Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

4 con giáp dễ được mọi người yêu quý nhất

Để biết đáp án chuẩn nhất, teen có thể kết hợp với nhóm máu của mình nữa nhé!
4 con giáp dễ được mọi người yêu quý nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Người tuổi Thân có nhóm máu O

Đa số những người cầm tinh con Khỉ lại thuộc nhóm máu O đều có tính cách vui vẻ, hoạt bát, lại vô cùng nghĩa khí. Hơn thế, họ làm việc gì cũng đầy tự tin, quyết đoán nhưng cũng biết lắng nghe lời khuyên, ý kiến của mọi người xung quanh. 

4-con-giap-de-duoc-moi-nguoi-yeu-quy-nhat

Tuy nhiên, nếu là con giáp này, bạn lại mắc tật nói nhanh và quá thẳng tính nên khó tránh khỏi việc đắc tội với người khác. Bù lại, ưu điểm của bạn là không để bụng bất cứ chuyện gì, dù ai nói ngả nghiêng về mình, bạn vẫn giữ được thái độ lạc quan, vui vẻ vì cho rằng như vậy chứng tỏ mọi người đều quan tâm tới mình. Chính vì điều đó mà người tuổi Thân nhóm máu O luôn được mọi người yêu quý.

2. Người tuổi Mão có nhóm máu A

Những cô cậu cầm tinh con Mèo mà thuộc nhóm máu A thuộc tuýp thân thiện, trọng tình cảm, nhiệt tình giúp đỡ mọi người mà không mong được báo đáp. Thậm chí, có những lúc tình hình tài chính của bản thân khá eo hẹp, nhưng hễ bạn bè gặp khó khăn, họ sẵn sàng rút đồng tiền cuối cùng trong ví đưa cho bạn. Như vậy mới nói, nếu mọi người không dành tình cảm yêu mến nồng nhiệt cho con giáp  này mới là chuyện lạ đấy.

4-con-giap-de-duoc-moi-nguoi-yeu-quy-nhat-1

3. Người tuổi Thìn có nhóm máu O

Tư duy nhanh nhạy, làm việc quyết đoán nhưng cũng không kém phần tỉ mỉ và chính xác là những điểm thường thấy ở người tuổi Thìn có nhóm máu O. Ngoài ra, con giáp này rất bao dung, không câu lệ phép tắc dập khuôn, làm việc hăng say, ý chí kiên định, không dễ dàng bỏ cuộc giữa chừng. 

4-con-giap-de-duoc-moi-nguoi-yeu-quy-nhat-2

Hơn thế, trong tập thể, họ luôn biết cách tạo ra sự kết nối hài hòa với tất cả mọi người nên dễ được mọi người yêu quý, giao phó trọng trách làm quản lý hoặc lãnh đạo. 

4. Người tuổi Hợi có nhóm máu AB

Tính cách đặc trưng của những người tuổi Hợi mà có nhóm máu AB chính là kiểu phích nước, trong ấm ngoài lạnh. Nhìn vẻ bề ngoài có vẻ lạnh lùng và nghiêm túc vậy thôi, nhưng thực chất bên trong con giáp này là một tâm hồn ấm áp, cũng không kém phần yếu đuối nếu rơi vào chuyện tình cảm ướt át. 

4-con-giap-de-duoc-moi-nguoi-yeu-quy-nhat-3

Bên cạnh đó, người này lúc nào cũng giữ được thái độ lạc quan, ung dung tự tại, luôn mang tới niềm vui cũng như là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho bất cứ ai cần sự giúp đỡ. Hơn thế, họ làm việc công tâm, không chịu sự chi phối của người khác nên tác phong lúc nào cũng nhanh nhẹn, đầy sức cuốn hút. Điều đó lý giải tại sao mạng lưới bạn bè của họ lại dày đặc đến vậy.

Mr.Bull (Theo DYXZ)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 con giáp dễ được mọi người yêu quý nhất

Những kiểu mắt của người thường thất bại, khó thành công

Qua đôi mắt còn có thể nhìn thấy được vận mệnh của mỗi người, biết được có họ phải là người hay gặp thất bại, khó thành công hay không.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đôi mắt được ví như cửa sổ tâm hồn, thông qua nó người ta không chỉ nhìn thấy được suy nghĩ trong nội tâm của mỗi người mà còn có thể nhìn thấy được vận mệnh của họ. Vậy đôi mắt như thế nào là đại diện cho sự thất bại và nghèo khó?

1. Tròng trắng nhiều hơn tròng đen: Thông thường mắt người tròng trắng không nên nhiều hơn tròng đen, vì tròng trắng mắt quá lớn đồng nghĩa với sự phản bội, xui xẻo. Những người như vậy hôn nhân thường gặp rắc rối, dễ bị bỏ rơi phản bội, sự nghiệp khó thành, bấp bênh.

2. Mắt quá lớn hoặc quá tròn kết hợp với ngũ quan nhỏ: Mắt lớn hay tròn xoe không phải điềm xấu tuy nhiên nếu trên khuôn mặt có một bộ phận quá nhỏ, ví dụ như mặt nhỏ hay miệng nhỏ là tướng người hay thất thoát, hao hụt tài lộc, dễ vướng vào chuyện thị phi lại hay gặp tai họa bất ngờ, khó né tránh.


3. Mắt nhỏ, hốc mắt sâu: Những người có tướng mắt này vận may không tốt. Đa phần họ đều hay tính toán chi li, hay soi mói lại nhỏ nhen, không có lý tưởng hay khát vọng lớn. Chính vì vậy mà về mặt công tác hay sự nghiệp họ rất an phận, dễ bị tụt hậu so với đồng nghiệp và bạn bè xung quanh. Ngoài ra vì vận may không tốt nên dù họ có cố gắng, chăm chỉ thế nào đi nữa thì tài vận vẫn không được như ý, dễ nản lòng.

Những kiểu mắt của người thường thất bại, khó thành công - Ảnh 1.

Qua đôi mắt còn có thể nhìn thấy được vận mệnh của mỗi người (Ảnh: Internet)

4. Đầu mắt có sẹo, có nốt ruồi: Nếu đầu mắt bị thương để lại sẹo hoặc có vết lõm sâu, có nốt ruồi là tướng người không may mắn trong chuyện tài chính. Những người này hay gặp vận xui trong công việc, hay thiếu thốn tiền tài, thường xuyên gặp rắc rối. Dễ để mất tài sản vào tay người khác nên tuyệt đối không được gây dựng sự nghiệp hay kinh doanh.

Những người này cũng dễ bất hòa với người khác, lại không giỏi giao tiếp ăn nói nên hay vướng phải chuyện thị phi, gặp phiền toái.

5. Mắt thâm quầng, sẫm màu, tối tăm: Hốc mắt sẫm màu, tối tăm là người có tính cách không tốt, hay gặp chuyện rắc rối, tiền tài dù lo lắng nỗ lực thế nào cũng không được như ý. Những người này không chỉ sự nghiệp không như ý mà hôn nhân cũng chẳng hài lòng.

6. Ánh mắt vô thần, con ngươi ngả màu vàng nâu: Đa phần người châu Á đều có con ngươi màu đen hoặc màu nâu sẫm. Nếu có con ngươi màu vàng nâu, ánh mắt vô thần nghĩa là họ thuộc tướng người hao tổn tiền bạc vì chuyện tình cảm, nên kết hôn muộn để tránh rắc rối. Đa phần những người này đều khắc vợ khắc chồng. Cả cuộc đời dễ thất thoát tiền bạc, trắng tay vì người khác phái.

7. Đuôi mắt dài tới chân tóc: Đây là tướng xấu, được coi là tướng phá tài, phá của. Dù kiếm được nhiều bao nhiêu cũng sẽ tiêu hết trong chớp mắt. Những người có tướng này không thể giữ được tiền bạc lâu dài nên thường gặp rắc rối, khó khăn trong chuyện tài chính.

8. Mắt lồi: Đa phần những người có mắt lồi đều có tính cách keo kiệt, khó sống chung. Đặc biệt nếu là phái nữ thường có số phận bấp bênh, hôn nhân hay gặp bất trắc, vợ chồng bất hòa với nhau. Về tài lộc họ cũng rất hay gặp xui xẻo, thường xuyên thiếu thốn tiền bạc.

Lưu ý: Nhân tướng học là phép tính thống kê xác suất dựa trên đặc điểm tướng mạo của người Á Đông. Chính vì vậy nhân tướng học không thể áp dụng với những người thuộc các khu vực địa lý khác.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những kiểu mắt của người thường thất bại, khó thành công

Phong thái của người thành công –

Phong thái của người thành công. Trang phục luôn chỉnh tề, tạo phong độ tốt, sẵn sàng đón nhận vận may.Những người thành đạt luôn ăn mặc lịch lãm, chu đáo. Trang phục chỉnh tề tạo phong độ tốt Một người thành công sẽ luôn chuẩn bị đón chào ngày mới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thái của người thành công. Trang phục luôn chỉnh tề, tạo phong độ tốt, sẵn sàng đón nhận vận may.Những người thành đạt luôn ăn mặc lịch lãm, chu đáo.

Trang phục chỉnh tề tạo phong độ tốt
Một người thành công sẽ luôn chuẩn bị đón chào ngày mới với cơ thể sạch sẽ, thoải mái, trang phục chỉnh tề và gương mặt vui tươi.

Hãy ăn mặc chỉnh tề dù bạn làm việc ở nhà một mình và không có ai khác trong phòng làm việc.

10-cau-thu-an-mac-dep-nhat-gioi-tuc-cau

Không nên lười biếng trong ăn mặc

Ăn mặc chỉnh tề không có nghĩa là phải kiểu cách hoặc phải chạy theo thời trang. Chỉ cần bạn biết chăm sóc dáng vẻ bề ngoài, giữ quần áo luôn sạch sẽ và được là phẳng phiu. Nên treo quần áo hoặc xếp gọn gàng trong tủ để có thể chọn mặc dễ dàng. Những người lười biếng, không chăm sóc cơ thể thường là những người cẩu thả. Đó cũng có thể là nguyên nhân khiến họ mất đi sự may mắn trong giao tiếp cũng như những cơ hội khác trong cuộc sống.

Phong thái của người thành công

Ăn mặc chỉnh tế là cách cho thấy bạn sẵn sàng đón nhận vận may bất cứ lúc nào. Khi quan sát những người thành đạt, bạn sẽ thấy rằng cách ăn mặc của họ luôn toát ra vẻ lịch lãm, chu đáo.

Nguyên lý phong thủy này cũng có thể áp dụng cho nhà cửa. Khí tù hãm và có hại thường tạo nên thái độ sống cẩu thả. Tuy nhiên, nếu bạn cố gắng giữ cho thân thể và nhà cửa được sạch sẽ, gọn gàng, vùng không gian xung quanh bạn sẽ được cung cấp năng lượng mới đầy sức sống và những điều tốt lành sẽ luôn đến với bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thái của người thành công –

Xem tướng lông mày đàn ông biết mệnh sang hèn

Chỉ nhìn tướng lông mày đàn ông, chúng ta có thể đoán định được rất nhiều điều về họ. Vận mệnh đàn ông cũng tiết lộ rất nhiều qua tướng lông mày.
Xem tướng lông mày đàn ông biết mệnh sang hèn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chỉ nhìn tướng lông mày, chúng ta có thể đoán định được rất nhiều điều về một con người. Vận mệnh đàn ông cũng tiết lộ rất nhiều qua tướng lông mày.  

1. Lông mày đứt đoạn

  Người có lông mày như đường bút lông vẽ nét, đậm nhạt vừa phải thì cuộc đời thuận buồm xuôi gió, tính khí cũng hòa nhã vui tươi.
 
Đàn ông lông mày đứt đoạn, đường hôn nhân dễ sinh bất trắc, hoặc đứt gánh giữa đường, hoặc bạn đời bệnh tật, ốm yếu. Đây là 1 trong những dáng lông mày không sửa, hỏng nửa cuộc đời.
 

2. Đường lông mày dài


Đây là người phóng khoáng, rộng rãi, khoan dung độ lượng, nhân hậu, hiền hòa. Tướng nam giới như này có nhân duyên tốt, bạn bè khắp bốn phương. Cuộc sống gia đình hạnh phúc mĩ mãn. Đặc biệt, trong công việc rất có khả năng hợp tác với mọi người, làm việc khoa học mà hiệu quả, dễ dàng đạt được thành công.


Xem tuong long may dan ong biet menh sang hen hinh anh

 

3. Dáng lông mày cao thấp 

  Người có lông mày cao, sáng sủa thì đường công danh vô cùng rộng mở. Họ có ý chí, có lý tưởng và hoài bão, không cam chịu ở dưới chân người, luôn có tham vọng và có tố chất để làm lãnh đạo. Nếu đàn ông có lông mày thấp nhưng ánh mắt có thần thì công danh vẫn có khả năng phát triển.
 
Tướng lông mày đàn ông thấp, xuôi theo đường mắt thì tính cách nhu thuận, ôn hòa. Khi làm việc khéo léo nhưng không thiếu phần quyết đoán. Không vì bản thân mà mưu cầu lợi ích, không thích nổi bật, cũng không thích tranh quyền đoạt vị, thỏa mãn với những gì mình có, an phận thủ thường. 
 

4. Lông mày chữ nhất (一)

  Khi xem tướng khuôn mặt, đàn ông có tướng lông mày như vậy có khí phách bất phàm. Thông minh cương trực, song làm việc lại thiếu khéo léo linh hoạt nên dễ đắc tội với người khác. Người này có ý chí kiên định, việc đã quyết sẽ không bao giờ thay đổi, dù thất bại cũng không nản lòng nhụt chí, quyết tâm đến cùng, không thành công không bỏ cuộc. Ngoài ra, những người có lông mày chữ nhất thường kết hôn rất sớm.


Xem tuong long may dan ong biet menh sang hen hinh anh

 

5. Đuôi lông mày vểnh cao

  Người này tính cách độc đoán chuyên quyền, bảo thủ cố chấp, không dễ tiếp thu ý kiến của người khác. Dễ nổi nóng, dám yêu dám hận. Họ cũng rất tự trọng, không làm những việc vô lương tâm, cũng không vì danh lợi mà khom lưng uốn gối.
 
Đàn ông mà đuôi lông mày mọc xuôi thấp làm việc rất có khoa học, cũng biết tiến biết lùi, luôn chăm chỉ, chu đáo. Họ rất biết lắng nghe và đón nhận ý kiến, góp ý của mọi người. Đường tình cảm của người này rất có thể trải qua 2 lần hôn nhân, cũng có sự nhẫn nại đặc biệt đối với phụ nữ.
 

6. Lông mày cong lưỡi liềm

  Đàn ông có tướng lông mày như vậy trời sinh lãng mạn. Công danh sự nghiệp từng bước đi lên, tiền bạc cũng ngày một sung túc.
 

7. Lông mày chữ Bát (八)

  Theo nhân tướng học, đàn ông tướng lông mày chữ Bát tính cách hào sảng, phóng khoáng. Tuy vẻ bề ngoài có vẻ lạnh lùng, bặm trợn song kì thực lại là người thân thiện dễ gần. Người này có nhân cách tốt, tuy nhiên do rộng rãi chi tiêu nên cả đời luôn phải chăm chỉ kiếm tiền. Người lông mày như vậy cũng có tấm lòng rộng mở, có chí khí anh hùng, hay giúp đỡ mọi người, là mẫu đàn ông có thể tin cậy và nương tựa. 
 

8. Lông mày cong nhô lên hoặc lõm xuống ở giữa

  Người đàn ông như vậy thường tính cách hướng ngoại, luôn tích cực và nỗ lực làm việc. Họ có ý chí phấn đấu và mục tiêu vươn lên trong cuộc sống. Trong chuyện tình cảm, đây là người chủ động, nếu là nữ thì rất biết phối hợp với sự theo đuổi của đàn ông.
 
Ngược lại, nếu đàn ông có lông mày lõm xuống ở chính giữa thường là người thâm hiểm, nhiều mưu mô. Đây là người che giấu tình cảm rất giỏi, khi đã nhìn trúng người nào thì sẽ từng bước triển khai kế hoạch theo đuổi.
 

9. Lông mày ngắn dài

  Người lông mày ngắn tính cách có phần hiếu thắng, cố chấp. Họ thích làm việc độc lập, khi gặp khó khăn cũng không dễ để anh em bạn bè giúp đỡ một tay. Người này quan niệm việc của mình thì tự mình phải hoàn thành, không được nhờ cậy đến người khác.
 
Đàn ông lông mày quá dài giàu tình cảm, có số đào hoa, song tính cách có phần mềm yếu, nhu nhược, thiếu quyết đoán. Tài lộc của người này cũng không được tốt. Mời bạn xem thêm Tướng mặt đàn ông "tiền không có" lại còn phúc phận khốn khó.


Xem tuong long may dan ong biet menh sang hen hinh anh

 

10. Đuôi lông mày hướng xuống dưới

  Người đàn ông có tướng lông mày này có tham vọng rất lớn, không chịu thua kém người khác. Bản tính trời sinh hiếu thắng, không dễ chấp nhận thua cuộc, đây cũng là điểm ảnh hưởng đến vận thế tài lộc của người này. Họ nghiêm túc trong tình cảm, là người năng nổ nhiệt tình và có yêu cầu cao về vật chất.
 

11. Lông mày đậm nhạt

  Người có lông mày quá đậm hay gặp họa triền miên, cũng hay thất bại trong chuyện tình cảm, anh em bạn bè không người chia sẻ.
 
Đàn ông lông mày quá nhạt thường lạnh lùng, vô tâm. Không có ý chí phấn đấu, công danh sự nghiệp không có gì nổi bật. Đây cũng là tướng mặt của người nghèo khó.    
Hy Vũ

5 đặc điểm tướng cách báo hiệu chủ nhân phát tài chỉ sau một đêm Xem tướng lưỡng quyền đoán định vận mệnh thăng trầm Đoán biết thành công hay thất bại trên bàn tay bạn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng lông mày đàn ông biết mệnh sang hèn

Đoán vận mệnh qua đường chỉ tay

“Bàn tay ta làm nên tất cả”, bạn có thường xuyên chăm sóc cho đôi bàn tay của bạn? Bạn có thường xuyên ngắm nó, xem và quan sát các đường chỉ tay trên lòng bàn tay bạn hay không?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1/- Dấu hiệu được thừa hưởng gia tài

Bạn muốn biết mình có được hưởng gia sản thừa kế hay không ? 1 số dấu hiệu xuất hiện trên bàn tay sẽ giúp bạn đoán định rõ hơn về điều này.

doan-van-menh-qua-duong-chi-tay.1
1/. Có 1 đường thẳng đi từ trong gò Kim Tinh lên gặp ngôi sao ở gò Mộc Tinh (mô thịt nằm dưới chân ngón trỏ): được thừa hưởng gia tài lớn.
 Đường thẳng từ gò Thái Âm lên gặp ngôi sao ở gò Mộc tinh :
Dấu hiệu được thừa hưởng gia tài lớn do kết hôn với nơi quyền quý, cao sang.
2/. Hình thửa ruộng (chữ điền) ở gò mộc tinh: có được của cải, nhà cửa, ruộng đất.
3/. Dấu “con sông” ở gò Thái Dương (mô thịt nằm dưới chân ngón đeo nhẫn) : có cuộc sống sung sướng và hưởng một gia tài lớn.
4/. Dấu “6 ngôi sao” xuất hiện trên bàn tay: được thừa hưởng một gia tài lớn từ cha mẹ.
5/. Bốn đường tương đối hẹp ở ngấn chân ngón cái: được thừa hưởng gia tài lớn.
6/. Hình cái xẻng trên gò Kim Tinh: có cuộc sống gia đình hạnh phúc và sung túc.
7/. Ngôi sao ở góc do đường Sinh Đạo và đường Trí Đạo hợp thành: được thừa kế tài sản lớn từ 1 người phụ nữ.
8/. Nếu có hình ngôi sao xuất hiện ở vòng cổ tay thì chủ nhân bất ngờ được hưởng gia tài hoặc trúng số độc đắc. Nếu có 3 ngôi sao cùng xuất hiện thì càng được nhiều của cải gấp bội.
9/. Chữ thập trong chữ V ở vòng cổ tay: có của cải do người khác để lại, tuổi già được hưởng phúc lộc.
10/. Hai đường Trí Đạo chạy song song: gặp nhiều may mắn, được hưởng gia tài vào khoảng giữa cuộc đời.
11/. Nhiều đường chỉ song song ở dưới gò Kim Tinh, gần bìa bàn tay: được kế thừa và hưởng gia tài vào lúc tuổi già.
12. Nhiều đường chỉ nhỏ chạy theo chiều ngang đốt cuối cùng của ngón trỏ: là dấu hiệu được hưởng gia tài.
13/. Ngôi sao ở cuối đường Tâm Đạo: được hưởng gia tài bất ngờ do nhân tình để lại, tuy nhiên lại bị tiêu tan vào tay 1 nhân tình khác.
14/. Hình tam giác ở gò thái âm: được hưởng gia tài lớn.
15/. Ngôi sao nằm giữa lòng bàn tay: được thừa kế gia sản lớn. (theo Tiếng nói của bàn tay)

2/- Xem chỉ tay để biết sức khỏe

Theo ‘ngôn ngữ của bàn tay’, đường chỉ tay không chỉ bật mí về sự nghiệp, tình yêu và hôn nhân mà còn tiết lộ tình trạng sức khỏe của chủ nhân.

doan-van-menh-qua-duong-chi-tay2
Nhìn vào hình để so sánh và khám phá sức khỏe của bạn.
1/ Đường Tâm Đạo hình bậc thang : Trên đường Tâm Đạo, phía dưới ngón áp út có hình bậc thang đại diện cho sự mất cân bằng chất canxi trong cơ thể, có ảnh hưởng đến thói quen ngủ, nghỉ bình thường.
2/. Dấu hiệu liên quan đến răng : Nếu phía trên đường Tâm Đạo, ở giữa ngón út và ngón áp út xuất hiện một số đường vân nhỏ sẽ liên quan đến bệnh ở răng.
3/. Hình hoa thị trên đường chỉ tay : Hình hoa thị xuất hiện trên đường chỉ tay thể hiện ảnh hưởng về mặt tâm sinh lý. Nếu xuất hiện trên đường Tâm Đạo có khả năng bị bệnh về tim. Nếu xuất hiện trên đường Trí Đạo thì có khả năng phần đầu bị thương. Nếu có trên đường Sinh Đạo thì thể hiện cho vết thương hoặc vết mổ.
4/. Đường vân nhỏ liên quan tới dạ dày : Một đoạn đường vân nhỏ chạy chéo trong lòng bàn tay thì có khả năng chủ nhân gặp vấn đề về dạ dày hoặc tiêu hóa.
5/. Hình lưới : Phía rìa ngoài bàn tay có một mảng hình lưới biểu thị trong cơ thể có tích nước tiểu axit, dễ phát sinh bệnh tật.
6/. Vết răng cưa trên đường Trí Đạo : Nếu trên đường Trí Đạo có các vết như lỗ chân chim to nhỏ thì có khả năng mắc bệnh đau đầu.
7/. Đường Trí Đạo quá dài : Đường Trí Đạo kéo dài đến mép ngoài của bàn tay thông thường là người hoạt bát quá mức, đặc biệt là trẻ con.
8/. Đường liên quan tới bệnh dị ứng : Đường này dài xuyên qua gò Thái Âm thì dễ mắc các bệnh dị ứng.
9/. Hình oval trên đường Tâm Đạo : Đường Tâm Đạo phía dưới ngón giữa xuất hiện hình oval thì thính giác có khiếm khuyết. Nếu hình này ở phía dưới ngón áp út thì có vấn đề về mắt.

doan-van-menh-qua-duong-chi-tay.3
10/. Đường phân nhánh hướng xuống dưới : Khi mắc các bệnh u uất về tinh thần thì trên đường Trí Đạo thường xuất hiện đường phân nhánh hướng xuống dưới. Sau khi hồi phục thì đường đó sẽ lại hướng lên trên, trở về hướng ban đầu.
11/. Đường Tâm Đạo có đoạn mờ : Nếu trên đường Tâm Đạo có đoạn chỉ tay mờ thì biểu thị có một khoảng thời gian tâm lý rơi vào tình trạng căng thẳng.
12/. Hình oval trên đường Trí Đạo : Hình oval xuất hiện trên đường Trí Đạo biểu thị cơ thể suy yếu, xuất hiện trên đoạn khởi đầu đường Trí Đạo tức là có bệnh về hô hấp. Nếu hình oval xuất hiện càng gần phía hướng về cổ tay thì người đó thể chất suy nhược.
13/. Đường liên quan tới vết thương : Đường vân ngang cắt qua Trí Đạo biểu thị sự thay đổi lớn về tâm trạng. Đường này càng dài càng chứng tỏ ảnh hưởng của sự kiện đó rất lớn.
14/. Chai sần : Chai là chỗ da cứng lồi lên, thường do ma sát nhiều tạo thành, nhưng đôi khi nó cũng là dấu hiệu báo bệnh tật của một cơ quan nào đó. Vết chai nằm giữa lòng bàn tay (như trong hình) có khả năng bị bệnh thận.
15/. Vân hình thoi : Khoảng 1/3 phía dưới lòng bàn tay có xuất hiện vết nhăn lớn hình thoi ép sát đường Sinh Đạo thì có thể có vấn đề về phụ khoa đối với nữ giới, bệnh tiết niệu đối với nam giới.
16/. Đường vân sát cổ tay vòng lên : Nếu trên cổ tay phụ nữ có một đường cổ tay vòng lên cao hướng về lòng bàn tay chứng tỏ khá yếu về phụ khoa, gặp khó khăn khi sinh nở.

3/- Thường xuyên xoa bóp bàn tay

Bàn tay là phần mở rộng của bộ não và tất cả các bộ phận trên cơ thể của bạn. Vì vậy, hãy thường xuyên xoa bóp tất cả các phần của bàn tay để có một cơ thể khỏe mạnh toàn diện bạn nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán vận mệnh qua đường chỉ tay

Kiêng kỵ bếp ga thụt xuống thấp –

Hiện tượng: Rất nhiều người đặt bếp ga ớ vị trí tụt xuống thấp hơn 80 với bề mặt kệ bếp, trong phong thủy bố cục như vậy là không tốt, hơn nữa như vậy còn gây nhiều bất tiện cho các thao tác trong phòng bếp. thậm chí còn ảnh hưởng đến sức khỏe con ng
Kiêng kỵ bếp ga thụt xuống thấp –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện tượng: Rất nhiều người đặt bếp ga ớ vị trí tụt xuống thấp hơn 80 với bề mặt kệ bếp, trong phong thủy bố cục như vậy là không tốt, hơn nữa như vậy còn gây nhiều bất tiện cho các thao tác trong phòng bếp. thậm chí còn ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
nha-bep---nen-va-khong-nen_1768924528

Phương pháp hóa giải: Chỉ có làm cho kệ bếp và vị trí bếp ga bằng nhau, như vậy mới có thể hóa giải triệt để sát khí.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ bếp ga thụt xuống thấp –

Bố cục căn nhà tọa Khôn hướng Cấn và tọa Thân hướng Dần –

Bố cục căn nhà toạ Khôn hướng Cấn và toạ Thân hướng Dần: Đây là bố cục tài tinh đến núi, tài vận không tốt. Cửa chính mở tại hướng Tây đại thái cực, tuy gặp cát tinh Thiên Y nhưng tài vận không vượng cho nên không giúp đỡ được gì cho tài vận. Tài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bố cục căn nhà toạ Khôn hướng Cấn và toạ Thân hướng Dần: Đây là bố cục tài tinh đến núi, tài vận không tốt. Cửa chính mở tại hướng Tây đại thái cực, tuy gặp cát tinh Thiên Y nhưng tài vận không vượng cho nên không giúp đỡ được gì cho tài vận.

p45

Tài vận: Trên bệ cửa sổ của căn phòng hướng Đông đặt tỳ hưu, đồng tiền ngũ đế có thể cải thiện được tài vận.

Sức khỏe nhân đinh: Đinh thần vị của hướng Nam thuộc nhà bếp nên đặt bếp. Đồng thời hướng Nam tiểu thái cực của phòng khách đặt nồi cơm điện có thể tăng cường vận sức khoẻ và gia nhân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bố cục căn nhà tọa Khôn hướng Cấn và tọa Thân hướng Dần –

Cần thấu triệt những nguyên lý căn bản nào để đoán đúng một lá số Tử Vi?

Bài viết trình bày về những việc cần thấu triệt những nguyên lý căn bản đề đoán đúng một lá số tử vi. Đây là một bài viết rất tâm huyết của cụ Quản Văn Chính.
Cần thấu triệt những nguyên lý căn bản nào để đoán đúng một lá số Tử Vi?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cụ Quản Văn Chính, cử nhân Việt Hán

I. Mối tương quan giữa sao Chính thủ mệnh và cung An Mệnh cùng Bản Mệnh.

1/Sao chính diệu và cung an Mệnh. Thế nào là Miếu địa và hãm địa?

Tỷ như sao chính thủ Mệnh là sao Tử vi mà đóng tại cung Ngọ thì được gọi là ông vua ở chính ngôi hay TỬ VI MIẾU ĐỊA bởi lẽ Tử vi thuộc hành Thổ đóng tại cung Ngọ thuộc hành hỏa, Hỏa sanh Thổ.

Nhưng thật ra việc ngũ hành sinh khắc ở đây có thể chỉ là việc thứ yếu. Theo nền triết lý của Á đông ta – mà thuyết chính danh, chính vị rất quan trọng, thì cung Ngọ được coi là cung chính yếu, là chỗ cao quý nhất dành cho vị chúa tể ở dưới đất là ông Vua mà ở trên Trời mà là (Trời hay Vũ trụ Tử vi ) là sao Tử Vi, sao đầu trong hệ thống tinh tú của lá số.

Vì vậy mà theo nguyên tắc “Song Phương“ Ngọ đối với Tý sao Tử vi đóng ngay cung Tý (thuộc hành Thủy mà Thủy khắc Thổ cũng được coi là Miếu địa.

Nhưng cũng vì lẽ sinh khắc nên khi dạy đoán số tử vi sách đã phải viết:

- “Tinh lâm miếu vượng, tái quan sinh khắc chi cơ“
- “Mệnh tọa cường cung, tu sái chế đa chi lý“

Câu thứ nhất có nghĩa là, “Sao đóng ở cung đã được ghi là Miếu Vượng thì phải nhớ, nhưng nếu muốn đóan cho đúng, cần xem kỹ lại để biết sao ấy sinh khắc thế nào với cung an Mệnh.

Đến đây tôi xin được mở một ngoặc lớn để trình bày với quý vị độc giả một nhận xét cá nhân như sau:

- Trang báo SM trước đây một bạn đồng nghiệp của tôi ông Đoàn Đình Quất có chủ trương dùng toàn chữ Việt để giảng giải về khoa Tử vi cho đỡ mất thì giờ của bạn đọc cũng như đỡ tốn giấy, tốn mực và phí công ấn loát.

Đành là như thế, nhưng tôi thiết nghĩ việc xài chữ Hán Việt tức là chữ Hán theo mâu tự La Tinh trong việc nghiên cứu về khoa Tử vi rất có lợi.

Thứ nhất, những sách cổ viết về khoa này đều là những sách chữ Hán mà sự trích dịch ra chữ Việt đều bị ít nhiều sai lạc. Một chứng cớ thông thường nhất là trong sách chữ Hán có câu phú:

- “Tử Vũ tài năng cự tú Đồng Lương Xung thả hợp“

Hầu hết các sách viết bằng chữ Việt đều giảng là: Người có sao Tử vi và Vũ Khúc hợp với sao Đồng Lương là có tài năng. Thật ra, Tử vi đó là tên ông Tử Vũ chứ không phải Tử vi và Vũ Khúc.

Lại nữa, việc dùng chữ Hán Việt sẽ giúp những ai muốn nghiên cứu thật sâu rộng về khoa Tử vi, có thể làm quen với chữ Hán để một ngày kia đọc thêm những sách do chính Trần Đoàn viết mà Trần Đoàn, vị Tổ Sư của khoa tướng số là một người Trung Quốc sanh vào đời Tống sơ. Thêm vào đó, khi sang Đài Loan vào năm 1964 để nghiên cứu về khoa trắc nghiệm tâm lý, tôi đã có dịp làm quen với mấy nhà tri thức chuyên khảo cứu khoa Tử vi. Họ cho biết rằng:

- Hiện nay ở Đài Loan người ta không còn lập cung mệnh cho những người sanh tháng nhuận một cách máy móc là ngày đầu trong tháng nhuận tính như 15 ngày đầu của tháng chính và 15 ngày sau tính vào tháng tiếp. Nay, người ta căn cứ vào tiết của tháng chính tháng nhuận để quyết định.

Cũng như việc giáp giờ người ta không lấy cả hai lá số để xem giờ nào hợp hơn mà người ta đếm khoáy trên đầu.

Vì mới biết lối mới này có 7, 8 năm nên tôi chưa dám nói lối nào đúng hơn tôi chỉ xin nói để làm tỷ dụ rằng biết đọc chữ Hán lợi lắm cho việc nghiên cứu tử vi, cũng như muốn giỏi về khoa chỉ tay mà không đọc được sách của Cheiro viết bằng tiếng Anh hay sách của Capitaine d’Arpentigny viết bằng tiếng Pháp thì không sao giỏi được.

Vì những lẽ đó mà tôi ưa dùng chữ Hán Việt.

Trở lại mối tương quan, không những Tử vi đóng tại cung Ngọ là miếu địa, mà tại cung Tý hay Dần Thân cũng là Miếu, dù hai hành không tương sinh.

Vì thế Miếu hay Hãm không chỉ căn cứ vào luật Ngũ hành mà quyết định, mà còn căn cứ cả vào học thuyết Chính danh Chính vị nữa! Thật là phiền phức, cũng như tất cả những điều phiền phức khác mà tôi đã nêu ở trên. Vì thế là con người khá thực tế trong công việc nghiên cứu tôi đã hơn một lần định chỉ học kỹ về khoa xem chỉ tay rồi hiện nay, tôi tránh né những khó khăn của Tử vi bằng khoa xem chỉ tay.

Vì tránh né nên tôi cũng không quá nệ sách, tôi chỉ dùng có 2 trường hợp: sao chính diệu đắc địa hay hãm địa mà thôi.

Đến đây để câu chuyện đỡ khô khan, tuy tôi đã đưa ra rất nhiều nhận xét có thể gọi là mới mẻ và hấp dẫn tôi xin dẫn ít nhiều tỷ dụ cụ thể để chứng minh rằng sao chính diệu đóng tại miếu địa tốt ra sao và hãm địa xấu thế nào?

Chắc quý vị độc giả còn nhớ lần trước tôi có ghi lá số của tuổi Tân dậu tháng 9 ngày 23 giờ thìn, người thanh niên này nhờ có sao Tử Vi cư Ngọ mà mới chưa đầy 30 tuổi đã công thành danh toại với chức vụ Tri huyện vào năm 1944, tức là mới có 22 tuổi đã xong cử nhân luật trong thời Pháp thuộc tại Hà Nội trong khá nhiều bọn đồng tuế lẹ lắm là đỗ xong tú tài II hay một hai phần cử nhân là nhiều.

Nhưng vì Mệnh của ông ta thuộc hành Mộc, đóng tại cung Ngọ, hành hỏa nên…. (xin quý vị độc giả viết tiếp cho)

Trái lại ông sau này tuổi Bính Thìn sanh vào tháng 5 ngày 20 giờ Tý thì thật là tốt.

- Mệnh hành Thổ Ngọ cung hành Hỏa sanh Thổ, nên chưa đến 40 tuổi đã làm đến Thượng Thư đúng như câu phú: “Tử vi cư Ngọ, vô sát tấa vị chí công khanh“

Bản Mệnh và cung An mệnh, thế nào là cường cung?

Như bài trước đã nói mỗi lá số Tử vi được chia làm 12 cung và mỗi cung lại vừa là Âm hoặc Dương thuộc một trong 5 hành Kim, Mộc, thủy, Hỏa và Thổ. Mỗi cung lại còn chia ra là CƯỜNG, NHƯỢC khác nhau, tùy theo lần này là PHƯƠNG HƯỚNG chứ không như ở đoạn. Tùy theo lé Chính danh Chính vị. Lại cách chia “cường nhược “này cũng không dựa vào sự quan trọng về ý nghĩa của mỗi cung như ngôn ngữ thôngg thường vẫn nói là“ về phụ nữ, cung mệnh cung Phúc đức, cung Phu và cung Tử được coi là CƯỜNG CUNG, tức là cung quan trọng mà về nam giới nhiều nhà nghiên cứu lại chủ trương rằng cung Nô bộc là quan trọng nhất, sau cung Mệnh Thân và Quan lộc.

Nay nếu theo phương hướng thì trên lá số Tử vi cung ngọ và cung Tý được gọi là cường cung với ảnh hưởng như sau:

- Mệnh đóng tại đó đã tốt nếu có các sao đắc địa càng tốt hơn thêm nếu có xấu thì cũng bớt xấu. Nhưng câu phú dạy:  Mệnh tọa cường cung tu sat chế, hóa chi lý“. Tức là dù mệnh có đóng tại cung Tý hay Ngọ chẳng hạn, ta cũng phải xét xem sao Chính diệu tọa thủ ở đó chế hoa ( thay đổi thêm bớt ) thế nào so với cung an Mệnh. Tức là phải xét hai vấn đề:

- Thứ nhất là xem ảnh hưởng 20 sao Chính diệu ra sao đối với hai Cường Cung Tý và Ngọ?

Tỉ như sao Chính diệu là sao Tử vi: sao này ở Ngọ thì thật là tốt rồi, vì cung Ngọ thuộc Hỏa, sanh ra Thổ là hành mà Chính diệu Tử vi. Nhưng nếu sao Tử vi mà đóng tại cung Tý thì tuy là cường cung nhưng vì cung Tý là cung Thủy, mà Thủy khắc Thổ của Tử vi nên cái tốt giảm đi nhiều lắm.

- Xin độc giả thử đoán xem người nữ nhân tuổi Giáp Tý, sanh tháng 6 ngày 23 giờ Mùi, có sao Tử vi cư Tiys tốt đến thé nào vì bà ta Mệnh thuộc hành Kim mà Kim Thủy tương sanh ) và xấu ra sao?

Sau khi trình bày các sách cổ đều dùng chữ Cường Cung để nơi hai cung TÝ Ngọ chưa thấy sách gọi hai cung Mão Dậu là “Nhược cung“ mà chỉ nơi tới cung Thìn Tuất Sửu Mùi là Trung ương, thuộc hành Thổ, có khi tốt cũng có khi xấu, và 4 cung Dần Than Tị Hợi thì có khi gọi là Tứ sịnh có khi gọi là Tứ tuyệt. Tôi thú thật là không biết gọi thế là theo địa bàn Tiên Thiên bát Quái hay là theo vòng Tràng sinh?

- Khi có Tràng sinh đóng thì gọi là Tứ sinh khi có Tuyệt đóng thì gọi là Tứ Tuyệt.

Kết quả là có khi cho là tốt, nếu mệnh đóng ở đó có khi cho là xấu. Còn Mão Dậu hai cung này thật là tội, sao Thiên Tướng chỉ ham địa chờ đóng ở cung Dậu mà đắc địa hay (hay Bình hòa ) khi đóng ở cung Mão, và nhiều sách, có sách này bảo là đắc địa sách kia nói là hãm địa, khi một chính diệu đóng tại hai cung đó.

Vì nhiều sự mơ hồ như thế nên đôi khi người nghiên cứu không còn chú trọng đến Miếu Vượng Hãm nữa mà chỉ đoán số theo toàn thể các sao.

Tôi nói thế vì học giả Phạm Quỳnh tuy có sao Thái Dương cư Hợi thủ Mệnh ( hãm địa ) mà văn hay chữ tốt, một bước Thượng Thư rồi.

- Đinh chung gần gũi cái ngai vàng xem thế chẳng cần có Nhật Nguyệt tịnh minh như Khổng minh mà học giả Phạm Quỳnh cũng “Tả cửu trùng ư Nguyệt diệu“

Và cũng vì thế mà tôi có ý kiến là sở dĩ cung Thìn, Tuất, Sửu Mùi được coi là tốt là “Cường“ vì ngoài việc tuổi Thìn mà mệnh đóng tại la Võng thì xấu, tôi thấy Mệnh đóng tại Thìn Tuất Sửu Mùi tốt sẵn vì hay được giáp Tả Hữu Khôi Việt hoặc có Âm Dương Tả hữu đồng cung. Mẹo Dậu xấu vì hay bị Kình Dương hãm ở đó nếu tuổi Giáp tuỏi Canh hay và Mệnh tại Dần Thân Tị Hợi hay bị Đại Tiểu hao và Kiếp sát đóng nên xấu. Xấu rồi nhiều thì cũng tốt, nếu là tuổi Giáp Mậu, Bính, Canh!

Lại nữa hay cung Tỵ Hợi xem ra là hai cung “nhược“ nhất trong 12 cung, trong lá số, vì thường là nơi “trú ngụ“ của tú tinh là Liêm trinh và dâm tinh là Tham Lang và Phá Quân.

Nhưng ở đây Trần Đoàn đã có nghĩ ra cái “chế hóa“ để làm giảm bớt cái không hay của hai sao Liêm Tham chẳng hạn.

3/ TRƯỜNG HỢP CHẾ HÓA:

Trái với trường hợp chính tinh miếu địa và đắc địa đôi khi chính tinh lại đóng tại các cung xấu gọi là hãm địa, như khi Liêm trinh Tham lang đóng ở Tị Hợi,

“Liêm, Tham, Tị, Hợi hình ngục nan đào “hai chính tinh này đóng ở Tị Hợi thì khó mà tránh được phải tù tội “
Tuy nhiên nhờ luật Ngũ hành sinh khắc và chế hóa, sự ngục tù có thể tránh được nếu.

a/ Tham Liêm đóng tại Hợi mà bản Mệnh thuộc hành KIM THÌ TỐT, với điều kiện có Hóa Kỵ cùng đóng tại cung an Mệnh: Hóa Kỵ là Thủy khắc Liêm là Hỏa nhưng tuổi Kim đong ở cung Thủy là tốt được sự sinh.

b/ Tham Liêm đóng tại cung Tị mà bản Mệnh thuộc hành Hỏa ngộ Hóa kỵ lại tốt vì tuy Hóa Kỵ ( thủy ) khắc Liêm ( Hỏa ) nhưng Mệnh đóng ở cung Hỏa không sao có chế hóa.

(Với hai trường hợp này lại thấy Mệnh đóng ở sinh địa là quan trọng nhất )

Tôi xin thưa thật rằng tôi đã chép lại 2 trường hợp này trong quyển Tự điển Tử vi của tác giả Đắc Lộc do nhà xuất bản Phúc Thắng xuất bản tại Hanoi vào năm 1952.

Tôi chỉ gặp trường hợp:

- Bính Thân tháng 2 ngày 18 giờ Thìn (dương nam) với Tham Liêm ở Hợi mà mệnh Hỏa, ngộ Hóa Kỵ.

- Quý Dậu, tháng 4 ngày 12 giờ ngọ (nữ)

Tôi xin quý vị đương nghiên cứu học hỏi về khoa Tử vi thử đóan xem hai lá số trên đây ra sao. Thực tập như thế, quý vị sẽ tiến bộ trông thấy và sẽ rất lấy làm vui mừng được biết khả năng của quý vị khi tôi nói rõ đó là số của ai.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cần thấu triệt những nguyên lý căn bản nào để đoán đúng một lá số Tử Vi?

Sự hình thành của bộ lịch Đông Phương [phần 2]

Sự hình thành của Lịch Đông Phương tính từng tháng theo sự vận hành của mặt trời quanh trái đất và theo sự vận hành của trái đất quanh mặt trời.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sự hình thành của bộ lịch Đông Phương [phần 2]

Sự hình thành của bộ lịch Đông Phương [phần 2]

Sự hình thành của bộ lịch Đông Phương [phần 2]

NGUYÊN TẮC ÂM DƯƠNG. 

Có những bộ Sao mà 1 Sao Âm, 1 Sao Dương, thì phải có đủ bộ 2 sao mới có ảnh

hưởng. Trừ ra mỗi bộ, chỉ 1 sao đủ gây ảnh hưởng.

· Một sao Dương ở cung Dương mạnh hơn ở cung Âm, một sao Âm ở cung Âm

mạnh hơn là ở cung Dương.

· Giờ sinh Dương hay Âm ấn định là con cả hay con thứ.

· Hàng Can năm vận cùng hành với hàng Can năm sinh, nhưng nếu cùng Âm

Dương hay khắc Âm Dương thì cũng có khác. Cùng Âm Dương thì ảnh hưởng

mạnh hơn và việc thường xảy ra vào tháng cùng Âm Dương.

Âm Dương và Hành của các Cung trên lá số

Lá số có các cung gom lại gọi là Địa Bàn, ở giữa là Thiên Bàn, mỗi cung mang

 

một tên, có Âm Dương và có hành (hành của hàng Địa Chi mà nó mang tên). Bắt đầu từ

cung Tí đến cung Hợi, theo chiều kim đồng hồ, hay chiều thuận. Chuyển ngược chiều là chiều nghịch. 

Ngoài ra, Cung cũng có phương hướng.

- Tí : chính Bắc

- Ngọ: chính Nam.

- Dậu: chính Tây

- Mão: chính Đông.

Đông Tây Nam Bắc đều giống hệt của Tây Phương, còn quy thức Bắc dưới Nam

trên là do con người định, cũng như Kim La Bàn chỉ Bắc của Tây Phương thì Đông

Phương gọi là Kim Chỉ Nam.

Phương hướng ứng đúng với hành theo Dịch Lý phía Nam là xích đạo, nóng, nên

là Hoả, phía Bắc là băng giá nên là Thuỷ, phía Đông là cây cối, rừng, đồng ruộng, nên là

Mộc; phía Tây là đại lục, nhiều mỏ kim khí, nên là Kim.

Thổ là trung phương ở 4 cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Mọi hành đều trở về Thổ, từ

ý niệm này mà có các bộ tam hợp. 

CÁC TAM HỢP 

Đây là nguyên tắc rất quan trọng dùng trong giải đoán. Các cung trên lá số gom

thành 4 bộ 3 cung, mỗi cung cách cung kia 3 cung, như hình trên ghi với tam giác chỉ

dẫn. Các tam giác đó là:

· Dần Ngọ Tuất

 

· Tỵ Dậu Sửu

.Thân Tí Thìn

· Hợi Mão Mùi 

Chú ý:

· Mỗi cung thuộc vào một bộ tam hợp. Thí dụ: cung Tuất thuộc tam hợp Dần Ngọ

Tuất.

· Khi đọc tam hợp lên, phải theo đúng thứ tự như đã ghi tức là đọc Dần trước rồi

đến Ngọ rồi đến Tuất. Đó là theo lẽ Dịch, mỗi bộ tam hợp gồm những cung hợp

nhau, sinh nhau;

· Dần Ngọ Tuất: Mộc (Dần) sinh Hoả (Ngọ); Hoả (Ngọ) sinh Thổ (Tuất).

· Tỵ Dậu Sửu : Hoả (Tỵ) bao gồm Thổ sinh cho Kim (Dậu), Kim (Dậu) trở về Thổ

(Sửu).

· Thân Tí Thìn: Kim (Thân) sinh cho Thuỷ (Tí ), Thuỷ (Tí ) trở về Thổ.

· Hợi Mão Mùi: Thuỷ (Hợi) sinh cho Mộc (Mão), Mộc (Mão) sinh Hoả trở về Thổ

(Mùi) (Mộc sinh Hoả, Hoả sinhThổ).

Trong mỗi tam hợp, có chữ đầu, chữ giữa và chữ cuối. Chữ đầu sinh ra cung giữa,

cung giữa là cung chính (chính Hành và chính Phương), cung dưới bao giờ cũng là cung

Thổ, còn gọi là cung Mộ, vì mọi hành đều trở về Thổ.

 Vậy Cung Dần Thân Tỵ Hợi là Tứ Sinh.

 Cung Tí Ngọ Mão Dậu là Tứ Chính

 Cung Thìn Tuất Sửu Mùi là Tứ Mộ.

Chú ý quan trọng:

 Mỗi tam hợp có một hành, đó là hành của cung trong tứ chính. Như vậy:

- Dần Ngọ Tuất hành Hoả.

- Tỵ Dậu Sửu: hành Kim.

- Thân Tí Thìn: hành Thuỷ.

- Hợi Mão Mùi: hành Mộc

Trong phép giải đoán, khi xét một cung, phải xét cả 2 cung kia trong tam hợp (gọi là

cung tam hợp chiếu) coi cả 3 cung như nhau. Như Mạng đóng ở cung Tuất, thì phải xét

cả 2 cung Dần và Ngọ cũng quan trọng như Tuất.

CUNG NHỊ HỢP

Cung nhị hợp là 2 cung đối nhau qua trục dọc và chỉ có sinh cho nhau, sinh nhập

hay sinh xuất. 

Các cung nhị hợp với nhau là:

- Sửu và Tí

- Dần và Hợi

- Mão và Tuất.

- Thìn và Dậu.

- Tỵ và Thân

- Ngọ và Mùi

Nói là nhị hợp thì chẳng thể vì vị trí đối xứng, cũng không phải vì hành cung này sinh

cho hành cung kia (vì Thổ Sửu và Thuỷ Tí , Mộc Mão và Thổ Tuất chỉ có khắc chứ

không có sinh).

không có hành Thổ, vì Thổ nằm trong cả 4 tam hợp. Điều này ứng dụng với nhiều trường hợp trong Tử vi, như

trường hợp Hành của Thiên Mã, trường hợp an vòng tràng sinh, Thổ đứng chung với Thuỷ chứ không hiện diện

riêng.

Sách VĐ/TTL còn gọi là Lục Hợp 

Nhưng trở về các tam hợp là thấy ngay. Như Sửu và Tí nhị hợp. Sửu thuộc tam

hợp Tỵ Dậu Sửu, hành Kim, Tí thuộc tam hợp Thân Tí Thìn, hành Thuỷ. Sửu nhị hợp với

Tí vì tam hợp Kim sinh tam hợp Thuỷ.

Điểm hết các cung nhị hợp, ta thấy:

 Sửu và Tí : Tam hợp Kim (Tỵ Dậu Sửu) sinh tam hợp Thuỷ (Thân Tí Thìn).

Dần và Hợi: Tam hợp Mộc (Hợi Mão Mùi) sinh tam hợp Hoả (Dần Ngọ Tuất).

Mão và Tuất: Tam hợp Mộc (Hợi Mão Mùi) sinh tam hợp Hoả (Dần Ngọ Tuất).

Thìn và Dậu: Tam hợp Kim (Tỵ Dậu Sửu) sinh tam hợp Thuỷ (Thân Tí Thìn).

Tỵ và Thân: Tam hợp Kim (Tỵ Dậu Sửu) sinh tam hợp Thuỷ (Thân Tí Thìn).

Ngọ và Mùi: Tam hợp Mộc (Hợi Mão Mùi) sinh tam hợp Hoả (Dần Ngọ Tuất).

Nhưng ta phải chú trọng chiều sinh:

- Tam hợp Sửu sinh tam hợp Tí .

- Tam hợp Hợi sinh tam hợp Dần.

- Tam hợp Mão sinh tam hợp Tuất.

- Tam hợp Dậu sinh tam hợp Thìn.

- Tam hợp Tỵ sinh tam hợp Thân.

- Tam hợp Mùi sinh tam hợp Ngọ

Điều đó cho phép ta hoàn thiện hình vẽ bằng chiều mũi tên (hướng sinh).

- Sửu sinh Tí (Sửu hợp Tí ).

- Hợi sinh Dần (Hợi hợp Dần).

- Mão sinh Tuất ( Mão hợp Tuất). 

 Dậu sinh Thìn ( Dậu hợp Thìn).

- Tỵ sinh Thân ( Tỵ hợp Thân).

- Mùi sinh Ngọ ( Mùi hợp Ngọ).

 Vậy nhị hợp chỉ có một chiều; chiều ngược lại không đúng. Thí dụ: Sửu nhị hợp

cho Tí , nhưng Tí không nhị hợp cho Sửu. Ta nhận xét thêm là trong một cặp nhị hợp,

chiều nhị hợp do từ cung Âm sang Dương, vậy là cung Âm sinh xuất, cung Dương được

sinh nhập.

Trong phép giải đoán, cung nào bị sinh xuất thì không kể nhị hợp. Cung nào được

sinh nhập mới được kể đến nhị hợp. Thí dụ: Mạng Tuất, Tuất được Mão sinh nhập. Vậy

ta xem cả sao ở Mão.

CUNG XUNG CHIẾU: ( hay chính chiếu)

Cung Xung Chiếu là cung từ phía đối diện chiếu sang (đối xứng qua tâm của

Thiên Bàn). Các cặp xung chiếu là:

Tí - Ngọ

 Sửu - Mùi

 Dần - Thân

Mão - Dậu

Thìn - Tuất

 Tỵ - Hợi

Có chiếu là có kể. Nhưng tại sao gọi là Xung Chiếu? Đó là hành cung này khắc

hành cung kia chăng? Không phải, vì Thìn và Tuất, Sửu và Mùi cùng là Thổ thì đâu có

khắc nhau.

Vậy xung nhau là vì tam hợp cung này khác tam hợp cung kia. Như tam hợp Thìn

(Thân Tí Thìn) là Thuỷ khắc tam hợp Tuất (Dần Ngọ Tuất) là Hoả. Ta có:

Tí - Ngọ: Tam hợp Tí (Thuỷ), khắc tam hợp Ngọ (Hoả).

Sửu-Mùi: Tam hợp Sửu (Kim) khắc tam hợp Mùi (Mộc).

Dần-Thân: Tam hợp Thân (Thuỷ) khắc tam hợp Dần (Hoả).

Mão-Dậu: Tam hợp Dậu (Kim) khắc tam hợp Mão (Mộc)

Thìn-Tuất: Tam hợp Thìn (Thuỷ) khắc tam hợp Tuất (Hoả).

Tỵ-Hợi: Tam hợp Tỵ (Kim) khắc tam hợp Hợi (Mộc).

Xin ghi thêm về các cặp xung chiếu:

Tí -Ngọ: Tí khắc xuất, Ngọ bị khắc nhập (Tí khắc Ngọ).

Sửu-Mùi: Sửu khắc xuất, Mùi bị khắc nhập (Sửu khắc Mùi).

Dần-Thân: Thân khắc xuất, Dần bị khắc nhập (Thân khắc Dần).

Mão- Dậu: Dậu khắc xuất, Mão khắc nhập ( Dậu khắc Mão).

Thìn-Tuất: Thìn khắc xuất, Tuất bị khắc nhập (Thìn khắc Tuất).

Tỵ- Hợi: Tỵ khắc xuất, Hợi bị khắc nhập (Tỵ khắc Hợi) (7).

Trong phép giải đoán, khi xem 1 cung, phải xem cả cung chính chiếu. Nếu cung

chính khắc xuất cung chính chiếu, thì nó đoạt các sao tốt, thế tốt của cung chính chiếu.

Nếu cung chính chiếu bị khắc nhập thì nó gán cho những sao xấu, thế xấu của cung chính

chiếu (đó là ý nghĩa của sự xung chiếu).

Xem một cung cộng thêm những cung nào?

 Vậy tổng kết, xét một cung, phải cộng thêm các sao ở 2 cung trong tam hợp, các

sao ở cung nhị hợp (nếu được nhị hợp sinh nhập), vì có sao tốt ở cung xung chiếu (nếu

khắc xuất cung xung chiếu) hoặc các sao xấu (nếu bị khắc nhập bởi cung xung chiếu). 

Hết (theo tử vi giảng minh)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự hình thành của bộ lịch Đông Phương [phần 2]

Chính Cục, Phản Cục

Chính cục: Nhật trụ tố công, viện biểu đạt đíchý tứ cùng nguyên cục biểu đạt đích ý tứ nhất trí. Bát tự không cóxu thế, nhật chủ có thể làm công cũng xưng là chính cục.Phản cục: Nhật trụ tố công viện biểu đạt đích ýtứ cùng nguyên cục biểu đạt đích ý tứ trái ngược, vi hung.Phản cục phân nguyên cục phản cục, đại vậnphản cục, lưu niên phản cục ba loại, nguyên cục phản cục nguyên cụchung, đại vận phản cục đại vận hung, lưu niên phản cục lưu niên hung.
Chính Cục, Phản Cục

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một, như thế nào là xem chính cục-phản cục.

Trước xem nhật chủ ý, có nhật chủ không hợp, không sinh( Không làm công), sẽ không nhìn, mà xem nhật chi ý.

1, nhật chi tố công có phương hướng, nhật chi tố đích công cùng bát tự đích xu thế đối kháng, chính là phản cục. Ýtứ này nên minh xác, cũng không phải nhật chi cùng bát tự đích xu thế đối kháng, mà là nhật chi biểu đạt đích ý tứ-- nhật chi theo đuổi gì đó cùng bát tự xu thế đối kháng. Như: Kỷ mão, kỷ tị, tân hợi, giáp ngọ, cái này bát tự nhật chi tố công, ngọ hợi hợp khứ thương quan, nhật chi đích ý tứ cũng là bị ngọ hợp chế, cho nên cái này bát tự vốn là chính cục, không phải phản cục.

2, nhật chủ tố đích công cùng nhật chi tố đích công trái ngược( Nên lấy nhật chủ là việc chính) cũng phản cục. Ngày đó chủ cùng nhật chi đồng thời cũng tố công thời, thì muốn thấy bọn nó biểu đạt đích ý tứ có hay không nhất trí, nhất trí đó là chính cục, không đồng nhất trí chính là phản cục. Lấy nhật chủ chi công vi xem công, không lấy nhật chi vi. Như nhật chủ hợp thời trụ quan tố công, muốn xem quan ngồi xuống đích chi đi làm gì rồi( Nhật chủ hợp đến ở đâu, sẽ chứng kiến ở đâu. Thời quan vi thống lĩnh, lãnh địa chi đích), ngồi chi có hay không tố công, như tố công, cái này công cũng là nhật chủ chính mình tố đích công. Như quan đích ngồi chi cùng nhật chi tố đích công trái ngược thời, nhân tiện phản cục rồi.

( Chú: Nguyên nhân thời thượng là việc chính vị, tỏ vẻ một người đích ý nghĩ, ngồi quan tinh, làm quan đã khống chế ta đích ý nghĩ ý. Nguyên nhân ta đã bị quan viện khống chế, cố quan tức đại biểu rồi nhật chủ đích mục đích, đối với mỗ một trụ mà nói, can vi thống sư, chi vi binh tốt, đem sư chiến tranh, phải dụng binh tốt, vì vậy thời, phải dụng thời chi, thời chi không thể phá hư.)

3, bát tự trung niên nguyệt cùng nhật thời có xung hợp phản cục, hợp cùng xung vốn là hai loại trái ngược đích tố công phương thức, nhưng giả như, nhật thời vốn là xung cục, năm tháng trái lại hợp cục; hoặc nhật thời vi hợp cục, năm tháng trái lại xung cục, cả bát tự thân mình nhân tiện rối loạn, vốn là phản cục bát tự.

Càn: Tân bính kỷ giáp 

Hợi thân sửu tuất  

đinh quý quý mậu

 tị sửu dậu ngọ

( Mệnh thuật dật nghe thấy) lệ, nhật chủ hợp giáp quan, ngay hôm đó chủ bị giáp tuất một trụ đã khống chế, cần giáp ngồi xuống tuất, nhưng nhật chi sửu mượn kim thủy xu thế hình tuất, phá hủy tuất, vi phản cục. Thời thượng vi môn hộ, tuất vi kiếp tài vi thủ, sửu trung quý thủy vi ám tài, mà sửu vi âm u, vi tiểu thâu, người này thường xuyên ngồi lao( Chú: Sửu cùng thân, dậu đích tổ hợp vi phạm tội, lao ngục đích tổ hợp). Sửu thêm vì tiền khố, một hình, nhân tiện không rồi, phát không được đại tài( Chú: Chính mình chế tài vi được tài, nhưng nơi này nhưng là chính mình bị tài chế rồi, cho nên không được tài).

Nhàn chú: Giáp kỷ hợp, hợp thời thượng đích quan, vi bị trông nom bị khống chế ý; giáp vi đầu, thú vi kỷ tỉ kiếp, vi thể, nhất định phải dụng! Nhưng nguyên cục kim thủy thành xu thế, chế rồi thú, phản rồi

Như: Tân  giáp kỷ x  không vi phản cục

Hợi  thú sửu x hợp nguyệt, niên thượng đích quan vi quản lý cùng khống chế người khác.

Thêm như:

Càn giáp mậu quý kỷ

         Thìn thìn mão mùi

mậu quý hợp, vi quản lý khống chế người khác, quý trông nom mậu, ta trông nom hắn; mão mặc thìn, biểu đạt ý tứ giống nhau. Mão vi thực thần vi tài nguyên thần, sinh tài chỗ, vi ngân hàng. Người này ngân hàng hành trường.

Tượng: Kỷ giáp      tân  bính

      Nhật thú      nhật  thân    hợp thời thượng đích quan, thời thượng đích kiếp tài nhất định phải dụng!

Biển cả cười: Tân nhật bính giờ Thân, đinh nhật nhâm dần thời, kỷ nhật giáp giờ Tuất chỉ có này [ba người/cái] nhất định phải dụng thời chi

Biển cả cười: Tuất vi thể, đại biểu thủ, cần cái này thể, sửu xu thế đại phản hình phá hủy thể. Nếu như hợp quan ngồi xuống không phải thể, có thể không cần

Á tử: Là bởi vì vi thương quan hại quan đích nguyên thần. Động tài tướng hình vốn là vi pháp đích thủ đoạn. Sửu trung ám tài vốn là thông qua tướng hình tài được tới, bính tân khí minh đầu ám, giáp kỷ hợp quan đến chế hắn.

Càn: Ất canh tân bính

Tị thìn mão thân

Bính tân hợp, dụng ngồi xuống thân kiếp tài, thân không thể chế quan bị cục trung tị hỏa quan chế rồi, phản cục rồi, nên phạm lao ngục tai ương. Đệ tử thời, nguyên nhân trộm vài quyển sách mà ngồi lao một năm, kỳ thật này không tính là chuyện gì, nhưng vượt qua nghiêm đánh, thật sự là mệnh bất hảo. Hắn không quan, vốn là một giáo sư. Nguyên nhân nguyên cục kim thủy có xu thế, cố chỉ có ngắn ngủi đích ngồi lao. Nhâm thìn thời đích chỗ cấp, bính tử vận thăng quan. Phụ thân cũng sớm tử

Hợp thời thượng quan, đầu óc bị người khác đã khống chế. Chỉ có kỷ nhật chủ giáp giờ Tuất, tân nhật chủ bính giờ Thân, phải dụng thời chi, thời chi không thể phá hư. Bởi vì này [hai người/cái] thời chi vốn là kiếp vốn là thể, thể vốn là không thể phá hư đích, nếu như thời chi chỉ dùng để có thể phá hư.

Như thế nhật chủ hợp năm, nguyệt thượng đích quan, thì ý tứ không giống với rồi.

Nhàn chú: Thân cần, nhưng tài sinh rồi tị hỏa, thêm tị thân hợp, phá hủy thân; bính dần năm ngồi lao một năm; phụ sớm tử!

Càn: Ất canh tân nhâm

Tị thìn mão thìn 

tị tiết cùng thìn, thương quan chế quan, bính tử vận lên chức chính chỗ cấp, nhưng phụ cũng sớm tử!

Càn: Giáp mậu quý kỷ

Thìn thìn mão mùi

Này tạo nhật chi đích ý tứ vốn là thực thần mão cùng mùi củng vượng, hại chế thìn quan, nguyên nhân chỉ dùng để tài chi nguyên thần chế đích quan, cố vốn là cùng tiền có liên quan đích quan; nhưng nhật chủ nhưng lại hợp nguyệt lệnh đích quan tinh, có phải hay không phản cục rồi đây? Không phải phản cục, bởi vì hợp năm tháng vốn là quan tỏ vẻ chính mình quản lý người khác ý tứ, mậu quý hợp vốn là quyền quản lý( Chú: Mậu ngồi xuống thìn làm quan, biểu chính mình muốn xen vào lý, khống chế thìn quan, có thể không tới lúc quan, muốn xem này quan có hay không tố công chế khác đồ vật hoặc bị khác đồ vật viện chế rồi) thực tế người này vốn là một ngân hàng mỗ chi hành đích hành trường. Quan không lớn, nhưng quyền rất lớn, vốn là xí nghiệp chi quan.

Càn: Mậu nhâm Đinh Đinh

Thìn tuất sửu mùi

Đây là Chu nguyên Chương đích mệnh tạo, nhật chủ hợp nguyệt lệnh quan, vốn là quản lý khống chế đích ý tứ( Chú: Nhật chủ khống chế được tuất khứ xung thìn hình sửu). Tuất chế khứ thìn, vốn là chế khứ quan khố.( Chú: Sửu mùi xung, sửu tuất hình vốn là chế tài khố, tài quan đều bị ta chế rồi, chế rồi sẽ tới lúc, cố vốn là hoàng đế mệnh.) vốn là chính cục, không phải phản cục.

Nhàn chú: Đinh nhâm hợp, vi quản lý khống chế người khác, đinh khống chế nhâm, hỏa cùng táo thổ xu thế đại, khứ ẩm ướt thổ khố, chính cục.

Khôn: Bính mậu Đinh Đinh

Tử tuất sửu mùi

( Mệnh thuật dật nghe thấy) lệ, này tạo hỏa thổ có điểm táo khí, ý tại khứ kim thủy, đây là nhật chủ đích ý tứ; sửu mùi xung cũng là xung khứ sửu trung kim thủy, tuất thổ khắc tử thủy, nhưng tử sửu hợp, nhật chi đích hợp gì đó phản cục rồi( Cục phải đi tử thủy, nhật chi hợp lại theo đuổi tử thủy, cố phản cục rồi).( Chú: Tử sửu hợp lại, biểu nhật chi theo đuổi chính là tử thủy, không nghĩ làm cho chế ý, mà nguyên cục cùng nhật can là muốn chế tử thủy cùng tân kim, cho nên này tạo sợ nhất tử sửu hợp, cố phản rồi, nguyên nhân phản tại phu thê cung, cố hôn nhân bất hảo.) tử thủy đại biểu trượng phu( Chú: Tử vi phu tinh, cùng phu cung tướng hợp, làm phu xem), hợp đến phu cung, bị mùi xung bị tuất hình, chủ trượng phu sớm tử, vốn là tai nạn xe tử đích, mà sửu thổ thêm vi con gái tinh, nguyên cục phạm tam hình, con gái cũng bất hảo, [ba người/cái] con mình đều là tàn tật, nhị nữ đích hôn nhân cũng bất hảo.

Nhàn chú: Hỏa thổ thành xu thế khứ kim thủy, nhưng nhật chi sửu thổ hợp tử thủy, mục đích phản rồi; tử thủy làm quan sát, vi phu, phu sớm tử, hài tàn, nghèo, không có tiền!

Càn: Nhâm canh tân kỷ

Tử tuất sửu mùi

Cùng thượng lệ dường như, này lệ thì vi chính cục, nguyên nhân kim thủy thành xu thế, là muốn chế hỏa( Chú: Tuất, mùi trung đích hỏa) đích ý tứ. Hỏa làm quan sát, nhưng chế không được, quan sát chế bất hảo làm tài xem, vốn là phát tài đích mệnh.

Sửu hình tuất vi giả bộ hoàng, sửu chế mùi tất nhiên sản. Thực tế này tạo trước làm cho giả bộ hoàng sau khi làm cho địa sản. Bây giờ tẩu dần vận chế không được, ất mão vận phi thường tốt. Sửu vận canh thìn năm bốn rồi phụ thân sau lúc nhân tiện phi thường tốt, chết trước phụ đi sau tài. Ất mão vận hợp bán nguyệt trụ rồi. Nguyệt trụ không có tác dụng rồi cho nên ất mão vận khẳng định phát tài.

Nhàn chú: Này tạo kim thủy thành xu thế, ý tại khứ táo thổ hỏa; tử sửu hợp thuận theo đại thế vi chính cục, canh thìn năm xung khứ nguyệt chi thú, khứ quan, nơi này quan sát vi phụ, phụ tử! Quan sát chế vô cùng làm tài xem, phụ sau khi, lập tức có người cấp ngoài công trình, không làm đều không được! Ngàn vạn lần phú ông. Dần vận bất hảo, ất mão vận cùng nguyệt trụ thiên địa hợp, kim thủy toàn tâm toàn ý chế mùi thổ rồi, khẳng định phát tài! Bính thú năm tài chính chu chuyển không linh, hỏi thải khoản chuyện.

Càn: Quý bính mậu bính

Mùi thìn tuất thìn

Này tạo hỏa thổ thành xu thế khứ thủy, vốn tuất thổ muốn đi lưỡng thìn trung thủy, mà thìn vi tài khố, nhưng thìn thổ vượng bỉnh nguyệt lệnh mà vượng, đem tuất chế rồi, thành phản cục, người này cả đời nghèo mệnh, mậu quý hợp tài, có cơm ăn( Người này không có công việc), hợp tài ở chỗ này ý nghĩa không lớn, muốn dồn tài, nhưng bị tài phản chế.

Năm chủ phương xa, cố phương xa có người cho hắn điểm tiền. Cả đời nghèo mệnh.

Nhàn chú: Nơi này mậu thú đồng thể, bởi vì bính= mậu, nơi này thấy bính, như vậy mậu thú= bính thú rồi; thú nhất định phải dụng, nhưng thìn lực lượng cường, phản lại kẹp chế thú rồi! Phản cục, cũng may kẹp chế bất tử, không có tánh mạng chi ưu! Tỷ tỷ chu tế hắn, không tới chết đói!

Càn: Nhâm mậu tân mậu

Dần thân tị tuất

Đại vận: Kỷ dậu canh tuất tân hợi nhâm tử

Mới vu:1971 1981 1991 2001

Càn: Đinh mậu tân đinh

Mùi thân mùi tị

Đại vận: Đinh mùi bính ngọ ất tị giáp thìn

Mới vu:1976 1986 1996 2006

Lưỡng lệ cũng vi phản cục, tiền một tạo vi điện công, nhâm thân năm bị điện đánh chết, sau khi một tạo canh thìn năm chết vào tai nạn xe. Địa chi tị thân hợp phải đi kim, nhưng mậu thân một trụ, mậu sinh thân làm một thể, chỉ dùng để kim, vi nguyên cục phản cục.( Chú: Tân cùng thân nguyên nhân mậu mà ngay cả ở tại cùng nhau, thành ngay cả thể kim, cố không thể phá hư, phá hư thì thương thọ.)

Nguyên cục khứ kim thủy, nhật chủ đích ý tứ vốn là chịu mậu thổ sinh, thổ sinh kim, như mậu thân ngay cả làm một thể, nhân tiện vi phản cục.

Nhàn chú: Nguyên cục hồng chữ vi ngay cả thể, không thể bị phá hư, nhưng lưỡng tạo đều là hỏa táo thổ hoặc mộc hỏa thành xu thế, khứ chế kim! Phá hủy, phản rồi!

Lý tông nhân: Tân mão, bính thân, tân mùi, quý tị, nguyên nhân tân kim nhật chủ không bị sinh, nhật chủ hợp quan chế thân, nguyên cục cùng vốn là chế thân, không phải phản cục. Hồng chữ không ngay cả thể, có thể chế! Chính cục!

Càn: Tân bính tân quý

Mão thân mùi tị

Bính tân hợp, ngồi xuống thân vốn là kiếp, thêm đại biểu quân đội( Thân có quân đội chi tượng), tại nguyệt lệnh, biểu rất lớn, quân đội đích đại tập hợp.( Chú: Cũng chính là nhật chủ yếu quản lý khống chế tập đoàn quân đội ý.) tị thân hợp, vi chế rồi kiếp tài ý.( Chú: Chủ vị đích quan làm công, vốn là quản lý quân đội đích đại quan. Quý tị

Càn: Giáp quý tân kỷ

Ngọ dậu mão hợi

Cũng là ngay cả thể, kỷ mão vận đích đã vận bính tuất năm mặc dậu, tai nạn xe đã chết. Đinh sửu vận tốt nhất. Giáp ngọ mang tượng, ngọ= kỷ.

Tân dậu nguyệt tân nhật cũng là ngay cả thể.

Nhàn chú: Hồng chữ cũng ngay cả thể, bính thú năm lưu niên phản cục, thú mặc lộc,5.1 trước sau tai nạn xe mà chết! Nguyên cục kim thủy thành xu thế khứ mộc hỏa, giáp ngọ làm quan mang tài mạo, tài chính cục phó cục trưởng, đinh sửu vận tốt lắm!

Càn: Canh canh canh mậu

Tử thìn thìn dần

kim thủy ngay cả thể rồi, tử thủy cần. Mùi vận hại ngã tử sẽ không tốt lắm.

Nhàn chú: Hồng chữ ngay cả thể, thương quan cần; tử thủy không thể bị phá hư, mùi vận mặc tử, trúng độc cùng bệnh nặng vài lần!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chính Cục, Phản Cục

Xem tướng nam giới hút hồn phái nữ –

Chàng trai có lông mày rậm, mắt to, hay môi trên cong thường tình cảm, lãng mạn, hài hước... Những chàng trai có đặc điểm này thường thu hút được phái nữ... Củ thể thế nào? tướng nam giới thế nào thì hút hồn phụ nữ? Tất cả các bạn đều tò mò về vấn đề

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chàng trai có lông mày rậm, mắt to, hay môi trên cong thường tình cảm, lãng mạn, hài hước… Những chàng trai có đặc điểm này thường thu hút được phái nữ… Củ thể thế nào? tướng nam giới thế nào thì hút hồn phụ nữ? Tất cả các bạn đều tò mò về vấn đề này, Chúng ta cùng tham khảo trong bài viết dưới đây nhé!

Nội dung

  • 1 Tướng nam giới hút hồn phái nữ
    • 1.1 Lông mày góc cạnh
    • 1.2 Lông mày rậm
    • 1.3 Xương mày nhô ra
    • 1.4 Mắt to
    • 1.5 Nốt ruồi ở tai
    • 1.6 Môi trên cong
    • 1.7 Hai môi luôn khép chặt
    • 1.8 Tay to

Tướng nam giới hút hồn phái nữ

Lông mày góc cạnh

Chàng trai có lông mày góc cạnh rõ ràng tạo cho phái nữ cảm giác rất mạnh mẽ và nam tính. Những anh chàng tướng lông mày thế này rất hay tạo được ấn tượng tốt đối với phái đẹp.

Lông mày rậm

Cánh XX vốn nhạy cảm và dễ tổn thương, vì vậy, họ luôn cần những anh chàng có khả năng thấu hiểu mình. Các chàng trai lông mày rậm vốn sinh ra đã có bản năng giao tiếp – rất dễ được lòng phái nữ.

2-2781-1410161386

Xương mày nhô ra

Xương mày nhô ra nhưng không quá lớn cho thấy đây là những chàng trai sẵn sàng tấn công các “đối tượng” trong “tầm ngắm” của họ.

Mắt to

Mắt to và hơi xếch là chàng trai tình cảm, có khiếu hài hước và thân thiện. Đây là những người có phong cách làm việc nghiêm túc, biết hướng tới tương lai nên rất được phái nữ chú ý.

11-4105-1410250183

Nốt ruồi ở tai

Đây là những người thông minh, hiếu thảo, có phúc tướng và thường là chỗ dựa vững chắc cho phái đẹp.

Môi trên cong

Tình cảm, nhẹ nhàng, lãng mạn, hài hước, những anh chàng này rất dễ hấp dẫn phái nữ.

Hai môi luôn khép chặt

Đây là người rất chu đáo. Gần họ, phái nữ sẽ có cảm giác vô cùng an toàn.

10-6924-1410250184

Tay to

Đây là những chàng trai sẵn sàng gánh vác trách nhiệm gia đình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng nam giới hút hồn phái nữ –

Linh cảm lâm sàng: Hiện tượng trực giác trong y học

Lâm sàng xảy ra trong những trường hợp cấp cứu nguy hiểm đến tính mạng. Cạnh đó, linh cảm cũng có thể dẫn đến việc phát hiện các phương pháp điều trị y học
Linh cảm lâm sàng: Hiện tượng trực giác trong y học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Linh cảm lâm sàng là một khái niệm phổ biến đối với rất nhiều bác sĩ và chuyên gia chăm sóc sức khỏe – hiện tượng này xảy ra khi họ “cảm thấy” có một loại trực giác hay linh tính nào đó về bệnh tình của bệnh nhân, ngay cả khi không có bằng chứng trên lâm sàng, xét nghiệm.

Hiện tượng này đóng vai trò quan trọng trong những trường hợp cấp cứu và trong các ca nguy hiểm đến tính mạng. Trong một số trường hợp, linh cảm cũng có thể dẫn đến việc phát hiện các phương pháp điều trị y học mới.

Dưới đây chúng tôi xin trích dẫn 7 trường hợp linh cảm có thật trong lịch sử y học hiện đại:

1. Câu chuyện dưới đây được chia sẻ trên trang web

Theo Trung tâm Tâm linh và Điều trị trực thuộc trường Đại học Minnesota:

“Chứng kiến tình cảnh bệnh nhân mất máu ào ạt trên bàn mổ, bác sĩ chuyên khoa tim mạch, TS Mini Guernari, đã dành hàng tiếng đồng hồ để thử đủ mọi cách cầm máu cho bệnh nhân.

Sau đó, “đột nhiên tôi nghĩ tới một thứ tôi chưa từng sử dụng trước đây và cũng chưa bao giờ nghĩ tới : Gelfoam (1 chất hút nước có khả năng cầm máu)”. Câu trả lời mang tính trực giác này đã khiến cô chớp mắt liên hồi và tự hỏi không biết bản thân có đang gặp ảo giác hay không khi nhận thấy máu đã ngừng chảy. Gelfoam đã cứu sống bệnh nhân của cô”.

2. Còn câu chuyện dưới đây

Trên trang web của Quỹ Nghiên cứu Bệnh viện Nhi Seattle (Seattle Children’s Hospital Research Foundation):

Ông lắng nghe trực giác của mình và cố gắng phân tích mối liên hệ giữa những vấn đề về tai trong và hội chứng SIDS. Ông đã tham khảo ý kiến của các chuyên gia khác nhau có dữ liệu thống kê về trẻ. Ông đã phát hiện ra rằng tình trạng suy giảm thính lực tai phải, thường xuất hiện ở những đứa trẻ mắc SIDS, vốn có tỷ lệ thấp hơn trong những đứa trẻ tử vong không phải do SIDS”.

3. Mọi thứ dường như ổn thỏa, nhưng may thay, cô y tá đó đã nghe theo trực giác của mình.

Một y tá đã kể lại câu chuyện về trực giác của mình, được trích dẫn trong một luận văn cao học có tiêu đề “Quan sát mọi thứ, lắng nghe điều không được đề cập: một nghiên cứu hiện tượng luận về trực giác trong thực tập điều dưỡng”, của Lisa A. Ruth-Sahd, tại trường Đại học bang Pennsylvania, Mỹ.

 tai nạn
Vụ tai nạn xảy ra do ông cố gắng tránh đâm phải một chiếc xe hơi đột ngột dừng lại ở phía trước.

“Một người đàn ông 44 tuổi đã đến bệnh viện sau khi bị tai nạn xe máy, ông đã bị văng ra khỏi chiếc xe của mình và đâm vào lan can bên đường rồi trượt trên mặt đất khoảng 12 m. Vụ tai nạn xảy ra do ông cố gắng tránh đâm phải một chiếc xe hơi đột ngột dừng lại ở phía trước. Tôi đã rất kinh ngạc vì ông không đội mũ bảo hiểm vào lúc tai nạn xảy ra, nhưng vẫn khá tỉnh táo và có thể xác định phương hướng xung quanh trên đường đến khoa cấp cứu, và cũng có thể nhớ lại diễn biến vụ tai nạn. Khi đến nơi, ông vẫn có các dấu hiệu sinh tồn, mạch đập ổn định.

Mặc dù có kết quả khám bình thường, nhưng tôi vẫn cảm thấy lo sợ và không thoải mái nhưng không thể hiểu tại sao. Trước đây, tôi đã từng chăm sóc rất nhiều bệnh nhân bị chấn thương còn nghiêm trọng hơn người đàn ông này, nhưng vì lý do nào đó, tôi vẫn cảm thấy trường hợp này khá khác biệt. Tôi cứ liên tục nghĩ về kết quả khám của mình và tự hỏi tại sao tôi vẫn cảm thấy có điều gì đó không ổn.

Tôi nhìn các đồng nghiệp xung quanh, nhưng có vẻ không ai quan tâm, vì nỗ lực hồi sức cấp cứu vẫn đang được tiến hành bình thường như đối với các bệnh nhân khác. Mặc dù tôi vừa khám cho ông ta 10 phút trước đó và kết quả khá tốt, nhưng tôi cảm thấy mình cần quay lại và tiến hành kiểm tra toàn diện lần hai.

Tôi lắng nghe những cảm nhận nội tâm rằng có điều gì đó không ổn với người bệnh nhân này. Lần này tôi nhận thấy nhịp tim của ông nhanh hơn lúc trước và thấy xuất hiện một vết bầm tím ở phía ngực trước. Tôi nhìn sang màn hình hiển thị tâm đồ và nhận thấy đường điện tâm đồ (EKG) đã trở nên thẳng băng (tim không đập).

Dựa trên tất cả các triệu chứng này, ngay lập tức tôi thông báo cho bác sĩ phẫu thuật chấn thương cũng như các bác sĩ trong phòng cấp cứu, rồi tất cả chúng tôi nhanh chóng chuẩn bị tiến hành chọc màng ngoài tim, một biện pháp cần thiết để giảm bớt áp lực đang hình thành xung quanh tim bệnh nhân. Vụ tai nạn đã làm vỡ một mạch máu, dẫn đến hiện tượng chèn ép màng ngoài tim thứ phát do chảy máu”.

4. Câu chuyện này cũng được trích từ trang web của trường Đại học Minnesota:

“Tôi vẫn không hiểu tại sao tôi lại bảo người bệnh nhân đó kể về công việc của anh ta chi tiết hơn’, Bác sĩ Iver A. Juster nói. Khi bệnh nhân của ông – một quản lý ở thung lũng Silicon Valley miêu tả về mối quan hệ không hòa hợp với sếp, BS Juster đã nhận thấy những nét biểu cảm trên khuôn mặt anh trông giống hệt như lúc anh ta kể về vấn đề đau dạ dày.

BS Juster thuyết phục bệnh nhân rằng cảm xúc có thể gây nên những triệu chứng thể chất và đề xuất một liệu trình kép – điều chỉnh cảm xúc và điều trị các triệu chứng thể chất. Bệnh nhân và bác sĩ đều hài lòng với kết quả điều trị”.

5. Kiểm tra định kỳ vẫn bình thường, nhưng có điều gì đó không ổn

Câu chuyện này được chia sẻ trên trang web của trường Đại học Minnesota:

“Bác sỹ chuyên khoa tâm lý Richard Friedman cảm thấy khá bất ngờ về bản thân vào một ngày có lịch hẹn khám bệnh định kỳ với một bệnh nhân đang gặp các vấn đề về tài chính.

Ông cảm thấy biểu hiện của người bệnh nhân tên Mark của ông có gì đó không ổn, BS Friedman ‘đã làm một việc dựa trên trực giác thuần túy mà tôi không thật sự hiểu được vào lúc đó. Khi Mark còn đang ngồi trong văn phòng của tôi, tôi gọi cho bác sĩ nội khoa của anh và đặt lịch hẹn gặp ông ta vài giờ sau đó’.

BS Fried cảm thấy bối rối với chính linh cảm của bản thân mình. Ông thường hay tiếp xúc với những người mắc chứng lo âu và bệnh nhân của ông không có tiền sử bệnh tật trước đó. Ông cũng lo lắng về cảm nhận của người bác sĩ nội khoa đồng nghiệp – liệu ông ta có cười mình không? Khi hai người gặp mặt, bác sĩ nội khoa của Mark không có lý do để cười. Mark không hề bị mắc chứng lo âu, mà anh có vấn đề với phổi. Biện pháp điều trị được tiến hành ngay lập tức và tình trạng của Mark đã được cải thiện”.

6. Không đau ngực, nhưng bác sĩ vẫn chẩn đoán đúng về hai lá phổi

Câu chuyện sau đây được đăng trên tạp chí y học Oregon Nurse số ra tháng 9/2013:

“Một bệnh nhân nữ mới được phẫu thuật chuyển đến phòng cấp cứu để bù nước. Cô đã bị ngất vào sáng sớm hôm đó và đã được bác sĩ kiểm tra. Nhịp tim của cô ở mức 133 nhịp/phút khi mới đến viện. Sau khi được truyền tĩnh mạch, nhịp tim của cô đã ổn định ở mức 108 nhịp/phút.

Với các kết quả thí nghiệm và thể chất bình thường, bác sĩ đang cân nhắc cho bệnh nhân xuất viện. Tuy nhiên, một bác sĩ lâm sàng khác cùng tham gia lại cho rằng có thể nhịp tim cao như vậy là dấu hiệu tiềm tàng của huyết khối (cục máu đông) trong phổi, mặc dù bệnh nhân không có biểu hiện đau tức ngực.

Bác sĩ lâm sàng đó tiếp tục theo dõi những dấu hiệu sinh tồn của bệnh nhân và cuối cùng nhận thấy mức độ bão hòa khí ôxy trong máu bắt đầu giảm. Bác sĩ này thảo luận những dấu hiệu đáng lo ngại với một bác sĩ khác, người sau đó đã quyết định tiến hành xét nghiệm thêm. Các xét nghiệm cho thấy những cục máu đông có ở cả hai lá phổi, từ đó xác nhận linh cảm ban đầu của bác sĩ lâm sàng thứ hai là đúng”.

7. Chứng viêm màng não của bé gái được chẩn đoán dựa trên linh cảm

trẻ sơ sinh
Trực giác và Bằng chứng – bạn đồng hành khó khăn?

BS Trisha Greenhalgh, Giáo sư về Chăm sóc sức khỏe ban đầu tại Bệnh viện Royal Free và tại trường Đại học Y ở London, Anh, đã chia sẻ câu chuyện sau đây trên bài báo của bà có tựa đề “Trực giác và Bằng chứng – bạn đồng hành khó khăn?” (Intuition and Evidence—Uneasy Bedfellows?), được đăng tải trên tạp chí The British Journal of General Practice vào năm 2002:

“Vào một ngày nọ, một bác sĩ ở Cardiff, Wales đã nhận được cuộc gọi từ một người mẹ đang lo lắng vì đứa con gái 3 tuổi của cô bị tiêu chảy và cư xử khác thường. Bác sĩ đó biết khá rõ về gia đình này và ông rất quan tâm đến nỗi đã hủy bỏ cuộc phẫu thuật vào buổi sáng để ngay lập tức ghé thăm gia đình đó.

Dựa trên linh cảm của mình, ông đã chẩn đoán chính xác và điều trị thành công một trường hợp viêm màng não do vi khuẩn cầu não gây ra chỉ dựa trên hai triệu chứng không rõ ràng được miêu tả qua điện thoại”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Linh cảm lâm sàng: Hiện tượng trực giác trong y học

Xem tuổi cất nhà –

Ngày có sao Sát cống tốt nhất cho làm nhà (chú ý tìm hiểu tuổi gia chủ xem tương sinh tương khắc). Dân gian Việt Nam từ lâu đã có câu : "Lấy vợ xem tuổi đàn bà, làm nhà xem tuổi đàn ông". Làm nhà thường tránh gặp những năm: Kim Lâu , Tam Tai , Hoang

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày có sao Sát cống tốt nhất cho làm nhà (chú ý tìm hiểu tuổi gia chủ xem tương sinh tương khắc). Dân gian Việt Nam từ lâu đã có câu : “Lấy vợ xem tuổi đàn bà, làm nhà xem tuổi đàn ông”. Làm nhà thường tránh gặp những năm: Kim Lâu , Tam Tai , Hoang Ốc

file.391584

Kim Lâu
  • Nam: Lấy số tuổi (tính theo tuổi các cụ [tuổi mụ]) chia cho 9, số dư mà = 1, 3, 6, 8 thì là phạm Kim Lâu (tính để xem tuổi làm nhà, sửa nhà)
    • Nếu dư 1 là phạm Kim lâu thân (Gây tai hoạ cho bản thân người chủ)
    • Nếu dư 3 là phạm Kim lâu thê (Gây tai hoạ cho vợ của người chủ)
    • Nếu dư 6 là phạm Kim lâu tử (Gây tai hoạ cho con của người chủ)
    • Nếu dư 8 là phạm Kim lục súc (Gây tai hoạ cho con vật nuôi trong nhà); Riêng cái này có phạm cũng không sao nếu bạn không phải người kinh doanh chăn nuôi hoặc quá yêu quý động vật
  • Nữ: Lấy số tuổi (tính theo tuổi các cụ [tuổi mụ]) chia cho 9, số dư mà = 1, 3, 6, 8 là phạm Kim Lâu (tính để xem tuổi lấy chồng)
  • Tóm lại – Các tuổi Kim Lâu cần tránh: 12, 15, 17, 19, 21, 24, 26, 28, 30, 33, 35, 37, 39, 42, 44, 46, 48, 51, 53, 55, 57, 60, 62, 64, 66, 69, 71, 73, 75.
Tam Tai
  • Người chủ nhà tuổi Thân – Tí – Thìn gặp hạn Tam tai vào năm Dần – Mão – Thìn
  • Người chủ nhà tuổi Dần – Ngọ – Tuất gặp hạn Tam tai vào năm Thân – Dậu – Tuất
  • Người chủ nhà tuổi Tỵ – Dậu – Sửu gặp hạn Tam tai vào năm Hợi – Tí – Sửu
  • Người chủ nhà tuổi Hợi – Mão – Mùi gặp hạn Tam tai vào năm Tỵ – Ngọ – Mùi
Hoang Ốc
  • Các tuổi Hoàng Ốc cần tránh: 12, 14, 15, 18, 21, 23, 24, 27, 29, 30, 32, 33, 36, 38, 39, 41, 42 , 45, 47, 48, 50, 51, 54, 56, 57, 60, 63, 65, 66, 69, 72, 74, 75.
  • Tuy nhiên nhiều người cho rằng hạn Hoang Ốc mức độ tác động không lớn nên vẫn có thể tiến hành xây cất, sửa chữa


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tuổi cất nhà –

Giải mã giấc mơ thấy bếp lửa –

Theo các chuyên gia về giải mã giấc mơ họ luôn quan niệm rằng giấc mơ là nơi chứa đựng những cảm xúc rất đặc biệt, những cảm xúc này không có gì có thể ngăn cản được. Trung bình mỗi đêm có ít nhất một giấc mơ diễn ra trong bạn. Đặc biệt một só giấc m
Giải mã giấc mơ thấy bếp lửa –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ thấy bếp lửa –

Đại Thế Chí Bồ Tát - ánh sáng vô biên độ hóa chúng sinh

Đại Thế Chí Bồ Tát cùng với Quan Thế Âm Bồ Tát là thị giả theo hầu Phật A Di Đà, xưng tụng là Tây Phương Tam Thánh, tiếp dẫn và độ hóa chúng sinh.
Đại Thế Chí Bồ Tát - ánh sáng vô biên độ hóa chúng sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đại Thế Chí Bồ Tát cùng với Quan Thế Âm Bồ Tát là thị giả theo hầu Phật A Di Đà, xưng tụng là Tây Phương Tam Thánh, tiếp dẫn và độ hóa chúng sinh bằng trí tuệ.

 

Mục Lục

  1. Danh xưng Đại Thế Chí Bồ Tát
  2. Sức mạnh của Đại Thế Chí Bồ Tát
  3. Hình tượng Đại Thế Chí Bồ Tát
  4. Ngày vía Đại Thế Chí Bồ Tát
  5. Đại nguyện của Đại Thế Chí Bồ Tát
  6. Làm thế nào để thỉnh nguyện Đại Thế Chí Bồ Tát

 

1. Danh xưng Đại Thế Chí Bồ Tát

 

Dai The Chi Bo Tat - anh sang vo bien do hoa chung sinh hinh anh 2
 

Đại Thế Chí Bồ Tát là tên phiên phiên âm từ tiếng Phạn Mahastamaprapta, dịch ý là Đại Thế Chí hoặc Đại Tinh Tiến, gọi tắt là Thế Chí Bồ Tát. Ngoài ra còn những tên khác như Đắc Đại Thế Bồ tát, Đại Tinh Tấn Bồ Tát, Vô Biên Quang Bồ Tát. Mỗi cái tên, danh xưng đều có ý nghĩa quan trọng, gắn liền với đạo hạnh và chức trách mà Ngài mang.

 

Cái tên Đại Thế Chí xuất phát từ việc Ngài dùng ánh sáng trí tuệ chiếp khắp muôn nơi để chúng sinh mười phương thoát khỏi đau khổ, đạt thành tựu Bồ Đề, có đạo hạnh chuyên tu. Đắc Đại Thế Bồ Tát có nghiêng về diễn tả đại hùng đại lực đại từ bi của Ngài, dùng hạnh nguyện của mình để điều phục và tiếp độ chúng sinh trong thế giới Ta bà.

 

Đại Tin Tấn hay Đại Tinh Tiến tức là vị Bồ Tát có sức tinh tiến vĩ đại, vô biên, càng ngày càng tiến lên để hóa giải mọi phiền não và giáo hóa chúng sinh, không mệt mỏi, không lùi bước, không ngại chướng khổ. Vô Biên Quang là vị Bồ Tát có ánh sáng vô biên, tỏa khắp pháp giới để chúng sinh hữu duyên thấy được ánh sáng quang minh tinh diệu vô lượng của Ngài khắp mười phương.

 

2. Sức mạnh của Đại Thế Chí Bồ Tát

 

Quán Vô Lượng Thọ Kinh có ghi, Đại Thế Chí Bồ Tát lấy ánh sáng trí tuệ làm ngọn đèn soi đường cho chúng sinh thoát khỏi ba cõi ác, đạt được sức mạnh vô biên, hướng tới thân tâm an lạc. Khi Ngài di chuyên, thập phương mười hướng như đang xảy ra một cơ địa chấn, trí tuệ quét sạch u mê nên có tên gọi Đại Thế Chí.

 

Ngài là một trong Tây Phương Tam Thánh, cùng Quan Thế Âm Bồ Tát theo hầu Phật A Di Đà, một trong các vị Thượng thủ trong chúng hội Bồ Tát. Đại Thế Chí bên phải, Quan Thế Âm bên trái, một bên đại diện cho tinh thần đại trí, một bên biểu thị cho tinh thần đại bi. Người tu hành muốn tu tập viên mãn, đạt thành tựu Phật giáo thì phải có cả hai yếu tố là tấm lòng và trí tuệ.

 

Từ bi bên trái, trí tuệ bên phải, trí tuệ dẫn đường cho từ bi để từ bi đi đúng hướng, từ bi thấm nhuần trí tuệ để trí tuệ không cứng nhắc, không trên đời mà giúp đời, cứu đời thoát khỏi u tối. Đó chính là ý nghĩa cao nhất, sự hòa hợp tốt đẹp nhất của Phật giáo. Là Phật tử, là những người hướng Phật nhất định phải hiểu được đạo lý này, đồng thời trang bị cho mình hai hạnh này, có như vậy thờ Phật mới chân chính, kính Phật mới chuyên tu.

 

Trí của Thế Chí Bồ tát là trí của ánh sáng và niềm tin, quyết tâm giáo hóa chúng sinh tránh khỏi đường mê lối lạc. Ngài là vị Bồ Tát Đẳng Giác hầu cận Đức Phật A Di Đà ở cõi Cực Lạc, trợ giúp Phật hóa, tiếp dẫn chúng sinh mười phương thế giới, giáo hóa Thánh chúng tại Cực Lạc, chờ tới khi công quả viên mãn sẽ bổ xứ thành Phật.

 

Đây là vị Bồ Tát có nhân duyên sâu nặng với chúng sinh khắp cõi, tuy đã thành Phật trong kiếp quá khứ nhưng kiếp này thừa nguyện tái lai vì lòng thương chúng sinh, hiện thân làm Bồ Tát ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, trợ duyên cho Phật A Di Đà giáo hóa và tiếp dẫn chúng sinh thoát khỏi bể khổ.

 

Bồ Tát được Phật Bảo Tạng thọ ký rằng, trong vô lượng vô biên kiếp, sau khi Đức Phật Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Sơn Vương Như Lai nhập Niết Bàn, tức là Quan Thế Âm Bồ Tát thành Phật trong đời vị lai thì Đại Thế Chí sẽ thay Ngài tiếp quản chánh pháp và thế giới Tây Phương, thành Phật hiệu là Thiện Trụ Trân Bảo Sơn Vương Như Lai.

 

Đại hùng đại lực đại từ bi của Thế Chí Bồ Tát chính là tinh thần và trí tuệ cao nhất để Ngài hoàn thành nguyện cũng như trọng trách mà Phật đạo giao phó. Sức mạnh ấy thể hiện ở các phương diện dưới đây:

 

  • Đại hùng: sự mạnh mẽ, can trường dám xả thân rời xa những tham muốn hưởng lạc của thế gian. Điều này không những cần tiến tu mà còn phải có đại hùng, tu đạo Bồ Tát, kham những công hạnh, quyết dấn thân vào những việc khó khăn, quyết nhẫn nhục những điều vượt qua giới hạn bằng sức mạnh của tu tập.

 

  • Đại lực: Tuy đã thành Phật nhưng Ngài không an trụ tại cảnh giới Niết Bàn, tận hưởng pháp lạc mà tiếp tục hiện thân Bồ Tát Đẳng Giác để xả thân cứu độ chúng sinh, giáo hóa giác ngộ lầm than. Cái ác của chúng sinh có sâu dày đến đâu, ác nghiệp có cường thịnh đến đâu Thế Chí cũng không nản lòng, thệ nguyện vào những nơi tối tăm nhất, chốn ngọc nhằn nguy khó nhất để giác ngộ chúng sinh.

 

  • Đại bi: có đại bi mới làm tròn được hành nguyện giáo hóa khó nhọc đến vậy, từ bi cũng là gốc rễ ngọn nguồn của Phật giáo. Trí tuệ là đại hùng nhưng được dẫn dắt bởi đại bi, dùng trí tuệ quan sát căn tính của chúng sinh ngay cả khi mạt pháp nghiệp mỏng chướng dày nhất, kể cả khi căn lành nông cạn nhất để chúng sinh vượt khổ nạn, đạt thành tựu.

 

Trong kinh Lăng Nghiêm, chương Niệm Phật viên thông, khi Đức Phật Thích Ca hỏi về pháp môn tu hành, Đại Thế Chí Bồ Tát cho biết Ngài tu theo pháp môn niệm Phật. Nhân lành mà Ngài gặt hái được là dùng tâm niệm Phật, vô sinh pháp nhẫn, vì thế Ngài quyết dùng đại hùng đại lực đại bi mà mình có để tiếp dẫn những người niệm Phật vãng sinh tịnh độ.

 

Khi niệm Phật, n hất định phải chuyên tâm, người lâm chung muốn vãng sinh thì độ niệm phải có tâm chuyên nhất. Nếu trong lòng tưởng nhớ đến Phật, thấy đường Phật hướng thì Phật cách không ca, không cần phương pháp tu nào khác mà thành được Phật. Nói cách khác, “Nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm nối nhau, được Tam ma địa, đó là bậc nhất”. Đây là điểu quan trọng nhất là người tu niệm Phật cần phải nhớ khi hành trì.

Theo phong thủy và tâm linh, Bồ Tát Đại Thế Chí là Phật bản mệnh của người tuổi Ngọ.

 

3. Hình tượng Đại Thế Chí Bồ Tát

 

Trong Tây Phương Tam Thánh, Thế Chí Bồ Tát đứng bên phải Đức Phật A Di Đà, bên phải là Quan Thế Âm Bồ Tát, hiện thân là hai cư sĩ có cách ăn mặc tương tự nhau. Thế Chí cầm cành hoa sen màu xanh, Quan Âm cầm nhành dương liễu và bình tịnh thủy.

 

Xem thêm bài viết Tại sao Quan Thế Âm Bồ Tát được nhiều người kính ngưỡng?

 

Dai The Chi Bo Tat - anh sang vo bien do hoa chung sinh hinh anh 2
 

Trên chóp mũ của Bồ Tát có hình ngôi chùa, đại diện cho trí tuệ. Thân tỏa ra màu vàng tím lấp lánh, soi chiếu thập phương để chúng sinh hữu duyên đều có thể tận mắt nhìn thấy ánh sáng của Phật pháp và tịnh diệu. Vì thế mà Bồ Tát Đại Thế Chí cũng được gọi là Bồ Tát Vô Lượng Quang.

 

Thiên quan của Ngài có 500 bảo hoa, trên mỗi bảo hoa có 500 bảo đài, mỗi bảo đài hiện lên quốc độ tịnh diệu của chư Phật thập phương. Tóc búi hình hoa sen đỏ, trên có bảo bình, trong bảo bình chứa ánh sáng trí tuệ - nguồn lực để độ hóa chúng sinh.

 

Cũng có hình tượng Bồ Tát Đại Thế Chí hiện thân là tướng người cư sỹ, nơi cổ có đeo chuỗi ngọc anh lạc và trên tay cầm một hoa sen màu xanh, tượng trưng cho sự thanh tịnh. Có ý rằng nhờ trí tuệ sáng suốt mà dứt sạch được mọi phiền não mê lầm nơi tự thân và đưa tay cứu với chúng sanh ra khỏi mê lầm tội lỗi.

 

Trí tuệ là thanh gươm tinh nhuệ cắt đứt mọi ràng buộc, vướng mắc trong cõi trần ai mà đức Đại Thế Chí đã đạt được trải qua nhiều kiếp tu hành tích lũy biết bao công phu. Dùng trí của mình để độ kiếp lầm than, theo đúng tinh thần của Phật giáo.

 

Tại sao Bồ Tát lại hiện thân cư sĩ? Điều này cho thấy hạnh nguyện của Ngài gần gũi với chúng sinh, muốn chúng sinh nghe pháp, thấu hiểu pháp thì cần phải cảm thông cho chúng sinh. Chỉ khi gần gũi và trở thành bạn lành của chúng sinh thì mới có thể làm được điều này. Bồ Tát là vị cư sĩ giản dị, dễ dàng đi khắp nhân gian để tiếp xúc với mọi người.

 

Muốn cứu vớt chúng sanh về tịnh độ, trước phải dạy họ dứt sạch phiền não uế ô. Vì thế, danh hiệu Ngài đã nói lên ý nghĩa vận dụng ánh sáng trí tuệ chiếu soi cho chúng sanh thấy rõ những uế trược nơi mình, đồng thời giúp cho họ có sức mạnh đoạn trừ những uế tạp, hướng về tịnh độ.

 

4. Ngày vía Đại Thế Chí Bồ Tát

 

Ngày 13/7 âm lịch là ngày vía Đại Thế Chí Bồ Tát, tức ngày Bồ Tát đản sinh. Ngày này chúng Phật tử và những người hướng Phật cùng làm lễ kính ngưỡng công đức, hạnh nguyện của người. Không chỉ cúng dường, tụng niệm mà còn hướng về Phật pháp, học hỏi Phật pháp, noi gương Ngài ứng dụng vào đời sống để đạt tới lý tưởng tu hành của bản thân.

 

Ngoài ra, tích cực hành thiện, tổ chức phóng sinh, bố thí, gieo thêm căn lành, hạnh lành cho cuộc đời. Mỗi việc tốt là ngọn nguồn của một cây thiện, đâm ra trái ngọt quả lành mà con người cần phải nhân rộng, đẩy lùi xấu xa ác nghiệt, coi như hoàn thành ý nguyện của Bồ Tát Thế Chí.

 

Xem thêm bài viết Bố thí đúng cách - hưởng thụ khi học Phật

 

5. Đại nguyện của Đại Thế Chí Bồ Tát

 

Dưới đây là lời Bồ Tát Thế Chí nguyện hứa trước Đức Phật khi quyết đi theo con đường tiến tu, học đạo, hướng Phật và tu đạo Bồ Tát.

 

“Bạch Đức Thế Tôn! nay tôi xin đem công đức cúng dường Phật và chúng tăng trong ba tháng, và những hạnh tu tập của tôi đã từng làm, như là:

 

Ba nghiệp thân

 

  1. Không sát hại chúng sanh

 

  1. Không trộm cắp của người

 

  1. Không tà dâm

 

Bốn nghiệp miệng
 

  1. Không nói láo xược

 

  1. Không nói thêu dệt

 

  1. Không nói hai lưỡi

 

  1. Không nói độc dữ thô tục

 

Và ba nghiệp ý

 

  1. Không tham nhiễm danh lợi và sắc dục

 

  1. Không hờn giận oán cừu

 

  1. Không si mê ám muội, cùng các món hạnh tu thanh tịnh của tôi, mà hồi hướng về Đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và cầu được một thế giới rất trang nghiêm đẹp đẽ, như cõi Phật Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quan Minh Sang Vương Như Lai.

 

Tôi xin tiếp tục tu đạo Bồ Tát, làm việc Phật sự, khuyên bảo chúng sinh, mang lại lợi ích cho chúng sinh để mau chóng hoàn thành những hạnh nguyện tôi đã thề. Đến chừng nào Phật Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai diệt độ, thì tôi sẽ thành đạo, kế ngôi Phật truyền Chánh Pháp mà độ hóa chúng sinh”.

 

6. Làm thế nào để thỉnh nguyện Đại Thế Chí Bồ Tát

 

Dai The Chi Bo Tat - anh sang vo bien do hoa chung sinh hinh anh 2
 

Thế Chí Bồ Tát là vị Bồ Tát có trí tuệ và tinh thần từ bi, cứu độ chúng sinh vô biên, vô điều kiện, muốn gặp Phật phải có Phật trong tâm, muốn được Phật độ chứng phải thành tâm tụng niệm. Muốn thỉnh nguyện tới Ngài thì hướng về Phật pháp, chuyên tâm tu dưỡng và cúng dường, làm lễ công quả.

 

Thế gian còn lao khổ, Thế Chí còn miệt mài cứu độ chúng sinh tiến tới cõi Niết Bàn. Cách thỉnh nguyện tốt nhất, hiệu quả nhất chính là học tập đại hùng đại lực đại từ bi của Ngài, không chỉ giữ lập trường tu hành, trọn vẹn tinh thần hoằng pháp mà còn đẩy lui phiền não khổ sở. Chẳng những để bản thân giác ngộ mà còn giác ngộ những người xung quanh để cuộc sống ngày càng tốt đẹp, ngày càng an lạc.

 

Chăm làm việc thiện, thiện giả thiện báo, phóng sinh cứu độ, giữ tâm chân thành, bố thí hoạn nạn, đường tới thỉnh nguyện Đại Thế Chí Bồ Tát ở ngay phía trước.

 

Địa Tạng Vương Bồ Tát - Địa ngục chưa trống thề không thành Phật Văn Thù Bồ Tát - bậc Đại Trí dùng trí tuệ dẫn đường chúng sinh


Tâm Lan


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đại Thế Chí Bồ Tát - ánh sáng vô biên độ hóa chúng sinh

Mơ thấy gà mẹ ấp con: Nỗi lo của người mẹ về cuộc sống và sức khỏe của con cái –

Gà mẹ vốn đảm nhận việc đẻ trứng và ấp con. Người ta thường hay ví tấm lòng quan tâm vô hạn của người mẹ dành cho con cái với sự chăm sóc của gà mẹ dành cho đàn gà con của mình. Thế nên, nếu nữ giới mơ thấy cảnh gà mẹ ấp trứng nở con, điều đó tượng t
Mơ thấy gà mẹ ấp con: Nỗi lo của người mẹ về cuộc sống và sức khỏe của con cái –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy gà mẹ ấp con: Nỗi lo của người mẹ về cuộc sống và sức khỏe của con cái –

3 con giáp tốt toàn diện trong năm Ất Mùi

Chỉ có 3 trong số 12 con giáp có vận may tốt toàn diện trong năm 2015 này.
3 con giáp tốt toàn diện trong năm Ất Mùi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chỉ có 3 trong số 12 con giáp có vận may toàn diện về cả sự nghiệp, sức khỏe và tình duyên trong năm Ất Mùi này thôi.


1. Tuổi Ngọ

Trong năm Mùi, người tuổi Ngọ sẽ có vận thế tốt nhất, mọi việc đều thuận lợi, như ý. Đặc biệt sẽ có quý nhân phù trợ để giúp họ gặt hái được nhiều thành công trên các phương diện của cuộc sống.

Về công việc, sự nghiệp, sẽ có nhiều người giúp đỡ, có nhiều khả năng được thăng chức hoặc điều động vị trí làm việc tốt hơn… Tiền bạc, tài chính đều rất tốt, tài khoản ngân hàng sẽ không ngừng tăng lên. Tuy nhiên, khi muốn đầu tư, bạn cần phải thận trọng, tránh bị người khác lợi dụng.

Về tình cảm, nếu còn FA, bạn cần nắm bắt cơ hội để chủ động bày tỏ tình cảm. Đặc biệt là con gái tuổi Mùi, vận đào hoa sẽ nở rộ trong năm nay. Nhất định, bạn sẽ tìm được ý chung nhân của đời mình. Nếu đã có “gấu”, tình cảm hai bên thêm mặn nồng và có thể tiến tới hôn nhân hạnh phúc.

2. Tuổi Mão

3 con giap tot toan dien trong nam At Mui hinh anh
 

Nằm trong mối quan hệ tam hợp, vận thế người tuổi Mão trong năm Mùi sẽ vô cùng tốt đẹp, mang tới nhiều vận may hiếm thấy hơn nữa cho con giáp này.

Về sự nghiệp, những việc còn dang dở trước kia, trong năm 2015 sẽ hoàn thành với thành công rất cao. Trong năm nay, người tuổi Mão nên kinh doanh hoặc đầu tư vào lĩnh vực nào đó, chắc chắn sẽ phát triển không ngừng.

Về tình cảm, không sớm thì muộn, bạn sẽ kết thúc kiếp FA và tìm cho mình chàng bạch mã hoàng tử đã chờ đợi từ bấy lâu nay. Nếu đã có người yêu, hai bạn sẽ có những chuyến du lịch bên nhau thú vị và tình yêu ngày càng sâu đậm.

3. Tuổi Dần

Trong năm Mùi, vận thế người tuổi Dần sẽ như diều gặp gió, đã tốt lại còn tốt hơn.

Về sự nghiệp, người tuổi Dần không ngừng thăng tiến và được nhiều sự trợ giúp của quý nhân. Nhiều khả năng, bạn sẽ trở thành lãnh đạo hoặc trưởng nhóm nào đó. Tiền bạc bình thường trong 6 tháng đầu năm nhưng lại vô cùng phát đạt vào nửa cuối năm.

Về tình duyên, vận đào hoa khá tốt, nhưng phần lớn người tuổi Dần đều bỏ lỡ hoặc không biết cách nắm bắt cơ hội. Bạn cần chủ động và dành nhiều thời gian hơn cho đối phương. Hạn chế tối đa những lời nói lạnh lùng khiến nửa kia hiểu nhầm, dễ dẫn tới mâu thuẫn.  

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 con giáp tốt toàn diện trong năm Ất Mùi

Đoán mệnh ở Kim Bình Mai và Hồng Lâu Mộng

Thuật đoán mệnh ỏ Trung Quốc, từ thời Ngũ Đại sau khi được Từ Tử Bình đặt nền móng, qua hai triều Tống Nguyên đã có khí sắc, phát triển rộng rãi, đến thời Minh Thanh đã làm mê đắm trong dân gian, tạo nên một phong khí tìm người đoán mệnh cho mình. Trong dân gian, dù kẻ sĩ đi thi, thương nhân kinh doanh, hoặc là kết hôn sinh con, sinh lão bệnh tử, đều phải tìm người bói toán xem cát hay hung. Đến lúc này đoán mệnh và bói đã trở thành một phần trong cuộc sống dân gian. Thuật đoán mệnh đặc sản ở nước ta, do nó từ trước đến sau vẫn dương ngọn cờ triết lý âm dương ngũ hành, cho nên được đông đảo những người trí thức tiếp nhận. Trong xã hội, ngoài một số thầy đoán mệnh chuyên nghiệp kiếm cơm ăn ra, rất nhiều văn nhân học sĩ đều biết đoán mệnh. Chính vì thuật đoán mệnh có nền tảng trong giới văn nhân học sĩ, nên thường được phản ánh trong tác phẩm của họ.
Đoán mệnh ở Kim Bình Mai và Hồng Lâu Mộng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kim Bình Mai là một tiểu thuyết toả sáng rực rỡ ở thời nhà Minh, do tác giả có trình độ học vấn sâu rộng lại tinh thông tướng mệnh, cho nên trong tiểu thuyết đã đề cập đoán mệnh xem tướng, có mấy chỗ chiêm bốc hỏi quẻ. Ngoài đoán mệnh cho Tây Môn Khánh ra, ở hồi 16 của cuốn sách, Hoàng Tiên Sinh đã đoán mệnh cho vợ yêu của Tây Môn Khánh là Lý Bình Nhi mắc bệnh nặng, đó là một ví dụ điển hình.

Mấy ngày liền, bệnh của Lý Bình Nhi ngày càng thêm nặng, tinh thần tiều tuỵ, kinh nguyệt dầm dề, lục mạch trầm tế, tâm thần mê sảng. Đã mời liền mấy thầy thuốc, có người nói tình nặng tổn gan, phế Hoả quá vượng, dẫn đến Mộc vượng Thổ hư, huyết nhiệt vọng hành, tựa như núi lở mà không tiết chế được, có người nói tinh xung huyết quản, sau đó khí giận bột phát, khí huyết đấu nhau, nên bị băng huyết. Cứ vậy thuốc uống lung tung, người cho thứ này, kẻ đưa thứ khác, mỗi người chữa theo một cách. Một buổi tối, bà mẹ Tây Môn Khánh là Ngô Nguyệt Nương nói với y: anh bớt cho nó uống thuôc đi, nó không ăn được, trong bụng có gì đành cho thuốc tiêu thải hết đi.

Trước đây Ngô Thần Tiên đoán nó ở tuổi 39 có tai huyết quang nay nó gần đủ 27 tuổi rồi? Anh sai người đi tìm Ngô Thần Tiên, tính toán cho nó, xem ở số lộc mã của nó như thế nào? Chỉ sợ phạm phải sao hung nào, hãy cầu cứu che chở cho nó. Tây Môn Khánh nghe xong sai ngay đầy tớ cầm thiếp đến phủ Chu Thư Bị hỏi. Ở đó trả lời: Ngô Thần Tiên là người chu du đây đó, đi về không nhất định, nhưng chỉ ở miếu Thổ địa phía nam thành. Tháng 4 năm nay, đi vào núi Vũ Đương rồi. Muốn lấy số đoán mệnh, ở ngoài miếu Trấn Vũ có Hoàng Tiên Sinh, lấy số rất giỏi, mỗi lá số chỉ lấy 3 đồng cân vàng, không đi đến nhà ai. Tây Môn Khánh lập tức sai Trấn Kính Tế cầm 3 đồng cân vàng đến nhà Hoàng Tiên Sinh ở cửa bắc miếu Trấn Vũ. Ở cửa dán mấy chữ: Diệu đoán tiên thiên dịch số, mỗi mệnh lấy 3 đồng cân vàng. Trấn Kính Tế bước đến vái chào, giơ phong bì vàng lên nói: Có một mệnh, phiền tiên sinh đoán hộ. Viết bát tự đưa cho ông, nữ mệnh 27 tuổi, sinh giờ Ngọ ngày 15 tháng giêng. Hoàng Tiên Sinh gẩy bàn toán bèn nói: mệnh này, năm Tân Mùi, tháng Canh Thân, ngày Tân Mão, giò Giáp Ngọ, lẽ ra lấy cách ấn thụ. Bốn tuổi hành vận, bốn tuổi Kỷ Mùi, 14 tuổi Mậu Ngọ, 24 tuổi Đinh Tỵ, 34 tuổi Bính Thìn. Năm nay lưu niên Đinh Dậu, Tỷ Kiên dụng sự, tuế thương can ngày, sao kế đô chiếu mệnh, lại phạm táng môn Ngũ Quỷ, tai sát. Sao Kế Đô là Âm hối, tượng của nó như tơ rối không có đầu, biến lạ không bình thường. Đại vận gặp phải làm nhiều việc ám muội, dẫn đến bệnh tật, chủ tháng giêng, hai, ba, bảy, chín, bệnh tai gây tổn thất, tiểu khẩn hung ương, tiểu nhân tính toán, nói lời thị phi, chủ mất tài vật, hoặc là âm nhân (nữ nhân) rất là không lợi. Xem xong số, Kính Tế mang về nhà. Tây Môn Khánh đang cùng Ứng Bá Tước, Ôn tú tài ngồi với nhau, thấy mang tờ số về, cầm ra phía sau đọc cho Nguyệt Nương nghe. Thấy trong mệnh tuy nhiều hung cát ít, bất giác hàng mi hằn lên ba nếp nhăn, trong bụng lòng đầy buồn bực. Ở đây, Bát tự của Lý Bình Nhi là:

Năm Tân Mùi Tháng Canh Dần

Ngày Tân Mão Giờ Giáp Ngọ

Hoàng tiên sinh cho rằng bát tự này nên lấy ấn thụ là cách, tuy ông không nói rõ nguyên nhân, nghĩ rằng Mậu Thổ trong chi tháng Dần, vốn là sinh ở ấn thụ của Tân Kim bản thân này, cho nên lấy Canh . Còn về hành vận thì sắp ngược lại. Lại nói lưu niên Đinh Dậu, Tỷ Kiên dụng sự. Dậu thuộc Tân Kim cùng Tân Kim bản thân đều thuộc âm can, cho nên nói là Tỷ Kiên dụng sự. Còn như tuế thương can ngày tức là lưu niên Đinh Hoả Thái Tuế đã khắc thương Tân Kim can ngày. Theo cách nói của sách đoán mệnh, Tuế thương can ngày, không hẳn đại hoạ giáng xuống đầu. Ở đây, Hoàng Tiên Sinh đem lưu niên của Lý Bình Nhi là đại bất cát lợi, nguyên nhân chủ yếu là Kế Đô chiếu mệnh, lại phạm táng Môn Ngũ Quỷ, tai sát quấy nhiễu trong đó trọng điểm là phát huy rất nhiều lý do về Kế Đô chiếu mệnh. Vốn là sách đoán mệnh cho rằng, Kế Đô là một sao trong mười một sao của nhà tinh mệnh học, đối lập với sao La Hạ, 18 ngày đi một độ, 18 năm đi một vòng trời. Khi tròi bình thường ẩn mà không thấy, gặp mặt trời mặt trăng bị xâm thực, cho nên Hoàng Tiên Sinh mới có cách nói: Sao kế đô là sao âm hối, tượng của nó như tơ rối mà không có đầu, biến lạ không bình thường, nên không cát. Trong âm dương, đàn bà thuộc âm, âm nhân lại gặp âm tinh xúi quẩy này, nên chẳng trách gì mệnh của Lý Bình Nhi cuối cùng lại khổ sở như vầy.

Điều thú vị là, trong Hồng Lâu Mộng, cuốn Bách khoa toàn thư của xã hội phong kiến, học thức của tác giả rất rộng, không chỉ biểu hiện luân lý xã hội mà về thơ từ ca phú, chính trị kinh tế, cầm kỳ thi hoạ, văn vật điển cố, phong vị ẩm thực, Nho Phật Đạo học mà còn biểu hiện sâu sắc tam giáo cửu lưu, y tướng số, không gì là không thông suốt, mở hồi 2 của Hồng Lâu Mộng ra xem, thấy nói con “Hoàn Kiều Khả, năm ấy đang hái hoa ngoài cửa sổ, quay lại nhìn Gỉa Vũ Thôn. Chỉ qua cái liếc nhìn tình cờ ấy mà toạ nên một mối lương duyên, đó là việc không hề nghĩ tới. Ai biết được vận mệnh của nó được hai lần trợ giúp, sau khi ở bên Giả Vũ Thôn được một năm thì sinh được một con, lại qua nửa năm bà vợ cả của Vũ Thôn bị bệnh chết, Vũ Thôn lập cô làm chính thất phu nhân. Đúng là: ‘'Chỉ một cái nhìn, trở thành người thượng lưu”.

Trong sách a hoàn Kiều Khả, vận mệnh được hai lần trợ giúp, là nói mệnh cô tốt, vận khí cũng tốt, mệnh là tổng hoà giàu sang hoạ phúc, cùng thông thọ yểu cả một đời người, vận là các cơ may và khí số trong từng giai đoạn khác nhau của cả đời người.

Lại ở hồi 69 của Hồng Lâu Mộng, Vương Hy Phượng mượn kiếm giết người, đem Vưu Nhị Thư dày vo đến mức tay chân không cử động được, không ăn uống được , ngày càng vàng vọt gầy yếu đi. Về sau Vương Hy Phượng mời người đoán mệnh bói quẻ, người đoán mệnh nói, ân nhân tuổi thỏ (mão) bị xung, mọi người đoán ra chỉ có một mình Thu Đồng tuổi thỏ, nên cho rằng cô ta xung, kết quả làm cho Thu Đồng bực quá khóc lóc chửi bới làm cho Vưu Nhị Thư khảng khái nhịn nhục, đã nổi giận đang đêm hôm ấy nuốt vàng tự sát.

Nhưng trong sách đã tốn nhiều bút mực nói về đoán mệnh ở hồi 86 trong phần viết tiếp của Cao Ngạc thấy đoán mệnh đã đoán cho Nguyên Kỷ, trong sách Bảo Thoa nói: không chỉ là bên ngoài dối trá nói ngoa, mà ở trong nhà cũng nói vậy, tôi đã rình nghe được, hai chữ nương nương được nói nhiều, về sau mới rõ. Hai hôm nay bọn a hoàn trong phủ đều nói, bọn chúng đã biết từ trước, nương nương không phải là người của họ. Tôi nói: Bọn bay lấy tin ở đâu mà nói như vậy? Họ nói: tháng giêng mấy năm trước đây, ở tỉnh ngoài có một người đoán mệnh. Nghe nói là đoán rất chuẩn. Lão thái thái cho người đem bát tự của Nguyên Kỷ đem kẹp vào trong bát tự của bọn a hoàn, đưa đến cho ông ta đoán. Ông nói một mình. “Cô gái sinh vào ngày 1 tháng giêng, e rằng sai giờ, nếu không thì là một quý nhân, cũng không thể là người ở trong phủ”.

Lão gia và mọi người nói: không biết cô ấy có sai hay không sai, cứ theo bát tự mà đoán, ông ấy bèn nói: “Năm trong Giáp, tháng giêng Bính Dần, trong bốn chữ này có thương quan, bại tài, duy trong chữ thân có chính quan, lộc mã, như vậy thì trong nhà không nuôi được, cũng chẳng thấy có gì tốt. Ngày là Ất Mão, đầu xuân Mộc vượng, tuy là Tỷ Kiên, nào biết được càng Tỷ càng tốt, giống như loại gỗ tốt, càng qua mài dũa mới thành đồ dùng tốt. Chỉ hỉ là Tân Kim ở giờ là Quý, chính quan trong Tỵ, vượng địa của lộc mã. Đây gọi là “Phi thiên lộc mã cách”. Lại nói là ngày sinh gặp chuyên lộc, vô cùng là quý. Thiên nguyệt nhị đức toạ bản mệnh, quý được sùng ái ở chốn tiêu phòng. Cô gái này nếu giờ sinh đúng, nhất định sẽ là bà chủ phủ. Như vậy chẳng là đoán đúng sao? Chúng tôi còn nhớ câu ông nói: đáng tiếc vinh hoa không lâu, chỉ sợ gặp năm Dần tháng Mão thế thì Tỷ lại thêm Tỷ, kiếp mà lại kiếp, ví như Mộc tốt đem làm đồ chơi thì chất Mộc không cứng nữa, mọi người đã quên mất lời nói ấy. Tôi vừa nghĩ lại, nói với thái thái, năm nay đâu là năm Dần tháng Mão?

Bát tự của Nguyên Kỷ được sắp là:

Năm Giáp Thân Tháng Binh Dần

Ngày Ất Mão Giờ Tân Tỵ

Trụ ngày Ất Mão là mệnh của Nguyên Kỷ, trong ký sinh 12 cung, Mão là lâm quan lộc địa của Ất Mộc, cho nên nói ngày sinh gặp chuyên Mộc, là một mệnh rất tốt. Lại như Tân Kim là quý, sách mệnh cho rằng Tan gặp Dần là thiên ất quý nhân, quý rất nặng, bây giờ can giờ phối hợp với chi tháng thì ứng vào mệnh này “chính quan trong Tỵ, lộc mã độc vượng” là nói, Canh Kim trong Tỵ là chính quan của can ngày ất Mộc, bản thân chi Tỵ lại lâm quan lộc địa của Bính Hoả, hơn nữa chi giờ Tỵ và chi ngày Mão gặp nhau, ứng với mệnh dịch mã khỏi động, cho nên thầy đoán mệnh nói, mệnh của Nguyên Kỷ dù là quý nhân cũng không thể ở trong phủ này. Thế thì không ở trong phủ này, làm thế nào liệu định được lại được sùng ái ở chốn tiêu phòng trong cung? Đó là do nguyên có “thiên nguyệt nhị đức toạ bản mệnh”. Ở đây Bảo Thoa nói thiên nguyệt nhị đức toạ bản mệnh hơi khác với thiên nguyệt nhị đức trong sách nói, xem ra ý là “quy lộc phùng nhị đức vậy”.

Còn vẽ nói “phi thiên lộc mã cách”, trong Hỉ Kỵ thiên nói: nếu gặp thương quan nguyệt kiến, nếu ở vào hung chưa hẳn là hung, trong có đảo lộc phi xung”. Đầu xuân sinh vào ngày Mão, Ất là âm Mộc, quan tinh của nó là Canh Kim, mà Bính Hoả ở tháng lại khắc được Canh Kim, cho nên trở thành thương quan nguyệt kiến. Ngày ất đã được Bình Hoả, lại sinh ở tháng Dần Mộc đầu xuân, Mão Mộc ở chi ngày có thể xung phá Thân Kim nằm trong giờ Tỵ. “Đảo lộc phi xung”, trở thành “phi thiên lộc mã cách”. Bỏ đi những lời trên không nói đến nữa, dù thế nào cũng có thể khẳng định, tác giả đã dùng một số trang giấy, mượn lời Bảo Thoa để phân tích mệnh Lý của thầy đoán mệnh nói, chứng tỏ ông rất thích thú về đoán mệnh, lại có nghiên cứu. Đoạn ở trong sách nói: “đáng tiếc vinh hoa không lâu, chỉ sợ gặp năm Dần tháng Mão thế thì Tỷ lại thêm Tỷ, kiếp mà lại kiếp, ví như Mộc tốt đem làm đồ chơi thì chất Mộc không cứng nữa” càng chứng tỏ tác giả rất giỏi về nghề này.

Có thể thấy, quan niệm của Tào Tuyết cần kết hợp giữa bẩm sinh thụ khí của trời đất sinh ra, kết hợp với hoàn cảnh gia đình, khác với vượng suy chỉ quan niệm con người bẩm thụ khí của trời đất sinh ra mà không đề cập hoàn cảnh gia đình, ông đã có bước tiến bộ lớn vì rằng đã đề cập đến ảnh hưởng do hoàn cảnh gia đình đối vối con người sinh ra, nhưng từ nhận thức tổng thể của Tào Tuyết cần về mệnh lý học mà xét, tư tưởng túc mệnh của ông đã quyết định ông không thể trở thành kẻ phản nghịch triệt để của thuyết thiên mệnh. Dĩ nhiên về điểm này, những độc giả thấu tình đạt lý không thể theo yêu cầu ngày nay mà đòi hỏi quá cao con người Tào Tuyết cần sống trong hoàn cảnh xã hội phong kiến lúc bấy giờ.

Ngoài Kim Bình Mai, Hồng Lâu Mộng ra, các tiểu thuyết thời Minh Thanh nói rất nhiều về đoán mệnh mà nổi tiếng nhất là Chuyện làng Nho của Ngô Kính Tân như ở hồi 54 (bệnh giai nhân thanh lâu đoán mệnh, ai danh sĩ kỷ quán hiến thi). Trong chuyện, tác giả qua người mù đánh đàn ba dây mà đoán mệnh cho cô gái ở lầu xanh, và cuộc trò chuyện giữa Trần Mộc Nam với người mù, đã phản ánh trắc diện xu thế đoán mệnh của xã hội lúc bấy giờ rất thịnh và sự hiểu biết về thuật đoán mệnh của tác giả.

Nguồn: Quang Tuệ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán mệnh ở Kim Bình Mai và Hồng Lâu Mộng

Đường gân giữa trán nói lên điều gì? –

Có nhiều bạn, gân xanh nổi ở tay chân, hay xuất hiện đường gân ở giữa trán. Nhưng các bạn cho đó là điều bình thường nhưng thực ra đàng sau những đường gân ấy liệu có điềm báo gì không?Bạn đã từng tìm hiểu ý nghĩa của các đường gân chưa? Nếu chưa hãy
Đường gân giữa trán nói lên điều gì? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đường gân giữa trán nói lên điều gì? –

Kiếm Phong Kim - Kim loại trên mũi kiếm

Tìm hiểu về nạp âm Kiếm Phong Kim, bản mệnh kiếm phong kim có ý nghĩa như thế nào, kiếm phong kim kỵ với những mạng nào

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kiếm Phong Kim - Kim loại trên mũi kiếm

Kiếm Phong Kim - Kim loại trên mũi kiếm

Tìm hiểu về nạp âm Kiếm Phong Kim

Kiếm, Sa Kim phong lưỡng ban kim

Mộc mệnh nhược phòng tức khắc hiềm

Ngoại hữu tứ Kim giải kỵ Hỏa

Kiếm sa vô Hỏa bất thành hình.

Giải thích: Đừng nghĩ Hỏa khắc Kim, nếu mệnh là Kiếm Phong Kim và Sa Trung Kim mà hợp cùng người mệnh Hỏa trong hôn nhân, lại tốt đẹp vô cùng.

Nạp âm Kiếm Phong Kim (vàng trong kiếm) và Sa Trung Kim (vàng trong cát), nếu không có lửa (Hỏa) thì không thành vật dụng. Nhưng cả hai khắc với Mộc (Kim khắc Mộc) vì hình kỵ, dù Mộc hao Kim lợi (Kim được khắc xuất, mất phần khắc) nhưng vẫn chịu thế tiền cát hậu hung (trước tốt sau xấu), do Kim chưa tinh chế nên không hại được Mộc vượng, không chém được cây lại thêm tổn hại.

Bác Vật Vựng Biên chép rằng: Nhâm Thân Quí Dậu thì Dậu là chính vị của Kim vị trí của Lâm Quan và Đế Vượng, nên Kim già cứng cương mãnh ví như mũi nhọn của lưỡi gươm nên gọi bằng Kiếm Phong Kim. Nhâm Thân Quí Dậu khí thế cực thịnh.

Người mạng Kiếm Phong Kim tự hiển tài năng mình, hành động tư tưởng sắc bén. Hồng quang tỏa chiếu tới sao Đẩu sao Ngưu, ánh sáng rõ ràng như sương tuyết. Có ý chí cao lớn, tâm tính tàn khốc cương nghị và tinh nhuệ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiếm Phong Kim - Kim loại trên mũi kiếm

Dọn bàn thờ ngày Tết đúng chuẩn để nhiều tài lộc năm 2017

Từ xưa đến nay, dọn bàn thờ ngày Tết đã là phong tục quen thuộc trong mỗi gia đình. Nó thể hiện tấm lòng thành kính của gia chủ với chư vị thần phật.
Dọn bàn thờ ngày Tết đúng chuẩn để nhiều tài lộc năm 2017

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Từ xưa đến nay, dọn bàn thờ ngày Tết đã là phong tục quen thuộc trong mỗi gia đình. Nó thể hiện tấm lòng thành kính của gia chủ với chư vị thần phật cũng như thể hiện sự kết nối với tổ tiên. 

  Cách rút chân bát hương và vệ sinh bàn thờ ngày cuối năm Bốc bát hương ngày cuối năm sao cho đúng Sử dụng bát hương đúng cách để lời khẩn cầu thấu tới thần linh  

1. Dọn bàn thờ ngày Tết, phong tục đẹp và linh thiêng


 
Don ban tho ngay Tet dung chuan de nhieu tai loc nam 2017 hinh anh
 
Từ xưa đến nay, dọn bàn thờ ngày Tết đã là phong tục quen thuộc trong mỗi gia đình. Nó thể hiện tấm lòng thành kính của gia chủ với chư vị thần phật cũng như thể hiện sự kết nối với tổ tiên. Tuy nhiên để việc dọn và bày biện bàn thờ được đúng cách và mang lại nhiều may mắn, tài lộc cho gia chủ, bạn cũng nên chú ý một số vấn đề về cách thức tiến hành, thời điểm tiến hành…
 

2. Thời điểm tiến hành dọn bàn thờ ngày Tết


Dọn bàn thờ còn được gọi là bao sái, tuy không còn là phong tục xa lạ, nhưng tùy địa phương và gia đình mà thời điểm tiến hành có khác nhau. Đa số gia đình chọn khoảng thời điểm từ ngày 23 tháng Chạp cho đến trước 30 Tết Nguyên đán. Theo đó, dân gian quan niệm đây là khoảng thời gian Táo quân vắng mặt, việc xê dịch đồ thờ sẽ không bị mạo phạm. Ngoài ra, khi Táo quân trở lại thì bàn thờ đã được sạch sẽ đển đón các ngài.   Một số gia đình thì quan niệm việc dọn ban thờ có thể tiến hành bất kỳ thời điểm nào miễn là khi thấy bàn thờ không còn được sạch sẽ, thanh tịnh. Tuy nhiên với dịp Tết thì còn có thể dọn bàn thờ từ 20 tháng Chạp. Bàn thờ sạch sẽ, đồ lễ ngay ngắn đầy đủ, thể hiện lòng thành kính và sự kết nối linh thiêng với tổ tiên, các cụ sẽ vui lòng phù trì cho con cháu bình an, may mắn, phát tài phát lộc. Đồng thời cũng theo quan niệm dân gian, việc dọn bàn thờ ngày Tết cho sạch sẽ, tránh đồ lễ lộn xộn cũng là cách để tránh lộc của gia chủ bị rơi vãi.
 

3. Cách thức tiến hành dọn bàn thờ ngày Tết


Don ban tho ngay Tet dung chuan de nhieu tai loc nam 2017 hinh anh 2
 
- Chuẩn bị: chổi quét bàn thờ, khăn lau chuyên dụng mềm để tránh xước đồ thờ, nước sạch, nước thơm, có thể dùng nước ấm hoặc rượu trắng ngâm gừng.   - Khấn trước khi lau dọn bàn thờ ngày Tết
 
Trước tiên nên thắp hương, chắp tay trước ban thờ và khấn: “Tín chủ con tên là… Vì ban thờ bị bụi, nên con xin được thành tâm sám hối và kính cáo chư vị (thần linh, hộ pháp, gia tiên…) cho phép con được bao sái để bàn thờ được trang nghiêm thanh tịnh. Kính mong chư vị chứng minh và gia hộ!”. Việc khấn này mục đích là để thần phật tổ tiên chứng minh và tạm thời lánh sang một bên để gia chủ thực hiện công việc lau dọn.   - Tiến hành lau dọn: Sau khi khấn xong đợi hết hương thì hạ bát hương, bài vị và đồ thờ cúng khác xuống nơi sạch sẽ đã chuẩn bị trước đó. Tiến hành lau dọn, rửa, chỉnh trang bàn thờ, bát hương nhẹ nhàng, cẩn thận và tỉ mỉ. Thứ tự lau dọn là từ trên cao xuống; lau bài vị của thần phật trước rồi thay nước và lau bài vị tổ tiên để tránh mạo phạm. Khi việc lau dọn được xong xuôi thì đặt bài vị, tượng… vào vị trí cũ.   Lưu ý: Nếu gia đình có tang ma thì không nên tiến hành dọn bàn thờ ngày Tết. Bởi dân gian quan niệm việc này để tránh khói bụi bay vào mắt người đã khuất. Ngoài ra, bạn nên nhớ những đồ vật không liên quan đến việc thờ cúng ví dụ như vật phẩm phong thủy thì không nên đặt lên bàn thờ.

► Mời các bạn xem tuổi xông nhà 2017 hợp tuổi gia chủ để rước tài, rước lộc vào nhà

Lichngaytot

Tết Đinh Dậu tặng nhau tiền in hình con gà rước lấy phúc lộc thọ
Năm 2017 là năm Đinh Dậu với con gà là linh vật. Nhiều quốc gia đã phát hành loạt tiền in hình con gà để làm quà tặng, quà mừng ý nghĩa nhân dịp đầu năm.
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dọn bàn thờ ngày Tết đúng chuẩn để nhiều tài lộc năm 2017

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Nét mặt 'tố cáo' bạn có phải người mù quáng trong tình yêu

Những cô nàng trán lõm, tai mỏng, lông mày mảnh... rất dễ vì yêu mà đánh mất bản thân.
Nét mặt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Trán lõm

Con gái có trán nhìn thẳng thì cân đối nhưng nhìn ngang thì hơi lõm là người thiếu quyết đoán, không có chủ kiến, ít nói, thường tự cô lập bản thân. Họ không có lập trường trong hôn nhân, tình yêu, bởi vậy dễ bị người khác điều khiển, đối phương nói một là một hai là hai nên nhiều khi bị tổn thương. Nhìn chung khi yêu, tuýp người này thường trở nên mù quáng, sẵn sàng làm tất cả vì đối phương.

2. Lông mày mảnh, mắt nhỏ

Người sở hữu lông mày mảnh và đôi mắt nhỏ thường nhu hòa, làm việc gì cũng từ tốn. Họ hướng nội, thích sự yên tĩnh. Khi yêu ai, họ luôn lấy kết hôn làm mục tiêu - kiểu người của gia đình, sẽ là người mẹ tốt, vợ hiền. Khi yêu họ luôn luôn hy sinh vì nửa kia, lấy nửa kia làm trung tâm thế giới của mình.

suzy-miss-a-3474-1415955120.png

3. Tai mỏng, ít thịt

Người con gái tai không nhiều thịt, mềm, mỏng, trông bộ dáng có phần yếu đuố thường dễ bị đau yếu, thiếu tự tin, không có lập trường riêng, thiếu quyết đoán. Trong thế giới của họ, nửa kia chính là cả cả bầu trời và là trung tâm của mọi trung tâm.

4. Hàm trên nhô ra so với hàm dưới

Con gái có hàm trên nhô ra so với hàm dưới thường yếu đuối và tiêu cực, làm việc bị người khác hoặc những thứ xung quanh ảnh hưởng, đẽo cầy giữa đường. Thay vì tự lên kế hoạch, họ thích người khác sắp xếp rồi giao việc cho mình. Trong tình yêu họ có thể hy sinh hết mình vì nửa kia. Bởi vậy một khi rơi vào vòng xoáy của tình yêu, họ sẵn sàng thuận theo ý kiến của đối phương dù thật tâm họ không muốn như vậy.

Kunie (theo lnka)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nét mặt 'tố cáo' bạn có phải người mù quáng trong tình yêu

Xem tử vi tháng 2/2016 của người tuổi Tý

Tử vi tháng 2/2016 của người tuổi Tý có Mão Mộc âm khí hưng thịnh nuôi dưỡng Tý Thủy, tức Thủy Mộc điều hòa. Đây có thể coi là tháng có thời vận hiếm có dành
Xem tử vi tháng 2/2016 của người tuổi Tý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Tháng hai âm lịch, tháng 2/2016 của tiết Xuân đang tới, Mão Mộc âm khí hưng thịnh nuôi dưỡng Tý Thủy, tức Thủy Mộc điều hòa. Đây có thể coi là tháng có thời vận hiếm có dành cho người tuổi Tý. Tuy nhiên, vì vận khí xấu từ hai năm phạm Thái Tuế vẫn còn vướng vía nên hãy cứ bình tĩnh thì hơn.



Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Ty hinh anh goc
 
Theo tử vi tháng 2/2016 của người tuổi Tý, tháng của tiết Xuân đang tới, Mão Mộc âm khí hưng thịnh nuôi dưỡng Tý Thủy, tức Thủy Mộc điều hòa. Đây có thể coi là tháng có thời vận hiếm có dành cho người tuổi Tý. Tuy nhiên, vì vận khí xấu từ hai năm phạm Thái Tuế vẫn còn vướng vía nên hãy cứ bình tĩnh thì hơn.

Lời khuyên: Nếu có điều kiện, bạn nên dùng đồ phong thủy may mắn cát tường để hưng thịnh vận trình, phối hợp với vị Bồ Tát, Chư Phật tọa mệnh để cầu bình an, gia trạch, sự nghiệp thuận lợi. Tháng này cũng thích hợp để bạn tiến hành các hoạt động thể chất nhằm bảo vệ sức khỏe, nâng cao sức đề kháng cho cơ thể.


BIỂU ĐỒ TỬ VI THÁNG 2

Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Ty hinh anh goc 2
 

CÔNG VIỆC


Trong công việc, lúc đầu gặp nhiều khó khăn, hầu như không đạt được thành tích nào, xuất hiện dấu hiệu khiến chức vụ lung lay. Vì bản mệnh Tý tương hình với Nguyệt Lệnh lại thêm đặc trưng tháng có âm khí quá mạnh nên mọi việc khó đoán trước. Trở ngại có mà thời cơ chuyển vận cũng có, mọi chuyện trông chờ vào chính bạn. Công việc gặp nhiều chọn lựa vô hình, bạn cần quyết đoán, đưa ra quyết định nhanh chóng, tránh do dự, nếu không sẽ nhận lấy sự thất bại nặng nề.

Khi giao tiếp với lãnh đạo nên lưu ý lễ nghĩa, lời ăn tiếng nói vì tháng này dễ xảy ra vận trình Phi Liêm bại vận nhất. Giữa tháng, bạn gặp trục trặc trong mối quan hệ xã giao với đồng nghiệp lớn tuổi hoặc lãnh đạo trong công ty, đoàn thể. Dù người tuổi Tý có mong muốn hòa giải nhưng vì lợi ích cá nhân mà không thể nói nên lời.

TÀI LỘC


Có sự xuất hiện của Thiên Tài Tinh, vận trình tài lộc của người tuổi Tý có thể coi là ổn định nhất tháng. Nhưng cần phải xem xét kế hoạch tiêu tiền thật cẩn thận, tránh vì cả nể mà vung tay quá trán, tiêu xài hoang phí, không tính toán.

Tháng này, bạn nên dành nhiều thời gian suy tính kế hoạch công việc cho cả năm hơn là mạnh tay đầu tư “xương máu” vào những hạng mục chưa chắc chắn. Tháng Tân Mão nên tĩnh không nên động, mưu sự kỹ càng không được quá gấp gáp.
 
Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Ty hinh anh goc 3
 

TÌNH CẢM


Theo luận giải tử vi trọn đời của người tuổi Tý, bạn cần điều chỉnh tốt chuyện tình cảm, đặc biệt với những người đã kết hôn, không nên đứng núi này trông núi nọ dễ làm gia đình tan vỡ. Do ảnh hưởng công việc bất ổn từ đầu tháng, nên tinh thần bạn có phần đi xuống. Lo nghĩ quá nhiều khiến người độc thân khó tập trung phát triển công việc, thậm chí còn khiến cho mọi người xung quanh lo lắng. Người đã kết hôn thì còn trút cơn bực dọc cho nửa kia, khiến không khí gia đình bất hòa, căng thẳng. Nguyên nhân chủ yếu do hai người vẫn chưa dành trọn vẹn tình cảm cho tổ ấm gia đình.

SỨC KHỎE


Sức khỏe hoàn toàn tốt, cần chú ý mặc ấm đề phòng gió máy, cảm cúm bất ngờ. Giữa tháng có dấu hiệu xuất hiện sự cố liên quan tới ngũ hành Thủy, người tuổi Tý nên hạn chế tới những nơi có nước như hồ ao, sông suối, biển... Khi ra đường cần chú ý nhìn trước ngó sau, tránh bị va chạm chỗ nọ chỗ kia, đặc biệt trẻ con. Ngoài ra, vì thiếu nguyên khí nên bạn cần tránh tiêu hao quá nhiều sức lực vào những thú vui như du lịch, leo trèo, trò cảm giác mạnh.

Nhìn chung, tháng 2 âm lịch này vận trình người tuổi Tý lên xuống khá thất thường, thời cơ chưa tới và có dấu hiệu chức vụ lung lay. Mặc dù trong bạn luôn sục sôi sức mạnh vượt khó nhưng luôn có cảm giác lực bất tòng tâm, công việc thực hiện vội vàng, tình cảm nửa vời. Nửa cuối tháng, bản mệnh sớm thay đổi và chủ động điều chỉnh thì vận trình sẽ được cải thiện.

Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Ty hinh anh
 

Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi tháng 2/2016 của người tuổi Tý

Luận giải vận số của người tuổi Tý theo giờ sinh

Luận giải vận số của người tuổi Tý theo giờ sinh: Sinh giờ Tý thì sự nghiệp thuận buồm xuôi gió; nếu kết hôn muộn chuyện con cái không được thuận lợi như ý.
Luận giải vận số của người tuổi Tý theo giờ sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chuột là con vật đứng đầu trong 12 con giáp, nổi bật với tính cách thông minh, nhanh nhẹn và thân thiện, tuy nhiên vận số của người tuổi Tý theo giờ sinh sẽ khác nhau. Hãy cùng Lịch ngày Tốt tìm hiểu nhé!


Sinh giờ Tý (23h-1h)

Người tuổi Tý sinh giờ Tý có sự nghiệp thuận buồm xuôi gió; nếu kết hôn muộn chuyện con cái không được thuận lợi như ý.
 

tinh cach tuoi dan cung nhan ma (2)
 

Sinh giờ Sửu (1-3h)


Thường là người tài cao, có số đi xa, đào hoa, ít bạn. Số hợp với nữ giới, không hợp nam giới. Trong cuộc sống hay gặp phải những điều không may mắn như bị kiện tụng, tranh chấp…

Sinh giờ Dậu (3-5h)


Sự nghiệp thành công, nhà cao cửa rộng, gặp hung thường được hóa giải. Số hợp với nam, không hợp nữ. Nếu là con trai thì phá của, hay mắc phải chuyện thị phi.

Sinh giờ Mão (5-7h)


Là người táo bạo, dũng cảm, gan dạ. Tuy sự nghiệp không phát triển cao nhưng vẫn được người khác nể trọng, khâm phục.

Sinh giờ Thìn (7-9h)


Theo luận giải tử vi trọn đời 12 con giáp, người tuổi Tý sinh giờ Thìn là người thiếu kiên định, sống xa quê hương. Tuy nhiên, cuộc sống khá thuận lợi, được hưởng phúc trọn vẹn.

Sinh giờ Tỵ (9-11h)


Họ ít may mắn trong cuộc sống, là người nghĩ một đằng làm một nẻo, số phải đi nhiều. Nên đề phòng thất bại trong cuộc sống và đường công danh.

Sinh giờ Ngọ (11-13h)


Số nhàn nhã, gia đình phong lưu, tài vận tốt. Tuy nhiên, hay gặp vạ miệng và tiếng oan.

Sinh giờ Mùi (13-15h)


Là người thông minh, nhanh nhẹn, hoạt bát. Cuộc sống gia đình bình thường, sự nghiệp lúc thành, lúc bại.

Sinh giờ Thân (15-17h)


Số thuận buồm xuôi gió, tuy có lúc bị tổn hại tài sản nhưng vẫn giữ được thanh danh đến cuối đời.

Sinh giờ Dậu (17-19h)


Số được hưởng phúc, con cái đông vui, cuộc sống ấm êm. Tuy nhiên, cần đề phòng tai nạn sông nước.

Sinh giờ Tuất (19-21h)


Là người ít gặp may mắn trong cuộc sống; nên nhẫn nhịn trong giao tiếp và biết chờ thời cơ tiến lên.

Sinh giờ Hợi (21-23h)


Là người có quyền chức nhưng lại gặp nhiều bất lợi trong quan hệ với mọi người. Nên giữ gìn thân thể, đề phòng tai nạn và ngộ độc.

Các bài viết sau cùng chủ đề, có thể bạn quan tâm:

Luận giải vận số của người tuổi Tý theo ngày sinh Luận giải vận số của người tuổi Tý theo tháng sinh Xem giờ sinh phú quý cho người tuổi Tý Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Tý (P1) Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Tý (P2)

(Theo Nhân duyên & tướng cách đàn bà)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải vận số của người tuổi Tý theo giờ sinh

Những điều kiêng kỵ về đặt cửa ở lối đi –

Có một số phòng khách ở giữa lại có một lối đi, nhìn từ góc độ phong thủy, nếu xuất hiện hai trường hợp sau thì cần thiết đặt cửa ở lối đi. Tận cùng lối đi là nhà vệ sinh Có một số ngôi nhà, phía tận cùng lối đi là nhà vệ sinh, không những gây phản c

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có một số phòng khách ở giữa lại có một lối đi, nhìn từ góc độ phong thủy, nếu xuất hiện hai trường hợp sau thì cần thiết đặt cửa ở lối đi.

250

Tận cùng lối đi là nhà vệ sinh

Có một số ngôi nhà, phía tận cùng lối đi là nhà vệ sinh, không những gây phản cảm mà về phong thủy bị coi là không tốt. Sau khi đặt cửa lối đi, ngồi trong phòng khách không gặp phải tình huống ngại ngùng là nhìn thấy người qua lại nhà vệ sinh, hơn nữa lại tránh được uế khí từ nhà vệ sinh bay vào phòng khách.

Cửa trực xông phòng ngủ

Có một số ngôi nhà thiết kô không hợp lý, có thể xuất hiện tình trạng cửa ra vào chính và cửa phòng ngủ nằm trên một đường thẳng, hơn nữa có một số nhà cửa ra vào, cửa phòng và cửa trong phòng cùng nằm trên một đường thẳng, trường hợp như vậy có thể sử dụng phương pháp đặt cửa để cho vương khí và tài khí không bị mất đi.

Đặt cửa lối đi còn có một số điểm lợi sau:

  1. Bảo vệ sự riêng tư: Sự phóng khóang và bí mật của phòng khách và phòng ngủ rõ ràng là riêng biệt, có cửa ngăn cách sẽ làm cho khách đến chơi không thể can thiệp vào lĩnh vực đời sống riêng tư trong phòng ngủ.
  2. Bảo vệ sự yên tĩnh: Sau khi đặt cửa lối đi, những âm thanh nói chuyện và sự náo nhiệt trong phòng khách không bị truyền vào trong phòng ngủ làm phiền đến người đang nghi ngơi.
  3. Tiết kiệm nguồn năng lượng: Đặt cửa lối đi, khi người nhà hoạt động trong phòng khách chỉ cần đóng cửa lại, khí lạnh sẽ không thể vào phòng ngủ, như vậy là có thể tiết kiệm sự tiêu hao nguồn năng lượng không cần thiết.
  4. Làm đẹp ngôi nhà: Nhiều nhà có phòng khách sắp xếp rất gọn gàng, đẹp mắt, nhưng lối đi và phòng ngủ lại bừa bộn, lộn xộn. Nếu lối đi có cửa chắn lại thì “cái xấu sẽ được cho đi”.
  5. Tiết kiệm không gian: Ở đô thị hiện đại ngày nay thì “tấc đất là tấc vàng’’, cuối lối đi đặt một tủ đựng đồ linh tinh sẽ tiết kiệm được không ít không gian, hơn nữa cửa lối đi vừa hay có thể dùng tủ đồ đó để che đi khuyết điểm.

Đặt cửa ở lối đi nên “hạ thực thượng hư”, lý tưởng nhất là nửa phía dưới là gỗ, nửa phía trên là kính, bởi vì như vậy là vừa có cái gốc kiên cố mà lại không nhìn xuyên qua được. Nếu dùng cửa toàn gỗ, kín quá không thông gió, làm giảm cảm giác thông suốt của phòng khách. Nhưng nếu dùng cửa toàn kính thì làm cho phòng khách quá thông suốt mà lại mất đi tính kín đáo, vì thế không lý tưởng, đặc biệt là nhà có trẻ nhỏ, kính là chất liệu rất đễ vỡ không nên dùng. Ngoài ra, khung cửa lối đi không được chon hình bầu dục, bời hình bầu dục giống như hình ngôi mộ, như vậy là không tốt lành cho ngôi nhà.

Nếu gặp phải hai trường hợp sau thì lối đi không nên đặt cửa:

1. Phòng quá nhỏ không nên đặt cửa

Phòng khách có diện tích nhỏ thì khó đặt cửa ở lối đi, bởi vì thêm vào lối đi phòng khách nhìn vào thấy sâu hơn một chút, nếu lắp cửa thì sẽ gây cảm giác chật hẹp.

2. Phòng ít cửa sổ không nên đặt cửa

Lối đi mà đặt cửa sẽ làm cho không khí trong phòng khách trờ nên ngưng trệ, bởi vì phòng khách ít cửa sổ, không khí bên ngoài rất khó lọt vào phòng, nếu lại lắp thêm cửa thì không khí trong phòng khách không được trao đổi với các phòng khác, như vậy đương nhiên là không khoa học.

Ngoài ra, những năm gần đây phong cách Châu âu đang thịnh hành, cùng có một số nhà sử dụng cột trụ kiểu phương Tây để trang trí trong nhà ở, hai bên cửa vào lắp hai cột, như vậy cũng không có gì là sai, nhưng nếu xuất hiện hai trường hợp sau thì cần phải thận trọng.

1. Phòng nhỏ cửa hẹp không được lắp cột trụ

Nếu diện tích phòng khách nhỏ, lối đi lại chật hẹp, bỗng nhiên cửa lối đi xuất hiện hai cột trụ sẽ làm cho phòng khách càng trở nên nhỏ hẹp hơn, cửa lối đi sẽ trở nên chật chội.

2. Cột trụ hình nến tuyệt đối không được sừ dụng

Có một số người thích sừ dụng cột trụ tròn hình nến, nếu là màu khác thì được, còn nếu là màu trắng thì là đại kỵ. Bời vì như vậy giống như hai cây nến trắng cắm ờ hai bên lối vào phòng ngủ. Trong phong tục truyền thống Trung Quốc, nên trắng chỉ dùng trong tang lễ, vì thế nếu phòng khách sử dụng cột trụ hình nến trắng, khằng định là hung chứ không cát, cần cố gắng tháo dỡ đi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều kiêng kỵ về đặt cửa ở lối đi –

Tướng người có phúc –

Mắt phượng mảnh, nhỏ, đẹp, kéo dài thành một đường, mềm mại, đường sáng dài, sáng sủa. Người có mắt này thông minh, trí tuệ, có thể tay trắng làm nên sự nghiệp. Theo cuốn “Ngũ quan học – nhận biết tính cách con người” (NXB Thời Đại) của tác giả Thiệ
Tướng người có phúc –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người có phúc –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd