trung niên, họ có thể sẽ được hưởng rất nhiều tài lộc ngoài sự mong đợi như được hưởng thừa kế hoặc trúng số độc đắc.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp cuộc đời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con đường sự nghiệp của người tuổi Ngọ

Nguyên nhân khiến bạn nghèo mãi không giàu

Bạn luôn muốn mình có nhiều tiền hơn, nhưng cũng luôn có suy nghĩ là do số phận, “số” mình không giàu được. Nếu muốn đứng vào hàng ngũ những
Nguyên nhân khiến bạn nghèo mãi không giàu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

người giàu có thì dẹp ngay những tư tưởng ấy đi nhé.

  1. Nhìn tiền bạc theo quan điểm của người thường
 
Nếu chỉ tập trung vào việc tiết kiệm được bao nhiêu tiền thay vì nghĩ cách đầu tư số tiền ấy để sinh lời thì bạn sẽ chẳng bao giờ gia nhập được hàng ngũ của người giàu.

Nguyen nhan khien ban ngheo mai khong giau hinh anh
 
  2. Cho là mình không xứng đáng để giàu có   Bạn thường nghĩ rằng giàu có là do may mắn, do "số Trời" và thường thì “số” mình không được… may cho lắm.
 
3. Cho rằng tiền là nguồn gốc của mọi tội lỗi   Tiền không thể đảm bảo bạn có hạnh phúc, nhưng nó sẽ giúp cuộc sống dễ thở và vui vẻ hơn rất nhiều.   4. Cho rằng làm người nghèo là thanh cao   Tham vọng không phải là tội lỗi, mà là điều rất tốt, muốn cuộc sống tốt hơn không phải là tham lam.   5. Sợ mất bạn bè
 
Bạn bè chơi với nhau không phải vì tiền, bạn bè thực sự chẳng quan tâm bạn có bao nhiêu tiền.
 
6. Không cho là mình đủ thông minh để giàu   Giàu nghèo không phải do giáo dục. Hãy luôn học hỏi và kiểm soát việc tự học của bản thân ngay từ hôm nay.

Nguyen nhan khien ban ngheo mai khong giau hinh anh 2
 
  7. Cho là mình sẽ phải hy sinh cuộc sống gia đình   Đừng ngụy biện rằng mình không thể đánh đổi hạnh phúc gia đình với những thành công lớn. Bạn có quyền có cả 2, nhưng bạn vẫn nghèo vì chưa tìm ra cách để cân bằng.   8. Phải đánh đổi thời gian để lấy tiền bạc   Phần lớn mọi người tin rằng càng bỏ ra nhiều thời gian thì càng kiếm được nhiều tiền. Hãy dừng ngay suy nghĩ đó lại và tìm cách kiếm tiền mất ít thời gian nhất.  
Biết cách chọn địa thế tốt để việc làm ăn phất như vũ bão
Phong thủy văn phòng tốt hay xấu sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển của công ty, mà ảnh hưởng lớn nhất về phong thủy chính là địa chỉ, đắc địa
9. Nghĩ xấu cho người giàu   Nói chung thì, đa phần mọi người nghĩ rằng người giàu làm từ thiện để né thuế mà thôi. Nhưng thực ra, phần lớn người giàu cho đi là vì họ đủ khả năng làm thế. Họ là những người hào phóng nhất thế giới và đóng góp hàng triệu đôla mỗi năm vì những mục đích rất nhân văn.   10. Có tâm lý trúng số   Người bình thường rất thích chơi xổ số, vì cho rằng đó là cách duy nhất giúp họ giàu lên. Thực tế là họ đúng đấy. Vì với những người này, không phải là họ không thể, mà là không có niềm tin vào năng lực bản thân. Và chính những suy nghĩ đó đã hạn chế thành công tài chính của họ.   11. Sợ thất bại   Phần lớn mọi người cho rằng thất bại là việc rất đau đớn và nên tránh xa hết mức có thể, để duy trì sự tự tin và phẩm giá. Vì thế, họ chỉ làm những việc biết chắc là làm được. Sự thực, thất bại chính là viên gạch cần thiết để tạo nên thành công. Hãy coi đó là cơ hội để bạn học hỏi và phát triển.

Nguyen nhan khien ban ngheo mai khong giau hinh anh 3
 
  12. Chỉ giao lưu với những người nghèo   Nhà bác học Einstein từng nói nhận thức có thể lan truyền. Nếu muốn giàu có, bạn cần thiết lập mối quan hệ với những người giàu nữa, và học hỏi từ họ.   13. Chỉ thích sống thoải mái   Rất nhiều người luôn hướng tới cuộc sống thoải mái cả về thể chất, tinh thần và cảm xúc. Nhưng trở thành triệu phú không dễ thế đâu, và bạn phải biết hy sinh. Bạn sẽ phải trả giá cho sự giàu có, nhưng nếu đủ cứng cỏi về tinh thần để chịu nỗi đau tạm thời, bạn sẽ gặt hái được thành quả lớn đấy.
=> Xem ngày tốt chuẩn xác để tiến hành các việc đại sự theo Lịch vạn sự

S.T

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguyên nhân khiến bạn nghèo mãi không giàu

4 quy tắc đặt cây cảnh trên bàn làm việc

Hiện nay có rất nhiều người thích đặt chậu cây nhỏ trên bàn làm việc của mình để cho đẹp và thanh lọc không khí. Nhưng khi bày chậu hoa, các bạn cần phải tìm
4 quy tắc đặt cây cảnh trên bàn làm việc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Hiện nay có rất nhiều người thích đặt chậu cây nhỏ trên bàn làm việc của mình để cho đẹp và thanh lọc không khí. Nhưng khi bày chậu hoa, các bạn cần phải tìm hiểu một số quy tắc của nó.

Thông thường, thực vật nên đặt ở 4 góc của bàn làm việc. Như vậy không những có thể làm đẹp mà còn khiến cho sức sống và sinh khí của cây phát huy hiệu quả tốt nhất.

Ngoài ra, đặt chậu cây ở gần cửa sổ cũng rất tốt. Bởi vì nếu cửa sổ rộng, đặt cây ở đó vừa bổ sung được không gian trống, vừa làm cho cây hấp thụ được ánh sáng mặt trời tốt nhất. Đồng thời, theo phong thủy, cây đặt ở trước cửa sổ có thể ngăn chặn sát khí xông vào cửa sổ.

4 quy tac dat cay canh tren ban lam viec hinh anh
Nên đặt chậu cây ở 4 góc bàn




Khi đặt chậu cây thì các bạn cần chú ý mấy quy tắc sau:

1. Không nên đặt cây ở lối đi lại của mọi người. Làm như vậy không những gây phiền phức mà còn ảnh hưởng không tốt đến sự sinh trưởng của cây.

2. Cần chú ý chỉnh thể và kết cấu của bàn để phối hợp. Không nên chọn cây quá to để trên bàn, nếu không sẽ tạo cảm giác thế tuyên binh đoạt chủ, làm cho bàn làm việc mất cân bằng.

3. Không được đặt chậu cây ở giữa bàn.

4. Nếu hệ thống thông gió và ánh sáng trong phòng làm việc không được như ý thì không nên đặt cây trong phòng. Bởi vì điều kiện thông gió và ánh sáng bất lợi sẽ ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây, khiến cây dần khô héo và chết. Đây là đại kỵ trong phong thủy. Vì thế nếu cảm thấy không phù hợp đặt cây trong phòng thì đừng nên miễn cưỡng.
Theo Tracuuphongthuy

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 quy tắc đặt cây cảnh trên bàn làm việc

Xem bói tuổi kết hôn thế nào cho đúng? - Xem bói - Xem Tử Vi

Xem bói tuổi kết hôn thế nào cho đúng?, Xem bói, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Xem bói tuổi kết hôn thế nào cho đúng?, tu vi Xem bói tuổi kết hôn thế nào cho đúng?, tu vi Xem bói

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem bói tuổi kết hôn thế nào cho đúng?

Nữ sinh năm 1987 Đinh Mão phi cung khôn và nam sinh năm 1979 Kỷ Mùi phi cung chấn. Nhiều người cho rằng, hai tuổi này không hợp nhau vì phi cung khôn phối với phi cung chấn sẽ ra cung Tuyệt mệnh. Tuy nhiên, đây là cách hiểu chưa chính xác.

Bạn đọc Nguyễn Phương Dung (Trần Quốc Toản, Hà Nội) chia sẻ, cô sinh năm 1987, bạn trai sinh năm 1979. Mẹ bạn trai bảo cô và anh ấy không thể lấy nhau vì hai tuổi kết hợp với nhau rơi vào cung Tuyệt mệnh. Cô hỏi: Liệu có đúng hai người không hợp tuổi nhau không?

Theo chuyên gia phong thủy Phạm Cương, Công ty Cổ phần Nhà Xuân, nữ sinh năm 1987 Đinh Mão phi cung khôn và nam xem boi sinh năm 1979 Kỷ Mùi phi cung chấn. Nhiều người cho rằng, hai tuổi này không hợp nhau vì phi cung khôn phối với phi cung chấn sẽ ra cung Tuyệt mệnh. Tuy nhiên, đây là cách hiểu chưa chính xác.

Bởi cách tính phi cung chỉ dùng để chỉ sự tương tác giữa người và ngôi nhà, không dùng để xem tuổi kết hôn. Thay vào đó, khi xem xét tuổi kết hôn, theo quan điểm của Nhà Xuân, nên quan tâm tới mối tương quan giữa thiên can, địa chi, nạp âm của vợ chồng.

Bạn tuổi Mão, xét về địa chi rất hợp với chồng tuổi Mùi vì nằm trong cách cục Tam hợp Hợi – Mão – Mùi. Nạp âm bản mệnh cùng hành lại tương hòa, về thiên can: Đinh hỏa vợ sinh Kỷ thổ chồng cũng tốt. Vậy cơ bản tương quan trên là tốt. Vì vậy, bạn không nên quá lo lắng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tuổi kết hôn thế nào cho đúng? - Xem bói - Xem Tử Vi

Điểm danh 5 con giáp có vận mệnh “tốt toàn tập” năm 2016

Người tuổi Tý, Sửu, Thìn, Ngọ, Tuất năm 2016 được nhiều cát tinh, quý nhân phù trợ nên gặt hái được nhiều thành công trong công việc, sự nghiệp và tình duyên.
Điểm danh 5 con giáp có vận mệnh “tốt toàn tập” năm 2016

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!

Người tuổi Tý, Sửu, Thìn, Ngọ, Tuất là những con giáp năm 2016 được nhiều cát tinh, quý nhân phù trợ nên gặt hái được nhiều thành công trong công việc, sự nghiệp và tình duyên.

Người tuổi Tý

Sang năm Bính Dần, người tuổi Tý bắt đầu bước vào cục diện Tam hợp Thái Tuế Trường sinh đại vượng vận, vận thế có sự cải biến tích cực. Bên cạnh đó có phúc tinh Đại quý nhân, Thiên Hỉ, Thiên Đức chiếu mệnh nên vận trình khởi sắc, công việc thuận lợi, tiền bạc dồi dào, tình duyên lí tưởng. Có thể nói đây là một trong những con giáp tốt toàn diện năm 2016.

Chỉ số hạnh phúc trong tình yêu: 4/5
Chỉ số tài vận: 5/5
Chỉ số quý nhân phù trợ: 5/5

Người tuổi Sửu

Cuối cùng người tuổi Sửu cũng thoát khỏi cục diện phạm Thái Tuế suốt 2 năm qua để chào đón năm mới với bước chuyển mình đột phá. Dù không được Thái Tuế giúp đỡ nhưng lại được nhiều quý nhân như Long Đức, Quốc Ấn, Thiên Hỉ, Chính Ấn đại vận tương trợ nên phúc lộc song toàn, quan vận hưng vượng, tình cảm viên mãn, gia đình hạnh phúc.

Sang năm Bính Dần, người tuổi Tý bắt đầu bước vào cục diện Tam hợp Thái Tuế Trường sinh đại vượng vận, vận thế có sự cải biến tích cực. Bên cạnh đó có phúc tinh Đại quý nhân, Thiên Hỉ, Thiên Đức chiếu mệnh nên vận trình khởi sắc, công việc thuận lợi, tiền bạc dồi dào, tình duyên lí tưởng. Có thể nói đây là một trong những con giáp tốt toàn diện năm 2016.

Chỉ số hạnh phúc trong tình yêu: 4/5
Chỉ số tài vận: 5/5
Chỉ số quý nhân phù trợ: 5/5

Người tuổi Thìn

Bính Thân là năm Tam hợp Thái Tuế Trường sinh của người tuổi Thìn, đồng thời Tam hợp Thủy khố chuyển thành Tài khố có lợi lớn cho tài vận. Do đó, trong năm 2016, con giáp này lúc nào cũng rủng rỉnh tiền bạc, không phải trăn trở và suy nghĩ quá nhiều về tài chính.

Bên cạnh đó, tình yêu và hôn nhân của người cầm tinh con Rồng cũng thuận buồm xuôi gió, hạnh phúc ngập tràn. Lại có thêm Thiên Giải tinh tiểu quý nhân giúp hóa giải tiểu nhiên phiền nhiễu, thúc đẩy nhân duyên tốt đẹp, các mối q-uan hệ xã giao hài hòa, tạo nền tảng vững chắc cho sự nghiệp thăng tiến đột phá.

Chỉ số hạnh phúc trong tình yêu: 4/5
Chỉ số tài vận: 5/5

Chỉ số quý nhân phù trợ: 5/5

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>

Người tuổi Ngọ

Nhận được sự tương trợ của Nguyệt Đức quý nhân rơi vào cung Hôn nhân nên nhân duyên của người tuổi Ngọ rất tốt, từ đó thúc đẩy sự nghiệp thăng tiến. Chính tài đại vận đi vào cung Tài vận, thúc đẩy tài lộc vượng. Dịch Mã tinh tại cung Nhân duyên tuy có sự chuyển dịch nhưng không chủ hung mà mang tính thúc đẩy các mối q-uan hệ hài hòa, giúp công việc, sự nghiệp của người tuổi Ngọ thuận lợi.

Chỉ số hạnh phúc trong tình yêu: 5/5
Chỉ số tài vận: 4/5
Chỉ số quý nhân phù trợ: 3/5

Người tuổi Tuất

Trong năm 2016, người tuổi Tuất cùng lúc gặp được Thiên Đức và Nguyệt Đức quý nhân hình thành vận trình Nhật Nguyệt hội chiếu, giúp vận trình khởi sắc, mang tới nhiều điều cát lợi. Đồng thời Tam hội Thái Tuế có thể nhận được sự giúp đỡ của Thái Tuế nên công việc, sự nghiệp cát tường như ý, tình yêu nở hoa kết trái, hôn nhân viên mãn, sức khỏe dồi dào đồng thời tránh xa kẻ tiểu nhân quấy phá.

Chỉ số hạnh phúc trong tình yêu: 4/5
Chỉ số tài vận: 2/5
Chỉ số quý nhân phù trợ: 5/5

>> Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé! >>

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm danh 5 con giáp có vận mệnh “tốt toàn tập” năm 2016

Muốn may mắn vượt qua tháng cô hồn, xem 3 mẹo phong thủy mang bình an

Tháng 7 âm lịch hàng năm còn gọi là “tháng cô hồn”. Xác suất tai nạn và rủi ro khá cao nên bạn hãy cẩn thận trong mọi tình huống.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hầu hết mọi người đều đồng ý rằng tháng bảy âm lịch (dương lịch là tháng tám) thường là một tháng kém may mắn nhất trong năm. Trong tháng cô hồn, không hề thích hợp cho những công việc trọng đại như cải tạo nhà cửa, đầu tư, mua tài sản, bay ra nước ngoài,.... Đây là lý do tại sao các doanh nghiệp thường đưa ra những khuyến mại hời cho khách hàng trong tháng này.

Bên cạnh những kiêng kị cần tránh trong tháng cô hồn, mọi người có thể 'duy tâm' một chút với những mẹo phong thủy hút vận may, cũng như bảo vệ bản thân bạn.

1. Bày lễ cúng xá tội vong nhân

Theo kinh Phật, Phật tổ đã chỉ dạy cho đồ đệ thân tín giải cứu mẹ ông khỏi kiếp ngạ quỷ (quỷ đói) bằng cách vận động chư tăng dâng lễ cúng. Theo lời Phật, mẹ của vị đồ đệ được giải thoát. Phật cũng dạy rằng chúng sinh muốn báo hiếu cho cha mẹ thì làm theo cách này. Từ đó ngày lễ Vu Lan ra đời. Ngoài ra, ở nhiều nơi, dân gian hiểu rộng ra thành lễ cúng cô hồn, tức là cúng thí cho những vong hồn vật vờ không nơi nương tựa vì không có ai là thân nhân trên trần gian cúng bái.

Thông thường, mọi người hay cúng thịt lợn, thịt gà, hoa quả, bánh kẹo, rượu bia,...Các vật phẩm sẽ được bày trên mâm để trước cửa nhà hoặc văn phòng để các vong nhân không vào bên trong. 

2. Bày vật phẩm phong thủy

Các vị thần Hộ pháp, theo truyền thuyết, có thể chiến thắng các thế lực tà ác. Do vậy, những cửa hàng, công ty, thường thích thờ cúng tượng thần Hộ pháp để bảo vệ cơ nghiệp của mình.


Đối với cá nhân, các bạn có thể đeo một chiếc vòng mặt thần Hộ pháp hoặc bùa hộ mệnh để bảo vệ mình trong tháng này.

3. Bảo vệ cửa trước

Cửa trước luôn là nơi quan trọng nhất được các chuyên gia phong thủy chú ý. Trong tháng này, bạn có thể bật một chiếc đèn nhỏ để thắp sáng cửa nhà suốt dêm. Nếu có đủ không gian, hãy đặt một cặp chó đá để trấn yểm.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Muốn may mắn vượt qua tháng cô hồn, xem 3 mẹo phong thủy mang bình an

Giải mã bí ẩn tâm linh mang tên Chùa Cầu Hội An

Chùa Cầu Hội An không chỉ là biểu tượng của phố cổ đất Quảng Nam nổi tiếng mà nó còn là một công trình kiến trúc độc đáo, đậm chất tâm linh.
Giải mã bí ẩn tâm linh mang tên Chùa Cầu Hội An

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Cầu không chỉ là biểu tượng của phố cổ Hội An nổi tiếng mà nó còn là một công trình kiến trúc độc đáo, đậm chất tâm linh.


Là một trong những địa danh nổi tiếng, Chùa Cầu Hội An gây ấn tượng không chỉ bởi lối kiến trúc độc đáo mà còn những bí ẩn mà công trình này mang trong mình. Chùa Cầu (hay còn gọi là Cầu Nhật Bản) được xem là linh hồn, là biểu tượng của người dân Hội An. Đây cũng là công trình kiến trúc độc đáo, gồm hai cá thể là cầu và chùa được xây dựng bắt ngang qua một lạch nước rộng gần 10m chảy ra sông Thu Bồn.

Giai ma bi an tam linh mang ten Chua Cau Hoi An hinh anh 2
Chùa Cầu - Biểu tượng nổi tiếng của phố cổ Hội An

 
Cầu có chiều dài gần 18m. Kết cấu các phần của cây cầu được thiết kế khá công phu, tỉ mỉ theo kiểu ‘thượng gia hạ kiều’ (trên là nhà, dưới là cầu, tức cầu có mái che) gồm 7 gian, trong đó 5 gian giữa nằm trên mặt nước, 2 gian hai đầu nằm trên bờ phía Tây và phía Đông được thiết kế như cổng dẫn vào. Trên cửa chính của Chùa Cầu có một tấm biển lớn chạm nổi 3 chữ Hán là ‘Lai Viễn Kiều’, do năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu đến thăm Hội An, đặt tên cho chiếc cầu là Lai Viễn Kiều, với ý nghĩa là ‘Cầu đón khách phương xa’. Tương truyền, chiếc cầu do người Nhật cất lên vào đầu thế kỷ 17, còn ngôi Chùa do người Minh Hương (cộng đồng người Hoa vốn sinh sống vào đời nhà Minh đã chạy sang Việt Nam khi nhà Thanh lên nắm quyền) xây dựng vào năm 1653 để thờ Bắc Đế Trấn Vũ. Trong sách “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn dưới thời vua Tự Đức (1847 – 1883) chép rằng: “Cầu ở xã Cẩm Phô về phía tây phố Hội An, huyện Diên Phước, nước khe chảy về phía Nam đổ vào sông Cái, cầu bắc ở trên. Tương truyền cầu này do người khách buôn Nhật Bản bắc, dưới cầu xây đá, trên lát ván, gác mái gồm bảy gian lợp ngói”.  

Theo đó các thương nhân người Nhật Bản tại Hội An đã góp tiền xây dựng cầu vào khoảng thế kỷ 17. Theo truyền thuyết, những người Nhật đầu tiên sinh sống gần chùa Cầu thường xuyên nhìn thấy trên mặt sông xuất hiện sống lưng con quái vật Namazu (một loài thuỷ quái mà người Việt gọi là con Cù, người Nhật gọi là Mamazu, người Hoa gọi là Câu Long). Trong văn hóa thần thoại Nhật Bản, Namazu là một con cá trê có cơ thể khổng lồ. Do vậy, mỗi khi di chuyển, đuôi của nó quẫy mạnh khiến Trái đất rung chuyển. Thần Kashima trị thủy quái Namazu. Namazu được miêu tả là bị các thần linh giam giữ trong lớp bùn dưới các hòn đảo của Nhật Bản, khi các vị thần không cảnh giác, Namazu sẽ quẫy cơ thể và gây nên những trận động đất kinh hoàng. Chỉ có thần Kashima, vị thần của sấm sét và kiếm đạo, mới có đủ khả năng chế ngự con cá trê khổng lồ này. Tuy nhiên, thỉnh thoảng khi thần Kashima mệt mỏi hay phân tâm thì Namazu lại có cơ hội quẫy mình, gây ra các trận động đất, thậm chí có cả núi lửa phun trào, gây ra đại họa. Người dân tin rằng, quái vật khổng lồ Namazu trừng phạt sự tham lam của con người. Bằng cách gây ra những trận động đất, Namazu muốn con người phân chia của cải ngang bằng nhau. Vì vậy, Namazu còn được coi là thần của cải.

Thủy quái Namazu được cho là có kích thước rất to lớn, có đầu ở Nhật Bản, lưng vắt qua khe ở Hội An và đuôi kéo dài tới Ấn Độ. Mỗi khi con thuỷ quái đó quẫy mình thì nước Nhật bị động đất và Hội An không được yên ổn để người Nhật, người Hoa, người Việt được bình yên làm ăn buôn bán. Do vậy những người Nhật định cư ở Hội An đã tìm thầy phong thủy giỏi để xem thế đất và xây dựng cầu ở nơi đây, tượng trưng cho thanh kiếm đâm ngay xuống sống lưng thủy quái, khiến nó không thể gây ra động đất thiên tai nữa. Phía tây cầu còn được đặt 2 tượng khỉ đá, phía đông đặt 2 tượng chó đá. Đây cũng là một nét đặc trưng trong văn hóa xứ Phù Tang (Nhật Bản) như: mái ngói mềm mại, uyển chuyển với độ dốc thấp, những cột vuông, nền cầu lát vát hình vòng cung, nhưng “Thần Khỉ” và “Thần Chó” (những con vật người Nhật luôn quý trọng) thờ ở hai đầu cầu. Khỉ và chó là những con vật mà người Nhật sùng bái thờ tự từ cổ xưa. Vì vậy người Nhật dựng tượng thần Khỉ và thần Chó để trấn yểm con quái vật Namazu, người dân gọi đây là Thần Hầu và Linh Cẩu.

Giai ma bi an tam linh mang ten Chua Cau Hoi An hinh anh 2
Quái vật Namazu trong truyền thuyết

 
Một thuyết khác cho rằng những bức tượng khỉ và chó xuất hiện trên cầu vì công trình này được động thổ vào năm Thân, hoàn thành vào năm Tuất. Ngoài ra ở nơi Thần Hầu và Linh Cẩu trấn giữ còn được khắc những dòng chữ Hán. Đôi câu đối chữ Hán ở phía cửa Đông của cầu như sau: ‘Thiên cẩu song tinh an cấn thổ, Tử vi lưỡng tỉnh định khôn thân’. Tạm dịch là: ‘Hai sao thiên cẩu trấn an đất cấn, Hai tướng tử vi định giữ cung khôn’ Đôi câu đối chữ Hán ở cửa phía Tây của cầu có nội dung: ‘Ngoạn nguyệt khách du châu vĩ điện, Khán hoa nhân đáo mã đề lôi’. Tạm dịch là: ‘Khách ngắm trăng thuyền nhanh như chớp, Người xem hoa vó ngựa sấm vang’. Cho đến năm 1633, tình hình Nhật Bản có biến động, Nhật Hoàng ban bố lệnh đóng cửa không quan hệ giao thương với nước ngoài, đồng thời yêu cầu những người Nhật kiều đang sống và buôn bán ở nước ngoài phải hồi hương. Phố Nhật Bản tại Hội An dần rơi vào thời kỳ suy tàn và chùa Cầu được giao lại cho người Việt cai quản.

Năm 1644, Trung Quốc xảy ra biến động, nhiều người nhà Minh vì sợ nhà Thanh truy sát nên mới vượt một chặng đường dài đến đất Hội An để xin Chúa Nguyễn Phúc Lan gia nhập quốc tịch Việt Nam và thành lập nên làng Minh Hương tại cảng thị Hội An. Sau đó, chúa Nguyễn đã giao cầu Nhật Bản cho người Minh Hương quản lý và có nhiệm vụ chăm lo sửa chữa cầu. Những người Minh Hương cũng tin rằng dưới chân cầu này là hang ổ loài thủy quái dữ tợn, khi gặp điều kiện sóng to, gió lớn, nước dâng cao mới tỉnh giấc trở mình quẫy đuôi làm nước sông dâng ngập cả phố cổ gây nhiều thiệt hại cho dân làng. Để yểm trừ, người dân cho xây dựng thêm ngôi chùa nhỏ nằm sát cầu để thờ Bắc Đế Trấn Vũ. 

Tại chùa Cầu, tượng Bắc Đế Trấn Vũ được thờ ở vị trí trung tâm của chánh điện. Bắc Đế Trấn Vũ (hay Huyền Vũ Thánh Quân, Đãng Ma Thiên Tôn, Huyền Thiên Bắc Đế) là một trong những vị thần lớn được tôn sùng trong Đạo giáo của Trung Quốc. Bắc Đế Trấn Vũ tượng trưng cho sao Bắc cực, thống trị phương Bắc, kiêm quản lý các loài thủy tộc nên cũng được coi là thủy thần hay hải thần. Tượng Bắc Đế Trấn Vũ được thờ tại Chùa Cầu. Tượng của Bắc Đế thường không mang giày dép, chân đạp lên một con rùa và một con rắn, được lý giải theo nhiều cách khác nhau. Một số người cho rằng, con rùa và con rắn chính là những thiên tướng trên trời, dưới quyền cai quản của ngài. Một số người lại cho rằng con rùa và con rắn đó chính là những con quái vật đã bị ngài thu phục và đạp dưới chân, gọi là là Linh Quy và Thần Xà, tượng trưng cho sự trường tồn và trí tuệ.

Ở Hội An, từ tháng 9 đến tháng 12 âm lịch thường xảy ra lũ lụt kèm theo giông bão. Mỗi khi lũ dâng, những dãy nhà ven sông thường ngập chìm trong biển nước, phải đến 3 – 4 ngày sau, thậm chí cả tuần nước mới rút. Bắc Đế Trấn Vũ là vị Thần có khả năng trị thủy, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi những cơn địa chấn diễn ra ở Hội An, ổn định về mặt phong thổ, giúp cho cư dân làm ăn buôn bán được thuận buồm xuôi gió. Do đó, người Minh Hương thờ Bắc Đế Trấn Vũ làm chỗ dựa về mặt tinh thần của mình trong quá trình định cư tại vùng đất mới, giúp họ yên lòng vượt qua những khó khăn và có thêm niềm tin trong công cuộc mưu sinh. Không chỉ là một công trình chứa đựng những giá trị kiến trúc đặc sắc, Chùa Cầu còn là nơi giao thoa của 3 nền văn hóa Nhật – Việt – Hoa. Dù những câu chuyện huyền bí xung quanh Chùa Cầu chưa có được những lời giải thích rõ ràng, nhưng  người dân Hội An vẫn luôn tin rằng nơi đây được xây dựng để trấn yểm một con thủy quái, thờ tự vị thủy thần với ước vọng ngăn chặn, đẩy lùi được những cơn địa chấn, lũ lụt, giúp cho cư dân tại đây làm ăn buôn bán được thuận buồm xuôi gió.
ST.

Vong hồn, ma quỷ, yêu tinh và Thần Phật khác nhau như thế nào? 10 điềm báo tâm linh khiến tài vận gia đình không ngóc đầu lên được Có thể bạn chưa biết: Sự thật về MA QUỶ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã bí ẩn tâm linh mang tên Chùa Cầu Hội An

Địa thế La thành

Viên cục không nên lấy chật hẹp, phải lấy rộng, lớn dày đặc mới cát. Nếu khí không dày, thì viên cục dù có quý, có huyệt thì cũng không được lâu dài.
Địa thế La thành

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

La thành còn gọi là viên cục (cục thành trì), chỉ khí long mạch từ núi cao chạy xuống đồng bằng bị gián đoạn. Các mạch phụ, mạch dư sẽ quay lại bao bọc như thành quách, cuộn lấy chân long, không cho khí tản mát.

Dia the La thanh hinh anh
Ảnh minh họa

Để biết được loại hình La thành, nên xem hình thế. Nếu hình thế như các sao bao bọc chính gọi là viên cục.

Trong sách “Hám Long Kinh” viết: “Long mạch từ núi cao chạy xuống đồng bằng, sau khi thay đổi ở mấy đoạn sẽ có hiện tượng các nhánh hồi chuyển bao bọc lấy chân long được gọi là La thành. La thành sẽ sinh cản môn hay còn gọi là hãn môn. La thành có thế bao bọc như tường thành và long khí tụ ở trong. La thành như tường vây quanh huyệt mộ”. Ý chỉ long mạch lên xuống ở đất bằng, không lộ hình tích, chỉ cần tìm các núi bao bọc như đất có thành quách bao bọc, tức là nơi khí long ngừng tụ.

Câu nói: “Phàm đến vùng đất bằng, chớ hỏi tung tích long mạch ở đâu, chỉ cần quan sát gò bao quanh là biết được chân long nằm chỗ nào”. Gò núi bao quanh là chỉ la thành.

Các nhà phong thủy học cho rằng, đất kết huyệt, nếu có La thành bao bọc ngăn khí tản là đất đại quý. Trong cuốn “Tuyết Tâm Phú”, Bốc Tắc Nguy nói: “Lầu đài cổ giác là La thành”. Chú giải: “ Xúm xít cao mà tròn là núi lâu đài, xúm xít nhọn là gò cổ giác, đều là La thành, tất kết huyệt quý”.

Chú ý

Bên cạnh đó, núi sông bao quanh huyệt mộ phải bao bọc triều bái minh đường, không được có hình nghịch, khuyết, lở, lõm, méo. Nếu không đạt yêu cầu đó sinh khí sẽ bị tẩu tán và được coi là đất không tiện.

Theo Bí ẩn thời vận

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Địa thế La thành

7 điều đại kỵ khi tặng và nhận bao lì xì mọi người đều nên biết

Dùng bao lì xì và tiền đã cũ để tặng cho người khác là những điều không nên trong dịp đầu năm mới. Xem những điều đại kỵ khi tặng và nhận bao lì xì đầu năm
7 điều đại kỵ khi tặng và nhận bao lì xì mọi người đều nên biết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dùng bao lì xì và tiền đã cũ để tặng cho người khác là những điều không nên trong dịp đầu năm mới.


► Mời các bạn: Đổi ngày dương sang âm nhanh chóng và chuẩn xác nhất tại Lịch ngày tốt

7 dieu dai ky khi tang va nhan bao li xi moi nguoi deu nen biet hinh anh
 
Từ lâu, ở nhiều nước châu Á, trong đó có Việt Nam thường sử dụng những phong bao lì xì để tặng cho người thân nhân dịp năm mới với mong muốn mang lại nhiều may mắn, phúc lộc. Tuy nhiên, tặng bao lì xì không phải là chuyện đơn giản mà nó bao gồm nhiều yếu tố phong thủy nên tuân thủ:  

Nên dùng phong bao lì xì màu đỏ

  Ý nghĩa của việc tặng lì xì không nằm ở số tiền bên trong đó mà nằm ở chiếc phong bao màu đỏ. Những người nhận được phong bao lì xì màu đỏ đầu năm mới đồng nghĩa sẽ có một năm mới bình an, hạnh phúc. Bởi màu đỏ là màu tượng trưng cho năng lượng, hạnh phúc và may mắn. Tặng phong bao màu đỏ là một cách để gửi lời chúc tốt đẹp và may mắn trong dịp năm mới.  

Những người đã làm ra tiền nên lì xì cho người khác

  Theo truyền thống, nếu bạn là người đã bắt đầu làm ra tiền, đó là thời điểm bạn bắt đầu trải nghiệm việc sẽ lì xì cho người khác. Đây là cách bạn chia sẻ điều phước lành trong năm của mình cho người thân, bạn bè đồng thời đón nhận những may mắn trong năm mới từ người khác. Thực chất là quy luật cho và nhận mà ta nên tuân theo.   Thông thường, số tiền lì xì phụ thuộc vào thu nhập của bạn. Tuy nhiên, nếu bạn là người chưa có gia đình thì cũng không nhất thiết phải lì xì cho người khác.
7 dieu dai ky khi tang va nhan bao li xi moi nguoi deu nen biet hinh anh 2
 

Nên dùng tiền mới để lì xì

  Tiền cũ được đặt trong bao lì xì mang lại âm khí xấu không phù hợp cho một năm mới. Chính vì thế, dịp cuối năm là khi nhiều người thường đi đổi tiền mới tại các ngân hàng để lì xì cho người khác.  

Số tiền trong phong bao tránh con số 4

  40 nghìn đồng hoặc 400 nghìn đồng là những con số không nên đặt trong phong bao lì xì. Trong phong thủy, số 4 liên quan đến chữ “tử” nghĩa là cái chết, được coi là không may mắn. Con số thích hợp nên đặt trong bao lì xì là 8.  

Luôn chuẩn bị sẵn phong bao lì xì

  Phong bao lì xì cần được chuẩn bị sẵn để tiện lì xì, tránh trường hợp gặp người bất chợt và muốn lì xì nhưng lại không có hoặc lúc đó mới bắt đầu đi kiếm phong bao lì xì.  

Nhận bao lì xì bằng 2 tay

  Luôn luôn nhận phong bao từ người khác bằng cả hai tay để bày tỏ lòng cảm ơn và trân trọng. Thật bất lịch sự khi dùng một tay để nhận phong bao từ người khác.

Không mở phong bao trước mặt người tặng

  Thật thiếu lịch sự nếu như bạn mở ngay chiếc phong bao lì xì trước mặt người tặng. Việc mở phong bao lì xì nên thật sự riêng tư.

Theo Eva

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 điều đại kỵ khi tặng và nhận bao lì xì mọi người đều nên biết

Ý nghĩa bộ tranh tứ quý Tùng, Cúc, Trúc, Mai

Tùng cúc trúc mai là một trong những bộ tranh thêu tứ quý đẹp nhất, mang nhiều ý nghĩa phong thủy và được nhiều người yêu thích. Hãy cùng tìm hiểu ý nghĩa của bộ tranh này.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tùng Trúc Cúc Mai là bộ tranh phong thủy xuất phát từ Trung Quốc .   Cổ nhân gọi tùng, trúc, mai là ba người bạn mùa lạnh (tuế hàn tam hữu), bởi vì ba loại cây này dù mùa sương tuyết vẫn tươi tốt trong khi những loại cây khác hầu như cằn cỗi héo hon. Tính chịu lạnh của tùng, trúc, mai tượng trưng đức tính nhẫn nại của người quân tử, tự cường mãi không thôi, luôn trau giồi tài đức trước nghịch cảnh cuộc đời.     Mai, lan, cúc, trúc thường được gộp chung thành một cụm, xem như biểu tượng của bậc quân tử, nên cũng được gọi là «tứ quân tử» (bốn người quân tử).   1. Trước hết nói về Tùng   Đại diện cho mùa Xuân. Chữ Tùng có nghĩa là cây Thông. Ta gọi là Tùng, Bách, Thông nhưng Tàu chỉ gọi là Tùng. Họ phân biệt mấy loại đó bằng Tùng La hán, Tùng mã vĩ (thông đuôi ngựa)... Cây tùng mọc trên núi cao, khô cằn, thiếu nguồn dinh dưỡng. Nó mọc ngay ở những mỏm núi chênh vênh, chịu nhiều sương gió, bão tuyết mà không chết không đổ thể hiện sức sống bền bỉ. Người xưa xem tùng là đại diện cho trăm cây, ngoài ý nghĩa trường thọ, tùng còn là đại diện của khí tiết. Ngoài ra, trong quan niệm của người Trung Hoa, tùng còn có khả năng trừ tà, xua đuổi ma quỷ rất mạnh nên tùng mang lại sự bình yên, àn lành cho con người. Như vậy trong những bức tranh phong thủy, cây Tùng thường có ý nghĩa là bậc trượng phu, đại trượng phu.   2. Nói về Cúc, tức là mùa thu.   Về hoa, các văn nhân Trung Quốc thường gán cho từng loại hoa một đức tính, một ý nghĩa tượng trưng văn học nào đó, và các họa sĩ đã tiếp thu toàn bộ những quan niệm này. Một vài phân tích dưới đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa trong tranh phong thủy có hình tượng hoa cúc.   Chu Đôn Di đời Tống từng nói: «Trong các loài hoa, cúc là kẻ ẩn dật, mẫu đơn là kẻ phú quý và sen là bậc quân tử vậy.» (Cúc, hoa chi ẩn dật giả dã; mẫu đơn, hoa chi phú quý giả dã; liên, hoa chi quân tử giả dã).   “Cứ mỗi độ thu sang, hoa cúc lại nở vàng”.   Hoa Cúc là một trong bốn loại hoa quyền quý trong văn hóa Trung Hoa. Hoa Cúc tượng trưng cho sự trường thọ, phúc lộc dồi dào. Trong Phong Thủy, nguồn năng lượng mà hoa cúc đem lại khiến cho gia chủ có một cuộc sống bình dị và cân bằng trong mọi việc. Đồng thời, nó cũng mang đến may mắn cho căn nhà.   Cúc cũng có chí khí quân tử của nó. Ai chơi tranh phong thủy hoa cúc đều biết Hoa cúc tàn nhưng không rụng, nó chỉ gục rũ trên thân của nó thôi. Nó gợi cho ta đến 1 hình ảnh chết đứng, chứ không chết nằm.   3. Nói đến mùa hạ là nhắc đến cây Trúc.   Trúc trong tiếng Hán chỉ loài tre nói chung. Chứ không phải là cây trúc ở Việt Nam. Cây tre trong tiếng Hán là Thích Trúc (tức là cây tre có gai). Chỉ có điều cây Trúc theo nghĩa là cây cảnh thì người ta hay chơi Trúc Quân tử. Cây Trúc cũng là 1 cây có thể sống nơi khô cằn, quanh năm xanh tốt, đốt ngay thẳng từ bé (măng - bambooshot). Đốt cháy thân cây tre đi nhưng đốt than của nó vẫn thẳng chứ không cong gãy   Như vậy, ý nghĩa trong tranh phong thủy mà có hình ảnh cây trúc chính là  một trong những biểu tượng mạnh mẽ của sự trường thọ. Nó là biểu tượng của tính kiên cường vượt qua mọi nghịch cảnh và khả năng chống chọi với sóng gió của cuộc đời. Không những thế, cây tre, trúc còn là biểu tượng của tài lộc.   4. Cuối cùng là Mai   Mai là 1 cây hoa quý đối với người Trung Quốc, có thể coi là Quốc hoa. nó có màu trắng hoặc hồng. Không phải là giống hoa mai vàng của miền Nam đâu. Vì nó trắng nên tượng trưng cho sự thanh khiết. Nó chịu qua gió tuyết mùa đông (nên nhớ là có cả tuyết đấy) nên thể hiện 1 sức khỏe, 1 sức sống mãnh liệt. Khi mùa xuân về nó nở hoa 5 cánh, báo hiệu xuân về.   Tranh phong thủy Hoa mai biểu tượng cho sự cao thượng , vinh hiển cao sang tượng trưng cho vua thời phong kiến . Cứ tết đến hoa mai , đơm bông nẩy lộc độ xuân về, nó có ý nghĩa tình cảm , tình người , giàu sang tấn lộc tấn tài .   Mua tranh đá quý Tùng cúc trúc mai không chỉ là để trang trí mà còn mang nhiều ý nghĩa cầu may mắn, phú quý, sung túc và mang cả những yếu tố phong thủy trong đó.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa bộ tranh tứ quý Tùng, Cúc, Trúc, Mai

Song tử nữ và sư tử nam –

Người đàn ông Sư Tử hào phóng, nồng nhiệt, chân thành, nóng bỏng luôn khiến người nữ Song Tử ngưỡng mộ. Tuy nhiên người nữ Song Tử cảm thấy khó khăn khi phải núp sau cái bóng danh vọng của Sư Tử, trong khi anh ta lại quá ngạo mạn. Vì thế mối quan hệ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1340184529-boi-roi-1

này chỉ có sex, sex và sex.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Song tử nữ và sư tử nam –

Ba con giáp coi mình luôn là trung tâm của vũ trụ –

Những con giáp này rất tự tin trước đám đông. Đôi khi, sự tự tin trở nên thái quá khiến họ nghĩ mình là 'trung tâm của vũ trụ'. Vậy 3 con giáp luôn coi mình là trung tâm vũ trụ đó là những con giáp nào? Cùng khám phá trong bài viết dưới đây nhé! Ba c

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những con giáp này rất tự tin trước đám đông. Đôi khi, sự tự tin trở nên thái quá khiến họ nghĩ mình là ‘trung tâm của vũ trụ’. Vậy 3 con giáp luôn coi mình là trung tâm vũ trụ đó là những con giáp nào? Cùng khám phá trong bài viết dưới đây nhé!

Nội dung

  • 1 Ba con giáp coi mình luôn là trung tâm của vũ trụ
    • 1.1 Tuổi Thìn
    • 1.2 Tuổi Dần
    • 1.3 Tuổi Tỵ

Ba con giáp coi mình luôn là trung tâm của vũ trụ

Tuổi Thìn

Luôn xem nặng về danh tiếng của bản thân, người tuổi Thìn lúc nào cũng đặt mình ở vị trí cao hơn so với người khác. Thêm bản tính mạnh mẽ, có phần hơi ích kỷ, họ không chịu lắng nghe lời khuyên từ mọi người.

Thin-8648-1412651453

Họ thường coi mình là trung tâm vũ trụ. Về lâu dài, tính cách này không có lợi cho con đường công danh vì họ khó nhận được tình cảm chân thành của đối tác.

Tuổi Dần

Tương tự với tính cách của tuổi Thìn, người tuổi Dần cũng mạnh mẽ, thích danh tiếng và rất mong mỏi được làm lãnh đạo. Thông qua cách nói chuyện mạnh dạn, họ như muốn chứng tỏ về uy lực và khả năng tiềm ẩn của mình.

Dan-1223-1412651453

Con giáp này muốn tạo dựng tầm ảnh hưởng lớn đến người khác, nên trong suy nghĩ, họ chính là trung tâm của sự chú ý. Con người và cảnh vật xung quanh chỉ là đối tượng “phụ họa” cho họ mà thôi.

Tuổi Tỵ

Ấn tượng đầu tiên khi tiếp xúc với người tuổi Tỵ là cảm giác bí ẩn, khơi gợi sự hiếu kỳ và muốn khám phá. Họ rất biết cách “tận dụng” những mối quan hệ khéo léo để đem lại sự thuận lợi và danh tiếng cho mình mà không ảnh hưởng tới ai.

Ty-1796-1412651453

Với tính tham vọng của tuổi Tỵ, họ rất coi trọng lợi ích bản thân. Do vậy, những lời nói, hành động của người khác không khiến họ phải quá lưu tâm. Con giáp này chỉ cần biết đến chính kiến của riêng mình và một mực bảo vệ nó. Thậm chí, họ luôn nghĩ chỉ mình mới là tâm điểm của đám đông.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ba con giáp coi mình luôn là trung tâm của vũ trụ –

Vì sao phải coi trọng việc xông đất đầu năm?

Xông nhà, xông đất là nét văn hóa có từ lâu đời ở Việt Nam. Với quan niệm, ngày mùng 1 là bắt đầu cho một năm mới, thế nên nhiều người cho rằng nếu mọi việc
Vì sao phải coi trọng việc xông đất đầu năm?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xông nhà, xông đất là nét văn hóa có từ lâu đời ở Việt Nam. Với quan niệm, ngày mùng 1 là bắt đầu cho một năm mới, thế nên nhiều người cho rằng nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ trong ngày này thì cả năm sẽ được thuận lợi, tốt lành…

Xông đất mang an lành

Ngay sau thời khắc Giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia chủ.

Gia chủ sẽ căn cứ vào sự thành đạt, tài cán, đức độ, sức khỏe... của người xông đất để đoán vận hạn cho mình. Tục xông đất thể hiện khát vọng về sự thịnh vượng, an khang và người xông đất như một dấu hiệu để người ta giải đoán trước hậu vận của năm đó.

Quan niệm người xông đất đầu năm sẽ mang lại may mắn cho gia chủ trong suốt một năm vẫn được giữ gìn.

Với người Việt, tục xông đất ở các vùng gần như giống nhau. Khách đến xông đất phải đến vào sáng sớm ngày mùng 1 mang theo quà biếu như hoa quả, bánh mứt và tiền lì xì cho người già, trẻ con trong nhà.

Người đến xông đất thường chỉ đến thăm, chúc Tết khoảng 5-10 phút chứ không ai ở lâu, như vậy thì mọi việc trong năm của chủ nhà cũng được trôi chảy, thông suốt. Cứ đến dịp cuối năm, hầu như ai cũng có ý tìm chọn trong họ hàng hay láng giềng những người tốt tính và làm ăn phát tài, có cuộc sống suôn sẻ để “xông đất” nhà mình. Tục xông đất đầu năm có ý nghĩa biểu trưng sâu sắc, thể hiện mong muốn hướng tới những điều tốt lành của người dân Việt.

Có một số gia đình lại chọn cách xông đất sau giờ Giao thừa, thường để người thân trong gia đình tự xông lấy. Người ta chọn một người dễ vía ra khỏi nhà trước thời khắc đón Giao thừa rồi đi lễ tại đình chùa, sau đó xin hương hái lộc. Lúc trở về nhà đã bước sang năm mới, người này tự “xông nhà”, mang sự tốt lành quanh năm về cho gia đình theo quan niệm của ông bà xưa. Với kiểu xông nhà, xông đất như vậy tránh được việc phải nhờ người khác.

Ngày nay, đối với những người làm kinh doanh, việc chọn “ngày lành tháng tốt” để bắt đầu công việc, chọn người hợp tuổi để khai trương, xông đất đầu năm không còn là chuyện quá hiếm. Giới doanh nhân tâm niệm ngày đầu “xuất quân” suôn sẻ sẽ đem lại một năm làm ăn may mắn.

Chọn tuổi xông đất

Bất cứ ai cũng muốn được người tử tế, tốt tính đến xông đất nhà mình. Vì thế, người ta thường để ý tìm người hợp tuổi với mình để dặn trước nhờ xông đất.

Thông thường nên chọn người xông nhà hợp với tuổi chủ nhà, có thể là tam hợp hoặc nhị hợp.

Chẳng hạn như: Chủ nhà tuổi Tý thì nên chọn người tuổi Thân, Thìn, Sửu để xông nhà. Chủ nhà tuổi Sửu nên chọn người tuổi Tỵ, Dậu, Tý. Chủ nhà tuổi Dần nên chọn người tuổi Ngọ, Tuất, Hợi. Chủ nhà tuổi Mão nên chọn người tuổi Mùi, Hợi, Tuất. Chủ nhà tuổi Thìn nên chọn người tuổi Tý, Thân, Dậu. Chủ nhà tuổi Tỵ nên chọn người tuổi Sửu, Dậu, Thân. Chủ nhà tuổi Ngọ nên chọn người tuổi Dần, Tuất, Mùi. Chủ nhà tuổi Mùi - nên chọn người tuổi Mão, Hợi, Ngọ. Chủ nhà tuổi Thân nên chọn người tuổi Tý, Thìn, Tỵ. Chủ nhà tuổi Dậu nên chọn người tuổi Sửu, Tỵ, Thìn. Chủ nhà tuổi Tuất nên chọn người tuổi Dần, Ngọ, Mão. Chủ nhà tuổi Hợi nên chọn người tuổi Mão, Mùi, Dần để xông nhà.

Mặc dù đã chọn tuổi nhưng người được nhờ xông đất, xông nhà người khác cũng e ngại. Vì cái vía của mình có may mắn, có đem lại tốt lành cho gia chủ hay không, việc đó phải chờ đến hết cả năm mới biết được. Thế nên việc nhờ người xông đất cũng không phải chuyện dễ dàng.

Thế mới hay, xông đất vẫn là một nét đẹp văn hóa cần được gìn giữ. Trong mùi hương trầm thoang thoảng ấm cúng, người đến xông đất cùng gia chủ rót tách trà ngon, mời nhau chiếc bánh ngọt hay uống một ly rượu vang, rồi cùng cầu chúc những điều tốt đẹp cho nhau trong năm mới… Thật là một khung cảnh ấm cúng trong những ngày đầu năm mới này!

(Theo Laodong.com.vn)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao phải coi trọng việc xông đất đầu năm?

4 vật phong thủy giúp học hành tiến bộ, thi cử đỗ cao

Thành tích học tập luôn là áp lực không nhỏ với các học sinh. Ngoài nỗ lực tích lũy kiến thức, nếu biết vận dụng các vật phong thủy, bạn sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn trong học hành, thi cử.
4 vật phong thủy giúp học hành tiến bộ, thi cử đỗ cao

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tháp văn xương

4-vat-phong-thuy-giup-hoc-hanh-tien-bo-thi-cu-do-cao

Nói đến các vật phong thủy hỗ trợ đắc lực nhất cho việc học phải kể đến tháp văn xương. Vật phẩm phong thủy đại diện cho nghiệp học này có nguồn sức mạnh đặc biệt, có thể giúp con người thông minh, đầu óc sáng suốt, linh hoạt và gặp nhiều may mắn trong học tập, thi cử.

Tháp văn xương có rất nhiều loại, mỗi loại lại mang hàm nghĩa khác nhau. Trong đó, hiệu quả lý tưởng nhất cho việc học chính là tháp văn xương 4 tầng. Còn về vị trí vận dụng, bạn có thể đặt tháp văn xương ở gần bàn học để thúc đẩy việc tiếp thu kiến thức nhanh nhạy, đặc biệt là có lợi hơn về văn chương. Ngoài ra, đặt tháp văn xương trên giá sách lại có thể phát triển về mặt thành tích học tập, thi cử. Nếu trong nhà đặt tháp văn xương (không nhất thiết phải đặt trên bàn học hay giá sách) cũng đều có lợi cho người đang theo nghiệp học hoặc giúp thêm cơ hội thăng chức khi làm việc.

Bút lông

4-vat-phong-thuy-giup-hoc-hanh-tien-bo-thi-cu-do-cao-1

Theo phong thủy học, đặt 4 cây bút lông, đặc biệt là bút lông màu xanh lá, trên bàn học hoặc bàn làm việc cũng là đại diện cho “bút văn xương”, có thể hấp thu văn khúc tinh giáng hạ. Tuy con số “4” thường bị cho là “số xui xẻo” trong cuộc sống nhưng trong phong thủy nghiệp học, “4” lại là con số may mắn, vì vậy mà có tháp văn xương 4 tầng, 4 cây bút lông v.v…

Cây măng leo

4-vat-phong-thuy-giup-hoc-hanh-tien-bo-thi-cu-do-cao-2

Ngoài những vật trang trí hơi khô khan, thiếu sức sống thì bạn còn có thể chọn cho mình một châu cây măng leo xanh tươi, “mát mắt” nhưng vẫn có tác dụng phong thủy mạnh mẽ giúp ích cho việc học hành, thi cử. Măng leo theo tên âm Hán Việt còn gọi là “văn trúc”, “văn” tượng trưng cho sách vở, văn chương, đặt một chậu măng leo trong phòng, đặc biệt là không gian mà bạn dùng cho việc học hay làm việc, sẽ thúc đẩy hiệu quả tăng vận may. Đặc biệt nếu bạn muốn nâng cao thành tích học, hãy đặt chậu măng leo ở phía Tây Nam của phòng.

Ngọc bội ve sầu

4-vat-phong-thuy-giup-hoc-hanh-tien-bo-thi-cu-do-cao-3

Nếu bạn cảm thấy lúc nào cũng lười biếng, thiếu tinh thần, trong khi bản thân cũng muốn nỗ lực học tập và đạt kết quả tốt trong thi cử, hãy thử mang theo trên người ngọc bội ve sầu để nâng cao ý chí học hành, tiến bộ không ngừng và đỗ cao trong các kỳ thi.

Khang Ninh (theo Meiguoshenpo)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 vật phong thủy giúp học hành tiến bộ, thi cử đỗ cao

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd