Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Bạn có thể gặp xui xẻo nếu để những thứ này trong nhà

Dưới đây là danh sách 8 món đồ các chuyên gia phong thủy khuyên không nên để trong nhà bởi chúng có thể gây xui xẻo và đem âm khí đến cho gia đình.
Bạn có thể gặp xui xẻo nếu để những thứ này trong nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Đồng hồ hỏng

ban-co-the-gap-xui-xeo-neu-de-nhung-thu-nay-trong-nha

Đồng hồ cũ và hỏng, hoặc bị vỡ là báo hiệu của chết chóc, có thể mang Tử thần đến với bất cứ thành viên nào trong gia đình. 

2. Cửa màu đen

ban-co-the-gap-xui-xeo-neu-de-nhung-thu-nay-trong-nha-1

Trừ trường hợp cửa chính nhà bạn quay mặt về hướng Bắc, ngoài ra tuyệt đối không sơn cửa màu đen. Theo phong thủy, cửa màu đen có thể mời gọi các thế lực hắc ám đi vào trong nhà mình một cách danh chính ngôn thuận, mang đến xui xẻo cho gia chủ.

3. Gương vỡ

ban-co-the-gap-xui-xeo-neu-de-nhung-thu-nay-trong-nha-2

Từ lâu trong quan niệm dân gian, gương vỡ luôn là điềm gở, cần phải tránh xa. Nếu lỡ tay làm vỡ gương, đừng tiện tay vứt ra đường, hãy gói vào một túi giấy bóng, mang đi cách xa nhà, chôn xuống dưới lòng đất, như vậy điềm gở mới được hóa giải triệt để.

4. Lịch cũ

ban-co-the-gap-xui-xeo-neu-de-nhung-thu-nay-trong-nha-3

Lịch từ những năm trước, không còn sử dụng nên vứt đi, tránh để trong nhà, làm vương âm khí. Lịch vốn là thứ nhắc nhở con người về dòng chảy thời gian, để lịch cũ ghi ngày tháng sai lệch so với hiện tại thì chỉ khiến cuộc sống của gia chủ và người thân bị ảnh hưởng tiêu cực, có khả năng làm giảm tuổi thọ của người sở hữu.

5. Đồ sứ vỡ

ban-co-the-gap-xui-xeo-neu-de-nhung-thu-nay-trong-nha-4

Đồ sứ vỡ cũng là một lời cảnh cáo đến gia chủ rằng thất bại và rắc rối có thể sẽ tìm đến bạn. Để đề phòng bất trắc xảy ra, thực hiện tương tự như với trường hợp gương vỡ. 

6. Cây có nhiều gai

ban-co-the-gap-xui-xeo-neu-de-nhung-thu-nay-trong-nha-5

Theo các chuyên gia phong thủy, các loại cây nhiều gai nhọn như xương rồng tích tụ nhiều âm khí, có thể đem đến tai họa cho gia chủ nếu đặt trong nhà

7. Cây chết

ban-co-the-gap-xui-xeo-neu-de-nhung-thu-nay-trong-nha-6

Nếu trong nhà có cây chết thì nên vứt đi, ngay cả hoa khô, héo cũng tuyệt đối không đặt trong nhà.

8. Ghế bập bênh không dùng đến

ban-co-the-gap-xui-xeo-neu-de-nhung-thu-nay-trong-nha-7

Rất nhiều chuyên gia phong thủy phương Tây khuyên các hộ gia đình đừng nên giữ lại những chiếc ghế bập bênh cũ bởi chúng có thể thu hút tà ma, mang đến tang tóc và gây xích mích cho các thành viên trong nhà.

Alexandra V (theo HB)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn có thể gặp xui xẻo nếu để những thứ này trong nhà

Hộp sọ pha lê - chìa khóa khám phá bí mật người ngoài hành tinh

Hộp sọ pha lê mang trong mình câu chuyện huyền bí về thế giới tâm linh mà chưa ai giải mã được. Bản thân cấu tạo kì lạ của chúng cùng năng lực phi thường mà
Hộp sọ pha lê - chìa khóa khám phá bí mật người ngoài hành tinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hộp sọ pha lê mang trong mình câu chuyện huyền bí về tâm linh mà chưa ai giải mã được. Bản thân cấu tạo kì lạ của chúng cùng năng lực phi thường mà người đời gắn cho đã đủ tạo thành một truyền thuyết.


► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về giải mã giấc mơ và thế giới tâm linh huyền bí có thật?

Hop so pha le - chia khoa kham pha bi mat nguoi ngoai hanh tinh hinh anh
 
Đây là những hộp sọ được cấu tạo trong suốt như pha lê, không phải là sản phẩm có từ tái tạo hay khuôn đúc hiện nay. Tất cả 13 hộp sọ pha lê nằm rải rác trên thế giới, được truyền lại ít nhất từ thời văn minh Maya.
 
Người ta cho rằng một khi 13 hộp sọ pha lê này có cơ hội quy tụ lại với nhau, nhân loại sẽ xảy ra chuyện lớn, hoặc chúng chứa đựng bí mật to lớn nào đó, chờ đời thời cơ hoặc một người nào đó đến để mở tung cánh cửa này ra.
 
Truyền thuyết kể rằng, trước đây rất lâu, có đến tận 12 chủng tộc người ngoài hành tinh sống trên địa cầu, nhưng vì biến cố nào đó đều không thể lưu lại đây. Mỗi chủng tộc đều lưu lại tri thức của mình vào một hộp sọ, và hộp sọ thứ 13 là chìa khóa để liên kết mở ra bí mật này.
 
Những ai từng sở hữu một trong các hộp sọ pha lê đều cho biết, họ có những trải nghiệm lạ thường không thể diễn đạt bằng lời, các hộp sọ có thể trò chuyện thông qua truyền đạt tư duy, chữa lành bệnh và chứa đựng bí quyềt kéo dài tuổi thọ.
 
Hiện tại, thế giới vẫn chưa có lời giải cho những hộp sọ pha lê huyền bí này, nhưng chắc một điều rằng, chúng không phải thuộc nền văn minh chúng ta, chúng thuộc về một nguồn gốc, một sinh vật hay một nền văn minh khác mà con người chưa từng biết tới.
ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hộp sọ pha lê - chìa khóa khám phá bí mật người ngoài hành tinh

Nghề nào thích hợp để thành công của 12 chòm sao –

Kim Ngưu thích hợp làm giáo viên, kế toán, hay đầu bếp. Song Ngư thích hợp làm nghệ sĩ, bác sĩ... Những chòm sao khác thì sao? bạn đang tò mò điều đó. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nghề nào thích hợp để thành công của 12 chòm sao ngay trong bài viết dư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kim Ngưu thích hợp làm giáo viên, kế toán, hay đầu bếp. Song Ngư thích hợp làm nghệ sĩ, bác sĩ… Những chòm sao khác thì sao? bạn đang tò mò điều đó. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nghề nào thích hợp để thành công của 12 chòm sao ngay trong bài viết dưới đây.

Nội dung

  • 1 Nghề nào thích hợp để thành công của 12 chòm sao
    • 1.1 Bạch Dương (21/3 – 19/4)
    • 1.2 Kim Ngưu (20/4 – 20/5)
    • 1.3 Song Tử (21/5 – 21/6)
    • 1.4 Cự Giải (22/6 – 22/7)
    • 1.5 Sư Tử (23/7 – 22/8)
    • 1.6 Xử Nữ (23/8 – 22/9)
    • 1.7 Thiên Bình (23/9 – 23/10)
    • 1.8 Thiên Yết (24/10 – 21/11)
    • 1.9 Nhân Mã (22/11 – 21/12)
    • 1.10 Ma Kết (22/12 – 19/1)
    • 1.11 Bảo Bình (20/1 – 18/2)
    • 1.12 Song Ngư (19/2 – 20/3)

Nghề nào thích hợp để thành công của 12 chòm sao

1-4153-1400298534

Bạch Dương (21/3 – 19/4)

Bạch Dương là cung dẫn đầu nhóm Lửa với tính cách tự tin, năng động. Họ là người luôn vươn lên để giành lấy chiến thắng trong mọi hoàn cảnh, không thích bị người khác kiểm soát, kiềm hãm. Chính vì những tính cách này, Bạch Dương thường làm lãnh đạo- một người sếp tự tin là đây.
Công việc phù hợp: doanh nhân, nha sĩ, bác sĩ, vận động viên, lính cứu hỏa và các công việc liên quan đến máy móc, cơ khí.

Kim Ngưu (20/4 – 20/5)

Kim Ngưu là người thực tế và có khả năng làm việc nhóm tốt, họ là những người có ý chí mạnh mẽ, dẫn dắt, tạo cảm hứng cho người khác. Hơn nữa, Kim Ngưu còn là những người hiểu biết sâu rộng, có thể giỏi ở mọi lĩnh vực, từ nghệ thuật cho đến kinh doanh. Dù luôn là người vui vẻ, dễ chịu, họ vẫn khá cứng đầu, khó thuyết phục.
Công việc phù hợp: kế toán, nhân viên ngân hàng, nghệ sĩ, nhạc sĩ và thậm chí là cả người làm vườn.

Song Tử (21/5 – 21/6)

Song Tử là người hoạt ngôn và có nhiều ý tưởng trong công việc. Họ không những nhanh chóng có được mối quan hệ mà còn giữ mối quan hệ rất tốt. Hơn hết, Song Tử lại là người thích được chia sẻ với người khác, biết tạo niềm vui cho công việc của mình.
Công việc phù hợp: nhà thám hiểm, quan hệ công chúng, nhà văn, thương gia hay dịch giả.

Cự Giải (22/6 – 22/7)

Cự Giải được xem là một tay làm việc cừ khôi, mọi vấn đề sẽ nhanh chóng được họ giải quyết nhanh gọn. Cự Giải nắm bắt thị trường kinh doanh khá tốt, họ luôn biết cách để sắp xếp ổn thỏa cho đối tác đôi bên. Tuy vậy, Cự Giải cũng là một tay hài hước, nhạy cảm và biết quan tâm chia sẻ.
Công việc phù hợp: Bác sĩ, dược sĩ, giáo viên, nhà nghiên cứu dinh dưỡng, đầu bếp hoặc nhà môi giới là những công việc thích hợp với họ.

Sư Tử (23/7 – 22/8)

Sư Tử được xem là trung tâm của vũ trụ (hay ít ra là Sư Tử nghĩ vậy), Sư Tử luôn đề cao giá trị bản thân và luôn phấn đấu làm việc để công việc luôn hiệu quả, xứng đáng với “thương hiệu” của họ. Sư Tử có thể là người chấp nhận mạo hiểm để có thể hoàn thành công việc tốt nhất. Vì vậy có thể nói, không có công việc nào mà Sư Tử không giải quyết được. Hơn nữa, họ luôn tích cực và lạc quan, vui vẻ với mọi người.
Công việc phù hợp: nhà quản lý, giáo viên, kiến trúc sư, nhà phát minh, vận động viên và các lãnh đạo.

Xử Nữ (23/8 – 22/9)

Xử Nữ là người kỹ tính, ngăn nắp, có trách nhiệm với những nhiệm vụ mình được giao. Họ độc lập và luôn thích hành động riêng lẻ. Như người bạn Kim Ngưu cùng nhóm, Xử Nữ là người thực tế và sống có mục tiêu chi tiết, rõ ràng. Họ biết cách giải quyết vấn đề, sáng suốt và tinh tường để luôn thành công.
Công việc phù hợp: chuyên gia dinh dưỡng, bác sĩ, nhà hóa học, nhà quản lý, doanh nhân, điều tra viên hoặc là cả nhà nghiên cứu sinh dưỡng.

Thiên Bình (23/9 – 23/10)

Thiên Bình là một con người công bằng, họ luôn biết cách hoàn thành nhiệm vụ thật đúng đắn. Họ thích sự bình đẳng trong một tập thể, vì thế khi làm lãnh đạo, Thiên Bình sẽ luôn cư xử chan hòa với mọi người để thành phẩm có thể xứng đáng nhất.
Thiên Bình hòa đồng và giàu ý tưởng, họ giỏi giao tiếp và thân thiện với mọi người. Vì thế, mọi người đều cảm thấy thoải mái khi Thiên Bình ở cạnh.
Công việc phù hợp: nhà ngoại giao, nhà quan hệ công chúng, thẩm phán, chuyên gia tư vấn, nhà tâm lý học và nghệ sĩ.

Thiên Yết (24/10 – 21/11)

Thiên Yết rất sẵn lòng giúp cho những người cần sự giúp đỡ, họ luôn mang đến nguồn hy vọng cho mọi người. Họ có trách nhiệm và luôn tập trung ý chí, năng lực để hoàn thành công việc được giao. Hơn nữa, họ lại có sức chịu đựng và quyết tâm lớn. Thiên Yết cũng là người khéo léo, nghĩ nhiều, nói khi cần thiết. Tuy nhiên, họ lại là người có khá ít kiên nhẫn.
Công việc phù hợp: Bác sĩ, nhà điều tra, nhà quản lý, kỹ sư, nhà khám phá hàng hải và thám tử tư.

Nhân Mã (22/11 – 21/12)

Nhân Mã là người tận tâm với công việc, hòa đồng, vui tính. Nỗ lực hết mình là mục tiêu mà họ luôn đề ra trong công việc. Cũng như Kim Ngưu, Nhân Mã làm việc nhóm khá tốt. Nhân Mã cũng là người lạc quan, tin vào tương lai tươi đẹp. Họ là người có chính kiến và ít khi bị người khác ảnh hưởng.
Công việc phù hợp: thương nhân, du lịch, nhiếp ảnh gia, nhà thám hiểm, giáo sư hay thậm chí là các đại sứ.

Ma Kết (22/12 – 19/1)

Ma Kết là người thiết thực nhưng hơi bảo thủ, họ chăm chỉ và kiên nhẫn vô cùng. Những người thuộc cung này luôn hiểu nhiệm vụ mình cần làm là gì và có trách nhiệm với nó. Họ làm việc độc lập và biết hi sinh vì đồng đội. Ma Kết là người sống có nguyên tắc, trật tự và yêu cầu sự tôn trọng lẫn nhau.
Công việc phù hợp: Chuyên gia máy tính, nhà quản lý, điều hành, quản trị viên và kỹ sư.

Bảo Bình (20/1 – 18/2)

Bảo Bình là người tốt bụng và hòa đồng, có nhiều bạn bè bên cạnh. Họ khá duy tâm và tin vào trực giác. Họ thích làm từ thiện và giúp đỡ mọi người. Tuy nhiên, Bảo Bình không hề yếu đuối mà luôn thích giải quyết những khó khăn thử thách. Họ luôn trau dồi phẩm chất và kỹ năng để hoàn thiện mình. Bảo Bình là người có khả năng xóa bỏ lằn ranh giữa công việc và vui chơi, vì thế họ luôn thoải mái và giàu sáng tạo, chẳng biết chán là gì.
Công việc phù hợp: nhà văn, nhà khoa học, chính trị gia, phi hành gia, nghệ sĩ và nhà chiêm tinh học.

Song Ngư (19/2 – 20/3)

Song Ngư là người có nhiều mơ ước, hoài bão. Họ thường làm những gì họ thấy tốt cho mình. Họ thường suy nghĩ là lý tưởng hóa mọi việc. Trực giác của họ cũng khá tốt, họ thích yêu thương và luôn tự kiểm soát cuộc sống theo ý mình. Họ hay cảm thông và thích giúp đỡ người khác.
Công việc phù hợp: nghệ sĩ, bác sĩ, nhà sinh vật học, nhạc sĩ, nhà tâm lý học.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nghề nào thích hợp để thành công của 12 chòm sao –

Con số may mắn và màu sắc phù hợp 12 con giáp năm 2016

Cùng 12 con giáp điểm danh những đặc điểm nổi bật trong năm 2016 những màu sắc phù hợp và con số mang lại may mắn. 1. Tuổi Tý Màu sắc may mắn là các màu: Đen, trắng, xám. Con số may mắn: 1, 6.
Con số may mắn và màu sắc phù hợp 12 con giáp năm 2016

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!

Cùng 12 con giáp điểm danh những đặc điểm nổi bật trong năm 2016 những màu sắc phù hợp và con số mang lại may mắn.

1. Tuổi Tý
Người tuổi Tý sinh vào năm 1936, 1948, 1960, 1973, 1985, 1997, 2009. cho thấy năm Bính Thân khá tốt cho người tuổi Tý, dù họ kiếm tiền bằng cách nào cũng thu được kết quả tốt đẹp, song chớ tham lam vô độ. Kết quả chung cuộc thì tốt nhưng có một điều không trọn vẹn về mặt tài lộc, người tuổi Tý vào năm Bính Thân có sao xấu "Tiểu Hao" xuất hiện vào giữa cung Mệnh, điều này dự báo tiền của vào nhiều song ra cũng không ít, bởi vậy, khó mà tích luỹ nhiều. Có thể thấy, người tuổi Tý năm 2016 nên thận trọng trong quản lý tài chính, hạn chế xa hoa lãng phí.

Màu sắc may mắn là các màu: Đen, trắng, xám.

Con số may mắn: 1, 6.

2. Tuổi Sửu

Theo tử vi 2016 những người tuổi Sửu sinh vào năm 1937, 1949, 1961, 1972, 1984, 1996, 2008. Người tuổi Sửu sang năm 2016 sẽ luôn hưởng thụ được mặt tích cực của cuộc sống. Trong năm luôn cảm thấy tự tại, thoải mái, dù những thứ có thể là nhỏ nhặt với người khác nhưng cũng có thể làm bạn vui cả ngày. Còn khi gặp chuyện phiền nhiễu, kể cả những áp lực lớn, bạn cũng chẳng để trong lòng. Nói chung, năm nay với bạn mọi chuyện diễn ra suôn sẻ, chậm rãi, dù bận rộn đến đâu bạn cũng tạo ra niềm vui trong công việc, tình cảm, không để bản thân bị lao lực. Dù vậy cũng đừng nên ham vui mà quên mất mục tiêu phấn đấu của mình.

Màu sắc may mắn là các màu: Vàng, kem, bạc.

Con số may mắn :2, 7.

3. Tuổi Dần

Người tuổi Dần là những tuối sinh vào năm 1938, 1950, 1962, 1974, 1986, 1998, 2010. Do ảnh hưởng của trường khí năm 2016, cho thấy đây là một năm hưởng thụ của bạn. Mọi việc đến với bạn đều rất nhẹ nhàng, tự tại, hầu như không có gì làm bạn cảm thấy phiền nhiễu. Xét tổng thể, đây là năm khá thuận lợi, không phải chịu vất vả. Tuy vậy bạn cũng không nên vì thế mà ỷ lại, bỏ mất cơ hội của mình.

Màu sắc may mắn là các màu: Xanh lá, xanh dương, đen.

Con số may mắn: 3, 8.

4.Tuổi Mão

Theo tử vi 2016 những người tuổi Mão sinh vào các năm 1939, 1951, 1963, 1975, 1987, 1999, 2011. Trong năm 2016 khả năng trực giác và năng lực biểu đạt của người tuổi Mão khá nhạy bén, bạn trở nên nói nhiều hơn, trình bày mạch lạc rõ ràng hơn quan điểm của mình. Mặt khác, điều đó làm cho bạn thích trêu chọc mọi người, nhưng cũng hay bất mãn, thích thể hiện quan điểm của mình.

Màu sắc may mắn là các màu : Xanh lá, tím, hồng.

Con số may mắn: 1, 8.

5. Tuổi Thìn

Người tuổi Thìn sinh vào năm 1940, 1952, 1964, 1976, 1988, 2000, 2012. Vào năm 2016 người tuổi Thìn có nguồn năng lượng mạnh mẽ và hoạt bát, giúp bạn dám đối diện với các thách thức và nắm lấy cơ hội. Làm gì cũng nghĩ một cách tích cực nhất, rất ít khi bi quan, tuyệt vọng. Năm nay bạn như "biến mình", biết thích ứng với hoàn cảnh, làm việc nhanh nhẹn, quyết đoán. Giao tiếp xã hội cũng nhiều hơn, nếu không có ai tìm mình thì các bạn cũng chủ động ra ngoài tìm gặp mọi người.

Màu sắc may mắn là các màu: Hồng, cam, vàng.

Con số may mắn: 0, 4.

6. Tuổi Tỵ

Tuổi Tỵ là những người sinh vào năm 1941, 1953, 1965, 1977, 1989, 2001, 2013. Vào năm 2016 do tác động của trường khí trong năm mà người tuổi Tỵ dễ tin người, hay phân tích phán đoán sự vật hiện tượng theo cảm tính, đó cũng là lý do làm tâm tư tình cảm của bạn không được tốt trong năm. Có nghĩa là, tâm tư của bạn thay đổi thất thường, vui buồn khó lường, do đó mà cũng dễ mệt mỏi cáu gắt, ảnh hưởng xấu đến công việc, xử lý vấn đề không nhanh nhạy như trước, nhất là chuyện tình cảm. Vì thế, khi buồn chán mệt mỏi tốt nhất không nên làm hay quyết định những việc hệ trọng, cũng như ca thán chỉ trích mọi người. Nên nhanh chóng tìm cách thoát khỏi hay phá tan tâm lý cũng như môi trường u ám xung quanh.

Màu sắc may mắn là các màu : Màu da, hồng, xanh lá.

Con số may mắn: 2, 7.

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>

7. Tuổi Ngọ

Người tuổi Ngọ sinh vào năm 1942, 1954, 1966, 1978, 1990, 2002, 2014. Vào năm 2016 người tuổi Ngọ luôn muốn mình thành tiêu điểm, nên rất coi trọng những nơi đông người, thích được khen ngợi, thích đứng đầu. Chỉ cần mọi người quan tâm, coi trọng họ sẽ thể hiện hết mình, kể cả làm việc vất vả đến đâu. Do đó người tuổi Ngọ sẽ không muốn người khác thấy điểm yếu của mình, và cũng sẽ không nhận lỗi dù biết là sai. Việc "thà chết cũng phải giữ thể diện", nếu thêm giao tiếp kém thì các bạn sẽ dễ bị coi là cố chấp, ngoan cố, khó gần,...

Màu sắc may mắn là các màu: Nâu đỏ, xanh nước biển, xanh lá

Con số may mắn: 2, 8.

8. Tuổi Mùi

Người tuổi Mùi sinh vào năm 1943, 1955, 1967, 1979, 1991, 2003, 2015. Do tác động của trường khí trong năm nên người tuổi Mùi có mong muốn thành công khá mãnh liệt. Do vậy trước khi làm việc gì quan trọng trong năm 2016 này, cần lên kế hoạch tỉ mỉ, phân tích ưu nhược điểm và cẩn thận tiến hành, mới có thể đạt được kết quả như ý muốn. Do tâm lý hiếu thắng lên cao, lại không thích bị dây dưa nên bạn luôn có mong muốn thay đổi, cải biến điều gì đó. Sáng tạo, đổi mới là khẩu hiệu chính của bạn trong năm.

Màu sắc may mắn là các màu: Tím, cam, bạc.

Con số may mắn: 0, 7.

9. Tuổi Thân

Người tuổi Thân sinh vào năm 1944, 1956, 1968, 1980, 1992, 2004. Người tuổi Thân năm nay không muốn người khác can dự vào việc của mình, mong muốn tự lực cánh sinh, tự làm nên nghiệp lớn. Nhất là khi có áp lực từ cấp trên hay người hơn tuổi, sẽ làm bạn tỏ ra khó chịu và có phản ứng lại. Mặt khác do nhận tác động của trường khí trong năm, bạn có xu hướng "có mới nới cũ" khá rõ rệt, làm gì cũng tỏ ra nhiệt tình được chốc lát, rồi sau đấy bỏ bẵng không quan tâm, làm cho nhiều người thất vọng.

Màu sắc may mắn: Đen, xám, vàng.

Con số may mắn: 4, 6.

10. Tuổi Dậu

Người tuổi Dậu sinh vào năm 1945, 1957, 1969, 1981, 1993, 2005. Vào năm 2016 các bạn khá bận rộn và vất vả, trong lòng cũng luôn cảm thấy bất an, mọi việc không như ý. Năm nay người tuổi Dậu rất mong chờ sự tán thưởng, khẳng định của người khác; nếu bạn bè người thân không quan tâm hay giúp đỡ, họ sẽ cảm thấy rất buồn bã, tủi thân bởi do tác động của trường khí trong năm.

Màu sắc may mắn là các màu: Cam, cà phê.

Con số may mắn:  4, 7, 0.

11. Tuổi Tuất

Người tuổi Tuất sinh vào năm 1946, 1958, 1970, 1982, 1994, 2006. Năm 2016 do tác động của trường khí mà người tuổi Tuất trở nên ngăn nắp, gọn gàng, làm việc có kế hoạch cụ thể hơn. Những ai trước đây có thói quen xấu cần bỏ, có thể nhân cơ hội này để sửa đổi, sẽ thấy hiệu quả rất rõ rệt. Tính cách người tuổi Tuất năm nay cũng trở nên ổn định, thận trọng và điềm tĩnh hơn, tạo cho mọi người cảm thấy yên tâm, đáng tin hơn, vì thế mà cũng nhiều người tìm đến bạn để nhờ vả.

Màu sắc may mắn là các màu: Vàng kem, đỏ, bạc.

Con số may mắn: 0, 9.

12. Tuổi Hợi

Người tuổi Hợi sinh vào năm 1935, 1947, 1959, 1971, 1983, 1995, 2007. Tư duy năm nay của bạn nhạy bén hơn, nhưng bạn lại dành quá nhiều thời gian cho tư tưởng, suy nghĩ, hay lên kế hoạch. Hơn nữa do trường khí tác động làm bạn giảm độ nhiệt tình và hăng hái, nên không đủ dũng cảm để thực hiện ý tưởng. Bề ngoài, bạn tỏ ra nghiêm túc làm cho ít người dám gần, từ đó tạo nên rào cản trong công việc.

Màu sắc may mắn là các màu: Đen, xám trắng, vàng.

Con số may mắn: 1, 4.

>> Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé! >>


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con số may mắn và màu sắc phù hợp 12 con giáp năm 2016

3 con giáp đón vận thế tài lộc vượng phát sau tiết Hạ Chí

Đang trong tiết Hạ Chí, vận thế tài lộc của bạn dạo này ra sao? Bạn có biết 3 con giáp nào là người sẽ đón tài lộc vượng phát, ra đường cũng nhặt được tiền
3 con giáp đón vận thế tài lộc vượng phát sau tiết Hạ Chí

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

không?   Mùa hạ với những cơn mưa rào ào ào và những trận nắng cháy xa cháy thịt. Có lẽ điều an ủi mỗi người trong mùa hạ ngoài du lịch thì chỉ có thể là giữa tiết trời nóng bức mà được tài lộc lên vù vù, chẳng khác nào cốc nước mát lành giúp ta hạ nhiệt.   Đang tiết Hạ Chí, thời tiết có vẻ đỡ phần nào khắc nghiệt. Bạn có biết sau tiết Hạ Chí, con giáp nào sẽ có đường tài lộc rộng mở thênh thang, vận trình tăng tiến không gì ngăn nổi không. Cùng Lịch ngày tốt xem tử vi 12 con giáp để có được câu trả lời nhé.  

Tuổi Dần

  Sau tiết Hạ Chí, vận trình của người tuổi Dần có sự biến chuyển rõ rệt. Công việc thuận lợi, bạn sẽ có nhiều cơ hội phát triển sự nghiệp. Đó sẽ là những bước tiến mà bạn không thể tưởng tượng được, đem lại niềm vui bất ngờ lớn hơn mong đợi, hãy tỉnh táo để nắm bắt thời cơ nhé.   Nếu bạn dồn hết tâm sức để làm việc, cố gắng không ngừng, học hỏi mọi lúc mọi nơi thì chuyện thăng tiến sẽ chẳng còn xa xôi nữa. Nên tích cực tìm kiếm cơ hội cho mình, mỗi một cơ hội dù nhỏ nhưng cũng cần trân trọng, bởi đó có thể là cơ hội để bạn thay đổi vận mệnh cuộc đời.


tai loc vuong phat 2
 
  Tài lộc vượng phát, tăng tiến không ngừng, nhất là về Thứ Tài, bạn có thể tiến hành đầu tư để sinh lời. Tuy nhiên người tuổi Dần nên chú ý đề phòng tiểu nhân, hành sự cẩn trọng để tránh họa phá tài. Nói thêm chút về đường tình duyên nhé, chuyện tình cảm của con giáp này sắp tới sẽ có chút tiến triển, hãy bỏ thêm thời gian và tâm tư để bồi đắp tình cảm, đừng để lỡ dở mối lương duyên.

Xem thêm Phong thủy bàn làm việc đuổi tiểu nhân, rước may mắn nhé.
 

Tuổi Dậu

  Người tuổi Dậu chỉ ngay sau khi tiết Hạ Chí qua đi là sẽ gặp được cát tinh quý nhân trên đường tài lộc, công danh sự nghiệp thăng tiến ầm ầm, mọi chuyện suôn sẻ, thuận buồm xuôi gió. Vận thế ngày càng tốt hơn, cát tinh cao chiếu, lại được quý nhân trợ lực thêm phần may mắn. Quý nhân của con giáp này thường là nữ giới, bởi tháng này âm khí rất nặng nên quý nhân là nữ giới sẽ có thể giúp bạn chuyển hung thành cát, gặp dữ hóa lành.


tai loc vuong phat
 
  Cuộc đời có vay có trả, người tuổi Dậu cũng nên nhớ nhắc mình giúp đỡ mọi người, nhất là bạn bè là nữ giới. Nhiều chuyện vốn đã là sở trường của bạn, giải quyết dễ dàng như nước chảy mây trôi, nên quyết đoán, hành động dứt khoát, chớ do dự không biết tiến lùi sẽ để thời cơ qua đi trước mắt.   Tình cảm gia đình của con giáp này đang rất tốt đẹp, những mâu thuẫn trước đó sẽ được giải quyết, gia hòa vạn sự hưng.  

Tuổi Hợi

  Sau tiết Hạ Chí, người tuổi Hợi được cát tinh dẫn đường, chuyện tốt liên tiếp kéo đến. Nhiều chuyện nhìn bề ngoài cát hung khó đoán nhưng con giáp này được phúc khí đầy mình nên về tổng thể đều có kết quả khá tốt, không cần phải lo lắng sợ hãi điều gì.


tai loc vuong phat 1
 
  Công việc có thể có một vài thay đổi, dẫn đến biến động về sự nghiệp. Vào giờ phút quyết định, phải giữ đầu óc bình tĩnh, suy nghĩ kĩ càng, xem xét các phương diện khác nhau. Nếu không thể làm được điều đó thì tốt nhất đừng nên quyết định thay đổi gì mà cứ giữ nguyên hiện trạng thì hơn.

Bạn đã biết Vị trí làm việc vượng tài của 12 con giáp nằm ở đâu chưa? Đọc ngay nhé.
  Nhớ kĩ, làm chuyện gì cũng phải chắc chắn, đừng đứng núi này trông núi nọ, để rồi cuối cùng chẳng việc gì được ra hồn. Vạn sự lấy cẩn trọng làm đầu, lấy tĩnh chế động, chớ gây chuyện thị phi.    Tài lộc vượng phát, luôn giữ mức ổn định nên con giáp này có thể xem xét tính toán đến chuyện đầu tư sinh lời, song nên chọn lĩnh vực đầu tư thích hợp, lựa sức mà làm, tránh làm chuyện quá mạo hiểm kẻo tiền bạc dù nhiều nhưng vẫn có nguy cơ phá sản, tiền của một đi không trở lại. Bước đầu hãy chọn những lĩnh vực an toàn, lợi nhuận ít hơn chút mà ổn định. Đợi khi có kinh nghiệm thì có thể mạnh tay dấn mình làm những chuyện có tính thử thách cao hơn.    
Hy Vũ

Cách siêu dễ thu hút thịnh vượng bằng tiền xu phong thủy Ánh sáng trong phong thủy: Sử dụng hợp lý sẽ đón tài lộc miễn phí Xem tướng tay chân biết ngay giàu tài lộc

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 con giáp đón vận thế tài lộc vượng phát sau tiết Hạ Chí

9 nguyên tắc đặt bàn làm việc hợp phong thủy

Không nên ngồi quay lưng ra cửa, nên đặt bàn làm việc ở nơi nhìn rõ các lối đi… là những điều lưu ý trong bố trí chỗ ngồi ở văn phòng theo thuật phong thủy Pyramid.
9 nguyên tắc đặt bàn làm việc hợp phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặt bàn làm việc hợp phong thủy mang lại may mắn và tài vận thành công. Dưới đây là 9 nguyên tắc đơn giản mà bạn nên tuân theo để công việc, sự nghiệp được hanh thông thuật lợi.

Nguyên tắc 1: Ngồi đối diện với cửa ra vào

– Ngồi đối diện với lối vào (quay mặt ra lối vào): Việc đặt bàn hướng ra lối vào cho bạn cảm thấy hoàn toàn tự tin. Bạn luôn khống chế và kiểm soát được công việc, không bị giật mình.

Nguyên tắc 2: Tuyệt đối không quay lưng về phía cửa

– Không đặt bàn làm việc để người ngồi quay lưng ra cửa: Điều này làm suy giảm sự tập trung làm việc của chủ nhân. Nếu bàn làm việc của bạn đặt thẳng hướng với cửa ra vào (quay lưng ra cửa) thì bạn luôn là người đầu tiên được yêu cầu thực hiện các nhiệm vụ được giao, tốt nhất bạn nên đặt bàn hơi chệch hướng với cửa ra vào.

Nguyên tắc 3: Không nên để lối đi phía sau lưng ngồi.
– Cần đặt bàn ở vị trí nhìn rõ các lối đi: Các lối đi trong phòng cần được nhìn thấy rõ ràng từ chỗ bạn để nhận diện tất cả mọi người đi vào nơi làm việc của bạn. Bạn sẽ cảm thấy cởi mở và dễ dàng hợp tác với mọi người.

Nguyên tắc 4: Để đèn ở phía bên tay không thuận

– Nên để đèn chiếu sáng từ bên tay nghịch của bạn: Không nên làm việc chỉ với ánh đèn huỳnh quang trên trần (hiện tượng bóng mờ). Đặt đèn bên tay nghịch của bạn để ánh sáng không bị giảm khi tay thuận của bạn đang làm việc.

Nguyên tắc 5: Bàn làm việc thân thiện

– Hãy cho người khác thấy bàn làm việc của bạn còn có thể là một nơi giao tiếp tốt: Là nơi để trao đổi ý tưởng, bàn bạc các tiến trình công việc, giải thích, trình bày… gọi là xã hội hóa nơi làm việc sẽ đem lại nhiều lợi ích cho bạn. Tùy tính chất công việc, bạn sẽ chọn lựa cách bố trí theo ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.

Nguyên tắc 6: Không gian thoáng, không bó kín

– Bàn làm việc của bạn phải kích thích 5 giác quan: Con người sống ngoài xã hội phát triển các khả năng tiếp nhận thông tin của mình hơn hàng nghìn năm về trước. Nếu bị cô lập, các giác quan sẽ giảm đi, vì thế bên cạnh những thông tin cần thiết và màu sắc phòng bạn nên được tiếp thu các loại âm thanh, mùi vị và cảm giác, để ngửi, để cảm nhận và nghe để đáp ứng các nhu cầu cần thiết của các giác quan một cách khoa học.

Nguyên tắc 7: Luôn giữ bàn làm việc sạch sẽ, thoáng mát, lưu thông không khí

– Tạo một nơi làm việc sạch sẽ, thoáng mát: Mọi nơi làm việc cần được dọn dẹp sạch sẽ thoáng mát, vì những vật dụng không có quy củ sẽ ảnh hưởng đến tác phong, gây rối loạn trong khi làm việc, và quan trọng nó sẽ gây mất tập trung trong khi ta cần tập trung. Bạn nên dọn dẹp và loại bỏ những vật dùng không cần thiết theo lịch trình của bạn.

Nguyên tắc 8: Đặt cây hợp phong thủy như dương xỉ, cúc dại

– Bố trí cây cối để làm thoáng không khí: Không khí trong lành là điều mà nhiều văn phòng làm việc không thể có được. Khí độc tiết ra từ nhựa, mực hoặc các tài liệu sẽ hòa vào không khí mà ta hít thở.

Làm trong lành nhờ sử dụng các loại cây hấp thụ formon (có nhiều trong keo dán) như cây dương xỉ, hoa cúc dại, cây cọ, cây tre; những cây hấp thụ amoniac (có nhiều trong các dụng cụ chùi rửa) như hoa loa kèn, hoa cúc dại; các loại cây hấp thụ bazen (có nhiều trong nước sơn mới hay trong các chất tẩy rửa) như hoa cúc dại, dây thường xuân.

Nguyên tắc số 9: Loại bỏ những đồ dùng đã bị cũ, hỏng, ố, giữ gìn chỗ làm sạch sẽ

– Thay đổi mới vị trí là điều không dễ dàng cho người thay đổi và cả sự day cấn khi người thì thích và người thì không. Bạn hãy làm (nếu có thể) bỏ những đồ văn phòng phẩm bị rỉ sét hay bụi bặm do không sử dụng lâu ngày; sắp xếp lại nơi làm việc của bạn, bạn sẽ có sự thay đổi; thay đổi vị trí giỏ rác; sắp xếp lại đồ dùng trên bàn làm việc của bạn.

Tạp chí Phong Thủy Đời Sống


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 9 nguyên tắc đặt bàn làm việc hợp phong thủy

Ý nghĩa các con số 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19

Con số mà bạn đang sở hữu có ý nghĩa gì? Bạn muốn tìm hiểu về ý nghĩa các con số 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19 là gì? Dưới đây Phong thủy số giới thiệu cho bạn ý nghĩa các con số từ ý nghĩa số 10 đến ý nghĩa số 19 như sau:

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Con số mà bạn đang sở hữu có ý nghĩa gì? Bạn muốn tìm hiểu về ý nghĩa các con số 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19 là gì? Dưới đây Phong thủy số giới thiệu cho bạn ý nghĩa các con số từ ý nghĩa số 10 đến ý nghĩa số 19 như sau:

Ý nghĩa các con số 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19

Ý nghĩa số 10:

Số 10 được xem là con số hoàn hảo nhất trong dãy số. Ý nghĩa của số 10 là bạn sẽ làm được tốt hơn những gì bạn nghĩ, nó cũng mang ý nghĩa sâu xa rằng, với một cách cửa này đóng lại, cánh của khác sẽ mở ra. Còn trong Thiên chúa giáo thì số 10 thể hiện trong 10 điều răn để chỉ dạy cho các con chiên. Đây là con số hoàn hảo, mang ý nghĩa về sự hoàn mỹ, mỹ mãn.

Ý nghĩa số 11:

Số 11 có ý nghĩa gì? Số 11 thể hiện sự may mắn, là con số thường xuyên gặp hái được nhiều thành công khi bạn sở hữu con số này. Đối với những người theo Đạo thì số 11 có ý nghĩa là hồi chuông cảnh tỉnh khẩn thiết, ám chỉ bạn nhanh chóng thực hiện những thay đổi lớn trong cuộc đời. Ý nghĩa số 11 còn thể hiện về sự hòa đồng, sự thích ứng nhanh với hoàn cảnh của môi trường.

Ý nghĩa của số 12:

Số 12 có ý nghĩa gì? Bạn muốn tìm hiểu về ý nghĩa số 12? Số 12 được sử dụng rất nhiều trong đời sống thường ngày cũng như đời sống tâm linh. Trong đời số thường ngày: Số 12 xuất hiện trong 12 tháng của năm, trong 12 con giáp, trong cách tính độ dài ( 1foot bằng 12 inch). Còn trong đời sống tâm linh, số 12 có xuất hiện tỏng kinh thánh, trong các trường phái về đạo giáo và hồi giáo hay phật giáo (12 bà mụ), trong thần thoại Hy lạp (12 vị thần trên đỉnh Olypus). Vậy nên, số 12 có ý nghĩa rất quan trong, nó liên quan đến nhiều lĩnh vực và cũng có tác động đến nhiều người.

Ý nghĩa số 13:

Nhiều người quan niệm số 13 có ý nghĩa là con số xui xẻo, không mang lại may mắn cho người sử dụng nó. Đây là con số tối kỵ trong cả văn hóa ngươi Việt. Nhiều tòa nhà không đặt tầng số 14, thang máy số 13 hay phòng số 13 đều vì sự xui xẻo của nó mang lại. Vì vậy, hầu như mọi người đều tránh sử dụng con số này trong gia đình cũng như trong cuộc sống của mình.

Ý nghĩa số 14:

Theo quan điểm của nhiều người thì số 14 là sự kết hơp giữa ý nghĩa số 1 là căn bản cho sự biến hóa, cho một sự khởi đầu mới, mang lại điều mới mẻ, tốt đẹp hơn và ý nghĩa số 4 là con số xấu, biểu trưng cho cái chết, sự lùi tàn. Vậy nên ý nghĩa số 14 là con số không tốt những cũng không xấu, có thể sử dụng được.

Ý nghĩa số 15:

Số 15 có ý nghĩa gì? Con số 15 có ý nghĩa là sự kết hợp giữa ý nghĩa số 1 và ý nghĩa số 5, tổng quát mà nói thì ý nghĩa chính khi sự dụng con số này là đạt được phúc thọ, đây là con số may mắn mà nhiều người sở hữu nó trong số điện thoại, biển số xe của mình.

Xem thêm: Giải mã hiện tượng hắt xì hơi

Ý nghĩa số 16:

Theo quan niệm về phong thủy thì số 16 có ý nghĩa là sinh lộc, mang lại tài lộc cho người chủ sở hữu. Cuộc sống của người đó sẽ may mắn, hanh thông hơn khi sở hữu con số này.

Ý nghĩa số 17:

Bạn đang sở hữu số 17 và bạn muốn biết số 17 có ý nghĩa gì? Số 17 là sự kết hợp giữa con số 1 và con số 7. Ý nghĩa của số 17 là sự hòa hợp, sự phát triển tốt đẹp và thịnh vượng.

Số 18 có ý nghĩa gì?

Tìm hiểu ý nghĩa số 18 là tốt hay xấu. Số 18 có ý nghĩa là mọi sự khó khăn sẽ qua đi, nhường chỗ cho sự phát triển, sự thình vượng. Trước sự thay đổi vô thường của cuộc sống thì khi sở hữu con số 18 bạn sẽ được định hướng để thay đổi theo hướng tốt hơn.

Số 19 có ý nghĩa gì?

Theo nghĩa phong thủy thì số 19 mang ý nghĩa là một bước tới trời. Số 19 được kết hợp từ số 1 và số 9, hai con số quan trọng nhất của dãy số. Khi số 19 kết hợp với những con số khác sẽ tạo nên ý nghĩa như khác như: 1920: Nhất chín nhì bù, 19.19.19 = 1 bước lên trời.

: Ý nghĩa của các con số từ 0 đến 100
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa các con số 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19

Bày đúng loại cây để tăng cường phong thủy huyền quan

Bố trí cây xanh không chỉ giúp phong thủy huyền quan tốt lên mà còn khiến không gian thoáng đãng, tươi tốt hơn. Cùng điểm qua một số gợi ý hữu ích dưới đây
Bày đúng loại cây để tăng cường phong thủy huyền quan

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bố trí cây xanh không chỉ giúp phong thủy huyền quan tốt lên mà còn khiến không gian thoáng đãng, tươi tốt hơn. Nhưng bày loại cây nào mới tốt? Cùng điểm qua một số gợi ý hữu ích dưới đây nhé.


Goi y bay dung loai cay de tang cuong phong thuy huyen quan hinh anh 2
 
1. Cây xanh có lợi cho vận thế Văn Xương – trúc phú quý    Trúc phú quý là loại cây phong thủy rất tốt cho việc thúc đẩy vận thế Văn Xương, đại diện cho thăng quan tiến chức, thi cử, học hành. Nếu ở huyền quan mà bày trúc phú quý thì trong nhà vượng khí, con cái học thành tiến tới, cha mẹ sự nghiệp hanh thông.   2. Cây xanh thúc giục tài vận – cây phát tài   Cây phát tài là loài cây cát tường, mang ý nghĩa chiêu tài tiến lộc, đem tới phúc khí, thúc giục tài vận, rất tốt cho phong thủy huyền quan. Đặt cây này ở huyền quan không chỉ vượng trạch, hưng gia mà người trong nhà còn khỏe mạnh, bình an.
Những lưu ý phong thủy âm trạch khi trồng cây tại mộ Chọn cây theo phong thủy né trở ngại trong sự nghiệp Muốn tăng gia vận hãy chọn cây trúc
3. Cây xanh tăng cường sức khỏe – trầu bà
  Trầu bà là loài cây thân leo có sức sống mạnh mẽ, dẻo dai, sống thủy sinh, thường được xưng tụng là “loài cây của sinh mệnh”, mang ngụ ý phong thủy cứng cỏi, thiện lương, tốt đẹp. Hơn nữa, trầu bà còn có tác dụng hấp thụ tai khí, giải phóng dưỡng khí, giúp lưu chuyển không khí. Đặt ở huyền quan có lợi cho việc lọc không khí và vận trình sức khỏe của người trong nhà.
Goi y bay dung loai cay de tang cuong phong thuy huyen quan hinh anh 2
 
4. Hoa vượng đào hoa – bách hợp   Ngoài trồng cây xanh thì cắm hoa ở huyền quan cũng là một gợi ý không tồi. Đẹp nhất là cắm hoa bách hợp – ngụ ý trăm năm hòa hợp. Loài hoa này không chỉ giúp tăng cường tình thân mà còn thúc giục đào hoa, bổ sung nhân duyên vận. Bày hoa bách hợp ở huyền quan thì người còn độc thân trong nhà sẽ gặp may mắn hơn trên đường tìm kiếm bạn đời, người đã có gia đình thì vợ chồng thuận lợi, tình cảm ngọt ngào.   Lưu ý quan trọng nhất khi bày các loại cây, hoa ở huyền quan là phải chăm sóc cây thường xuyên, tỉ mỉ, thay nước sạch để cây hoa luôn tươi mới, xanh tốt. Nếu cây, hoa bị héo, úa thì phải lập tức bỏ đi hoặc thay mới nếu không sẽ ảnh hưởng tới vận thế, làm xấu phong thủy nhà ở
► Tham khảo thêm: Xem tuổi xây nhà hợp phong thủy để đón lành tránh dữ

7 nguyên tắc phong thủy tối cần thiết khi đặt cây hoa trong nhà Lựa cây vượng tài vượng lộc cho 12 con giáp Chọn cây phong thủy để bàn trợ lực nghề nào phát nghề đó
Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bày đúng loại cây để tăng cường phong thủy huyền quan

Thứ nhất tu tại gia, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa

Có câu “thứ nhất tu tại gia, thứ hai tụ chợ, thứ ba tu chùa”, hiểu Phật pháp, hướng Phật, tôn trọng Phật giáo thì phải cặn kẽ tìm hiểu về các cấp bậc tu này.
Thứ nhất tu tại gia, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Cùng đọc những câu nói hay về cuộc sống và suy ngẫm

Thu nhat tu tai gia, thu hai tu cho, thu ba tu chua hinh anh
 
Thực chất, Phật giáo là một tôn giáo có lý luận và hệ thống tu tập khá bài bản, quy củ nhưng bên cạnh đó, với nguyên lý mở thì Phật giáo khuyến khích mọi hình thức tu tập, miễn sao là hướng tới Phật và dựa vào những nguyên tắc cơ bản, không xa rời đạo lý cơ bản.
  Giải thích câu nói “thứ nhất tu tại gia, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa” có nhiều người cho rằng đó là sự đề cao tu tại gia, tu tại gia là quan trọng nhất, vượt trên hai loại còn lại. Cách hiểu này chỉ đúng một phần nhưng còn chưa toàn diện, đầy đủ.   Cách sắp xếp này là thứ tự, cấp bậc tu hành tăng dần theo thời gian mới chính xác. Trước tiên tu tại gia, tự tu để hướng lòng tới Phật, tự nghiệm ra những điều thiếu sót ở bản thân và ngộ đạo, thấu hiểu Phật giáo theo cách của mình, thấm nhuần tư tưởng Phật.   Tiếp đến là “tu tại chợ”, tức là giao lưu, học hỏi, tiếp xúc xã hội để mở mang tầm hiểu biết, trao đổi đạo với những người khác và cọ sát thực tiễn. Đạo phải gắn với đời, vì đời mà hành thiện, vì nhân sinh mà tu tập, vì giải thoát chúng sinh mà cố gắng. Đó mới là cái đạo đích thực mà Phật giáo hướng tới. Ứng dụng những lý thuyết Phật dạy vào đời sống, tự đúc rút kinh nghiệm cho bản thân.
Thu nhat tu tai gia, thu hai tu cho, thu ba tu chua hinh anh
 
Cuối cùng là tu chùa, tìm đến nơi thanh tịnh, đến những vị chân tu học thuyết uyên bác để học hỏi. Bể học vô bờ, kinh sách nhà Phật như biển lớn, chỉ tự ngộ chắc chắn không thể hiểu hết, suy nghĩ nông cạn, cần có người chỉ điểm, hướng dẫn để ngày càng phát triển hơn.
  Cũng có ý kiến cho rằng “Phật tại tâm, tu đâu cũng được”. Điều này hoàn toàn đúng, vì Phật ở trong lòng, ngoài chính tâm mình thì tìm đâu cũng không thấy Phật. Tượng Phật, chùa miếu chỉ là nơi để đại diện cho Phật mà thôi chứ không phải Phật. Nhưng nói thì dễ, làm mới khó, tu tại gia đâu có đơn giản. Tư liệu đồ sộ, Phật pháp vô biên, tự mình mênh mông bể sở cần biết bao công dày, thế mới cần phải tu tại chợ, tại chùa mà học hỏi, trao đổi, nâng cấp hiểu biết.   Câu nói trên thực chất chính là kết quả của những kinh nghiệm, của sự tiếp biến văn hóa của người Việt. Nó cũng phản ánh quá trình khổ luyện, trải qua nhiều giai đoạn và cần có sự phát triển khi tiến hành tu tập.
Tu nghìn kiếp mới kết duyên phu thê Mở rộng tâm hồn, điều hạnh phúc sẽ ghé thăm Mách bạn 4 tuyệt chiêu thoát khỏi khổ đau của nhà Phật
Tâm Lan

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thứ nhất tu tại gia, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa

Tứ trụ là gì, xem tứ trụ là gì?

Phương pháp xem bói, coi bói vận mệnh bằng tứ trụ là dựa vào 4 tiêu chí: năm, tháng, ngày, giờ sinh của một người để luận đoán cát hung. Vì vậy tứ trụ chính là 4 trụ gồm trụ năm, trụ tháng, trụ ngày, trụ giờ. Tứ trụ về bản chất là chỉ dựa vào hai nguyên lý căn bản là “âm dương” và “ngũ hành gồm: mộc, hỏa, thổ, kim, thủy” để xem bói, coi bói vận mệnh cả cuộc đời ở các khía cạnh tiền tài, chức vụ, học vấn, sức khỏe, thời vận…. Vì vậy xem tứ trụ thực chất là xem sự tương tác của năm ngũ hành trong mệnh cục để xem bói, coi bói vận mệnh.
Tứ trụ là gì, xem tứ trụ là gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từng trụ một trong tứ trụ là sự kết hợp của một thiên can và một địa chi. Trong đó thiên can dương chỉ kết hợp với địa chi dương và thiên can âm chỉ kết hợp với địa chi âm. Không thể có trường hợp thiên can dương kết hợp với địa chi âm hoặc thiên can âm kết hợp với địa chi dương. 10 thiên can bao gồm: Giáp, Ất , Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Trong  đó có 5 thiên can dương và 5 thiên can âm. 5 thiên can dương là: Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm. 5 thiên can âm là: Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý.

12 địa chi bao gồm: Tý, Sửu, Dần Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Trong đó có 6 địa chi dương và 6 địa chi âm. 6 địa chi dương là: Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất. 6 địa chi âm là: Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi. Sự kết hợp giữa 10 thiên can và 12 địa chi ra kết quả là 60 tổ hợp hay còn gọi là 60 Giáp Tý. Bắt đầu từ Giáp Tý và kết thúc ở Quý Hợi.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tứ trụ là gì, xem tứ trụ là gì?

Tướng mặt quý cô vừa giàu có lại lấy được chồng tốt

Nếu mang trên mình đặc điểm về khuôn mặt vuông vức, vầng trán sáng bóng nhưng đầy đặn, bằng phẳng, không cân xứng hay lồi lõm, bạn hoàn toàn có thể tự tin sau này sẽ được người chồng hết mực yêu thương, chăm sóc. Đồng thời, bạn đóng vai trò trọng yếu, góp phần tạo ra thành công trong sự nghiệp và thúc vượng tài lộc cho nửa kia.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Đôi môi đầy đặn, hồng hào

Trong nhân tướng học, môi trên môi dưới đầy đặn, không khuyết hãm, sắc môi hồng hào là biểu hiện của quý tướng. Quý cô sở hữu nét tướng mặt này thường có tính cách điềm đạm, không dễ nổi nóng hay tức giận vô cớ, đi tới đâu cũng gặp được quý nhân phù trợ, giúp đỡ vượt qua mọi cơn hoạn nạn.

Bên cạnh đó, cô nàng này cũng rất dễ được gả vào nhà giàu có, quyền lực. Bản thân luôn nỗ lực không ngừng để vượt khó, làm giàu. Khi lấy chồng lại trở thành “quân sư”, giúp sự nghiệp của ông xã thăng cấp mạnh mẽ.



Ngoài ra, nếu cộng thêm đặc điểm hàm răng đều đặn, trắng sáng chứng tỏ mối quan hệ vợ chồng luôn đằm thắm, hạnh phúc, đời sống tình cảm dạt dào, đa sắc.

2. Khuôn mặt vuông vức, trán bằng

Nếu mang trên mình đặc điểm về khuôn mặt vuông vức, vầng trán sáng bóng nhưng đầy đặn, bằng phẳng, không cân xứng hay lồi lõm, bạn hoàn toàn có thể tự tin sau này sẽ được người chồng hết mực yêu thương, chăm sóc. Đồng thời, bạn đóng vai trò trọng yếu, góp phần tạo ra thành công trong sự nghiệp và thúc vượng tài lộc cho nửa kia.

Hơn thế, bản thân cô nàng này dễ dàng gặt hái được thành công trong cuộc sống, danh lợi song toàn, được mọi người tôn trọng, ngưỡng mộ.

Tuong mat quy co vua giau co lai lay duoc chong tot hinh anh 2
 
3. Dáng đầu tròn, đỉnh đầu không nhô quá cao

Chủ nhân của nét tướng này có tài vận khá vượng, gặp nhiều may mắn và cơ hội kiếm tiền trong cuộc sống. Nếu chủ động nắm bắt và không ngừng nỗ lực, ắt được hưởng vinh hoa phú quý, không phải lo tiền bạc vật chất.

Ngoài ra, nữ giới có số vượng phu, trợ lực rất nhiều cho tài vận và công danh, sự nghiệp cho chồng. Được người này “nâng khăn sửa túi”, cuộc đời bạn là những chuỗi ngày tràn ngập niềm vui, hạnh phúc.

4. Cằm tròn đầy, không khuyết hãm

Nếu có tướng mặt mà cằm tròn đầy, nhiều thịt, không tật sẹo khuyết hãm, bạn có thể mong ước về cuộc sống sung túc, đủ đầy.

Sách tướng có ghi: “Địa các tròn đầy, vượng phu hưng gia”. Cằm còn gọi là Địa các. Cằm tròn đầy là dấu hiệu của số vượng phu, giúp gia trạch hưng vượng.

Những cô nàng có tướng cằm như vậy thường là “vợ hiền, dâu thảo, mẹ đảm” trong gia đình. Hơn thế, họ luôn hiểu chuyện, suy nghĩ thấu đáo, biết đặt mình vào hoàn cảnh người khác để suy nghĩ. Chính vì thế gia vận trong ấm ngoài êm, ai nấy đều tin tưởng và yêu mến họ.

Ngọc Điệp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt quý cô vừa giàu có lại lấy được chồng tốt

Bàn luận về các nét tướng của phụ nữ –

Trong CỔ TƯỚNG THƯ có nói đến chín nét tướng tốt của phụ nữ như sau: 1. Hiên môn phong mãn, sinh tử thanh cao 2. Hiên môn bất hãm, đa tử thả hiền 3. Lệ đường nhục an, đa nữ nhi quí 4. Lệ đường vận hậu, chủ hữu quí nữ 5. Thú phụ vấn đức chi yêu sáp mặ
Bàn luận về các nét tướng của phụ nữ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bàn luận về các nét tướng của phụ nữ –

Đoán tính cách và cuộc đời qua hàm răng

Những người răng thưa không đều, khoảng cách giữa các răng rộng thường giả tạo, hay nói dối. Những người răng cửa dài, thưa, giống răng chuột thường cô độc khi về già.
Đoán tính cách và cuộc đời qua hàm răng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Click vào hàm răng bạn muốn xem để biết tính cách và cuộc đời của người sở hữu hàm răng đấy nhé.

doan-tinh-cach-va-cuoc-doi-qua-ham-rang doan-tinh-cach-va-cuoc-doi-qua-ham-rang-1 doan-tinh-cach-va-cuoc-doi-qua-ham-rang-2

1. Hàm răng đẹp, chỉnh tề

2. Răng thưa, không đều 3. Răng trên dày dặn
doan-tinh-cach-va-cuoc-doi-qua-ham-rang-3 doan-tinh-cach-va-cuoc-doi-qua-ham-rang-4 doan-tinh-cach-va-cuoc-doi-qua-ham-rang-5
4. Răng cửa to và gọn gàng 5. Răng chuột 6. Răng hướng vào trong
doan-tinh-cach-va-cuoc-doi-qua-ham-rang-6 doan-tinh-cach-va-cuoc-doi-qua-ham-rang-7 doan-tinh-cach-va-cuoc-doi-qua-ham-rang-8
7. Răng che phủ 8. Răng chồng chéo nhau 9. Cười hở lợi

Maruko (theo Inka)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán tính cách và cuộc đời qua hàm răng

Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Một bài dịch hay của anh Quách Ngọc Bội. Mời các bạn cùng tham khảo.
Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chương 1: Đại cương về Thiên Văn, Lịch Pháp

Soạn giả (khuyết danh) chú: Chương này giới thiệu về kiến thức thiên văn lịch pháp, là cơ sở của nguyên lý tượng học trong Tử Vi.

Hiện tượng ánh sáng đẹp đẽ của bảy tinh diệu ở bầu trời, là Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh vậy. Nhật là chủ của Dương tinh, Nguyệt là chủ của Âm tinh, Ngũ Tinh là các sao của ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ).

Chúng tinh phân bố mà bày ra, còn Thể (QNB chú: bản thân ta, ám chỉ trái đất của ta) thì Sinh ở mặt đất, trong khi các Tinh thì Thành ở trên bầu trời. Chỗ ở của từng chòm dịch chuyển đều có sở thuộc của nó cả, như ở tại thiên nhiên thì lấy vật làm tượng, tại triều đình thì lấy quan làm tượng, tại con người thì lấy sự việc làm tượng. Cái đó là dùng thần mà gán vào năm loại vậy, chính là có 35 cái tên, Một cư ở trung ương gọi là Bắc đẩu, bốn phương sắp xếp mỗi nơi có bảy chòm là thành ra có 28 xá, Nhật Nguyệt vận hành, trải qua biểu thị cát hung vậy.

Đoạn thoại của đích thân Trương Hành thời Đông Hán, có thể coi là tổng cương của Thiên Văn học cổ đại Trung Quốc.

Tiết thứ nhất: Xem bầu trời (thiên quan)

1.1 Ba thuyết thiên tượng học cổ đại.

Cổ thiên tượng học gồm có ba thuyết là Tuyên Dạ thuyết, Cái Thiên thuyết và Hồn Thiên thuyết.

1.1.1 Thuyết Tuyên Dạ

Thuyết Tuyên Dạ này do Hi Minh người Hán ghi theo thuyết của người xưa trong truyện về Tổ ở Tuyên Thành, dùng phương pháp quan trắc thiên văn chuyên vào ban đêm đứng tại mặt đất mà quan trắc Nhật Nguyệt với Ngũ tinh hoạt động. Thuyết Tuyên Dạ này cho rằng, bầu trời không có hình dạng nhất định, cũng chẳng phải do vật chất cấu thành, cao vời vợi mà chẳng có chỗ tận cùng, Nhật Nguyệt tinh thần đều trôi nổi lơ lửng trong không trung, động với tĩnh đều nương nhờ vào Khí.

Loại quan điểm này thể hiện sự mộc mạc và sắc thái của chủ nghĩa hư vô.

(QNB chú: nội dung của thuyết nằm ở quan điểm hư vô, hư không mà cho rằng: bầu trời trống rỗng vô tận, Nhật Nguyệt và các sao chỉ lá Khí tích lại và chúng trôi lơ lửng trong không trung).

1.1.2 Thuyết Hồn Thiên

Thuyết Hồn Thiên có nguồn gốc từ triều Hán, thời kỳ Vũ Đế, do Trương Hành chế ra Hồn Thiên Nghi. Hồn Thiên phái này xem các thiên thể trên trời là một tổng thể, còn đất như cái nhân mà nằm ở giữa, có các cực Bắc Nam, đề xuất quan điểm "Thiên bao ư ngoại, địa cư kỳ trung" (trời bao bọc ở bên ngoài, đất nằm ở bên trong).

Loại phương pháp xem này gần với cách xem của khoa học thiên văn hiện đại.

(QNB chú: Ngày nay thường diễn nghĩa thuyết Hồn Thiên bằng hình tượng: Bầu trời (Thiên cầu) tựa như là quả trứng còn trái đất là lòng đỏ nằm ở giữa. Vòm trời có khí ở bên trong, phía dưới chân trời là nước, trái đất nổi ở trên nước. Trên vòm trời có ba Thần là Nhật, Nguyệt và Tinh. Dưới đất có ba Hình là Thủy, Thổ và Khí. Thần và Hình thì đều có thể trong thấy được. Mặt Trời như nằm trên cái vòng xoay mà chạy mãi không ngừng. Ngoài vòm trời thì không gian vô tận gọi là Vũ Trụ).

Hồn Thiên phái cho rằng, Thiên Cầu có Bắc thì cao mà Nam thì thấp, xoay tròn xung quanh thông qua trục của Thiên Cực mà vận hành. Từ Thiên trục của Thiên Cầu, lấy vuông góc ra mà được vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích đạo, phân chia Thiên Cầu thành hai nửa Nam Bắc đều nhau, Xích đạo với Hoàng đạo nghiêng 1 góc khoảng 24 độ, Thái Dương ở trên đường Hoàng đạo mà vận hành. Thiên Cầu xoay quanh trục Nam Bắc cực mỗi vòng tương ứng với một ngày.

Vào ngày Hạ Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Bắc của hoàng đạo, chu nhật (chu trình trong một ngày) của Thái Dương có đến quá nửa là ở trên mặt đất (QNB chú: ý muốn nói mặt trời lên đến điểm cao nhất trên thiên cầu, nên gióng sang Thiên trục Bắc Nam thì được điểm Bắc cao nhất, và ngày thì dài nhất trong năm nên thời gian mặt trời chiếu trên mặt đất là có tới hơn một nửa so với tổng thời gian mà nó đi hết một vòng quay), còn nửa ít ỏi kia là nó nằm phía dưới của mặt đất (ý nói mặt trời lặn và thời gian của đêm rất ngắn), biểu hiện là Thái Dương ở trên mặt đất với thời gian lâu hơn, còn ở dưới mặt đất thì với thời gian ít hơn.

Vào ngày Đông Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Nam của hoàng đạo, chu nhật của nó có tới quá nửa là ở dưới đất, còn nửa ít ỏi kia là ở trên mặt đất, Thái Dương ở trên mặt đất với quá ít thời gian còn ở dưới mặt đất thì quá nhiều (ý nói ngày ngắn mà đêm dài), mặt trời mọc ở phương Đông Nam và lặn ở phương Tây Nam.

Tại đài thiên văn Tử Kim Sơn ở Nam Kinh cho tới nay vẫn có Hồn Thiên Nghi, thông qua so sánh với các quan sát bằng kính viễn vọng thiên văn hiện đại mà đối chiếu, thì có thể thấy nguyên lý cấu tạo với phương pháp quan trắc thì về cơ bản là không sai. Phép quan trắc của Hồn Thiên phái sau này hậu nhân phát triển thành một môn khoa học độc lập dùng cùng với phương quan trắc thiên văn nguyên thủy, theo đó mà có một số phát hiện phản ánh quy luật tự nhiên dễ là không có liên quan gì cả.

1.1.3 Thuyết Cái Thiên

Thuyết Cái Thiên còn được gọi là thuyết Chu Bễ, chính là phép xem thiên văn tối cổ. Từ thời Hán Tấn về sau đã tiêu vong, những chuyên luận còn lưu tồn ở hậu thế đều không hoàn chỉnh, chỉ thấy các phần rời rạc tản mát.

Quan điểm của Cái Thiên phái, chính là người đứng ở trên mặt đất bằng mà quan sát thiên tượng, đúng là phương pháp quan sát của việc lấy tĩnh mà quan trắc động, cho nên chỉ có thể trông thấy một nửa từ mặt đất phẳng trở lên mà thôi, còn nửa dưới mặt đất thì chỉ có thể đứng mà đợi cho đến khi nó chuyển tới thì tái quan sát. Cho nên phương pháp này chính là "diện Nam" (quay mặt về Nam mà ở ban ngày xem Nhật ảnh (bóng mặt trời), "diện Bắc" mà ở đêm khảo sát cực tinh. Phương pháp của phép xem Nhật ảnh chủ yếu trông vào trắc ảnh của Thổ Khuê và trắc ảnh của Tiêu Can (các dụng cụ đo bóng nắng bằng thước ngọc và bằng cọc, cây nêu) cùng với toán pháp về Khắc Lậu (phép tính theo dụng cụ do thời gian bằng cái chậu có đục lỗ ở dưới đáy); còn ban đêm khảo cực tinh thì chủ yếu dựa vào quan sát các tình huống mà bắc đẩu quay xung quanh sao Bắc cực.

(QNB chú: Ngày nay người ta thường tóm tắt thuyết Cái Thiên với hình dung vòm trời như cái lồng bàn ( hoặc nắp vung bán cầu) úp xuống, bao trùm lấy mặt đất, và mặt đất ở dưới chân thì vuông bốn góc như bàn cờ. Mưa ở trên trời rớt xuống thành 4 bể. Vòm trời cũng xoay và Nhật Nguyệt cũng chuyển động nhưng ngược chiều với vòm trời).

Phái Cái Thiên cho rằng, chu nhật của Thái Dương ở tại cái nắp vung vận động trong mỗi một năm có 7 đạo lộ thứ tự, gọi là "Thất Hành". Đạo lộ thứ nhất ở trong cùng gọi là "Nội Hành", vào ngày Hạ Chí thì Thái Dương đến gần với Nội Hành mà đi một vòng; còn cái vòng Đạo lộ ở ngoài cùng gọi là "Ngoại Hành", vào ngày Đông Chí thì đó chính là con đường đi của Thái Dương; vào các Tiết Khí khác thì Thái Dương vận hành trên 5 đạo lộ còn lại ở bên trong. Đây chính là "Thất Hành Lục Gian" của các chuyên gia Cái Thiên phái.

Phái Cái Thiên thông quan việc "ngẩng đầu lên xem, cúi đầu xuống xét" (ngưỡng quan phủ sát) mà đề xuất ra học thuyết "Trời tròn đất vuông" (thiên viên địa phương).

Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên nói rằng, Trời tựa như là một cái bát lớn úp xuống trùm lên đất có hình như cái bàn cờ, cái thuyết này rất nhiều người hiểu sai, ngỡ rằng Trời là tròn đấy, Đất là vuông đấy, "Lễ Ký: Đại đới lễ" thì nghi vấn: Nếu như quả thực là như vậy, đem Trời tròn úp lên Đất vuông thì 4 gốc của Đất nó lại chẳng lòi ra ngoài mất hay sao?

Rốt cuộc kỳ thực là cái hướng trong phương pháp của việc quan trắc thiên tượng mà thôi, ngẩng lên mà trông trong đêm để khảo sát cực tinh, cúi xuống lúc ban ngày mà tham khảo bóng ảnh, chứ không phải nói về cái hình hài của Thiên Địa là vuông tròn.

Về giai đoạn sau này, các chuyên gia phái Cái Thiên chủ trương rằng, thiên tượng hình tròn giống như cái đấu úp, địa tượng như cái mâm đậy vào (Sách "Chu Bễ toán kinh": Thiên tượng như cái lồng bàn, địa tượng như cái mâm úp), cả hai đều có hình vòm chính giữa thì cao mà chu vi bốn bề lại thấp, cách kiến giải kiểu này dễ làm cho người ta thông tỏ.

(QNB chú: Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên chính là thời Xuân Thu, còn giai đoạn phát triển sau này là thuộc về thời Chiến Quốc).

Phái Cái Thiên đứng ở trên bình địa mà quan trắc thiên tượng, chỉ có thể khán từng nửa từng nửa mà thôi, vào ban ngày thì đứng quay về Nam (diện Nam) mà quan sát Thái Dương đông thăng tây lạc (mọc ở Đông mà lặn đằng Tây) lấy Nhật ở giữa trời mà Ngọ; vào ban đêm thì đứng quay mặt về Bắc (diện Bắc) mà theo (độ sáng của) tinh tú đo lường mờ-vừa-tỏ rồi lấy nửa đêm làm Tý. Thông qua những cái ngẳng xem cúi xét như thế này mà ghi chép lại các dấu hiệu, phát hiện là chúng đều có quy luật mà biến hóa đấy nhé. Như vậy, một thiên thể ở trong khi chịu tác động từ quy luật của thiên tượng cũng ảnh hưởng đến sực vật mà nó sở hữu, phải chăng là cũng do sự tương thông vốn có về mối liên hệ theo quy luật của chúng?

Bước triển khai kế tiếp, đem vận dụng những quy luật này vào thực tế, chứng thực từ cái lớn như Trời Đất, cái nhỏ như cỏ cây, mà chẳng kể xa gần, sự không kể to nhỏ, đều không thể vượt khỏi những quy luật tự nhiên như thế. Bởi vì vậy, sau đó liền sản sinh ra Dịch học với Bát quái, Hà đồ, Lạc thư, cùng một loạt các hệ thống đồ tượng ký hiệu tương ứng.

Sở dĩ, Cái Thiên được nói là khởi thủy của Dịch học Trung Quốc, cũng như các đồ tượng Bát quái, Hà đồ, Lạc Thư, đều là do thông qua sự quan sát Thiên Văn mà ghi chép lại, nó phù hợp với từng bước phát triển của Thiên Văn, nó phản ánh những thực thể được quan trắc thiên văn từ phái Cái Thiên.

Hai bức cổ đồ mà phối với Nhị thập bát tú, Bát quái, Bắc đẩu thất tinh, Địa lý, Can Chi, (ở bên trên), đã cho thấy các chuyên gia phái Cái Thiên đã thông qua việc "ngưỡng quan phủ sát" mà quan sát được một loạt các ký hiệu của Dịch học, tuy rằng hậu nhân có không vừa ý, nhưng đại để nó vẫn cứ phản ánh rõ các yếu chỉ của phép quan sát theo Cái Thiên.

1.2 Vận dụng thuyết Cái Thiên Hồn Thiên với Can Chi

Cái Thiên phái với Hồn Thiên phái vốn có rất nhiều điểm không tương đồng, nhưng điểm chủ yếu nhất vẫn cứ phù hợp với sự vận dụng trên Can Chi.

Cái Thiên phái chỉ căn cứ vào việc xem bán diện cho nên tách biệt việc sử dụng Can Chi, vả lại 10 Thiên Can cùng với 12 Địa Chi chỉ dụng Ngũ Lục mà coi như cơ số, như "Nội Kinh" thì đem Thiên Can phân ra thành Ngũ vận và đem Địa Chi phân ra thành Tam dương Tam âm của Lục nguyên, chính là phương pháp biểu diễn nửa vòng chu thiên vậy.

Hồn Thiên phái lại dụng sự kết hợp của Can Chi, biểu diễn 60 hoa giáp, gọi là Hồn Thiên giáp tý, như phương pháp Nạp Âm, nhấn mạnh toàn thể việc phối hợp sử dụng Can Chi.

Cái Thiên, Hồn Thiên, xưa nay phân biệt rõ ràng, thực khó mà sử dụng đồng thời. Thí dụ như trong Bát Tự học vốn có Nạp Âm, sau này bị đào thải, mà chuyên lấy Can Chi Ngũ Hành sinh khắc chế hóa làm phương pháp luận. Lại như Lục Hào chiêm bốc, nguyên cũng có Nạp Âm, nhưng sau này cũng biến thành dụng đơn mà lấy Địa Chi sinh khắc hình hại để luận cát hung. Duy chỉ có Tử Vi Đẩu Số là ngoại lệ, cho thấy nó có quy luật đặc biệt.

1.3 Tử Vi tượng học đích thực là phép xem Cái Thiên

Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi. Rốt cuộc thì kỳ thực Tử Vi tượng học chính là phép xem Cái Thiên, lất Đất làm bản Thể (hệ tham chiếu) mà xem xét tượng của sao Trời. Đất là tĩnh vì thế mà lấy Thổ của Thái Ất làm tôn, Tử Phủ đều dẫn đôi hệ tinh diệu xoay quanh, chia chu thiên ra hai nửa, xem một nửa mà thấy toàn bộ, đó chính là lý do biến hóa của "Thất chính", "Nhị thập bát tú" mà thành ra 14 tinh đẩu, và biến hóa của triền xá 12 cung lấy một nửa thành 6 đạo Cái Thiên.

Dần-Thân, Mão-Dậu, Thìn-Tuất, Tị-Hợi, Tý-Ngọ, Sửu-Mùi, chính là 6 đạo lộ của Cái Thiên, theo thứ tự khoảng cách, được Âm Dương mà Cục mang đến số 6, chúng giao hợp Số cũng do bởi từ 1 đến 6.

Dần cung là điểm nguyên thủy khởi Mệnh bàn của môn Đẩu Số, giống như gốc tọa độ của một hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần, tức là khởi điểm các cục từ Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần (QNB chú: chính là nói đến “Kê Mã Trư Long Ngưu Hổ” trong cách an sao Tử Vi) đến Dần là Một.

Tổng quát mà nói, sao nào đó đến Dần cung hay đến Thân cung cũng là có cùng chung một cách cục, bởi vì Dần Thân là cùng nằm trên 1 tuyến, chính là đạo lộ thứ nhất của Cái Thiên, gọi là "Dịch Mã tuyến", cũng là Động thái tuyến, hay còn gọi là Giao hội tuyến. Sáu "nhu tinh" là Cơ, Nguyệt, Lương, Đồng, Cự, Nhật ở tại đây đều giao hội chứ chẳng độc tọa (tại Tý Ngọ, Sửu Mùi, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi thì còn có độc tọa), chỉ có các "cương tinh" như Sát Phá Tham thì ngoại lệ (tức là có độc tọa đơn tinh trên trục Dần Thân). Cái lý tương tự, bất kể đơn tinh hay song tinh lạc nhập Mão hay Dậu, Thìn hay Tuất, Tị hay Hợi, Tý hay Ngọ, Sửu hay Mùi, cũng đúng như vậy.

Cho dù cung nào đó vô tinh, cũng phải "tá nhập" (mượn nhập) tinh ở đối cung mà nghiên cứu, có thể nói "Tam hợp bất như đối chiếu" (tam hợp chiếu không bằng đối chiếu), đây chẳng phải là là một biểu hiện khác của phép luận theo Cái Thiên đó ru?

"Nội kinh" cũng là phép luận Cái Thiên, bởi vì chỉ xem bán diện, cho nên mới đem 12 Địa Chi mà phân ra làm Tý Ngọ, Sửu Mùi, Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, 6 nhóm bao gồm có âm dương, mỗi nhóm tương hỗ về mâu thuẫn, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Thiếu Dương, Dương Minh cùng Thái Dương; lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Quyết Âm, Thiếu Âm cùng Thái Âm, vị chi là "Tam âm Tam dương", hợp xưng là "lục nguyên". Bởi vậy có thể thấy được "Nội kinh" có tồn tại 6 đạo của Cái Thiên.

Tiết thứ hai: Nhật Nguyệt

Nhật Nguyệt tức Thái Dương với Nguyệt Lượng (hình cầu), Thái Dương gọi tắt là "Nhật" còn Nguyệt Lượng gọi tắt là "Nguyệt", tên cổ gọi là Thái Âm. Chúng là những thiên thể có quan hệ với Địa Cầu đúng thực là cực kỳ mật thiết. Loài người hiện nay đã biết Lịch Pháp với cặp tinh thể này có mối quan hệ trực tiếp. Ở trong môn Tử Vi Đẩu Số thì có Thái Dương tinh với Thái Âm tinh là cặp sao đối ứng. Vả lại áp dụng với Thái Dương cùng Nguyệt Lượng cũng tương quan về Âm Dương đắp đổi.

2.1 Mối quan hệ của Địa Cầu với Thái Dương theo đúng tri thức khoa học thiên văn

Ngày nay Thiên Văn học hiện đại chính là quan sát theo Hồn Thiên, trước hết lý giải quan sát hệ tham chiếu của vũ trụ chính là Địa Cầu.

Địa Cầu là một hành tinh thành viên của hệ mặt Trời. Địa cầu cùng lúc vừa quay quanh Thái Dương nhưng nó cũng vừa tự xoay quanh Địa trục của mình.

Địa Cầu xoay quanh Địa trục gọi là tự quay, giả sử chúng ta ở tại xích đạo thì phía tay trái đích thị là hướng Đông, phía tay phải đích thị là Tây (QNB chú: họ mặc định hiểu là mặt luôn hướng về Nam), phép tự quay của Địa Cầu là từ Tây sang Đông. Một vòng tự xoay của Địa cầu ước chừng khoảng 24 giờ nhỏ (tiểu thì), trên thực tế thì chính xác là 23 giờ 56 phút 46 giây), thời gian này là 1 ngày đêm.

Địa cầu từ Tây đi vòng quanh, hướng về phía Đông mà xoay quanh Thái Dương gọi là chu trình quay, và chu trình quay này là một vòng tròn khép kín có hình elip. Quỹ đạo mà Địa cầu xoay quanh Thái Dương có độ dài khoảng chừng chín trăm ba mươi triệu km. Bởi vì quỹ đạo này có hình elip cho nên Địa Cầu có lúc thì gần với Thái Dương, có lúc lại xa so với Thái Dương. Trái đất đi trên quỹ đạo quanh mặt trời với vận tốc 29.8 km/s, và trải qua 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây là đi được 1 vòng xung quanh mặt trời. Người ta lấy thời gian này mà quy định là 1 năm.

Trái đất xoay quanh mặt trời với một đặc điểm quan trọng, chính là trục tự xoay của nó xiên nghiêng đối với mặt phẳng của quỹ đạo quanh mặt trời, hình thành 1 góc là 66 độ 30 phút. Hơn nữa, trong quá trình xoay quanh mặt trời thì trục của trái đất luôn luôn chỉ về hướng sao Bắc Cực.

Thái Dương là trung tâm của Thái Dương hệ, và nó cách trái đất một cự ly trung bình khoảng 1 trăm năm mươi triệu km, khối lượng trung bình gấp 333 ngàn lần khối lượng trái đất. Mặt Trời mà ta nhìn thấy trên không trung đó chính là sự biểu kiến.

QNB chú: lược bỏ một đoạn khá dài về các thông số của Mặt Trời theo thiên văn học hiện đại như, nhiệt độ, thành phần hóa học của vật chất trên Mặt trời, điểm đen,…

2.2 Nguyên nhân hình thành Ngày, Đêm và Bốn mùa

Địa Cầu tự xoay từ Tây sang Đông, hướng một mặt về phía Thái Dương mà nhận ánh dương quang chiếu tới, đó là Ban Ngày. Còn nửa lưng kia của địa cầu là Đêm tối. Bởi vì địa cầu luôn luôn tự xoay quanh trục của mình, cho nên các địa phương ở trên địa cầu đều có hiện tượng thay đổi từ ngày qua đêm. Và các địa phương phía Đông sẽ thấy Mặt trời sớm hơn các địa phương ở phía Tây.

Vì trục Trái Đất luôn nghiêng một góc 23.5 độ trong khi xoay quanh Mặt Trời, nên lượng ánh sáng và đồng thời là lượng nhiệt mà các phần bề mặt của trái đất nhận được từ sự chiếu xạ của Mặt Trời là không đều nhau. Có nơi nhận được nhiều ánh sáng và nhiệt lượng hơn, ngày cũng dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Hè. Đến khi chính nơi ấy nhận được ít ánh sáng và lượng nhiệt, đêm lại dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Đông. Có 2 khoảng thời gian mà 2 nửa bán cầu nhận được lượng nhiệt tương đối đều nhau, ngày và đêm có thời gian tương đương nhau, đó là vào 2 mùa Xuân và Thu.

2.3 Mặt Trăng theo tri thức khoa học thiên văn

Nguyệt cầu là thiên thể ở gần với Địa cầu nhất, khoảng cách trung bình là 384400 km, với hình dạng là một khối cầu tròn vành vạnh. Đường kính trung bình khoảng 3476 km, diện tích là 38 triệu km vuông, khối lượng vào khoảng 1/80 khối lượng của trái đất. Trên bề mặt của Mặt Trăng hầu như không có khí quyển và hơi nước.

Mặt Trăng quay quanh Trái Đất với hướng từ Tây qua Đông, theo quỹ đạo hình elip, nên mới có điểm Cận và điểm Viễn theo cự ly khoảng cách từ nó tới Trái Đất. Mỗi ngày, vào cùng một giờ so với ngày hôm qua, ta thấy Mặt Trăng mọc đến đúng địa điểm mà nó đã ở đó về phía Tây là chậm đi 50 phút. Trung bình cứ 27.3 ngày thì đi hết một vòng quỹ đạo quanh Trái Đất. Nhưng trong khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang quay quanh Mặt Trời, do đó khoảng thời gian giữa 2 lần Trăng tròn (ngày Rằm) là ước chừng 29.53 ngày.

Mặt Trăng không phát ra ánh sáng, mà cũng như Trái Đất, nó chỉ phản chiếu ánh sáng của Mặt Trời mà thôi. Từ lúc bắt đầu "Trăng non" (Sóc), thì các trình tự của Nguyệt Tướng là Sóc, Thượng Huyền, Vọng, Hạ Huyền. Thời gian từ ngày Sóc (mồng 1) tới Thượng Huyền là 7 ngày, rồi 7 ngày tiếp theo là sẽ đến Vọng (rằm). Khi ở các thời điểm Thượng Huyền và Hạ Huyền thì Mặt Trăng có hình bán nguyệt, nhưng ở Thượng Huyền thì nửa sáng nằm ở phía Tây còn vào Hạ Huyền thì nửa sáng ở phía Đông.

Vì Mặt Trăng xoay quanh Trái Đất, trong khi Trái Đất lại xoay quay Mặt Trời, cho nên có lúc Mặt Trăng sẽ nằm ở vị trí giữa của khoảng cách từ Trái Đất tới Mặt Trời, do đó nó không phản chiếu chút ánh sáng nào từ Mặt Trời xuống Trái Đất được. Thời gian lúc đó được gọi là không trăng hoặc là Trăng Non. Và bắt đầu đánh dấu ngày Sóc, ngày mồng Một - thời điểm khởi đầu của một tháng Sóc Vọng âm lịch.

2.4 Sơ lược về Nhật Thực và Nguyệt Thực

Để xảy ra Nhật Thực thì phải thỏa mãn 2 điều kiện, đó là:

- Phải nhất định là vào ngày Sóc.

- Mặt Trăng phải đi sát đến điểm giao của 2 đường Hoàng Đạo với Bạch Đạo.

Hoàng Đạo là đường đi của Trái Đất quanh Mặt Trời và Bạch Đạo là đường đi của Mặt Trăng quanh Trái Đất. Các đường đi được chiếu lên trên Thiên cầu. Hai mặt phẳng của 2 quỹ đạo này lệch nhau một góc 5 độ 9 phút, cho nên không phải ngày Sóc nào cũng xuất hiện Nhật thực.

Nhật Thực có thể phân làm 3 loại là: Nhật Thực toàn phần, Nhật Thực từng phần và Nhật Thực vành khăn.

Nguyên lý xảy ra Nguyệt thực so với Nhật Thực thì còn đơn giản hơn nhiều, đó là do khi Trái Đất nằm ở giữa khoảng cách từ Mặt Trăng tới Mặt Trời, khiến choTrái Đất sẽ che khuất ánh sáng chiếu từ Mặt Trời đến Mặt Trăng, cũng đồng nghĩa là bóng của Trái Đất lúc đó đang bao trùm lên bề mặt của mặt Trăng nên Mặt Trăng không thể phản chiếu ánh sáng Mặt Trời về phía Trái Đất được nữa.

Nguyệt Thực chỉ có 2 loại là Nguyệt Thực toàn phần và Nguyệt Thực từng phần.

2.5 Hoàng Đạo

Tử Vi tượng học với Hoàng Đạo thì không có liên quan trực tiếp, nhưng mà Hoàng Đạo lại là một nội dung rất quan trọng của Lịch pháp.

Do Trái Đất quay quanh Mặt Trời, nên từ mặt đất mà quan sát thì Hoàng Đạo là đường quỹ đạo của Thái Dương trên Thiên Cầu. Hoàng đạo lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, kinh độ của nó gọi là Hoàng Kinh, vĩ độ của nó gọi là Hoàng Vĩ. Trong đó, 4 điểm hoàng kinh 0 độ, 90 độ, 180 độ, 270 độ được gọi là điểm Xuân Phân, điểm Hạ Chí, điểm Thu Phân và điểm Đông Chí. Người xưa quen gọi là "Nhị Phân nhị Chí".

Trên mặt phẳng kéo dài vô hạn của xích đạo địa cầu, nó sẽ cắt Thiên Cầu tạo thành một vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích Đạo. Thiên xích đạo này giao với Hoàng đạo ở 2 điểm là Xuân phân và Thu phân, góc giao của chúng được gọi là góc giao hoàng xích (ước chừng 24 độ), đây là thuyết hoàng đạo vơi xích đạo của phép xem Hồn Thiên.

Trên Thiên Cầu mà lấy hoàng đạo làm khu vực hình vành khuyên trung tâm, gọi là vành đai Hoàng đạo, với bề rộng khoảng 16 độ, mỗi phía Nam Bắc đều 8 độ, thì ngoại trừ Diêm Vương tinh, thì Nhật Nguyệt và các hành tinh trong Thái Dương hệ đều di chuyển trong vành đai Hoàng Đạo.

Theo biểu hiện của Thái Dương ở trên các vị trí của Hoàng đạo mà người xưa đem phân chia vành đai Hoàng đạo thành 12 đoạn, gọi là Hoàng đạo thập nhị cung, lấy đích danh của chòm sao ở đó mà đặt tên. Lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, theo thứ tự của Bạch Dương, Kim Ngưu, Song Tử, Cự Giải, Sư Tử, Thất Nữ, Thiên Xứng, Thiên Hạt, Nhân Mã, Ma Yết, Bảo Bình, Song Ngư.

Người Trung Quốc xưa đã căn cứ vào vị trí của Thái Dương ở trên Hoàng Đạo mà phát minh ra một phương pháp phân chia Hoàng Đạo thành 24 Tiết Khí. Đó là 24 đoạn mà mỗi đoạn bình quân khoảng 15 ngày, cùng với Hoàng đạo thập nhị cung có sự đối ứng chuẩn xác.

Tên gọi của 24 Tiết Khí đối ứng với hàm nghĩa của mối quan hệ giữa sinh vật với khí hậu như sau:

Lập Xuân: thì Lập có ý nghĩa khởi đầu, Xuân là sự rục rịch, biểu thị rằng vạn vặt bắt đầu có sinh khí, vào ngày này thời kỳ của mùa Xuân bắt đầu.

Vũ Thủy: giáng Vũ khai Thủy (bắt đầu mưa xuống).

Kinh Chập: Vang động tiếng Sấm mùa Xuân, kinh động đến những sinh vật có giấc ngủ đông trong lòng đất, bắt đầu chui lên khỏi mặt đất để hoạt động.

Xuân Phân: đây chính là điểm trung tâm của 90 ngày mùa Xuân, ngày và đêm có thời gian tương đồng. Người xưa còn gọi Xuân Phân với Thu Phân là "Trú Dạ phân", tức "phần Ngày Đêm".

Thanh Minh: Trời trong trẻo sáng sủa thuần khiết, khí hậu ấm cúng, bắt đầu chồi lộc nảy nở sum xuê.

Cốc Vũ: Mưa xuống sinh cho ý nguyện của các loại cây lương thực, biểu thị rằng nước mưa bắt đầu tăng nhiều.

Lập Hạ: Ngày Hè bắt đầu, vạn vật dần dần nương theo khí hậu ấm áp để mà sinh trưởng.

Tiểu Mãn: Mãn ở đây là để ám chỉ hạt giống sung mãn, lúa và các loại cây mùa hè lúc này bắt đầu kết trái cũng như là trổ đòng đòng, sắp sung mãn, mẩy hạt.

Mang Chủng: bắt đầu có sự chín chắn ở các cây trồng, lúc này cũng là lúc mà mùa vụ bận rộn nhất của việc thu hoạch các cây trồng từ mùa xuân.

Hạ Chí: Ban ngày rất dài, ban đêm rất ngắn, vào ngày này thì Thái Dương ở vị trí tối cao trên vòm trời, và bóng nắng ngắn nhất, cổ đại còn gọi ngày này là "Nhật Bắc chí" hoặc là "Trường Nhật chí".

Tiểu Thử: với Thử chính là rất nóng nực, lúc này vẫn chưa đạt đến nhiệt độ cao nhất.

Đại Thử: là lúc mà mức độ nóng nực cũng như nhiệt độ là cao nhất.

Lập Thu: ngày Thu bắt đầu, cây cối gần chín chắn.

Xử Thử: với Xử có nghĩa là ngưng lại, biểu thị cái khí nóng nực (Thử) đến lúc chấm dứt.

Bạch Lộ: Thủy khí trên mặt đất ngưng kết lại thành sương, có sắc trắng, khí trời bắt đầu chuyển sang mát mẻ.

Thu Phân: chính là điểm chính giữa của thời gian 90 ngày mùa Thu, ngày này có thời gian của Ngày và Đêm dài như nhau, giống như lúc Xuân Phân, Thái Dương theo Chính Đông mà mọc lên và theo Chính Tây mà lặn xuống.

Hàn Lộ: Sương nước lúc trước thì trắng mà sau thì lạnh, khí hậu đang dần chuyển sang lạnh.

Sương Giáng: Sương lạnh đã đến.

Lập Đông: với Đông có nghĩa là cuối cùng, ý tứ là cây trồng sau khi thu hoạch thì phải cất giữ, bảo tồn. Vào ngày này là bắt đầu mùa Đông đến.

Tiểu Tuyết: bắt đầu có tuyết rơi, nhưng vẫn còn chưa nhiều.

Đại Tuyết: Lương Tuyết xuống đã từ ít mà thành nhiều rồi.

Đông Chí: vào chính Ngọ của ngày này thì Thái Dương ở vị trí thấp nhất trên vòm trời, ban ngày ngắn nhất và ban đêm dài nhất trong năm. Cổ đại còn gọi là "Đoản nhật chí" hoặc là "Nhật Nam Chí".

Tiểu Hàn: Khí lạnh tích lũy lâu ngày mà thành ra giá rét, nhưng lúc này vẫn chưa đến cực điểm.

Đại Hàn: Sự giá rét đã đến cực điểm.

Danh xưng của Tiết Khí phần lớn là mô tả mối quan hệ và phản ứng của vạn vật đối với khí hậu, nói về lúc khởi điểm hay là trung điểm của thời gian mùa vụ, lấy làm phương tiện cho việc canh nông.

Bởi vì trên thực tế Tiết Khí phản ánh sự thay đổi của khí hậu ứng với chỗ vận hành của Thái Dương, cho nên 24 Tiết Khí là sản phẩm tự nhiên của dương lịch, không có liên quan tới âm lịch. Để điều hợp sự khác biệt của năm dương lịch hồi quy với âm lịch tính theo trăng, nông lịch dùng 24 Tiết Khí cứ số chẵn thì gọi là Trung Khí - gọi tắt là Khí, số lẻ thì gọi là Tiết Khí - gọi tắt là Tiết, mà lại còn đem mỗi Trung Khí tiêu chuẩn hóa vào trong các tuần trăng nông lịch, như Vũ Thủy thì định là ở tháng Giêng, Xuân Phân thì định ở tháng Hai, Cốc Vũ định tại tháng Ba,... cứ thế suy ra. Ngoài ra, tên tháng cũng phải hòa hợp đối ứng với Trung Khí.

Trong 24 Tiết Khí lấy Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân, Lập Đông và Đông Chí làm 8 Tiết Khí tối trọng yếu. Mỗi cái ước chừng cách nhau 46 ngày. Mỗi một năm phân làm bốn mùa, lấy "Lập" mà biểu thị Tiết ở sự bắt đầu của mỗi mùa, lấy "Phân" với "Chí" để biểu thị Tiết ở giữa của mùa.

Vì công lịch với Tiết Khí đều y theo năm Mặt Trời quy định, cho nên công lịch với 24 Tiết Khí có sự đối ứng tương đối chuẩn xác, trước sau đều không có sự sai lệch quá 2 ngày. Người ta tổng kết ra ca quyết dưới đây (mỗi chữ là một Tiết Khí):

Tiết khí ca:

Xuân vũ kinh xuân thanh cốc thiên,

Hạ mãn mang hạ thử tương liên;

Thu thử bạch thu hàn sương giáng,

Đông tuyết tuyết đông tiểu đại hàn.

Thượng bán niên lục nhật nhập nhất,

Hạ bán niên bát nhật nhập tam;

Mỗi niên nhị nguyệt khai thủy toán,

Tối đa tương soa nhất lưỡng thiên.

(Xin độc giả xem lại bảng chi tiết vầ 24 Tiết Khí bên trên, trong bài này thì khổ thơ sau nói về cách nửa năm đầu thì dùng ngày 6 và ngày 21 để định Tiết Khí, còn nửa năm sau thì dùng ngày 8 và ngày 23. Mỗi năm dùng tháng 2, tức là vào Xuân Phân, lúc mặt trời ở kinh độ 0 để bắt đầu tính, tối đa của sự lệch các Tiết Khí là không được sai quá 2 ngày).

Đó là bởi vì Địa Cầu chuyển động với quỹ đạo hình elip quanh Mặt Trời, cho nên tại nơi gần với điểm cận mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ khá nhanh, còn tại nơi cần với điểm xa mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ chậm.

2.6 Bạch Đạo

Bạch Đạo tức là lấy mặt phẳng quỹ đạo của Mặt Trăng quay quanh Địa Cầu kéo dài vô hạn ra giao với Thiên Cầu thành một vòng tròn lớn. Mặt Trăng vốn quay quanh Địa Cầu một vòng hết 27 ngày 7 giờ 43 phút, nhưng đồng thời Mặt Trăng lại theo Trái Đất mà chuyển động xung quanh Mặt Trời, cho nên một chu kỳ Nguyệt Tướng với tháng Sóc Vọng luôn là 29 ngày 12 giờ 44 phút.

Mối tương quan các loại hình thái ánh trăng thuộc Hối Sóc, Thượng Huyền, Hạ Huyền chính là được hiểu dưới dạng Tướng vị (vị trí của đại lượng có sự biến đổi theo biểu đồ hình sin), xin tham khảo thêm kiến thức về nguyệt cầu ở tiết 1. Cần phải chú ý rằng, mỗi tháng trong nông lịch đều lấy ngày Sóc (tức là ngày mà không thấy ánh trăng) để làm ngày đầu tiên trong tháng.

Bởi vì quỹ đạo của Mặt Trăng là có dạng hình elip, nó vận hành với tốc độ có lúc chậm lúc nhanh, cổ nhân tổng kết là:

Mỗi tháng từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 4 thì mặt trăng tiến rất nhanh - mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 14 độ,

từ ngày mồng 5 tới ngày mồng 8 thì tốc độ tiến mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 13 độ,

từ ngày mồng 9 tới ngày 19 tốc độ rất chậm - chỉ khoảng hơn 12 độ một ngày đêm,

từ ngày 20 tới ngày 23 thì mặt trăng lại di chuyển với tốc độ hơn 13 độ một ngày đêm,

từ ngày 24 đến ngày 30 thì mỗi ngày đêm lại di chuyển khoảng hơn 14 độ một ngày đêm.

Do Mặt Trăng có kỳ vận chuyển là hơn 27 ngày, trong khi đó lại có 28 chòm sao, thành ra gần như mỗi một ngày đêm thì Mặt Trăng đi qua 1 chòm sao. Theo đó mà người xưa đã coi Mặt Trăng cùng với Nhị Thập Bát Tú có sự đối ứng qua lại (có sự bất đồng về kiến giải, chưa phân biệt rõ thực hư, cái này là ở trong thuyết của Lục Nhâm):

Chính nguyệt sơ nhất khởi vu Thất;

Nhị nguyệt sơ nhất khởi vu Khuê;

Tam nguyệt sơ nhất khởi vu Vị;

Tứ nguyệt sơ nhất khởi vu Tất;

Ngũ nguyệt sơ nhất khởi vu Sâm;

Lục nguyệt sơ nhất khởi vu Quỷ;

Thất nguyệt sơ nhất khởi vu Trương;

Bát nguyệt sơ nhất khởi vu Giác;

Cửu nguyệt sơ nhất khởi vu Đê;

Thập nguyệt sơ nhất khởi vu Vĩ;

Đông nguyệt sơ nhất khởi vu Đẩu;

Tịch nguyệt sơ nhất khởi vu Hư.

(QNB chú: tức là ứng với mồng Một của Tháng Giêng thì ở sao Thất,... mồng Một tháng Chạp thì ở sao Hư)

Mỗi tháng khởi ở mồng Một,

Mỗi ngày đi được 1 chòm sao

Gặp Khuê, Trương, Tỉnh, Dực, Đê

Thì lưu lại một ngày

Đếm tới ngày âm lịch, tức chỗ của Thái Âm.

Cái này thuộc diện đạo đồ cổ về Nguyệt (bên dưới), dành cho tham khảo nghiên cứu

2.7 Đông Hạ thì tập trung vào Nhật (Đông Hạ trí Nhật), và Xuân Thu thì tập trung vào Nguyệt (Xuân Thu trí Nguyệt)

Lấy 12 Địa Chi, 28 Tú, phối ở đồ hình 12 cung viên, có thể biết chỗ Tị Ngọ Mùi 3 cung là Tung hệ, còn Dần Mão Thìn 3 cung là Hoành hệ, trước thì lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt để tính toán, sau thì dùng lấy Đông Hạ tập trung vào Nhật để tính toán. Cho nên "Nội Kinh" lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Tam Âm, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Tam Dương.

Lấy Đông Chí làm điểm khởi đầu, tất Thái Dương xuất ở giờ Thìn và nhập ở giờ Thân. Xuân Thu Phân thì tất Thái Dương xuất ở giờ Mão mà nhập ở giờ Dậu. Hạ Chí tất Thái Dương xuất ở Dần mà nhập ở Tuất. Đó được gọi là "Nhật hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nhật), tức là Đông Hạ thì tập trung vào quy luật của Nhật.

Nếu như lấy Xuân Phân làm điểm khởi đầu, thì Thái Âm xuất ở Hợi mà nhập ở Tị. Nhị Chí thì tất Thái Âm xuất ở Tý mà nhập ở Ngọ. Thu Phân thì Thái Âm xuất ở Sửu mà nhập ở Mùi. Được gọi là "Nguyệt hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nguyệt), tức là Xuân Thu thì tập trung vào quy luật của Nguyệt.

Chuyên gia phái Cái Thiên lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt, đem thời gian Xuân Thu Phân mà có ngày đêm bằng nhau chia đều thành 180 độ, cảm thấy Nhật đi 1 độ, Thái Âm ở trên Nguyệt đạo đi 13 độ lẻ 7/19, được gọi là "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt vận hành với khoảng cách gấp bội phần).

2.8 Tử Vi với Nhật Nguyệt

Sách “Thái Ất Tinh Kinh”, chương Thiên Văn có viết:

Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế. Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch. Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

=

Trời xoay về bên trái (ngược chiều kim đồng hồ), từ Đông sang Tây, vòng Chu Thiên là 12 canh giờ, chính là một ngày, cho nên ban ngày ban đêm thay nhau đắp đổi. Nhật quay về bên phải (thuận chiều kim đồng hồ), từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh thay nhau đổi trao. Nguyệt quay về bên phải, từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 27 lẻ 1/3 ngày, Nguyệt chẳng có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật thành tượng, theo đó mà có Sóc Vọng, từ Sóc này đến Sóc kế tiếp là 29 lẻ 1/2 ngày, chính là một tháng, cho nên có tròn có khuyết đan xen.

“Trời xoay về bên trái” (Thiên tả toàn), tức là cái lý của việc Địa Cầu tự xoay ngày nay, nguyên nhân là do phái Cái Thiên lấy Địa làm Bản Thể, mà do Địa Cầu tự xoay cho nên thấy như là bầu Trời xoay về bên trái, bởi vậy phân chia thành 12 giờ, chính là tham số thời gian của Tử Vi. (QNB chú: xin lưu ý rằng đây là nói trong sách Thái Ất Tinh Kinh, người quan sát đứng ở mặt đất, nhìn về phía Bắc = diện Bắc, để quan sát ngôi sao Thái Ất = sao Bắc Cực, cho nên mới thấy bầu trời như đang quay quanh ngôi Thái Ất chí tôn, từ phía Đông ở bên tay phải mà xoay về bên trái là phía Tây).

Cái cụm “Ngày đêm thay nhau đắp đổi” (Trú dạ tương thế) chính là vào lúc 23h:00 của Lịch của phương Tây ngày nay, tức lúc 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm ngày hôm trước (Cái thuyết giờ Tý sớm với giờ Tý muộn là sai lầm không chấp nhận được, khiến cho để lại di hại vô cùng).

Thuật Tử Vi lấy Tháng và Giờ để mà xác định Mệnh cung, nguyên nhân thì cổ thư diễn đạt không thỏa đáng, thành ra các học giả lý giải loằng ngoằng. Nghiên cứu kỹ thì thực ra chính là lấy giờ Tý làm kim la bàn chỉ hướng, lấy thêm bàn pháp để mà quan sát (tham khảo thêm chương 1 nhân đạo mệnh học cương), thì sẽ rõ ràng ngay cái ý của nó.

Cái gọi là "Đông Hạ trí Nhật" nguyên nhân do thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, cho nên lấy Thái Dương xuất Mão nhập Dậu của Xuân Thu nhị Phân mà làm chuẩn, tức là áp dụng việc lấy chi Mão trong 3 "Tung" là giờ Mão để mà làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Cái gọi là "Xuân Thu trí Nguyệt", nguyên nhân là do Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy Thái Âm xuất Tý nhập Ngọ của Đông Hạ nhị Chí mà làm chuẩn, tức là lấy giờ Tý trong 3 "Hoành" để làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Đây chính là nguyên lý Lập Mệnh ở trong các thuật Thất Chính Tứ Dư với Tử Vi Đẩu Số.

(QNB chú: tam Tung với tam Hoành, xem lại ở mục 2.7 thì sẽ rõ).

Lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), thì Nhật Nguyệt có vẻ như là đều theo bầu trời mà quay về bên trái, nhưng Nhật Nguyệt tự riêng nó cũng vận chuyển về phía bên phải, Thái Dương lấy 365.2425 làm một chu kỳ hoàn thành trên vòng Hoàng Đạo, gọi là "Tuế chu" (chu kỳ 1 năm), tức là ngày nay được hiểu rằng Trái Đất quay được 1 vòng trên quỹ đạo của nó quanh Mặt Trời. Bởi vì Tử Vi Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một niên chu là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận có 383 hoặc 384 ngày, mà không có liên quan gì đến chu kỳ của Thái Dương trên Hoàng Đạo cả.

Chu kỳ quay quanh Địa Cầu của Nguyệt vốn chỉ là 27.33 ngày, do lấy Địa làm bản thể cho nên không thể xem kỹ, (khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang đồng thời quay quanh Mặt Trời) duy chỉ có thể quan sát chu kỳ Sóc Vọng của Nguyệt Tướng, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ của nó là 29.53 ngày, đó là nguyên nhân mà Lịch Pháp phân chia tháng đủ thì có 30 ngày, tháng thiếu thì có 29 ngày, bình quân là có 29 lẻ 1/2 ngày.

Tử Vi lấy số ngày của lịch Thái Âm để phối hợp với Nạp Âm cung khí để mà xác định Tử Vi tọa lạc ở cung nào, lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, quả thực là "Nguyệt Tướng pháp".

"Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhất chương thập cửu niên, thất nhuận, nhuận hữu thập tam nguyệt.

=

Nhật hành 1 độ, Nguyệt hành 13 độ lẻ 7/19, chu nên cứ một kỳ 19 năm (QNB chú: thuật ngữ Thiên Văn cổ gọi 1 kỳ 19 năm = 1 Chương) lại có 7 năm nhuận, mỗi năm nhuận có 13 tháng.

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" của Thiên Văn học cổ. Tại sao mà mỗi Chương có 7 Nhuận, cùng với "Nguyệt hành bội ly" trùng khớp như thế? Việc này là cái kỳ diệu của Thiên Địa, quả thực không phải là cái mà tâm lực thiển cận của Minh Đăng tôi có thể sáng tỏ được vậy.

Tiết thứ 3: Lịch Pháp

3.1 Thuật sơ lược về Lịch Pháp

Lịch Pháp chính là phương pháp tính toán các đơn vị thời gian Năm Tháng Ngày Giờ, theo một tổ hợp quy tắc nhất định, tạo điều kiện cho loài người có thể tính toán rõ ràng một hệ thống thời gian dài hạn. Từ cổ chí kim, trong và ngoài nước thì có rất nhiều cách làm lịch, nhưng mà xét cho tới cùng thì không nằm ngoài 3 loại là: Thái Dương lịch, Thái Âm lịch, và Âm Dương hợp lịch. Ngoài ra Trung Quốc còn có một bộ lịch pháp ghi chép lại hệ thống Can Chi (Can Chi không phải là lịch pháp, mà nó chỉ là một loại phương pháp ghi chép của thời gian, để rõ hơn thì xem trong cương lĩnh của ngũ hành số học).

Trong ba loại lịch pháp trên, thì Năm với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Dương lịch. Tháng với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Âm lịch. Năm Tháng Ngày đều căn cứ vào yếu tố Thiên Tượng gọi là Âm Dương hợp lịch.

Thái Dương lịch là hoàn toàn căn cứ vào quy luật Địa Cầu quay quanh Thái Dương mà đặt ra lịch pháp, Dương lịch hiện tại chính là 1 dạng thông dụng (thuộc nhóm Cao Thụy lịch) của Thái Dương lịch, nó hoàn toàn không suy xét đến các tình huống mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất.

Thái Âm lịch là dựa vào quy luật mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất để mà đặt ra lịch pháp. Thời cổ đại, người ta đã tổng hợp quy luật tròn khuyết của Mặt Trăng, lấy cái ngày mà Trăng tròn gọi là ngày Vọng, lấy cái ngày mà hoàn toàn không có Trăng gọi là ngày Sóc, quy định mỗi tháng thì ngày mồng Một là ngày Sóc, mỗi tháng thì ngày 15 hoặc 16 là ngày Vọng. Bởi vì Nguyệt Tướng có chu kỳ là 29.53 ngày, cho nên lại phân chia ra có tháng đủ 30 ngày và có tháng thiếu 29 ngày, cứ lấy ngày đầu tháng nhất định là Sóc, ngày giữa tháng nhất định là vọng, đây chính là Thái Âm lịch thuần túy.

Do quy tắc ấy không quan tâm đến các tình huống của năm hồi quy (tức là năm mặt trời), thời gian một ngày là bao lâu, cho nên sẽ gặp phải tình huống mà mùa hạ xuất hiện ở tháng 11 hay tháng 12, khiến cho có sự bất lợi đối với việc canh nông cũng như các hoạt động xã hội. Chính vì vậy đã tự nhiên đưa đến nhu cầu sinh ra một loại lịch pháp mới, đó là loại hợp lịch để điều hòa giữa Thái Âm lịch với Tiết khí, gọi là Âm Dương hợp lịch.

Âm Dương hợp lịch là loại lịch pháp mà vừa dựa vào sự Tròn hay Khuyết của Mặt Trăng, lại vừa khảo sát trù định tháng Nhuận sao cho cân đối với năm mặt trời. Cho nên trên thực tế nó phải chú ý đồng thời đến cả Hoàng Đạo (Thái Dương chu kỳ) và Bạch Đạo (Thái Âm chu kỳ).

Âm Dương hợp lịch lấy nông lịch làm điển hình, nông lịch ước chừng có tới 1 vạn năm lịch sử, lấy lịch pháp triều Hạ để làm đại biểu, cho nên gọi là "Hạ lịch". Trừ thời Thái Bình Thiên quốc ban hành "Thiên lịch" ra, trước cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc thì lịch pháp đều thuộc về Âm Dương hợp lịch. Ngoài những đặc thù là đã coi trọng Nguyệt Tướng tròn khuyết như thế nào, lại kiêm cả biểu thị Tiết Khí nóng lạnh ra làm sao, độ dài của tháng đều dựa vào thiên tượng. Lịch tháng với lịch năm quả thực là có giá trị quân bình ở tháng Sóc Vọng với năm Mặt Trời, tháng đủ là 30 ngày, tháng thiếu là 29 ngày, mỗi tháng lấy Nguyệt Tướng mà khởi điểm, trung bình 1 năm có 12 tháng, có 354 hoặc 355 ngày, cứ 19 năm lại có 7 năm nhuận; năm nhuận có 13 tháng và cả năm có 384 hoặc là 385 ngày.

Từ xưa tới nay, nông lịch đều là lịch pháp có thành văn, lịch sử từ thời khai thủy Chuyên Húc lịch, trước sau đã có cả thảy 94 lần thay đổi lịch, xuất hiện rất nhiều lịch pháp như Chuyên Húc lịch (từ thời tối cổ cho đến thời Hán), Tứ Phân lịch (thời kỳ Chiến Quốc), Thái Sơ lịch (Đông Hán), Tam Thống lịch (Tây Hán), Càn Tượng lịch (Tam quốc - Ngô), Cảnh Sơ lịch (Tam quốc - Ngụy), Nguyên Gia lịch, Đại Minh lịch (Nam triều), Khai Hoàng lịch, Đại Nghiệp lịch (triều đại Tùy), Sùng Nguyên lịch (triều đại Đường), Thống Thiên lịch (Triều đại Tống), Thụ Thời lịch (Triều đại Nguyên),... Nông lịch hiện hành chính là nông lịch tốt nhất được triều Thanh ban hành gọi là Thời Hiến lịch.

3.2 Giới thiệu sơ lược về Công Lịch (dương lịch phương Tây).

Công Lịch còn được gọi là Cách Liệt lịch, là một loại Thái Dương lịch thuần túy, là loại lịch pháp quốc tế thông dụng hiện nay được công nhận có tính chính xác. Từ năm 1911, khi Dân Quốc thành lập trở về sau, Trung Quốc vẫn luôn chọn dùng loại lịch pháp này. Công Lịch đã có đến gần 4000 năm lịch sử, sớm nhất có thể truy nguyên đến Thái Dương lịch của Ai Cập cổ đại, trong lịch sử của nó đã có hơn hai lần cải cách trọng đại.

Người Ai Cập cổ đại căn cứ vào sự ẩn hiện của sao Thiên Lang cùng với quy luật ngập lụt của con sông Ni - La (tức sông Nin, còn gọi là Ni La hà), tính toán ra một năm có 365 ngày, rồi theo đó mà bày ra Thái Dương lịch, về sau dần dần được các dân tộc khác tiếp thu lấy để dùng.

Vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, vị đại đế độc tài của La Mã là ông Khải Tát (tức Gaius Julius Caesar) đã mời chuyên gia thiên văn học của Ai Cập, lấy lịch pháp Thái Dương của người Ai Cập làm cơ sở, tiến hành lần chỉnh sửa trọng đại thứ nhất, người đời sau gọi là "Khải Tát lịch" (Lịch Julius), điểm thành quả chính yếu trong Khải Tát lịch chính là "Tứ niên nhất nhuận" (4 năm có 1 năm nhuận).

Nguyên nhân của 4 năm có 1 nhuận là, mỗi chu kỳ của năm Mặt Trời là 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây, mà trong phép làm lịch chỉ có khả năng sử dụng số ngày là con số nguyên để làm đơn vị. Thông thường thì lấy 365 ngày làm 1 năm Nhật lịch, nhưng như thế thì cứ 4 năm lại sai lệch 23 giờ 15 phút 4 giây, là gần một ngày, cứ 50 năm sau thì lại sai lệch chừng 50 ngày, cứ thế mãi về sau, thì có thể sẽ xảy ra tình huống mà ngày đầu năm Nhật lịch rơi vào mùa hè, trong khi trên thực tế thì ngày đầu năm phải rơi vào mùa đông. Thế nên Khải Tát lịch quy định: năm thứ nhất, năm thứ hai, năm thứ ba mỗi năm đều là 365 ngày, gọi là năm thường (Bình niên), đến năm thứ tư thì cộng thêm 1 ngày là 366 ngày, gọi là năm nhuận (Nhuận niên).

Khải Tát lịch lấy mỗi năm chia thành 12 tháng riêng biệt, trong đó tháng 1, tháng 3, tháng 5, tháng 7, tháng 8, tháng 10, tháng 12 đều là tháng đủ 31 ngày, ngoài ra đều là tháng thiếu, mỗi tháng đều có 30 ngày, riêng tháng 2 là có 28 ngày. Nguyên nhân gây ra cái tình huống này nghe nói là Khải Tát đại đế sinh vào tháng 7, ông ta kế nhiệm Giả Áo Cổ Tư Đô hoàng đế (tức ông Augustus) - người sinh vào tháng 8. Cả hai ông này đều khăng khăng lấy cái tháng sinh của mình phân định là tháng đủ 31 ngày, cho nên cái ông hiệu đính lịch khi ấy chẳng biết làm thế nào đành phải xử lý ở tháng 2 mà trước đó vốn đã được định là 30 ngày, lấy ra 2 ngày để phân vào tháng 7 và tháng 8, làm thỏa mãn yêu cầu của Hoàng Đế, rồi đến năm nhuận mà thêm vào 1 ngày thì sẽ thêm vào ở tháng 2. Theo đó mà mỗi năm thường thì tháng 2 có 28 ngày, còn đến năm nhuận thì tháng 2 có 29 ngày.

Phép xử lý năm nhuận kể trên trong lịch pháp Khải Tát còn chưa đủ độ chính xác, nguyên nhân là nó đem 23 giờ 15 phút 4 giây mà coi như là 1 ngày, thiếu so với thực tế là 44 phút 56 giây. Để giải quyết vấn đề này, năm 1582 thì Giáo Hoàng Cách Liệt Cao Thụy (QNB chú: Gregory XIII đã bỏ đi 10 ngày sai lệch trong tháng 10/1582 là từ 4/10 nhảy ngay sang 15/10) đã tiến hành lần cải cách trọng đại thứ hai, và quy định: năm nhuận phải có số chia hết cho 4, và năm cuối cùng của thế kỷ (tức là năm có số cuối là 00) thì phải chia hết cho 400. Đó chính là Cách Liệt lịch (Lịch Gregory) mà ta đang sử dụng cho đến ngày nay.

Sau khi trải qua 2 lần cải cách nói trên, thì lịch pháp càng trở nên chính xác, nhưng mà vẫn đang còn sai số nhỏ sau dấu phẩy, đòi hỏi cứ 4000 năm lại phải giảm đi 1 năm nhuận. Vì vậy, người lại bổ xung quy định: phàm là các năm công nguyên 4000, 8000, 12000,... mà chia hết cho 4000, thì không tính là năm nhuận.

3.3 Giới thiệu sơ lược về lịch Thời Hiến

Bộ lịch Thời Hiến thuộc thời kỳ Thuận Trị triều Thanh, do một người Đức có tên là Thang Nhược Vọng (Johann Adam Schall von Bell, vẫn gọi tắt là Adam Schall) từ triều đại nhà Minh sửa chữa dựa trên cơ sở của bộ "Sùng Trinh lịch thư" mà hoàn thành được bộ Âm Dương hợp lịch này. Chọn dùng các số liệu thiên văn của Tây phương, nhưng vẫn bảo lưu hình thức lịch pháp truyền thống của Trung Quốc, tuần tự có hai phiên bản "Giáp Tý nguyên lịch" cùng "Ất Mão nguyên lịch". Cái trước (Giáp Tý nguyên lịch) lấy năm Khang Hi thứ 38 (tức là năm 1648, Giáp Tý) làm khởi điểm suy tính, chọn áp dụng số liệu năm hồi quy Đệ Cốc (Tycho Brahe, cũng có thể là phiên âm tên của ông Đề-Các - Descartes) là 365,2421875 ngày, còn cái sau (Ất Mão nguyên lịch) lại lấy năm Ung Chính thứ nhất (1723, Ất Mão) làm khởi điểm, áp dụng số liệu năm hồi quy Ngưu Đốn (Newton) là 365,2423 ngày. Loại lịch này chính là loại Âm Dương hợp lịch tiên tiến nhất và khoa học nhất, hiện nay vẫn được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc và các Hoa kiều.

So với lịch pháp trước đây thì Lịch Thời Hiến có hai sự cải cách lớn nổi bật:

a, Lần đầu quy định, tháng Nhuận là một tháng như tháng kế trước đó, nhưng tháng được coi là Nhuận phải không chứa Trung Khí.

b, Thời triều Minh mạt thì lịch Đại Thống dùng phương pháp một giờ trăm khắc vạn phút, áp dụng đồng hồ do phương Tây chế ra, quy định mỗi nửa Thần (tức là nửa canh giờ cũ) coi là một tiểu giờ, mỗi tiểu giờ đó có 4 khắc, mỗi Thần là 8 khắc, mỗi khắc là 15 phút, một ngày là 96 khắc, tức 1440 phút. Tức là phương pháp chia thời gian như là ngày nay thông dụng.

Chú: Đặc điểm thứ hai trong lịch Thời Hiến nói trên thì có mối quan hệ cực kỳ mật thiết đối với Thiết Bản Thần Số. Còn đặc điểm thứ nhất thì có mối quan hệ mật thiết với Tử Vi Đẩu Số.

Ngoài ra thì lịch Thời Hiến còn có các đặc điểm như dưới đây:

c, Quy luật 19 năm 7 nhuận

Năm thường của nông lịch có 24 Tiết Khí, gồm 12 tháng, mỗi tháng Sóc Vọng đó có bình quân là 29.53 ngày, 12 x 29.53 = 354.36, cho nên năm thường của lịch Thời Hiến là 354 hoặc 355 ngày, mà năm thực tế (theo một vòng hoàng đạo) là 365.2422 ngày. Hai cái ấy sai lệch khoảng 11 ngày, lấy bội số chung nhỏ nhất của năm thực tế 365.2422 với Sóc Sách (độ dài tháng Sóc Vọng) 29.53, thì được 6939.6 ngày, tức khoảng 19 năm mặt trời (năm hồi quy), 235 tháng Sóc Vọng, 235 - 19x12 = 7, cho nên cứ 19 năm thì phải thiết lập 7 tháng nhuận.

d, Thiếp lập tháng Nhuận

Có hai loại phương pháp xác định Tiết Khí, một loại là phép Bình Khí (các khoảng thời gian giữa các Tiết Khí là bằng nhau), loại thứ hai là phép Định Khí (lúc giao Tiết Khí thì vị trí của Thái Dương là cố định bất biến), lịch Thời Hiến áp dụng phép Định Khí.

Tiết Khí bình quân là 30.44 ngày, độ dài một tháng Sóc Vọng là 29.53 ngày, giá trị sai lệch của nó tạo thành Nhuận dư, gần bằng 1 ngày, cho nên trong lịch Thời Hiến thì mỗi Tiết hoặc mỗi Khí đều lui về sau 1 ngày, tích lũy gần 15 ngày, Trung Khí sẽ chạy tới cuối tháng, như thế thì vào tháng sau tất nhiên không còn Trung Khí, mà chỉ có 1 Tiết Khí, tháng này chính là tháng Nhuận (nó không có tên tháng, nhưng được tiếp tục sử dụng tên của tháng ngay trước đó, gọi là "tháng... nhuận").

e, Hiện tượng năm Nhuận

Có tháng Nhuận, nên thành ra là năm Nhuận. Năm nhuận nông lịch có 25 Tiết Khí, trong đó có 2 tiết Lập Xuân ở đầu năm và ở cuối năm, gọi là "Lưỡng đầu Xuân", mà năm tiếp theo của năm Nhuận thì tất nhiên không có Lập Xuân, mà chỉ có 23 Tiết Khí, gọi là "Cách đầu Xuân" (chữ "Cách" có nghĩa là cách trở, ngăn cách, xa cách).

Bảng năm Nhuận theo lịch Thời Hiến đối chiếu từ năm công nguyên 1800 đến 2050:

Trong bảng trên cứ mỗi 19 năm lại có 7 năm nhuận, theo đó mà từ 1800 đến 2050 cộng 150 năm. Không nhuận vào các tháng: Giêng, tháng Một (Đông nguyệt), tháng Chạp (Tịch nguyệt).

QNB chú: Bảng trên là những năm Nhuận tháng Nhuận trong Lịch Thời Hiến, số liệu của nó giống với Lịch Vạn Niên được sử dụng ở VN nhưng lại khác với Âm Dương Lịch VN.

f, Tháng đủ với tháng thiếu

Tháng đủ là 30 ngày, so với tháng Sóc Vọng nhiều hơn 11 tiếng 15 phút 58 giây; còn tháng thiếu thì có 29 ngày, so với tháng Sóc Vọng thì ít hơn 12 tiếng 44 phút 2 giây. Trung bình thì mỗi tháng đủ và tháng thiếu lệch với tháng Sóc Vọng 1 tiếng 48 phút 4 giây, do đó mà tháng đủ nhiều hơn so với tháng thiếu mới có thể giữ nguyên được sự đồng bộ của Sóc Vọng. Trải qua thống kê, các tháng đủ ước chiếm 53% tổng số tháng, còn tháng thiếu thì ước chiếm 47%, hơn nữa là trong mỗi năm thì tháng nào đủ tháng nào thiếu là không giống nhau giữa năm nọ với năm kia.

g, Tiết Khí

Nông lịch chính là Âm Dương hợp lịch, trong đó cái gọi là "Dương" biểu thị có quan hệ với Thái Dương, biểu hiện tại chỗ chú giải thuyết minh về Tiết Khí.

Tiết Khí đối với việc trồng trọt nông canh là rất có sự tương trợ, tổng số 24 thành phần, biểu thị vị trí của Thái Dương ở trên đường Hoàng Đạo, một loại dùng đem Hoàng Kinh ra để mà đo lường, theo điểm bắt đầu 0 độ tại Xuân Phân, mỗi 15 độ là một Khí hoặc là 1 Tiết. Trong đó thì mỗi tháng sẽ có 1 Tiết với 1 Khí, tổng cộng là 12 loại Tiết và 12 loại Trung Khí (tháng Nhuận là ngoại lệ).

Trên thư tịch của lịch Thời Hiến, có thể hiểu rõ về ngọn ngành về Tiết với Khí.

h, Tháng Giêng

Lịch Thời Hiến lấy tháng Dần làm tháng Giêng, xưng là "Kiến Dần" hoặc là "Dần Chính".

Kiến Dần quy định từ triều Hán cho suốt về sau các triều đại đều tiếp tục sử dụng, chưa từng bao giờ thay đổi. Nhưng trước thời đại nhà Hán thì từng xuất hiện lịch pháp không giống thế mà lại Kiến Tý hoặc Kiến Sửu hoặc Kiến Hợi.

3.4 Tử Vi với Lịch Pháp

Tử Vi với Lịch Pháp có mối liên hệ rất mật thiết, nó áp dụng Thái Âm lịch, nhưng lại không phải Thái Âm lịch thuần túy mà còn có cả Âm Dương hợp lịch.

Cái gọi là Thái Âm lịch thuần túy, phải là không xét đến Thái Dương đi qua các cung, Tiết Khí với vấn đề tháng Nhuận của lịch pháp. Vì cơ bản là Thái Âm lịch không có khả năng xảy ra vấn đề tháng Nhuận, mỗi năm nó có 354 hoặc 355 ngày, giá trị sai số của nó với 365.2425 ngày của Tuế Chu hàng năm cứ tích lại ngày càng lớn, rồi sẽ xuất hiện lúc bắt đầu của lịch pháp lại xuất hiện ở ngày thuộc mùa Hè trong khi đúng ra thì nó phải thuộc vào mùa đông. Như thế thì bất lợi cho việc canh nông cùng với các hoạt động xã hội, tôn giáo, nên dần phải bị đào thải, và hiện nay thì không tìm được những thư tịch ghi chép đầy đủ về nó nữa.

Tử Vi biểu lộ rõ ràng sự giải quyết riêng của nó đối với tháng Nhuận, nó vẫn cứ phải suy xét đến vấn đề Tuế Chu của Mặt Trời, tại các tháng trước và sau của tháng Nhuận, điều đó với Âm Dương hợp lịch (Lịch Thời Hiến) là hoàn toàn tương đồng. Nói cách khác, Tử Vi tuy rằng không suy xét đến việc Thái Dương quá cung nhưng lại phải khảo xét chu kỳ của năm hồi quy, chứ không phải là hoàn toàn không suy xét đến Thái Dương. Bởi vì vậy, nếu mà nói là Tử Vi không xét đến Thái Dương quá cung, rồi mà lại nói dùng lịch pháp thuần túy Thái Âm lịch, thì đúng là kiểu kiến giải phiến diện.

Nguyên nhân của việc không suy xét đến Thái Dương đi đến cung nào thì rất đơn giản. 14 chính tinh của Tử Vi phải lấy ngày tháng âm lịch để định vị. Thái Dương với Thái Âm, mỗi loại đều đi trên đường của nó, mỗi tháng theo tháng Thái Dương có 30.44 ngày, mỗi tháng theo tháng Thái Âm có 29.53 ngày, mà ngày âm lịch là hoàn toàn căn cứ vào những tình huống xác định Sóc Vọng theo Thái Âm, cho nên trường hợp mà ngày mồng Một của âm lịch trở thành ngày Tiết Khí là rất khó thấy ở trong Âm Dương hợp lịch. Vì thế, nếu như mà áp dụng Tiết Khí để định tháng sinh trong khi lại áp dụng ngày của âm lịch (phản ánh vị trí của Thái Âm) để mà định 14 chính tinh, thì sẽ sa vào một tình cảnh cực kỳ khó xử:

Giả sử như hôm nay âm lịch là ngày mồng 6 tháng 6, thì Thái Dương vẫn còn chưa qua cung mà đến chỗ Tiểu Thử, tra cứu thuyết Tiết Khí, vậy Nguyệt Tướng tháng thứ 5 nắm lệnh, nhưng theo âm lịch đã sang tới tháng 6 rồi ; Nếu như toán theo Tiết Khí, đem ngày mồng 6 tháng 5, thì có thể thấy rằng ngày mồng 6 tháng 5 của âm lịch lại sớm đã qua lâu rồi. Hơn nữa, cái ngày mồng 6 của Âm lịch này với tháng 5 của tháng Thái Dương lại chẳng có tí liên quan gì cả, mà nó chỉ cùng với tháng 6 của tháng Thái Âm có liên quan thôi, biểu hiện là ngày thứ tự thứ 6 của tháng này. Do đó, số của tháng này chỉ có thể là số chu kỳ của tháng Thái Âm, mà tuyệt đối không thể là số chu kỳ của tháng Thái Dương.

Tử Vi trọng Thái Âm Bạch Đạo, còn Bát Tự thì trọng Thái Dương Hoàng Đạo, căn cứ lập luận của hai cái môn đó hoàn toàn không giống nhau. Một trong những căn cứ của việc nhập bàn của 14 chính tinh là theo ngày tháng nông lịch, cũng chính là trạng thái Sóc Vọng của Trăng (ánh trăng), lại tiến thêm một bước nữa nói là vị trí của Bạch Đạo.

Cơ thể con người có 80% là nước, chính như hiện tượng thủy triều đối với tác dụng của lực hấp dẫn của mặt trăng, khí huyết của cơ thể con người, kinh mạch của con người chịu ảnh hưởng lớn nhất của Mặt trăng. Cho nên Tử Vi Đẩu Số đặc biệt coi trọng vị trí và tác dụng của Thái Âm, cái điều này so với lý luận về nhịp sinh học hiện đại là trùng khớp.

Nguyên nhân chính là như thế, một tuần trăng là 29.53 ngày, hay là một chu kỳ Bạch Đạo, là số chu kỳ của "tháng Thái Âm" (tháng Sóc Vọng), chứ tuyệt đối không thể là số chu kỳ của "tháng Thái Dương". Không được phép, tại lúc an 14 chính tinh thì dùng tháng Thái Âm, mà tại lúc tính toán số tháng thì lại dùng tháng Thái Dương được. Do đó mà tại vấn đề tháng sinh nêu trên, nó không xét đến Tiết Khí.

Tiết thứ tư: Ngũ Tinh

Ngũ Tinh, ngày xưa còn gọi là "Ngũ Vĩ", là để chỉ 5 khối hành tinh trong Hệ Mặt Trời là Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh, Mộc Tinh và Thổ Tinh.

Thái Dương hệ có 9 đại hành tinh (năm 2003 phát hiện ra hành tinh thứ 10) là Thủy Tinh, Kim Tinh, Địa Cầu, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh, Thiên Vương Tinh, Hải Vương Tinh và Diêm Vương Tinh. Chín hành tinh này chính là đối tượng nghiên cứu của thuật Thất Chính Tứ Dư, mà ở trong lý luận của Tử Vi Đẩu Số thì Ngũ Tinh cũng có địa vị tương đương.

4.1 Kiến thức khoa học thiên văn của mối quan hệ Ngũ Tinh.

Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh với Địa Cầu có chung đặc điểm là: Thể tích tương đối nhỏ, mật độ tương đối lớn, có cùng bề mặt ngoài là thể rắn, nham thạch, có rất nhiều các loại nguyên tố kim loại, như vậy mà nói thì mặt ngoài có nhiệt độ tương đối cao, tốc độ tự quay tương đối chậm, vệ tinh tương đối ít. Về tính chất của các loại hành tinh này thì khả dĩ dùng Địa Cầu làm đại biểu, theo Thiên Văn học thì gọi là "Loại địa hành tinh" (hành tinh giống như Địa Cầu).

Mà đặc điểm chung của Mộc Tinh, Thổ Tinh (còn có cả Thiên Vương Tinh với Hải Vương Tinh) chính là: Thể tích khá lớn, mật độ tương đối nhỏ, nhiệt độ bề mặt ngoài tương đối thấp, không có thể rắn ở bề mặt ngoài, nhẹ, thành phần chủ yếu gồm có Hydro, Heli, Nitro, Carbon; tốc độ tự quay khá nhanh, có nhiều vệ tinh. Về tính chất của các loại hành tinh này thì có thể lấy Mộc Tinh làm đại biểu, trong Thiên Văn học gọi là "Loại mộc hành tinh" (hành tinh giống như Mộc Tinh).

Các hành tinh lớn bé trong Thái Dương hệ, trên thực tế có con số về đường kính và cự ly với là vô cùng lớn. Như đường kính của Thái Dương lớn gần gấp 10 lần đường kính của sao Mộc, mà sao Mộc vốn được coi là hành tinh lớn nhất trong số các hành tinh của Thái Dương hệ. Sao Thủy cách Thái Dương 3600 vạn dặm Anh, mà sao Diêm Vương thì lại có cự ly lớn hơn 100 lần con số đó. Ở trong đồ hình trên, không thể biểu diễn được là tỷ lệ thực tế của chúng.

Thủy tinh còn gọi là Thần Tinh, ở trong 9 đại hành tinh thì có cự ly so với Mặt Trời là gần nhất, thể tích và khối lượng là bé nhất. Bình thường thì với mắt thường rất là khó nhận biết được. Nó đúng là một quả cầu đá trơ trụi, 1 cái mặt mà nó hướng về phía mặt trời thì đặc biệt nóng; còn 1 cái mặt lưng kia của nó lại đặc biệt lạnh.

Do tốc độ quay của sao Thủy quanh Mặt Trời là rất nhanh, tốc độ tự quay của nó lại rất chậm, cho nên bình thường cứ ẩn hiện khó nhận biết, chỉ khi nào đó chạy đến 2 bên của Mặt Trời và ở vào chỗ xa Mặt trời nhất trên quỹ đạo của nó thì mới có thể thấy được.

Trước khi mà Mặt Trời lặn xuống dưới sau núi thì nó xuất hiện tại khoảng trời ở chỗ đường chân trời phía Tây, còn sau một thời gian nữa thì nó lại xuất hiện lúc tờ mờ sáng ở phương Đông, thông thường vào hạ tuần tháng 3 cho tới mấy ngày đầu tháng 4, Thủy Tinh với Kim Tinh gần kề nhau, thông qua ánh sáng rực rỡ của Kim Tinh mà chúng ta có thể thấy được Thủy Tinh, sau đó thì Thủy Tinh đến gần Mặt Trời và ta không thể thấy được nó nữa.

Kim Tinh còn được gọi là Khải Minh tinh (sao Mai), là Trường Canh tinh (sao Hôm), là Thái Bạch Tinh, Minh Tinh. Là một trong những hành tinh có cự ly rất gần với Địa Cầu. Ở trên bầu trời thì độ sáng của nó gần như chỉ đứng sau Nhật Nguyệt, tới mức mà vào ban ngày cũng có thể thấy được.

Về độ lớn bé, thể tích, khối lượng và mật độ đều gần tương tự như là Địa Cầu. Bầu khí quyển bề mặt của Kim Tinh dày gấp khoảng 100 lần bầy khí quyển bề mặt của Trái Đất. Tầng cao nhất của khí quyển có chủ yếu là khí Ôxy, tầng trung là vào khoảng 95% CO2, còn N2 có không quá 3%, O2 dưới 0.1%. Mặt mà Kim tinh hướng về phía Mặt Trời có nhiệt độ cao, mặt lưng của nó thì có nhiệt độ âm.

Sự tự quay của Kim Tinh lại có phương hướng không giống như của Thủy Tinh và của Trái Đất, nó tự quay từ Đông sang Tây, ngược với chiều quỹ đạo của nó khi quay quanh Mặt Trời. Do quỹ đạo quay của Kim Tinh quanh Mặt Trời là nằm phía trong quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời, cho nên Kim Tinh gần Mặt Trời hơn, vì thế mà đứng ở Trái Đất thì chỉ thấy nó ở quanh quẩn phía 2 bên của Mặt Trời. Lúc Kim Tinh ở phía Đông của Mặt Trời thì vào khi mà Mặt Trời lặn xuống phía sau núi thì ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Tây trên bầu trời hoàng hôn, cho nên gọi là Sao Hôm. Còn lúc Kim Tinh ở phía Tây của Mặt Trời, thì vào lúc bình minh, trước khi Mặt Trời xuất hiện là ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Đông của bầu trời, cho nên gọi là Sao Mai.

Hỏa Tinh có đa phần bề mặt là sắc đỏ, lấp lánh như lửa, mà độ sáng lại có sự thay đổi, hơn nữa là lúc đi xa thì hoặc là từ Đông chuyển qua Tây hoặc là từ Tây chuyển sang Đông, tình huống rất phức tạp, khiến cho người ta mê hoặc khó nắm bắt, cho nên có danh là Huỳnh Hoặc. Thể tích của nó nhỏ hơn so với Địa Cầu, chu vi khí quyển cực kỳ mỏng manh, có 2 tiểu vệ tinh.

Với Địa Cầu thì nó rất tương tự, cũng có ngày đêm và phân chia thành 4 mùa. Độ dày khí quyển cơ bản trên Hỏa Tinh so với khí quyển của Địa Cầu cũng tương đương là khoảng 15 đến 18 km, chủ yếu là CO2, sau đó là Argon, Oxygen, hàm lượng hơi nước vào khoảng 1/1000 cho nên trên Hỏa Tinh không có sinh vật. Nhiệt độ xích đạo trên Hỏa Tinh rất cao, tới gần khu vực Nam Cực của nó thì co lớp băng là với độ âm rất sâu.

Mộc Tinh cũng xưng là Tuế Tinh, do tại vành đai Hoàng Đạo nó đi mỗi năm một Thứ (Thứ có nghĩa là Trạm, theo thuật ngữ "triền thứ" trong Thiên Văn), tức là mỗi năm nó đi qua một cung trong 12 cung nên mới có cái tên là Tuế tinh. Khoảng chừng 12 năm thì nó đi được 1 vòng quanh Mặt Trời, thường dùng để ghi niên kỷ.

Thể tích với khối lượng của nó còn lớn hơn cả thể tích của tổng số 8 hành tinh kia cộng lại. Tốc độ tự quay của nó rất nhanh, hình dẹt mà rộng. Khí quyển xung quanh rất dày. Có tới 14 vệ tinh. Vì nó cách nguồn nhiệt rất xa cho nên nhiệt độ cực thấp, thành phần khí quyển chủ yếu là Hydro vào chừng 75%, còn 25% kia thì Heli chiếm quá nửa, còn lại là NH3, nước và khí CH4.

Mộc Tinh tự quay quanh trục gần như thẳng đứng so với mặt phẳng quỹ đạo của nó, do đó mà ở trên sao Mộc không có 4 mùa. Bởi vì sao Mộc có thể tích rất lớn, tốc độ tự quay lại nhanh, nên vật chất có xu hướng dạt về phía xích đạo của nó, và hình thành nên một vành đai xích đạo nhô ra, mà mà ở 2 cực lại dẹt.

Thổ Tinh cũng được gọi là Điền Tinh, Trấn Tinh, Tín Tinh. Có chu kỳ quay quanh Mặt Trời là 29.45 năm. Đại thể là tương xứng với số lượng của Nhị Thập Bát Tú. Nói chung mỗi năm nó tiến nhập một Tú, như là thay phiên bổ xung hoặc tọa trấn Nhị Thập Bát Tú, cho nên mới được gọi là Trấn Tinh.

Quang sắc của nó màu vàng, ánh sáng của nó thì trừ các hằng tinh ở chòm sao Thiên Lang ra, ít có sao nào có thể sánh được. Ngoại trừ 10 vệ tinh ở phía ngoài, nó còn có một vành sáng nhưng rất mỏng, mắt thường khó mà phân biệt được. Mật độ thấp nhất trong 9 đại hành tinh. Thổ tinh có nhiệt độ ở lớp vỏ rất thấp. Tốc độ quay xung quanh Mặt Trời là rất chậm, tốc độ tự quay thì rất nhanh.

Từ Đông sang Tây của Thổ Tinh có ánh sáng rất đẹp, trên bầu trời nó đúng là một đại kỳ quan. Quầng sáng của nó dọc theo đường xích đạo bao bọc lấy Thổ Tinh nhưng không hề tiếp xúc với nó, mà vận độ tự do trong không gian. Đó chính là do vô số tiểu vệ tinh tập hợp lại mà thành.

QNB chú: đã lược bỏ không dịch khá nhiều những đoạn nói chi tiết về thành phần hóa học, đường kính, tốc độ quay,… của cả 5 hành tinh trên theo kiến thức của khoa học thiên văn hiện đại.

4.2 Tử Vi với Ngũ Tinh

Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy, hợp xưng là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành Tượng, tại Địa thì hóa Hình, còn gọi là "Ngũ Đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng không thay đổi.

Sách "Thái Ất tinh kinh", chương Thiên Văn, viết rằng:

Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

=

Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm.

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết Long Mã Linh Quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng. Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản (nói kỹ thêm hãy xem ở chương 1 phần đại cương về âm dương dịch học).

Vì vậy dựa vào Hà Đồ, Ngũ tinh là căn nguyên của ngũ hành, mà theo sinh số của ngũ hành, thứ tự của Ngũ tinh là Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ, đây chính là sở luận của "Hồng Phạm" mà hậu nhân đều biết.

Mà theo sự sắp xếp thứ tự của tự nhiên đối với Ngũ Tinh thì là Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy.

Lấy Thổ là đầu tiên, Mộc Hỏa cùng một thể, Kim Thủy cùng một nhà. Từ Trung ương là 5, 10 Thổ mà chuyển sang Đông phương 3, 8 Mộc; từ đó mà thuận hành đến Nam phương 2, 7 Hỏa; đến Tây phương 4, 9 Kim; đến Bắc phương 1, 6 Thủy; tức là hoàn thành.

Sự sắp xếp trình tự của Ngũ Tinh này, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Ngũ Tinh bản tự" (thứ tự gốc của Ngũ Tinh) vốn có ý nghĩa rất trọng đại.

Từ đồ hình bên trên có thể thấy, trình tự này thực tế chính là trình tự xắp xếp của 5 hành tinh trong Thái Dương hệ trong Thiên Văn học.

Lấy Địa Cầu làm gianh giới, thì bên trái là Kim Thủy, bên phải là Hỏa Mộc Thổ, là âm dương lưỡng hệ.

"Thái Ất Tinh Kinh" chương Thiên Văn viết:

Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số. Tức, ngũ tinh mỗi tinh các hành 72 thiên, tắc hợp chu thiên 360 độ, tiền giả ( mộc hỏa thổ ) đích quỹ đạo đại nhi tại ngoại, kháp hợp Càn quái sách số 216; hậu giả ( kim thủy nhị tinh ) quỹ đạo tiểu nhi tại nội, kháp hợp Khôn quái sách số 144, cố viết"Càn Khôn chi số".

=

Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, thì Thổ Mộc Hỏa ở ngoài, còn Kim Thủy ở trong, các ti 72 ngày, là số của Càn Khôn. Tức là, Ngũ Tinh mỗi tinh đều đi 72 ngày thì hợp vòng chu thiên 360 độ. Quỹ đạo nhóm sao trước (Thổ Mộc Hỏa) là kích thước rộng lớn mà ở phía ngoài, vừa đúng hợp số sách 216 trong quái Càn. Nhóm các sao sau (2 sao Kim, Thủy) có quỹ đạo nhỏ mà ở phía trong, vừa đúng hợp số sách 144 của quái Khôn. Cho nên viết "Càn Khôn chi số" (Số của Càn Khôn).

Sách "Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Ngũ tinh chi thứ tự, thổ mộc hỏa kim thủy, tự trung ương hỏa khởi, nghịch số tam, lịch hỏa thổ kim mộc thủy nhi vô cùng, cố hỏa nhất thổ nhị kim tam mộc tứ thủy ngũ, dĩ thất khứ chi, hỏa lục thổ ngũ kim tứ mộc tam thủy nhị, cố hỏa hàm thổ, thổ hàm kim, kim hàm mộc, mộc hàm thủy, tử phủ thụ khí nhi phát, xuất thân nhập dần, dĩ thành hóa dục chi công hĩ.

=

Thứ tự của Ngũ Tinh, Thổ - Mộc - Hỏa - Kim - Thủy, từ chính giữa là Hỏa mà khởi, đếm nghịch số 3, trải qua sẽ là Hỏa -> Thổ -> Kim -> Mộc -> Thủy... cứ thế đến vô cùng. Cho nên Hỏa 1, Thổ 2, Kim 3, Mộc 4, Thủy 5. Lấy 7 mà trừ đi sẽ được Hỏa 6, Thổ 5, Kim 4, Mộc 3, Thủy 2. Cho nên Hỏa hàm Thổ, Thổ hàm Kim, Kim hàm Mộc, Mộc hàm Thủy, Tử Phủ thụ nhận khí mà phát sinh, xuất ra ở Thân nhập vào ở Dần, mà thành cái công dưỡng dục vậy.

Ngũ Tinh vốn tự hàm chứa nguyên lý của Cục số nạp âm (xem nói rõ hơn ở "luận về cái gốc ban đầu của Chính Tinh").

Tiết thứ 5: Thất Chính và Tinh kỳ

5.1 Thất Chính

Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh, chính là Thất Chính, tức là 5 hành tinh Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ cùng với Mặt Trời và Mặt Trăng, người xưa còn gọi là Thất Vĩ, Thất Diệu. Xưa nay, văn hóa truyền thống của Trung Quốc vốn rất coi trọng Thất Chính. Còn các thuật Thất Chính Tứ Dư với Chiêm Tinh phương Tây theo đó mà làm phương pháp luận.

Giang Vĩnh "Hà Lạc Tinh Uẩn" từ Hà Đồ đã suy diễn ra Đồ hình cao thấp của Thất Chính:

Thổ trung ngũ thập

Mộc đông tam bát

Hỏa nam nhị thất

Nhật hỏa chi tinh

Kim tây tứ cửu

Thủy bắc nhất lục

Nguyệt thủy chi tinh

(Thổ ở giữa, 5, 10

Mộc ở Đông, 3, 8

Hỏa ở Nam, 2, 7

Nhật là tinh của Hỏa

Kim ở Tây, 4, 9

Thủy ở Bắc, 1, 6

Nguyệt là tinh của Thủy)

Nói ngắn gọn về cái lý của nó, Ngũ Tinh lấy thanh - trọc (trong - đục) mà phân chia ngôi vị cao thấp, cái trọc (đục) thì ở trên, cái thanh (trong) thì ở dưới. Trong ngũ hành thì Thổ là trọc nhất, cho nên cư cao nhất, thứ đến là Mộc Hỏa, còn Nhật là tinh của Hỏa cho nên cư ở bên dưới của Hỏa, thứ đến nữa là Kim Thủy, mà Nguyệt là tinh của Thủy cho nên Nguyệt cư ở dưới của Thủy. Để rõ hơn, xem Giang Vĩnh - "Hà Lạc Tinh Uẩn" - quyển 8.

QNB chú: Giang Vĩnh sống ở thời nhà Thanh, cái lý luận cho việc sắp xếp ấy có lẽ không phải là của Giang Vĩnh, mà xem trong “Vân Đài Loại Ngữ” của cụ Lê Quý Đôn thì thấy nói rằng, người phương Tây vào Trung Quốc giảng về Thiên Văn đã nói rằng Trời có 9 tầng, cao nhất là tầng Tôn Động Thiên không có sao gì cả, tầng thứ hai là Liệt Tú Thiên, tầng thứ ba là Trấn Tinh Thiên (tầng trời của Thổ Tinh), tầng thứ tư là Tuế Tinh Thiên (tầng trời của Mộc Tinh), tầng thứ năm là Huỳnh Hoặc Thiên (tầng trời của Hỏa Tinh), tầng thứ sáu là Thái Dương Thiên (tầng trời của Thái Dương), tầng thứ bảy là Kim Tinh Thiên (tầng trời của Kim Tinh), tầng thứ tám là Thủy Tinh Thiên (tầng trời của Thủy Tinh), tầng thứ chín thấp nhất là Thái Âm Thiên (tầng trời của Thái Âm).

Vậy thì cách sắp xếp này chính là xuất phát từ người phương Tây.

Sắp xếp thứ tự bài bố này của Thất Chính, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Thất Chính bản tự" (thứ tự gốc của Thất Chính), là đúng với sự giãn nở của thứ tự gốc đối của Ngũ Tinh.

Thứ tự gốc của Thất Chính cũng thể hiện tư tưởng gốc của Lục Hợp (xem đồ hình trên), tức Tý Sửu hợp Thổ là 1, Dần Hợi hợp Mộc là 2, Mão Tuất hợp Hỏa là 3, Thìn Dậu hợp Kim là 4, Tị Thân hợp Thủy là 5, Ngọ Mùi hợp Nhật Nguyệt cư ở Mão Tuất với Tị Thân là sau cùng.

Thuật Thất Chính Tứ Dư có Thất Chính nhập viên đồ, cũng là cái lý đó, cái uyên áo sâu xa trong đó cần phải nghiên cứu thêm một bước nữa.

Trong thứ tự gốc của Thất Chính có hàm chứa cái nguyên lý bài bố của hai hệ tinh diệu các chính tinh theo Tử Phủ trong môn Đẩu Số (rõ hơn hãy xem "Chính tinh bản nguyên luận").

5.2 Tinh Kỳ (Tuần Lễ)

Người Ai Cập cổ đại đối với Thất Chính đã có những kiến giải đặc thù, người ta đem Thất Chính phân ra trị mỗi ngày, 7 ngày là một chu kỳ, quan niệm đó cũng là sản phẩm của Thái Âm lịch của người Ai Cập cổ đại. Căn cứ vào Tháng Sóc Vọng từ Sóc tới Thượng Huyền, từ Thượng Huyền tới Vọng, từ Vọng tới Hạ Huyền, từ Hạ Huyền tới Hối, đều trải qua 7 ngày.

Thế kỷ thứ 3 sau Công Nguyên, phương Tây đem quan niệm này nạp nhập vào lịch pháp Thái Dương của họ, tạo thành 7 ngày của Tuần Lễ (QNB chú: Tinh Kỳ có nghĩa là chu kỳ của sao, vì chu kỳ đó là 7 ngày nên cứ 1 chu kỳ thì gọi là 1 Tuần Lễ).

Tuần Lễ (Tinh Kỳ), là khái niệm thời gian của người ta thường dùng, nhưng có biết bao nhiêu người hàng ngày vẫn sử dụng mà không biết được cái lý của nó. Mà từ tiếng Nhật Bản hoặc tiếng Triều Tiên rất hay phản ánh về quan hệ đối ứng của tuần lễ với thất chính:

Tinh kỳ:.…TK-Nhật....TK-Nhất....TK-Nhị....TK-Tam....TK-Tứ....TK-Ngũ....TK-Lục

Thất chính:..Nhật.........Nguyệt.........Hỏa..........Thủy.........Mộc.........Kim.........Thổ

QNB chú: không chỉ trong tiếng Nhật với tiếng Hàn, mà ngay cả trong Tiếng Anh cũng có thể thấy có sự liên quan như Sun-day, Mo(o)n-day,... Satur(n)-day; còn Tuesday thì trong tiếng Đức (vốn là gốc của tiếng Anh) gọi là "Tiu day" với Tiu là vị thần cai quản chiến tranh và bầu trời theo phong tục của dân Scandinavia, chiến tranh là đặc trưng được gán cho sao Hỏa; hay như Wednesday vốn xuất xứ từ "Woden day" với Woden là vị thần có quyền năng cao nhất của người Đức,...

Từ cái này có thể thấy, Tinh Kỳ thực tế là một loại hình thức bài bố sắp xếp của Thất Chính. Loại sắp xếp này so với thứ tự gốc của Thất Chính là có sự biến đổi.

Giang Vĩnh triều Thanh cho rằng, "Trung Quốc có Giáp Tý, mà không biết lấy Tú trị ngày. Các nước phương Tây lấy Tú để trị ngày, mà lại không biết Giáp Tý. Về sau hợp nhất lịch Trung Quốc và lịch Công Nguyên (chú: chỉ triều Thanh ban hành lịch Thời Hiến dùng cho tới nay), cho nên lịch ngày nay cũng có phép lấy Tú mà trực nhật", cái đó gọi là phép lấy Tú trị nhật (ngày), tức Tinh Kỳ (Tuần Lễ).

Giang Vĩnh còn phát hiện việc 28 Tú cùng với Thất Chính là đích thực có quy luật đối ứng, là thực chất của Tinh Kỳ:

"28 Tú, tức là 4 lần của 7 vậy, là căn cứ theo trình tự cao thấp của Thất Chính, mà lấy Tú phối vào. Mỗi Tú trị nhất nhật, mỗi nhất nhật phân chia thành 24 tiểu giờ (QNB chú: tức 24 tiếng. Tác giả chú: lúc Giang Vĩnh tại thế, thì lịch Thời Hiến được ban hành, đã tiến hành chế độ dùng 24 tiếng một ngày theo Tây phương), mỗi tiểu giờ trải qua một Diệu. Như ở phương Đông có Thanh Long 7 Tú, lấy Giác làm đầu, cho nên Giác thuộc Mộc, từ đầu đến cuối thì mỗi tiểu giờ trải qua 1 Diệu, tất 24 tiểu giờ sẽ được 1 ngày, đến ngày kế tiếp là tú Cang trị nhật, tới Kim, nên Cang thuộc Kim, sau đó đều cách 4 Diệu mà đếm đi (chú: thực tế 28 trừ 24 chính là được hiệu số 4), thứ Thổ, thứ Nhật, thứ Nguyệt, thứ Hỏa, thứ Thủy, mà trở lại ở Mộc".

Kết luận nghiên cứu kể trên của Giang Vĩnh có giá trị khiến cho việc nghiên cứu tiến bộ vượt bậc.

Đoạn này sách viết không được rõ ràng, thực ra là cần phải nói rằng bộ Lịch Thời Hiến có sự cải cách lớn về việc xác định Tiết Khí bằng phép Định Khí thay thế cho phép Bình Khí được dùng trong các bộ lịch trước đó. Theo đó khoảng thời gian giữa các Tiết Khí không cố định nữa mà xê dịch, chỉ có vị trí Mặt Trời là cố định theo vận tốc tức thời ở thời điểm chuyển giao Tiết Khí. Cho nên việc xác định tháng Nhuận sẽ dễ hơn và lịch sẽ đạt độ chuẩn xác hơn.

Đối với quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng" thì trong Lịch Thời Hiến cũng có sử dụng, và QNB cho rằng nguyên nhân dẫn đến việc này rất có thể liên quan đến tính chất Tôn Giáo.

Bộ Lịch Thời Hiến, thực chất là được ông Thang Nhược Vọng và các quan cả Tây lẫn Tàu thuộc Khâm Thiên Giám triều Minh đem sửa lại từ bộ Lịch Đại Thống. Thời đó trong bộ phận làm Lịch của Khâm Thiên Giám triều Minh có 2 Cục chính là Đông Cục (quan làm lịch người Hán) và Tây Cục (Từ Quang Khải và các giáo sĩ phương Tây), ngoài ra còn có một Cục nữa là Cục Hồi Hồi (còn gọi là Ti Thiên Giám Hồi Hồi, được đặt ra từ năm Hồng Vũ thứ nhất, Mậu Tuất, 1368).

Đây chính là nguyên nhân có cái quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng".

Bởi vì, Lịch Hồi Giáo vốn chính là bộ Thái Âm Lịch thuần túy (gần như là duy nhất trên thế giới vẫn sử dụng), và có quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Dhu al-Qi'dah, Dhu al-Hijjah, Muharram" và các tháng đó lại trùng khớp với các tháng Một, Chạp, Giêng. Và quy ước đó trong Kinh Coran vào khoảng năm thứ 9 thứ 10 của Lịch Hồi Giáo, tức là thuộc thế kỷ thứ 7 CN.

Các tháng của Lịch Hồi Giáo

1. Muharram (hay Muḥarram al Ḥaram)

2. Safar (hay Ṣafar al Muzaffar)

3. Rabi' al-awwal (Rabī' I)

4. Rabi' al-thani (hay Rabī' al Thānī hoặc Rabī' al-Akhir) (Rabī' II)

5. Jumada al-awwal (Jumādā I)

6. Jumada al-thani (hay Jumādā al-akhir) (Jumādā II)

7. Rajab (hay Rajab al Murajab)

8. Sha'aban (hay Sha'abān al Moazam)

9. Ramadan (hay Ramzān, dạng dài: Ramaḍān al Mubarak)

10. Shawwal (hay Shawwal al Mukarram)

11. Dhu al-Qi'dah

12. Dhu al-Hijjah

Tiết thứ 6: Bắc Cực với Nam Bắc đẩu

6.1 Bắc Cực

Bắc Cực ở đây tức là sao Bắc Cực, còn gọi là Thái Ất, Thái Nhất, Đế Tinh, Cực Tinh, Tử Vi,... là một sao sáng nhất ở trong Tử Vi Viên, do sự di chuyển của nó là cực kỳ nhỏ (quan trắc bằng kính viễn vọng thiên văn, thì bán kính di chuyển của nó chỉ khoảng gần 1 độ), cho nên cổ nhân từng cho rằng nó không di chuyển, điều mà họ gọi là "Tử Vi cao chiếu" chính là chỉ sao này tọa trấn Bắc Cực, vĩnh viễn không bao giờ chìm xuống.

Bắc Cực chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong văn hóa Trung Quốc cổ đại, bởi vì nó luôn luôn nằm ở Trung Tâm thiên cực phía Bắc. Trục tự quay của Trái Đất kéo dài vô hạn sẽ luôn luôn gặp Bắc Cực, và lại Bắc Đẩu thất tinh lại cũng luôn vận chuyển xung quanh nó, người xưa lấy đó để làm tiêu chuẩn định vị phương Bắc. Cho nên có điềm báo của Đế Vương, theo thuật Thái Ất, còn các nhà y thì dùng linh quy thám huyệt đều có phương pháp xét Thái Ất ở cửu cung, đại để là có sự gắn bó rất mật thiết.

Bởi vì tồn tại Tuế Sai, trên thực tế thì Bắc Cực tinh vẫn có sự di chuyển cực kỳ chậm, như ở thời kỳ nhà Chu cách nay khoảng 3000 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh ở tại Đế Tinh, còn thời Tùy Đường cách nay khoảng 1500 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh là Thiên Xu (Thiên Khu), còn ngày nay thì Bắc Cực Tinh là Câu Trần, trải qua 5 vạn năm nữa thì Bắc Cực tinh sẽ trở lại vị trí Đế Tinh.

6.2 Bắc Đẩu

Bắc Đẩu thất tinh là một tổ hợp sao rất được người ta chú ý, nằm ở trên bầu trời khu vực phía Bắc của Trung Quốc. Vào thời cổ đại thì thuộc Tử Vi Viên, còn Thiên Văn học ngày nay thì gọi là chòm sao Đại Hùng, nó sắp xếp theo hình cái Đấu tửu (gáo múc rượu), mỗi năm vào cả 4 mùa đều có thể quan sát được.

Cổ "Tinh Kinh" có bài Thiên Ca viết:

Bắc đẩu chi tú thất tinh minh,

Nhất Xu nhị Tuyền tam Cơ tinh.

Đệ tứ danh Quyền đệ ngũ Hành,

Khai Dương, Dao Quang lục thất danh.

(Bảy sao Bắc Đẩu sáng bao la

Xu một, Tuyền hai, Cơ thứ ba

Thứ bốn Quyền tinh, Hành kế tiếp

Khai Dương, Dao Quang sáu bảy nha).

Danh xưng và kết cấu ước lược như hình bên dưới (QNB chú: 2 sao cao nhất trong hình là các sao thứ 8, thứ 9, gọi là Tả Phụ, Hữu Bật, vì mờ hơn nên không được xếp vào nhóm 7 sao).

Tham Lang, Lộc Tồn, Cự Môn, Văn Khúc, bốn sao này tạo thành Đấu Khôi (đầu của cái gáo), cùng được gọi là Tuyền Cơ.

Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân, ba sao này tạo thành Đấu Bính (đuôi của cái gáo), cũng được gọi là Đấu Chước hoặc là Ngọc Hành.

"Sử Ký" viết:

"Đẩu vi đế xa, vận vu trung ương, lâm chế tứ phương. Phân âm dương, kiến tứ thì, quân ngũ hành, di tiết độ, định chư kỷ, giai hệ vu đẩu."

=

Đẩu là Đế Xa (cái xe của vua), chuyển động tại trung ương, phỏng theo định chế bốn phương. Phân chia Âm Dương, thấy ở 4 mùa, quân bình ngũ hành, thay đổi tiết độ, định ra chư kỷ, đều là ở Đẩu cả.

Lại nói:

"Bắc đẩu thất tinh, sở vị huyền cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Chước huề long giác, hành ân nam đẩu, khôi chẩm tham thủ."

=

Bắc Đẩu thất tinh, cái gọi là Huyền Cơ, Ngọc Hành mà như thất chính. Chước nắm Long Giác, Hành thì chăm Nam đẩu, Khôi gối đầu Sâm".

Ý tức là, theo Đấu Chước kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến phương Đông sao Giác, theo Ngọc Hành (Liêm Trinh) mà kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến Nam đẩu, theo Đấu Khôi mà kéo thẳng ra 2 đường thì sẽ vừa đến trên 2 vai của sao Sâm.

Bắc đẩu thất tinh vận hành xung quanh của sao Bắc Cực, như là cái xe của vua Bắc Cực, thay trời mà hành lệnh. Cho nên có cái thuyết của Cửu cung Thái Ất, như cây gậy chỉ huy của sự vận hành của trời. Nhưng cũng phân rõ Đông Tây Nam Bắc cùng phương vị của 28 Tú.

Bởi thế mà lời xưa nói: Hiểu được Bắc đẩu thì đi được khắp thiên hạ. Thí dụ như, đường kéo dài nối từ 2 sao Lộc Tồn và Tham Lang hướng về phía trước 1 khoảng là 5 lần khoảng cách của chúng thì sẽ thấy được chỗ sở tại của Bắc Cực Tinh, bởi vậy mà cặp sao này còn được gọi là "chỉ Cực Tinh".

Lại như, cổ thư đều nói: Đẩu Bính chỉ hướng Đông thì khắp thiên hạ đều vào mùa Xuân, Đẩu Bính chỉ hướng Nam thì thiên hạ đều Hè, Đẩu Bính chỉ hướng Tây thì khắp thiên hạ đều vào Thu, Đẩu Bính chỉ hướng Bắc là khắp thiên hạ đều Đông.

Ngoài ra, còn có thể dùng Bắc Đẩu để xác định thời gian, như lấy Đẩu Kiến để mà định Tiết Khí, mỗi năm 24 Tiết Khí đều lấy việc Bắc Đẩu gặp gỡ hay không để mà xác định. Cổ nhân tổng kết quy luật đó là, mỗi tháng thì Nhật Nguyệt tương hội một lần là Tiết, nếu như Đẩu lại đến hội thì tất sẽ là một Khí, còn như Nhật Nguyệt tuy tương hội nhưng mà Đẩu lại không đến hội thì tất Tiết Khí cũng không thể thành lập, đó chính là tháng Nhuận.

Bên cạnh đó, bởi vì Đẩu Bính mỗi ngày vận chuyển 1 độ, vì thế mà có thể dùng để xác định ngày.

Cái gọi là "Nguyệt Kiến" là, Kiến chính là Đẩu kiến chi vị, đó là Đẩu Bính (cán chòm sao Đẩu) chỉ vào tháng nào, mà phân biệt đối với Nguyệt Tướng tại nhật triền. Vì vậy mà "Tinh Tông" viết: phàm ở chỗ Nguyệt Kiến, tất đúng là cán chòm Đẩu chỉ vào vậy, duy chỉ có tháng Nhuận thì cán chòm Đẩu chỉ xéo vào giữa của 2 Thần (tức là tên gọi của 2 Địa Chi làm chủ 2 cung). Mỗi năm có 12 Tiết hậu, thì Đẩu Chước tùy theo Nguyệt Kiến mà chuyển.

Cổ nhân vào đêm mà khảo Cực tinh, chính là lấy Thiên đỉnh Bắc Cực làm tiêu chuẩn định vị, lấy khu vực gianh giới của 28 Tú làm những vạch chia nhỏ, lấy 12 cung thứ làm vạch chia lớn lấy cán của chòm Bắc Đẩu để làm kim chỉ dẫn, hình thành 24 Tiết Khí cùng với việc xác định tháng Nhuận, để mà quan sát Ngũ Tinh với Nhật Nguyệt xem các tình huống biến hóa như thế nào.

6.3 Nam Đẩu

Cuốn "Chiêm Kinh thời Khai Nguyên đời Đường, quyển 61" có ghi:

Nam đẩu, nhất danh thiên phủ thiên quan, nhất danh thiên ky, nhất danh thiên đồng, thiên tử kỳ dã, bắc nhị tinh, thiên phủ đình, trung ương nhị tinh, tương dã, nam nhị tinh, thiên khố lâu dã, thiên lương dã.

=

Nam Đẩu, một tên Thiên Phủ Thiên Quan, một tên Thiên Cơ, một tên Thiên Đồng, cờ của Thiên Tử vậy, Bắc nhị tinh, Thiên Phủ Đình, ở giữa nhị tinh, Tướng vậy, Nam nhị tinh,Thiên Khố Lâu vậy, Thiên Lương vậy.

Sách "Linh Đài Bí Uyển" phần đồ hình 7 sao phương Bắc viết:

Nam đẩu, kỳ trạng tự bắc đẩu.

=

Nam đẩu cũng tựa như Bắc đẩu.

Quyển Nhị của nó lại viết:

Nam đẩu lục tinh, nguyên quy chi thủ ( chú: chỉ huyền vũ đích quy thân bộ phân ), diệc vi thiên miếu tể tướng chi vị. Chủ bao hiền tiến sĩ, bẩm thụ tước lộc, cố đẩu vi lượng khí, sở dĩ châm chước nhi thụ tước dã.

=

Sáu sao Nam đẩu, tạo thành đầu của con rùa (chú: chỉ bộ phận trên thân thể con rùa của chòm Huyền Vũ), cũng là vị trí của miếu trời của Tể Tướng. Chủ về chiêu hiền tài, tiến cử kẻ sĩ, trình và trao tước lộc, cho nên Đẩu là cái khí cụ đo lường, đó là lý do cân nhắc mà trao tước vị vậy.

Lại viết:

Binh diệc viết thiên ky, nam nhị tinh viết khôi, khố lâu thiên lương dã, trung nhị tinh, tương dã, thiên phủ, kiến chước dã, sơ viết bắc đình, hựu viết thiên quan, hựu viết phu việt.

=

Việc binh cũng viết Thiên Cơ, 2 sao Nam viết Khôi, Khố Lâu Thiên Lương vậy, ở giữa 2 sao, Tướng vậy, Thiên Phủ, kiến Chước vậy, ban đầu viết Bắc Đình, lại viết Thiên Quan, lại viết Phu Việt.

Trên đây là 2 sách đều thuộc Bắc Chu, điển tịch tinh học đại quan triều Đường, theo ghi chép của các sách ấy, có thể thấy:

a, Nam đẩu tổng cộng có 6 sao, nằm ở trong Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ ở phương Bắc, thật là Cự tinh của Đẩu tú.

b, Danh xưng của Nam đẩu lục tinh là: Thiên Phủ (còn tên là Thiên Quan, Bắc Đình, Phu Việt), Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thiên Tướng, Thiên Khố Lâu, và Thiên Lương, đều có chữ "Thiên" cả.

c, vị trí và kết cấu của nó suy đoán có khả năng như hình nêu trên (so với thuyết pháp của "Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư" thì không giống nhau).

Tác giả chú: Theo các số liệu dân gian chân truyền "Thái Ất châm kinh thập tam thức" (13 thức châm cứu kinh mạch Thái Ất) giới thiệu thì có đoạn văn này đáng chú ý:

"Nhâm, đốc nhị mạch phân bố tại thể biểu cơ phu hạ thâm xử, tịnh thả nhâm, đốc nhị mạch xử vu tương đối vị trí. Nhâm mạch đả khai, tòng đầu khai thủy tuần hoàn, kinh hung phúc thối đáo cước, nhiên hậu tái phản hồi đáo đầu, xưng vi nhất đại tuần hoàn. Nhâm mạch dữ đốc mạch tương bỉ giác, nhâm mạch dung dịch đả khai, nhâm mạch đả khai hậu tại thể nội vu huýnh tuần hành đích lộ tuyến dữ thiên văn tinh tương trung đích nam đấu lục tinh tương nhất trí, tại hung phúc tuần hành khúc chiết vu huýnh thất đoạn, xưng chi vi"Thất kinh", tẩu đích đô thị thể biểu phù mạch, huyệt mạch hữu thâm hữu thiển. Tâm tạng đích trọng tân khải động, hoàn dương pháp, hoàn hồn tỉnh não, giai thị nhâm mạch đả khai chi hậu đích công hiệu; nho y đạo thính đồ thuyết, tương thất kinh đỗ soạn thành"Kỳ" kinh, giá tựu thị ngã môn hiện tại khán đáo đích"Kỳ kinh bát mạch" đích kỳ tự".

=

Hai mạch Nhâm Đốc phân bố trên cơ thể tại chỗ sâu dưới da thịt, mà vả lại 2 mạch Nhâm Đốc cũng có vị trí trái ngược nhau. Nhâm mạch mở ra từ trên đầu mà xuất phát tuần hoàn, xuyên qua ngực bụng cẳng chân đến bàn chân, sau đó lại đi ngược lên đầu, gọi là một vòng tuần hoàn lớn. Nhâm mạch khá hơn so với Đốc mạch, vì Nhâm mạch có thể mở ra được, và nó mở ra sau khi tại bên trong cơ thể đi tuần hành vòng vèo mà lại cùng một dạng với Nam Đẩu lục tinh ở trong thiên văn, ở chỗ ngực bụng thì tuần hành quanh co vòng vèo 7 đoạn, gọi là "Thất Kinh", đi ở phù mạch bên ngoài, chỗ huyệt mạch lại có nông có sâu. Sự khởi động mới của tạng Tâm, phép hoàn dương, tỉnh não hoàn hồn, đều là công hiệu của việc sau khi khai mở được mạch Nhâm; nhiều ông Nho Y lại nghe hơi nồi chõ, rồi đem Thất Kinh hư cấu thành "Kỳ Kinh", cái này chính là chúng ta hiện đang chứng kiến văn tự đặc sắc của "Kỳ Kinh Bát Mạch".

Phương pháp này chính là tiêu chuẩn của Trung Y dân gian, chuyên trị các quái chứng cùng nham chứng (QNB chú: “Nham chứng” trong Đông y mới chính là Ung thư ác tính – Cancer – hiện nay), người ta nói là Trung Y chính thống thực sự, chê bai "Chu Dịch", "Nội Kinh" với cả Linh Quy thám Huyệt là tà thuyết, có thể thấy rằng những chuyện bí ẩn của dân gian với sách vở là có 1 khoảng cách sai biệt cực kỳ lớn.

Tiết bảy: Nhị Thập Bát Tú

Các hằng tinh (định tinh) được Thiên Văn học cổ đại phân thành Tam Viên và Nhị Thập Bát Tú.

Tam Viên là chỉ 3 khu vực phân bố các hằng tinh trên bầu trời, tức là Tử Vi Viên (còn gọi là Tử Vi cung, Tử cung), Thái Vi Viên (Thái Vi cung) và Thiên Thị Viên. Trong đó, Tử Vi Viên là cung viên nằm ở chính giữa, ở Đông Bắc của Bắc Đẩu, có 15 chòm sao, bày ra Đông Tây, lấy Bắc Cực tinh là trung tâm để xoay quanh mà tạo thành một hàng rào bảo vệ;

Còn Thái Vi Viên là cung viên ở phía trên, tại phía Nam của Bắc Đẩu, gồm Chẩn và sao Dực có 10 sao, lấy Ngũ Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ;

Còn Thiên Thị Viên là cung viên phía dưới, ở Đông Bắc gồm Phòng với Tâm có 12 sao, lấy Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ.

Người xưa khi xem xét bầu trời có phân biệt thời gian, kinh độ mà đo đạc dài hạn đối với Ngũ Tinh tại Thiên Xích Đạo với các vùng phụ cận Hoàng Đạo, lựa chọn 28 nhóm hằng tinh, mệnh danh là Nhị Thập Bát Tú, cũng gọi là 28 Xá hoặc 28 Tinh, gọi tắt là các chòm sao.

Hai mươi tám sao này là:

Đông phương có Thanh Long 7 sao: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.

Nam phương có Chu Tước 7 sao: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn.

Tây phương có Bạch Hổ 7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Chủy, Tất, Mão, Sâm.

Bắc phương có Huyền Vũ 7 sao: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.

Mỗi Tú đều có một hằng tinh tạo ra khởi điểm của Tú ấy, gọi là Cự Tinh, khoảng cách ở giữa 2 bên của cự tinh gọi là Cự Độ. Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh khi vào trong Tú ấy tương đối với góc độ Cự Tinh gọi là Nhập Cự Độ, tương đối với góc độ của Bắc Cực tinh thì gọi là Cực Độ. Các yếu tố này cùng tạo thành hệ thống tọa độ Thiên Cầu cổ đại, để mà biểu thị vị trí của tinh thể trên bầu trời.

Tên và Cự Độ của 28 Tú theo cách sắp xếp nghịch chiều kim đồng hồ là:

1, Đông phương Thanh Long thất tú, hình thì như con rồng, sắc như màu xanh: Giác 12 độ, Cang 10 độ, Đê 15 độ, Phòng 5 độ, Tâm 5 độ, Vĩ 8 độ, Cơ 17 độ.

2, Nam phương Chu Tước thất tú, hình như con chim, sắc như màu đỏ: Tỉnh 33 độ, Quỷ 4 độ, Liễu 15 độ, Tinh 7 độ, Trương 18 độ, Dực 18 độ, Chẩn 17 độ.

3, Tây phương Bạch Hổ thất tú, hình như con hổ, sắc như màu trắng: Khuê 16 độ, Lâu 14 độ, Vị 14 độ, Mão 11 độ, Tất 16 độ, Chủy 2 độ, Sâm 9 độ.

4, Bắc phương Huyền Vũ thất tú, hình như con rắn, sắc như màu đen: Đẩu 26 độ, Ngưu 8 độ, Nữ 12 độ, Hư 10 độ, Nguy 17 độ, Thất 16 độ, Bích 9 độ.

Vì có tồn tại Tuế Sai, nên liệt Tú ước chừng khoảng 70 năm lại dịch về phía Tây 1 độ, cho nên trải qua các thời đại đều có số liệu không đồng nhất.

Bởi vì 12 cung thì về cơ bản là chia đều nhau, mà 28 Tú lại rộng hẹp không được đồng nhất, cho nên một số sao lại vượt ra ngoài cung, số liệu cận đại về cung dộ của chúng như bên dưới:

Vì sao mà lại có con số 28 Tú?

Cổ nhân cho rằng, 28 Tú lúc ban đầu là do khi quan sát hành độ của Mặt Trăng mà được, bởi vì số ngày mà Mặt Trăng di chuyển ước chừng 27 và 1/3 ngày là hết một vòng chu thiên, khoảng chừng mỗi ngày hành trình qua 1 Tú, trải qua 28 ngày lại quay lại chỗ Tú ban đầu, cho nên hình thành con số 28 hằng tinh đó.

Trải qua sự nghiên cứu của người ngày nay thì thấy độ số của 28 Tú là ít nhiều không đồng đều với nhau, với sao ít thì không được 1 độ, với sao nhiều thì lên tới 31 độ, nên mới đưa ra mối quan hệ về quy luật của 28 Tú với Nguyệt Thực. Thí dụ như, cự ly ngắn nhất của khoảng không gian điểm Nguyệt Thực là chưa đến 1 độ, còn cự ly lớn nhất của khoảng ấy là hơn 30 độ. Bởi vì cứ 19 năm thì có 28 lần Nguyệt Thực, cho nên mới có con số 28 của các Tú ấy.

28 Tú cũng đối ứng với Thất Chính, xưa có môn thuật số Diễn Cầm Pháp, tức là lấy Thất Chính phối với 28 Tú, được sự đối ứng của chúng như dưới đây:

Mộc.....Kim.......Thổ......Nhật......Nguyệt......Hỏa......Thủy

Giác....Cang.......Đê......Phòng…...Tâm.........Vĩ..........Cơ

Tỉnh....Quỷ........Liễu.....Tinh.....Trương.....Dực.....Chẩn

Khuê....Lâu........Vị........Mão.........Tất..........Chủy......Sâm

Đẩu.....Ngưu.....Nữ.......Hư..........Nguy.......Thất.......Bích

Cái này chính là hình thức bài bố của Thất Chính mà cũng là biến dạng của thứ tự gốc của Thất Chính.

Tiết thứ 8: Tứ Độ

Gom các giờ thành ngày, gom các ngày thành tháng, gom các tháng thành năm. Năm tháng ngày giờ chính là 4 dạng tham số thời gian đầu vào của Tử Vi tượng học, cũng chính là 4 loại số liệu của lịch pháp. Tử Vi tượng học gọi đó là Tứ Độ.

8.1 Niên Độ

Phép biểu thị Niên Độ có 3 loại: một là ghi năm theo Công Lịch, lấy con số biểu thị, như năm nay là năm Công Nguyên 2004; hai là ghi năm theo Dân Quốc, lấy năm Công Nguyên 1911 là năm đầu tiên của Dân Quốc (dó cách mạng Tân Hợi là 1911), hiện nay ở Đài Loan vẫn còn sử dụng, như năm nay là năm Dân Quốc thứ 93; ba là ghi năm theo Can - Chi, như năm nay là năm Giáp Thân.

Niên Độ có 3 loại hàm nghĩa:

thứ nhất theo Công Lịch thì biểu thị mỗi một năm từ ngày 1 tháng 1 cho đến ngày 31 tháng 12, trong khoảng thời gian này có tổng trường độ là 365 hoặc 366 ngày;

thứ nhì, ở Bát Tự học là khoảng thời gian mà Thái Dương tại Hoàng Đạo từ điểm Lập Xuân này đến điểm lập Xuân sau, tổng trường độ là 365.2422 ngày;

thứ ba, ở Tử Vi Đẩu Số là thời gian của Nhật Nguyệt hội hợp 13 lần, tức là khoảng thời gian từ ngày mồng 1 tháng Giêng cho đến ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp của âm lịch, tổng trường độ thời gian là 354 hoặc 355 ngày (năm Nhuận là 383 hoặc 384 ngày).

Tử Vi tượng học cùng với Bát Tự học đều áp dụng phép ghi năm theo Can-Chi, Niên độ đều có thể lấy Can Chi để mà biểu thị. Tuy nhiên như thế cũng không có nghĩa là đánh đồng mối quan hệ của năm Can Chi trong Bát Tự học với Tử Vi tương học đâu đấy, điểm này phải phân biệt cho rõ. Chính như đã nói từ trước, Tử Vi tượng học áp dụng Âm Dương hợp lịch, nhưng không khảo xét đến việc Thái Dương quá cung, tất nhiên là tồn tại bất đồng với Thái Dương lịch nhưng cái nổi trội của nó lại là "Niên".

Tục ngữ vẫn nói "Tuế tuế niên niên", nhưng kỳ thực thì Niên với Tuế vốn không phải 2 khái niệm giống nhau, trong Thiên Văn Lịch Pháp thì Tuế là chỉ 1 vòng chu thiên của Thái Dương, tức là theo Thái Dương đi qua điểm Xuân Phân cho đến lúc Thái Dương quay lại điểm Xuân Phân là 1 chu kỳ. Thí dụ như theo lời người xưa chính là Tuế Thực, Tuế Sai, Tuế Chu, Tứ thời thành Tuế, Lưu niên Thái Tuế,... còn Niên là chỉ chu kỳ của 12 tháng Sóc Vọng trong Lịch Pháp, lấy Ngày đối Ngày, tức là theo ngày mồng 1 tháng Giêng cho tới ngày cuối cùng của tháng Chạp là 1 năm.

Niên thì đại diện cho Âm lịch, Tuế thì đại diện cho Dương lịch, hai cái hợp dụng là minh chứng cho việc dùng Âm Dương hợp lịch của người Trung Quốc.

Thông thường thì người hiện đại cứ nói Niên là chỉ năm Thái Dương hồi quy (năm Mặt Trời), bất kể là năm Công Nguyên nào theo lịch Cách Liệt Cao Thụy, hay là năm Can Chi nào trong Bát Tự học, đều là do Thái Dương định đoạt, là 365 ngày, bởi lẽ người hiện đại áp dụng Thái Dương lịch, cho nên cái khái niệm Niên với Tuế nó mới cơ bản không phân chia. Bởi vì bất kể là theo Công Lịch hay là theo Bát Tự học đều lấy 365 ngày là 1 chu kỳ của năm hồi quy. Còn Tử Vi Đẩu Số thì cơ bản là không khảo xét Thái Dương quá cung với Tiết Khí, vì vậy mà mỗi năm của nó là tổng số có 12 tháng Sóc Vọng riêng biệt, tức là mỗi năm 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

Bởi thế mà trong Bát Tự học có thuyết Vận Tuế, mà ở trong kỹ thuật của Tử Vi lại biến thành Hạn Niên, nguyên nhân nằm ở chỗ Vận với Hạn là đúng so về Tháng, ở Bát Tự lại dùng tháng Thái Dương gọi là Vận, còn trong Đẩu Số dùng tháng Sóc Vọng nên gọi là Hạn, ở trong Bát Tự dùng Thái Tuế là năm Thái Dương, còn trong Đẩu Số dùng Niên là năm Thái Âm, các loại này cần phải phân biệt mà nắm cho rõ.

Thí dụ như, người nào đó sinh ra vào tháng Chạp nông lịch năm Nhâm Tý, có thể tra cứu Hoàng Đạo Tiết Khí, đã qua tiết Lập Xuân, như thế năm sinh của người này là tính là năm sau ư? Hay là vẫn tính theo chính năm ấy? Nói cách khác, rốt cuộc là người này cầm tinh con gì?

Niên Can (Thiên Can của Năm) của kỹ thuật của Tử Vi truyền thống là số thứ tự chu kỳ của Hoàng Đạo, mà các Can cung của mệnh bàn là do "độn" Niên Can mà ra. Rất nhiều người bị ảnh hưởng của lý luận trong Bát Tự học, câu nệ vào thành kiến, mà đều đã nghĩ đến việc dùng "Tháng" của Hoàng Đạo để thay thế cho số thứ tự chu kỳ của Bạch Đạo, cái này chắc chắn là tưởng nó đương nhiên thế.

Căn cứ vào Lịch pháp Thái Âm, năm của kỹ thuật Tử Vi bên trên, chính là 354 hoặc 355 ngày, tháng sinh là ám chỉ chu kỳ thứ mấy của Mặt Trăng quay quanh Trái Đất trong năm đó, chứ không phải là cung vị thứ mấy của Mặt Trời ở trên Hoàng Đạo. Năm với Tháng của Âm Lịch vẫn có thể dùng Can Chi để biểu thị như cũ, chứ không phải Can Chi là "độc quyền" của Hoàng Đạo.

Do đó, đối với đáp án cho đề mục nêu trên, nếu mà dùng Bát Tự học thì người ấy phải thuộc tuổi Trâu, nếu mà dùng kỹ thuật Tử Vi thì người ấy thuộc về tuổi Chuột. Có thể thấy sự bất đồng của lịch pháo sẽ dẫn đến năm Can Chi bất đồng ở 2 môn ấy. Nhưng thông thường dân gian vẫn nói việc cầm tinh con gì, bất luận Tiết Khí là gì, chỉ nói về năm mới thôi.

Tóm lại, chính là như ngày Tết của người Trung Quốc không khảo xét đến tiết Lập Xuân, chỉ lấy điểm gianh giới của ngày 30 tháng Chạp năm cũ với ngày mồng 1 tháng Giêng năm mới để làm chuẩn. Kỹ thuật Tử Vi lấy ngày mồng 1 tháng Giêng mỗi năm làm điểm bắt đầu.

Tóm lại là điểm bắt đầu của năm trong kỹ thuật Tử Vi ở tại ngày mồng 1 tháng Giêng của lịch Thời Hiến, ngày cuối cùng của năm âm lịch là ngày 30 tháng Chạp, tổng cộng có 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

8.2 Nguyệt Độ

Nguyệt Độ có 3 loại phương pháp biểu thị, một là tháng của Công Lịch, hai là tháng theo nông lịch, ba là tháng Can-Chi.

Tuy nhiên kỹ thuật Tử Vi truyền thống đều không lấy tháng Can Chi ra biểu thị, nhưng trên thực tế thì Đẩu Số vẫn cứ có tháng Can Chi. Thiên Can của các cung trên mệnh bàn là lấy Can năm dùng "Ngũ Hổ độn" mà tính ra, trên thực tế chính là Thiên Can của Tháng.

Do đó, kỹ thuật Tử Vi và Bát Tự học đều áp dụng phép ghi tháng Can Chi. Nguyệt Độ đều lấy Can Chi để biểu thị. Tuy là như thế, Can Chi trong Bát Tự học với Can Chi trong Đẩu Số không phải là đánh đồng như nhau được, điểm này nhất thiết phải chú ý.

Bát Tự học áp dụng Thái Dương lịch, trọng yếu ở Tiết Khí mà định tháng Sinh. Bởi vậy, điểm đầu cuối của Can Chi tháng của nó là từ bắt đầu Tiết của tháng này cho đến hết Trung Khí của tháng này.

Kỹ thuật Tử Vi áp dụng Âm Dương hợp lịch, tháng với ngày đều lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, điểm đầu cuối của Can Chi tháng là ngày Sóc mỗi tháng cho đến ngày Hối là 29 hoặc 30 cuối tháng đó.

Ở trong số thứ tự của tháng, cũng lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, tức là số của tháng âm lịch trong sách lịch. Thí dụ như, hôm nay là ngày 8 tháng 11 dương lịch năm 2004, tra ngày tháng âm lịch là 26 tháng 9 năm Giáp Thân, thì Nguyệt Độ theo kỹ thuật của Tử Vi là tháng 9 al, có Can Chi là tháng Giáp Tuất; nhưng mà đối chiếu với quy tắc của Bát Tự học thì có sự bất đồng, vì ngày 7 tháng 11 dương lịch đã tới tiết Lập Đông cho nên Nguyệt Độ theo Bát Tự học là tháng 10 al, có Can Chi là Ất Hợi.

Trong giới Tử Vi thì có người lấy Tiết Khí để mà xác định Nguyệt Độ, phương pháp kiểu này là có sai lầm ở chỗ có sự hiểu sai khá lớn đối với lịch pháp trong kỹ thuật của Tử Vi, lẫn lộn giữa Bát Tự học Thái Dương lịch pháp với Đẩu Số Thái Âm lịch pháp. Xin xem lại tiết 1 ở chương lịch pháp có nội dung liên quan.

Nguyệt Độ còn có một vấn đề rất trọng yếu tức là vấn đề về tháng Nhuận, xem ở nội dung tiếp sau.

8.3 Nhật độ

Nhật độ có ba loại phương pháp biểu thị, một là ngày theo Công Lịch (dương lịch), hai là ngày theo Âm lịch, ba là ngày Can - Chi.

Bát Tự học dùng ngày Can - Chi, kỹ thuật Tử Vi dùng ngày Âm Lịch, mà ngày Âm lịch chỉ có thể thông qua việc tra ở sách lịch mới có thể biết được, nhưng từ trước tới nay đều có những người giỏi nghề, có những người tìm ra được việc lợi dụng công thức số học để mà hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch.

Phép dùng công thức số học của việc hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch:

Giả thiết số của năm công nguyên là N, lấy N trừ đi 1977 hoặc 1901, số đạt được lại chia cho 4, thì được thương số là Q với số dư là R.

tìm M = 14Q+10.6(R+1)+số thứ tự của ngày trong năm,

Lại lấy M chia cho 29.5 xem số dư được bao nhiêu, số dư này chính là ngày âm lịch.

Ví dụ: tìm ngày âm lịch của ngày Dương lịch là 7 tháng 5 năm 1994?

1994 - 1977 = 17

17 / 4 = 4 dư 1

Do Q = 4 và R = 1

nên M = 14 x 4 + 10.6(1 +1) + (31 + 28 + 31 + 30 + 7)

<=> M = 56 + 10.6 x 2 + 127 = 21.2 + 183 = 204.2

204.2 / 29.5 = 6 dư 27.

Vậy âm lịch chính là ngày 27.

Chú: ứng dụng phép này có thể thu được kết quả với hầu hết các trường hợp, nhưng có một vài trường hợp bị sai lệch 1 ngày.

8.4 Thời Độ

Thời độ có 2 loại phép biểu thị, một là dùng 24 tiểu giờ của lịch Công Nguyên, lấy số để biểu thị, như 12 giờ, 23 giờ,... thứ hai là dùng 12 thời thần như người xưa, thông thường dùng Can Chi để biểu thị, Đẩu Số và Bát Tự học đều dùng cái này.

Quy định thập nhị thời thần vào thời Tây Chu đã sử dụng, vào thời Hán có những tên gọi như:

Dạ Bán (nửa đêm),??? Minh, Bình Đán (tảng sáng), Nhật Xuất (Mặt trời mọc), Thực Thời (giờ ăn), Ngung Trung (giữa góc), Nhật Trung (giữa trưa), Nhật Điệt (xế bóng), Bô Thời (quá trưa), Nhật Nhập (đang lặn), Hoàng Hôn, Nhân Định (người nghỉ ngơi),

Nhưng cũng lại vừa sử dụng 12 Địa Chi để sử dụng, lấy nửa đêm lúc 23h00 đến 1h00 là giờ Tý, từ 1h00 đến 3h00 là giờ Sửu,... Từ thời nhà Tống về sau lại thực hiện quy định 24 khoảng cho 12 thời thần, lấy mỗi canh giờ chia đôi ra làm nửa Sơ và nửa Chính, có dạng như Tý sơ, Tý chính, Sửu sơ, Sửu chính,... theo đó chia làm 24 khoảng, tương đương với cách dùng 24 giờ hiện nay. Đến nhà Thanh ban hành lịch Thời Hiến, phát triển quy định 24 tiểu giờ theo phương Tây, nhưng trong dân gian vẫn quen dùng 12 thời thần.

Việc xác định của thời thần đối với người xưa không phải là vấn đề gì cả, bởi vì ngay ấy không có loại thời gian cho 1 nước thống nhất, lại cũng không có cái gọi là "mùi giờ", càng không có loại đồng hồ phổ cập như bây giờ. Người ta đều dùng thời gian địa phương để làm chuẩn. Nhưng khoa học hiện đại phát triển khiến cho thời gian có thể đo được hết sức chính xác đến từng giây, cho nên lại xuất hiện vấn đề: rốt cuộc là lấy thời gian vùng nào làm chuẩn? Trung quốc nằm trên 5 múi giờ thì việc xác định thời gian sẽ như thế nào?

Tử Vi chủ yếu là căn cứ vào tự nhiên bản xứ mà có sự thay đổi thời gian để mà xác định chính tinh của Mệnh chủ, điều này phù hợp với vận khí bà sự tương ứng với tự nhiên của con người, tùy sự biến hóa của tự nhiên mà có sự biến hóa theo quy luật.

Do đó, các địa phương mà căn cứ vào thời gian Bắc Kinh để xác định giờ sinh là sai lầm lớn. Các khu vực đều có vị trí kinh độ là không giống nhau trên bề mặt của trái đất, và tự nhiên ở đó cũng thay đổi có sớm có muộn, cho nên cần phải lấy thời gian địa phương làm chuẩn. Các kiểm nghiệm thực tiễn cũng đã chứng minh sáng tỏ, phải lấy "thời điểm quan sát Thái Dương" ở địa phương mà làm chuẩn.

Trong giới Bát Tự học với Đẩu Số có một thuyết là "Giờ Thái Dương chuẩn xác", chủ trương thống nhất tiêu chuẩn giờ đều hoán chuyển thời gian giờ thành giờ ở địa phương, khảo xét tính toán sự chuyển động không đều của Địa cầu mà suy tính ra "giờ Thái Dương chuẩn xác".

(bỏ qua 1 đoạn phân tích rất cặn kẽ chi tiết các trường hợp ở từng vùng của Trung quốc khi xét kinh độ, múi giờ,... Tựu chung cũng chỉ để chứng minh việc xác định giờ sinh là căn cứ vào giờ tự nhiên theo Mặt Trời ở địa phương nơi sinh)

8.5 Thời khắc

Trải qua tìm tòi và những nghiệm chứng thực tế, Tử Vi tượng học đột phá sự giới hạn phân loại của Tử Vi Đẩu Số truyền thống, có thể lấy một thời thần (1 canh giờ) mà phân làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 10 phút, mỗi một đoạn giờ lại tương ứng với 1 loại hình, loại đơn vị thời gian này gần như không thể tìm được loại nào tượng tự từ thời xưa, gần như là chỉ có sự gần tương tự ở trong "Đạo Tạng Tử Vi Đẩu Số" với "Đạt Ma nhất chưởng kinh" phần <Tổng luận về độ số thời khắc tinh mệnh> mục phép phân chia "Khắc".

Sự áp dụng quy định 100 khắc ở Trung Quốc có khả năng là khởi nguyên ở thời đại nhà Thương, tức là phân chia 1 ngày-đêm thành 100 khắc đều nhau, sự ra đời của nó với việc sử dụng Lậu Khắc (đồng hồ nước, đục lỗ dưới đáy) là có mối quan hệ. Như "Linh Khu kinh" nói: "Lậu thủy hạ bách khắc, dĩ phân trú dạ" (Nước ở trong đồng hồ nước xuống dưới 100 khắc, lấy phân làm 1 ngày đêm). Đến thời nhà Hán lại cải tạo thành một ngày-đêm có 120 khắc, sau đến Nam Triều lại cải tạo thành có 96 khắc, rồi 108 khắc, v.v... nhiều lần lặp lại, mãi đến thời Minh mạt có tri thức về Thiên Văn của người Châu Âu đưa vào mà đề xuất ra cải cách mỗi ngày có 96 khắc, rồi vào đầu thời Thanh được định làm chế độ phân khắc chính thức, quy định trong lịch Thời Hiến triều Thanh, mỗi thời thần (canh giờ) là 2 tiểu giờ, là 8 khắc (tức là mỗi khắc 15 phút). Môn "Thiết bản thần số" áp dụng phép phân loại thời gian loại này.

Tiết thứ chín: Thập nhị cung

Thập nhị cung, ám chỉ việc lấy Tý Sửu Dần Mão... 12 Địa Chi thuận theo kim đồng hồ mà sắp xếp thành 12 cung vị, tượng cho 1 vòng chu thiên 360 độ, người xưa gọi là Thập Nhị cung hoặc là Thập Nhị Chi Thần. 12 cung ở trong Thiên Văn học vốn là hình tròn, sau này là để thuận lợi cho mục đích trực quan, thì trong các chủng loại thuật số đều dùng một loại là hình vuông.

Con số 12 là con số cự kỳ trọng yếu của Thiên Văn ở trong văn hóa cổ đại Trung Quốc. Trong "Hoàng Cực kinh thế" Thiệu Tử đã chỉ ra, trong khoảng trời đất có 2 loại nhịp điệu của tính căn bản là 12 với 30 (hoặc 10). Người xưa từ rất sớm đã phát hiện ra ở trong tính quy luật chu kỳ của Thiên Văn với Địa Lý, rồi tổng kết ra quan niệm của 12 Thứ.

Thái Dương cùng với Nguyệt Lượng, theo vành Hoàng Đạo mà vận hành một vòng là một năm, hội hợp 12 Thứ, tức 12 tháng, mỗi Thứ hội hợp đều có vị t trí riêng biệt, thông qua sự quan sát trường kỳ mà cổ nhân đem vòng Hoàng Đạo quanh trời 360 độ chia ra làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 30 độ, gọi là Thập Nhị Thứ, mỗi Thứ một Tiết một Khí, một vòng (1 năm) có 12 cặp Tiết-Khí. Tên của chúng gọi theo thứ tự là: Tinh Kỷ, Huyền Hiêu, Tưu Tử, Giáng Lâu, Đại Lương, Thực Trầm, Thuần Thủ, Thuần Hỏa, Thuần Vĩ, Thọ Tinh, Đại Hỏa, Tích Mộc, các Thứ đều có tiêu chí định ra đối với Nhị Thập Bát Tú.

Cổ nhân cho rằng, trong 5 hành tinh lớn, thì Mộc Tinh có ảnh hưởng tới con người mạnh nhất. Các số liệu Thiên văn học hiện đại chứng tỏ khối lượng của sao Mộc là gấp bội tổng khối lượng của 8 loại hành tinh trong Thái Dương hệ, sự bức xạ tín hiệu của nó đối với sự sống trên Trái Đất có ảnh hưởng rất lớn (cổ đại gọi là "Mộc tinh đại xung"). Chu kỳ quay quanh Mặt Trời của Mộc Tinh là 11.86 năm, và điểm tương đối gần Mặt Trời nhất của nó cùng với Trái Đất hội hợp là đúng 12 năm, trong một chu kỳ hội hợp có 11 lần Mộc tinh đại xung, mà thân thể con người có 12 đường kinh mạch, lại có 11 tạng phủ (lục phủ ngũ tạng), dường như đều cùng có mối quan hệ này, do đó có 12 năm là một chu kỳ của sự thay đổi.

Tiến sĩ Lý Ước, học giả người Hán cho biết, tiền nhân Trung Quốc đã giả tưởng ra một thiên thể mà tương phản với sự vận hành của Mộc Tinh, gọi là "phản Mộc tinh", lấy Thập Nhị viên làm chu kỳ, thay thế khái niệm thập nhị thứ lúc đầu, tức Thập nhị thần, cái thiên thể giả tưởng đó chính là "Thái Tuế", tuế chính biệt hiệu của Mộc Tinh từ thời cổ đại.

Do sự suy xét chu kỳ 12 năm của thập nhị thần tới chu kỳ 12 tháng của 1 năm, lại diễn sinh ra khái niệm của 12 Nguyệt Kiến với 12 Nguyệt Tướng, hai cái này đều biểu thị hoàng đạo thập nhị cung nhưng có sự khác biệt.

12 Nguyệt Kiến, chính là cái chuôi của Bắc Đẩu chỉ vào 12 cung, lấy 12 Địa Chi để biểu thị, nguyên nhân do Bắc Đẩu xoay thuận theo chiều kim đồng hồ, cho nên 12 cung cũng thuận chiều kim đồng hồ mà bài bố là Tý, Sửu, Dần, Mão,... phân giới của cung tương ứng với "Tiết" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, các môn chiêm bốc Lục Hào, thuật Kỳ Môn, Bát Tự học đều dùng thuận số cả.

12 Nguyệt Tướng, tức là triền cung của Thái Dương, chính là do mỗi năm có vị trí xác định của 12 tháng Thái Dương. Bởi vì ở trên hoành đạo thì Thái Dương vận chuyển nghịch chiều kim đồng hồ, cho nên ngược chiều kim đồng hồ mà bài bố 12 cung, lần lượt là Đăng Minh, Hà Khôi, Tòng Khôi, Truyền Tống, Tiểu Cát, Thắng Quang, Thái Ất, Thiên Cương, Thái Xung, Công Tào, Đại Cát, Thần Hậu, phân giới của cung tương ứng với "Khí" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, thuật số Lục Nhâm, Chiêm Tinh Tây phương, thuật Thất Chính Tứ Dư đều dùng cả.

Sách "Thái Huyền" viết:

"Đẩu tả hành, kiến thập nhị thứ, nhật hữu hành, chu nhập bát xá",

=

Đẩu từ trái mà đi, thiết lập 12 Thứ, Nhật từ phải mà đi, vòng quanh 28 Xá.

cho nên khác biệt của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng ở chỗ không cùng hệ tham chiếu, Nguyệt Kiến thì thuận chiều kim đồng hồ mà từ trái đi sang, còn Nguyệt Tướng thì nghịch chiều kim đồng từ phải sang. Mặt khác, do bình quân 15 ngày sai khác của Tiết với Khí, cho nên Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng tồn tại 15 độ sai lệch về cung vị.

Liên quan về mối quan hệ của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, cổ nhân có một kết luận rất trọng yếu: Đẩu Bính (chuôi sao Đẩu) chỉ vào Tý thì Nhật Nguyệt hội ở Sửu, Đẩu Bính chỉ Sửu thì Nhật Nguyệt hội ở Tý, Đẩu Bính chỉ Dần thì Nhật Nguyệt hội ở Hợi, Đẩu Bính chỉ Hợi thì Nhật Nguyệt hội ở Dần. Tức là Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng vĩnh viễn có mối quan hệ tương hợp, đây chính là nguồn cơn của quan niệm Địa Chi lục hợp. Lục Hợp lại cũng thường thấy ở trong các điển tịch về âm luật cổ đại.

Mối quan hệ tương ứng của Thập nhị thứ, Thập nhị cung, Thập nhị Nguyệt Tướng, Thập nhị chòm sao, với ngày tháng Công Lịch, Tiết Khí nông lịch, cùng Hoàng kinh độ số, 28 Tú, có thể biểu thị dưới đây (phải chú ý đến vấn đề khác biệt cung vị):

Cổ nhân nhận thấy, trời có 12 Thứ, Đất có 12 thần, Người có 12 cung, Thiên Địa Nhân tương hỗ cảm ứng, biết Số của Thiên Địa thì có thể đoán được số của Nhân Mệnh.

Do đó mà các loại phương pháp Mệnh lý, bất luận là nội ngoại hay cổ kim, đều lấy 12 cung 12 Địa Chi làm mô hình cơ bản, Bát Tự học, Thất Chính Tứ Dư, Chiêm Tinh phương Tây, Tử Vi Đẩu Số, Đạo tạng Tử Vi Đẩu Số, Thái Ất mệnh pháp, Lục Nhâm thuật,... đều không có ngoại lệ.

Phụ (Thêm):

Chú giải về Chương Thiên Văn của sách Thái Ất Tinh Kinh

- Thiên động nhi địa tĩnh, kiền khôn phân yên.

(Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi).

Chú giải: Xưa có quan sát vòm trời theo Cái Thiên, theo Hồn Thiên. Tử Vi chính là quan sát theo vòm trời của Cái Thiên mà lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), quan sát tượng của các sao trên trời. Địa thì tĩnh cho nên lấy chỗ của Thái Ất (sao Bắc Cực) làm Tôn chủ, phân chia vòng trời thành hai nửa, trông một nửa để biết toàn bộ. Vì thế mà một nửa Xá của 28 Tú là 14 Chính tinh, một nửa Xá của 12 cung là 6 đạo. Cùng với Hồn Thiên giáp tý rất khác biệt. Học giả sau này không biết cái lý của Cái Thiên, thì sẽ chần chừ lưỡng lự, gây ra đi vào con đường sai lầm.

- Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế.

(Trời xoay về bên trái, từ Đông sang Tây, vòng trời 12 giờ, đúng là 1 ngày, nên ngày đêm đắp đổi).

Chú giải:

Trời xoay về bên trái (tả toàn, nghịch chiều kim đồng hồ), tức là cái lý tự quay quanh trục của Trái Đất ngày ngay, do lấy Địa (mặt đất) làm bản thể cho nên thấy Trời xoay sang trái (QNB chú: lúc quan sát sao Thái Ất = sao Bắc Cực, là người quan sát đứng ở mặt đất và hướng mặt về phía Bắc nên thấy bầu trời như từ phía Đông bên tay phải mà quay sang phía Tây bên tay trái). Do đó, phân chia thành 12 giờ, chính là tham số của Tử Vi. Còn "ngày đêm đắp đổi" là lúc theo Tây lịch ngày nay đến thời điểm 23h00, tức là 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm hôm trước (cái thuyết giờ Tý sớm giờ Tý muộn là sai lầm không chịu được, để lại di hại vô cùng).

Tử Vi Đẩu Số lấy Tháng Giờ mà định Mệnh cung, bởi lẽ cổ thư diễn đạt không rõ ràng thành ra học giả về sau cứ lý giải loạn cả lên. Nghiên cứu rõ bản chất, chính là lấy giờ Tý làm kim chỉ dẫn, lấy phương pháp cộng thêm trên bàn và trừ đi quan sát, tức là chủ ý của nó rất rõ ràng, cái điều mà người ta gọi là "Đông Hạ trí Nhật", "Xuân Thu trí Nguyệt", cho nên Tinh Tông lấy Nhật làm chủ, nguyên do là lấy giờ Mão ở trong tam "Tung" mà kim chỉ dẫn Lập Mệnh; nhưng mà Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy giờ Tý ở trong tam "Hoành" làm kim chỉ dẫn Lập Mệnh; đều là cái lý tự nhiên trong Trời Đất cả. Còn như tại sao lại lấy phép công thêm bàn pháp, thì tham khảo thêm ở Tinh Tông pháp thì biết ngay.

- Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch.

(Nhật xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh đổi trao).

Chú giải:

Dùng Địa làm bản thể, thì Nhật Nguyệt như là đều theo trời xoay về bên trái, nhưng mà Nhật Nguyệt đều tự riêng nó chuyển động, Nhật lấy 365.2425 làm chu kỳ hoàn thành một vòng Hoàng Đạo, thì Nhật từ Tây hướng về Đông mà xoay chuyển.

Bởi vì Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một năm (1 vòng chu thiên) là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận thì có 384 ngày (giống như Dịch Kinh có 384 hào), mà không có liên quan đến chu kỳ Hoàng đạo thái dương vậy.

- Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

(Nguyệt xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 27 lẻ 1/3 ngày; vốn dĩ Nguyệt không có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật mà thành tượng, do có Sóc Vọng, từ Sóc mà trở lại Sóc là 29+1/2 ngày, chính là 1 tháng, cho nên tròn khuyết đan xen nhau).

Chú giải:

Xem phần chú bên trên. Chu kỳ gốc của Nguyệt quay quanh Địa Cầu là 27.3 ngày, do lấy Địa làm bản thể, không thể quan sát được, chỉ có thể lấy Nguyệt Tướng (hình dạng mặt trăng) Sóc Vọng mà theo dõi chu kỳ của nó, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ là 29.53 ngày (QNB chú: thực ra là do khi Mặt Trăng đang quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đồng thời đang quay quanh Mặt Trời, cho nên phải đủ 29.53 ngày thì đứng ở Trái Đất mới có thể thấy lại hiện tượng trăng tròn - Vọng, hay là không ánh trăng - Sóc, tiếp theo của lần thấy trước đó). Vì chu kỳ Sóc Vọng chỉ có 29 ngày rưỡi cho nên Lịch pháp chia ra tháng đủ thì có 30 ngày, còn tháng thiếu thì có 29 ngày.

Mà Tử Vi lấy số ngày Thái Âm lịch phối hợp cung khí Nạp Âm để xác định Tử Vi đến cung nào, đại thể là Tử Vi lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với việc lấy Nhật làm chủ của Tinh Tông. Việc lấy Thái Âm làm chủ này đích thực là "Nguyệt Tướng pháp" (Phép xem hình dạng Mặt Trăng).

- Bắc đẩu thất tinh, toàn cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Đẩu bính chỉ nguyệt kiến, nhật nguyệt hội, tắc kiến tiết khí, nhật nguyệt bất hội, tắc đẩu bính tà chỉ lưỡng thần chi gian, tắc nhuận.

(Bắc đẩu thất tinh, Tuyền Cơ Ngọc Hành nhằm đồng thời với Thất Chính. Đẩu Bính (cán chòm Bắc đẩu) chỉ vào Nguyệt Kiến, Nhật Nguyệt hội thì thấy Tiết Khí, mà Nhật Nguyệt không hội thì Đẩu Bính chỉ xéo vào khoảng giữa 2 Thần thì sẽ là Nhuận).

Chú giải:

Bắc đẩu thất tinh, có thể chỉ thị Bốn Mùa thậm chí là cả đơn vị thời gian Tháng, Giờ, gọi là "Đẩu Bính tư kiến". Đẩu Bính chỉ tới 12 cung, là chỗ của Nguyệt Kiến, chính là chỗ mà Nhật Nguyệt tương hội, tức là cung vị của Nguyệt Tướng với cung vị của Nguyệt Kiến tương hợp với nhau. Đẩu Bính hướng về chỗ cung vị mà nếu như Nhật Nguyệt đến hội thì thành một Tiết Khí, còn nếu như Nhật Nguyệt không đến hội thì không thành lập Tiết Khí mà thành ra tháng Nhuận, lúc đó chắc chắn Đẩu Bính chỉ vẹo vào chỗ giữa của 2 khoảng của Thần (thần = tên địa chi của cung). Lịch pháp lấy tháng Sóc Vọng mà không có Trung Khí định là tháng Nhuận đúng chăng, thực ra là phù hợp không có mâu thuẫn gì cả, mà tháng nhuận hay không nhuận chính là do thiên địa tạo hóa cho phép, chứ chẳng phải là do cách làm lịch gây ra.

Nhu cầu cần phải chỉ ra sự phân bố của chính tinh cũng mô phỏng Đẩu Bính tư kiến, mới lấy sao nào đó đại biểu cho Đẩu Bính, lại lấy sao nào đó đại biểu cho Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, mối quan hệ của 3 cái đó không xuất phát từ cái này, vậy huyền cơ của Tử Vi mà học giả lại không nắm được cái lý của nó thì khó tránh khỏi sự không hiểu được điều kỳ diệu.

Riêng vấn đề tháng Nhuận, cho đến nay vẫn tranh luận không ngừng, mà thuật Thái Ất (nguyệt kế Thái Ất) đã sớm có cái nhìn nhận sáng tỏ rồi, đoạn này cũng tiết lộ yếu chỉ của nó, nghiên cứu thực chất của nó, chính là vấn đề tính toán cung khí của tháng Nhuận ra sao. Nói cách khác là, xác định Can Chi của tháng Nhuận như thế nào? Đáp án của vấn đề này chính là lời giải thỏa đáng cho việc lập Mệnh của tháng Nhuận. Các học giả đời sau không nghiên cứu Thiên Văn Lịch Pháp khó mà tránh được tự mình chuốc lấy phiền toái.

- Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhuận hữu thập tam nguyệt, nhất chương thập cửu niên, thất nhuận.

(Nhật đi 1 độ, Nguyệt đi 13+7/19 độ, cho nên năm Nhuận có 13 tháng, một Chương = 19 năm thì có bảy lần Nhuận).

Chú giải:

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt đi xa gấp bội) của Thiên văn học cổ đại, vì cớ gì mà một Chương 19 năm lại có 7 Nhuận cùng với "Nguyệt hành bội ly" lại phù hợp như thế? Đây cũng là cái vi diệu của Thiên Địa.

- Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số.

(Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, với Thổ Mộc Hỏa ở phía ngoài, Kim Thủy thì ở phía trong, các ti sở 72 ngày mà thành số của Càn Khôn).

Chú giải:

Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy gọi chung là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành tượng, tại Địa hóa Hình, lại cũng gọi là "Ngũ đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng chắc chắn không thay đổi. Phân chia thành 2 hệ là Thổ Mộc Hỏa hệ có số 216 là số sách của quái Càn, với Kim Thủy hệ có số 144 là số sách của quái Khôn, cho nên viết "Càn Khôn chi số".

- Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

(Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm).

Chú giải:

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết linh quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng.

Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh. Điều này thể hiện trí tuệ của hiền nhân Trung Quốc, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản?

Tử Vi Đẩu Số cũng ngụ ý bao hàm các quy luật của Hà Lạc, mà cái lý kỳ diệu của nó thực là khó có thể thấu hiểu.

- Thiên địa định vị, lôi phong tương bạc, sơn trạch thông khí, thủy hỏa tương xạ.

(Trời Đất định vị, Lôi Phong tương bạc, Sơn Trạch thông khí, Thủy Hỏa tương xạ)

Chú giải:

Đây chính là nói về phương vị của Tiên Thiên Bát Quái.

Tiên Thiên Bát Quái chính là căn nguyên của nạp giáp, mà nạp giáp là gốc của Tứ Hóa trong Tử Vi Đẩu Số. Như lấy dương nhất cục của Thiên Can chính tinh hóa Lộc mà xem xét, thì có thể thấy sơ sơ được cái ý của nó.

- Càn nạp giáp, khôn nạp ất, chấn nạp canh, tốn nạp tân, cấn nạp bính, đoài nạp đinh, ly nạp nhâm, khảm nạp quý.

Chú giải:

Đây là nói về phép nạp giáp.

Nạp giáp có Tiên Thiên thai dục pháp với Hậu Thiên lưu hành pháp. Huyền không địa lý chính là dùng Hậu Thiên nạp giáp, học giả ngỡ rằng nguyên cớ là 24 Sơn không có Mậu Kỷ, mà không biết là Khảm Ly Nhâm Quý chính là cái tuyệt diệu của trời đất tự nhiên, không ai mạnh hơn cả.

Tử Vi Đẩu Số kiêm dụng cả hai (loại nạp giáp) mà thành ra cái dụng của Lộc Kị.

- Khôn ất tựu tốn tân, tốn tân tựu đoài đinh, đoài đinh tựu khảm quý, khảm quý quy khôn ất. Chấn canh tựu ly nhâm, ly nhâm tựu càn giáp, càn giáp tựu cấn bính, cấn bính quy chấn canh.

Chú giải:

Đây là nói về nguyên lý của Tiên Thiên Bát Quái biến Hậu Thiên Bát Quái.

Biến của dương quái (tức là Dương quái Tiên Thiên chuyển vị thành quái Hậu Thiên), đầu mối quan trọng của nó ở tại Thất Sát. Biến của âm quái, đầu mối then chốt của nó ở tại Phá Quân (vì sao Thất Sát, vì sao Phá Quân? Từ đây có thể thấy được), cho nên hai sao Thất Sát với Phá Quân ở trên mệnh bàn Đẩu Số luôn luôn xung vào 2 sao Phủ Tướng, đều là căn cứ vào cái lý của Quái, cái mà gọi là "Đắc thử tức hiểu Thất Sát ý, minh chi khả giải Phá Quân tình" (Có được nó thì hiểu được tâm nguyện của Thất Sát, sáng tỏ được nó thì có thể giải được tính tình của Phá Quân).

Đoạn này cũng vạch ra nguyên cớ của Đẩu Số Tứ Hóa, phép nạp giáp chính là nguồn cội của Đẩu Số Tứ Hóa, rồi diễn hóa theo Tiên Hậu Thiên.

(Quyết viết:

Tiên thiên Lộc Kỵ, Âm dữ Dương,

Khảm Ly Ký Tế thành lưỡng phương.

Thủy Hỏa tương dịch Mậu Kỷ Môn,

Thiên phiên Địa phúc kiến Cơ Lương.

Điên đảo Càn Khôn tư thành mệnh,

Cát hung đắc triệu Lộc Kỵ chương.

Dục vấn Hóa Quyền cứu hà ý,

Càn Khôn Nhâm Quý huyền cơ tàng).

cái lý trong đó thâm sâu, lại không phải là "phiến ngôn chích ngữ" (chỉ dùng một vài lời) là có thể thấy rõ được.

Riêng cái huyền diệu của Tử Vi Đẩu Số, đa phần là ở tại hệ thống Tứ Hóa của nó, do Phá Quân Thiên Tướng Lộc Kị đạo dẫn đồ, Thập nhị cung Tiên Thiên Lộc Kị lưu chuyển đồ, Tiên Thiên Âm Dương Lộc Kị lai vãng đồ, Càn Khôn điên đảo đồ, Phiên thiên đảo địa đồ, Khảm Ly Ký Tế đồ, Cát hung thành triệu đồ hơn 10 loại bức đồ, có thể chứng tỏ sự khác biệt của Tiên Thiên Lộc Kị với Hậu Thiên Lộc Kị, quá trình diễn hóa của Tiên Hậu Thiên Lộc Kị Quyền tinh chính là nguyên lý của Thập Can Lộc Kị.

- Bắc cực nhất khảm phương, thiên kỷ cửu ly phương, hà bắc tam chấn phương, thất công đoái phương, tứ phụ tốn phương, thiên trù lục kiền phương, hổ bí nhị khôn phương, hoa cái bát cấn phương, ngũ đế cư trung ương.

(Bắc Cực 1 ở phương Khảm, Thiên Kỷ 9 ở phương Ly, Hà Bắc 3 ở phương Chấn, Thất Công 7 ở phương Đoài, Tứ Phụ 4 ở phương Tốn, Thiên Trù 6 ở phương Càn, Hổ Bôn 2 ở phương Khôn, Hoa Cái 8 ở phương Cấn, Ngũ Đế 5 cư ở Trung Ương).

Chú giải:

Đây là nói về phương vị của số Lạc Thư, với Thiên Kỷ, Hà Bắc, Tứ Phụ,... đều là tên sao thời xưa, ý nghĩa của nó với Lạc Thư đồ là không khác nhau.

- Đông bắc tây nam, long quy hổ điểu, tứ tượng thất chính, thành nhập bát túc. Đông phương thương long, giác, kháng, để, phòng, tâm, vĩ, cơ, thất thập ngũ số; bắc phương huyền quy, đẩu, ngưu, nữ, hư, nguy, thất, bích, cửu thập bát số hựu tứ phân chi nhất; tây phương bạch hổ, khuê, lâu, vị, mão, tất, chủy, sâm, bát thập số; nam phương chu điểu, tỉnh, quỷ, liễu, tinh, trương, dực, chẩn, bách thập nhị số.

(Đông Bắc Tây Nam, Long Quy Hổ Điều, là tứ tượng thất chính, tạo thành 28 Tú. Phương Đông có Thanh Long gồm Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, số bảy mươi lăm (75); phương Bắc có Huyền Quy gồm Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, số 98 lẻ 1/4 (98.25); Tây phương có Bạch Hổ gồm Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm, số tám mươi (80); phương Nam có Chu Điểu gồm Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn, số một trăm mười hai (112)).

Chú giải:

Đây là nói về 28 Tú. Vị quan xem Thiên Văn ngày xưa lấy 28 Tú làm Kinh, lấy Ngũ Tinh làm Vĩ, mà đo lường thiên tượng, nhằm chiêm nhân sự. 14 chính tinh của Tử Vi Đẩu Số chính là hóa thân của 28 Tú, mà không phải là ngôi sao thực nào cả, chính là rút ra tính quy luật của của sự đối ứng (tương ứng, phù hợp) của mối quan hệ giữa 28 Tú và Ngũ Tinh, mà hình thành nên "Hư tinh" vậy. Chứ nó với Nam Đẩu lục tinh và Bắc Đẩu thất tinh là không có liên can gì, chỉ mượn cái tên của chúng như thế thôi.

Nam đẩu lục tinh nằm ở phương Bắc chỗ Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ và do 6 ngôi sao cấu thành nên, vị quan xem thiên văn xưa gọi là Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thiên Cơ, Thiên Đồng cùng với Thiên Khố Lâu, trong số đó thì Tử Vi mượn dùng 5 ngôi.

Bắc đẩu thất tinh là Tham Lang, Văn Khúc, Liêm Trinh, Cự Môn, Vũ Khúc, Phá Quân, Lộc Tồn, trong đó Tử Vi cũng mượn dùng 5 ngôi (chính tinh), ngoài ra thêm Thất Sát, Tử Vi, Nhật Nguyệt là gọi chung bằng 14 chính tinh.

- Nhất tuế nhật nguyệt tương hội thập hữu nhị, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, nhập bát túc liệt yên, ngũ tinh kiến yên.

(Mỗi một năm thì Nhật Nguyệt tương hội 12 lần, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, chỗ của 28 Tú bày ra, nơi Ngũ Tinh được thấy).

Chú giải:

Đây là nói về 12 Thứ, cái gọi là "Nhập bát tú liệt yên, ngũ tinh kiến yên" đó chính là ý nghĩa của Kinh và Vĩ, cho nên Ngũ Tinh còn có tên là "Ngũ Vĩ". Cùng với đoạn dưới 12 Thần, 12 cung, tương hợp, tức là Thiên Địa Nhân tương giao cảm ứng, cho nên toàn bộ Tượng của Tử Vi đều có thể thể hiện ở trong 12 cung vị tại Địa Bàn.

- Thiên hữu thập nhị thứ, địa hữu thập nhị thần, nhân hữu thập nhị cung.

(Thiên có 12 Thứ, Địa có 12 Thần, Nhân có 12 cung).

Chú giải: xem chú giải ở trên.

- Thiên khai vu tý, địa tịch vu sửu, nhân sinh vu dần. Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần.

(Trời mở ở Tý, Đất mở ở Sửu, Người sinh ở Dần.

Chú giải:

Tý Sửu Dần chính là Thiên Địa Nhân tam nguyên (3 cái căn bản đầu tiên) của Đẩu Số, cái lý vô cùng của nó xuất phát từ đây. Cho nên quyển nhị "chương Lý Tượng" viết: "Tý Tham Lang, Sửu Phá Quân, Dần Thất Sát. Thiên Địa Nhân tam tài đủ cả vậy".

QNB chú: cái đoạn "Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần", theo QNB hiểu thì muốn nói đến việc sử dụng lịch pháp của 3 triều đại, nhà Chu dùng lịch kiến Tý, nhà Ân dùng lịch kiến Sửu, nhà Hạ dùng lịch kiến Dần".

- Dần thân nhất, mão dậu nhị, thìn tuất tam, tị hợi tứ, tý ngọ ngũ, sửu mùi lục.

(Dần Thân 1, Mão Dậu 2, Thìn Tuất 3, Tị Hợi 4, Tý Ngọ 5, Sửu Mùi 6).

Chú giải:

Đây là nói về lục đạo. Dần cung làm điểm gốc tọa độ, là điểm gốc 0 độ trong hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần (tức là khởi điểm nhịp rung động của các Cục trong Tử Vi là Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần, quyển 2 "chương Lý Tượng" có phân tích), nên Dần là 1. Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi chính là 6 đạo của Cái Thiên quan, theo thứ tự sắp xếp khoảng cách, được âm dương ngũ cục, số giao của chúng cũng đều do 1 đến 6.

- Mão thìn tị ngọ mùi hoàng đạo, dậu tuất hợi tý sửu hắc đạo, kỳ dữ nhật nguyệt hà như tai?

(Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Hoàng Đạo, Dậu Tuất Hợi Tý Sửu Hắc Đạo, cái đó cùng với Nhật Nguyệt như thế nào mới phải?)

Chú giải:

Nguyệt có 9 đạo, Tử Vi chỉ dùng có Hắc đạo Hoàng đạo. Cho nên giảng Nhật Nguyệt, có thuyết Hoàng Đạo Hắc Đạo, cái này thường thấy ở trong các bài phú cổ "Chư tinh vấn đáp luận".

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Bảng vợ chồng tương sinh tương khắc của người tuổi Tỵ

Nam tuổi Tỵ và nữ tuổi Tỵ nếu có đủ tôn trọng, yêu thương nhau thì có thể sống bên nhau dài lâu.
Bảng vợ chồng tương sinh tương khắc của người tuổi Tỵ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

bang-vo-chong-tuong-sinh-tuong-khac-cua-nguoi-tuoi-ty
Tỵ - Tý Tỵ - Sửu Tỵ - Dần Tỵ - Mão
Tỵ - Thìn Tỵ - Tỵ Tỵ - Ngọ Tỵ - Mùi
Tỵ - Thân Tỵ - Dậu Tỵ - Tuất Tỵ - Hợi

Maruko (theo Sohu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảng vợ chồng tương sinh tương khắc của người tuổi Tỵ

Xem tướng khuôn mặt đoán phúc phận –

1. Về thọ yểu: Được thể hiện ở ấn đường. Nếu sáng láng như gương bằng phẳng đầy đặn thì sống lâu mà kiến thức rộng. Nếu được mắt sáng (Thổ tinh) thì còn giầu có. - Nếu ấn đường mà lõm và tối thì yểu tướng mà còn hèn kém. 2. Về giầu hay nghèo. Giầu h

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

coi-boi-khuon-mat

1. Về thọ yểu: Được thể hiện ở ấn đường. Nếu sáng láng như gương bằng phẳng đầy đặn thì sống lâu mà kiến thức rộng. Nếu được mắt sáng (Thổ tinh) thì còn giầu có.
– Nếu ấn đường mà lõm và tối thì yểu tướng mà còn hèn kém.

2. Về giầu hay nghèo.
Giầu hay nghèo thể hiện ở mũi. Mũi mà đầy, thẳng sáng, đầu mũi tròn đẹp, láng mượt thì không thể không giầu có. Mà không thiên lệch thì giầu có lâu dài.
– Nếu mũi cong keo gầy khô, sắc xám xỉn, thiên vẹo thì nghèo hèn. Mũi quặp nhọn thì phá sản.
– Nếu mũi hếch ngửa lộ lỗ mũi thì không thể giầu mà không có ăn là chắc chắn.

3. Về tình thân sơ.
Tình thân là cha mẹ, anh em, họ hàng. Nó được thể hiện ở hai hàng lông mày.
– Nếu dài mượt thì đông anh em mà tình cảm thân thiện, cha mẹ song toàn, đức độ. Họ hàng đông đúc.
– Nếu hai lông mày ngắn, thưa (tức cung La hầu và Kế đô) khô héo thì ít anh em, cha mẹ kém.
– Lông mày dài quá mắt thì anh em họ hàng bình yên, sum họp vui vầy.
– Lông mày mà xoắn xoáy thì anh em bất hòa.
– Lông mày giao nhau thưa vuông thì xấu: ít anh em.
– Lông mày ngắn mà xẻ thì anh em không yên vui.

4. Về hạnh phúc vợ chồng, đôi lứa.
Hạnh phúc lứa đôi lệ thuộc hai phía nhưng nếu tướng số đã có thì cả hai giới lấy nhau sẽ trùng hợp để thể hiện cuộc sống lứa đôi có hạnh phúc hay không.
– Nếu gian môn (ở gần lỗ tai ngang dái tai) còn gọi là Quan Ngũ vĩ mà sáng tươi không ngấn vằn thì vợ chồng đoan chính, thủy chung.
– Nếu gian môn ù sưng, đen, tôi, vằn ngấn thì bất hạnh, gian dâm.

5. Về con cái.
Xem con cái nhìn vào Quan Luỵ Trường (dưới con mắt) còn gọi là ngọ tằm (nổi cao dưới mắt như con tằm dâu ngủ).
– Nếu sáng tươi đầy cao thì con cái làm ăn khá giầu sang, danh giá.
– Nếu nơi đó sâu lõm, tối đen thì con cái bi lụy, khốn khó.
– Nếu sắc khí hồng hào tươi mượt sinh con quý tử (giầu sang vinh hiển).

6. Về nhà đất.
Nhìn vào đôi mắt ta biết người có nhà đất ruộng vườn.
– Đôi mắt thanh tú mượt có nhà hoặc đất đai nhiều.
– Mi mắt khô thô thì nhà tổ phụ để cho cũng tan mất.
– Mắt tròn nhỏ, mắt to không lộ thì cửa nhà đầy đủ.
– Mắt bé híp thì vô gia, điền địa kém.

7. Về chức tước.
Nhìn thấy hai cung Nhật giác và Nguyệt giác (phía trên hai hàng lông mày phía trán).
– Nếu cao đầy sáng sủa ngay thẳng: Tài ba, tước vị.
– Nếu có ngấn đứt đoạn thì lận đận công danh; nếu ở đó lại bằng hay hõm sâu là thường dân.

8. Về phúc đức.
Trên khuôn mặt của con người đều thể hiện những nét đặc trưng phúc hậu hay hiểm ác.
– Gương mặt vuông vức, mặt trái xoan: thể hiện nét hiền từ, phúc hậu. Người có nhân đức, nhìn dễ mến, dễ gần.
– Gương mặt chuột (mặt choắt vuốt nhọn), mặt như mặt ngựa (mặt hẹp dài quá khổ) đôi mắt lúng liếng, lé (nhìn nghiêng ngó dọc): Người hiểm độc, mưu sâu hay lừa thầy phản bạn.

9. Về di trú.
Trong cuộc sống không mấy ai ở nguyên một nơi. Họ hoặc dời quê quán đi nơi khác, hoặc đi đây đi đó… Nhiều người suốt đời nay đây mai đó, không nhà cửa, bôn ba thì có người giầu nhưng cũng có người tay không vẫn hoàn tay không… Tất cả thể hiện ở cung “Thiên thương” hay “Thiên ri” nằm cuối đuôi lông mày khoảng giữa với tóc mai:
– Nếu sáng sủa, đầy đặn thì đi xa có lợi, rời quê sinh sống thì tốt, có nhà cao cửa rộng được người quý trọng.
– Nếu nổi cao như bờm ngựa thì sang trọng có danh giá, đi lại bốn phương.
– Nếu thấp hãm đen thì đi xa bất lợi, vô gia cư.
– Nếu liền lông mày với tóc mai thì tha phương cầu thực.

10. Về tật bệnh.
Con người phải trải qua “sinh, lão, bệnh, tử”. Đó là lẽ thường tình. Nhưng quá trình sống thì ai mà chẳng một đôi lần bệnh. Có người mang tật nguyền rất sớm. Có người mắc bệnh mạn tính, bệnh hiểm nghèo…
Bệnh tật tai ách đều được thể hiện trên gương mặt về biểu tượng. Đó thuộc “bất biến” và thuộc “duy biến”. Còn “thường biến” là thuộc y biểu (biểu hiện về mặt y-lý). Về mặt biểu tướng thì bệnh tật thể hiện ở Sơn căn. (Cuông mũi giáp chân mày).
– Nếu nơi ấy sáng láng đầy đặn thì ít bệnh tật oái oăm.
– Mũi dọc dừa thì ít bệnh hiểm nghèo.
– Mũi không cao không thấp thì ít bệnh tật.
– Sơn căn có đường “gân xanh” vắt ngang (thường thấy ở trẻ) thì bé hay ốm quặt quẹo, nuôi nấng, vất vả. Về mặt y-biểu thì khi có bệnh sắc khí Sơn căn biến đổi trước rồi sắc khí mặt thay đổi sau.
Ví dụ: Sơn căn đỏ chót bị bệch nội tiết (rõ nhất ở khu đầu chóp mũi).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng khuôn mặt đoán phúc phận –

Những lời khuyên dành cho con gái khi hẹn hò

Những lời khuyên dành cho con gái khi hẹn hò. Mẹ luôn là người đi trước để lại những kinh nghiệm tuyệt vời cho bạn. Hãy tham khảo bài viết sau bạn nhé
Những lời khuyên dành cho con gái khi hẹn hò

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những lời khuyên dành cho con gái khi hẹn hò. Mẹ luôn là người đi trước để lại những kinh nghiệm tuyệt vời cho bạn. Đừng quên tham khảo những lời khuyên sau từ các bà mẹ khi bạn bắt đầu hẹn hò cùng ai đó nhé!

Những lời khuyên dành cho con gái khi hẹn hò

1. “Hãy tìm một ai đó luôn xem con là xinh đẹp, kể cả khi không make up”

2. “Sau lần tan vỡ đầu tiên, hẳn con sẽ cho rằng mọi thứ chấm hết, thế nhưng không phải vậy. Một chàng trai tốt hơn nhiều sẽ đến với con”

3. “Hãy luôn tỏa sáng, con nhé!”

4. “Đừng chỉ ngồi đó chờ đợi và ao ước, hãy đứng dậy thực hiện những điều mình muốn. Chính con phải chịu trách nhiệm cho cuộc sống của mình”

5. “Những mối quan hệ có thể đến rồi đi nhưng gia đình sẽ mãi luôn ở cạnh con”

6. “Con có quyền nói “không” với điều mình không muốn”

7. “Hãy yêu bản thân con đến tận cùng ngóc ngách trước khi con muốn dành tất cả cho một ai đó khác”

8. “Nếu bạn bè, gia đình không thích người ấy của con, hãy lắng nghe họ. Có thể họ sẽ đúng đấy!”

9. “Đừng bao giờ quên mất mình là ai”

10. “Đừng lo lắng về chuyện hẹn hò nếu con chưa có ai đó. Hãy cứ sống cuộc sống của mình một cách vui vẻ, rạng rỡ nhất, con sẽ tìm được một nửa của mình đúng lúc”

11. “Trân trọng bản thân, con nhé!”

12. “Không phải chỉ các cô nàng thon thả mới được hẹn hò. Nếu ai nói với con như vậy, họ thiếu hiểu biết hoặc đang nói dối. Vẫn có những cô nàng, anh chàng yêu người khác không phải bởi vóc dáng đối phương”

13. “Con không bao giờ cần phải dạy người khác cách họ đối xử với mình”

14. “Nếu con không chăm sóc bản thân mình một cách nghiêm túc sẽ không ai làm điều đó với con cả”

15. “Đôi khi trở nên ngốc nghếch một tí cũng không sao”

16. “Hãy chọn một người biết chấp nhận những khiếm khuyết của con”

17. “Nếu con cố gắng làm hài lòng mọi người, con sẽ không bao giờ làm hài lòng chính mình”

18. “Đừng tốn nước mắt cho việc hẹn hò”

19. “Đừng bao giờ chỉ dựa vào ai đó làm con hạnh phúc, hãy tự làm cho mình hạnh phúc”

20. “Hãy sải cánh và bay như một chú đại bàng dũng mãnh. Con có thể làm mọi thứ”

Những lời khuyên của mẹ luôn là tài sản tuyệt vời cho các cô gái nhất là khi đến tuổi hẹn hò. Bạn đã được nghe những lời này từ mẹ?


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lời khuyên dành cho con gái khi hẹn hò

Những cách làm nổi bật khu vườn thiếu sáng

Để khắc phục nhược điểm một khu vườn thiếu ánh sáng, bạn nên kết hợp trồng những loài cây với màu sắc, cấu trúc khác nhau như trồng dương xỉ xen lẫn ngọc ngân, phú quý.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kỹ sư cảnh quan Trần Triệu Vỹ cho biết, vườn thiếu ánh sáng còn được gọi là vườn bóng râm hay vườn chịu bóng. Đây là kiểu thiết kế dành cho những khu vực có ít sự tác động của ánh sáng mặt trời bởi yếu tố khách quan như bị bao phủ những loại cây tầng trung và tầng cao hoặc sự che chắn của công trình xây dựng. Hiện có rất nhiều chọn lựa để thiết kế được một khu vườn bóng râm đẹp mắt, thu hút. Dưới đây là một số thủ thuật làm sáng một khu vườn chịu bóng:

1. Xác định loài cây trồng phù hợp dựa trên cơ sở mức độ chịu bóng của sân vườn, lượng ánh sáng nhận được từ những khu vực khác nhau.

2. Phủ một số phân bón hữu cơ khác hoặc một lớp đất mùn để đảm bảo chất dinh dưỡng và độ ẩm đều đặn cho cây.

3. Trồng một số loài cây bụi chịu bóng có hoa như cẩm tú cầu, đỗ quyên, lan ý, hoa trà, để tạo điểm nhấn về sắc màu cho khu vườn. Có một số loài cây chịu bóng tốt như địa lan, dương xỉ, trầu bà, thu hải đường...

vườn nhà đẹp
Đối với khu vườn thiếu sáng, bạn nên chọn các loại cây ưa bóng

4. Thay vì cố gắng cải tạo chất đất để thích hợp với loài cây mình ưa thích, bạn hãy chọn cây trồng phù hợp với chất đất.

5. Chủ nhà nên kết hợp những loài cây với màu sắc, cấu trúc khác nhau để làm nổi bật một khu vườn thiếu ánh sáng. Đơn cử như trồng dương xỉ xen lẫn ngọc ngân, phú quý. Bạn cũng hãy chọn lựa những cây lá có vạch màu hoặc lá toàn màu xanh.

6. Khả năng sinh trưởng và trao đổi chất của cây dưới bóng râm diễn ra chậm hơn vì lượng ánh sáng mặt trời ít. Vì thế, không nên bón phân hay tưới nước với mức độ quá thường xuyên. Bạn nên thêm lớp đất hữu cơ phủ trên bề mặt để giúp cây giữ được lượng chất dinh dưỡng cần thiết cho quá trình phát triển.

7. Khi bố trí một khu vườn bóng râm không có hẳn là bạn bị hạn chế trong việc chọn lựa các giống cây trồng. Hiện có rất nhiều loài cây chịu bóng mát, bạn hãy thử phối hợp nhiều phương án với cấu trúc và màu sắc cây khác nhau sẽ làm thành một khu vườn bắt mắt, sống động như bạn mong muốn.

8. Bạn có thể tỉa bớt lá, cành của những cây tầng cao nếu muốn khu vườn của mình có những tia nắng hắt xuống. Lưu ý là không nên tỉa cành quá nhiều và độ dài của đoạn cành bị cắt bỏ phải nhỏ hơn 1/3 độ dài của cả cành. Không tỉa nhiều hơn hai lần trong một năm và chỉ nên cắt những cành nhỏ.

9. Hầu như mỗi bản thiết kế sân vườn đều có một vài giống cỏ trang trí nào đó với màu sắc khác nhau, từ màu hồng, xanh dương cho tới trắng. Phần lớn các loại cỏ trang trí đều mọc khá cao. Vì thế, nên trồng chúng phía sau những nơi cần làm nền hoặc những khóm hoa để tạo điểm nhấn cho một loài cây khác. Bạn có thể tỉa, xén ngắn bớt để cây cỏ gọn gàng hơn.

10. Nếu cần có thêm đất để trồng cây, bạn hãy chọn một lớp đất trong vườn hoặc đất mặt có chất lượng tốt và lượng đất bổ sung không dày quá 2-4cm. Bạn có thể thêm đất ở những chỗ rễ cây có thể phát triển đến nếu muốn nhưng cũng không dày quá 2-4 cm.

(Theo Vnexpress)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những cách làm nổi bật khu vườn thiếu sáng

Những con giáp hay 'nghĩ một đằng, nói một nẻo'

Đây không hẳn là sở thích của họ mà đơn giản chỉ là cách để họ ngụy trang cho bản thân mà thôi.
Những con giáp hay

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No1: Tuổi Dần

Người tuổi Dần có lòng tự trọng cao, ưa sĩ diện, thích người khác làm theo bất cứ yêu cầu nào của họ. Do đó, nhiều khi họ tỏ ra ngoan cố, dù biết bản thân sai nhưng vẫn cố tình cãi lý, quyết không nhận sai.

dan-4282-1404346765.jpg

Lời lẽ họ đưa ra để cố vớt vát lấy thể diện trong lúc mình sai khá mâu thuẫn, câu trước đá câu sau và thường theo kiểu ngược lại với suy nghĩ thầm kín của bản thân.

No2: Tuổi Tỵ

Đa số người tuổi Tý có tư duy nhạy bén, sắc sảo. Họ thường tỏ vẻ nghiêm túc, thậm chí lạnh lùng trước mặt người khác, nhưng thực ra họ đang cẩn trọng suy xét vấn đề trước khi đưa ra bất cứ lời nói hay hành động nào. Ngoài ra, người tuổi này còn đa nghi, cảnh giác và không dễ dàng tin tưởng mọi người, đặc biệt là những người mới quen biết.

ty-5800-1404346765.jpg

Do đó, việc họ hay sử dụng cách nói ngược, nói tránh là nhằm mục đích "ngụy trang" cho bản thân để đảm bảo an toàn cho lợi ích cá nhân. Đồng thời, thói quen đó có thể đánh lạc hướng suy nghĩ của người khác về họ, biến họ trở nên bí ẩn, có sức hút mãnh liệt hơn đối với người khác giới.

No3: Tuổi Mùi

Bản tính lương thiện, tốt bụng và hòa đồng khiến người tuổi Mùi dành được tình cảm ưu ái của mọi người xung quanh. Nhưng vì có lối suy nghĩ khá bi quan, lại không mấy tự tin vào chính mình nên đôi khi họ dùng những lời nói ngược nhằm mục đích che giấu nội tâm sâu kín, tạo sự hóm hỉnh và vui tươi cho bầu không khí tập thể.

mui-9220-1404346765.jpg

Trong bất cứ tình huống cấp bách nào, người tuổi Mùi luôn giữ được bình tĩnh. Do đó, họ thường đóng vai trò trọng tài phân xử mọi khúc mắc giữa mọi người, nhằm làm hài lòng tất cả. Lối nói ngược pha chút hài hước được họ sử dụng và tận dụng một cách khéo léo, hiệu quả.

Mr.Bull

thn-1404001087-1404001105-362x-2475-9430

Xếp hạng 5 con giáp hiếu thắng nhất

Với người tuổi Thìn, chuyện thắng thua, thành bại quan trọng như chính sinh mệnh của họ vậy.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp hay 'nghĩ một đằng, nói một nẻo'

Tuổi Thìn và tuổi Mùi có hợp nhau không? –

Thìn và Mùi có thể giao tiếp cởi mở với nhau, nhưng sức bền trong mối quan hệ của đôi bạn này phụ thuộc chủ yếu vào sức chịu đựng của tuổi Mùi trước tính cách mạnh mẽ và ham chơi của Thìn. Vấn đề là ở chỗ, Mùi sống khá độc lập và không thích nghe lện
Tuổi Thìn và tuổi Mùi có hợp nhau không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Thìn và tuổi Mùi có hợp nhau không? –

Hướng dẫn chọn ngọc thạch phong thủy theo hướng nhà

Một trong những vật phẩm phong thủy vượng tài rất được ưa chuộng hiện nay là ngọc thạch. Không chỉ có tác dụng phong thủy, đây còn là đồ trang trí đẹp mắt, có
Hướng dẫn chọn ngọc thạch phong thủy theo hướng nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một trong những vật phẩm phong thủy vượng tài rất được ưa chuộng hiện nay là ngọc thạch. Không chỉ có tác dụng phong thủy, đây còn là đồ trang trí đẹp mắt, có tính thẩm mĩ cao. Nhưng đừng nên trưng bừa bãi nhé, hãy nghe ## bày cách chọn ngọc thạch chuẩn phong thủy.


Huong dan chon ngoc thach phong thuy theo huong nha hinh anh
 
Chọn ngọc thạch chuẩn phong thủy là phải dựa vào hướng nhà, hướng phòng để trưng ngọc đúng màu, mang lại hiệu quả chiêu tài vượng lộc, bảo hộ bình an tốt nhất.
1. Tọa Tây hướng Đông   Theo nguyên lý ngũ hành sinh khắc thì phương Đông thuộc Mộc, mà Mộc khắc Thổ sinh tài nên bày ngọc thạch màu vàng là tốt nhất. Màu vàng thuộc ngũ hành Thổ, bày ở phương Đông thì nhất định phát tài phát lộc. Cửa hàng, cửa hiệu, văn phòng trưng một tấm ngọc thạch màu vàng hay một con phượng hoàng làm bằng ngọc màu vàng thì không gì tốt bằng.   2. Tọa Đông hướng Tây   Phương Tây thuộc ngũ hành Kim, Kim khắc Mộc sinh Tài nên ngọc thạch màu xanh lá cây là phù hợp nhất, không chỉ vượng vận mà còn bảo hộ bình an, gia tăng phúc khí.
 
Huong dan chon ngoc thach phong thuy theo huong nha hinh anh
 
3. Tọa Bắc hướng Nam   Phương Nam thuộc ngũ hành Hỏa, Hỏa khắc kim sinh tài nên bày ngọc thạch màu trắng. Bên cạnh đó, phương Nam Hỏa vượng, mùa hè nóng bức, màu trắng sắc lạnh có phần tiêu bớt nhiệt lượng, mang lại cảm giác mát mẻ, có thể kiềm chế tính nóng của người trong nhà, mang tới bình an, hiền hòa.   4. Tọa Nam hướng Bắc   Phương Bắc thuộc ngũ hành Thủy, Thủy khắc Hỏa sinh tài nên ngọc thạch màu đỏ là hữu dụng nhất, ngoài ra dùng màu hồng, tím cũng được. Các màu này đậm đà, có cá tính nên trưng bày trong nhà vừa đẹp, vừa sang, có tính thẩm mĩ cao.
Huong dan chon ngoc thach phong thuy theo huong nha hinh anh
 
Ngoài những hướng chính, thì các hướng phụ nên dùng ngọc thạch theo hướng dẫn như sau: Tây Nam dùng màu trắng, nâu, cà phê; Tây Bắc dùng màu xanh lá; Đông Nam dùng màu trắng; Đông Bắc dùng màu vàng.
  Ngọc thạch có thể khắc tạc các dạng linh thú cát tường như rồng, hổ, phượng hoàng, sư tử, lỳ lân, thiềm thừ,… hay những hình trang trí đẹp mắt. Song, chú ý là chọn hình nào phải xem kĩ tác dụng phong thủy của hình đó để tránh hại. 
► Mời các bạn tiếp tục xem hướng nhà theo tuổi để không phạm phải đại kị

Đeo ngọc chỉ để ngắm hay còn chiêu nạp phúc khí Đeo ngọc dưỡng thân Vật phẩm tốt lành để sớm sinh con
Thái Vân
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng dẫn chọn ngọc thạch phong thủy theo hướng nhà

Top 4 chòm sao nam dễ rơi vào lưới tình công sở

Nơi làm việc cũng là nơi chắp cánh cho kha khá mối tình công sở. Cùng xem chàng trai hoàng đạo nào dễ nảy sinh tình cảm với đồng nghiệp nhất nhé.
Top 4 chòm sao nam dễ rơi vào lưới tình công sở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nơi làm việc tưởng chừng khô khan nhưng cũng là nơi chắp cánh cho kha khá mối tình công sở. Cùng xem chàng trai hoàng đạo nào dễ nảy sinh tình cảm với đồng nghiệp nhất nhé.   Tình yêu có thể đến từ rất nhiều mối quan hệ trong cuộc sống của chúng ta. Bạn bè, bạn học, thầy trò… các mối quan hệ này đều có thể phát triển thành tình yêu. Còn có một mối quan hệ nữa mà chúng ta chưa nhắc đến, đó là mối quan hệ đồng nghiệp. Tình yêu giữa những người đồng nghiệp với nhau còn được gọi là tình công sở. Hôm nay, hãy cùng Lịch ngày tốt đi tìm xem những chòm sao nam nào trong số 12 chòm sao dễ rơi vào lưới tình công sở nhất nhé.  

No. 4 Ma Kết


chom sao nam de nay sinh tinh cong so
 
Ma Kết ấy à, anh chàng này lúc nào cũng nghĩ rằng trong công việc mà nam nữ phối hợp làm việc với nhau thì kết quả sẽ rất tuyệt. Chính vì thế mà khi công việc cần sự hợp tác với đồng nghiệp thì chắc chắn anh chàng Ma Kết sẽ đi tìm đồng nghiệp nữ.   Làm việc lâu ngày với nhau, “lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”, phản ứng hóa học bùng cháy, một khi nam Ma Kết thấy có cảm tình với đối phương thì họ sẽ không ngần ngại gì mà theo đuổi, tạo đủ mọi cơ hội để tiếp xúc nhiều hơn, cuối cùng thừa thắng xông lên, ôm mỹ nhân về nhà. Chòm sao nam này cũng là những anh chàng sát gái nổi tiếng ở nơi công sở đó.  

No. 3 Thiên Bình

  Nam Thiên Bình không phải là người giỏi thể hiện tình cảm cho lắm, vì thế mà trong các mối quan hệ xã giao, họ cũng không gặt hái được nhiều thành công. Ở nơi làm việc, họ cũng không mấy thân thiết với nữ đồng nghiệp.

chuyen tinh cong so
 
  Tuy nhiên, nếu đã làm việc với nhau thì họ lại rất được lòng phái nữ, tình đồng nghiệp dần trở thành tình bạn rồi thăng cấp thành tình yêu lúc nào không hay biết. Với Thiên Bình thì chỉ những người có chung sở thích, có thể làm việc chung thoải mái với nhau mới có thể trở thành bạn bè nên bạn bè của chàng trai này chủ yếu là quen biết nhau qua công việc. Tuy không cố ý nhưng họ rất dễ dàng rơi vào lưới tình với các đồng nghiệp nữ, có những mối tình công sở đẹp như mơ.   Thực ra tình công sở đâu có gì xấu, chỉ cần các bạn xử lý quan hệ hợp lý, không để chuyện tình cảm cá nhân ảnh hưởng đến hiệu quả công việc thì chẳng những khiến cho tâm trạng tốt hơn mà cả hai còn có chung mục tiêu để phấn đấu trong công việc. Thêm nữa, do cùng làm việc ở một nơi, ngày ngày làm việc cùng nhau nên họ cũng có rất nhiều chủ đề nói chuyện với nhau, chắc chắn sẽ thấu hiểu và thông cảm với nhau hơn, tình cảm cứ thế mà ngày càng thêm gắn bó thắm thiết.  

No.2 Song Ngư


yeu dong nghiep
 
Song Ngư là những người theo chủ nghĩa lãng mạn, những chàng trai sinh ra dưới chòm sao này luôn thể hiện sự dịu dàng và lãng mạn của mình với bất cứ cô gái nào mà họ quen biết. Cho dù là môi trường làm việc khô khan tẻ nhạt cũng chẳng thể ngăn được những anh chàng này tạo ra những niềm vui bất ngờ cho những cô bạn đồng nghiệp của mình.   Thường thì con gái rất thích những người như chàng trai Song Ngư, cũng thích niềm vui bất ngờ mà các anh chàng này tạo ra. Nhất là ở nơi công sở, ngày nào cũng gặp nhau cả chục tiếng đồng hồ thì chuyện các cô nàng không chống lại được ma lực ngọt ngào của chàng trai hoàng đạo này cũng đâu có gì khó hiểu.  

No. 1 Kim Ngưu


kim nguu nam de yeu dong nghiep
 
Chàng trai này luôn mang cho người khác cảm giác rất yên tâm, họ sống nội tâm và khá chín chắn so với tuổi. Chính vì thế mà người ta thường cho rằng Kim Ngưu là người khó có thể yêu, song chòm sao này cũng khá lười biếng trong việc tìm kiếm tình yêu.   Nhiều khi vì thuận tiện, cũng có thể vì không muốn phá vỡ tình bạn bởi tình yêu nên họ có thói quen tìm một nửa của mình ngay ở nơi làm việc, tán tỉnh một cô đồng nghiệp xinh xắn dễ thương nào đó. Thế nhé, nam Kim Ngưu chính là thánh sở hữu nhiều mối tình công sở nhất đó.
Tanny

3 chòm sao yêu không dám nói, cả đời hối hận Hé lộ lý do khiến 12 chòm sao cương quyết trở về đời độc thân Bí quyết trở thành người khiến 12 chòm sao yêu thích 4 chòm sao yêu đương thực tế nhất vòng tròn hoàng đạo

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 4 chòm sao nam dễ rơi vào lưới tình công sở

7 vật phẩm phong thủy đem lại tài vận, may mắn cho gia đình –

Trong phong thủy, có rất nhiều vật nhỏ trưng bày trong nhà có thể mang lại may mắn, tài vận, sự giàu sang phú quý cho gia chủ. Đó là những vật phẩm phong thủy nào chúng ta cùng đọc bài viết sau để biết những vật phẩm phong thủy mang lại may mắn tài l

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phong thủy, có rất nhiều vật nhỏ trưng bày trong nhà có thể mang lại may mắn, tài vận, sự giàu sang phú quý cho gia chủ. Đó là những vật phẩm phong thủy nào chúng ta cùng đọc bài viết sau để biết những vật phẩm phong thủy mang lại may mắn tài lộc cho gia chủ nhé!

Nội dung

  • 1 Những vật phẩm phong thủy mang lại may mắn và tài lộc
    • 1.1 Bể cá
    • 1.2 Thần Tài
    • 1.3 Vận tài đồng tử
    • 1.4 Pha lê, thạch anh
    • 1.5 Rồng
    • 1.6 Sư tử đồng
    • 1.7 Cóc vàng

Những vật phẩm phong thủy mang lại may mắn và tài lộc

Bể cá

file.248294

Theo phong thủy, việc đặt bể cá sẽ giúp điều chỉnh được nguồn tài chính, điều hòa âm dương trong nhà. Nếu đặt bể cá ở hướng Bắc và Đông Nam sẽ mang lại nhiều may mắn, tài lộc đến cho gia đình.

Thần Tài

Rất nhiều gia đình và nhiều công ty hiện nay đặt tượng thần Tài (quan Công) trong nhà. Tượng thần Tài được xem là pháp khí mang lại tài lộc và phú quý trong phong thủy. Tượng thần Tài thường được đặt trong phòng khách hoặc trên bàn làm việc với hy vọng đón nhiều vận khí mới tốt lành vào nhà.

Vận tài đồng tử

7-vat-pham-phong-thuy-mang-lai-tai-van-va-may-man-cho-gia-dinh3

Vận tài đồng tử (tượng đứa trẻ mang lại tài lộc) được xem là tiểu thần của quan Công (tức thần Tài). Đây cũng là một vật phẩm mang lại nhiều may mắn cho gia chủ. Đặc biệt đối với những gia đình kinh doanh không được may mắn, nếu đặt Vận tài đồng tử trong nhà sẽ giúp vận chuyển sự may mắn, tài lộc, sự sung túc đến cho gia đình.

Vận tài đồng tử còn có ý nghĩa cho lời chúc vừa có con trai nối dõi vừa được hưởng lộc phát tài.

Pha lê, thạch anh

Pha lê và thạch anh không chỉ là vật trang trí làm tăng vẻ đẹp sang trọng, quý phái cho ngôi nhà mà còn là vật mang đến sự thịnh vượng và tiền tài cho gia chủ.

Pha lê mang vận khí dương, hành Thổ được xem là vật trang trí không thể thiếu cho những người kinh doanh, mưu cầu danh tài, học hành thi cử.

Thạch anh không chỉ được xem như một biểu tượng tốt đẹp, mang đến tiền tài và may mắn mà nó còn mang đến sức khỏe cho gia chủ.

Rồng

Nếu trong nhà có trang trí tượng hình rồng sẽ mang đến nguồn sinh khí mạnh mẽ đến với gia đình. Rồng là con vật linh thiêng, đại diện cho sức mạnh và quyền uy của vũ trụ. Vì thế, nếu đặt tượng rồng hướng ra cửa chính hoặc cửa sổ sẽ mang lại nhiều tài lộc cho gia đình, giúp công việc thuận buồm xuôi gió.

Sư tử đồng

Sư tử cũng là một trong những linh vật trong phong thủy. Đặt tượng sư tử trong nhà có thể phù trợ sức khỏe, tài lộc cho gia chủ. Với tượng sư tử bằng đồng có thể giúp gia đình xua đuổi tà ma và những điều không hay. Đặc biệt, đối với những người mệnh Thủy, đặt sư tử đồng sẽ tăng thêm vượng tài bởi Kim sinh Thủy. Lưu ý, cần đặt tượng sư tử đồng hướng ra ngoài, không nên đặt tượng quay vào nhà.

Cóc vàng

Theo dân gian, cóc luôn là sinh vật mang lại điềm tốt lành. Màu vàng là màu thuộc hành Hỏa, là màu sắc mang lại sinh khí và sự an lành cho gia đình. Vì vậy, cóc vàng được xem là vật mang lại tiền của cho gia đình. Cóc vàng hay còn gọi là cóc ba chân, và đặt tượng cóc vàng trong nhà cũng có 3 tác dụng: chiêu tài (mời gọi tiền tài ), tịch tà (tránh tà), hộ gia (bảo vệ cho gia chủ).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 vật phẩm phong thủy đem lại tài vận, may mắn cho gia đình –

Đặt tên hay cho người tuổi Tỵ

Căn cứ vào đặc điểm về bản tính của loài rắn và các mối quan hệ tương sinh tương khắc với những con giáp còn lại, người xưa đúc rút cách đặt tên hay cho người
Đặt tên hay cho người tuổi Tỵ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tuổi Tỵ.

 

Dat ten hay cho nguoi tuoi Ty hinh anh
Ảnh minh họa


1. Dựa vào đặc tính sinh sống
Rắn thích được ở trong hang ẩn náu, nghỉ ngơi ngủ đông và được đi lại tự do. Theo đó, nên đặt tên cho người ruổi Tỵ bằng các chữ có bộ Khẩu, Miên, Mịch.   Những tên hay cho người tuổi Tỵ: Khả, Tư, Danh, Dung, Đồng, Trình, Đường, Phẩm, Định, Hựu, Cung, Quan, An, Nghi, Bảo, Phú…   Loài rắn thích ở trên cây và thích tô điểm để có sự thăng cách trở thành rồng. Do vậy, có thể dùng những chữ có bộ Mộc, Sam, Mịch, Thị, Y, Thái, Cân.    Những tên phù hợp: Mộc, Bản, Kiệt, Tài, Lâm, Tùng, Sâm, Nghiệp, Thụ, Ngạn, Thái, Chương, Ảnh, Tố, Luân, Duyên, Thống, Biểu, Thường, Tịch, Đế, Phàm, Tường, Lộc, Trinh, Kì, Thái, Thích…   Rắn cũng thích ở đồng ruộng nên có thể đặt tên chứa chữ Điền. Ngoài ra, rắn là loài ăn thịt, nên có thể sử dụng chữ Tâm, Nhục để đặt tên. Những tên phù hợp bao gồm: Nam, Điện, Giới, Lưu, Phan, Họa, Đương, Phúc, Đơn, Huệ, Tất, Chí, Cung, Hằng, Hoài, Tình, Tuệ, Hồ, Cao…   2. Dựa vào mối quan hệ tương sinh với những con giáp khác
 
Tỵ - Ngọ - Mùi là tam hợp, do đó có thể hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau. Vì vậy, nên đặt tên cho người tuổi Tỵ bằng các chữ như: Đằng, Dịch, Ly, Quần, Nghĩa, Khương…   Theo Địa chi, Tỵ - Dậu –Sửu tam hợp nên có thể dùng các chữ Dậu, Sửu để đặt tên cho người tuổi Tỵ: Kim, Phượng, Dậu, Y, Bằng, Phi, Sinh, Địch, Hàn…   Những chữ có hình dạng tương tự như con rắn như Xước, Cung, Kỉ, Tị, Trùng, Ấp cũng phù hợp để đặt tên cho người tuổi Tỵ: Nguyên, Sung, Tiên, Khắc, Căng, Kiến, Tuần, Thông, Đạo, Đạt, Tuyển, Bang, Đô, Đặng, Na, Thiệu…   3. Những tên cần tránh   Tỵ - Hợi đối xung, do đó không nên dùng chữ Hợi để đặt tên cho người tuổi Tỵ. Những tên nên tránh: Tượng, Hào, Dự, Gia, Nghị, Duyên…   Rắn và Hổ thuộc hình hại, người xưa có câu “Rắn mà gặp hổ như bị dao đâm”, do đó nên tránh dùng tên có chứa chữ Hổ như: Hiệu, Hổ, Xứ…   Rắn sợ sức nóng thiêu đốt của mặt trời và phần lớn cuộc đời nó sống trong hang động, dưới bóng cây. Do đó, tránh đặt tên cho người tuổi Tỵ bằng các chữ có bộ Nhật như: Tình, Huy, Trí, Hiểu, Thần, Diệu…   Ngoài ra những chữ chứa bộ Thảo, Thủy, Nhân, Mễ, Đậu, Hòa cũng không thích hợp để đặt tên cho người tuổi Tỵ. Vì rắn sợ bị loài người phát hiện, không thích ăn ngũ cốc…   Những tên nên tránh: Giới, Hoa, Linh, Anh, Nha, Thảo, Minh, Liên, Diệp, Mậu, Bình, Thủy, Cầu, Giang, Hà, Quyết, Tuyền, Thái, Châu, Hải, Hạo, Thanh, Hiếu, Quý, Mạnh, Nhân, Lệnh, Trọng, Đại, Tín, Luận, Thu, Khoa, Tích, Mục, Lê, Phong, Đậu, Phấn, Tinh…
Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp      
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên hay cho người tuổi Tỵ

Những bộ tộc ăn thịt người gây chấn động thế giới

Nghi thức tâm linh ăn thịt người trong văn hóa một số bộ tộc khiến cả thế giới kinh hãi. Rùng mình trước những bộ tộc ăn thịt người chấn động cả lịch sử.
Những bộ tộc ăn thịt người gây chấn động thế giới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Tham khảo thêm: Giải mã những giấc mơ và điềm báo hung cát theo tâm linh

Người Aghori (Ấn Độ) 

 Nhung nhom an thit nguoi gay chan dong the gioi hinh anh
 
Nhóm người Aghori Babas sống ở Varanasi, Ấn Độ vớt những xác chết ở sông Hằng lên ăn thịt, đầu lâu dùng để đựng rượu còn xương thì làm giường ngủ. Họ tin rằng, làm như vậy mình sẽ có được sức mạnh từ cõi chết. Nhóm ăn thịt người này chỉ có nam giới độc thân và có nhiều tín ngưỡng tâm linh chưa thể lý giải.   Bộ tộc Korowai (New Guinea) 
 Nhung nhom an thit nguoi gay chan dong the gioi hinh anh
 
Bộ tộc Korowai ở New Guinea ăn thịt người để tiêu diệt con quỷ Khakhu. Đó là con quỷ thường giả dạng làm người thân hoặc bạn bè của người nào đó nhằm mục đích khi nạn nhân ngủ, con quỷ sẽ ăn thịt và giết chết anh ta. 
 
Nếu người chết chăng trối được một cái tên trước khi ra đi, đó chính là tên người đã bị Khakhua giả dạng. Khakhua sẽ bị giết bằng một mũi tên ma thuật và bị những người trưởng thành trong bộ tộc ăn thịt.
 
Bộ lạc Asmat ( New Guinea) 
 Nhung nhom an thit nguoi gay chan dong the gioi hinh anh
 
Bộ lạc Asmat ở New Guinea được biết đến như một bộ tộc ăn thịt người rùng rợn nhất thế giới. Họ sử dụng bạo lực với những người bắt được, chặt đầu và ăn thịt họ một cách man rợ. Bộ lạc này có thế giời tâm linh vô cùng phức tạp. Họ giết hàng xóm, săn đầu người và ăn thịt người như một việc làm hết sức bình thường.   ST
 
   

 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những bộ tộc ăn thịt người gây chấn động thế giới

Tộc người tiên tri "nắm giữ không gian" và những dự báo tương lai

Từ hàng ngàn năm trước, tộc người tiên trí Hopi thông thái đã đưa ra những lời tiên đoán chính xác về thế giới trong tương lai.
Tộc người tiên tri "nắm giữ không gian" và những dự báo tương lai

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

“Những người nắm giữ không gian” là cái tên dành cho tộc người tiên tri Hopi. Từ hàng ngàn năm trước, những con người thông thái này đã đưa ra những lời tiên đoán chính xác về thế giới trong tương lai.


► Mời bạn đọc: Tiểu sử nhà tiên tri Vanga và những lời tiên tri của Vanga đáng sợ nhất lịch sử

Toc nguoi nam giu khong gian va nhung du bao tuong lai hinh anh
 
Dân Hopi bao gồm nhiều tộc người di cư đến “vùng trung tâm” Tuuwanasavi tại miền bắc Arizona. Không xuất phát từ cùng một bộ lạc đồng nhất, nguồn gốc những lời tiên tri của bộ tộc này mang tính chắp vá nhưng vô cùng phong phú. Việc thiếu thông tin rõ ràng cũng làm nên những bí ẩn về bản chất tự nhiên của tộc người tiên tri Hopi.
 
Những người nông dân định cư sống biệt lập trong những ngôi nhà vách đá đơn sơ trên cao nguyên hoang mạc Nam Mỹ nhìn thấy được tương lai tại các kiva (nhà nguyện của cộng đồng nằm dưới lòng đất). Nhiều lần, họ không có ý định tiết lộ điều mình thấy cho thế giới bên ngoài. Nhưng qua một số lần tiếp xúc hiếm hoi, “thiên cơ” đã được tiết lộ.
 
Giống như người Maya, người Hopi nhìn nhận số năm tồn tại của một thế giới được vận hành theo chu kì thời gian. Nhưng không giống người Maya, người Hopi hiếm khi quan tâm đến ngày chuyển đổi của tân thế kỷ. Người ta cho rằng, người Maya là bậc thầy về thời gian, trong khi tộc Hopi là chuyên gia về không gian.
 
Tộc người tiên tri này tin rằng chúng ta từng trải qua ba thảm họa thế giới. Thế giới Thứ nhất bị tiêu hủy bởi lửa khi một sao chổi, tiểu hành tinh tấn công hoặc cũng có thể là phun trào núi lửa. Thế giới Thứ hai bị tiêu hủy bởi băng, một Kỷ Băng Hà khắc nghiệt. Theo ghi chép của nhiều nền văn hóa trên toàn thế giới, một trận lụt kinh hoàng đã nhấn chìm Thế giới Thứ ba. 
 
Nhiều người Hopi lớn tuổi, hay còn được gọi là kikmongwi cho biết chúng ta đang sống trong thời điểm kết thúc của Thế giới Thứ tư. Hơn 60 năm qua, những người Hopi khác nhau đã tiên đoán về sự thay đổi của Trái Đất, báo hiệu sự kết thúc của chu kì thế giới hiện tại và thiết lập nên Thế giới Thứ năm. Năm 1970, thủ lĩnh Dan Katchongva, làng Hotevilla, người qua đời ở cái tuổi 112 đã nói về sự tình ngày càng xấu đi vào thời đại của chúng ta.
 
Những lời tiên tri về tận thế được đưa ra không phải để hăm dọa, trêu chọc hay trục lợi mà để cảnh tỉnh con người và nhắc nhở họ về nguồn cội, dũng khí và niềm tin chân chính. 
 
Dưới đây là 9 lời dự báo đã và đang thành sự thực của tộc người tiên tri Hopi, chúng minh tính huyền bí của những con người này.
 
1. Người da trắng sẽ chiếm đất đai bằng gậy sấm đánh ra những ánh chớp (súng trường và súng lục).
 
2. Bánh xe quay với âm thanh sinh ra từ đó (bánh xe kêu vù vù/ hay tiếng xe than vãn mệt nhọc, hoặc đĩa hát quay tạo âm thanh, hoặc đĩa CD). 3. Những con thú lạ rất lớn sẽ xuất hiện, nhìn hơi giống trâu nhưng có sừng dài (gia súc).
 
4. “Rắn sắt” sẽ trườn dài trên đất (đường sắt).
 
5. “Một mạng nhện khổng lồ” sẽ lan tỏa khắp các vùng đất (điện báo, điện thoại, đường dây điện, và bây giờ là Internet – Hệ thống World Wide Web).
 
6. “Những dòng sông đá tạo hình ảnh dưới ánh mặt trời” (đường bê tông trong sa mạc với ảo ảnh của họ về nước).
 
7. Các đại dương sẽ chuyển thành màu đen, và tất cả sinh vật sống trong đó sẽ chết (vụ tràn dầu mùa hè năm 2010).
 
8. Những người trẻ tuổi với mái tóc dài sẽ đến vùng đất của người Hopi để học phương pháp của thổ dân (Cách mạng phản văn hóa vào những năm cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970).
 
9. Một “nơi từ trên trời” sẽ sụp xuống đất, do đó tạo thành một ngôi sao màu xanh rực rỡ (Sakwa Sohu). Ngôi sao xanh Kachina sẽ bỏ mặt nạ của mình ở nơi họp chợ của làng, trong một điệu nhảy Kachina thiêng liêng. Sau đó, tất cả các nghi lễ Hopi sẽ chấm dứt hoàn toàn.
 
Một điều cần hiểu là tiên tri Hopi không phải là văn bản gần đây, đề cập đến các vấn đề thời sự của thế giới, mà những phát biểu này đã ra đời cách đây hàng thế kỷ thậm chí là hàng thiên niên kỷ và được truyền miệng qua bao thế hệ, không hề thay đổi.
ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tộc người tiên tri "nắm giữ không gian" và những dự báo tương lai

Thần Tài trong Phật giáo: Nguồn gốc và đức hạnh bố thí

Thần Tài trong Phật giáo tuy không phải là nhân vật có mặt trong Phật giáo, nhưng đức hạnh của ông tương ứng với lời dạy của Đức Phật, đó là hạnh bố thí.
Thần Tài trong Phật giáo: Nguồn gốc và đức hạnh bố thí

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đã từ lâu hình tượng Thần Tài chiếm lĩnh vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của nhiều quốc gia. Đó là hình ảnh rất đỗi quen thuộc, nhất là với những người kinh doanh, buôn bán. Thế nhưng không phải ai cũng tường tận về nguồn gốc cũng như những đức hạnh bố thí của hình tượng này trong Phật giáo.  

 

1. Đôi nét về nguồn gốc Thần Tài

  Dân gian tồn tại rất nhiều điển tích về Thần Tài, có thể tham khảo Truy tìm nguồn gốc Thần Tài qua truyền thuyết các nước Đông Nam Á để biết thêm điển tích về ông. Tuy nhiên, hình tượng này đuợc nhiều người biết đến thường gắn liền với nhân vật có thật trong lịch sử Trung Quốc, tên là Phạm Lãi.   Theo sử sách ghi chép, Phạm Lãi là một trung thần của Việt Vương Câu Tiễn. Ông hết lòng giúp vua Việt Vương trong cơn hoạn nạn và phò tá vua Việt để báo thù Ngô Phù Sai. Đất nước bị diệt vong mà Phạm Lãi còn có thể giúp Việt Vương khôi phục hưng thịnh trở lại là một điều không dễ dàng.  
Than Tai trong Phat giao Nguon goc va duc hanh bo thi hinh anh 2
 
Nhưng khi đất nước ổn định, Phạm Lãi là người hiểu rõ tính cách, con người của vua Việt Vương Câu Tiễn. Vua là người có thể chia hoạn nạn mà không thể chia giàu sang. Lúc hoạn nạn, mọi người đồng tâm hiệp lực, cứu đất nước, cứu dân tộc, đánh bại quân địch, mình được thắng lợi, thống nhất rồi, những người làm được việc như vậy không cần nữa, thủ đoạn cuối cùng là đem họ ra xử tử.   Phạm Lãi rất thông minh, giúp cho Câu Tiễn phục hồi đất nước, rồi ông ta bỏ trốn, không cần chào vua mà lặng lẽ trốn đi. Ông thay tên đổi, vốn từ họ Phạm đổi thành họ Đào. Mọi người hoàn toàn không biết gốc gác ông ta khi ông thay tên đổi họ.   Từ đó người ta chỉ biết ông tên là Đào Châu Công, làm nghề buôn bán. Ông buôn bán mấy năm thì phát tài, tiền của rất nhiều. Nhưng ông không tích của, làm được nhiều tiền liền đem số tiền của này bố thí cho những người nghèo khó. Số còn lại chỉ giữ cho bản thân làm ít vốn nhỏ. Sau đó ông lại chăm chỉ làm việc, làm qua mấy năm lại phát tài nữa, phát tài lớn, phát tài lớn lại bố thí nhiều.   Chính nhờ đức hạnh bố thí của ông mà người đời tôn sùng ông là một vị thần mang đến tài lộc cho mọi người, gọi đó là Thần Tài.  

2. Hình tượng Thần Tài trong Phật giáo

  Hình tượng Thần Tài từ lâu được biết đến gắn chặt với đời sống tâm linh, nhưng đây không phải là nhân vật có mặt trong Phật giáo. Dẫu vậy đức hạnh của ông tương ứng với lời dạy của Đức Phật, đó là hạnh bố thí mà mỗi chúng ta cần học hỏi và noi theo.    Trên thực tế, hầu hết mục đích thời cúng ông Thần Tài chính là người ta muốn cầu tài lộc bằng cách cúng kiến ông trái cây, thức ăn. Đó là quan điểm dân gian và nếu so với quan điểm Phật giáo thì không phù hợp, vì nó trái luật nhân quả mà Đức Phật đã dạy.   Đạo Phật không dạy chúng ta cầu khẩn giàu sang bằng cách cung phụng cho một vị thần linh nào đó mà Đức Phật đề cao hạnh bố thí, giúp người sẽ được tài lộc tương ứng. Cho nên bố thí và cúng dường là nhân lành để kết hoa thơm trái ngọt phước báo giàu sang phú quý trong hiện tại và mai sau.  
Than Tai trong Phat giao Nguon goc va duc hanh bo thi hinh anh 2
 

3. Bài học rút ra từ biểu tượng Thần Tài

 

Hạnh bố thí

  Câu chuyện lý giải về nguồn gốc Thần Tài trên đã cho thấy sự bố thí rộng lớn của ông từ vua quan đến thường dân. Ông bố thí với tâm từ bi không mong cầu và vì lợi lộc. Do đó, khi đất nước ổn định, ông không đòi hỏi vua ban tặng vàng bạc mà lặng lẽ ra đi. Đây là điều chúng ta cần phải học.   Ngày nay, nhiều người hành theo hạnh bố thí đa phần vì mong cầu lợi lạc hoặc để người khác nhớ ơn, báo đáp. Điều đó không sai nhưng phước báu sẽ tạo ra không nhiều vì hành thiện có tính toán và bị giới hạn. Chúng ta dễ vướng mắt khi dang tay giúp đỡ người khác vì cho rằng: Mình sẽ được gì? Liệu họ có trả ơn mình không? Đừng nên như vậy! Vì Đức Phật dạy: Thi ân không cần báo đáp.   Luật nhân quả luôn tồn tại một cách công bằng nên khi tạo tác nhân thiện, chắc chắn quả thiện sẽ đến khi đủ duyên mà chẳng cần phải mong cầu. Đó là vì sao khi Phạm Lãi làm ăn khắm khá để bố thí mãi là như thế.   Vì thế, chúng ta thờ thần Tài, nếu hiểu đúng nghĩa là cần phải noi gương hạnh lành của ông. Biết san sẻ, bố thí, giúp đỡ người thì việc làm ăn sẽ thuận lợi, tiền bạc không bị thiếu hụt. Bố thí đúng cách - hưởng thụ khi học Phật, hành thiện tích đức, phúc báo bền lâu.  
Than Tai trong Phat giao Nguon goc va duc hanh bo thi hinh anh 2
 

Chăm chỉ làm việc, không ngừng lao động

  Dù công việc làm ăn thuận lợi, của tiền dư giả nhưng Phạm Lãi vẫn không dựa vào đó mà lười biếng lao động để hưởng thụ. Cách mà ông “hưởng thụ” thành quả của mình chính là phân phát tiền của cho người nghèo. Rồi lại tiếp tục lao động để có tiền mà bố thí.   Ông không hề mong cầu một đấng thần linh nào ban phước, ban tài cho ông mà ông tạo mọi của cải bằng chính đôi tay của mình.Còn chúng ta thì ngược lại. Luôn giao phó vận mệnh tài lộc của mình ở một vị thần để van vái, cầu mong mà không tự mình làm chủ lấy mình. Để rồi khi không được như ý thì quay sang trách ông Thần Tài không linh thiêng.   Đặc biệt, điều chúng ta học ở ông chính là tính siêng năng. Trong khi đó người đời ngày nay luôn ỷ lại gia đình khá giả mà không chăm lo cho tương lai mà ì ạch, biếng lười, vun tiền vào những chốn ăn chơi sa đọa.   T.H   Infographic: 18 loại bố thí không sạch sẽ làm xấu chân lý nhà Phật
Đức Phật nói với các Tỳ Kheo, người làm việc thiện nhưng mang tâm không sạch, mưu cầu cá nhân thì không thể coi là bố thí. Dưới đây là 18

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thần Tài trong Phật giáo: Nguồn gốc và đức hạnh bố thí

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd