Xem tuổi vợ chồng làm ăn - Xem tuổi vợ chồng - Xem Tử Vi
Xem tuổi vợ chồng làm ăn, Xem tuổi vợ chồng, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Xem tuổi vợ chồng làm ăn, tu vi Xem tuổi vợ chồng làm ăn, tu vi Xem tuổi vợ chồng
Với mỗi người việc chọn bạn đời hoặc đối tác làm ăn vô cùng quan trọng, nó sẽ mang may mắn thành công tài lộc nếu tuổi người đó hợp. Với vợ chồng mà hợp nhau trong con đường làm ăn sẽ giúp bạn thăng tiến tốt hơn. Cùng xem tuổi vợ chồng hợp làm ăn.
Hướng dẫn xem tuổi vợ chồng trong chuyện làm ăn
Việc chọn lựa người bạn đời với một tình yêu thực sự, hợp tính tình, và quan trọng hơn nữa là Âm Dương, Ngũ Hành phối hợp hoàn hảo thiết tưởng là một việc vô cùng cần thiết của mỗi người trước khi tiến đến hôn nhân. Để chọn lựa người vợ, người chồng cần thực hiện theo hai tiêu chí là Âm Dương và Ngũ Hành phù hợp.
Việc chọn tuổi tác bạn bè để hợp tác làm ăn, thì nên dựa bát sát này sẽ dễ hiểu hơn, ngoài ngũ hành và tương sinh. Vì đối với tuổi vợ chồng thì nên dựa vào cung sanh còn đối với bạn bè hoặc đối tác làm ăn chung thì nên dựa vào cung phi.Ví dụ : tuổi Đinh Mùi (1967), lấy vợ tuổi Nhâm Tý (1972) thì tuổi Đinh Mùi cung sanh là Đoài, tuổi Nhâm Tý cung sanh là Chấn thì sẽ cho ra Tuyệt Mạng (xấu vừa). Nhưng đối với cung phi thì lại tốt vì tuổi Đinh Mùi là Càn, Nhâm Tý là Cấn.
Tuy nhiên có nhiều trường hợp xảy ra.
Ví dụ : có 2 người hùn hạp làm ăn, nhưng cung phi 2 người không hạp thì sẽ dễ đổ vỡ, thất bại trong làm ăn. Nhưng ngược lại, nếu có người thứ 3 hùn vào thì có thể chuyển hóa từ xấu thành tốt.
Tính: ÂmHành: ThủyLoại: Văn Tinh, Phúc TinhĐặc Tính: Khoa giáp, hiển vinh, từ thiện, nhân hậu, cứu giải về bệnh tật, tai họaTên gọi tắt thường gặp: Khoa Phụ tinh. Một trong 4 sao của bộ Tứ Hóa là Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Kỵ.
Ý Nghĩa Hóa Khoa Ở Các Cung Hóa Khoa là cát tinh. Được đi liền với các văn tinh thì hiển đạt về học vấn, giải nguy. Do đó, đóng ở bất luận cung nào, Hóa Khoa cũng có hai tác dụng nói trên. Ý Nghĩa Hóa Khoa Ở Cung Mệnh Tướng Mạo Hóa Khoa là văn tinh, chủ về khoa bảng, học vấn, nên người có Hóa Khoa thủ Mệnh vẻ mặt thanh tú, khôi ngô, trung hậu. Tính Tình Vì Hóa Khoa là sao khoa giáp, học vấn đồng thời cũng là nết hạnh cho nên có nhiều ý nghĩa sâu sắc về hai phương diện này.
Thông minh, hiếu học.
Hay tìm tòi, hiếu kỳ, tự học.
Dễ đỗ đạt, có khoa bảng cao, học rộng, biết nhiều.
Có năng tài suy luận, nghiên cứu, giáo khoa.
Tính nhân hậu, từ thiện, nết tốt, hạnh kiểm tốt.
Tóm lại, về mặt tính tình, Hóa Khoa là sao "có Học, có Hạnh", vừa có tài, vừa có đức. Công Danh Tài Lộc Người có Hóa Khoa thủ Mệnh thì:
Có quan chức, có danh thơm tiếng tốt.
Có văn tài xuất chúng, đặc biệt là tài mô phạm, khả năng giáo khoa, năng khiếu lý thuyết gia.
Thường có nghề văn hóa (dạy học, khảo cứu, viết văn). Đây là sao của các văn sĩ, giáo sư, lý thuyết gia. Càng đi chung với các sao khoa bảng khác như Khôi, Việt, Xương, Khúc, Nhật, Nguyệt sáng sủa thì tài năng đó có thể đến hệ cấp quốc tế: đó là những nhà bác học, triết gia, văn hào lừng lẫy.
Nếu gặp sát tinh thì điều đó chỉ có ý nghĩa như không đỗ đạt cao hay chậm khoa bảng, chớ không làm mất đi tư chất thông minh, năng tài văn hóa, khả năng lý thuyết.
Nếu Hóa Khoa đi liền với văn tinh thì hiển đạt, đi liền với quý tinh thì có danh, đi liền với tài tinh thì có lộc ngoài đời nhiều hơn. Chính vì thế nên Hóa Khoa rất tốt nếu đóng ở cung Phúc, Mệnh, Thân, Quan. Ở các cung khác, sẽ không có ý nghĩa khoa bảng cho mình.
Phúc Thọ Tai Họa Hóa Khoa là phúc tinh. Trong sách vở cho Hóa Khoa là Đệ nhất Giải Thần, có hiệu lực cứu giải một số lớn tai ương bệnh tật. Do đó, bộ phận cơ thể nào bị hình thương mà có Hóa Khoa đi kèm thì bệnh tật nhẹ đi, có thể chữa trị được. Về điểm này, Hóa Khoa có giá trị như sác sao Thiên Giải, Địa Giải, Giải Thần, Thiên Quan, Thiên Phúc... Chẳng những cứu giải được bệnh tật, Hóa Khoa còn có khả năng chế ngự được sát tinh (Kình, Đà, Không, Kiếp, Hỏa, Linh ...). sách vở không nói rõ Hóa Khoa có thể chế ngự bao nhiêu sát tinh hay loại sát tinh nào, nhưng thiết tưởng vấn đề này còn tùy thuộc sự tốt xấu của Mệnh, Thân, Phúc. Vì có hiệu lực cứu giải như vậy cho nên Hóa Khoa không có vị trí nào hãm địa, Nhưng ý nghĩa này không tuyệt đối vì Hóa Khoa thuộc hành Thủy chắc chắn sẽ khắc tại các cung Hỏa. Ở những vị trí đó, có thể Hóa Khoa kém sinh lực nhất. Đặc biệt Hóa Khoa đi liền với Hóa Quyền và Hóa Lộc phối chiếu vào cung Mệnh, Thân thì khả năng cứu giải càng được gia tăng gấp bội. Đây gọi là cách "Tam Hóa Liên Châu". Được cách này, những sự may mắn sẽ đến liên tiếp, miễn là không gặp sát tinh hay âm tinh đi kèm. Ý Nghĩa Hóa Khoa Ở Cung Phụ Mẫu
Cha mẹ danh giá, có tiếng.
Hóa Khoa, Thiên Khôi thì cha mẹ giàu có lớn.
Ý Nghĩa Hóa Khoa Ở Cung Phúc Đức
Được hưởng phúc đức, tăng tuổi thọ, lợi ích về thi cử. tránh được nhiều tai họa. Họ hàng khá giả, có người đỗ đạt cao.
Ý Nghĩa Hóa Khoa Ở Cung Điền Trạch
Nhà đất rộng rãi. Gia tăng sự tốt đẹp về việc mưu cầu nhà cửa, địa ốc.
Ý Nghĩa Hóa Khoa Ở Cung Quan Lộc
Công danh tốt, có danh chức, danh giá, dễ có bằng cấp, thi đỗ.
Ý Nghĩa Hóa Khoa Ở Cung Thiên Di
Ra ngoài hay gặp được quý nhân giúp đỡ, danh giá.
Ý Nghĩa Hóa Khoa Ở Cung Tật Ách
Có khả năng giải trừ được bệnh tật, gặp thầy thuốc hay.
Ý Nghĩa Hóa Khoa Ở Cung Tài Bạch
Gia tăng sự thuận lợi về việc mưu cầu tiền bạc, gặp may, có quý nhân giúp đỡ.
Chúng ta thường tìm tới chùa chiền để lễ Phật, mong những điều tốt lành, may mắn trong cuộc sống. Nhưng biết đâu rằng, Phật dạy, ta chính là Phật, không cần
► Cùng đọc: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm
Đạo Phật đề cao, tôn vinh con người ngang hàng với Phật, là bậc toàn thiện và toàn giác, bởi lẽ con người nào cũng có Phật tính, tức là tiềm năng thành Phật. Nôm na như ta vẫn thường nghe hoặc nói với nhau là “Phật tại tâm” vậy. Trong các kinh điển Đại Thừa, con người được định nghĩa như là vị Phật sẽ thành, còn Phật Thích Ca cũng như các vị Phật khác trong quá khứ đều là những vị Phật đã thành (từng là con người, nhờ tu dưỡng, giác ngộ mà thành Phật). Vua Trần Nhân Tông, sau khi xuất gia đã trở thành sơ Tổ của phái Thiền Trúc Lâm, đã viết những câu đầy khích lệ như bài Cư Trần Lạc Đạo phú: “Bụt ở muôn nhà, Chẳng phải tìm xa, Nhân khuấy bổn nên ta tìm Bụt, Chính mới hay Bụt là ta”. Một tuyên bố như thế, phát ra từ một Thiền sư lỗi lạc, đã từng lãnh đạo hai cuộc kháng chiến vệ quốc của quân dân nhà Trần chống quân xâm lược Nguyên Mông, đã khích lệ hàng triệu Phật tử Việt Nam, vượt lên trên những ham muốn thế tục, để thành tựu lý tưởng cao cả nhất, thành Phật. Xã hội tốt đẹp lên nhờ có những con người có niềm tin như thế. Chân giá trị của Phật giáo nói riêng và các tôn giáo nói chung là nó hướng con người vươn tới cái toàn chân, toàn thiện và toàn mỹ, mà biểu tượng nhân cách hóa chính là Đức Phật cũng như các giáo chủ của các tôn giáo thế giới khác. Như thế mới thấy, việc cầu cúng, đền lễ chỉ mang tính chất tâm linh và làm thỏa mã sự bất an trong lòng mỗi người. Đó là hình thức tâm linh để tạo cho con người cảm giác an toàn hơn mà thôi. Còn Phật, như lời Phật dạy, ở ngay trong chính mỗi chúng ta. Ai cũng có thể trở thành Phật nếu được giác ngộ, giáo hóa và tu dưỡng bản thân. Vì vậy, muốn tốt lành, thay vì cúng lễ mâm cao cỗ đầy, hãy đến chùa để được giáo hóa, học tập những giáo lý Phật pháp có ích và tích cực tu tâm dưỡng tính, tích cực làm việc thiện, hướng thiện, hành thiện. Ấy mới chân chính là cách để con người hướng tới hạnh phúc và cuộc sống thanh nhàn như hằng mong ước. Theo chungta.com Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Đoan Trang(##)
Người này thường có chí lớn và luôn lạc quan. Nếu được sao tốt tương trợ trong cung mệnh thì rất có thể họ sẽ có con đường công danh hiển đạt, có địa vị cao, có khả năng giúp đỡ mọi người, được nhiều người trọng vọng, yêu mến. Tuy nhiên, nếu không được sao tốt tương trợ, họ lại thường phạm phải những sai lầm không đáng có chốn quan trường, thường xuyên lừa gạt mọi người. Tuy mọi việc tương đối thuận lợi nhưng lại không thu được nhiều lợi nhuận.
Họ là những người không câu nệ hình thức. Họ cũng có ý thức độc lập và sẽ không thay đổi quan điểm của mình vì ý kiến đánh giá của những người khác. Đôi khi, họ tỏ ra rất dũng cảm và có thể làm được nhiều việc lớn, khiến cho mọi người rất ngạc nhiên.
Họ có tính cách hào phóng, thường khảng khái giúp đỡ mọi người nếu việc đó nằm trong khả năng của mình.
Đây là người có ý chí rất kiên định. Một khi đã xác định được mục tiêu, họ sẽ phấn đầu hết mình để thực hiện nó. Tuy nhiên, đôi khi họ cũng khá nóng vội nên có thể dẫn đến thất bại.
Người tuổi Hợi mệnh Kim thường không suy nghĩ kỹ càng trước khi hành động. Tuy nhiên, sự ngoan cố đôi lúc có thể giúp họ giành được thành công. Họ thích tự lực cánh sinh nhưng lại thiếu linh hoạt trong cuộc sống.(Theo 12 con giáp về cuộc đời và sự nghiệp) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thanh Vân (##)
Chắc chắn các bạn đã không dưới một lần tò mò liệu những đường chỉ tay có thực sự mang những chỉ dẫn vận mạng của mình. Thuật xem chỉ tay là nghệ thuật tìm hiểu tương lai qua các đường chỉ tay (nam xem bàn tay trái, nữ xem bàn tay phải). Đó là một thuật pháp (thuật tiên đoán) có nguồn gốc từ thời xa xưa.
Đó là một trong những đường quan trọng nhất trong bàn tay. Đường này ở giữa ngón tay cái và ngón tay trỏ và chạy hướng về phía cổ tay. Đường này diễn tả mức độ sinh khí, năng lượng, sức mạnh thể chất, thành tích và sự bền chắc. Đường nét rất rõ ràng: giới tính phát triển. Đường cong yếu: thiếu năng lượng và sinh động, nhục cảm suy yếu. Đường chỉ nhỏ và rõ: sức sống tốt, ý chí tốt. Đường chỉ rộng: có sức mạnh thể chất nhưng hệ thần kinh rất mong manh.
Đường trí đạo
Nằm ngang ở giữa bàn tay dưới đường tâm đạo, đường chỉ này xác định bạn có suy nghĩ thuần lý hay tưởng tượng. Nhỏ và sâu: thông minh, đầu óc lanh lẹ. Rộng: phù phiếm, nông nổi, vật chất. Đường định mạng (may mắn) Đường bắt đầu đi lên từ phía đáy bàn tay, hướng về gò thổ tinh và chia bàn tay ra làm hai. Nó diễn tả yếu tố may mắn trong cuộc đời, định mệnh. Không có: nó cho thấy một cá nhân cần phải làm việc khó nhọc mới thành công. Đường chỉ sâu: thành công nhưng không thỏa mãn. Xuất phát từ đường sinh đạo: người này chỉ dựa vào bản thân. Xuất phát từ cổ tay: nếu khắc sâu, gặp may suốt đời, thành công.
Đường tâm đạo
Đường này nằm ngang ở phần trên của bàn tay. Đường này ngự trị các khía cạnh cảm xúc và biểu lộ tiềm năng tình ái, mối tương quan với người yêu và những người xung quanh, không có đường chỉ này: hoàn toàn vô cảm. Thẳng: tư tưởng kiểm soát cảm xúc. Xuất phát từ ngón trỏ: tình duyên và ghen tuông. Xuất phát dưới ngón giữa: nhục cảm hoàn toàn, thiên về khoái lạc. Xuất phát từ dưới ngón đeo nhẫn: kém cảm xúc.
Đường thái dương (hay là đường mặt trời)
Song song với đường may mắn, nhiều người không có đường này. Xuất phát từ cổ tay cho đến ngón đeo nhẫn: may mắn và thành công tuyệt đối, một định mệnh phi thường. Xuất phát từ gò hỏa tinh: kiên trì và có ý chí thành công. Xuất phát từ gò mặt trăng: thành công nghệ thuật. Xuất phát từ đường trí đạo: thành công đến từ sự suy nghĩ. Xuất phát từ đường sinh đạo: chỉ biết dựa vào bản thân. Xuất phát từ đường tâm đạo: thành công đến muộn.
Đường hôn nhân (giới tính)
Nằm dưới ngón tay út, nhưng người ta chỉ chú ý đến đường chỉ có nét sâu nhất vì thường có nhiều đường chỉ ở đây. Đây là đường chỉ về hôn nhân hay về giới tính. Rõ ràng và thẳng: hôn nhân hạnh phúc. Nhiều đường chỉ cạn: nhiều cuộc sống chung không hôn thú. Đường chỉ đi lên: độc thân. Đường chỉ đi xuống: ly thân. Đường chỉ chẻ đôi lúc đầu: khó khăn khi bắt đầu sống chung. Đường chỉ chẻ đôi lúc sau: tan vỡ.
Quanh chuyện "lì xì" ngày Tết bằng tiền và bằng... chữ! Nghe hai tiếng "lì xì" người ta liền tưởng tới bao giấy màu đỏ, nho nhỏ bằng phần tư trang giấy học trò, bên trong có xếp mấy tờ tiền mới. Vậy hai tiếng "lì xì" ở đâu ra? Nguồn gốc của nó thế nào?
Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!
Quanh chuyện "lì xì" ngày Tết bằng tiền và bằng... chữ! Nghe hai tiếng "lì xì" người ta liền tưởng tới bao giấy màu đỏ, nho nhỏ bằng phần tư trang giấy học trò, bên trong có xếp mấy tờ tiền mới. Vậy hai tiếng "lì xì" ở đâu ra? Nguồn gốc của nó thế nào? Chúng tôi lân la "tầm nguyên" qua các nhà nghiên cứu, hỏi trực tiếp bằng miệng có, giở sách vở các vị có, thấy giải thích hai chữ "lì xì" tựu trung là "tiền mừng tuổi". Hãy cùng lịch vạn niên 365 tìm hiểu ý nghĩa của của lì xì đầu năm mới nhé.
Nguồn gốc của tục lì xì
Lì xì đầu năm vốn tồn tại từ lâu, nguồn gốc của phong tục này cũng được thêu dệt ra khá nhiều câu chuyện. Có chuyện kể rằng ngày xưa, ở Đông Hải có rất nhiều yêu quái thường xuyên gây hại bá tánh, song những ngày thường chúng luôn bị các thần tiên ở hạ giới canh giữ. Tuy nhiên, hàng năm các vị thần tiên đều phải về trời vào thời điểm giao thừa. Lúc này, yêu quái lộng hành quấy rối trẻ em đang ngủ, khiến trẻ thường giật mình khóc thét và bị sốt, nên bố mẹ thường không dám ngủ để thức canh con trẻ.
Một lần có 8 vị tiên đi ngang nhà kia thấy vậy liền hóa thành những đồng tiền nằm bên chỗ mấy đứa trẻ, cha mẹ chúng đem gói những đồng tiền này vào tấm vải đỏ để xua đuổi yêu quái. Phép lạ này nhanh chóng lan truyền ra khắp nhân gian, nên khi Tết đến, người ta lại bỏ tiền vào trong những cái túi màu đỏ tặng trẻ con, để trẻ chóng lớn và khỏe mạnh hơn, từ đó trở thành tục lì xì đầu năm như hiện nay.
Một truyền thuyết khác kể rằng, tục tặng tiền mừng tuổi bắt nguồn từ hoàng cung nhà Đường (Trung Quốc). Năm đó, Dương Quý Phi sinh hạ hoàng tử, được tin mừng vua Đường Huyền Tôn đích thân đến thăm và ban cho Dương Quý Phi một số vàng bạc gói trong giấy đỏ. Dương Quý Phi coi đó vừa là tiền mừng, vừa là chiếc bùa Hoàng đế ban tặng con trẻ để trừ tà. Việc này được đồn đại ra ngoài, từ cung đình lan rộng ra dân gian, nhiều người bắt chước tặng tiền mừng và cũng bắt đầu coi như tặng món lộc trừ tai họa, mang lại nhiều điều may mắn cho trẻ con.
Theo những nghiên cứu khác, tục mừng tuổi ở Trung Quốc đã có từ đời Tần. Vào thời gian đó, người ta dùng một sợi chỉ đỏ để xâu tiền thành một xâu theo hình con rồng hoặc thanh kiếm để ở chân giường hoặc cạnh gối trẻ em. Xâu tiền đó gọi là tiền Áp Tuế giống như cách gọi của người Trung Quốc ngày nay, có nghĩa là món tiền mừng cho đứa trẻ, với mong ước đứa trẻ được tiền, được lộc có thể vượt qua tuổi đó với những điều tốt lành và may mắn.
Tiền xu được xâu thành 1 xâu để lì xì may mắn ngày Tết
Xưa kia, ở Trung Quốc, tiền mừng tuổi thường là một vòng đỏ xâu 100 cắc tiền đồng, biểu hiện cho lời chúc sống lâu trăm tuổi. Ngày nay, tiền mừng tuổi đầu năm, còn có ý nghĩa tượng trưng cho sức khỏe, may mắn, thành đạt được cho vào phong bao bằng giấy đỏ hoặc vải nhung đỏ, có những trang trí mang nghĩa cát tường, hạnh phúc và những câu chúc, an lành, phát đạt như “Hòa gia bình an”, “Kim ngọc mãn đường”, “Vạn sự như ý”… Vì vậy, tặng tiền Áp Tuế còn được gọi là tặng Hồng Bao.
Từ lì xì trong tiếng Việt, sử dụng phổ biến ở miền Nam, được cho là có nguồn gốc từ tiếng Trung Quốc, là cách đọc trại của từ “lợi thị” hoặc “lợi sự” (phát âm theo giọng Quan Thoại là li shi, theo giọng Quảng Đông là lì xì, lầy xì), có nghĩa gốc là một món đồ hay món tiền mang đến lợi lộc, vận tốt, vận may. Tặng lì xì là tặng món tiền thể hiện điều lành và may mắn cho đứa trẻ.
Ở Việt Nam, lì xì vốn chỉ là những đồng tiền bỏ trong phong bao giấy hồng điều, hoặc trang trí vàng son bắt mắt mà người lớn tặng cho trẻ con để chúng có cái rủng rẻng trong những ngày Tết vì tiếng cười của trẻ con có thể xua đuổi điều xấu. Vì vậy lì xì cũng có ý nghĩa cầu may, cầu phúc trong năm mới.
Ở Việt Nam tiền được bỏ trong những phong bao lì xì màu đỏ
Theo tục lệ ở một số địa phương thì người nhỏ tuổi không lì xì người lớn hơn, vì vừa không đúng ý nghĩa, vừa bị cho là “hỗn”. Tuy nhiên, ngày nay, tục lì xì đã cởi mở hơn, đặc biệt những người nhỏ tuổi nhưng đã lập gia đình, đã có thu nhập thì có thể mừng tuổi cho những bậc cao niên như cha mẹ, ông bà, để chúc tụng may mắn, sức khỏe, bình an.
>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?
Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>
Phong bao nhỏ, ý nghĩa lớn
Ngày Tết trẻ con được nghỉ học, được đi chợ, được mặc áo mới và nhất là chúng được mừng tuổi bằng tiền trong phong bao đỏ chót. Không biết từ bao giờ tục mừng tuổi đầu năm ra đời để rồi lưu truyền từ năm này sang năm khác và đến giờ vẫn được gìn giữ. Trong những ngày Tết, mọi người đến nhà những người mình yêu quý để thăm hỏi và chúc Tết đồng thời không quên mừng tuổi (lì xì) khi gặp trẻ em hay những người cao tuổi. Mừng tuổi đầu năm như một lời chúc may mắn, sức khỏe và sung túc.
Lì xì đầu năm mang lại may mắn, sức khỏe
Lì xì nhằm cầu chúc người nhận gặp may mắn, phát đạt. Thường người Tàu bỏ tiền vào bao giấy màu đỏ. Người Việt Nam ta cũng làm tương tự, phổ biến ở miền Nam ngày Tết. Ở miền Trung thì ông bà cha mẹ, người tôn trưởng cho con cháu tiền mới vào dịp Tết gọi là "tiền mừng tuổi". Không chỉ người lớn mừng tuổi con cháu, mà hồi xưa, con cháu phải mừng tuổi ông bà trước. Qua giao thừa, tới sáng sớm mùng một, con cháu bảo nhau tới nhà thờ để chúc Tết và lạy mừng ông bà, cha mẹ. Không chỉ lạy suông, cũng không thể muốn lạy mấy lạy thì lạy, mà theo nhà văn Toan Ánh, chỉ lạy... hai lạy rưỡi. Lạy xong con cháu phải biết "thơm thảo" với đấng sinh thành bằng cách cung kính dâng lên những thứ bánh trái tươi ngon và một phong giấy hồng: Bên trong phong giấy thẳng thớm này có đặt một món tiền, để lên khay tươm tất và hoan hỷ, xin các cụ nhận cho, đó là "tiền mở hàng". Tiền này không nhằm để cất cho nặng hầu bao, mà ngụ ý cầu chúc các cụ quanh năm sung mãn, may mắn. Tục mừng tuổi nay còn đó. Ông bà, cha mẹ, chú bác, cô dì, cậu mợ lì xì lớp cháu, con. Bằng hữu thân quyến tới nhà ai chúc Tết lì xì trẻ con của nhà đó. Hoặc chủ nhà đón khách tới chúc Tết lì xì trẻ em đi theo khách. Ý nghĩa chính không nằm ở "tiền" mà ở "tình", tức ở lòng mong ước cầu chúc các cháu hay ăn chóng lớn, vui chơi, học hành tấn tới, còn phong bì nặng nhẹ nhiều ít (tiền) không phải là điều đáng để tâm lắm. Thậm chí không có một cắc bạc mà chỉ có... chữ. Chữ viết rõ to, đậm nét để "làm quà" mừng tuổi như chuyện dưới đây.
Xưa, có một nhà nọ, nghèo quá, sinh ba đứa con trai. Tết đến người cha không có tiền để lì xì. Chiều ba mươi, ông nghĩ ra một cách, lấy giấy đỏ làm 3 cái phong bì, bề ngoài trông thẳng thớm tươi tắn đỏ thắm như các phong lì xì khác. Nhưng bên trong không bỏ tiền, mà thay bằng 3 miếng giấy được ông viết 3 chữ nắn nót: Phước - Lộc - Thọ. Qua sáng mùng một, người cha gọi 3 đứa con trai đến trước bàn thờ, xoa đầu chúng, tươi cười mừng tuổi chúng bằng 3 cái phong bì nhẹ hẫng, sau khi đã giải thích Phước là gì, Lộc là gì, Thọ là gì... Qua Tết, bước vào năm mới, chẳng ngờ nhà ông phát tài, tiền vô như triều cường. Thoắt cái, lại tới ba mươi tháng chạp. Ý chừng nhớ lại Tết xưa nghèo thiếu, đạm bạc, ông định bụng sẽ tái diễn cách "lì xì" bằng chữ để ba đứa "Phước Lộc Thọ" đừng bao giờ quên rằng, chúng đã được ăn no mặc ấm từ một quá khứ đói rách gần đây. Ai đời, khi nhận phong bì xong, ba đứa con bóc ra, mỗi đứa đều thấy vỏn vẹn chữ Phước, còn hai chữ Lộc Thọ biến đâu mất. Người cha cũng ngạc nhiên không kém. Bốn cha con đang phân vân, bỗng một người từ đâu đến bảo: "Ta là phúc thần của đất này. Chữ Phước đó do ta ban cho. Chỉ cần có nó cũng gồm đủ cả ba: phước, lộc, thọ, vì có phước mới hưởng được lộc, mới thọ lâu. Vì thế chẳng cần phải cầu lộc, cầu thọ, chỉ một chữ phước để mừng tuổi đầu năm là đủ". Nói rồi, biến mất. Nhìn lại phong lì xì, cả bốn cha con sửng sốt một lần nữa vì chữ phước cũng biến mất luôn, trên mặt giấy trống trơn, trắng toát.
Bấy giờ vị thần thứ hai hiện ra kể cho bốn cha con nghe một chuyện mừng tuổi xa xưa. Đó là câu chuyện nổi tiếng khắp châu Á, loan truyền qua Tây Tạng và dãy Hy Mã Lạp Sơn, đến cả lưu vực sông Hoàng Hà, Dương Tử của Trung Quốc, du nhập vào Việt Nam từ lâu đời, về một người cầu phước được phước, trở nên giàu có nhưng hết sức keo kiệt. Ông ta quên những điều tốt đẹp, những ban phát ngọt ngào, rộng lượng mà mình đã làm ở tiền kiếp, vì vậy một mực thâu góp vàng ngọc về riêng mình, trong kiếp này, bỏ vào chiếc hũ, đem chôn ở một vị trí bí mật trong nhà không cho ai hay. Ngay cả con trai của ông cũng không được biết nơi cất giấu. Về già, ông ngã bệnh. Khi chết, linh hồn ông bị hũ vàng ám ảnh, đã quay lại nhà cũ, tìm cách chui vào xác chết cứng lạnh của mình, nhưng bất lực. Thấy vậy, một con chó gần nhà có linh tính đã nhường thể xác hèn mọn của mình cho kẻ giàu có kia trú vào, rồi bay lên không trung thoáng đãng. Còn ông nhà giàu thay thế làm chủ thể xác của con vật bốn chân, thỏa mãn được "sống" lại, dầu với tấm thân thuộc hàng súc sinh như chó. Con chó đó lạ thay suốt ngày không đi đâu cả, cứ nằm lì trước hiên. Mà chỉ nằm ở một nơi nhất định sát cửa ra vào. Hễ người con (bây giờ đã là chủ nhà) đuổi đi, một lát không lâu nó lại quay về chỗ cũ, cứ như rời chỗ ấy là nó rời sự sống của nó vậy. Các phước quả mà nó hưởng là hũ vàng ngọc, giờ đây trở thành điều vô phước cột chặt nó vào tham si. Ngày nọ, một đại sư ngang qua, nói với đứa con: "Này anh kia, anh có biết con chó đó là ai không?". "Dạ thưa không". "Ta nói cho biết, nó chính là cha của ngươi. Vì sao nó nằm lì suốt ngày đêm ở khoảnh đất sát cửa đó? Ấy là vì nó luyến tiếc của cải chôn dưới đất. Hãy đào lên". Người con lấy làm lạ, cho đào thử chỗ con chó thường nằm, thì quả nhiên thấy hũ vàng bên dưới. Bị rúng động vì việc này, người con tỉnh ngộ, từ chối sở hữu số vàng, rời nhà theo vị đại sư lên núi, về sau trở thành một trong những vị tổ đầu tiên của lịch sử Thiền tông. Vị này tỉnh ngộ rằng: nếu làm phước, được phước mà thiếu huệ tức trí huệ sẽ trở nên nguy hiểm ngu si như con chó kia vậy. Được phước, thiếu huệ, thì như nằm trên đống vàng, đống ngọc mà vẫn khổ đau, thiếu thốn, phiền bực. Kể xong, vị thần bảo: "Đó là lý do vì sao ta phải xóa trắng chữ phước trong bao lì xì mừng tuổi của các ngươi. Nó chỉ có ý nghĩa tốt đẹp nếu sinh đôi cùng huệ, bằng không chỉ là động lực cho những cuộc thăng trầm bất tận. Giờ đây ngươi hãy nhìn xem".
Bốn cha con thấy trên bao lì xì hiện lên hai chữ Phước Huệ. Hai chữ này để mừng tuổi cho mọi tâm hồn đã đi qua mùa đông để mở đầu một năm mới thăng hoa.
Bí quyết cho việc lì xì ngày Tết thêm ý nghĩa
Lưu truyền đến ngày nay, tục lì xì đã thay đổi ít nhiều bởi thói quen của người lớn dẫn đến việc con trẻ thường coi trọng “nội dung” bao lì xì mà ít quan tâm đến những ý nghĩa tốt đẹp của phong tục này. Để gìn giữ nét đẹp văn hóa của dân tộc, các bậc phụ huynh nên lưu ý không cho quá nhiều tiền vào bao lì xì và dạy trẻ biết trân trọng ý nghĩa sâu xa của phong tục này, chứ không phải giá trị vật chất trong những bao lì xì.
>> Đã có VẬN HẠN 2016mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé! >>
Theo giải mã giấc mơ thấy lông mày, nếu bạn nằm mơ thấy lông mày của mình trong giấc mơ của bạn, điều này thể hiện sự ngạc nhiên, sự hoài nghi hoặc nghi ngờ đang tồn tại trong tâm trí của bạn. Giấc mơ này cũng chỉ ra mối lo ngại của bạn ở hiện tại. M
Người tuổi Tuất rất dễ mắc phải chứng hoang tưởng thái quá. Nỗi lo lắng những điều không may sẽ xảy tới với bản thân và người trong gia đình luôn tồn tại trong suy nghĩ của họ. Con giáp này luôn cho rằng cuộc sống tiềm ẩn nhiều cạm bẫy và mối nguy hiểm. Chúng có thể ập xuống đầu bất cứ ai và khiến họ phải điêu đứng.
Do vậy, lúc nào họ cũng phải gồng mình lên để chống chọi với nỗi ám ảnh mang tính chất hoang tưởng đó. Kết quả là tỷ lệ mắc chứng bệnh tinh thần này ở người tuổi Tuất là rất cao.
No2: Tuổi Tỵ
Hoài nghi chính là nhược điểm đồng thời là tật xấu khó chữa nhất ở người tuổi Tỵ. Họ luôn cẩn trọng, suy nghĩ kỹ lưỡng mọi chi tiết dù là nhỏ nhất. Họ quan sát kỹ càng và khá nhạy cảm với nhất cử nhất động của người khác, đặc biệt là phương diện tình cảm.
Nếu "gấu" có biểu hiện bất thường nào đó, người tuổi Tỵ sẽ tưởng tượng đủ điều và hoài nghi không ngớt. Khi tâm lý nghi ngờ không được giải tỏa, tinh thần họ rất dễ bị kích động theo chiều hướng tiêu cực. Do đó, chứng bệnh tinh thần càng thêm nghiêm trọng.
No3: Tuổi Mùi
Người tuổi này đa sầu đa cảm, khả năng chịu đựng áp lực tâm lý kém và dễ bị kích động dẫn tới tổn thương tâm lý. Thêm nữa, họ có xu hướng suy diễn sự việc theo chiều hướng tiêu cực. Khi sự việc càng nghiêm trọng, mức độ tưởng tượng của họ càng kinh khủng.
Nếu tâm lý bị tổn thương một chút, họ dường như không thể kiểm soát được cảm xúc cũng như tư duy, sự tỉnh táo của bản thân. Từ đó dẫn tới những hành động sai lầm hoặc thiếu sót.
No4: Tuổi Mão
Chỉ cần một cơn gió thổi mạnh, người tuổi Mão đã cảm thấy bất an. Những âm thanh dù nhỏ nhặt cũng khiến họ mất ngủ hoặc ngủ không sâu giấc.
Điều đó chứng tỏ sự nhạy cảm "vô đối" về phương diện tinh thần của người tuổi Mão. Họ dễ bị các yếu tố ngoại cảnh tác động và rơi vào trạng thái căng thẳng nên có nguy cơ cao về mắc các chứng bệnh về tâm lý.
No5: Tuổi Hợi
Đừng nhìn vẻ ngoài có phần thảnh thơi của người tuổi Hợi mà phán xét mức độ yêu đời của họ nhé! Thực ra, người tuổi Hợi "sướng mà không biết đường sướng", tự lấy dây buộc mình.
Cuộc sống an nhàn khiến người tuổi Hợi cảm thấy buồn chán. Thay vì làm việc gì đó, họ thích ngồi "than thân trách phận", oán trách cuộc sống bất công với mình. Lâu dần thói quen này biến thành bệnh tinh thần mãn tính của người tuổi Hợi.
Nhìn chính diện, ngôi nhà giống hình ngọn núi, có nghĩa là chính giữa xây 2 tầng, 2 bên trái phải mỗi bên 1 tầng. Loại nhà này khiến người ta có cảm giác như 2
bên vai bị gió bão thổi bay mất, mang tướng không tốt lành. Nhà thiết kế kiểu này dễ gây cháy nhà hay khiến gia chủ bị hao tài tốn của.
Khi xây dựng, trong 1 khoảng thời gian nhất định, mức độ chấn động của nó là cố định. Quy tắc chu kỳ chấn động là: nhà càng cao chu kỳ càng dài, nhà càng thấp chu kỳ càng ngắn. Nếu bộ phận sóng dài và bộ phận sóng ngắn của chấn động cố định của 1 ngôi nhà trùng với nhau, khi gặp động đất hay gió bão, những bộ phận nối tiếp nhau sẽ bị kéo theo những lực đối lập nhau, cuối cùng sẽ có nguy cơ bị tách rời ra.
(Hình minh họa)
Nói một cách cụ thể, những nơi nối tiếp giữ chỗ 2 tầng và chỗ 1 tầng sẽ có nguy cơ bị nứt rời. Hiện tượng này rất dễ thấy ở những ngôi nhà xây bằng gỗ hay vữa. Những ngôi nhà xây bằng vữa rất hay bị nứt, chính là do không xét đến vấn đề lực học. Thông thường, khi nhà bị nứt, nước mưa dễ dàng ngấm vào. Khi đã ngấm vào tường, chắc chắc nước mưa sẽ ngấm tiếp vào các kết cấu khác, gây ra nguy cơ đổ nhà nghiêm trọng.
Không chỉ có thế, vào mùa đông, nước mưa ngấm vào nhà, khi bị lạnh sẽ nở ra, làm vết nứt càng rộng. Hiện tượng này là nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc nhà cửa giảm độ bền và chịu lực. Hiện tượng sau khi bị suy thận của con người cũng giống với hiện tượng này. Chức năng của thận không còn bình thường, tim và gan cũng theo đó yếu đi, cuối cùng toàn cơ thể suy nhược.
Nếu nhất định phải xây 1 ngôi nhà theo kiểu cao thấp không đều như trên, khi sử dụng cột chống, nhất định cần xét đến những lực tác động nằm ngang hay nằm nghiêng, dùng những nguyên liệu chịu lực càng cao, càng có thể đảm bảo sự an toàn cho người ở.
Dân số thế giới ngày nay hiện lên đến hơn ba tỷ rưỡi. Nếu lấy số Tử-Vi, lẽ ra mỗi người phải có một lá số, vị chi có hơn ba tỷ rưỡi lá số. Nhưng thực tế không phải như vậy. Vì cách lấy số Tử-Vi theo phương pháp của Trần Đoàn có phần đặc thù, cho nên không phải ai ai cũng có lá số riêng. Trái lại, có rất nhiều người có chung nhau một lá số.
1. Tổng số tối đa lá số Tử-Vi
Chương này có dành một phụ lục để dẫn giải bài toán tính tổng số tối đa lá số Tử-Vi. Độc giả có thể tham chiếu phụ lục để thử nghiệm cách tính.
Theo cách lá số Tử-Vi của Trần Đoàn thì tối đa chỉ có 512.640 lá số mà thôi. 512.640 lá số này được dùng chung cho hơn ba tỷ rưỡi người trên thế giới. Con số này đủ để nói lên phạm vi hạn hẹp của việc áp dụng khoa Tử-Vi.
2. Phạm vi áp dụng khoa Tử-Vi
Đứng về mặt lý luận toán học mà xét thì khoa Tử-Vi không áp dụng riêng cho từng người một. Trái lại, khoa này chỉ dùng cho nhiều lắm là 512.640 trường hợp, thay vì ba tỷ rưỡi trường hợp. Như vậy, tầm thực dụng bị thu hẹp hết sức nhiều.
Điều này cho thấy Tử-Vi không phải là một toàn khoa, tức là một khoa dùng cho tất cả nhân loại, mà chỉ là một chuyên khoa đặc thù. Khoa Tử-Vi tự nó không giải quyết nổi hết ẩn số của ba tỷ rưỡi nhân mạng. Nó phải được bổ túc bởi nhiều bộ môn khác. Con số 512.640 chỉ nên xem như con số vận mạng khung, hay nói một cách khác đây chỉ là 512.640 loại vận mạng. Khoa Tử-Vi vô tình chỉ xếp loại được vận mạng con người vào bấy nhiêu trường hợp mà thôi.
Để có ý niệm cụ thể về sự tương đối này, ta thử xét tỷ lệ các người đồng số ở Việt Nam, ở Trung Hoa và trên thế giới.
a)Trường hợp Việt Nam
Dân số hai miền Việt Nam hiện nay lên đến 37.500.000 người. Giả thiết rằng sinh xuất và tử xuất hàng năm không thay đổi, chúng ta có con số sau đây:
37.500.000 _______________=73.15#73 512.640
Điều này có nghĩa là cứ 73 người Việt Nam là có một lá số giống nhau.
b) Trường hợp Trung Hoa
Dân số Trung Hoa, nơi phát xuất khoa Tử-Vi hiện nay vào khoảng 750.000.000 dân. Cũng giả thiết rằng dân số đó cố định và sinh xuất, tử suất giữ nguyên, chúng ta có con số:
37.000.000 ______________=1.463,#1.463 512.640
Điều này có nghĩa là có trùng số đối với 1.463 người Trung Hoa.
c)Trường hợp thế giới
Với dân số hiện vào khoảng 3.500.000.000, được gỉa thiết như cố định, thì số người trùng số trên thế giới là 6.827.
Luận theo toán học, bắt buộc phải nói như vậy. Trên bình diện toán học, các con số 73,1.463 và 6.827 cho thấy tính cách tương đối rất cao của khoa Tử-Vi. Sự trùng số còn chứng tỏ khoa Tử-Vi không cá biệt hóa được mỗi cá nhân, không phân biệt nổi từng vận mệnh. Đứng trên mặt lý luận toán học, khoa Tử-Vi đã đồng hoá 73 vận mệnh của 73 người Việt Nam làm một, đồng hóa 1.463 vận mệnh của 1.463 người Trung Hoa làm một và đồng hóa 6.827 vận mệnh cá nhân nói chung làm một.
Trên thực tế, việc 73 người Việt Nam trùng một lá số không có nghĩa là 73 người đó trùng vận mệnh. Kiếp số của mỗi người đều khác nhau. Thành thử, lối lý luận bằng toán học thỏa mãn được thực tế. Phải bổ túc lý luận này bằng một hệ thống lý luận khác lúc giải đoán.
Tử-Vi học là một khoa nhân văn, nghiên cứu con người và đời người. Phương trình con người (équation humaine) quá ư phức tạp vì phản ứng mỗi người một khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, văn hóa, huyết thống và nhất là phúc đức khác nhau. Chính vì những khác biệt sâu xa đó nên kiếp sống con người không thể đồng hóa nhau được. Vì thế, có lẽ chúng ta chỉ nên xem con số 512.640 như con số phương trình khung này, con người hoạt động riêng, tuỳ theo cá tính, hoàn cảnh, văn hóa, huyết thống và phúc đức tích lũy. Có thể có nhiều người cùng có chung một loại vận mệnh, nhưng vẫn có vận mệnh riêng cho mỗi người. Cái chung không xáo bỏ cái riêng, cái riêng không hoàn toàn đồng hóa với cái chung. Phải chăng đây là tính lý của ngạn ngữ “hòa nhi bất đồng” của cổ nhân ?
Dù sao, với 512.640 phương trình khung đó khoa Tử-Vi không thể là một toàn khoa (science complète) để giải đáp hết các ẩn số của mọi người. Nó phải được bổ túc bởi nhiều khoa bói toán khác, như tướng học, dịch học, chỉ tay v.v…
Mùa xuân tượng trưng cho ước mơ, hy vọng. Học sinh mơ thấy mùa xuân là điềm báo thành công trong đường học hành.
Mơ thấy mùa xuân là gặp điềm lành
Mơ thấy mùa xuân thường là điềm báo tốt đẹp.
Viên chức nằm mơ thấy mùa xuân báo hiệu, sự nghiệp của họ đang có nhiều hy vọng tốt đẹp. Thương nhân mơ thấy mùa xuân ngụ ý sẽ có nguồn vốn dồi dào, buôn bán thuận lợi.
Mùa đông
Nam
giới mơ thấy ngày đông u ám là điềm báo khó đạt được kết quả như mong muốn.
Phụ nữ mơ thấy mùa đông, dự báo sức khỏe của bạn đang sa sút nghiêm trọng.
Mùa hè
Mơ thấy mùa hè dự báo sự nghiệp của bạn đang phát triển không ngừng.
Giấc mơ mùa hè dự báo tín hiệu tốt trong sự nghiệp
Nam
giới mơ thấy mùa hè là điềm báo công việc của bạn đang thuận buồm xuôi gió.
Phụ nữ mơ thấy mùa hè cho thấy tình yêu của bạn đang trong giai đoạn nồng nàn, sâu sắc.
Mùa thu
Mơ thấy mùa thu dự báo bạn sẽ có nhiều bội thu và giàu có.
Nam
giới mơ thấy mùa thu ngụ ý, bạn sẽ được người khác trả nợ.
Phụ nữ mơ thấy mùa thu là điềm báo bạn sẽ may mắn được hưởng thành quả của người khác.
Mơ thấy hồn ma của một người bạn hay bà con đang còn sống nghĩa là bạn đang rơi vào vòng nguy hiểm bởi những hành động của người đó. - Hồn ma xuất hiện trong mơ thường là biểu tượng cho nỗi lo lắng, sự sợ hãi của bạn. Điều này có thể là một ký ức đau
Ngoài ý nghĩa tên theo vần, bạn có thể xem tuổi và bản mệnh của con để đặt tên cho phù hợp. Tên hay và hợp tuổi, mệnh sẽ đem lại nhiều điều tốt đẹp cho con
Ngoài ý nghĩa tên theo vần, bạn có thể xem tuổi và bản mệnh của con để đặt tên cho phù hợp. Một cái tên hay và hợp tuổi, mệnh sẽ đem lại nhiều điều tốt đẹp cho con bạn trong suốt đường đời. Bạn có thể tham khảo cách đặt tên con theo tuổi, theo bản mệnh.
Đặt tên cho con theo tuổi
Để đặt tên theo tuổi, bạn cần xem xét tuổi Tam Hợp với con bạn. Những con giáp hợp với nhau như sau:
Thân – Tí – Thìn Tỵ – Dậu – Sửu Hợi – Mão – Mùi Dần – Ngọ – Tuất Dựa trên những con giáp phù hợp bạn có thể chọn tên có ý nghĩa đẹp và gắn với con giáp Tam Hợp.
Bản mệnh được xem xét dựa theo lá số tử vi và theo năm sinh, tùy theo bản mệnh của con bạn có thể đặt tên phù hợp theo nguyên tắc Ngũ Hành tương sinh tương khắc. Dựa theo Tử Vi, các tuổi tương ứng sẽ như sau:
Mậu Tuất (2018), Kỷ Hợi (2019): Bình Địa Mộc (cây mọc đất bằng)
Như vậy, nếu con bạn mệnh Mộc thì bạn có thể chọn tên liên quan tới Thủy (nước), Mộc (cây) hay Hỏa (lửa) để đặt tên cho con bởi Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa… Các tuổi khác cũng tương tự, dựa vào Ngũ Hành tương sinh, tránh tương khắc sẽ giúp mọi sự hạnh thông, vạn sự như ý.
Trong vũ trụ vốn chỉ có âm. Vì có sự chuyển động cho nên phân thành âmdương. Có già trẻ nên có tứ tượng ; có tứ tượng tức là khí của ngũ hành đã hàmchứa trong đó. Có âm dương nên sinh ra ngũ hành, trong ngũ hành lại có âmdương. Ví dụ lấy Mộc mà nói, Giáp là dương Mộc, Ất là âm Mộc.
Giáp là khí của ất, ất là chất của giáp, là hành của trời, là mộc của âm dương. Dần mão cũng phân thành âm dương, dần là dương mộc, mão là âm mộc, là mộc phân thành âm dương trong đất. Giáp ,ất, dần, mão mỗi cái nắm quyền lực của một tháng. Giáp ất ở trên trời, do đó động chứ không cố định. Tháng kiến dần không nhất định là tương phối thành giáp dần, tháng kiến mão cũng không nhất định là ất mão. Còn dần mão ở trên đất, do đó yên tĩnh không biến đổi. Giáp tuy đổi dời, nhưng tháng giêng nhất định là kiến dần (tháng dần). At tuy đổi dời, nhưng tháng 2 thì nhất định là kiến mão (tháng mão). Lấy khí mà nói, giáp vượng ở ất ; lấy giáp làm mộc của rừng xanh, rậm rạp và nên chặt phá đi ; lấy ất làm mầm non, không nên làm tổn thương đến nó. Như thế là hiểu không đúng về đạo lý âm dương. Căn cứ vào cách lý luận ở trên của mộc, ta cũng có thể suy ra đạo lý về kim, hỏa, thuỷ, thổ với tư cách là xung khí của mộc , hỏa , kim, thuỷ do đo nó vượng ở tháng cuối cùng của bốn mùa và cũng có khí chất âm dương . Còn mộc, hỏa, kim, thủy là sự ngưng kết của xung khí mà thành, cho nên đương nhiên đều có khí chất âm dương.
Cách tra bảng: mỗi lần gặp can năm là giáp, kỷ thì tiết lệnh tháng giêng là bính dần, tháng 2 là đinh mão.... cứ thế tính tiếp. Ví dụ năm 1994 là năm giáp tuất, can năm là giáp ; năm 1989 là năm kỷ tị, can năm là kỷ. Tháng giêng hai năm đó đều lấy bính dần. Những năm khác cũng theo phương pháp tương tự. Ta có thể nhớ theo bài ca truyền miệng sau:
Giáp, kỉ lấy bính làm đầu,
At, canh lấy mậu để làm tháng giêng.
Bính, tân tìm đến canh dần,
Đinh, nhâm phải lấy nhâm dần trở đi.
Qua bài trên, kết hợp với bảng lấy tháng theo năm, ta có thể thấy rõ : gặp năm giáp, năm kỷ, hoặc năm ất, năm canh.... thì cách lấy can tháng đầu năm giống nhau đều có quy luật là thiên can lục hợp.
Khi muốn tìm can chi của tháng thuộc năm nào đó theo hình bàn tay, nếu thuộc được bài ca trên thì sẽ rất dễ dàng. Ví dụ muốn biết can chi tháng 3 âm lịch của năm tân mùi tức năm 1991, vì 12 địa chi đã được cố định trên bàn tay nên chỉ cần tìm ra can tháng, sau đó hợp can và chi lại xong. Theo câu “Bính, tân tìm đến canh dần” ta có thể biết được can năm là tân, địa chi tháng giêng là dần ở trên đốt thứ nhất của ngón tay trỏ. Giơ bàn tay trái ra, đặt đầu ngón cái vào ngôi dần, can chi tháng giêng là canh dần nên đầu ngón cái trên ngôi dần đọc là canh, sau đó thuận đếm theo mão tháng 2 đọc là tân, tháng 3 ngôi thìn đọc là nhâm. Tháng 3 chính là tháng ta muốn biết, tức là tháng nhâm thìn.
Phù dung là loài hoa cùng họ với hoa sen họ Bông, được chia làm thủy phù dung, mộc phù dung. Mộc phù dung còn được gọi là Mộc liên, địa phù dung, thân gỗ... Thời Ngũ đại của Trung Quốc, sau khi Thục chủ Mạnh Kha về cung đã trồng Mộc Phù Dung khắp vườ
Phù dung là loài hoa cùng họ với hoa sen họ Bông, được chia làm thủy phù dung, mộc phù dung. Mộc phù dung còn được gọi là Mộc liên, địa phù dung, thân gỗ… Thời Ngũ đại của Trung Quốc, sau khi Thục chủ Mạnh Kha về cung đã trồng Mộc Phù Dung khắp vườn, hoa nó như gấm, chính vì vậy người sau gọi thành đồ đều là Cam thành, Dung thành, Phù dung chịu được lạnh, chính vì vậy có tôn là “Cự Sương”.
Vương An Thạch trong bài thơ “Cự Sương hoa” có viết: “Quần phương lạc tận dộc tự hương” (Các loài hoa khác đều rụng, duy có mỗi Phù dung là vẫn ngát hương). Tô Đông Pha trong Hòa trần thuật cồ cự Sương hoa” có khen rằng; “thiên lâm tảo tác nhất phàm hoàng, chì hữu phù dung độc tự phương” (Khắp rừng lá vàng rụng, chỉ có hoa Phù dung còn tươi). Phù dung trong tiếng Hán đồng âm với “phú vinh” nghĩa là giàu có, vinh hiển. Trong các hình hoa văn thường thấy vẽ Phù dung và Mẫu đơn với nhau thành “vinh hoa phú quý”, nhằm chỉ nghĩa cát tường.
Thuyết âm dương đề cập tới năm quy luật chính: Âm dương thuộc tính, âm dương đối lập, âm dương là gốc của nhau, âm dương biến hoá và âm dương vận hành. Năm nội dung cơ bản trở thành thuyết ân dương là cơ sở triết lý của nhiều môn, ngành. Nó soi rọi t
Thuyết âm dương đề cập tới năm quy luật chính: Âm dương thuộc tính, âm dương đối lập, âm dương là gốc của nhau, âm dương biến hoá và âm dương vận hành.
Năm nội dung cơ bản trở thành thuyết ân dương là cơ sở triết lý của nhiều môn, ngành. Nó soi rọi thêm phương hướng suy luận và phương pháp nghiên cứu mang tính khoa học.
Thuộc tính Âm và Dương
Tiêu chuẩn để phân biệt thuộc tính âm, dương trong sự vật và hiện tượng.
– Dương là sự biểu lộ của trời (cằn – thiên) là Nam, cha, vua chúa, bề trên, sang trọng (trời sang đất hèn) ban ngày, ánh sáng, sức nóng, năng lượng, sức mạnh mang tính dương, màu trắng, sự chuyển động mạnh mẽ, bằng phẳng, náo nhiệt, hưng phấn… Thuộc tính mạnh.
– Âm: Biểu lộ khôn – đất là nữ, mẹ, yếu bóng tối, đêm, mặt trăng, mềm mại, thụ động, lạnh, tính trầm, màu đen… thuộc tính yếu mềm.
Âm, dương là một hệ thống “nhị nguyên” mang những thuộc tính trái ngược nhau nhưng lại bổ trợ nhau trong đối lập.
Âm Dương đối lập
Bên trong vạn vật hiện tượng đều đồng thời tồn tại hai thuộc tính âm và dương đối lập nhau tạo nên sự cân bằng bổ trợ thúc đẩy sự hình thành, phát triển và cũng đồng thời tàng chứa sự mất cân bằng giúp sự đối lập phát triển để đi tới sự phân tách – quá trình phân huỷ.
Trong bát quái âm và dương được biểu hiện bằng hai màu đối nghịch: Trắng, đen để thể hiện âm và dương “nhị nguyên” và lại quấn vào nhau để nói lên sự hoà hợp, hỗ trợ đồng thời phát sinh như quy luật phát triển: Sinh và diệt. Vì vậy trong “chu dịch càn tại đô “viết rằng “càn, khôn là căn bản của âm dương, là tổ tông của vạn vật…” quy luật âm và dương đối lập và thống nhất xuyên suốt trong tất cả sự vật và biểu tượng. Không có sự vật biểu tượng nào mà không mang hai thuộc tính âm dương và tàng ẩn quy luật đối lập và thống nhất của nó.
Sự hợp nhất âm dương để sinh và huỷ. Trong sinh có huỷ, trong huỷ có sinh, cái nọ là gốc của cái kia, cái này là nguyên nhân của cái kia. Nó đồng thời tồn tại trong một thể đối lập – Thống nhất.
Âm Dương là gốc của nhau
Như đã thấy âm dương trong vạn vật vừa đốì lập lại vừa thông nhất, chúng dựa vào nhau để tồn tại, phát triển. Đó là sự tác động qua lại giữa âm và dương, không có âm thì không có dương và ngược lại.
Trong một hệ thống “nhị nguyên” có thể nói là không có sự thuần dương hay thuần âm, sự tách bạch âm dương khi đứng riêng lẻ khi đó là “hư không” là quá trình hủy. Tuy vậy không phải là một trạng thái biệt lập lâu dài mà tự nó đang sinh trưởng và thực hiện giai đoạn chuyển hoá. Ta đi đến một quy luật tiếp của thuyết.
Âm Dương biến hoá
Âm dương là hai thuộc tính khác biệt trong một thực thể. Nhưng cả âm và dương đều có quy luật biến hoá.
Dưới những điều kiện nhất định thì cái này sẽ chuyển hóa sang cái kia. Ở đây nói sự dịch chuyển mà không biến mất thuộc tính riêng biệt. Song chỉ khi nào âm và dương kết hợp thì mới thúc đẩy sinh thành và phát triển trong “Hệ từ” viết: Âm dương hợp đức thì cương nhu thành hình…”
Điều đó nói lên tuy âm và dương đối lập nhưng phải dựa vào nhau và hợp nhất bền vững cân bằng mới cùng tồn tại lâu dài được.
Sự tách biệt tương đối để rồi lại thiết lập sự thống nhất mới, cái gọi là tách biệt chỉ thuần tuý ý niệm để xét thuộc tính, còn thực ra luôn luôn trong cái gọi là âm vẫn đang tàng ẩn dương và cái gọi là dương vẫn có âm. Đó là sự chuyển hoá (thuần dương và thuần âm) chỉ là khái niệmẽ Trong cha (dương) vẫn tàng âm mới thành hình người nam. Và trong mẹ – âm vẫn tàng dương (cha, mẹ là thực thể), nếu không có hai thuộc tính đó thì không có thực thể. Không nên hiểu thô thiển, nhầm lẫn thuộc tính với thực thể, thuộc tính chỉ một, còn thực thể có cả hai, đã ở thể thống nhất. Chỉ khi nào sự mất cân bằng âm dương trong thực thể thì mới bộc lộ đơn tính có thuần tính rõ ràng, sự chuyển hoá không còn nữa.
– Hỏa vương là do thủy suy hay do thủy quá suy so với “mức cân bằng” mà hỏa trở nên vượng, như vậy trong trường hợp này phải hiểu hỏa vượng xẩy ra trong 2 trường hợp: Hỏa thực vượng do một lý do nào đó, điều kiện sung nạp nào đó làm hỏa tăng lên quá mức phá vỡ thế cân bằng đã có. Trường hợp thứ hai Âm suy – không còn giữ được “mức cân bằng” cần thiết bởi một lý do, bởi một điều kiện nào đó làm cho Hỏa được coi là vượng – Giả vượng. Song theo quy luật đối lập hợp nhất và quy luật chuyển hóa Âm dương “mức cân bằng tương đối” lại được thiết lập lại. Hai quy luật này không xảy ra trong một thực thể thì sẽ là tiền đề của quá trình “hủy” để thiết lập một sự cân bằng mới trong một thực thể mới.
Cần phải hiểu tính quy luật chỉ mang tính chất chi phối và tất yếu chứ nó không phải là một yếu tố chi phối thực sự.
– Âm và Dương là hai thuộc tính khác biệt nhau nhưng lại có thể chuyển hóa lẫn nhau. Âm cực sinh Dương, Dương cực sinh Âm, “luôn luôn sinh” là “biến” và “chuyển”. Sự chuyển hóa Âm Dương lẫn nhau là quy luật phát triển tất yếu của sự vật. Và như vậy nếu mọi thứ đều tuân thủ theo quy luật cân bằng phát triển thì luôn tạo ra sự phát triển hài hòa, giúp sự tồn tại lâu bền. Nếu có sự lệch lạc, mất cân đối sẽ tạo ra sự không bền vững.
Âm Dương vận hành
Âm Dương vận hành nghĩa là nó luôn ở thế động. Đó là một quy luật.
Âm Dương ở bất cứ một thực thể nào nó vẫn luôn vận động và như vậy sự cân bằng ở trong thực thể là cân bằng động. Có như vậy nó mới thúc đẩy sự phát triển và mới là quy luật của sự phát triển. Thế cân bằng cũ bị phá vỡ theo quy luật vận hành Âm Dương thì thế cân bằng mới được thiết lập ngay. Nó phù hợp quy luật biến hóa của Âm Dương. Nhờ sự không ngừng chuyển hóa tự nhiên mà vũ trụ và sự vật, hiện tượng luôn thay đổi, luôn vận động. Sự sinh và huỷ, thay thế nhanh là không ngừng. Đó là sự vận động của Âm Dương. Hết ngày lại đêm, hết sáng lại tối. Nóng đi lạnh đến… cứ thế không ngừng chuyển đổi. Âm mạnh lên thì Dương yếu và Dương yếu thì Âm mạnh. Nhưng Âm và Dương tương hợp cho nên đi đến một thế cân bằng mới nhờ quy luật vận hành mà Âm và Dương luôn tìm đến một cân bằng để hòa quyện giúp sinh trưởng và phát triển không ngừng.
– Nếu Âm Dương không có quy luật vận hành thì mọi thực thể sẽ giữ nguyên trạng thái ban đầu sẽ không có cái cũ và cái mới. Nhờ quy luật vận hành của Âm Dương mà cái mới sinh rất hay thế cái cũ. Sự phá vỡ cân bằng cũ nhanh hay chóng là tùy vào khả năng duy trì của thực thể. Tuyệt nhiên không theo ý muốn áp đặt. Từ quy luật luôn vận hành của Âm Dương ta thấy không có gì có thể vĩnh cửu. Trường tồn thì có, nhưng vĩnh cửu thì không.
Tất cả sự vật, hiện tượng đến con người, vũ trụ cũng không nằm ngoài quy luật này của thuyết Âm Dương.
Đa số những người cầm tinh con Khỉ lại thuộc nhóm máu O đều có tính cách vui vẻ, hoạt bát, lại vô cùng nghĩa khí. Hơn thế, họ làm việc gì cũng đầy tự tin, quyết đoán nhưng cũng biết lắng nghe lời khuyên, ý kiến của mọi người xung quanh.
Tuy nhiên, nếu là con giáp này, bạn lại mắc tật nói nhanh và quá thẳng tính nên khó tránh khỏi việc đắc tội với người khác. Bù lại, ưu điểm của bạn là không để bụng bất cứ chuyện gì, dù ai nói ngả nghiêng về mình, bạn vẫn giữ được thái độ lạc quan, vui vẻ vì cho rằng như vậy chứng tỏ mọi người đều quan tâm tới mình. Chính vì điều đó mà người tuổi Thân nhóm máu O luôn được mọi người yêu quý.
2. Người tuổi Mão có nhóm máu A
Những cô cậu cầm tinh con Mèo mà thuộc nhóm máu A thuộc tuýp thân thiện, trọng tình cảm, nhiệt tình giúp đỡ mọi người mà không mong được báo đáp. Thậm chí, có những lúc tình hình tài chính của bản thân khá eo hẹp, nhưng hễ bạn bè gặp khó khăn, họ sẵn sàng rút đồng tiền cuối cùng trong ví đưa cho bạn. Như vậy mới nói, nếu mọi người không dành tình cảm yêu mến nồng nhiệt cho con giáp này mới là chuyện lạ đấy.
3. Người tuổi Thìn có nhóm máu O
Tư duy nhanh nhạy, làm việc quyết đoán nhưng cũng không kém phần tỉ mỉ và chính xác là những điểm thường thấy ở người tuổi Thìn có nhóm máu O. Ngoài ra, con giáp này rất bao dung, không câu lệ phép tắc dập khuôn, làm việc hăng say, ý chí kiên định, không dễ dàng bỏ cuộc giữa chừng.
Hơn thế, trong tập thể, họ luôn biết cách tạo ra sự kết nối hài hòa với tất cả mọi người nên dễ được mọi người yêu quý, giao phó trọng trách làm quản lý hoặc lãnh đạo.
4. Người tuổi Hợi có nhóm máu AB
Tính cách đặc trưng của những người tuổi Hợi mà có nhóm máu AB chính là kiểu phích nước, trong ấm ngoài lạnh. Nhìn vẻ bề ngoài có vẻ lạnh lùng và nghiêm túc vậy thôi, nhưng thực chất bên trong con giáp này là một tâm hồn ấm áp, cũng không kém phần yếu đuối nếu rơi vào chuyện tình cảm ướt át.
Bên cạnh đó, người này lúc nào cũng giữ được thái độ lạc quan, ung dung tự tại, luôn mang tới niềm vui cũng như là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho bất cứ ai cần sự giúp đỡ. Hơn thế, họ làm việc công tâm, không chịu sự chi phối của người khác nên tác phong lúc nào cũng nhanh nhẹn, đầy sức cuốn hút. Điều đó lý giải tại sao mạng lưới bạn bè của họ lại dày đặc đến vậy.
Tiền tài có thể mang đến hạnh phúc, vui vẻ nhưng cũng có thể gây họa bất cứ lúc nào không hay. Những người mà có bát tự xấu dưới đây thì đời này nhất định vì tiền mà gặp sự chẳng lành.
Những người có bát tự xấu, rơi vào các trường hợp sau thì phải hết sức lưu ý chuyện tiền nong kẻo vì nó mà họa đến thân. 1.Tài sinh Sát mà thân nhược2.Bát tự có Thương Quan, Tài sinh Chính Quan3.Sát Ấn tương sinh, Tài chế Ấn, Sát vượng mà không có Quan.Ví dụ cụ thể, có một người có bát tự thực vượng, mệnh chủ là bộ đội, quan chức, có chút kinh thương. Năm 2014 nhân tài gặp phải quan tòa, kéo dài tới cả năm, như đứng đống lửa, như ngồi đống than.Bát tự là mệnh Càn: Đinh Tỵ, Kỷ Dậu, Tân Mùi, Tân Mão. Đại vận: Mậu Thân, Đinh Mùi, Bính Ngọ, Ất Tỵ, Giáp Thìn, Quý Mão, Nhâm Dần, hiện tại là Ất Tỵ đại vận. Nếu thân cường, hỉ Mộc Hỏa, Ất Tỵ vận, năm 2014 Giáp Ngọ, năm 2015 Ất Mùi, năm 2016 Bính Thân, gặp Mộc Hỏa, chẳng những tài vận không tốt và còn gây họa cho người.Lý giải lá số tử vi của người ấy như sau: Tân Kim sinh tháng Dậu, được mùa, chi ngày là Mùi Thổ, tương sinh với Kim, tháng có Kỷ Thổ hóa sát sinh Thân, có tác dụng lưu thông. Tân Kim là trung hoà thiên cường, hỉ Thủy sinh Mộc, kiêng kị Thổ Kim, Hỏa cát hung đều có.
Bát tự Sát Ấn tương sinh, cho nên là quan võ, có vận làm quan. Bát tự mang Thiên Tài, có thể kinh doanh, dục vọng đối với tiền tài lớn.
Nhập Ất Tỵ đại vận, Tỵ Hỏa giúp phù Đinh Hỏa Thất Sát; năm Giáp Ngọ, địa chi tạo thành Tỵ Ngọ Mùi tam hội sát cục, Đinh Hỏa Thất Sát rất vượng, khắc thân, làm cho ngày nguyên chuyển nhược. Năm 2014 thiên can Giáp Mộc hợp điệu Kỷ Thổ, Kỷ Thổ hoàn toàn không thể thông Quan, Thất Sát xúc phạm ngày, đưa tới thị phi tai ương. Gặp phi quan tòa, tất có mối họa thương bệnh.Người này từ 42 - 51 tuổi là Giáp Thìn đại vận, Chính Tài là việc chính, ổn định tiền lương hoặc khai trương doanh thương, tài vận không tồi. Từ 52 - 61 tuổi là Quý Mão đại vận, tiếp tục kinh thương, làm được việc trọng đại, tài vận tốt; nhưng hai Mão xung một Dậu ảnh hưởng tới sức khỏe.
Trần Hồng Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Con so là con sinh đầu lòng, con rạ là những đứa con sinh sau. Nếu nuôi được cả thì con so là trưởng, con rạ là thứ. Phong tục này phổ biến ở Bình Trị Thiên và một số địa phương ngoài Bắc, còn ở Nghệ An, Hà Tĩnh thì trừ trường hợp ở rể, nói chung con gái không được sinh đẻ ở nhà cha mẹ mình.
Con gái mới lớn lên, mới sinh lần đầu tiên, trẻ người non dạ, chưa biết đi đứng, ăn uống, tắm giặt, kiêng khem ra sao, hơn nữa trong người yếu khoẻ ra sao muốn nhờ vả mẹ chồng hoặc chị em nhà chồng cũng ngần ngại, khó nói hơn với mẹ đẻ và em út mình. Còn những lần sinh sau đã có kinh nghiệm, có thể tự mình giải quyết được nhiều việc.
Phong tục, "Con so về nhà mạ" là một phong tục hay nhưng muốn giải quyết được êm đẹp cũng phải có thu xếp: Gần ngày ở cữ, mẹ chồng hoặc chàng rể sang quê ngoại thưa chuyện trước, nếu có khó khăn về kinh tế hoặc đường xá xa xôi cách trở cũng cần thảo luận với nhau về trách nhiệm cho thoả đáng, sau khi mẹ tròn con vuông, cháu cứng cáp, chàng rể cũng cần sắm một số lễ vật, nhằm ngày tốt sang tạ ơn gia tiên bên ngoại và ông bà ngoại để xin đón vợ con về. Ông bà ngoại còn cẩn thận đánh dấu vôi hoặc nhọ nồi ở trán cho cháu và các thứ bùa phép khác để các thứ tà ma ác quỷ không dám đến quấy rối cháu dọc đường.
ở Nghệ Tĩnh lại có phong tục ngược lại: Cho là sinh dữ tử lành, ngoài con dâu ra, không ai được quyền sinh trong nhà. Con gái về nhà mạ, nếu nhỡ đến kỳ động thai, trở dạ, không kịp trở về nhà chồng, sợ sinh nở dọc đường thì bố mẹ phải dựng tạm chiếc lều ở góc vườn, hoặc nếu không kịp, thì ra chuồng trâu mà đẻ.
Thiết nghĩ không cần phân tích, bạn đọc cũng thấy được phong tục nào hợp tình lý hơn.
Trường hợp đã mồ côi mạ, về nhà mạ thiếu người chăm nom thì con so cũng về nhà chồng.
Trong thiết kế các phòng bếp hiện nay thì có một quan niệm hết sức sai lầm và làm ảnh hưởng trầm trọng đến sức khỏe của mọi người sống trong ngôi nhà, đó là việc thiết kế kệ để bát, đĩa, đồ dùng bên trên mặt bếp, thậm chí có nhà còn để khoảng cách từ mặt bếp đến tủ bát cao chưa được 1m. chính vì cữ nghĩ là để tủ bát bên trên sẽ tiện lợi cho việc sử dụng, nhưng đây lại là phạm kỵ trong phong thủy.
Theo Ngành Năng lượng trong phong thủy thì khí xấu hay còn gọi là "tà khí" được hình thành và phát sinh từ những nơi có lực hút mạnh, nơi có nhiều góc cạnh, dầm nhà, góc tường, tủ quàn áo, kệ đồ...
Bếp trong phong thủy được coi là cái thần, là nơi mang lại tài lộc cũng như sức khỏe cho gia đình, do đó cát thần phải được thờ và đặt tại một nơi trang trọng nhất, tránh bị các xạ khí hay còn gọi là tà khí bay đến.
Trên thực tế, không phải ai cũng nhận ra điều này, nên trong thiết kế đã tạo ra một sai lầm trong phong thủy phòng bếp và hậu quả là không thể lường trước được.
Khi bếp bị các "xạ khí" từ các góc nhọn của tủ bếp chiếu xuống thì ta cần phải chuyển tủ bếp sang vị trí khác, tạo cho bếp một không gian thoáng ở phía trên, không bị các "tà khí" bay đến.
Chính vì vậy theo lời khuyên của chuyên gia phong thủy nhất nam là không được để tủ bếp hay bất cứ vật gì có góc cạnh bên trên bếp.
Nên đặt ống hút mùi trên cao hoặc bên cạnh bếp, tránh đặt gần bếp. Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
Đạo Phật từ khởi nguyên cho tới bây giờ luôn tồn tại hai giới tu hành, đó là giới xuất gia và giới tại gia. Người tu xuất gia cũng gọi là xuất gia đầu Phật. Xuất gia – là đến chốn hông nhà.
Chữ “nhà”, là nhà ở cửa người thế tục. Người thế tục nào bỏ nhà ở của mình để đến ở nhà của Như Lai, là chùa để giữ gìn mạng mạch Phật pháp trường tồn và phát triển được, gọi là người trụ trì. Trụ, nghĩa ở; còn: Trì, nghĩa là giữ, giữ gìn. Thế nên Trụ Trì là ý nghĩa cao cả trong câu: Trụ Pháp Vương gia – Trì như Lai Tạng. Người tu xuất gia là người lấy Phật đức trang nghiêm thân tâm, khoác y Phật, đưa Phật Pháp vào lời nói, là người trưởng tử của Như Lai, tuyên dương giáo pháp làm lợi ích cho đời; bởi giáo pháp nhà Phật là giáo pháp bất ly thế gian để giác ngộ thế gian (chữ Hán biểu thị bằng câu: Phật pháp bất ly thế gian giác).
Cho nên tu xuất gia mà dân gian gọi là tu chùa là lối tu cao tuột, hơn hẳn các lối tu khác.
Người tu tại gia là người thực hiện các pháp tu ngay tại nơi ở, nơi sinh sống của mình cùng với gia đình (tại gia là tại nhà). Người tu tại gia gọi là Ưu bà tắc; là giới nữ gọi là Ưu bà di. Cũng có thể gọi chung là phật tử, tức con của đức Phật Thích Ca, và chính đức Phật đã chế định và khai mở đường lối tu này khi Ngài còn tại thế.
Lịch sử Phật giáo ghi nhận người tu tại gia đầu tiên là một nhà triệu phú ở gần thành Ba-la-nại, khi ông ta đi tìm người con trai của mình tên là Yasa đã bỏ nhà ra đi vì chán cảnh sống thế gian tầm thường, vô vị. Ông đã tìm được người con trai của mình tại Vườn Nai, con trai ông đang nghe Phật thuyết pháp.
Đến nơi, được nghe pháp, nhà triệu phú nọ cũng bị thuyết phục bởi những lời giảng của đức Phật về Tứ Đế và Bát Chính đạo. Thế rồi thể theo lời cầu xin của nhà triệu phú, đức Phật đã cho ông được quy y, trở thành người đệ tử tại gia đầu tiên. Nhà triệu phú nọ đã hoan hỷ trở lại nhà mình, tiếp tục công việc làm ăn, buôn bán. Còn người con trai của ông là Yasa thì được Phật cho xuất gia.
Từ mẫu hình của người tu tại gia đầu tiên từ thời đức Phật cách đây hơn 25 thế kỷ ấy, thì các pháp tu này vẫn còn nguyên giá trị. Đó là, người phát nguyện tu tại gia nhất thiết phải được nhà chùa chấp thuận và làm lễ Quy y Tam bảo cho.
Trong buổi lễ ấy, nhà chùa có thể đặt Pháp danh (tên đạo) cho người được Quy y. Sau buổi lễ người phật tử đó được trở lại nhà ở, gia đình của mình và làm ăn, sinh sống bình thường trong công đồng dân cư và tự giác thực hiện những điều đã phát nguyện trước Tam Bảo trong buổi lễ Quy y.
Để phát huy trách nhiệm của người phật tử tu tại gia, trước hết phải quan niệm sâu sắc lời Phật dạy qua kinh sách và những lời giảng Pháp của các thầy với các khóa học dành cho người tu tại gia; và không chỉ học hiểu mà còn biết kiến giải đúng nghĩa các thuật ngữ Phật học phổ thông như Tam Bảo, vô ngã, tứ vô lượng tâm, Phật tính v..v…Thực hành Bát chính đạo, sống có giá trị và ý nghĩa hướng thiện để đời sống của mình có giá trị và ý nghĩa, trở thành tấm gương sống đẹp, thực hành đời sống đạo đức, tâm linh, đồng thời Phật tử tu tại gia phải có tình thần hộ trì hoằng dương Chính Pháp, lợi lạc chúng sinh. Bên cạnh đó, người phật tử tu tại gia nếu có điều kiện sẵn sàng thực hành Pháp thí và Vô úy thí – tức là trao truyền kiến thức tu tập và bảo vệ che chở, đem niềm vui, hạnh phúc tới cho người khác, góp phần làm vơi bớt nỗi khổ niềm đau trên cuộc đời, trong xã hội.
Trong văn hóa dân gian Việt Nam từng truyền tụng câu thơ cửa miệng về “sự tu” thật sâu sắc:
Thứ nhất là tu tại gia Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa
Chớ hiểu lầm về sự sắp xếp thứ tự.. nơi tu trong câu lục bát này. Bởi vì: Tu tại gia được xếp “thứ nhất” ấy chỉ là bước đầu tiên trong việc thâm nhập và khai mở tri kiến Phật, chưa phải là lối tu cao tuột của người xuất gia mà trong bài viết này đã đề cập, đã Kiến giải và mặc dù vậy, ngay từ buổi đầu tiên chế định ra đường lối tu này; sau lời truyền Pháp, đức Phật đã hoan hỷ, tuyên dương với đại chúng về bốn niềm vui chính đáng của người Phật tử tu tại gia.
Đó là:
1. Niềm vui có của cải: Là do lao động chuyên cần bằng mồ hôi và những việc làm chính đáng của mình trong kinh doanh, làm khoa học kỹ thuật, hoặc lao động phổ thông. Sống lành mạnh, có đạo đức nghề nghiệp. được cộng đồng và pháp luật thừa nhận.
2. Niềm vui được giàu có: Được giàu có là do lao động siêng năng, lại khéo léo sắp xếp công việc hợp lý, có kế hoạch vì thế tạo ra những lợi nhuận ngày một cao. Khi thụ hưởng giàu sang mà vẫn không quên làm việc lành.
3. Niềm vui không có nợ nần: Là do có nghị lực kiềm chế. Thực hành “thiểu dục tri túc”, ít ham muốn, tự biết đủ. Không cờ bạc, rượu chè, giữ ngũ Giới… cho nên không có nợ nần, sống tự tại
4. Niềm vui không bị chê trách: Là do các hành động của thân – khẩu – ý luôn thanh tịnh, không có điều gì đáng chê trách cho nên cuộc sống luôn thảnh thơi, tri thức thăng hoa, tâm thường hoan hỷ.
Trong bốn niềm vui của người tu tại gia, thì niềm vui thứ tư được đức Phật tán dương nhất; Ngài cho rằng: niềm vui không bị chê trách là niềm vui ưu việt hơn cả.
Ở nước ta, trong giới tu tại gia – các cư sĩ, phật tử ở thời nào cũng rất đông đảo. Họ là những thường dân, là thương gia giàu có, nhà khoa học, những nghệ sỹ tài năng và có cả những danh tướng, quân vương… nơi thế tục nhưng hết thảy những việc làm của họ đều xứng danh là các Hộ pháp ở thế gian còn nhiều những khổ đau này.
Trong đó có những ngọn đuốc thiền sáng chói rất đáng tự hào, như nhà Trần (1225 – 1400) có Tuệ Trung Thượng sỹ Trần Tung – vị thiền sư lại là một cư sỹ tại gia, một nhà tư tưởng, nhà quân sự và cũng là một nhà thơ. Bác sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám (1897 – 1969) cũng là một cư sỹ tại gia mẫu mực, làm nhiều phật sự lớn như dịch Kinh Phật, mở các trường Phật học đào tạo tăng tài trong phong trào chấn hưng Phật giáo, đầu những năm 30 thế kỷ 20.
Vậy là may mắn cho tôi và hết thảy những ai đó chưa hội đủ duyên lành để được làm người tu xuất gia, thì cũng chớ bỏ lỡ cơ hội Quy y Tam bảo, làm người tu tại gia, thực hiện các hạnh lành mà thụ hưởng bốn niềm vui mà đức Phật đã hoan hỷ chỉ bày.
Hồ tiêu là một loại gia vị, thường hay xuất hiện trong mơ. Người nằm mơ nên phát huy hết ưu thế của mình, “tăng thêm gia vị” cho cuộc sống bản thân. Mơ thấy hồ tiêu vởi hàm ý người nằm mơ sẽ thay đổi sở thích. Trong cuộc sống thường ngày, người đó có
Ếch vốn là một hình ảnh quen thuộc trong truyện cổ Grim. Vì vậy, nếu thấy một con ếch trong mơ, ám chỉ điều bất ngờ sắp xuất hiện hoặc báo hiệu một sự thay đổi. Trong giấc mơ của phụ nữ, ếch có thể là hình ảnh của một chàng hoàng tử cải trang.
► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác
Trong giấc mơ của phụ nữa, ếch có thể là chàng hoàng tử cải trang
Mơ thấy bạn đang bắt một con ếch, biểu thị bạn không quan tâm nhiều đến sức khỏe của mình. Nghe tiếng ếch kêu trong mơ, ám chỉ rằng khi bạn nhờ vả những người bạn thì họ không làm được gì theo mong muốn của mình. Thấy những con ếch đang nhảy nhấp nhô trong giấc mơ tượng trưng cho lập trường của bạn thiếu vững chắc. Bạn có khuynh hướng chuyển đổi từ việc này sang việc khác. Ngoài ra, nó còn có thể ám chỉ rằng bạn đang nhảy từng bước đến mục tiêu của mình.
Mơ thấy ếch đang nhảy trên bãi cỏ, dự báo bạn sẽ gặp được người bạn tính tình tất đẹp, lạc quan tiến thủ.
Nữ giới mơ thấy ếch bị trói cột, dự báo có thể thành chồng vợ với người giàu tiền bạc, nhưng cô ta rất có thể phải chăm sóc con cái của người vợ trước để lại, điều này có liên quan đến “hoàng tử ếch” trong truyện cổ.
Doanh nhân mơ thấy ếch báo hiệu việc kinh doanh sắp bị tổn thất, cần phải cẩn thận.
Bệnh nhân mơ thấy ếch, sức khỏe của người đó sẽ hồi phục nhanh chóng.
Mơ thấy ếch bị cắn cho thấy mọi khó khăn sắp trôi qua, người nằm mơ sắp gặp may mắn.
Tổng hợp Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Quỳnh Mai (##)
Quý nhân của 12 con giáp: Người xưa có câu vận khí tốt không bằng gặp quý nhân nhằm đề cao vai trò của người trợ giúp trên đường đời của mỗi con người.
Người xưa có câu “vận khí tốt không bằng gặp quý nhân” nhằm đề cao vai trò của người trợ giúp trên đường đời của mỗi con người.
“Quý nhân phù trợ” hay “quý nhân giúp đỡ” là cụm từ thường xuyên xuất hiện trong cuộc sống thường nhật. Tuy nhiên, nếu hỏi “Quý nhân của bạn là ai?”, chưa chắc bạn đã có câu trả lời đúng nhất. Dân gian có câu: “Việc tốt không bằng vận khí tốt, vận khí tốt không bằng quý nhân tốt”. Chúng ta có thể thấy rằng tầm quan trọng của quý nhân trong cuộc sống thường nhật, với sự trợ giúp của họ, mọi việc gặp hung hóa cát.
1. Quý nhân của người tuổi Tý
Mối quan hệ tam hợp: Thân Tý Thìn Mối quan hệ lục hợp: Tý Sửu Do đó, quý nhân phù trợ của người tuổi Tý là tuổi Sửu, Thân và Thìn. Phương vị quý nhân phù trợ: Đông Nam, Tây Bắc, Đông Bắc 2. Quý nhân của người tuổi Sửu
Mối quan hệ tam hợp: Tỵ Dậu Sửu Mối quan hệ lục hợp: Tý Sửu Do đó, quý nhân phù trợ của người tuổi Sửu là tuổi Tỵ, Dậu và Tý. Phương vị quý nhân phù trợ: Đông Nam, Tây, Bắc
Ảnh minh họa
3. Quý nhân của người tuổi Dần
Mối quan hệ tam hợp: Dần Ngọ Tuất Mối quan hệ lục hợp: Dần Hợi Do đó, quý nhân phù trợ của người tuổi Dần là tuổi Tuất, Ngọ, Hợi. Phương vị quý nhân phù trợ: Nam, Tây Bắc
4. Quý nhân của người tuổi Mão
Mối quan hệ tam hợp: Hợi Mão Mùi Mối quan hệ lục hợp: Mão Tuất Do đó, quý nhân phù trợ của người tuổi Mão là tuổi Mùi, Tuất, Hợi. Phương vị quý nhân phù trợ: Tây Nam, Tây Bắc
5. Quý nhân của người tuổi Thìn
Mối quan hệ tam hợp: Thân Tý Thìn Mối quan hệ lục hợp: Thìn Dậu Do đó, quý nhân phù trợ của người tuổi Thìn là tuổi Tý, Thân, Dậu. Phương vị quý nhân phù trợ: Bắc, Tây Nam, Tây
6. Quý nhân của người tuổi Tỵ
Mối quan hệ tam hợp: Tỵ Dậu Sửu Mối quan hệ lục hợp: Tỵ Thân Do đó, quý nhân phù trợ của người tuổi Tỵ là tuổi Dậu, Sửu, Thân. Phương vị quý nhân phù trợ: Đông Bắc, Tây Nam, Tây
7. Quý nhân của người tuổi Ngọ
Mối quan hệ tam hợp: Dần Ngọ Tuất Mối quan hệ lục hợp: Ngọ Mùi Do đó, quý nhân phù trợ của người tuổi Ngọ là tuổi Dần, Mùi, Tuất. Phương vị quý nhân phù trợ: Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nam
Ảnh minh họa
8. Quý nhân của người tuổi Mùi
Mối quan hệ tam hợp: Hợi Mão Mùi Mối quan hệ lục hợp: Ngọ Mùi Do đó, quý nhân phù trợ của người tuổi Mùi là tuổi Mão, Ngọ, Hợi. Phương vị quý nhân phù trợ: Đông, Nam, Tây Nam
9. Quý nhân của người tuổi Thân
Mối quan hệ tam hợp: Thân Tý Thìn Mối quan hệ lục hợp: Thân Tỵ Do đó, quý nhân phù trợ của người tuổi Thân là tuổi Tý, Tỵ, Thìn Phương vị quý nhân phù trợ: Bắc, Đông Nam 10. Quý nhân của người tuổi Dậu
Mối quan hệ tam hợp: Tỵ Dậu Sửu Mối quan hệ lục hợp: Thìn Dậu Do đó, quý nhân phù trợ của người tuổi Dậu là Sửu, Thìn, Tỵ. Phương vị quý nhân phù trợ: Đông Bắc, Đông Nam
11. Quý nhân của người tuổi Tuất
Mối quan hệ tam hợp: Dần Ngọ Tuất Mối quan hệ lục hợp: Mão Tuất Do đó, quý nhân phù trợ của người tuổi Tuất là tuổi Dần, Mão, Ngọ. Phương vị quý nhân phù trợ: Nam, Đông, Đông Bắc
12. Quý nhân của người tuổi Hợi
Mối quan hệ tam hợp: Hợi Mão Mùi Mối quan hệ lục hợp: Dần Hợi Do đó, quý nhân phù trợ của người tuổi Hợi là tuổi Mão, Mùi, Dần. Phương vị quý nhân phù trợ: Tây Nam, Đông Bắc, Đông
► Khám phá: Tử vi trọn đời của bạn bằng công cụ xem bói tử vi chuẩn xác
Tướng của người nhờ vào hôn nhân mà được giàu sang phú quý như thế nào. Bói chỉ tay để nhận biết được các đặc điểm cần thiết qua các đường hoonn hân, vận mệnh và tình cảm.
Tướng của người nhờ vào hôn nhân mà được giàu sang phú quý như thế nào. Bói chỉ tay để nhận biết được các đặc điểm cần thiết qua các đường hoonn hân, vận mệnh và tình cảm.
Lúc độc thân mỗi người đều mơ ước về một cuộc hôn nhân viên mãn. Nếu như vừa có được cuộc hôn nhân hạnh phúc lại vừa thăng tiến trong sự nghiệp bản thân hoặc đem lại cho bản thân một cuộc sống giàu sang phú quý thì chuyện hôn nhân càng được nhiều người kỳ vọng. Hãy thử xem tay bạn có cuộc hôn nhân phú quý như vậy không nhé.
Đường Hôn nhân dài, đủ để phân biệt với đường Công danh
Thời đại này có thể lấy sức mạnh của tình yêu để đạt được thành công. Loại tướng tay này từ xưa đã được xem là tướng tay vì hôn nhân mà có giàu sang phú quý, có thể do kết hôn với người giàu sang hoặc nổi tiếng. Ngoài ra, những người có đường hôn nhân này còn góp phần quan trọng cho sự thành công của người bạn đời.
Đoạn trên của đường Vận mệnh và đường Trở ngại hợp nhất
ĐƯỜNG VẬN MỆNH và đường Trở ngại hợp nhất biểu thị tình yêu đang có có thê tiến đến hôn nhân. Ngoài ra phần giao nhau của đường Vận mệnh và đường Trở ngại mà có đốm hình ngôi sao thì ám chỉ rằng cuộc hôn nhân đó sẽ làm thay đổi cuộc đời con người.
Đường Tình cảm chia làm ba nhánh
Vì là người hiền lành, quan tâm người khác và vun đắp được tình yêu đẹp nên sẽ được nhiều người khác giới ái mộ và cầu hôn.
Gò Mộc tinh có hình ngôi sao
Biểu hiện có cơ hội gặp gỡ và kết hôn với người bạn đời hoàn hảo sau này.
Đường Trí tuệ đặc biệt rõ
Trí não tốt, ưu điểm này sẽ được đôi tượng hoàn hảo chú ý đến. Nếu đường Hôn nhân dài, hoặc đường Trở ngại và đưòng Sinh mệnh thành đôi thì là nhờ hôn nhân mà được phú quý.
Là một phụ Tinh. Sao thứ 7 trong 12 sao thuộc vòng sao Trường Sinh theo thứ tự: Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.
Ý Nghĩa Của Sao Bệnh:
Sao Bệnh chỉ sự đau yếu, bệnh tật, buồn rầu vì bệnh tật. Đây là bệnh của người suy nhược toàn diện, kém ăn, kém ngủ, kém nghỉ ngơi, thiếu bồi dưỡng, thông thường thể hiện bằng sự dễ nhiễm lạnh, sổ mũi, nhức đầu,"nắng không ưa, mưa không chịu".
Mặt khác, vì là sao nhỏ, cho nên có thể bệnh hoạn không nặng lắm, tuy có thể kéo dài. Vì vậy, về mặt tướng mạo, sắc diện, da dẻ không hồng hào, xanh xao, vàng vọt. Về mặt tâm lý, tinh thần người có sao Bệnh không phấn chấn, tráng kiện, không thích hoạt động.
Nếu đường sự nghiệp kết thúc ở đường tình duyên, thì phải nói rằng sự nghiệp của người chủ nhân luôn bị ảnh hưởng với chuyện tình cảm. Có nghĩa là, họ sẽ phụ thuộc rất nhiều vào chuyện tình cảm để quyết định công việc của mình.
Nếu đường sự nghiệp kết thúc khi nó chạy gần tới đường sống thì nó cho thấy chủ nhân luôn làm việc theo cảm tính. Thường đưa ra những quyết định chủ quan mà không màng tới người xung quanh nghĩ gì. Những người này nếu làm lãnh đạo thì ắt hẳn nhân viên dưới quyền sẽ phải khó khăn để có thể chiều lòng được sếp. Nhưng họ lại là những người mạnh mẽ, cứng rắn và có đầu óc chiến lước nên phần đa có một sự nghiệp khá vẻ vang.
Đường sự nghiệp kết thúc ở đường tình duyên
Nếu đường sự nghiệp kết thúc ở đường tình duyên, thì phải nói rằng sự nghiệp của người chủ nhân luôn bị ảnh hưởng với chuyện tình cảm. Có nghĩa là, họ sẽ phụ thuộc rất nhiều vào chuyện tình cảm để quyết định công việc của mình. Ví dụ: họ sẵn sàng dừng lại sự nghiệp của bản thân để chạy theo tiếng gọi của tình yêu hoặc đơn giản là sẽ rất mất tập trung khi làm việc nếu đang gặp vấn đề rắc rối trong chuyện tình cảm. Do đó mà sự nghiệp của những người này phần nào cũng lên xuống thất thườn và không có chiều hướng ổn định.
Đường sự nghiệp đứt đoạn
Đường sự nghiệp có nhiều nét đứt đoạn chưng tỏ công việc của chủ nhân không hề ổn định. Họ là người có xu hướng dịch chuyển và thích thay đổi. Luôn muốn tìm kiếm những điều mới lạ và được trải nghiệm nhiều điều thú vị của cuộc sống. Chính vì thế mà họ không ngần ngại thay đổi công việc để có thể tìm ra cho mình niềm đam mê đích thực.
Hai đường sự nghiệp chạy song song
Nếu lòng bàn tay xuất hiện hai đường sự nghiệp chạy song song với nhau, điều này chỉ ra rằng họ có cơ hội thành công lớn ở nghề nghiệp thứ hai. Hoặc không phải những ngành nghề theo đúng chuyên môn của họ, hay nói cách khác là họ sẽ sống với “nghề tay trái”. Những người này có xu hướng đam mê kinh doanh và có nhiều tài lẻ.
Đường thử thách trong sự nghiệp
Đường thẳng bắt đầu từ đường sống và đi lên là những biểu hiện khó khăn thử thách trong công việc mà chủ nhân có thể gặp phải. Đây có thể coi là những chướng ngại vật thử thách ý chí cũng như khả năng của chủ nhân. Nếu vượt qua những thử thách này, sự nghiệp của bạn sẽ có những bước tiến đáng nể. Sẽ gặt hái được nhiều thành công và thu lại nhiều kết quả hơn cả mong đợi. Nếu đường này chạy thẳng tới ngón trỏ thì được gọi là đường mơ ước. Có nghĩa là chủ nhân sẽ gặp nhiều may mắn, những dự định và mong muốn sẽ thành trở thành hiện thực.