Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Giai thoại về huyệt phát đế vương của nhà Tây Sơn

Bước đầu dấy nghiệp của nhà Tây Sơn gắn liền với nhiều câu chuyện phong thủy rất sống động về địa thế của vùng đất có núi non trùng điệp ở hai bờ sông Côn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bước đầu dấy nghiệp của nhà Tây Sơn gắn liền với nhiều câu chuyện phong thủy rất sống động về địa thế của vùng đất có núi non trùng điệp ở hai bờ sông Côn và luôn tồn tại song song với câu sấm truyền lịch sử vào thuở ấy: “Tây khởi nghĩa – Bắc thu công”…

Có một “Hoành Sơn” ở phương Nam

Thường mỗi khi nhắc hai tiếng “Hoành Sơn” ở phía Bắc (tỉnh Quảng Bình) người ta liên tưởng đến cơ nghiệp nhà Nguyễn. Song cũng có một “Hoành Sơn” khác nữa nằm sâu về phía Nam (tỉnh Bình Định) vốn là nơi huyệt kết phát vương của anh em nhà Tây Sơn.

giai thoai hoang-de-quang-trung

Núi Hoành Sơn chạy dài và tỏa rộng về phía đường quốc lộ với hai dòng suối (Đồng Tre và Chi Lưu) đưa nước uốn quanh dưới chân (thủy tụ). Mộ của ông bà Nguyễn Phi Phúc - song thân của Tây Sơn tam kiệt, tức ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ - nằm trên đó. Song không ai biết chính xác mộ ở vị trí nào trong núi.

Đến nay, nơi huyệt táng ông bà Nguyễn Phi Phúc vẫn là điều bí ẩn thu hút các nhà nghiên cứu phong thủy. Tuy nhiên, căn cứ theo các tài liệu lịch sử cũng như dò tìm manh mối qua các nội dung truyền khẩu tại địa phương, người ta được biết ít nhất hai câu chuyện liên quan đến đại địa của nhà Tây Sơn ở đó như sau:

Chuyện thứ nhất kể rằng, vào khoảng giữa thế kỷ 18, có một thầy địa lý từ Trung Quốc không biết cách nào đã lặn lội vào tận đất Bình Định để tìm long mạch và huyệt kết vùng núi Hoành Sơn. Thầy đã dùng hai cây trúc lén cắm ở hai nơi trên triền núi Hoành Sơn để dò huyệt địa, rồi bỏ đi mất một thời gian. Những gì thầy địa lý làm đều không qua được mắt của Nguyễn Nhạc.

Nguyễn Nhạc theo dõi và thấy một trong hai cây trúc bị chết, tàn lụi, còn cây trúc kia vẫn sống tươi xanh. Ông nhổ cây trúc chết đem trồng vào chỗ cây trúc sống. Lại nhổ cây trúc sống đến trồng vào chỗ cây trúc đã chết. Chẳng bao lâu sau, thầy địa lý người Trung Hoa đến để xem kết quả thử địa ở Hoành Sơn thì thấy cả hai cây trúc đều khô chết nên thầy thất vọng thầm nghĩ đây không phải là đất phát vương nên bỏ đi biệt hẳn. Bấy giờ, Nguyễn Nhạc mới bốc mộ của cha mình là cụ Nguyễn Phi Phúc đem táng vào chỗ có cây trúc tươi mà chỉ Nguyễn Nhạc biết thôi.

Chuyện thứ hai cho rằng, thầy địa lý người Trung Hoa khi đến vùng Tây Sơn để dò tìm long mạch và chỗ huyệt kết đã ở tại nhà của Nguyễn Nhạc. Hằng ngày, thầy đi lùng kiếm khắp vùng, đem theo chiếc la bàn, tấm vải điều màu đỏ và một chiếc gậy đẽo từ gỗ của một cây đại thọ trăm năm. Hết chỗ này đến chỗ khác thầy vẫn không vừa ý, cuối cùng thầy địa lý để tâm đến hòn Hoành Sơn.

Nguyễn Nhạc dò biết nên âm thầm kín đáo theo sau thầy địa lý và phát hiện được nơi huyệt kết. Khi thầy địa lý về lại Trung Hoa để hốt cốt thân sinh của mình đem đến chỗ huyệt kết để chôn, bấy giờ Nguyễn Nhạc tìm cách đánh đổi: "Đến ngày đã chọn, thầy Tàu lén đem chiếc tráp (có hài cốt) cùng địa bàn đi lên Hoành Sơn, vừa đến chân núi thì một con cọp Tàu cau to lớn ở trong bụi, gầm một tiếng, nhảy ra vồ".

"Thầy Tàu hết hồn, quăng tráp và địa bàn (dùng dò hướng đất theo thuật phong thủy) mà chạy. Hồi lâu không thấy cọp đuổi theo, liền quay lại chỗ cũ. Thấy chiếc tráp và địa bàn còn nằm lăn lóc đó, thầy mừng như chết đi sống lại, vội trực chỉ lên nơi long huyệt đã tìm ra. Chôn cất xong xuôi, thầy hớn hở trở về Trung Quốc, không ngờ rằng chiếc tráp thầy chôn vốn đựng di hài Nguyễn Phi Phúc và con cọp kia chỉ có lớp ngoài mà thôi”.

Đó là đoạn văn kể về sự tích phong thủy Hoành Sơn của nhà thơ Quách Tấn (1910-1992), trong một tài liệu viết về di tích và truyền thuyết nhà Tây Sơn với kết luận rằng hai câu chuyện trên tuy có vài chi tiết không giống nhau, song đều đồng một điểm chính là cho biết mộ Nguyễn Phi Phúc chôn ở Hoành Sơn.

Hoành Sơn còn gọi là núi Ngang, cao hơn 360 thước, có núi Ông Bình làm hậu tẩm, núi Ông Đốc với hình dạng “giống như một con hổ phục, đầu ngó lên Hoành Sơn. Núi Ông Đốc không cao và tuy giống hình cọp, song ngó bộ hiền lành như con cọp tu hành lâu đời.

Nơi triền phía Bắc hiện có một ngôi chùa thờ Phật. Đó là điềm “hổ cứ”. Còn “long bàn” là hai nhánh của con sông Côn, một từ phía Tây chảy xuống, một từ phía Tây Nam chảy ra, hợp nhau tại địa đầu thôn Phú Phong, trông như hai cánh tay ôm choàng lấy cuộc đất của Hoành Sơn vậy”.

Một vùng núi bút non nghiên…

Hoành Sơn là nơi được các thầy địa lý của Trung Hoa cũng như của Việt Nam công nhận là đại địa “vì có, nào bút nào nghiên, nào ấn nào kiếm, nào cổ (trống) nào chung (chuông), ở bên tả bên hữu… trước mặt trên ba nổng gò, đã mọc giăng hàng giống như những toán quân đứng chầu về. Và xa xa có hổ phục long bàn”. Bằng những phân tích địa thế phong thủy, Quách Tấn chứng minh những điều nêu trên là xác thực, vì:

- Bút đó là hòn Trung Sơn ở bên Phú Lạc, xa trông phảng phất như ngòi bút chép mây.

- Nghiên đó là hòn Hội Sơn tục gọi là hòn Dũng, trong địa phận Trinh Tường về phía Nam, đứng đối trí cùng hòn Trung Sơn ở phía Bắc.

Hòn Hội Sơn cao hơn 490m nhưng trông đầy vẻ uy nghiêm “trên núi có một vũng nước vừa rộng vừa sâu, quanh năm không bao giờ cạn. Người địa phương lên đó vỡ đất làm ruộng, đất tốt không kém dưới đồng bằng (nhờ nước đầy đủ).

Vì núi có vũng nước nên đám bình dân gọi núi là hòn Vũng (thay vì hòn Dũng). Còn đám hàn mặc (nho sinh) thì coi vũng nước là nghiên mực của trời nên đặt cho núi một tên nữa là Nghiên Sơn tức hòn Nghiên vậy, hòn Nghiên và hòn Bút nằm bên hữu bên tả hòn Hoành Sơn trông cân đối”, phù hợp với câu ca:

Một vùng núi Bút non Nghiên

Trời giao ấn kiếm cho miền Tây Sơn.

Cuộc đất tốt như vậy kết hợp lời sấm truyền do thầy dạy học của ba anh em nhà Tây Sơn là cụ giáo Hiến thông báo, rằng: “Tây khởi nghĩa – Bắc thu công”, đã tạo sức mạnh tâm linh thúc giục Tây Sơn tam kiệt khởi binh. Tây khởi nghĩa tức là dựng cờ nổi dậy ở vùng núi hướng Tây - vùng Tây Sơn. Bắc thu công là thành công lớn ở hướng Bắc, lên ngôi hoàng đế ở Phú Xuân (Huế bây giờ) năm 1788 và tiến ra Bắc đánh thắng quân Thanh xâm lược năm 1789…

Trong bài này chúng tôi chọn trích dẫn phong thủy nhà Tây Sơn chủ yếu theo tài liệu của Quách Tấn là vì trước hết gia đình ông đã trải qua chín đời ở ấp Tây Sơn hạ, ông viết: “Tây Sơn là dãy núi phía Tây tỉnh Bình Định thuộc hệ thống Trường Sơn (…) vì núi mệnh danh là Tây Sơn nên các vùng sơn cước bình nguyên ở chung quanh cũng gọi là vùng Tây Sơn.

Trước kia gọi là ấp Tây Sơn với ba phần: Tây Sơn thượng, Tây Sơn trung và Tây Sơn hạ”. Những gì ông viết ra về địa lý, phong thủy của vùng đất Tây Sơn cũng như những câu chuyện truyền khẩu liên quan đều do chính ông nghe nội tổ và song thân cùng các vị phụ lão ở quê ông kể lại, giới thiệu qua cuốn tài liệu “Quang Trung – Nguyễn Huệ” của nhiều tác giả, do NXB Văn hóa Sài Gòn kết hợp tạp chí Xưa và Nay ấn hành 2008, nêu rõ trong khu vực Hoành Sơn“sát chân núi ngay phía Đông, khoảng giữa nổi lên một trảng đất.

Trong khoảng này, dáng núi lại hơi cong cong. Đứng phía trước trông vào thì giống một chiếc ghế bành vĩ đại, mà lưng và tay dựa vào núi, mặt ghế là trảng đất. Trên trảng nằm song song hai nấm mộ bằng đá, hình chữ nhật. Vua Gia Long ngờ rằng đó là phần mộ của ông bà Nguyễn Phi Phúc, song thân của Vua Tây Sơn, nên truyền quan địa phương khai quật. Nhưng khi đào lên hài cốt không thấy đâu cả, mà chỉ thấy bốn chum dầu phụng đã lưng, trong mỗi chum có một ngọn đèn chong chóng đang cháy”.

Như vậy, đến nay dấu tích về mộ của ông bà Nguyễn Phi Phúc vẫn còn mờ mịt. Những ngọn đèn dầu phụng đã bị nhà Nguyễn (Gia Long) thổi tắt, nhưng sự nghiệp của nhà Tây Sơn vẫn cháy đỏ trong lịch sử Việt Nam.

Nếu tính từ lúc dấy nghiệp vào năm Mậu Tuất 1778 là năm Nguyễn Nhạc xưng đế hiệu (niên hiệu Thái Đức), gọi thành Đồ Bàn là Hoàng đế thành, đến lúc suy vong vào năm Nhâm Tuất 1802, thì nhà Tây Sơn tồn tại 24 năm.

Nếu tính từ năm Vua Quang Trung lên ngôi thì chỉ kéo dài có 14 năm (1788-1802). Dẫu ngắn ngủi nhưng nhà Tây Sơn đã để lại một dấu ấn sâu đậm qua chiến công của thiên tài quân sự Nguyễn Huệ dẫn đại quân tiến vào Thăng Long, đánh thắng hai mươi vạn quân Thanh xâm lược vang dội đến nay – ứng đúng câu sấm truyền Tây khởi nghĩa – Bắc thu công…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giai thoại về huyệt phát đế vương của nhà Tây Sơn

Tử vi Quý Dậu phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

QUÝ DẬU: KIẾM PHONG KIM Trong tử vi Quý Dậu là con gà tướng chim trĩ, tính cách nhanh nhẹn khéo léo, là người trọng đạo nghĩa, giữ lời hứa, tướng mạo đẹp, làm việc cẩn thận, có chí khí, trọng danh dự. Kiếm phong Kim, Bạch Đế (một trong ngũ đế của Tru

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

QUÝ DẬU: KIẾM PHONG KIM

Trong tử vi Quý Dậu là con gà tướng chim trĩ, tính cách nhanh nhẹn khéo léo, là người trọng đạo nghĩa, giữ lời hứa, tướng mạo đẹp, làm việc cẩn thận, có chí khí, trọng danh dự.

Kiếm phong Kim, Bạch Đế (một trong ngũ đế của Trung Quốc) nắm quyền, trải qua trăm lần tôi luyện, hào quang đỏ chiếu rọi bò tót, dao sắc vùi trong tuyết sương.

Là Kim cứng rắn, kỵ Đinh Dậu Sơn đầu Hỏa, Dậu Dậu tự hình, Hỏa lại khắc Kim vào chủ một đời vất vả khổ cực, cuối đời chán nản.

tu-vi-2015.info

Trong tử vi Kim này có khí thuần túy, sinh vào mùa xuân hạ, thông minh trời phú; sinh vào mùa thu, đông, phú quý dài lâu. Hợp cách là mệnh tài năng xuất chúng, sự nghiệp rực rỡ. Mang sát chủ tuổi trẻ mạnh mẽ hiên ngang, sau trung niên trở nên hiền hòa trầm tĩnh. Kỵ gặp Hỏa, gặp Hỏa tất bị thương.

Tạo hóa của Kim này không có Thủy thì không thể sinh, nhật trụ và thời trụ gặp Nhâm Tuất, Quý Hợi Đại hải Thủy, hoặc Giáp Dần, Ât Mão Đại khê Thủy là thượng cách. Nhật trụ và thời trụ gặp Nhâm Thìn, Quý Tỵ Trường lưu Thủy là Bảo kiếm hóa long cách. Nếu được Quý Sửu Tang đố Mộc là Kiếm khí xung đấu cách. Nếu gặp Thổ chỉ nên gặp Canh Tý, Tân Sửu Bích thượng Thổ; Mậu Dần, Kỷ Mão Thành đầu Thổ vẫn chưa có tác dụng mài giũa tôi luyện. Các Thổ còn lại e rằng vùi lấp Kim này.

Kim này có Thủy, tướng mạo anh tuấn, mệnh nữ vô cùng tốt, xinh đẹp như hoa. Nếu thiếu Thủy tất mang bệnh tật.

Kiếm phong Kim chính là Kim sắc bén, chỉ nên gặp Thủy nhuận, không nên gặp Hỏa hình.

Dậu mã tại Hợi, chi khác có Hợi, mã bị hình, không nên làm kinh doanh. Kỵ đánh bạc, đầu cơ, còn chủ bỏ mạng nơi đất khách quê ngưòi. Mã lạc Không vong, một đòi bôn ba.

Quý lộc tại Tý, chi khác có Tý chủ giàu có.

Quý quý tại Tỵ, chi khác có Tỵ chủ hiển quý.

Nhật chi có Dần, phạm Phá trạch sát.

Thai chi có Hợi hoặc Tuất là ngưòi mê muội, một đời phiêu bạt, làm việc phần nhiều là đổ vỡ thất bại.

Nhật chi có Hợi hoặc Tuất, bạn đời mất sớm.

Thời chi có Hợi hoặc Tuất, cuối đời chán nản, có một con nhưng lại yểu mệnh. Gặp năm Dậu, Mão, trong nhà không yên ổn, không hại đến bản thân cũng hại đến ngưòi nhà.

Trong tử vi bạn đời chớ nên gặp người sinh năm Mậu, Kỷ. Nên tìm người sinh năm Bính, Đinh. Chi khác có Dậu, là người nông cạn, vợ chồng duyên mỏng.

Chi khác có Tuất, là người thô bạo, không có lòng bao dung.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi Quý Dậu phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

Ngày Địa Tạng Vương bồ tát khai nhãn - Ngày 30 tháng 7

Địa Tạng Vương Bồ tát khai nhãn vào ngày 30 tháng 7 năm 2016 là một vị Bồ tát được tôn thờ trong Phật Giáo Đông Á, là Bồ tát của chúng sinh dưới địa ngục.
Ngày Địa Tạng Vương bồ tát khai nhãn - Ngày 30 tháng 7

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Địa Tạng Vương Bồ tát là một vị Bồ tát được tôn thờ trong Phật Giáo Đông Á, là Bồ tát của chúng sinh dưới địa ngục.  

► Tra cứu ngày âm lịch hôm nay chuẩn xác theo Lịch vạn sự

Địa Tạng Vương Bồ tát
thường được mô tả là một người khất thực trọc đầu với vầng hào quang, một tay cầm tích trượng để mở cửa địa ngục, tay kia cầm ngọc Như Ý tượng trưng cho ánh sáng xua tan bóng đêm. Cũng có nhiều hình ảnh về Địa Tạng Vương bồ tát đầu đội mũ thất Phật và mặc áo cà sa đỏ, rất giống với hình tượng nhân vật Đường Tam Tạng trong tiểu thuyết Tây Du Ký.

Ngay Dia Tang Vuong bo tat khai nhan - Ngay 30 thang 7 hinh anh
Địa Tạng Vương đôi khi được miêu tả khá giống với nhân vật Đường Tam Tạng trong tiểu thuyết Tây Du Ký
  Theo truyền thuyết thì ngày 30 tháng 7 Âm lịch là ngày Địa Tạng Vương bồ tát được sinh ra, bình thường Ngài nhắm mắt nhưng tới đêm này thì Ngài sẽ mở mắt ra, trời sẽ tối lại. Lúc này, mọi người có thể đốt một chút vàng mã, vừa để cầu phúc cho người nhà bình an, vừa để tổ tiên hoặc những linh hồn oan khuất được siêu thoát.  

Truyền thuyết về Địa Tạng Vương bồ tát

  Theo cuốn kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện thì xưa kia có một vị Bà La Môn, mẹ của bà là người tín tà, coi khinh tam bảo nên khi chết đi linh hồn mãi mãi ở địa ngục. Vị Bà La Môn biết mẹ mình ở dưới địa ngục chịu nhiều khổ ải nên bán hết tài sản gia đình để hiến tế, thờ cúng lên Phật. Sau  khi được Hậu Thu Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai chỉ dẫn thì bà nằm mơ thấy mình xuống địa ngục gặp Quỷ Vương Vô Độc và cầu xin cho mẹ mình được thoát khỏi địa ngục. Khi tỉnh giấc, vị Bà La Môn liền tới gặp Định Tự Tại Vương Như Lai và thề nguyện: “Nguyện ngã tận vị lai kiếp, ứng hữu tội khổ chúng sinh, quảng thiết phương tiện, sử lệnh giải thoát." 
 
Ngay Dia Tang Vuong bo tat khai nhan - Ngay 30 thang 7 hinh anh
Địa Tạng Vương bồ tát

 
Theo tài liệu Phật giáo thì Văn Thù bồ tát có nói rằng: “Vị Bà La Môn này là Địa Tạng Vương Bồ Tát”, kiếp trước từng cầu xin cho mẹ được thoát khỏi địa ngục”.   Công Năng, Oai Lực của đức Địa Tạng bao trùm khắp Tam Giới, không thể nghĩ bàn. Riêng trong cõi thế gian này Đức Thích Ca Mâu Ni qua kinh Địa Tạng Bản Nguyện đã cho chúng ta biết nếu ai nghe được danh hiệu bồ tát Địa Tạng rồi chí tâm quy y thì kiếp này sẽ được trí huệ lớn, hóa giải tai nạn, thoát khỏi hiểm nguy, tiêu trừ tội chướng, bệnh tật, được quỷ thần bảo hộ; kiếp sau thì được thoát khỏi thân nữ, thoát kiếp nô lệ và có tướng mạo tốt đẹp, người mới chết thì sớm được siêu thoát…   Lichngaytot.com    Mùng 1 tháng 7 âm lịch ngày cửa địa ngục phóng thích Hướng tâm kính Phật trong ngày sinh nhật của Đại Thế Chí Bồ Tát Những lưu ý cần biết khi đeo bản mệnh Phật Bất Động Bồ Tát Ngày Dược Vương Bồ Tát sinh thần, nguyện chúng sinh thân tâm an định
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngày Địa Tạng Vương bồ tát khai nhãn - Ngày 30 tháng 7

Lễ hội ngày 10 tháng 10 âm lịch - Tết Trùng Thập hay Song Thập

Tết Song thập hay Trùng Thập (mùng 10 tháng 10 hoặc 15 tháng 10 Âm lịch) còn gọi là tết của các thầy thuốc, hay Tết Cơm mới tháng mười.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ hội ngày 10 tháng 10 âm lịch - Tết Trùng Thập hay Song Thập

Lễ hội ngày 10 tháng 10 âm lịch - Tết Trùng Thập hay Song Thập

Tết Trùng Thập

Thời gian: tổ chức vào ngày mùng 10 tháng 10 âm lịch.

Nội dung: Theo sách Dược lễ thì ngày 10 tháng 10 Âm lịch, cây thuốc mới tụ được khí âm dương, kết được sắc tứ thời (Xuân, Hạ, Thu, Đông) trở nên tốt nhất. Vì vậy, các thầy thuốc rất coi trọng tết này.

Ở nông thôn Việt Nam, ngày này người ta thường làm bánh giầy, nấu chè kho để cúng gia tiên rồi đem biếu những người thân thuộc. 

Cũng theo Phan Kế Bính: ''Tết ấy (tức 10-10  âm lich ) phần nhiều là các nhà đồng cốt và nhà thầy thuốc mới ăn thôi. Nhưng về nhà quê cũng nhiều nơi ăn, có nơi ăn to lắm, như ở vùng phủ Hoài,.."

Các nhà thầy thuốc thì vì thu lễ thu tiền mà ăn tết một là để cung cấp, hai là để khoản đãi các đệ tử và các bạn hàng.

Nói chung Tết này là của ông Đồng, bà Cốt, họ làm cỗ bàn linh đình. Còn đối với một số vùng nông thôn gọi nôm na là tết Cơm mới, tết Thường tân. Các nhà lấy gạo mới làm bánh dày, thổi cơm và luộc gà dâng cúng gia tiên và thần, Phật mừng được mùa.

Có nơi tổ chức Tết Cơm mới tháng mười (còn gọi là Tết Hạ nguyên) vào ngày rằm Tháng Mười hay ngày 31 tháng 10 để nhớ đến công của Tiên Nông (tiên của ruộng đồng) và để ăn mừng việc gặt hái của vụ mùa đã xong.

Hội Hà Thạch

Thời gian: tổ chức vào ngày 10 tháng 10 âm lịch.

Địa điểm: xã Hà Thạch, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn vua Hùng, thánh Tản Viên, Chử Đồng Tử, hai Bà Trưng, Thủy Thần.

Nội dung: Lễ hội có sự tham gia của ba thôn là: Thượng, Hạ, Trung với lễ rước kiệu về đình Cả cùng làm lễ đại tế, múa rồng rắn, lễ hạ điền (cúng Thần Nông trước khi cấy), cuộc thi bởi trải.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ hội ngày 10 tháng 10 âm lịch - Tết Trùng Thập hay Song Thập

Văn Khấn Bồi hoàn để giải trừ tai họa, vận rủi, điềm xấu

Văn Khấn Bồi hoàn để giải trừ tai họa, vận rủi, điềm xấu khi ào đất lấp ao, khơi rãnh, xây tường không may làm tổn thương đến Long Mạch
Văn Khấn Bồi hoàn để giải trừ tai họa, vận rủi, điềm xấu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn Khấn Bồi hoàn địa mạch dùng khi đào lấp ao, khơi rãnh, xây tường không may làm tổn thương đến Long Mạch, thì những người sống trong gia đình đó dễ gặp tai hoạ, vận rủi, điềm xấu… Do đó gia chủ phải làm lễ bồi hoàn địa mạch để giải trừ tai hoạ, vận xấu.

Sắm lễ cúng Bồi hoàn địa mạch

Để tránh được tai họa thì gia chủ phải lấy nước ở ba con sông, hoà với năm loại đất linh để nặn Thần Quy (Thần Rùa), cho chỉ 5 màu vào thân Rùa.

Sau đó, chọn các ngày Thiên Xá, Thiên Nguyên, Địa Nguyên, Cường Nhật, Trùng Mậu, Trùng Kỷ rồi tìm nơi đào đất tạo thành hố bày lễ hoa quả ứng với Ngũ Hành (gồm 5 màu: xanh, vàng, đỏ, trắng, đen hoặc tím) cùng lễ mặn ứng với Ngũ Hành, hoa 5 màu, hương, vàng mã… cạnh hố khấn cầu theo bài văn khấn bồi hoàn địa mạch.

Văn Khấn Bồi hoàn địa mạch

– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

– Con kính lạy Đức U minh Giáo chủ Địa Tạng Vương Bồ Tát

– Con kính lạy Đức Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.

– Con kính lạy các Ngài Ngũ phương, Ngũ đế, Ngũ nhạc thánh đế, Nhị thập tứ khí phần quan, Địa mạch thần quan, Thanh Long Bạch Hổ, chư vị thổ thần cùng quyến thuộc.

– Con kính lạy các ngài Kim Niên Đương cai Tôn thần, Bản cảnh Thành hoàng Tôn thần và các vị thần minh cai quản trong khu vực này.

Tín chủ (chúng) con là:……

Ngụ tại:……………………

Hôm nay là ngày…. Tháng…. Năm…, tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương dâng lên trước án, xin điền hoàn địa mạch. Tín chủ có lời thưa rằng:

Bởi vì trước đây

Do tinh mờ mịt

Thức tính hồn mờ

Đào đất lấp ao

Gầy nên chấn động

Hoặc bởi khách quan

Hoặc do chủ sự

Tổn thương Long Mạch

Mạo phạm thần uy

Ảnh hưởng khí mạch

Nay muốn cho phong thổ an hoà, gia đình chúng con mọi người được an bình, miễn trừ tai họa, nên tín chủ con trượng uy Đại Sỹ, nương đức Tôn thần, cung tạo bồi hoàn, nhương kỳ khẩn đảo thần công, nguyện xin bảo hộ, chứng minh sám hối, thụ hưởng đan thành.

Tín chủ chúng con xin thành tâm cúng dâng Ngài

U minh Giáo chủ Bản tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát

Ngài Kiên Lao địa thần Bồ Tát, các Ngài Ngũ phương,

Ngũ đế, Hậu Thổ nguyên quân, Sơn nhạc Đế quân,

Đương phương Thổ địa, Thổ phủ Thần kỳ, 24 Khí

Thần quan, 24 Long Mạch Thần quan, 24 Địa Mạch

Thần quan, 24 Sơn Địa Mạch Thần quan, 24 Hướng

Địa Mạch Thần quan, Thanh long Bạch hổ, Thổ bá,

Thổ hầu, Thổ mãnh, Thổ trọng Thần quan, Thổ phụ,

Thổ mẫu, Thổ lương, Thổ gia Thần quan, Thổ tử,

Thổ tôn, Thổ khảm, Thổ khôn Thần quan,

Thổ kỳ Ngũ phương Bát quái và các Thần minh quyến thuộc,

Kim niên Hành khiển Thái tuế chư đức Tôn thần,

Đương cảnh Thành hoàng bản thổ Đại Vương và tất cả các vị Thần minh cai quản khu vực này,

Cúi xin thương xót tín chủ chúng con, nhận lời cầu thỉnh, chuẩn tâu sám tạ, giáng phó án tiền, hưởng lễ vật. Nguyện cho:

Phong thổ phì nhiêu

Khí sung mạch vượng

Thần an tiết thuận

Nhân sự hưng long

Sở cầu như ý.

Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn Khấn Bồi hoàn để giải trừ tai họa, vận rủi, điềm xấu

'Độc chiêu' thay đổi vận mệnh của 12 con giáp

Đôi khi may mắn vẫn có thể do con người tạo ra. 12 con giáp nên làm gì để may mắn về với mình?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ti-5980-1394185638-3254-1395704691.jpg suu-3178-1394185638-8731-1395704691.jpg dan-8805-1394185639-6200-1395704691.jpg mao-2068-1394185639-7978-1395704691.jpg
Sửu Dần Mão
rong-4823-1394185639-3308-1395704691.jpg ran-3844-1394185639-2079-1395704691.jpg Ngo-5545-1394185639-8561-1395704692.jpg mui-8120-1394185639-3749-1395704692.jpg
Thìn Tị Ngọ Mùi
than-6980-1394185639-7894-1395704692.jpg d-u-2496-1394185639-1722-1395704692.jpg tuat-3626-1394185640-9365-1395704692.jpg hoi-6816-1394185640-3719-1395704692.jpg
Thân Dậu Tuất Hợi

Mr.Bull

12congiapvietnamhoahinh4-13957-7104-3167

Xếp hạng vận may tài chính của 12 con giáp

Giữ ngôi vị quán quân là tuổi Dậu, dẫn sát nút là tuổi Tuất và tuổi Tỵ nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 'Độc chiêu' thay đổi vận mệnh của 12 con giáp

Giải tỏa áp lực nhờ áp dụng yếu tố phong thủy cực đơn giản

Phong thủy giải tỏa áp lực: Chỉ cần vận dụng một vài mẹo phong thủy đơn giản dưới đây, niềm vui sẽ quay trở lại.
Giải tỏa áp lực nhờ áp dụng yếu tố phong thủy cực đơn giản

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Áp lực công việc, gánh nặng cơm áo gạo tiền, chuyện tình cảm... khiến bạn cảm thấy mệt mỏi và bế tắc. Nhưng chỉ cần vận dụng một vài mẹo phong thủy đơn giản dưới đây, niềm vui sẽ quay trở lại.


Theo quan điểm phong thủy, bản thân mỗi người có thể tự điều chỉnh không gian xung quanh để tạo ra sự cân bằng âm dương, đón rước điềm lành và xua đi những điều xui xẻo. Người ta chia ngôi nhà thành những khu vực mang các nguồn năng lượng khác nhau để chúng có thể dễ lưu chuyển và giữ được trạng thái cân bằng.

1. Đặt đồ vật lớn ở vị trí trung tâm các phòng trong nhà

Trong ngôi nhà, tất cả các phòng (trừ phòng tắm) nên đặt các đồ vật kích thước lớn ở vị trí trung tâm. Đồng thời, các vật nặng nên đặt trực tiếp trên sàn nhà chứ không được vứt vào góc phòng hay kê sát vào tường. Trong trường hợp phải kê những đồ vật đó, nên kê cao một chút giúp không khí lưu thông dễ dàng hơn.

Giai toa ap luc nho ap dung yeu to phong thuy cuc don gian hinh anh 2
 
2. “Tổng vệ sinh” ngôi nhà


Lộn xộn, bừa bãi là một trong những yếu tố kị phong thủy, phá vỡ cục diện tốt và mang tới điều xui xẻo. Do đó, để giải tỏa áp lực, trước hết bạn nên sắp xếp đồ đạc các phòng khách, bếp, ngủ, tắm gọn gàng. Đồng thời, bỏ đi những đồ dùng không cần thiết, kẻo chúng sẽ cản trở sự lưu thông của các dòng năng lượng.

3. Chiếu sáng căn phòng

Gia chủ có thể dùng các thiết bị chiếu sáng bổ sung cho những nơi không nhận đủ ánh sáng tự nhiên. Việc làm này có tác dụng kích thích thị giác và hệ thần kinh, giúp tinh thần bạn phấn chấn, thoát khỏi cảm giác uể oải, nhàm chán.

Ngoài đèn chiếu sáng, gương hoặc phụ kiện bằng pha lê cũng là giải pháp tốt giúp chiếu sáng mọi ngóc ngách trong nhà bạn.

Giai toa ap luc nho ap dung yeu to phong thuy cuc don gian hinh anh 2
 
4. Loại bỏ các góc cạnh sắc nhọn


Thay vì sử dụng những vật hình vuông, chữ nhật hoặc tam giác có nhiều góc cạnh sắc nhọn trong không gian sống của mình, bạn nên chọn đồ đạc có hình tròn hay ô van. Như vậy vừa tạo cảm giác an toàn lại kích thích các dòng năng lượng lưu chuyển tốt, mang tới những điều tốt lành.

5. Cân bằng âm dương ngũ hành ở mọi không gian

Việc sử dụng và kết hợp các yếu tố ngũ hành như Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ trong phong thủy để tạo ra sự cân bằng là điều thường thấy. Nếu không gian sống quá cứng nhắc, bạn có thể điểm thêm chút nữ tính, mềm mại bằng việc sử dụng đồ nội thất hoặc trang trí màu sắc.

Ngược lại, nếu không gian sống của bạn quá nữ tính, có thể điểm xuyết một vài nét cứng cỏi thì đồ vật làm từ kim loại sẽ phát huy tác dụng tối ưu.

► Xem thêm: Phong thủy nhà ở chuẩn giúp phát tài phát lộc, tránh tai ương

Theo Khám phá

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải tỏa áp lực nhờ áp dụng yếu tố phong thủy cực đơn giản

Bạn có kiên trì theo đuổi tình yêu? - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Bạn có kiên trì theo đuổi tình yêu?, Bói tình yêu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Bạn có kiên trì theo đuổi tình yêu?, tu vi Bạn có kiên trì theo đuổi tình yêu?, tu vi Bói tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn có kiên trì theo đuổi tình yêu?

Bạn có kiên trì theo đuổi tình yêu? Chọn 1 trong 3 lá bài bên dưới và bạn sẽ biết bạn có kiên trì theo đuổi người mình yêu? Lật một lá bài để tự thú lòng mình nhé!

Quy tắc bói bài:

1. Nhắm mắt, giữ trạng thái tĩnh trong 30 giây.

2. Tự hỏi thầm bản thân “Nếu gặp tình yêu đích thực, mình có kiên trì theo đuổi?”.

3. Chọn một lá bài theo trực giác và click vào hình xem đáp án.

Lựa chọn 1:

lua-chon-1-ten-of-swords

Lựa chọn 2:

lua-chon-2-the-fool

Lựa chọn 3:

lua-chon-3-the-lovers

Xem kết quả

Lựa chọn 1: Ten of Swords – Bạn kiên trì như… đỉa đói

Bốc được lá bài này cho thấy bạn thuộc nhóm những người “lụy tình”. Nghĩa là bạn yêu say đắm tới mức bỏ quên tất cả, thậm chí cả phẩm giá của mình để có được trái tim người ấy. Thời gian thử thách với bạn chỉ là vấn đề nhỏ, nên dù có mất vài năm để kiên trì theo đuổi cũng không khiến bạn nản lòng. Thậm chí, bạn còn “tung chiêu” lãng mạn để cưa cẩm. Nếu gặp người thích chủ nghĩa tự do, thì kế sách dai dẳng của bạn sẽ phản tác dụng.

 

Lựa chọn 2: The Fool – Bạn kiên trì nửa vời

Nếu gặp phải đối tượng “khó tán”, bạn càng có động lực để chinh phục. Trong thời gian đầu, bạn mang nhiều cảm hứng dành cho việc cưa cẩm, miệt mài xuất hiện bên nửa kia không quản ngại nắng, mưa. Cho tới khi chưa nhận được phản hồi từ đối phương, bạn sẽ tiếp tục duy trì kế sách của mình. Tuy nhiên, nếu bị từ chối thẳng thắn, bạn sẽ nguội lạnh tình cảm rất nhanh. Kết quả là mọi sự kiên trì với tình yêu chấm dứt. Thói quen này dễ bị hiểu lầm tình cảm của bạn thiếu chân thành.

Lựa chọn 3: The Lovers – Bạn kiên trì với chiến lược hiệu quả

Bạn sống theo kế hoạch và tuân thủ nghiêm túc những gì mình đặt ra. Ngay cả chuyện tình cảm, bạn đều có lộ trình khi nào để phát triển tự nhiên, thời điểm nào cần tấn công mạnh mẽ và bằng cách nào để dứt điểm hiệu quả. Bạn sẽ kiên trì đến khi nào chinh phục được trái tim nửa kia mới thôi. Dự kiến thời gian thử thách của bạn sẽ không dài, vì bạn yêu chân thành và nghĩ đến chuyện lâu dài ngay từ ban đầu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn có kiên trì theo đuổi tình yêu? - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Tìm hiểu phú Tử Vi: người đẹp dâm: thiên lương ngộ mã; thiên đồng ngộ kị tại tuất

Một bài viết tiếp theo của tác giả Phong Nguyên giải thích một số câu phú tử vi. Mời bạn đọc tham khảo!
Tìm hiểu phú Tử Vi: người đẹp dâm: thiên lương ngộ mã; thiên đồng ngộ kị tại tuất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của tác giả Phong Nguyên

Trong bài hôm nay, tôi xin tiếp tục mổ xẻ thêm một số câu phú tử vi để bổ túc trong một thời gian ngắn loạt bài về phú đã đăng trên KHHB. Tôi cần lưu ý quý bạn là tôi chỉ nêu ra những câu thật ứng nghiệm hoặc những câu tuy thông dụng nhưng dễ áp dụng sai hay không hợp lý, cho nên quý bạn sẽ không bao giờ thấy những câu phú quá thông thường và dễ áp dụng trong loạt bài phú của tôi.

1) Thiên - Lương Ngộ Mã Nữ mệnh tiện nhi khả dâm

Giải nghĩa: Nếu phụ nữ có Thiên -Lương tọa thủ tại Mệnh ( đương nhiên ở cung Tỵ hoặc Hợi theo cách bố cục chính tinh) mà gặp Mã ( đồng cung hay xung chiếu ) thì là người dâm đảng.

Nhận xét: trước hết ta tự hỏi tại sao Thiên - Lương là không có đặc tính gì dâm đãng mà khi gặp Thiên - Mã (chỉ là sao di động ) lại đem cái tính xấu đó tới người phụ nữ. Trường hợp này quí bạn cần xét tới chính tinh khác gây ảnh hưởng và cần phải suy luận ra mới thấy ý nghĩa hợp lí chứa trong câu phú.

Nếu quí bạn đã thông thuộc cách an sao trên bàn tay thì hẳn quí bạn thấy rằng khi Thiên -Lương tọa thủ tại Tỵ hoặc Hợi thì bao giờ cũng có Thiên-Đồng xung chiếu và chính sao Thiên-Đồng là đầu mối của ý nghĩa trong câu phú. Thực tế, tuy Thiên-Đồng không phải là sao chủ về đa tình, dâm đãng thực sự nhưng lại là sao chủ về sự di chuyển liên tục, nhất là đóng tại cung Thiên-Di và lại gặp Thiên-Mã (dù không đồng cung) thì làm sao đương số ru rú ở xó nhà được, và khi người đàn bà hay "chạy rông" ngoài xã hội rất dễ trở thành người ăn chơi, trụy lạc, nhất là theo quan niệm thời phong kiến, cổ xưa ở bên tàu cũng như ở bên ta. Do đó mới có vấn đề dâm đãng trong câu phú mà ta phải suy luận ra sao mới hiểu được.Tuy nhiên vì thời văn minh này đã thay đổi hẳn cách sống của người phụ nữ, ta phải áp dụng thận trọng câu phú trên

Vậy muốn giải đoán cho chính xác và khách quan ta cần phải lưu ý đến khía cạnh, yếu tố nào? Trước hết quí bạn xét đến cung Mệnh và Thiên- Di xem có thêm nhiều sao chủ về đa tình, lãng mạng hay không. Nếu có Hồng Riêu, Tả Hữu, Xương Khúc ( không bao giờ gặp đào hoa ở Tỵ hay Hợi ) chẳng hạn lại thêm Mộc- Dục, Hoa- Cái và Đào- Hoa nữa tại Giải- ách thì câu phú hẳn phải ứng nghiệm một trăm phần trăm, nhưng nếu không gặp những sao trên, mà mệnh lại có Hóa Quyền, Thiên Hình hoặc Thiên Khôi hoặc Thiên Việt (nếu Mệnh tại hợi thì chỉ gặp Thiên Khôi, ở Tỵ chỉ gặp Thiên Việt ) thì khó lòng ta dám quyết đoán là đương số có tâm hồn dâm đãng, chứ chưa nói đến cách sống dâm đãng.Vì các sao Hóa Quyền và Thiên Hình là những sao tự chủ được mạnh mẽ mà chỉ những người khắc kỷ mới hay có, còn các sao Khôi Việt chủ về sự tư cách, trọng hậu, thanh cao thì làm sao đương số có tính xấu như vậy được.Trong trường hợp này, dù cho cung Nô Bộc có Đào Hồng, riêu cũng chưa chắc đã lung lạc nổi tâm hồn của đương số. Và như vậy chỉ còn cách quyết đoán là đương số hay bôn ba, hay thay đổi nơi ăn chốn ở hoặc nơi làm việc, hoặc hay được xuất dương, xuất xứ ( nhất là khi có Thân cư Thiên Di) chứ tuyệt nhiên ta không nên kết tội theo câu phú mà thành ra " quê một cục ". Dù muốn dù không câu phú này cũng được đặt ra ở thời phong kiến bên Tàu là thời phụ nữ kín cổng cao tường hễ cứ lộ diện là bị chê bai là…hư đốn rồi, cho nên khó ứng nghiệm vào thời dại văn minh này.

2) Thiên -Đồng Tuất Cung Hóa-Kị, Đinh Nhân Mệnh Ngộ Phản Vi Giai

Giải nghĩa: Mệnh an tại Tuất mà có Thiên Đồng tọa thủ lại gặp Hóa Kỵ đồng cung thì rất xấu nhưng lại gặp người tuổi Đinh thì rất tốt đẹp.

Nhận xét: Câu phú này trong nhiều sách tử vi đều có nêu ra, nhưng ta thấy ngay là vô lí, nếu lưu ý đến bố cục bố trí của các sao.Tôi không giám bác bỏ hẳn câu này. Tôi chỉ xin nêu ra điểm sao Hóa- Kỵ khi đã đồng cung với thiên đồng (bất cứ ở cung nào) cũng không ứng vào tuổi Đinh vì tuổi này áp dụng câu "Đinh Nguyệt Đồng Cơ Cự với Cự Môn, còn Hóa Quyền lại đồng cung với thiên- đồng. Có thể câu phú có ý nói là Thiên Đồng ở Tuất ngộ Hóa Kỵ ở cung xung chiếu, tức là cung có Cự -Môn tọa thủ ( ở Thìn ), nhưng dù sao có vẻ cũng gượng ép nếu ta đọc kĩ câu (Thiên Đồng Tuất cung Hóa Kỵ ) trong câu phú.

Theo tôi, quý bạn nên dựa theo câu phú tương tự "Thiên -Đồng Tuất cung vi phản bội, Đinh nhân hóa cát chủ đại quý (có sách chép là "mệnh ngộ phản vi giai" thay vì "hóa cát chủ đại -quý” ) thì có lẽ hợp lí hơn vì không đề cập đến Hóa-Kỵ đồng cung tại Tuất.Vậy bây giờ ta cần tìm hiểu xem tại sao tuổi Đinh lại “ lật ngược thế cờ “như thế?.

Thiên-Đồng ở Tuất tuy bị hãm địa thật, nhưng với tuổi Đinh lại hội đủ bộ Lộc, Quyền Khoa vì Hóa-Lộc đồng cung với Thái âm (ở Dần) Hó -Quyền đồng cung với Thiên-Đồng, Hóa -Khoa đồng cung với Thiên Cơ (cũng ở dần).Ngoài ra, còn có Lộc-Tồn cư cung Ngọ (đồng cung với Thiên- Lương ) tức là cung Tài - Bạch và khi Lộc-Tồn cư Tài -Bạch thì lại có Tướng-Quântại cung Quan-Lộc ( vì là âm nam, dương nữ ) và thêm cả Quốc - Ấn cư Quan-Lộc (Dần ) nữa mới xét sơ qua như thế chúng ta đã thấy nhiều yếu tố tốt đẹp rồi mà chỉ có tuổi Đinh mới hội đủ ; khi đó Thiên-Đồng chỉ đóng vai trò phụ hoặc bỏ qua cũng được, quý bạn cứ kiểm tra qua tuổi khác một tí thì thấy không có tuổi nào được một góc của tuổi Đinh. Ngay như tuổi Kỷ cũng có Lộc-Tồn cư Ngọ như tuổi Đinh nhưng bộ Tam Hóa không hội đủ, chỉ có Hóa - Khoa đồng cung với Thiên -Lương tại Ngọ mà thôi. Đây là chưa kể đến trường hợp được thêm một số yếu tố tốt khác tùy theo ngày, giờ sinh. Tuy nhiên quí bạn cần ghi nhớ một điều là tuổi Đinh chỉ tốt về phương diện công danh, tiền tài chứ vẫn có thể bị kẹt về tai ách vì có Cự -Kỵ đồng cung tại Thiên -Di (nếu xui xẻo có "Thân " cư ở đó nữa thì khó thoát được), nhưng có điều may là luôn luôn có Thanh-Long ở cung Thìn (an theo Lộc-Tồn đi nghịch là vì âm Nam hoặc Dương-Nữ) thì vấn đề nạn nước coi như đã hóa giải được gần hết, trừ phi có thêm nhiều cách gì khá trở ngại mà thôi (tỷ dụ như có Không Kiếp, Linh, Xương, v.v)…Có lẽ vì thế câu phú không hề đề cập đến điểm bất lợi kể trên mà chỉ khẳng định là tốt đẹp.

3)”Thân” tại Quan cung gia sát diệu Triệt,Tuần, nữ mệnh nan bảo thân danh: gia kiến Bạch Tang cô thân trích ảnh nghi gia vãn tuế tất thành

Giải nghĩa: ”Thân” cư cung Quan Lộc gặp sát tinh và Tuần, Triệt án ngữ (xung chiếu không kể) nếu đàn bà con gái mà gặp thì khó bảo tòan được danh tiết; trường hợp thêm cả Tang Hổ hợp chiếu về (nếu tọa thủ lại hại nữa) thì bị cô đơn nếu lập gia đình sớm, về già thì may ra yên ổn về phương diện này.

Nhận xét: Tôi thấy câu phú này ngoài khía cạnh ứng nghiệm còn phải nói là dộc đáo nữa, vì thường đoán về phương diện hôn phối ta hay nhắm vào cung Mệnh, Phu Quân và sau nữa là Phúc Đức chứ ít khi ai chú ý tới cung Quan Lộc dù cho có “Thân” đóng ở đó. Hơn nữa, về danh tiết cũng vậy, ta thường xét đến Hồng, Đào Binh, Tướng.Không Kiếp chiếu Mệnh, Thân chứ có khi nào lại để ý đến Tuần Triệt án ngữ tại cung Quan chỉ chủ về công danh trắc trở, gián đoạn. Dù cho có thêm Sát –Tinh hội chiếu cũng khó ảnh hưởng về danh tiết.Vậy không có lẽ câu phú này đã ứng nghiệm một cách vô lý? Nhưng nếu chịu suy luận một chút, quý bạn sẽ thấy hợp lý vì người xưa quan niệm đàn bà con gái phải sống nhờ chồng, lo việc nội trợ phải xuất thân ra đời đi làm (vì “Thân” cư Quan-Lộc dễ phải đi làm ) đã là một điều không hay cho phụ nữ mà lại còn bị làm khó dễ đủ thứ (vì Sát Tinh và Tuần Triệt án ngữ) thì thử hỏi tư cách của người đàn bà bị tổn thương hay không? Hơn nữa, phụ nữ khi bị làm khó dễ thường thường (nhất là thời bây giờ ) hay liên quan đến tình cảm, sắc đẹp, vì nếu tỏ ra đứng đắn nghiêm trang thì hay bị cấp trên làm khó dể lung lạc tâm hồn, còn nếu chịu chiều lụy thì có ngày mất danh tiết như chơi. Vì vậy khi áp dụng câu phú này ta phải hết sức chú trọng đến cung Mệnh, nếu có nhiều sao tự chủ và đứng đắn là chỉ đoán công danh gián đoạn, thăng trầm, còn nếu thấy có quá nhiều sao “lã lướt” (như Riêu, Mộc, Cái, Đào Hồng..) thì có thể quyết đoán là mất danh tiết dể dàng, nếu không muốn nói là bị” hội đồng “(tôi xin lổi phải dùng chử này để nói lên được trung thực phần nào ngụ ý của tôi).Trường hợp sau này, có điều lạ là dù cho cung Phu Quân tốt đẹp mà vẫn không thoát được, có lẽ là sau khi bị thất tiết nhiều lần rồi sẽ lấy được chồng đàng hoàng, được yên duyên phận.Còn gặp trường hợp cung Phu Quân quá xấu mà cung Phúc Đức cũng tệ luôn thì dù không có Tang Hổ cũng vẫn cô đơn và ngay cả về già cũng vậy, khó lòng lập gia đình được.

Tuy câu phú này áp dụng rất linh động nhưng theo kinh nghiệm riêng, tôi khuyên quý bạn nên e dè ngay đối với trường hợp phụ nữ có Thân cư Quan Lộc bị Tuần, Triệt án ngữ vì không cần sát tinh hội chiếu nếu Mệnh hơi “yếu” một chút là có thể bị thất tiết được rồi và nếu cung Phu Quân hơi xấu nữa thì chẳng cần yếu tố Tang Hổ hợp chiếu về cung Quan cũng vẫn bị cô đơn (nhất là khi Mệnh có Cô Quả, Hình Đào)…

Cũng như bài trước về phú Tử vi, bài hôm nay cũng chỉ cho phép tôi bàn được có ba câu, như vậy quý bạn hơi sốt ruột về số lượng câu phú. Nhưng tôi nghĩ rằng biết được câu nào thì cần phải thật chắc ăn, thật thông suốt thì mới có lợi chứ nếu biết thật nhiều câu phú mà áp dụng bừa bãi, sai lầm thì thực không có gì tai hại và thất vọng cho bằng. Vậy mong quý bạn thông hiểu đường lối của tôi khi viết loạt bài về phú Tử vi. Tuy nhiên, nhân dịp này tôi xin thưa trước quý bạn là nếu thì giờ cho phép, tôi sẽ trình bầy thêm một số câu phú khác trong Lịch sách văn nghệ Tiền phong 1975 để số lượng phú được dồi dào vì Tòa soạn VNTP có nhã ý nhờ tôi viết thêm cho cuốn lịch sách nêu trên.

KHHB số 74H2


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu phú Tử Vi: người đẹp dâm: thiên lương ngộ mã; thiên đồng ngộ kị tại tuất

Tình yêu của người tuổi Hợi

Nam giới tuổi Hợi có phần thiếu chủ động trong chuyện tình cảm. Họ giống các chàng tuổi Mão, tuy mong có được một tình yêu đẹp và chân thành nhưng lại không
Tình yêu của người tuổi Hợi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chàng tuổi Hợi yêu

Nam giới tuổi Hợi có phần thiếu chủ động trong chuyện tình cảm. Họ giống các chàng tuổi Mão, tuy mong có được một tình yêu đẹp và chân thành nhưng lại không biết cách chinh phục người con gái mà mình đem lòng yêu mến. Tuy có khá nhiều ưu điểm nhưng nhược điểm chính của họ là không thể hiện thái độ rõ ràng trong tình yêu. Điều này thường khiến các cô gái cảm thấy mình không được tôn trọng.

 
Nàng tuổi Hợi yêu

Nữ giới tuổi Hợi thường có tính cách ôn hòa, lương thiện, tình cảm phong phú. Họ cũng rất coi trọng tình yêu. Với đối tượng mà mình thích, nữ giới tuổi Hợi thường không mạnh dạn bày tỏ tình cảm một cách trực tiếp nhưng lại biết cách ra hiệu ngầm hoặc cố tình tạo cho đối phương cơ hội được tiếp cận mình. Khi yêu, họ sẽ hết lòng vun đắp cho tình yêu. Tuy nhiên, một số cô gái tuổi Hợi có nhược điểm là khá thẳng tính và bướng bỉnh. Có điều họ lại thường không bộc lộ những tính cách này trước mặt người khác. Mềm yếu và cảm tính khi giải quyết công việc cũng là một nhược điểm của họ.

(Theo 12 con giáp về tình yêu và hôn nhân)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình yêu của người tuổi Hợi

Các nghi lễ cưới hỏi cần biết

Lấy vợ gả chồng là chuyện lớn cả đời người nên các nghi lễ cưới hỏi cần biết rất được chú trọng, cô dâu chú rể tìm hiểu lễ cưới một cách kỹ càng và chu đáo
Các nghi lễ cưới hỏi cần biết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lấy vợ, gả chồng là chuyện lớn đời người nên các nghi lễ cưới hỏi cần biết rất được quan tâm và chú trọng. Tùy vào từng vùng miền có những khác biệt văn hóa và tập tục nhưng nói chung nghi lễ cưới hỏi truyền thống người Việt luôn có những bước trình tự cao thấp, gần xa rất chi là rành mạch.

Thế nào là lễ vấn danh? Tại sao lại có nơi làm lễ ăn hỏi, có gia đình thì không? Những nghi lễ cưới bắt buộc là gì? Đây là những câu hỏi mà các cô dâu, chú rể thường đau đầu vì không hiểu rõ nghi lễ cưới như thế nào cho hợp lý, đúng thuần phong mỹ tục. Đặc biệt, xã hội càng hiện đại thì nghi lễ cưới càng được giản tiện hoặc chuyển sang hình thức khác cho phù hợp với điều kiện từng gia đình.

Nghi lễ cưới hỏi khởi thủy có 6 lễ

1. Lễ Nạp thái (kén chọn)

Lễ nạp thái hay còn gọi là lễ kén chọn là nhà trai đưa lễ để tỏ ý đã kén chọn, tục gọi là chạm mặt hay dạm vợ. Nhà trai chuẩn bị sính lễ và nhờ người mai mối đến nhà gái để đặt vấn đề. Nếu nhà gái đồng ý thì nhận lễ vật, còn không thì xem như mọi chuyện như chưa xảy ra.

Lễ vật thường tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của từng gia đình.

2. Lễ Vấn danh (hỏi tên tuổi cô gái)

Sau khi gia đình nhà gái nhận lễ vật, người mai mối có trách nhiệm và thông báo tình hình cho nhà trai. Sau đó, nhà trai lại tiếp tục nhờ người tới nhà gái để tìm hiểu tên tuổi, ngày sinh tháng để của cô gái để về bốc quẻ, xem bói, nếu mọi việc tốt đẹp thì hôn nhân mới có thể tiếp tục. Tục này gọi là lễ vấn danh.

Quan niệm của người xưa là vợ chồng hợp tuổi nhau thì mới có thể sống hạnh phúc, ăn nên làm ra (ngày nay chúng ta vẫn còn giữ quan niệm này). Lễ vấn danh cũng ra đời từ đó.

3. Lễ Nạp cát (báo cho nhà gái biết bói được quẻ tốt)

Theo truyền thống, nghi thức lễ nạp cát gần giống như nghi thức nạp thái.

4. Lễ Thỉnh kỳ (bàn bạc định ngày để làm lễ cưới hỏi )

Sau khi đã chọn được ngày lành tháng tốt, nhà trai đến nhà gái thông báo để bàn bạc, thương lượng ngày tổ chức hôn lễ. Gọi là lễ thỉnh kỳ.

5. Lễ Nạp tệ (đưa lễ cưới hỏi )

Nhà trai chuẩn bị sính lễ đem đến nhà gái, biểu lộ mong muốn có cô gái về làm dâu nhà mình. Nếu nhà gái đón nhận sính lễ thì mọi việc xem như đã được xác nhận. Thông thường trong ngày lễ nạp tệ này, người ta hay tổ chức cỗ bàn tiệc rượu, và cô dâu tương lai có thể gặp họ hàng nhà trai.

6. Lễ Thân nghinh (lễ đón dâu)

Vào ngày hoàng đạo, chú rể trực tiếp tới nhà gái đón cô dâu. Người xưa tin rằng dương luôn hạ âm, nam bao giờ cũng trước nữ, cho nên việc chú rể đích thân đi đón dâu làm lễ thân nghinh là biểu thị tình cảm yêu thương.

Ngày đón dâu, cả nhà trai và nhà gái đến làm lễ cáo từ đường.

Ngày vu quy, cô dâu lên lễ từ đường nhà chồng và chào họ nhà trai.

Lễ hợp cẩn, cô dâu và chú rể cùng chung chén rượu và ăn cùng một mâm.

Đám cưới phải có chủ hôn. Chủ hôn phải là ông hoặc cha của chú rể. Nếu không có người thân thích, hàng chủ bác sẽ làm chủ hôn. Chủ hôn phải không có tang cơ niên (tang một năm trở lên – tức trong vòng một năm trở lại thì không vướng tang ma gì)

Ngày nay nghi lễ cưới hỏi 6 lễ này đã giảm còn 3 lễ

1. Lễ chạm ngõ

Khi xác định được ngày tốt, nhà trai sắm một lễ mọn cúng tổ tiên để báo về công việc hệ trọng đối với chàng trai. Sau đấy, nhà trai sửa một lễ mang sang nhà gái. Đó là một cơi trầu têm cánh phượng, cau bổ tư bẻ cánh tiên. Tùy theo vùng miền và điều kiện gia đình mà lễ này có thể có thêm trà, mứt, bánh…

Trước khi nhà trai từ giã, nhà gái thường sẻ một phần lễ để biếu lại nhà trai gọi là lại quả.
Có nhiều gia đình không có lễ chạm ngõ. Ngày nay, lễ chạm ngõ thường được xem như cùng lễ ăn hỏi.

2. Lễ ăn hỏi

Về ý nghĩa, lễ ăn hỏi cũng như lễ chạm ngõ, nhưng được tổ chức lớn hơn, nhiều lễ vật hơn.

Nhà trai, cũng phải chọn ngày tốt, chuẩn bị cau trầu, rượu (là phần lễ không thể thiếu), một số nơi có bánh hỏi, xôi gấc, bánh cốm, bánh chưng, lợn quay…

Việc đưa thiếp mời hoặc mời miệng đến chung vui cũng được hai họ tiến hành vào ngày này (đó là vào ngày xưa). Ngày nay, lễ ăn hỏi có thể được nhập với lễ cưới và việc đưa thiếp mời do cô dâu chú rể, gia đình hai họ đã được tiến hành trước lễ cưới 1-2 tuần, để bạn bè thân hữu có thể sắp xếp thời gian mà tới dự.

3. Lễ cưới

Có nghi thức đưa sính lễ (nếu nhập lễ ăn hỏi vào làm một), lễ cáo từ đường, đón dâu và lễ hợp cẩn. Sau đó cô dâu chú rể cùng đi chúc rượu với người tham dự trong tiệc cưới. Các nghi lễ này có thể thêm hay bớt tùy đặc trưng phong tục từng miền và điều kiện của gia đình hai họ.

Thực chất, các cô dâu chú rể ngày nay để ý đến việc tránh điềm lành dữ trong đám cưới, chọn ngày tốt – xấu hơn là cố gắng làm theo đúng nghi thức truyền thống, vì qua bao thế hệ, lễ cưới đã thay đổi nhiều và một số nghi lễ rườm rà trở nên không cần thiết nữa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các nghi lễ cưới hỏi cần biết

Lục Thập Hoa Giáp và số mệnh đặc trưng trong tử vi đẩu số (Phần 3)

Xem tử vi đẩu số theo Lục Thập Hoa Giáp là phương pháp lâu đời, dựa trên Thiên can, Địa chi và nạp âm để suy tính ra mệnh, cát hung trong đời.
Lục Thập Hoa Giáp và số mệnh đặc trưng trong tử vi đẩu số (Phần 3)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tử vi theo Lục Thập Hoa Giáp là phương pháp lâu đời, dựa trên Thiên can, Địa chi và nạp âm để suy tính ra mệnh, cát hung trong đời.


Luc Thap Hoa Giap va so menh dac trung trong tu vi dau so hinh anh
 
Lục Thập Hoa Giáp gồm 60 hoa giáp, tương ứng với 60 trường hợp. Tử vi của mỗi hoa giáp sẽ đoán định được đường đi nước bước trong cuộc đời.
  21. Sinh năm Giáp Thân (Khỉ chuyền cành), năm Giáp Mộc, ngũ hành Kim, nạp âm Tỉnh Tuyền Thủy: tâm tính ôn nhu, tuổi trẻ bận rộn, về say lợi đạt, gia đình hưng vượng, vợ chồng hòa hợp, người nữ biết lo toan vun vén, có số vinh quang.   22. Sinh năm Ất Dậu (Gà gáy trưa), năm Ất Mộc, ngũ hành Kim, nạp âm Tỉnh Tuyền Thủy: ăn ngay nói thật, chí khí hiên ngang, cơm áo đủ dùng, phúc thọ song toàn, anh em không trợ giúp nhau, gia đình hòa hợp, người nữ đi xa thì phát đạt, vững vàng.   23. Sinh năm Bính Tuất (Chó ngủ đông), năm Bính hỏa, ngũ hành Thổ, nạp âm Ốc Thượng Thổ: thái độ làm người hào kiệt, hòa thuận, chiêu tài thuận lợi, tự thân lập nghiệp, tiền vận cần lao, tuổi già vinh hoa, khí chất thanh cao, người nữ lúc tuổi già rất tốt, tài vượng khá.   Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Tuất (P1)
24. Sinh năm Đinh Hợi (Lợn qua núi), năm Đinh Hỏa, ngũ hành Thủy, nạp âm Ốc Thượng Thổ: thông minh, biết mưu tính, tự thân lập nghiệp, người nữ có hình cần phải chậm rãi, hay làm việc thiện, tài nguyên vượng, mệnh có thiên tài.
  25. Sinh năm Mậu Tý (Chuột kho thóc), năm Mậu Thổ, ngũ hành Thủy, nạp âm Phích Lịch Hỏa: thông minh, văn võ song toàn, vợ chồng hòa thuận, có tài, tuổi già vượng phát rầm rộ, người nữ hiền lương, phát đạt.   26. Sinh năm Kỷ Sửu (Trâu trong chuồng), năm Kỷ Thổ, ngũ hành Thổ, nạp âm Phích Lịch Hỏa: người thẳng thắn, tinh thông văn nghệ, cơm áo l\không ít, nam nữ có thể tái hôn, sau thì vợ chồng hòa thuận, bách niên giai lão, lúc tuổi già an nhàn.   Xem bát tự hợp hôn chuẩn bị cưới vợ gả chồng
27. Sinh năm Canh Dần (Hổ rời núi), năm Canh Kim, ngũ hành Mộc, nạo âm Tùng Bách Mộc: thái độ làm người vội vã, bộc tuệch, dễ giận dễ quên, thay đổi thất thường, cơm áo sung túc, tuổi trẻ tiền tài tiêu phá không có tích lũy, tuổi già mới ổn định, người nữ có mệnh làm vợ tốt.
  28. Sinh năm Tân Mão (Mèo trong hang), năm Tân Kim, ngũ hành Mộc, nạp âm Tùng Bách Mộc: có chí khí, tâm thẳng, đường quan lộc tốt, lòng thanh thản nhưng không an nhàn, ít dựa vào gia đình, tự lập nghiệp, tuổi trẻ lao lực, tuổi già đại lợi, người nữ lo liệu việc gia đình thịnh vượng.   29. Sinh năm Nhâm Thìn (Rồng phun mưa), năm Nhâm Thủy, ngũ hành Thổ, nạp âm Trường Lưu Thủy: lao lực, tay chân không ngơi nghỉ, có danh nhưng không có lợi, tuổi già mới phát, người nữ biết lo liệu.   Mẹo tử vi đơn giản giúp tăng lương thành công trong năm mới
30. Sinh năm Quý Tỵ (RắN trong cỏ), năm Quý thủy, ngũ hành Hỏa, nạp âm Trường Lưu Thủy: thông minh lanh lợi, tài lộc tụ tán, gần quý nhân, trung niên vất vả, có học trò tốt, lúc thành lúc bại, bị người khác phản bội, về già mới vinh hoa.

=> Xem ngày tốt, ngày tốt xấu chuẩn nhất tại Lichngaytot.com
 

Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lục Thập Hoa Giáp và số mệnh đặc trưng trong tử vi đẩu số (Phần 3)

Xem bói bạn có số mệnh giàu sang hay lận đận? - Xem bói - Xem Tử Vi

Xem bói bạn có số mệnh giàu sang hay lận đận?, Xem bói, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Xem bói bạn có số mệnh giàu sang hay lận đận?, tu vi Xem bói bạn có số mệnh giàu sang hay lận đận?, tu vi Xem bói

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem bói bạn có số mệnh giàu sang hay lận đận?

Nếu bạn là người tin vào số mệnh, hãy cùng xem bói tử vi và phán đoán xem bạn có số mệnh giàu sang hay lận dận để thử xem vận mệnh kiếp này của mình ra sao nhé.

Câu hỏi:

1. Bạn thấy mình có chí tiến thủ, luôn nỗ lực phấn đấu?

Đúng – Câu 2

Sai – Câu 3

2. Về bản chất, bạn là người có suy nghĩ tiêu cực?

Đúng – Câu 3

Sai – Câu 4

3. Bạn nghĩ tình cảm đáng quý hơn tiền tài?

Đúng – Câu 4

Sai – Câu 5

4. Bạn nghĩ cho đi thì phải có nhận lại?

Đúng – Câu 6

Sai – Câu 5

5. Bạn thích than vãn, kể khổ, nhưng không phải với ai bạn cũng nói?

Đúng – Câu 7

Sai – Câu 6

6. Bạn luôn nói chuyện một cách khách quan, không cố giấu lỗi lầm của mình?

Đúng – Câu 7

Sai – Câu 9

7. Dù bản thân mắc sai lầm, bạn cũng sẽ khiến người khác cảm thấy là mình đúng?

Đúng – Câu 8

Sai – câu 9

8. Có khi bạn lo sợ người khác biết suy nghĩ thực sự trong lòng mình?

Đúng – Câu 10

Sai – Câu 9

9. Trong mục tiêu phấn đấu của mình, bạn đặt vật chất lên hàng đầu?

Đúng – Câu 10

Sai – Câu 11

10. Bạn không tin vào hạnh phúc của những người nghèo khổ?

Đúng – Đáp án A

Sai – Đáp án B

11. Bạn thích một tình yêu tự do không trói buộc hơn một tình yêu quá mãnh liệt?

Đúng – Đáp án C

Sai – Đáp án D

Đáp án:

A. Bạn sinh ra đã có mệnh phú quý

Bạn thông minh, lý trí, không bao giờ lãng phí thời gian và tâm sức vào những chuyện không cần thiết, không đa sầu đa cảm. Ở bạn luôn tỏa ra sức hấp dẫn của sự tự tin và phóng khoáng. Bạn luôn thực tế, có khả năng giao tiếp cực tốt, biết kiểm soát cảm xúc. Những ưu điểm này giúp bạn dễ dàng đạt được thành công, có cuộc sống giàu sang phú quý. Tuy nhiên, song song với sự thành công, bạn mất đi nhiều mối quan hệ tình cảm.

B. Cuộc sống phức tạp và mâu thuẫn

Bạn mạnh mẽ, thiện lương, thông minh nhưng có tật xấu là ham hư vinh. Những đặc điểm tính cách này ít khi xuất hiện trên cùng một người, vì vậy có thể nói bạn là người đa tính cách, phức tạp và đầy mâu thuẫn, những người khác thường khó lý giải được bạn. xem bói Tính cách như vậy cũng thể hiện cuộc đời bạn đã định sẵn sẽ không bình lặng.

C. Cuộc đời phóng khoáng, vô lo vô nghĩ

Bạn có rất nhiều điểm khác biệt với những người xung quanh. Về tinh thần hay về suy nghĩ, bạn đều hơn người khác một bậc. Mọi người thấy lời nói, cử chỉ, cách suy nghĩ của bạn đều lạ thường, nhưng bản thân bạn lại không nhận ra điều đó, bởi tính bạn trời sinh là vậy. Bạn nghĩ mình vô cùng bình thường nhưng thực ra bạn chính là một người xuất sắc, độc nhất vô nhị. Tài năng và tâm hồn khiêm tốn, không so đo giúp bạn có một cuộc sống thoải mái, vô lo.

D. Bạn có số long đong lận đận

Bạn có trái tim quá cao ngạo, tự khiến mình phải buồn phiền khi quá mức so đo với những người khác. Tính cách của bạn cũng rất mâu thuẫn, có lúc bạn thấy mình phải nắm chắc những giá trị vật chất, có lúc bạn lại buông bỏ mọi thứ để chạy theo tình cảm. Bạn luôn hành động theo cảm tính và xúc động nhất thời, có tính sở hữu cao, đặc biệt là trong tình yêu, thường khiến đối phương thấy ngạt thở.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói bạn có số mệnh giàu sang hay lận đận? - Xem bói - Xem Tử Vi

Suy ngẫm để Đặt tên cho Con

Tên là mệnh, là số mệnh sẽ đồng hành cùng Con. Vì thể đặt tên cho bé yêu là một hạnh phúc lớn nhưng đó cũng là trọng trách không hề dễ của người làm cha mẹ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tên là mệnh, là số mệnh sẽ đồng hành cùng Con và có ý nghĩa rất lớn đối với sức khỏe, trí tuệ và vận mệnh của Con sau này. Đặt tên cho bé yêu là một hạnh phúc lớn nhưng đó cũng là trọng trách không hề dễ của người làm cha mẹ vì cái tên sẽ đi với em bé suốt cuộc đời. Chính bởi thế nên bố mẹ hãy dành chi phí thời gian và vật chất để lựa chọn tên đẹp nhất, hợp nhất với con. Hãy cùng nghiên cứu trong quá trình đặt tên cho con. 

dat-ten-cho-con-2

Bạn thích cái tên nào?

Có lẽ điều quan trọng đầu tiên khi đặt tên cho con là cảm xúc “thích” của cha mẹ đối với cái tên đó. Chắc chắn khi nghe câu hỏi này các mẹ cũng đang hình dung ra trong đầu một hay một vài cái tên mà mình dự định sẽ chọn cho con. Hãy chia sẻ với chồng để biết thêm những cái tên mà chồng cũng đang nghĩ đến.

Đặt tên con giống tên của người nổi tiếng?

Đây cũng là một gợi ý để cha mẹ có thể dễ dàng chọn tên cho con. Nếu mẹ muốn con gái cũng xinh đẹp và thành đạt thì có thể đặt tên con là “Thúy Hạnh”. Nếu bố thích con trai giỏi giang và thành tài, bố có thể nghĩ đến cái tên “Bảo Châu”.

Đặt tên phải có ý nghĩa?

Cha mẹ cũng không nên đánh giá thấp tầm quan trọng của việc tìm một cái tên có ý nghĩa cho con. Nó có thể là mong muốn mãnh liệt nhất của cha mẹ về tính cách hay tương lai của con mai này, ví dụ: tên Nguyệt Cát có nghĩa “Hạnh phúc cuộc đời con sẽ tròn đầy”; tên Yến Oanh – “Hồn nhiên như con chim nhỏ, líu lo suốt ngày”.

Tên con cũng có thể gắn với những kỷ niệm đáng nhớ của cha mẹ, ví dụ: tên con là Thu Giang để nhắc về ngày đầu tiên cha mẹ gặp nhau đó là bên dòng sông thơ mộng vào một chiều thu đẹp trời.

Tên có bị trùng?

Người Việt Nam khá coi trọng việc con cháu ở dưới thì không được đặt trùng tên với các bậc bề trên. Nếu gia đình bạn vẫn còn nặng nề chuyện này thì bạn cần kiểm tra lại cái tên mà bạn đang định chọn có trùng với tên của một thành viên trong dòng họ hai bên nội ngoại không. Ngoài ra, nếu bạn không thích đặt tên cho em bé của mình sau một người nào đó, có thể là hàng xóm hoặc người bạn thân thì bạn cũng có thể bỏ qua các cái tên đã được đặt.

Nghe theo ý kiến của ông bà?

Có nhiều trường hợp, ông bà muốn giành phần đặt tên cho cháu. Điều này hoàn toàn dễ hiểu vì ông bà cũng rất yêu cháu và muốn quyết định thay cho con cái mình một việc quan trọng. Việc bạn cần làm đó là lắng nghe và tham khảo ý kiến của ông bà nhưng người đưa ra quyết định cuối cùng vẫn chính là bạn.

Tên có hợp với họ?

Đây cũng là một điểm mà các mẹ không nên bỏ qua khi đặt tên cho con. Bạn nhớ thử ghép tên gọi của con với họ xem có hợp không nhé.

Chọn tên “quen thuộc” hay tên “lạ”?

Dù là tên “quen thuộc” hay tên “lạ” thì đều có cả ưu và nhược điểm. Tên “quen thuộc” thì không bao giờ sợ lỗi mốt và cái tên của trẻ sẽ không trở thành điều gây ngạc nhiên mỗi lần giới thiệu tên. Nhưng tên “quen thuộc” thì dễ bị trùng và đi đâu cũng gặp. Ngược lại với các đặc điểm của tên “quen thuộc” là tên “lạ”. Với các điểm trên thì việc chọn tên như thế nào thì sẽ phụ thuộc vào sự mong muốn của chính bạn.

Liệu mai sau con có thích cái tên của mình không?

Cha mẹ là người chọn tên cho con, nhưng con mới là người sống với nó cả đời. Hãy đặt mình vào vị trí của con để nghĩ xem mai này bé có thích tên của mình không nhé.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Suy ngẫm để Đặt tên cho Con

Bài học cuộc sống : Ổ bánh mì và lão già kì quặc

Trong cuộc sống, luôn tồn tại luật nhân quả. Những gì bạn làm hôm nay là căn nguyên cho những sự việc sẽ đến với bạn trong tương lai bởi vậy hãy luôn sống tốt và không bao giờ phải hổ thẹn với lương tâm của mình bạn nhé!
Bài học cuộc sống : Ổ bánh mì và lão già kì quặc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một người phụ nữ nọ có thói quen nướng bánh mì cho gia đình, luôn làm dư một cái để lại cho người nghèo đói. Bà để ổ bánh mì dư bên ngoài thành cửa sổ cho người nghèo đi qua dễ lấy.

Bài học cuộc sống : Ổ bánh mì và lão già kì quặc

Ngày qua ngày cứ đến buổi, một ông lão gù lưng đến lấy ổ bánh mì đi.

Thay vì nói lời cảm ơn, ông ta vừa đi vừa lẩm bẩm những lời như niệm chú:

“Việc xấu ngươi làm thì ở lại với ngươi, việc tốt ngươi làm thì sẽ trở lại với ngươi”.

Điều này cứ diễn ra, ngày này qua ngày khác. Mỗi ngày, người già đến lấy bánh và lại lẩm bẩm câu :

“Việc xấu ngươi làm thì ở lại với ngươi, việc tốt ngươi làm thì sẽ trở lại với ngươi!”

Ngày qua ngày, người phụ nữ dần bực bội trong lòng nghĩ:

“Nhận được bánh, không biết cảm ơn còn lải nhải mấy lời khó chịu kia! Hắn ta muốn ám chỉ điều gì?”.

Rồi một hôm, chịu hết nổi, bà nghĩ cách làm cho ông già đi khuất mắt. Bà tự nhủ:

“Ta sẽ làm cho hắn mất dạng”.

Bà trộn thuốc vào ổ bánh mì dư bà thường làm, tay run run để bánh có thuốc độc lên thành cửa sổ, bỗng cảm thấy hốt hoảng:

“Ta làm gì thế này?”

Bà ném vội ổ bánh có thuốc độc vào lửa và thay một cái bánh khác lên thành cửa sổ. Như mọi khi, ông lão đến lấy bánh và lại lẩm bẩm:

“Việc xấu ngươi làm thì ở lại với ngươi; việc tốt ngươi làm thì sẽ trở lại với ngươi”.

Ông lão cầm ổ bánh vui vẻ rời đi, không ai biết trong lòng người phụ nữ vừa trải qua một trận chiến giận dữ dội.

Có một điều mà không ai biết đó là mỗi khi đặt ổ bánh mì cho người nghèo lên thành cửa sổ, bà lại cầu nguyện cho đứa con trai đi tìm việc làm xa, đã nhiều tháng không nhận được tin tức. Bà nguyện cho con trở về nhà bình an, mạnh giỏi.

Buổi chiều hôm đó, có tiếng gõ cửa. Khi mở cửa ra, bà ngạc nhiên thấy con trai mình đứng trước cửa…

Anh ta gầy xọp đi, quần áo anh rách rưới đến thảm hại. Anh ta đói lả và mệt. Khi trông thấy mẹ, anh ta nói:

Mẹ ơi, con về được đến nhà quả là một phép lạ. Khi con còn cách nhà mình cả dặm đường, con đã ngã gục vì đói, không đi nổi nữa và tưởng mình sẽ chết dọc đường, nhưng bỗng có một người gù lưng đi ngang, con xin ông ta cho con một chút gì để ăn, và ông ta đã quá tử tế cho con nguyên một ổ bánh mì ngon và chút nước.

Ông ta nói:

“Đây là cái mà tôi có mỗi ngày, nhưng hôm nay tôi cho anh vì anh cần nó hơn tôi!”

Bài học cuộc sống : Ổ bánh mì và lão già kì quặc

Khi người mẹ nghe những lời đó, mặt bà biến sắc. Bà phải dựa vào thành cửa để khỏi ngã. Bà nhớ lại ổ bánh mì có thuốc độc mà bà đã làm sáng hôm nay. Nếu bà không ném nó vào lửa thì con trai yêu quý của bà đã ăn phải và đã chết!

Ngay lập tức bà nhớ lại câu nói lặp đi lặp lại qua ngày của ông lão…

Bài học cuộc sống : Ổ bánh mì và lão già kì quặc

Trong cuộc sống, luôn tồn tại luật nhân quả. Những gì bạn làm hôm nay là căn nguyên cho những sự việc sẽ đến với bạn trong tương lai bởi vậy hãy luôn sống tốt và không bao giờ phải hổ thẹn với lương tâm của mình./

>> Xem BÓI TÌNH YÊU mới nhất 2016!

>> Xem BÓI NGÀY SINH mới nhất 2016!

Theo "Bài học cuộc sống".


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài học cuộc sống : Ổ bánh mì và lão già kì quặc

SAO THÁI DƯƠNG TRONG TỬ VI

Thái dương Nam đẩu tinh . dương . hỏa 1. Vị trí ở các cung: - Miếu địa: Tỵ, Ngọ ...
SAO THÁI DƯƠNG TRONG TỬ VI

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thái dương Nam đẩu tinh . dương . hỏa 



1. Vị trí ở các cung:
            - Miếu địa:                   Tỵ, Ngọ             - Vượng địa:                Dần, Mão, Thìn             - Đắc địa:                    Sửu, Mùi             - Hãm địa:                   Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý
Thái Dương đóng ở các cung ban ngày (từ Dần đến Ngọ) thì rất hợp vị, có môi trường để phát huy ánh sáng. Đóng ở cung ban đêm (từ Thân đến Tý) thì u tối, cần có Tuần, Triệt, Thiên Không, Thiên Tài mới sáng.
Riêng tại hai cung Sửu, Mùi cần có Tuần Triệt hay Hóa Kỵ mới thêm rực rỡ (ở Sửu tốt hơn ở Mùi). Nhật chính vị ở các cung Dương, phù hợp với các tuổi Dương. Nhật càng phù trợ mạnh hơn cho những người sinh ban ngày, thích hợp cho những người mệnh Hỏa, mệnh Thổ và mệnh Mộc, hợp với trai hơn gái.

2. Ý nghĩa cơ thể:
Nhật, Nguyệt là cặp mắt. Nhật chỉ mắt trái, Nguyệt chỉ mắt phải. Độ sáng của Nhật, Nguyệt quyết định độ sáng của mắt.
Ngoài ra, Thái Dương tượng trưng cho trí tuệ, bộ óc, mức độ thông minh, đồng thời cũng chỉ thần kinh hệ. Càng sáng, Thái Dương biểu hiện cho thần kinh bén nhạy linh mẫn, với những hậu quả hay, dở của nó.
Thái Dương còn chỉ thận của nam phái, phần dương tính của đàn ông.

3. Ý nghĩa bệnh lý:
a. Thái Dương đắc địa trở lên: Chỉ riêng bộ thần kinh bị ảnh hưởng vì ánh sáng mạnh của sao gây căng thẳng tinh thần, biểu lộ qua các trạng thái:             - sự ưu tư, lo âu quá mức             - tính nhạy cảm quá mức             - sự mất ngủ và các hậu quả             - sự tăng áp huyết vì thần kinh Đi với các sao Hỏa (Hỏa, Linh) hay đóng ở cung hỏa vượng (Thìn, Ngọ), có thể bị loạn thần kinh đi đến loạn trí. Những bệnh trạng này cũng xảy ra nếu Nhật hãm địa bị Tuần Triệt án ngữ.
b. Thái Dương hãm địa: Không bị sát tinh xâm phạm, Thái Dương hãm địa chỉ trí tuệ kém linh mẫn, mắt kém. Nếu bị sát tinh, bệnh trạng sẽ nặng hơn. Nhật Kình (Đà) Kỵ: đau mắt, tật mắt (cận thị, viễn thị, loạn thị) có thể mù, kém thông minh. Nếu có thêm  Hình, Kiếp Sát: có thể bị mổ mắt

4. Ý nghĩa tướng mạo:
a. Thái Dương đắc, vượng và miếu địa: người này "thân hình đẫy đà, cao vừa tầm, da hồng hào, mặt vuông vắn đầy đặn, có vẻ uy nghi, mắt sáng, dáng điệu đường hoàng bệ vệ, đẹp nói chung."
b. Thái Dương hãm đĩa: người này "thân hình nhỏ nhắn, hơi gầy, cao vừa tầm, da xanh xám, mặt choắt, có vẻ buồn tẻ, má hóp, mắt lộ, thần sắc kém."

5. Ý nghĩa tính tình:
a. Nếu Thái Dương đắc, vượng và miếu địa:             - rất thông minh             - thẳng thắn, cương trực; phụ nữ thì đoan chính, có tác dụng chế giải tính chất lả lơi hoa nguyệt của Đào, Hồng, Riêu, Thai và có giá trị như Tử, Phủ, Quang, Quý, Hình. Nếu được thêm các sao này hỗ trợ, mức độ ngay thẳng càng nhiều: đó là đàn bà đức hạnh, trung trinh, khí tiết, hiền lương.             - hơi nóng nảy, háo quyền, chuyên quyền             - nhân hậu, từ thiện, hướng thượng, thích triết, đạo lý Hai đức tính nổi trội hơn hết là sự thông minh và đoan chính.
b. Nếu Thái Dương hãm địa:             - kém thông minh             - nhân hậu, từ thiện             - ương gàn, khắc nghiệt             - không cương nghị, không bền chí, chóng chán, nhất là ở hai cung Thân và Mùi (mặt trời sắp lặn)             - riêng phái nữ thì đa sầu, đa cảm             - thích đua chen, ganh tị

6. Ý nghĩa công danh, tài lộc:
a. Nếu Thái Dương đắc địa: Tùy theo mức độ cao thấp và tùy sự hội tụ với Thái Âm cùng các cát tinh khác, người có Thái Dương sáng sẽ có:             - uy quyền, địa vị lớn trong xã hội (quý)             - có khoa bảng cao, hay ít ra rất lịch lãm, biết nhiều             - có tài lộc vượng, giàu sang (phú) Vì vậy, Thái Dương đóng ở cung Quan là tốt nhất. Đó là biểu tượng của quyền hành, uy tín, hậu thuẫn nhờ ở tài năng.
b. Nếu Thái Dương hãm địa:             - công danh trắc trở             - khoa bảng dở dang             - bất đắc chí             - khó kiếm tiền             - giảm thọ Nếu Thái Dương hãm ở các cung dương (Thân, Tuất, Tý) thì không đến nỗi xấu xa, vẫn được no ấm, chỉ phải không giàu, không hiển đạt. Tuy nhiên, dù hãm địa mà Thái Dương được nhiều trung tinh hội tụ sáng sủa thì cũng được gia tăng tài, quan. Trường hợp Thái Dương ở Sửu Mùi gặp Tuần, Triệt án ngữ thì người này có phú quý như cách Thái Dương vượng hay miếu địa. Nếu thêm Hóa Kỵ đồng cung thì càng rực rỡ hơn nữa.

7. Ý nghĩa phúc thọ, tai họa:
Bệnh tật, tai họa chỉ có khi:             -Thái Dương hãm địa             - Thái Dương bị sát tinh (Kình Đà Không Kiếp Riêu Hình Kỵ) xâm phạm dù là miếu địa.
Ngoài ra, có thể bị:             - tật về mắt hay chân tay hay lên máu             - mắc tai họa khủng khiếp             - yểu tử             - phải bỏ làng tha phương mới sống lâu được
Riêng phái nữ, còn chịu thêm bất hạnh về gia đạo như: muộn lập gia đình, lấy lẽ, lấy kế, cô đơn, khắc chồng hại con.

8. Ý nghĩa của thái dương và một số sao khác:
a. Những bộ sao tốt: Nhật Đào Hồng Hỷ (tam minh): hiển đạt.
Nhật Khoa Quyền Lộc (tam hóa): rất quý hiển, vừa có khoa giáp, vừa giàu có, vừa có quyền tước
Nhật sáng Xương Khúc: lịch duyệt, bác học.
Nhật sáng Hóa Kỵ: làm tốt thêm.
Nhật Cự ở Dần: giàu sang hiển vinh ba đời
Nhật (hay Nguyệt) Tam Hóa, Tả Hữu, Hồng, Khôi: lập được kỳ công trong thời loạn
Nhật, Tứ linh (không bị sát tinh): hiển hách trong thời bình.
b. Những bộ sao xấu: Nhật hãm sát tinh: trai trộm cướp, gái giang hồ, suốt đời lao khổ, bôn ba, nay đây mai đó.
- Nhật Riêu Đà Kỵ (tam ám): bất hiển công danh
Nhật hãm gặp Tam Không: phú quý nhưng không bền
c. Thái Dương và Thái Âm: Nhật Nguyệt bao giờ cũng liên hệ nhau mật thiết vì thường ở vị trí phối chiếu hoặc đồng cung ở Sửu Mùi. Hai sao này tượng trưng cho hai ảnh hưởng (của cha, của mẹ), hai tình thương (cha, mẹ), hai nhân vật (cha mẹ hoặc chồng vợ), hai dòng họ (nội, ngoại).

9. Ý nghĩa của thái dương ở các cung:
a. ở Mệnh: Cung Mệnh có Nhật sáng sủa tọa thủ rất tốt nhưng còn kém hơn cung Mệnh được Nhật sáng sủa hội chiếu với Nguyệt. Nếu giáp Nhật, Nguyệt sáng cũng phú hay quý.
+ Các cách tốt của Nhật, Nguyệt: Nhật ở Ngọ, Tỵ, Thìn, Mão (biểu tượng của Sấm Sét): đều tốt về nhiều phương diện. Mệnh ở Sửu được Nhật ở Tỵ, Nguyệt ở Dậu chiếu: phú quý tột bậc, phúc thọ song toàn, phò tá nguyên thủ. Mệnh ở Mùi được Nhật ở Mão, Nguyệt ở Hợi chiếu: ý nghĩa như trên Mệnh vô chính diệu được Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu: người rất thông minh, học 1 biết 10, nếu có Tuần Triệt thủ mệnh thì càng rực rỡ hơn nữa. Mệnh ở Thìn có Nhật gặp Nguyệt ở Tuất xung chiếu hay ngược lại: suốt đời quý hiển, duy trì địa vị và tiền tài lâu dài. Mệnh ở Sửu hay Mùi Ngọ Nhật Nguyệt Triệt hay Tuần: cũng rất rạng rỡ tài, danh, phúc thọ.

+ Các cách trung bình của Nhật Nguyệt: - Mệnh ở Sửu Mùi gặp Nhật Nguyệt đồng cung: no cơm ấm áo nhưng không hiển đạt lắm. - Mệnh có Nhật ở Hợi gặp Cự ở Tỵ xung chiếu: công danh tiền bạc trắc trở buổi đầu, về già mới khá giả.
+ Các cách xấu của Nhật, Nguyệt: Nhật Nguyệt hãm địa Nhật ở Mùi Thân: không bền chí, siêng năng buổi đầu về sau lười biếng, trễ nải, dở dang Nhật ở Tý: người tài giỏi nhưng bất đắc chí (trừ ngoại lệ đối với tuổi Bính Đinh thì giàu sang tín nghĩa) Nhật Tuất Nguyệt Thìn: rất mờ ám. Cần gặp Tuần Triệt án ngữ hay Thiên Không đồng cung mới sáng sủa lại. Nhật Nguyệt hãm gặp sát tinh: trộm cướp, dâm đãng, lao khổ, bôn ba.
b. ở Phu Thê: Nhật, Đồng, Quang, Mã, Nguyệt Đức: có nhiều vợ hiền thục Nhật, Nguyệt miếu địa: sớm có nhân duyên Nhật Xương Khúc: chồng làm quan văn Nguyệt Xương Khúc: vợ học giỏi và giàu
c. ở Tử: Nhật ở Tý: con cái xung khắc với cha mẹ Nhật, Nguyệt, Thai: có con sinh đôi
d. ở Tài: Nhật Nguyệt Tả Hữu Vượng: triệu phú Nhật Nguyệt sáng sủa chiếu: rất giàu có
e. ở Tật: Nhật Nguyệt hãm gặp Đà Kỵ: mù mắt, què chân, khản tiếng. - xem mục bệnh lý
f. ở Di: Nhật Nguyệt Tam Hóa: phú quý quyền uy, người ngoài hậu thuẫn kính nể, giúp đỡ, trọng dụng Nhật Nguyệt sáng gặp Tả Hữu Đồng Tướng: được quý nhân trọng dụng, tín nhiệm
g. ở Nô: - Nhật Nguyệt sáng: người dưới, tôi tớ lạm quyền - Nhật, Nguyệt hãm: tôi tớ ra vào luôn, không ai ở
i. ở Phụ: - Nhật Nguyệt gặp Tuần Triệt: cha mẹ mất sớm Nhật Nguyệt đều sáng sủa: cha mẹ thọ Nhật sáng, Nguyệt mờ: mẹ mất trước cha Nhật mờ, Nguyệt sáng: cha mất trước mẹ Nhật Nguyệt cùng sáng: sinh ban ngày - mẹ mất trước, sinh ban đêm - cha mất trước Nhật Nguyệt cùng mờ: sinh ban ngày - cha mất trước, sinh ban đêm - mẹ mất trước Nhật Nguyệt đồng cung ở Sửu Mùi: không gặp Tuần, Triệt án ngữ: sinh ngày - mẹ mất trước, sinh đêm - cha mất trước; gặp Tuần, Triệt án ngữ: sinh ngày - cha mất trước, sinh đêm - mẹ mất trước.
k. ở Hạn: - Nhật sáng: hoạnh phát danh vọng, tài lộc Nhật mờ: đau yếu ở 3 bộ phận của Thái Dương, hao tài, sức khỏe của cha/chồng suy kém. Nếu gặp thêm Tang, Đà, Kỵ nhất định là cha hay chồng chết. Nhật Long Trì: đau mắt Nhật Riêu Đà Kỵ: đau mắt nặng, ngoài ra còn có thể bị hao tài, mất chức. Nhật Kình Đà Linh Hỏa: mọi việc đều trắc trở, sức khỏe của cha/chồng rất kém, đau mắt nặng, tiêu sản Nhật Kỵ Hình ở Tý Hợi: mù, cha chết, đau mắt nặng. - Nhật Cự: thăng chức Nhật Nguyệt Không Kiếp chiếu mà Mệnh có Kình Đà: mù hai mắt


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: SAO THÁI DƯƠNG TRONG TỬ VI

Tại sao lại có ngày lễ Phật Đản?

Phật Đản được coi là thánh lễ của Phật giáo với nhiều nghi thức quan trọng, thu hút đông đảo sự quan tâm của các tín đồ trên toàn thế giới.
Tại sao lại có ngày lễ Phật Đản?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hàng năm, lễ Phật Đản được tổ chức long trọng, thể hiện niềm tin vào tín ngưỡng và mong muốn hướng tới sự tốt đẹp, thiện lương của hàng triệu người.


=> Tra cứu ngày âm lịch hôm nay chuẩn xác theo Lịch vạn sự

Tai sao lai co ngay le Phat Dan hinh anh 2
 
Ngày Phật Đản hay Phật Đản sinh được biết tới là ngày xuất thế của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni – người sáng tạo ra đạo Phật. Đức Phật là vốn là Thái tử con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Mada, thuộc bộ tộc Thích Ca, nước Ấn Độ cổ đại. Ngài sinh vào ngày 8/4 âm lịch, trải qua quá trình ngộ đạo và tu hành khổ hạnh đã xuất thần thành Phật, giảng đạo khắp bốn phương, độ hóa chúng sinh, truyền bá Phật giáo rộng khắp.   Để tưởng nhớ công đức của Ngài, ngày 8/4 hàng năm trở thành ngày lễ Phật Đản hay Phật Đản sinh. Tới năm 1950, Phật giáo thế giới thống nhất lấy ngày 15/4 âm lịch là ngày lễ Phật Đản. Từ đây, tháng 4 âm lịch hàng năm trở thành tháng lễ Phật Đản sinh.   Những hiểu lầm trong tín ngưỡng thờ Phật Xem tử vi cho người sinh ngày vía Quan Âm Một năm có bao nhiêu ngày vía Quan Âm?
Từ năm 1999, Lễ Phật Đản đã được Liên Hiệp Quốc công nhận là ngày lễ hội văn hóa tâm linh thế giới. Phật Đản là một trong ba lễ cấu thành Lễ Tam hợp mà Liên Hiệp Quốc gọi là Vesak (lễ Phật Đản sinh, lễ Phật thành đạo và lễ Phật nhập Niết Bàn).
  Tháng lễ trở thành dịp để những tín đồ Phật giáo trên toàn thế giới hướng về Đức Phật, tỏ lòng thành kính, gợi nhắc công lao to lớn của Ngài, đồng thời nhất tâm hướng thiện, thanh tỉnh bản thân, tu hành Phật pháp, tiến tới chân – thiện – mĩ của đời người.

Tai sao lai co ngay le Phat Dan hinh anh 2
 
Vào ngày lễ Phật Đản, các phật tử ăn chay niệm Phật, không sát sinh, bày biện lại ban thờ Phật, tới chùa phụ giúp công quả và tham gia lễ tắm Phật – một nghi thức quan trọng trong ngày lễ Phật Đản. Nghi thức này tái hiện lại truyền thuyết khi Đức Phật ra đời có 9 rồng xuất hiện phun nước nóng lạnh tắm cho Ngài. Ngoài ra, nhiều tổ chức Phật giáo còn tổ chức phóng sinh, giảng đạo hay các khóa tu để thiện nam tín nữ cùng tham gia, nâng cao ý thức ngộ đạo.   Họa phúc tại miệng, 4 khẩu nghiệp gánh cả đời không hết Chọn Phật châu hợp phong thủy để tích phúc, thêm may Phương pháp Cầu An - Giải hạn - Tăng cường phước báu theo tinh thần đạo Phật
Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại sao lại có ngày lễ Phật Đản?

Hiện nay, hướng của sơn chủ yếu ứng dụng tại những địa điểm nào? –

Hướng sơn trong phong thuỷ hiện nay chủ yếu được ứng dụng tại bốn địa điểm sau: Căn nhà, giường, bàn viết và bếp đun. Ngoài việc phải tìm toạ hướng của căn nhà để phán định nó có phải là phong thuỷ trạch không, ta phải tìm phương hướng của giường

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng sơn trong phong thuỷ hiện nay chủ yếu được ứng dụng tại bốn địa điểm sau: Căn nhà, giường, bàn viết và bếp đun.

p30

Ngoài việc phải tìm toạ hướng của căn nhà để phán định nó có phải là phong thuỷ trạch không, ta phải tìm phương hướng của giường ngủ, tức là khi ngủ đỉnh đầu hướng tới vị trí nào. Vị trí này ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của bạn, bởi vì 1/3 thời gian của con người dùng để ngủ. Hướng bàn viết cũng quan trọng vì nó là nguồn gốc thu nhập tài lộc của bạn. Vị trí bếp đun trong nhà bếp đại diện cho nữ chủ nhân, vị trí này ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và địa vị của nữ chủ nhân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hiện nay, hướng của sơn chủ yếu ứng dụng tại những địa điểm nào? –

Hướng bếp hợp người sinh năm 1974 Giáp Dần –

Hướng bếp hợp người sinh năm 1974: - Năm sinh dương lịch: 1974 - Năm sinh âm lịch: Giáp Dần - Quẻ mệnh: Cấn Thổ - Ngũ hành: Đại Khe Thủy (Nước khe lớn) - Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch - Hướng tốt: Tây Bắc (Thiên Y); Đông Bắc (

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng bếp hợp người sinh năm 1974:

bo-tri-nha-bep-dung-huong4_1

– Năm sinh dương lịch: 1974

– Năm sinh âm lịch: Giáp Dần

– Quẻ mệnh: Cấn Thổ

– Ngũ hành: Đại Khe Thủy (Nước khe lớn)

– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch

– Hướng tốt: Tây Bắc (Thiên Y); Đông Bắc (Phục Vị); Tây Nam (Sinh Khí); Tây (Diên Niên);

– Hướng xấu: Bắc (Ngũ Quỷ); Đông (Lục Sát); Đông Nam (Tuyệt Mệnh); Nam (Hoạ Hại);


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng bếp hợp người sinh năm 1974 Giáp Dần –

Người tuổi Mùi thường gặp may mắn

Người tuổi Mùi thường được coi là người may mắn, có nhiều phúc khí, người tuổi Mùi dễ tự mình làm nên sự nghiệp.
Người tuổi Mùi thường gặp may mắn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 
 

Mùi là con giáp đứng thứ 8 trong 12 con  giáp, bởi vậy, Mùi được coi là con giáp may mắn. Trong quan niệm của người Á Đông thì số 8  là con số của phát lộc, phát tài, tượng trưng cho triển vọng thịnh vượng.
Ly giai vi sao nguoi tuoi Mui thuong gap may man hinh anh 2
Ảnh minh họa
Ngoài ra, giờ Mùi kéo dài từ 13-15h, là thời gian mở đầu của buổi chiều, con người vừa ăn trưa xong, đang thanh thản nghỉ ngơi và sung mãn bước vào buổi lao động mới. Vì vậy, quan niệm dân gian thường cho rằng người sinh năm Mùi có số hưởng an nhàn.   Người tuổi Mùi nhìn chung phóng khoáng, rộng rãi, công bằng, tử tế và dễ động lòng trắc ẩn trước những bất hạnh của người khác. Tuổi này cũng luôn vui cười, sống chân thực và thân thiện với mọi người.   Trong 12 con giáp, Mùi được xem là biểu tượng của tính ôn hòa, thuần hậu. Trẻ em tuổi Mùi thường hiền lành, ngoan ngoãn, dễ bảo, đôi khi còn có sự nhút nhát, bẽn lẽn đáng yêu, dễ tạo thiện cảm. Những nét tính cách này có thể theo cả tới khi đã trưởng thành bởi đây dường như là đặc trưng bản chất của người tuổi Mùi.   Nếu đường đời được thuận lợi, người tuổi Mùi dễ có được vẻ phong nhã, thanh nhàn, nhưng nếu cuộc sống không được như ý, gặp nhiều vất vả, gian truân, thất bại, người tuổi Mùi lại trở nên rất bi lụy, ủy mị, chán chường.   Người tuổi Mùi thường gặp nhiều may mắn?
Người tuổi Mùi thường được kính trọng và nhận được nhiều sự ngưỡng mộ thì cách hành xử, đối nhân xử thế chân thành, ấm áp, thanh nhã. Họ luôn sống theo nguyên tắc tự do, phóng khoáng và đối xử với người khác bằng sự nhân hậu, khoan dung.
  Là người giỏi quán xuyến việc lớn nhỏ trong nhà, người tuổi Mùi bản tính lại rất yêu trẻ con và vật nuôi, nên rất phù hợp với đời sống gia đình. Dù tuổi Mùi có tính cách ưa sự nhẹ nhàng, hòa hảo, không thích tranh cãi, xung đột, nhưng họ không bao giờ khuất phục trước bất cứ một sự đè nén, chèn ép nào, không bao giờ có thể ép buộc người tuổi Mùi làm điều họ không muốn.   Trong sáng và nhân hậu là nét tính cách cao quý của tuổi này, họ thường sẵn sàng giúp đỡ những người đang trong cơn hoạn nạn. Trong cuộc đời, người tuổi Mùi hiếm khi phải lo lắng về 3 điều thiết yếu trong đời sống, gồm cái ăn, cái mặc, nơi ở. Dù đi bất cứ đâu, người tuổi Mùi cũng dễ dàng kết bạn vì họ luôn đối xử với người xung quanh rất chân thành, trung thực.   Những người sinh năm Mùi được cho là dễ có đời sống hôn nhân mãn nguyện, họ không chỉ được bạn đời yêu thương mà còn được họ hàng quý mến.   Dân gian cho rằng tuổi Mùi sinh vào các mùa đều tốt, riêng mùa đông là vất vả hơn vì mùa đông ít có cỏ để ăn. Tuy vậy, thực tế là dù hoàn cảnh xung quanh có như thế nào, người tuổi Mùi cũng không cần quá lo bởi vận số tuổi này may mắn, dễ được quý nhân phù trợ, nhận được sự chủ động giúp đỡ từ những người xung quanh.   Dù trong cảnh khốn cùng, người tuổi Mùi vẫn có thể xoay xở vượt qua nhờ vào sự giúp đỡ từ cha mẹ, họ hàng, bạn bè, xã hội… Nhìn chung, người sinh năm Mùi dễ dàng vượt khó khăn và thất bại bởi xung quanh họ luôn có sự trợ giúp từ những người thân quý.   Tuổi Mùi chỉ thích làm những việc mà họ thực sự hứng thú, họ nhanh chóng nhận ra điều mình muốn theo đuổi trong cuộc đời một cách rất tự nhiên. Khi phải đối diện với những việc không muốn làm, người tuổi Mùi chẳng ngại ngần từ chối, nhưng họ không phải những con người sỗ sàng, thẳng tuột, mà ngược lại rất lịch sự, kiên nhẫn, dịu dàng để việc diễn ra vừa thuận lợi cho mình, vừa đẹp lòng cho người.   Người tuổi Mùi không muốn để lộ suy nghĩ của mình ra ngoài cho người khác hiểu nên khó ai có thể hiểu hết những cảm xúc đang diễn ra trong nội tâm của họ. Thực tế tuổi Mùi rất giỏi dàn xếp tranh cãi, bất hòa và dễ tạo được không khí hòa thuận xung quanh. Người tuổi Mùi rất thích giao tiếp, những ai có thiện ý với họ đều được đối đãi tử tế.   Người tuổi Mùi cũng không thích nói thẳng, vì vậy, đôi khi cách hành xử của họ có phần không thẳng thắn, trực diện, khiến người khác cảm thấy lòng vòng, rắc rối, bực mình. Nhưng đó là bản tính của tuổi này, đừng hy vọng họ xô bồ trong thái độ, cử chỉ và đặc biệt là ngôn từ.   Những gì họ nói ra chỉ là một phần nhỏ của những gì họ nghĩ. Những ai muốn thực sự hiểu thấu người tuổi Mùi, cần phải kiên trì dành thời gian để hiểu từng chút một. Để khuyến khích người tuổi Mùi nói nhiều hơn nữa, người nghe hãy từ tốn gật đầu trong suốt cuộc trò chuyện để thể hiện sự đồng tình.   Để biết được hết những suy nghĩ, cảm nhận của người tuổi Mùi có thể mất khá nhiều thời gian. Nhưng sâu xa đằng sau sự “lòng vòng”, không thích thẳng thắn, trực diện này, chính là vì người tuổi Mùi luôn biết chừa cho mình một đường lui.   Vì tính cách mềm mỏng, hơi thiếu quả quyết nên người tuổi Mùi cần hợp tác với những người có tính cách mạnh mẽ, bởi chỉ có “kỷ luật thép”, người tuổi Mùi mới bớt sự thong dong, nhàn tản để bắt đầu tận dụng hết những khả năng của mình và làm việc thực sự chăm chỉ, hiệu quả.
Ly giai vi sao nguoi tuoi Mui thuong gap may man hinh anh 2
Ảnh minh họa
Tuổi Mùi ưa sống trong môi trường quen thuộc, gắn bó rất mật thiết với gia đình, người tuổi Mùi quan trọng đồ ăn hợp khẩu vị, ngày sinh nhật và những dịp lễ Tết, kỷ niệm… Họ thường kỷ niệm những ngày trọng đại đối với đời sống cá nhân một cách khá rình rang, theo kiểu “thích thể hiện”, bởi thực sự họ rất quan trọng những dịp này. Họ có thể sẽ cảm thấy vô cùng thất vọng nếu người mà họ coi trọng lại quên mất ngày sinh nhật của họ.   Dường như người tuổi Mùi mang trong mình nỗi buồn và sự đa cảm từ trong bản chất. Họ luôn nhìn thế giới một cách khá tiêu cực, vì vậy, họ cũng luôn mong những người xung quanh sẽ vực tinh thần họ dậy. Người tuổi này dễ bị lạc đường, dễ buồn bã, dễ đưa ra những lựa chọn sai khi đi mua sắm.   Phụ nữ trẻ tuổi Mùi đặc biệt thích xuất hiện ấn tượng trong mắt mọi người. Họ có niềm ham thích đặc biệt với thời trang. Mỗi ngày họ sẵn sàng dành nhiều giờ để làm đẹp. Họ luôn hành xử duyên dáng và nền nếp, thích trang trí nhà cửa với hoa tươi. Phụ nữ trung niên tuổi Mùi lại rất quan tâm tới vệ sinh cá nhân, luôn gọn gàng và ăn vận đẹp mắt.   Phụ nữ trẻ tuổi Mùi cũng thích thể hiện tình yêu một cách không che giấu. Họ rất tin tưởng vào người mình yêu và luôn muốn ở bên người đó từng giây từng phút. Đối với những người theo đuổi mà họ không hề có hứng thú, người tuổi Mùi sẽ chẳng mảy may bận tâm đến.   Người tuổi Mùi cũng khá mâu thuẫn, đôi khi “nói không là có, nói có là không”. Tuổi này giỏi che đậy điểm yếu bằng sự lanh trí, biết đạt được điều mình muốn đôi khi bằng những “tiểu xảo”. Khi cần thiết, người tuổi Mùi rất giỏi nhõng nhẽo, quấy rầy, cốt để đạt được thứ mình muốn. Với bản tính chân thành và điềm tĩnh, thêm vào đó là vẻ ngoài biết tỏ ra đáng thương khi cần, họ luôn biết cách thuyết phục người khác rất hiệu quả.   Người tuổi Mùi không bao giờ làm tổn thương bạn bè. Đôi khi họ có thể từ bỏ một mối quan hệ để tránh khỏi những cãi vã, xung đột đang nhen nhúm xảy ra. Người tuổi Mùi nhạy cảm và đôi khi thích tìm niềm vui trong những mơ màng, ảo tưởng hơn là những cuộc vui thực sự.   Tuổi Mùi cũng thích thu hút sự chú ý của người khác và nhận được sự tán tụng đối với năng lực bản thân. Người tuổi này rất khôn ngoan khi lựa chọn công việc để có thể tận dụng tối đa thế mạnh của họ.   Nếu không sinh trong những giờ như Thìn, Tị, Dần, người tuổi Mùi sẽ khó lòng phù hợp với những công việc đòi hỏi trách nhiệm và sự nhạy bén cao, thay vào đó, sẽ phù hợp với những công việc cho phép được làm theo ý mình, được tự do tự tại.

ST.
Hãy chọn một người tuổi Hợi để cả đời được sống trong hạnh phúc Giải mã quan hệ tam hình Dần Thân Tị Vì sao mẹ dặn không yêu người tuổi Dần?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Mùi thường gặp may mắn

Soi hình xăm, đoán trúng tính cách

Hình xăm ở vai chứng tỏ bạn là người không ngại ngần va vấp hay mắc lỗi, tính tình cũng vội vàng hấp tấp.
Soi hình xăm, đoán trúng tính cách

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Cổ

Bạn là người liều lĩnh và thích những thử thách. Bạn không quan tâm xem người khác nghĩ gì về mình, chỉ đơn giản bạn muốn làm điều gì đó hơi điên rồ một chút. 

2. Phía trong bắp tay

Bạn có vài điều thực sự muốn chia sẻ cùng những người xung quanh, nhưng không dám. Bạn hy vọng rằng hình xăm phía trong bắp tay sẽ là tín hiệu "đèn xanh" để người khác hỏi về điều bí mật ấy và bạn sẽ thành thật tiết lộ.

3. Bắp tay

hinh-xam-a-9925-1403579668.jpg

Đây là vị trí xăm mình được cho là "chuẩn men" nhất. Tuy nhiên, ý nghĩa của vị trí này lại khiến mọi người phải suy nghĩ. Bởi lẽ, nó tố cáo tỷ lệ đáng tin ở bạn không cao, thậm chí dễ phản bội bạn gái không chút luyến tiếc. 

4. Dưới lưng

Vị trí xăm mình này thích hợp với phái nữ hơn. Hầu hết những cô gái xăm mình ở dưới lưng đều mang chút bí hiểm và rất quyến rũ. Ngoài ra, đó là một cô gái có tính cách khá "gai góc", sẽ phải mất thời gian khá dài mới khám phá được hết con người cô gái ấy.

5. Vai

Bạn không ngại ngần va vấp hay mắc lỗi, tính tình cũng có chút vội vàng hấp tấp. Thế nhưng khi chuyện sai sót xảy ra, bạn vờ như không biết. Đó là lý do giải thích vì sao bảng thành tích học tập của bạn không quá xuất sắc.

6. Cạnh sườn, dưới ngực

bst-hinh-xam-chu-sieu-chat-cua-5650-8715

Nếu bạn là một cô gái có hình xăm ở quanh vòng eo, điều đó có nghĩa bạn cho rằng mình là người khác biệt, hay cáu kỉnh. Điều này càng đúng nếu đó là hình xăm về một câu nói hay lời bài hát. 

Hiếm người biết đến hình xăm này của bạn, trừ khi bạn diện một bộ bikini đi dạo biển. Nếu đã biết, thì họ không khỏi ngạc nhiên về độ "độc" của hình xăm ở vị trí đặc biệt như thế.

8. Mắt cá chân

Nếu bạn là nữ, có hình xăm cầu vồng hay hình bướm ở mắt cá chân, thì thông điệp có nghĩa "Bạn là một công chúa điệu đà". 

9. Cổ tay

hinh-xam-nho-o-co-tay-1725-1403535617.jp

Vị trí này được khá nhiều các cô gái lựa chọn. Một hình xăm nhỏ trên cổ tay cho thấy tính tình của bạn nhẹ nhàng, tinh tế. Trước những sự việc trong cuộc sống, bạn luôn có cái nhìn lạc quan và suy nghĩ thấu đáo trước khi hành động.

Mr.Bull (theo Gawker)

00-1403489294-362x0-9043-1403535617.jpg

Mức độ giàu có của bạn qua đường Thái Dương

Bạn có thể dể dàng tìm thấy đường Thái Dương của mình, chính là đường chỉ từ gốc ngón áp út kéo thẳng xuống.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Soi hình xăm, đoán trúng tính cách

Sự tích thần tài (P1)

Sự tích về Thần Tài thì có rất nhiều truyền thuyết, mọi người ai cũng biết. Hiện nay, trong phong tục thờ Thần Tài và cúng Thần Tài vào ngày mùng 10 tháng giêng âm lịch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sự tích về Thần Tài thì có rất nhiều truyền thuyết, mọi người ai cũng biết. Tuy nhiên hiện nay, trong phong tục thờ Thần Tài và cúng Thần Tài vào ngày mùng 10 tháng giêng âm lịch hoặc vào ngày mùng 10 âm lịch hằng tháng, là theo sự tích sau, để các bạn tham khảo:

Chuyện kể rằng dưới trần gian không có Thần Tài, chỉ có Thần Tài trên trời, vị Thần cai quản tiền bạc, tài lộc.

Trong một lần đi chơi uống rượu, Thần Tài say quá nên rơi xuống trần gian, đầu va vào đá nằm mê mệt không biết gì, sáng ra mọi người thấy một người ăn mặc giống như diễn tuồng cải lương thì lấy làm lạ và tưởng bị điên.

sự tích thần tài và ngày vía thần tài mùng 10 tháng Giêng âm lịch

Mọi người cũng lột hết sạch quần áo mũ nón của Thần Tài đem bán, Thần Tài tỉnh dậy không có quần áo trên người và cùng do bị va đầu vào đá nên không nhớ mình là ai.

Thần Tài không biết làm việc dưới trần gian nên thường đi lang thang xin ăn khắp nơi. Có cửa hàng nhà kia kinh doanh buôn bán gà, vịt, heo quay ế ẩm, thấy Thần Tài đến ăn xin thì mời vào ăn.

Thần Tài ăn rất nhiều và rất thích ăn heo vịt quay, kỳ lạ thay từ lúc Thần Tài vào ăn thì khách ăn khác kéo đến nườm nượp, người bán hàng thấy vậy nên ngày nào cũng mời Thần Tài vào ăn.

Khách hàng ở quán đối diện trước nay rất đông khách bỗng dưng chuyển hết qua quán bên này ăn.

Được một thời gian người bán hàng thấy Thần Tài chẳng làm gì mà suốt ngày ăn uống đồ ăn ngon, lại toàn dùng tay ăn bốc, người thì bốc mùi, lang thang không tắm giặt.

Nghĩ Thần Tài sẽ làm khách sợ không dám đến ăn và hao phí đồ ăn cho người ăn mày nên người bán hàng mới đuổi Thần Tài đi.

Quán đối diện ngày xưa rất đông khách nay vắng hoe, thấy vậy thì liền mời Thần Tài vào ăn, kỳ lạ thay mọi người lại ùn ùn kéo đến ăn rất đông.

Mọi người thấy vậy nên ai cũng giành mời cho bằng được Thần Tài đến hàng quán của mình ăn để khách đến đông, vậy nên mới có câu “Thần Tài gõ cửa”.

Người dân khu vực đó thấy Thần Tài không có quần áo mặc nên dẫn đi mua quần áo, mọi người dẫn Thần Tài đến cửa hàng nơi quần áo ông bị bán, sau khi mặc quần áo mũ nón vào thì Thần Tài nhớ lại mọi chuyện và bay về trời.

Mọi người coi Thần Tài như là báu vật và lập bàn thờ, tôn thờ từ đó, hóa thân Thần Tài là một người lang thang ăn xin quần áo rách rưới. Ngày Thần Tài bay về trời là ngày mùng 10 tháng giêng âm lịch.

Ngày vía của Thần Tài

Để tưởng nhớ Thần Tài, mọi người chọn ngày vía Thần Tài là ngày Thần Tài bay về trời: Ngày mùng 10 tháng giêng âm lịch.

Ngày vía của Thần Tài mọi người thường mua : 1 bình bông, 1 con tôm, 1 con cá lóc nướng, 1 con cua, 1 miếng heo quay, 1 bộ giấy tiền vàng mã, 1 đĩa quả, chum rượu, để cúng lấy vía Thần Tài, cầu xin cho năm mới làm ăn phát đạt.

Ngoài ngày vía chính của Thần Tài là ngày mùng 10 tháng giêng âm lịch. Nhưng mọi người vẫn chọn ngày mùng 10 âm lịch hằng tháng để cúng Thần Tài, cầu xin cho may mắn về tài lộc trong tháng đó, nên trở thành thông lệ.

Thông thường thì vào ngày mùng 1 và ngày 15 âm lịch, cùng với bàn thờ Tổ tiên và các bàn thờ khác trong nhà, hoặc vào ngày mùng 10 âm lịch hàng tháng. Cúng Thần Tài để trả lễ khi gặp vận hên tài lộc.

Đồ cúng thường là các món ăn ngon như heo vịt quay, gà, hoa quả, nước uống hàng ngày… Dân gian truyền miệng Thần Tài rất thích món Cua biển và heo quay, chuối chín vàng.

Thường ngày nên đốt nhang mỗi sáng từ 6h - 7h và chiều tối từ 6h - 7 giờ, mỗi lần đốt 5 cây nhang. Thay nước uống khi đốt nhang, thay nước trong lọ hoa, và chưng thờ nải chuối chín vàng.

Tránh để các con vật chó mèo quậy phá làm ô uế bàn thờ Thần Tài.

Hàng tháng thường lau bàn thờ, tắm cho Thần Tài vào ngày cuối tháng và ngày 14 âm lịch với nước lá bưởi, hay rượu pha nước. Khăn lau và tắm cho Thần Tài không được dùng vào việc khác.

Thỉnh Thần Tài

Khi thỉnh tượng Thần Tài ngoài cửa hàng về cần gói bọc trong giấy đỏ, hoặc trong hộp sạch sẽ, mang vào chùa nhờ các Sư trong chùa “Chú nguyện nhập Thần”, và nhờ các Sư chọn cho ngày tốt đem về nhà để an vị Thần Tài (kể cả ông Địa cũng vậy).

Về nhà dùng nước lá bưởi rửa và đặt lên bàn thờ, mua các đồ cúng về cúng khấn là được, lần sau cúng vái bình thường.

Sự tích Thần Tài xuất phát từ Trung Quốc. Ai muốn thờ Thần Tài đều phải thực hiện như trên, Thần Tài mới có linh khí, nếu không thì cũng chỉ như bức tượng bình thường.

Khi thỉnh Thần Tài cũng có Thần Tài hợp với gia chủ, cũng có Thần Tài không hợp với gia chủ, chọn tượng Thần Tài mặt tươi cười, mặt sáng sủa, tượng không bị nứt, vỡ, nhìn tượng toát lên vẻ phú quý.

Việc cầu xin tài lộc được nhiều hay ít còn phụ thuộc vào lòng thành của gia chủ, phước đức và số vận của gia chủ.

Thần Tài không thể cho hay biếu người khác, phải tự gia chủ thỉnh về.

Đặt bàn thờ Thần Tài

Bàn thờ Thần Tài đặt dưới đất, nơi trang nghiêm hướng ra cửa chính.

Xem thêm:

Ngày vía Thần Tài sắm lễ đón tài lộc cả năm

Xem cách bài trí bàn thờ Thần Tài


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự tích thần tài (P1)

Xem tướng tay vất vả bôn ba đó đây

Tay có nhiều đường vân chằng chịt ở phần cổ tay hợp lại với nhau như dây xích, thường rất coi trọng vấn đề vật chất. Đây cũng là tướng tay vất vả
Xem tướng tay vất vả bôn ba đó đây

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Chủ nhân của tướng tay mà có nhiều đường vân chằng chịt ở phần cổ tay hợp lại với nhau như dây xích, thường rất coi trọng vấn đề vật chất, thích theo đuổi hư vinh nhưng lại do dự, bôn ba kiếm tiền mà chẳng đủ tiêu.

  1. Cổ tay nhiều đường vân chằng chịt   Chủ nhân của tướng tay mà có nhiều đường vân chằng chịt ở phần cổ tay hợp lại với nhau như dây xích, thường rất coi trọng vấn đề vật chất, thích theo đuổi hư vinh.    Người này tuy biết tính toán cẩn thận nhưng lại hay do dự, không quyết đoán vì thế thường xuyên rơi vào cảnh thu không đủ chi, phải bôn ba khắp nơi để làm việc kiếm sống, kiếm tiền miệt mài để bù vào lỗ hổng kinh tế do chính bản thân mình tạo ra.  
Xem tuong tay vat va bon ba do day hinh anh
 
2. Gò Kim tinh có vân hình lưới sâu và đậm
 
Xem tướng bàn tay nếu Gò Kim tinh nằm ở đốt xương thứ ba của ngón cái, nơi cơ thịt khá phát triển. Gò này là đại diện cho sự nhiệt tình với cuộc sống. Mức độ phát triển của nó trực tiếp phản ánh tinh lực và sức sống của một người.   Nếu trên gò này có vân hình lưới sâu, đậm và rõ nét, cho thấy bất luận sự việc lớn nhhỏ nào người này đều phải tự tay mình làm. Một mặt vì họ không dễ dàng tin tưởng người khác, mặt khác không có ai nhiệt tình giúp đỡ. Đây là một trong những đặc điểm dễ nhận thấy của tướng tay vất vả, bôn ba đó đây để lập nghiệp.   Người này luôn tự mình xử lý mọi việc nhưng do thiếu tính quy hoạch tổng thể sẽ khiến cho sự việc dường như không được tiến triển tốt, giống như đầu voi đuôi chuột, hiệu suất công việc thấp. Lúc nào cũng làm việc tất bật, vất vả nhưng đổi lại, không gặt hái được thành quả như ý muốn.

Dấu hiệu của sự không chung thủy trên bàn tay Coi tướng tay của người kết hôn muộn Nhìn tướng tay biết ngay cơ hội đi nước ngoài của bạn
3. Đường chỉ tay Vận mệnh đứt đoạn
  Đường chỉ tay vận mệnh hay còn gọi là đường cuộc đời, đường số phận. Vị trí của đường vận mệnh: bắt đầu  từ phần dưới cùng của lòng bàn tay (gần cổ tay) và di chuyển dần lên ngón tay giữa. 
 
Đường vận mệnh chỉ những điều liên quan đến sự nghiệp, công việc, những tham vọng và định hướng trong cuộc sống. Đường này gián đoạn, không thẳng, đứt đoạn, hình dạng không theo quy tắc, cho thấy chủ nhân làm việc gì cũng đại khái qua loa, không có cách nào làm việc tới nơi tới chốn, luôn xảy ra tình trạng bỏ cuộc giữa chừng, vận thế cuộc đời cũng do đó mà bị những ảnh hưỏng nhất định.
 
Xem tuong tay vat va bon ba do day hinh anh
 
4. Đầu ngón tay có rất nhiều đường vân thẳng
 
Đầu các ngón tay (trừ ngón tay cái) có nhiều đường vân thẳng, cho thấy chủ nhân phải lao tâm khổ tứ, làm việc cật lực nhưng thu lại ít thành quả. Bản thân người này nhìn nhận sự việc bằng con mắt rất nông cạn. Chỉ có thể nhìn thây lợi ích trước mắt, cả đời liều mạng theo đuổi, cuối đời cuộc sống khá vất vả, khó nhọc.

5. Đường Công danh nhiều nhưng có đường phân nhánh   Trong lòng bàn tay, đường Công danh là một đường vân dài song song với đường chỉ tay Định mệnh, đường này xuất phát từ ngón áp út và có thể kéo dài xuống tận đáy lòng bàn tay.
 
Đường Công danh cho biết mức độ thành công trong sự nghiệp của mỗi người, biểu thị người đó gặt hái được những thành công gì cho sự nỗ lực, đóng góp của mình. 
 
Nếu trên đường Công danh có rất nhiều đường phân nhánh nhỏ kéo dài ra, biểu thị chủ nhân người rất rộng rãi, ham học hỏi, chịu tiếp thu tri thức ở các lĩnh vực khác nhau. Nhược điểm của họ là thiếu tính nhẫn nại, hầu như là không kiên trì được đến cuối cùng, do đó họ khó mà đạt được kết quả thực sự, trải qua không ít lần thất bại mới có thể tiến tới thành công.
 
Hoàng Lam  
Tướng tay người có năng lực sáng tạo thần kì có gì đặc biệt
So với người thường, đặc điểm tướng tay của người có năng lực sáng tạo thần kì có những đặc điểm nổi bật dưới đây.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng tay vất vả bôn ba đó đây

Sao Tấu Thư

Hành: Kim Loại: Văn Tinh Đặc Tính: Bằng sắc, ấn tín, đơn từ Phụ tinh. Sao thứ 6 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác...
Sao Tấu Thư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: KimLoại: Văn TinhĐặc Tính: Bằng sắc, ấn tín, đơn từ
Phụ tinh. Sao thứ 6 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ.

Ý Nghĩa Tấu Thư Ở Cung Mệnh

  • Sao Tấu Thư ở Mệnh là người có năng khiếu, có tài, tướng mạo sang trọng, quý phái, có cốt cách, có văn chất thanh cao, tâm hồn hướng thượng.
  • Cùng các sao Thiên Quan, Thiên Phúc, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Thiên Khôi, Thiên Việt, thì làm nên sự nghiệp lớn.
  • Gặp sao Văn Xương, Văn Khúc, lời nói khéo léo, dễ thu hút, thuyết phục được người khác, tế nhị. Gặp sao Lưu Hà, vừa ăn nói lưu loát, vừa thanh cao.
  • Gặp sao Phượng Các, người thính tai. Gặp sao Long Trì, thính mũi, khiếu giác sắc bén. Gặp sao Thái Âm, Thái Dương, mắt sáng.
  • Gặp sao Thái Tuế, nói lên tài hùng biện của trạng sư, thẩm phán, luật gia, chính trị gia, giáo sư...


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Tấu Thư

Tình duyên người tuổi Dậu và người tuổi Dậu năm 2014 –

Dậu/Dậu - Sự ghép đôi khó khăn Thoạt nhìn, có thể cho rằng Dậu Dậu rất đẹp đôi. Còn gì hơn khi hai người cùng cá tính và hiểu được khát vọng của nhau. Đáng tiếc, không phải bao giờ hai cá tính đồng điệu cũng có thể chung sống hạnh phúc. Trên thực tế,
Tình duyên người tuổi Dậu và người tuổi Dậu năm 2014 –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dậu/Dậu – Sự ghép đôi khó khăn

dau-dau.jpg
Thoạt nhìn, có thể cho rằng Dậu Dậu rất đẹp đôi. Còn gì hơn khi hai người cùng cá tính và hiểu được khát vọng của nhau. Đáng tiếc, không phải bao giờ hai cá tính đồng điệu cũng có thể chung sống hạnh phúc. Trên thực tế, Dậu thích coi mình là trung tâm và khá kiêu ngạo. Con giáp này bướng bỉnh và máy móc. Kết quả là khi hai Dậu ở bên nhau, những ngưỡng mộ và sức hấp dẫn ban đầu sẽ biến thành buồn chán và khó chịu. Dậu là con giáp âm, thuộc hành Kim. Hai Dậu ở bên nhau mang lại quá nhiều năng lượng Kim, làm cứng rắn thêm cá tính của mỗi người, gây hại cho quan hệ. Năm nay Dậu bị suy yếu về Sinh lực và Tinh thần; trong mối quan hệ Dậu Dậu, chẳng ai đủ mạnh để làm nhiệm vụ dẫn dắt. Hành Kim góp phần tạo nên cá tính khó uốn của Dậu. Tuy nhiên, năm 2014, năng lượng tốt lành của sao Thiên vận #6 khiến Dậu trở nên dễ tính hơn một cách khác thường. Sẽ bớt hẳn những lời càu nhàu, gia tăng sự nhượng bộ, kết quả là rất ít cãi lộn. Cái Tôi vĩ đại của Dậu nhẹ đi rất nhiều. Dường như con giáp này đã nhận ra giá trị của sự nhẫn nại, nếu thêm vào chút khả năng ngoại giao, cặp Dậu Dậu có thể tìm thấy hạnh phúc và ổn định trong quan hệ tình cảm. Một điều may mắn nữa là sự kết hợp của sao Vận số 1 và sao Năm số 6 trong cung của Dậu tạo nên tổ hợp Hà Đồ 1/6, mang tới vận may trí tuệ sáng suốt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình duyên người tuổi Dậu và người tuổi Dậu năm 2014 –

Chọn đất đặt mộ giúp con cháu tránh họa

Phong thủy âm trạch liên quan nhiều tới bần phú quý tiện, hậu vận của gia đình và dòng họ. ## xin cung cấp hung cát 8 hướng khi chọn đất đặt mộ để
Chọn đất đặt mộ giúp con cháu tránh họa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

bạn đọc tham khảo.


Chon dat dat mo giup con chau tranh hoa hinh anh
 
Phong thủy âm trạch vốn sâu xa và có nhiều quan hệ tới hạnh phúc, bình an của những người trong nhà. Do đặc thù, tính chất, âm trạch có thể tạo ra những ảnh hưởng phong thủy mà con người không thể lường trước được. Người xưa có câu, “người chết là chuyện lớn, xuống mồ mới bình an” là vì như vậy.   8 hướng có điểm hung và điểm cát riêng, cần lưu ý lựa cát tránh hung khi chọn đất đặt mộ. Vị trí mộ mà gần đường xoay về 8 hướng thì có những điểm đặc biệt sau.   Mộ phần mà hướng Cấn có đường, khoảng 5m về hai phía trái phải thì con cháu xảy ra cường đạo, trở thành kẻ trộm, Đường lớn thì sinh ra thổ phỉ, đường nhỏ thì sinh ra trộm vặt, con gái yêu đương vụng trộm. Đất đặt mộ này trai thì làm cướp, gái thì phong trần.   Mộ phần mà hướng Khảm có con đường nhỏ, nói trước sau thông nhau thì trong nhà liên tục gặp hung, nhà bị hao tổn, nuôi gia súc mau chết. Khảm cung chiếu thẳng ra đường thì có yêu vong, đường nhiều nhánh thì càng bi thương, có người thắt cổ, tự vẫn khi còn trẻ hoặc có người tha phương khất thực.   Chọn huyệt cát, yên âm trạch
Theo quan niệm của người phương Đông, âm trạch là yếu tố quan trọng tác động đến đời sống. Linh hồn người chết có yên ổn thì con cháu mới thịnh vượng, được

Càn hướng có đường nhiều nhánh xiên vào đất đặt mộ phần thì nhà có người treo cổ. Nếu đường không nhiều nhánh thì trong nhà có người què hoặc gãy chân.
  Hướng Đoài có đường đâm thẳng vào mộ phần thì trong nhà liên tiếp xuất hiện con gái bị đột tử, nếu đường càng rộng thì nữ nhân trong nhà càng bị hao tổn, gọi là đoản kiếm lộ.    Hướng khôn có đường bắn thẳng tới phần mộ thì đời sau có con gái bị đột tử. Nếu đường hình cong thì trong nhà đề phong người phụ nữ lớn tuổi, còn xuất hiện con gái không đứng đắn, tính dâm đãng, phá hoại gia phong.   Phương Ly có đường xa thấp thoáng là phòng ngoài lộ, trong nhà xuất hiện con gái đào hôn, người nam lấy vợ phương xa. Nếu đường có nhiều ngã rẽ thì con trai trong nhà mỗi người một ngã làm ăn.   Phương Tốn có đường, đối với trưởng nữ bất lợi, nếu là đường xấu, nhỏ thì không may mắn với con trai giữa. Sách xưa có viết, phương Tốn chính Đông có đường thì con trai lạnh lùng, không sớm qua đời cũng không lấy vợ, cả đời trăm sự vất vả, không thu được gì.   Phương Chấn có đường, như đao kiếm hình thứ hướng phần mộ, trung nam bị hao tổn. Nếu đường hẹp thì tử vong nhiều hơn, xảy ra việc uống thuốc độc, thắt cổ tự sát. Chấn phương cung quẻ Thiên Lôi cầm chùy, nhiều hung hiểm, hại cho con trai giữa.  
► Xem phong thủy theo ngũ hành để rước lành tránh dữ

Trần Hồng

Clip Hướng dẫn cách cầu nguyện được như ý
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn đất đặt mộ giúp con cháu tránh họa

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd