"Ma" là một khái niệm trừu tượng, tên gọi phân biệt theo vùng miền. Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, có những loại ma nào?
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật
Ma là một khái niệm trừu tượng, là phần phi vật chất của một người đã chết (hay hiếm hơn là một động vật đã chết). Theo quan niệm của một số tôn giáo và nền văn hóa, con người gồm 2 phần là thể xác và linh hồn. Khi thể xác chết, linh hồn thoát khỏi thể xác. Nếu linh hồn đó không có cơ hội đầu thai hoặc nơi trú ngụ chung với các linh hồn khác mà tương tác với cõi thực có con người sẽ gọi là “ma”, “hồn ma” hoặc “quỷ”.
Ảnh minh họa
Những loại ma phổ biến:
Ma trơi
Ma trơi hay ma chơi, là những đám lửa sáng lập lòe được nhìn thấy vào ban đêm ở những bãi tha ma. Đây là một hiện tượng tự nhiên duy nhất mà đến nay các nhà khoa học có thể giải thích được bằng tri thức khoa học, không hề thần bí như nhiều người mê tín (tưởng là ma) đã kể.Ma trơi là hiện tượng các hợp chất phosphor được hình thành từ hoạt động của vi khuẩn sống dưới lòng đất phần mộ (gồm hai chất đó là Phốtphin (PH3) và diphotphin) trong xương người và sinh vật dưới mồ bốc lên thoát ra ngoài, gặp không khí trong một số điều kiện nhất định sẽ bốc cháy thành lửa. Các đốm lửa nhỏ với độ sáng khá nhỏ (xanh nhạt), lập lòe, khi ẩn khi hiện. Ban đêm mới thấy được ánh sáng còn ban ngày thì các đốm lửa này có thể bị ánh sáng mặt trời che khuất.Hiện tượng ma trơi đuổi theo: khi gặp ma trơi, con người sẽ sợ, hoảng loạn và chạy. Khi đó sẽ sinh ra một luồng khí chuyển động làm ngọn lửa bay theo chiều gió theo hướng người chạy.
Ma gà
Ma gà có tên gọi khác là ma chài hoặc ma ngũ hải, có nguồn gốc từ một số dân tộc miền núi Lạng Sơn như Tày, Nùng…Đây cũng là một trong những điều bí ẩn lớn nhất tại các bản làng vùng cao. Những người tin vào sự tồn tại của ma gà cho rằng, nó được sử dụng như một loại bùa ngải có tác dụng đem lại may mắn cho gia chủ hoặc trù ếm kẻ thù từ xa. Kẻ bị nguyền có thể gặp phải trăm vàn xui xẻo tai họa như bệnh tật, tai nạn, bị thù ghét…Cho đến bây giờ, chưa từng có ai biết hình dạng thật sự của con “ma gà”, tất cả chỉ dựa vào những câu truyện truyền miệng từ đời này qua đời khác, để rồi nó trở thành một hủ tục kinh dị ăn sâu vào tiềm thức những người dân vùng cao. Tất cả những người tin vào “ma gà” đều cho rằng không phải ai cũng “nuôi” được ma gà, chỉ có những người sinh ra trong gia tộc, dòng họ có truyền thống nuôi “ma” truyền lại mới có thể nuôi được. Ma gà được nuôi trong một cái hũ sành, để ở xó xỉnh tăm tối nhất, kín đáo nhất của ngôi nhà, cái hũ này sẽ được đậy kín trong mọi trường hợp. Mỗi tháng, vào một ngày nhất định, người nuôi “ma gà” phải tắm rửa sạch sẽ, khấn vái làm lễ cho “ma” ăn, thức ăn thường là một con gà sống. Nếu cứ đến ngày đó, “ma” không được ăn gì thì cũng phải “nhập” được vào một ai hoặc một con vật bất kỳ, nếu không gia chủ phải thế mạng. Ai đã bị con ma gà nhập vào, phải mời thầy cúng làm lễ trừ tà.
Ma xó
Ma xó có nguồn gốc từ phong tục của các dân tộc thiểu số ở vùng thượng du Tây Bắc, tại xứ Mán, Mèo. Khi nhà có người chết thì các thầy mo sẽ bó xác chết cho cứng lại rồi bỏ vào một cái quan tài dựng đứng đặt ở góc tối của ngôi nhà (loại quan tài này được tạo thành từ một thân cây rỗng ruột). Các thầy mo sẽ cúng cơm cho ma ăn mỗi ngày và ngày nào cũng gọi tên của nó cho đến khi con ma xó trả lời lại thầy mo bằng một hình thức tương tác tâm linh đầy bí ẩn. Sau một khoảng thời gian tương đối dài, thầy mo sẽ dạy cho con ma xó cách thức giữ nhà, khi thành công thì có mở cửa nhà cũng không ai dám vào nhà mà phá phách, trộm cắp.Theo truyền thuyết, ma xó có uy lực rất lớn, nó có khả năng bẻ gãy cổ một người trưởng thành trong tích tắc. Khi ai đó tự ý bước vào nhà và chạm vào bất kỳ đồ vật nào của người bản xứ lúc vắng chủ, ma xó sẽ làm kẻ không mời đó trào máu ra thất khiếu mà chết đứng!
Ma lai
Ma lai (còn gọi là ma lai ba khoang) là một loại ma trong truyền thuyết, chuyên đi ăn phân, nội tạng của người hay súc vật. Tương truyền Ma lai 3 khoang cũng là những cô gái đẹp ở vùng Tây Bắc, khu vực giáp ranh xứ Lào, đây là những thiếu nữ cực kì diễm lệ với cổ cao ba ngấn đỏ hồng….nhưng khi gần gũi lúc nào cũng có cảm giác phảng phất mùi tanh tưởi đâu đó!Dân gian đồn rằng vào những đêm trăng khuyết, khi mọi người đều an giấc… chiếc đầu của cô gái này sẽ tách khỏi thân mình cùng với ba đốt sống ở cổ, mang theo cả bộ lục phủ ngũ tạng, đặc biệt là cà bộ ruột lòng thòng mà không một nhiểu máu!….Ma lai sẽ bay đi trong màn sương qua các bụi rậm để tìm phân hay hay đàm rải của con nguời thải ra mà ăn!…Nếu tìm không có thì nó sẽ tạm dùng cứt trâu còn lầy hay những xác cóc nhái chết sình trương… ma lai phải về nhập lại thân mình trước khi giờ Dần đến (trước 4 giờ sáng) vì khi có sáng mặt trời xuất hiện chiếu vào bộ ruột của nó thì con ma lai sẽ bị chết ngay lập tức!Cũng có người cho rằng khi lật úp cái xác của ma lại trong lúc nó đã tách khỏi xác thì con ma lai không thể nhập vào xác được mà phải năn nỉ kẻ đã úp xác nó lại…Nếu kẻ ấy muốn nó chết thì cứ để đến lúc mặt trời lên! Tự khắc từ cổ thân hình đang nằm sấp kia sẻ trào hết máu ra…lúc ấy là hết đời thiếu nữ Ma lai.!
Ma da
Có thể phân loài ma này thuộc quái vật nước do môi trường sinh sống là ẩn mình dưới nước. Do Việt Nam là một đất nước có hệ thống sông ngòi chằng chịt nên việc con người bị chết đuối xảy ra thường xuyên nên dân gian kể nhau nghe câu chuyện ma da để hù dọa, răn đe lũ con nít chăng?
Thờ ma xó (Ảnh minh họa)
Loài ma da này thường được miêu tả như sau: Khi bạn bơi dưới nước nơi hoang vắng hay bơi qua một khúc sông chỉ có một mình thì ma da sẽ xuất hiện từ bên dưới, nó kéo cẳng chân bạn lôi sâu xuống dưới nước, kết quả là bạn chết ngộp. Có nơi miêu tả nó có hình dạng như một đứa trẻ con, có nơi nó như một tấm vải đen to lớn, có nơi thì ví nó có màu xanh, trơn nhớt như rong rêu bám dưới đáy sông. Nhưng dù gì đi nữa thì với tình trạng chết do đuối nước thường diễn ra thì câu chuyện về ma da sẽ vẫn được nhắc đến.
Bóng đè
Bóng đè hay còn gọi là ma bóng đè không gây nguy hiểm đến con người. Theo mô tả của một số người từng bị bóng đè thì ma bóng đè có hình dáng như con người, đen như màn đêm. Khi bạn đang chìm vào trong giấc ngủ sâu thì bạn sẽ bị rơi vào trạng thái mơ màng, có thể bạn sẽ có cảm giác như thấy mình bị rơi từ trên cao xuống vực, hoặc thấy bị ai đó bóp cổ, bị chó đuổi, rắn tấn công…muốn chạy mà không nhúc nhích nổi. Có người cảm thấy như nghe có sức mạnh đè lên người mà không thể nào đẩy ra được, khó thở, có khi bị ảo giác nhìn thấy những hình ảnh khủng khiếp, hoặc nghe được âm thanh bí ẩn. Có người còn thấy hình như có ai đó đứng, ngồi bên cạnh hay cảm giác như bị đẩy ngã ra khỏi giường,… Đó là hiện tượng “bóng đè” mà mỗi người ít nhất 1 lần trong đời phải trải qua.Về mặt khoa học, có rất nhiều nguyên nhân khiến bóng đè xảy ra. Nguyên nhân chủ yếu là do căng thẳng tâm lý, lo lắng hay stress do sức áp từ công việc, do đảo lộn chu trình của giấc ngủ, những yếu tố tâm lý này kích thích lên vỏ não, gây ra hiện tượng bóng đè. Do tư thế nằm ngủ, người để tay lên ngực khi ngủ sẽ gây khó khăn cho việc thở và dễ bị bóng đè. Cà phê và rượu cũng là tác nhân gây nên bóng đè. Cũng có khi bóng đè là dấu hiệu của một số bệnh tim mạch, nhưng những trường hợp này chiếm rất ít.Ngoài những loại ma kể trên, còn có:Ma men là vong hồn của những người say khi chết đi thành ma vẫn thường hay lôi kéo người khác say sưa tới chết.Ma thần vòng là hồn ma của những người thắt cổ chết sau đó xui khiến người khác cũng thắt cổ tự tử chết như họ.Ma trành hay còn gọi là ma cọp dữ, thường tìm dẫn cọp bắt ăn người khác để nó được đầu thai…và nhiều loại ma khác như ma le, ma hời, ma lon… ST.
11 tình huống chứng tỏ bạn có thể nhìn thấy Ma9 điềm báo gặp ma và cách hóa giải trong tháng 7 ma khóc quỷ hờnBỏ tiền lẻ bên người chết đường chết chợ để làm gì? Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Bích Ngọc (##)
Những nốt ruồi vượng phu, cả đời không sợ thiếu tiền tiêu
Nếu bạn có nốt ruồi ở lông mày bên trái, ở tai, hay dưới cằm thì xin chúc mừng bạn, cuộc sống gia đình tương lai của bạn sẽ cực kỳ viên mãn, hạnh phúc.
Có những người chỉ nhìn là biết có mệnh giàu sang, phú quý. Sự giàu sang phú quý toát lên từ gương mặt, vóc dáng, phong thái. Dưới đây là những dấu hiệu nhận biết những người có mệnh giàu sang. Tướng này có người sinh ra đã có, có người do tu tâm dưỡ
Lục Thập Hoa Giáp là một trong những yếu tố tử vi quan trọng, dựa vào đó đoán định những đặc điểm cơ bản của đời người.
Xem tử vi dựa vào Lục Thập Hoa Giáp chi tiết và cụ thể hơn xem chỉ dựa vào tuổi, vì nó còn luận cả Thiên can, nạp âm bên cạnh Địa chi.11. Sinh năm Giáp Tuất (Chó khí tiết), năm Giáp Mộc, ngũ hành Thổ, nạp âm Sơn Thượng Hỏa: mồm miệng nhanh nhẹn, tấm lòng thanh thản nhưng không an nhàn, có quyền bính, túc trí đa mưu, thanh danh xán lạn, nhiều phúc lộc, người nữ vượng phu, có số giàu sang.12. Sinh năm Ất Hợi (Lợn đi lại), năm Ất Mộc, ngũ hành Thủy, nạp âm Sơn Thượng Hỏa: thái độ làm người hòa thuận, còn nhỏ nhiều tai ương, cha mẹ có hình nhưng vì lễ bái nên không hại, vợ chồng hòa hợp, công bằng chính trực, chưa tới trung niên đã phát tài, con cái có khắc, chậm rãi thì tốt.Những con giáp thích hợp ăn chay để tăng vận khí 13. Sinh năm Bính Tý (Chuột ngoài đồng), năm Bính Hỏa, ngũ hành Thủy, nạp âm Giản Hạ Thủy: là người có gan lớn, mưu lược, tuổi trẻ bình thường nhưng trung niên có thành tựu, về già tốt, người nữ nhiều lời nên họa từ miệng, biết an phận thì hạnh phúc.14. Sinh năm Đinh Sửu (Trâu trong hồ), năm Đinh Hỏa, ngũ hành Thổ, nạp âm Giản Hạ Thủy: thái độ làm người hòa thuận, vẻ ngoài phong nhã, tuổi trẻ ít tài lộc, về sau có tốt hơn nhờ con cái, con đầu lòng là gái thì vô cùng tốt, vợ chồng hòa thuận, người nữ vượng phu, biết quản lý gia đình.15. Sinh năm Mậu Dần (Hổ vượt núi), năm Mậu Thổ, ngũ hành Hỏa, nạp âm Thành Đầu Thổ: thái độ làm người mãnh liệt, mau nóng mau lạnh, phản bội vô tình, tuổi trẻ cần kiệm, xa quê mới phát đạt, thông minh lanh lợi, lấy lễ đối đãi với người khác, tuổi già nhiều cơ hội, hạnh phúc.Những chàng trai nói yêu là trọn đời trọn kiếp 16. Sinh năm Kỷ Mão (Mèo rừng núi), năm Kỷ Thổ, ngũ hành mộc, nạp âm Thành Đầu Thổ: thái độ làm người phong lưu, cả đời ăn sung mặc sướng, tự tại an nhiên, chơi đùa du ngoạn, người thân không giúp đỡ nhiều, anh em ít hòa thuận, vợ lớn tuổi nhưng hợp tính, người nữ thân tộc hiển đạt, có số trường thọ.17. Sinh năm Canh Thìn (Rồng đa nghi), năm Canh Kim, ngũ hành Thổ, nạp âm Bạch Lạp Kim: thái độ làm người vui vẻ hòa nhã, cả đời lao lực phong ba, có đường danh lợi song toàn, cơm áo đủ dùng, trung niên thuận, tuổi già phát đạy, người nữ cần kiệm.18. Sinh năm tân Tỵ (Rắn ngủ đông), năm Tân Kim, ngũ hành Hỏa, nạp âm Bạch Lạp Kim: người cơ mưu, linh hoạt, ứng biến giỏi, chí khí hơn người, cơm áo đủ dùng, có quý nhân trợ giúp, trung niên hòa thuận, về già phát tài, sống thọ.19. Sinh năm Nhâm Ngọ (Ngựa trong quân), năm Nhâm Thủy, ngũ hành Hỏa, nạp âm Dương Liễu Mộc: người cần kiệm, cha mẹ có họa, tai ách không thể tránh, tuổi trẻ có tiền nhưng không giữ được, về già mới phát đạt, tích lũy được nhiều, người nữ hưng gia, trưởng thành.4 yếu tố tử vi nên xem trước khi quyết định kết hôn 20. Sinh năm Quý Mùi (Dê trong đàn), năm Quý Thủy, ngũ hành Thổ, nạp âm Dương Liễu Mộc: thái độ làm người nóng vội, lanh lợi, cứu người thì không được báo ơn, thị phi nhiều, phải nhờ vả người khác, có tiền nhưng không tích trữ được, coi trọng vật chất, người nữ hiền đức, quản tốt việc gia đình, về già bình an.
=> Tra cứu: Lịch âm 2016, Lịch vạn niên 2016 chuẩn xác tại Lichngaytot.com
Trần Hồng Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thùy Dung (##)
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi.
Lâu lắm chúng tôi không có cơ hội về giảng cũng như nhắc nhở sự tu hành cho toàn thể chư Tăng Ni ở khu Đại Tòng Lâm. Hôm nay được ban tổ chức trường hạ Đại Tòng Lâm mời về thăm và nói chuyện với tất cả Tăng Ni và Phật tử nơi đây, tôi liền hoan hỉ chấp nhận.
Vì trước kia Hòa thượng Giám đốc và Phó giám đốc ở Ấn Quang, khi thành lập được khu Đại Tòng Lâm thì chúng tôi có mặt bên cạnh, vâng lời dạy của các ngài phụ giúp phần nào đối với cơ sở này. Giờ đây hai Hòa thượng đã theo Phật, chúng tôi những người còn sót lại tự nhiên cảm thấy bổn phận phải làm sao duy trì gìn giữ ngôi Đại Tòng Lâm này đúng như sở nguyện của hai Hòa thượng.
Tất cả những vị ở Đại Tòng Lâm, hoặc là trường Trung cấp, hoặc là trường Cao cấp, hoặc các Thiền viện do chúng tôi thành lập trong khu vực này đều là Tăng Ni chung của Đại Tòng Lâm, mà cũng là của Phật giáo Việt Nam, chúng ta không thể tách riêng biệt được. Vì vậy khi cần, chúng tôi sẵn sàng đến để nhắc nhở Tăng Ni, Phật tử hiểu biết tu hành cho đúng với chánh pháp.
Mùa an cư này chư Tăng chư Ni về đây an cư là cơ hội tốt để Đại Tòng Lâm càng ngày càng phồn thịnh hơn, sự tu hành càng tinh tiến hơn, đó là điều hết sức quí báu. Vì vậy tôi nghĩ không thể nào chỉ nói suông, tán thán một cách tổng quát như vậy mà cần phải đi sâu vào vấn đề đạo lý, để cho Tăng Ni và tất cả quí vị nghe hiểu có kinh nghiệm thêm trên đường tu hành. Đó mới là điều quí giá. Vấn đề tôi nói hôm nay là hai vấn đề tối hệ trọng của những người tu Phật, đó là trí tuệ và từ bi.
Như chúng ta đã biết đạo Phật là đạo giác ngộ. Đức Phật ngồi thiền định dưới cội bồ-đề mà được giác ngộ. Ngài đi giáo hóa khắp nơi để truyền đạo giác ngộ này. Nhưng sao chúng ta không gọi là đạo giác ngộ mà gọi là đạo Phật. Phật nguyên tiếng Phạn là Buddha, Bud là giác, dha là người. Người giác ngộ đi truyền bá đạo giác ngộ. Nhưng nếu giải nghĩa chữ Phật là giác ngộ thì sợ người ta hiểu lầm. Bởi có những người làm ăn bất chánh không lương thiện, khi có ai nhắc nhở dạy bảo, họ bỏ điều bất chánh trở thành người lương thiện thì người ta sẽ nói anh ấy đã giác ngộ rồi. Giác ngộ đó chỉ có nghĩa là bỏ cái xấu, cái dở để trở thành người tốt thôi. Nếu hiểu đạo Phật theo nghĩa giác ngộ như vậy thì đánh giá quá thấp đạo Phật, làm mất giá trị siêu thoát của đạo Phật. Bởi vậy trong nhà Phật để nguyên từ Phật.
Nói Phật chắc quí vị sẽ có nghi. Tại sao bây giờ chúng ta nói đức Phật mà hồi xưa ông bà tổ tiên chúng ta lại nói là Bụt. Như vậy nói Bụt trúng hay nói Phật trúng? Từ Bụt cho chúng ta thấy đạo Phật được trực tiếp truyền vào Việt Nam từ những vị Sư Ấn Độ. Ngày xưa ở miền Bắc vùng Luy Lâu rất phồn thịnh, các sư người Ấn theo tàu buôn đến đó truyền bá. Các ngài trực tiếp dạy người dân biết đạo Phật, và đức Phật được gọi là Bụt. Bụt nguyên là Bud, đọc trại đi một tí thành Bụt. Đọc Bụt nghe gần hơn, còn đọc Phật nghe xa quá. Vậy đạo Phật có mặt trên đất nước Việt Nam gốc từ người Ấn truyền sang, chớ không phải từ Trung Hoa truyền sang buổi đầu.
Tại sao bây giờ chúng ta đọc là Phật? Ở Trung Hoa từ đời Tống đến đời Minh có in những Tạng kinh dịch từ chữ Phạn, chữ Pali ra chữ Hán rồi tặng cho Việt Nam. Đời Trần được tặng một Tạng kinh và sau này chúng ta cũng có thỉnh thêm những Tạng kinh từ Trung Hoa. Chữ Buddha người Trung Hoa dịch gồm một bên chữ nhân đứng, một bên chữ phất. Như vậy Phật là phát sanh từ chữ Hán mà ta đọc theo âm Việt Nam là Phật hay Phật-đà.
Nói đến đạo Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn tuyệt cùng, chớ không phải sự giác ngộ thông thường của thế gian, vì e người ta hiểu lầm nên để nguyên âm là Phật, chớ không nói là giác ngộ. Giờ đây chúng ta học Phật phải dùng những từ gần thời hiện tại như giác ngộ, trí tuệ để dễ thâm nhập hơn.
Vì vậy chúng ta phải hiểu tường tận gốc của đạo Phật là giác ngộ viên mãn. Nên người tu Phật lúc nào cũng phải thuộc lòng Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Nói đến Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn, tức giác ngộ tròn đầy không thiếu khuyết một góc cạnh nào.
Chúng ta học Phật, tu Phật là tu theo đạo giác ngộ. Mà đạo giác ngộ dĩ nhiên trí tuệ là căn bản không thể nào thiếu được. Người tu theo Phật dù xuất gia hay tại gia cũng phải mở sáng con mắt trí tuệ.
Chúng ta hãy xét lại xem từ ngày phát tâm tu theo Phật đến giờ đã mở sáng trí tuệ được nhiều hay ít? Có người khi nghe đến trí tuệ dường như sợ nên thường xưng Ngu tăng hay Phàm tăng như để nói lên sự khiêm nhường, họ ít nói đến sự giác ngộ.
Mà chưa giác ngộ thì chưa phải tu theo đạo Phật. Ở đây, tôi không nói đến giác ngộ mà chỉ nói trí tuệ. Bởi vì trí tuệ mở màn cho giác ngộ cứu kính.
Chúng ta nhớ lời Phật dạy, người tu phải tự giác và giác tha. Tự giác là mở sáng trí tuệ của mình.
Giác tha là đem trí tuệ đó đánh thức, cảnh tỉnh mọi người cùng giác ngộ. Tự giác là việc của mình. Giác tha là giúp cho người. Giúp cho người là lòng từ bi. Cho nên có giác ngộ rồi mới có từ bi. Chưa giác ngộ mà nói đến từ bi, chỉ là từ bi gượng thôi.
Nếu một vị Tăng đã thấy bổn phận mình phải truyền bá chánh pháp, phải thực hành hạnh từ bi mà không chịu tu, không thức tỉnh, không chịu giác ngộ thì chẳng biết vị ấy sẽ thực hành hạnh từ bi bằng cách nào? Chẳng lẽ chúng ta đi đắp đất, cuốc đường hay hốt rác cho thiên hạ. Từ bi như vậy người phàm tục cũng làm được mà. Vậy từ bi trong đạo Phật là thế nào? Tôi sẽ nói rõ hơn vấn đề này ở phần sau.
Bây giờ trở lại phần trí tuệ. Trí tuệ mà Phật dạy cho Tăng Ni là ba môn tuệ học: Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ.
Văn tuệ là như thế nào? Chúng ta đến với đạo, tự mình làm sao giác được. Nên phải nhờ những người đi trước như bậc thầy, các hàng Tôn túc đã tu, đã học, đã mở được đôi phần trí tuệ hướng dẫn, chỉ dạy cho chúng ta từ từ mở con mắt trí tuệ. Nhờ lắng nghe những lời chỉ dẫn, giảng dạy ấy mà chúng ta mở được con mắt trí tuệ của mình là Văn tuệ. Người tu cất thất ở riêng, không học hành gì hết chắc chắn sẽ không có Văn tuệ. Không có Văn tuệ mà tu thì chỉ là tu mù. Những người tu này khi chỉ dạy cho kẻ khác thì cũng chỉ dạy một cách mù quáng mà thôi. Trong kinh Phật nói: “Một người mù dẫn một đám mù, người mù đi trước sụp hầm, những kẻ mù theo sau cũng té xuống hầm luôn.” Người học Phật mà thiếu Văn tuệ không thể được.
Trong kinh A-hàm Phật dạy: Người cư sĩ đến chùa đầu tiên phải gặp Tăng Ni. Gặp Tăng Ni để thưa hỏi Phật pháp chớ không phải để cúng cầu an cầu siêu, như vậy là Văn tuệ. Sau khi nghe chư Tăng Ni dạy Phật pháp rồi phải suy gẫm lời thầy dạy có đúng với kinh Phật không, có đúng với lẽ thật chân lý không? Nếu đúng mới tin, còn dạy sai dạy lầm thì không tin. Cho nên Tư tuệ hết sức thiết yếu. Sau khi suy tư nghiệm thấy đúng kinh Phật, đúng chân lý rồi mới tu. Phật dạy cư sĩ còn như vậy huống là tu sĩ xuất gia mà lại thiếu Văn, Tư, Tu. Thế mà có nhiều tu sĩ cứ tự tu không cần học với ai cả thì thật sự hết sức sai lầm.
Tư tuệ là như thế nào? Phật dạy chúng ta nghe rồi phải suy gẫm, suy gẫm đó chính là tư duy, phải là chánh tư duy. Nếu nghe dạy chúng ta tin mà không hiểu, thì tin đó chưa phải là chánh. Cần phải suy gẫm cho đúng, hiểu cho đúng mới gọi là chánh.
Hồi xưa lúc còn làm Tăng sinh, tôi cũng học như quí vị. Những gì tôi không hiểu thì tôi hay nghi, nghi thì phải tra tìm. Những năm Sơ đẳng, tôi học lý nhân quả luân hồi kỹ lắm, nhưng khi học cổ sử Ấn Độ tôi thấy lý nghiệp báo luân hồi không phải mới có từ thời đức Phật, mà đã có từ thời Áo nghĩa thư của Ấn Độ, tức trước Phật cả mấy trăm năm. Biết được vậy tôi rất buồn, tôi nghĩ Phật đã giác ngộ rồi sao không lựa điều gì mới, mà lại lấy cái cũ của người ta đem ra dạy mình.
Có lần tôi đọc cuốn sách của một số học giả phê bình rằng: “Đạo Phật ăn cắp lý nghiệp báo của Áo nghĩa thư làm của mình.” Đọc đến đó tôi thấy xót quá, khó chịu quá. Đức Phật của mình sao lôi thôi vậy, của người ăn cắp đem làm của mình thì thật là buồn. Lâu nay chúng ta tin rằng đức Phật giác ngộ viên mãn thì những gì Phật dạy đều từ trí tuệ giác ngộ của Ngài lưu xuất. Thế sao lại ăn cắp của người ta đem làm của mình, tôi không bằng lòng như vậy.
Khi lên Trung đẳng, rồi Cao đẳng tôi đã tra hết các bộ kinh A-hàm trong Hán tạng. Đọc một lần chưa thấm, đọc hai lần rồi ba lần, tôi có nguồn an ủi. Trong một bài kinh đức Phật dạy: “Khi Ngài chứng được Thiên nhãn minh rồi, nhìn lại thấy chúng sanh bị nghiệp dẫn luân hồi sanh tử giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy kẻ đi đường này, người đi đường kia một cách rõ ràng không nghi.” Như vậy sở dĩ Phật nói luân hồi nhân quả hay nghiệp dẫn luân hồi là Ngài thấy rõ ràng, chớ không phải ăn cắp như người ta nói xấu.
Rồi lần lần tôi lại thấy ra, trong Áo nghĩa thư có nói về nghiệp báo luân hồi nhưng chưa phân tích rõ ràng. Nên khi đạo Bà-la-môn kế thừa tinh thần của Áo nghĩa thư, mới đặt ra bốn giai cấp. Trong đó Bà-la-môn được sanh ra từ đầu của Phạm Thiên nên được kính trọng nhất, còn các giai cấp khác được sanh từ ngực, từ bụng, từ bàn chân nên không được kính trọng bằng. Sự phân chia giai cấp này khiến người dân càng khổ, đó là điều thứ nhất.
Điều thứ hai, dù họ nói nghiệp báo luân hồi nhưng phải nhờ các vị Bà-la-môn cầu cúng thì mới hết nghiệp hết tội. Hoặc phải mở những hội tế đàn nào là trâu, dê cúng cho nhiều thì mới hết tội. Cả hai điều này đều bị Phật bác hết. Về mặt giai cấp, Phật bảo không có giai cấp khi mọi người máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn như nhau, nên mọi người đều bình đẳng.
Kinh kể hôm nọ Phật ở trong rừng với đệ tử, một số thầy Bà-la-môn đến hỏi Phật:
– Thưa ngài Cù-đàm, đệ tử Ngài chết Ngài cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Phật không trả lời mà chỉ hỏi lại:
– Đệ tử các ông chết các ông cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Các vị Bà-la-môn đáp:
– Được.
Lúc đó Phật nói thí dụ:
– Như nơi một giếng sâu, có người ôm cục đá bỏ xuống giếng rồi nhờ các ngài cầu cho nó nổi, đừng chìm được không?
Các vị Bà-la-môn đều lắc đầu, Phật hỏi tiếp:
– Có người cầm chai dầu đổ xuống giếng, rồi nhờ các ngài cầu cho dầu chìm xuống đáy giếng được không?
Các vị Bà-la-môn cũng lắc đầu, Phật nói:
– Cũng vậy, người làm nghiệp lành sẽ sanh cõi lành giống như dầu nhẹ nổi lên, dầu các vị có ác ý cầu cho xuống địa ngục họ cũng không xuống. Ngược lại người làm dữ phải đi xuống giống như đá, dầu các vị có thiện cảm chấp tay cầu nguyện cũng không nổi lên được.
Vậy đức Phật chấp nhận cầu nguyện hay chấp nhận nghiệp? Nghiệp lành, nghiệp dữ đưa mình lên hoặc lôi mình xuống, chớ không phải cầu nguyện mà được lên hoặc xuống. Đức Phật thấy rõ về nghiệp, cho nên Ngài biết manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi lành, manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi dữ.
Trong nhà Phật dạy chúng ta có Ngũ thừa là: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa. Nhân thừa là sanh trở lại làm người, Phật dạy tu giữ năm giới. Năm giới nếu giữ toàn vẹn bảo đảm người đó đời này làm người, đời sau chết trở lại làm người. Tu Thập thiện, sau khi mạng chung sẽ sanh lên cõi trời. Mỗi một nhân đưa tới một quả, Phật thấy tường tận rõ ràng như thế. Còn Áo nghĩa thư của Bà-la-môn giáo nói nghiệp báo không phân biệt rành rõ, chưa biết cái gì nhân cái gì quả nên chưa thấu đáo. Do đó nên biết Phật nói nghiệp, nói luân hồi là vì Ngài thấy tường tận, chớ không phải ăn cắp của người làm của mình. Khi thấy rõ như vậy, tôi không còn nghi, không còn mặc cảm nữa.
Đức Phật rất khoa học, từ thời Áo nghĩa thư đã có thuyết nghiệp, luân hồi. Sau Ngài tu thấy điều đó đúng nên cũng thừa nhận. Nhưng khác hơn là Ngài vạch rõ từng phần chi tiết, thế nào là nhân, thế nào là quả, Ngài phân tích rành cho chúng ta. Đó là tinh thần khoa học chớ không phải học lóm. Từ đó về sau tôi mới hài lòng, đức Phật không phải dở như người ta nói.
Nói về lý nghiệp báo luân hồi, sau khi suy tư kỹ càng, tôi thấy đó là một chân lý không chối cãi được. Ai có nói gì cũng không lay chuyển được tôi, vì đó là một sự thật. Tại sao tôi tin như vậy? Bởi kinh nghiệm từ những việc bên ngoài, cho tới bản thân mình tôi thấy rõ như vậy.
Luân hồi là gì? Luân là bánh xe, hồi là xoay tròn. Bánh xe xoay tròn lên xuống, lên xuống cứ đảo đi lộn lại hoài. Đối với ngoại vật, chúng ta đặt câu hỏi trái đất có xoay tròn không? Trái đất cứ xoay tròn, xoay tròn, vậy nên trái đất luân hồi. Đến con người, chúng ta thấy máu từ tim chạy ra các mạch, rồi từ các mạch trở về tim, cứ như vậy đảo đi lộn lại hoài, đó là luân hồi. Rõ ràng con người đang luân hồi, quả đất đang luân hồi, vậy chết có luân hồi không? Tôi nói hai phần:
1- Vật chất: Thân chúng ta gồm tứ đại tức bốn chất đất, nước, gió, lửa hợp thành. Những gì là đất? Tóc, lông, gân, móng, da, thịt, răng, xương… những thứ cứng là đất. Những gì là nước? Mồ hôi, máu mủ tức chất ướt là nước. Những gì là gió? Hơi thở vào ra, vào ra là gió. Những gì là lửa? Hơi ấm trong người là lửa, cầm hai tay chà một hồi ấm lên, đó là phát ra lửa.
Đất nước gió lửa sẵn trong con người chúng ta, khi chết bốn thứ đó đi đâu? Nhẹ nhất là hơi thở, lúc sống hít vô trả ra, khi trả ra mà không hít lại là chết. Vậy chúng ta trả ra chớ không phải hết, không phải mất. Thứ hai là hơi ấm trong người, chúng ta chết rồi nó cũng tan vào hư không, theo luồng hơi ấm trong nắng trong lửa, trở về với lửa. Đến đất, nước khi chết thân này nứt nẻ nước tuôn ra, rồi tới đất rã. Nước theo mạch chảy đi khắp nơi cũng không mất, đất cũng trả về đất không mất. Như vậy tứ đại mất đi chỉ mất cái giả tướng duyên hợp, chớ bản chất nó đâu có mất.
2- Tinh thần: Tứ đại không mất thì tinh thần có mất được không? Tinh thần đi theo nghiệp duyên của nó. Ví dụ nước từ thể lỏng đổ vào trong nồi nấu, nước sôi bốc hơi rồi cạn. Nước cạn người ta nói hết nước, nhưng thật ra nước bốc thành hơi bay lên, gặp lạnh đọng lại thành nước rơi trở xuống. Hoặc lấy một ly nước để trong tủ lạnh thì nó sẽ đặc thành thể cứng. Như vậy nước không mất mà có thể chuyển biến từ thể lỏng thành hơi hoặc thể rắn. Nước để ở nhiệt độ vừa chừng, không nóng quá, không lạnh quá thì nước còn hoài.
Cũng vậy người tu có duyên lành nhiều, nghiệp lành nhiều khi nhắm mắt sẽ đưa tới cõi lành, tức lên. Ngược lại nghiệp dữ nhiều sẽ đưa tới chỗ dữ, tức xuống. Nếu tư cách con người tốt, vị lai trở lại làm người, như nước giữ quân bình không lạnh nóng thì ở thể lỏng hoài. Phật dạy Nhân thừa là do giữ đúng năm giới nên đời này làm người đời sau cũng được làm người. Như nước y nguyên nhiệt độ đừng cao đừng thấp thì bao nhiêu nước còn nguyên bấy nhiêu. Đó là một lẽ thật không nghi ngờ gì.
Chúng ta khi ra đời còn trẻ, đáng lẽ ham danh lợi tài sắc ở thế gian, nhưng tại sao lại ham tu? Như vậy do trong nghiệp từ quá khứ của chúng ta còn lưu lại. Như tôi khi chưa đi tu, mỗi lần qua chùa nghe tiếng chuông, thấy xôn xao trong lòng quá. Cái gì làm cho mình bất an, nếu không phải là chủng tử trước kia?
Mỗi khi chúng ta ra đời, nghiệp từ quá khứ còn lưu lại trong con người hiện tại chớ không phải mất. Nếu chúng ta nhìn vào một lớp học thì biết rõ sự sai biệt, người giỏi về văn, người giỏi về toán v.v… Thầy cô dạy như nhau nhưng điểm riêng biệt của mỗi học trò lại khác. Điểm đó ở đâu ra? Chẳng qua chủng tử từ quá khứ còn lưu lại nơi mỗi người, nên không ai giống ai. Nếu nói do thầy cô dạy mới biết, thì tại sao không biết như nhau mà lại có sự sai lệch. Rõ ràng do chủng tử từ quá khứ chớ không phải ngẫu nhiên. Như những vị thần đồng chưa học mà đã biết, đâu do ai dạy. Đó là chủng tử quá khứ còn nguyên vẹn chưa mất nên ra đời nhớ lại liền. Vậy luân hồi là một lẽ thật, không phải là một nghi vấn nữa.
Khi học Phật, chúng ta cần phải suy tư, chớ không chỉ nghe bao nhiêu biết bao nhiêu thôi. Phải tìm, phải gẫm cho tới nơi tới chốn, như vậy chúng ta mới đủ lòng tin Phật. Do đó Tư tuệ là một điều hết sức thiết yếu.
Tu tuệ là như thế nào? Tư chí lý rồi đến tu rất dễ, không còn nghi ngờ gì nữa. Nhờ nghe hiểu, suy gẫm và biết cách ứng dụng những pháp mình đã học được vào đời sống tu hành, thấy có lợi ích. Đây chính là Tu tuệ. Ba vấn đề Văn, Tư, Tu đều là trí tuệ. Trí tuệ từ thầy ban cho, trí tuệ do mình suy gẫm, trí tuệ do mình cố gắng thực hành, cho nên ba Tuệ học ấy không thể thiếu được.
Nhà Phật nói trí tuệ có hai phần: Một là Hữu sư trí, tức trí học nơi thầy như Văn Tư Tu. Hai là Vô sư trí, tức trí sẵn có của mình, không do học. Đó là Tam vô lậu học, tức ba môn học giải thoát Giới, Định, Tuệ. Giới là đức hạnh, Định là thiền định, Tuệ là trí tuệ. Nhờ giữ được giới nên thiền định không bị xao xuyến. Vì vậy giới trước rồi định sau. Nhờ thiền định nên Trí vô sư phát sanh là tuệ.
Tại sao thiền định được Trí vô sư? Khi thiền không nghĩ gì cả nên được định, được định nên trí sáng giác ngộ, đó là trí không thầy. Trong kinh có kể lại: Đức Phật sau khi thành Phật rồi, Ngài tuyên bố ta học đạo không thầy. Bởi vì bốn mươi chín ngày đêm ngồi dưới cội bồ-đề Ngài không học với ai cả, mà nhờ định nên được giác ngộ. Vì vậy nói Ngài học đạo không có thầy.
Phật giác ngộ viên mãn Trí vô sư, ngày nay chúng ta tu muốn giải thoát sanh tử cũng phải đi tới Trí vô sư đó, nên nói Giới, Định, Tuệ là ba pháp môn tu được giải thoát. Chữ Vô lậu là không còn rơi, không còn rớt lại Tam giới nên gọi là giải thoát sanh tử. Như vậy người học Phật phải đủ trí tuệ, từ Hữu sư trí rồi tiến tới Vô sư trí. Hữu sư trí là nhờ học, Vô sư trí là nhờ tu. Đó là hai phần hết sức rõ ràng.
Điều hệ trọng thứ hai là từ bi. Bởi vì chúng ta không có quyền nghĩ mình tu để hưởng an lạc một mình. Tại sao? Đức Phật ngày xưa chủ trương đi khất thực là vì sao? Khất thực tức là gieo duyên với chúng sanh. Tôi nói là lãnh nợ của chúng sanh. Nếu chúng ta tu mà đối với mọi người không có liên hệ, không trao qua đổi lại thì không có gì dính dáng. Mà không có dính dáng thì giáo hóa họ không được, nên Phật dạy tu sĩ phải nhận của đàn-na thí chủ cúng dường. Có những thí chủ rất nghèo cúng dường nhưng chúng ta cũng phải nhận. Nhận để chi? Để người đó gởi mình, mình nhận nợ.
Nên từ gieo duyên là nói cho đẹp, thật ra chúng ta nhận nợ. Có nợ thì mới gặp lại để đền trả.
Trả nợ có hai cách:
Nếu chúng ta không tu không đủ phước đức thì phải mang lông đội sừng để trả nợ. Nếu chúng ta tu hành có đủ phước đức thì trả bằng cách làm thầy. Bây giờ tôi cũng đang trả nợ đó. Bởi vì chúng ta đều có duyên có nợ với nhau nên mới gặp nhau, còn không duyên không nợ thì không gặp. Gặp để chúng ta giáo hóa, chúng ta chỉ dạy người có duyên với mình. Vì vậy người tu đều phải phát tâm từ bi nhận tất cả những gì của Phật tử gởi gấm. Không phải nhận vì ích kỷ, mà nhận để có duyên hay có chút nợ nần với nhau, hầu giáo hóa giúp đỡ trên đường đạo.
Người xuất gia do Phật tử ủng hộ, nếu hiểu đạo rồi lo tu cho giải thoát, về Cực lạc, bỏ mọi người ở lại ra sao thì ra, như vậy có hơi nhẫn tâm không? Mình tu giải thoát nhập Niết-bàn không bao giờ trở lại nữa, những người cúng cho mình thấy chúng ta nhập Niết-bàn, bỏ họ bơ vơ buồn khổ, thật tội nghiệp cho họ. Vì vậy với tinh thần Phật giáo Đại thừa, người tu không nỡ nhập Niết-bàn liền, mà phải đi đi lại lại trong cõi thế gian này để giáo hóa, để trả nợ. Đến chừng nào thí chủ của chúng ta hiểu được tu tập được, mình mới yên.
Thí dụ như trong Tứ quả Thanh văn, chúng ta được quả thứ ba là A-na-hàm, thì ít ra đệ tử của mình cũng được quả thứ nhất là Tu-đà-hoàn. Nếu mình tới Bồ-tát Thập trụ, thì đệ tử cũng tới Thập tín mới được. Khi tu thiên hạ nuôi, đến thành tựu chúng ta lại hưởng một mình, như vậy có buồn không? Giả sử tôi là quí Phật tử, tôi cũng không chấp nhận điều đó nữa. Quí thầy ăn gian quá đâu được. Vậy mà có người tha thiết tu một đời này để về Cực lạc cho rồi, ở đây khổ quá. Về bên đó vui có một mình, bỏ người ta ở đây khổ, ai mà đành lòng. Thôi thì cùng ở với nhau nhưng ở trong sự tỉnh giác chớ không phải trong cái mê mờ, nhớ như vậy.
Tinh thần từ bi của đạo Phật dạy chúng ta phải làm sao đem lại cho mọi người ánh sáng đạo lý, để cho họ biết được lẽ chân thật, không tạo những điều đau khổ, luôn luôn tiến tới chỗ an vui. Lòng từ bi chúng ta không thể nói suông mà phải được thể hiện cụ thể. Muốn thể hiện lòng từ bi chúng ta phải thực hành hạnh bố thí: bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy. Phải đem của cải, hoặc đem chánh pháp mình hiểu hoặc đem sự tốt lành cao quí an ủi người đau khổ. Đó mới thể hiện lòng từ bi.
Bố thí tài phần lớn dành cho cư sĩ Phật tử vì họ làm ra tiền. Họ mới có điều kiện giúp đỡ người nghèo khổ. Còn các sư có làm ra xu con nào đâu? Nếu có chăng cũng ăn mày của đàn-na thí chủ chớ đâu phải tự mình có tiền lương mỗi tháng. Hàng Phật tử cũng có người làm ra tiền của, có người nghèo cháy da, vậy làm sao bố thí? Nên Phật dạy tài thí có hai phần ngoại tài và nội tài.
Người Phật tử muốn thể hiện lòng từ bi mà không có tiền bạc giúp cho người nghèo đói thì đem công sức của mình ra giúp. Người có tiền tới chùa cúng, người không tiền vào chùa làm công quả. Người có tiền cho tiền, người không tiền ra công đi ủy lạo, khuân vác cũng là bố thí. Nên hiểu có tiền mới bố thí được là lầm. Đem của bố thí là ngoại tài, đem công bố thí là nội tài, như vậy có ai không làm được hạnh bố thí đâu.
Bố thí pháp là phần của Tăng Ni. Tăng Ni tu thấy được cái hay, cái cao quí của Phật pháp, đem sự hiểu biết đó ban rải cho Phật tử cùng biết cùng hiểu như mình. Đem pháp mình đã tu học được, chỉ dạy cho người khác gọi là bố thí pháp.
Bố thí tài, bố thí pháp cái nào tốt hơn? Bố thí tài chỉ giúp người bớt khổ trong giai đoạn hiện tại. Còn bố thí pháp chẳng những giúp người hết khổ trong hiện tại mà mãi về sau cũng không còn khổ nữa, đó là điểm sâu xa.
Ví dụ chú đạp xích lô có một vợ hai con, mỗi ngày chạy xe kiếm được hai ba chục ngàn nuôi vợ nuôi con. Nhưng nếu chiều vô quán nhậu hết thì vợ con đói khổ. Người hàng xóm thấy thương, đem ít lít gạo lại cho, đó là bố thí tài. Rồi mai chú đạp xe có tiền cũng nhậu hết như vậy thì sao, cho đến chừng nào mới đủ, chừng nào gia đình mới ấm no. Bây giờ có một thầy, một cô nào đó sáng suốt tới khuyên chú, nói với chú uống rượu có hại gì, bệnh hoạn ra sao, rồi vì uống rượu mà không đủ tiền nuôi vợ con, làm vợ con đói khổ. Chú nghe hiểu, thức tỉnh bỏ rượu. Như vậy chúng ta chỉ nói chuyện một giờ, nửa giờ mà chú thức tỉnh bỏ rượu. Từ đó làm được bao nhiêu tiền chú đem về nuôi vợ con. Như vậy bố thí pháp không có cạn hết. Chỉ dùng lời nói, lý lẽ chân thật khuyên chỉ người, khi người tỉnh ngộ rồi gia đình hết khổ. Còn nếu cho tiền cho cơm hằng ngày, thì họ chỉ hết khổ tạm rồi mai mốt sẽ khổ nữa. Như vậy cái nào hơn?
Có kẻ cho rằng người tu Phật tiêu cực quá, nhất là Tăng Ni không chịu làm phước, làm việc xã hội, cứ đi nói pháp hoài. Những người tích cực làm việc này, việc kia giúp cho đồng bào rất dễ thấy, còn người nói pháp xem như không có lợi ích gì. Nhưng thật tình việc này lợi rất lớn. Nên trong hai thứ bố thí: bố thí tài và bố thí pháp thì bố thí pháp là hơn.
Bố thí pháp là đem lòng từ bi của mình chỉ dạy nhắc nhở mọi người biết tu, chỉ dạy nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Giả sử tôi có mười ngàn đồng muốn đem bố thí, nếu tôi cho mỗi người một ngàn đồng, thì cho mười người là hết. Còn tôi bố thí pháp thì có một trăm người, tôi cũng bố thí trọn đủ hết. Vậy bố thí pháp là bất tận. Chúng ta học đạo phải học cái bất tận, còn những việc có chừng mực, có giới hạn chúng ta làm một phần nhỏ thôi, gốc là phải bố thí pháp. Muốn bố thí pháp, chúng ta phải có học có tu và có lòng từ bi. Vì vậy từ bi sau trí tuệ. Hai việc đó không tách rời nhau.
Bố thí vô úy là sao? Vô úy là không sợ. Chúng ta mang tới cho người niềm an ổn không sợ hãi. Không sợ này có nhiều thứ: Sợ ma, sợ rắn, sợ cọp… đủ thứ sợ.
Thí dụ đối với người sợ ma, chúng ta muốn cho họ khỏi sợ, phải giải thích cho họ hiểu ma không đáng sợ. Phật dạy trong lục đạo luân hồi: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, a-tu-la, trời, thì ngạ quỉ là loại quỉ đói đứng thứ hai, người cao hơn ngạ quỉ hai cấp. Mình cao hơn nó mà lại sợ nó thì vô lý quá. Chẳng lẽ ông Tỉnh trưởng lại sợ người dân, người lại sợ ma thì thật ngu khờ. Giải thích cho người biết và hết sợ đó là bố thí vô úy.
Như có người sợ chết, chúng ta phải giảng giải cho họ hiểu chết là một lẽ đương nhiên thôi, ai rồi cũng phải chết. Phật chết, Bồ-tát chết, chư Thánh tăng chết, Phàm tăng, Phàm ni chết, cư sĩ chết. Đó là chuyện thường, phải chi có người không chết thì mình sợ, ai cũng chết hết thì có chi mà sợ. Giải thích có căn bản cho người ta hiểu, hiểu rồi thì không sợ. Đó là bố thí vô úy. Như vậy, bố thí pháp trùm cả bố thí chánh pháp và bố thí vô úy luôn.
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi. Đó là điều không hợp lý. Nhập thất tu để sáng đạo thì được, nhưng cũng phải đi giáo hóa, chớ không được đóng cửa suốt đời.
Hồi xưa học luật, Phật dạy thầy Tỳ-kheo không nên đi dép da vì làm tổn thương lòng từ bi. Nhưng khi thấy Bồ-tát Văn-thù cỡi sư tử, Bồ-tát Phổ Hiền cỡi voi… tôi sanh ra thắc mắc. Tại sao các Ngài không đứng trên cụm mây thôi được rồi. Lại cỡi sư tử cỡi voi, như vậy các Ngài có từ bi không? Sau khi tra cứu hiểu ra rồi tôi mới thấy có lý. Vì đức Phật Thích-ca là vị Giáo chủ cõi Ta-bà, mà dân cõi Ta-bà này thì cang cường nan điều nan phục. Muốn điều phục được phải có trí tuệ vượt bực, nên vị Bồ-tát phụ tá thứ nhất cho đức Phật là Văn-thù.
Văn-thù tượng trưng cho Căn bản trí. Ngài ngồi trên lưng sư tử để biểu trưng rằng chỉ có trí tuệ mới hàng phục được ma quân, chỉ có trí tuệ mới giáo hóa được chúng sanh cang cường này. Đó là ý nghĩa hết sức thâm trầm. Song vì chúng sanh cõi này cứng đầu quá, dùng trí tuệ dạy họ, rồi ít bữa cũng trở lại y cũ, thì làm sao đây. Vì vậy phải có đại nguyện đại hạnh, cho nên bên trái của đức Phật vị Bồ-tát phụ tá thứ hai là Phổ Hiền cỡi voi. Vì hạnh lớn mạnh nên tượng trưng cho voi. Voi sáu ngà nghĩa là đem pháp giáo hóa chúng sanh không biết mệt mỏi. Như vậy các hình tượng ấy mang ý nghĩa đức Phật vào cõi Ta-bà giáo hóa phải có đủ trí tuệ vượt bực, hạnh nguyện to lớn mới giáo hóa được. Nếu không sẽ dễ thoái chuyển, dễ chán lắm.
Đức Phật Di-đà thì bên phải có Bồ-tát Quan Thế Âm, bên trái có Bồ-tát Đại Thế Chí. Đức Phật Di-đà ở cõi Cực lạc là chỗ sạch vui. Muốn sang Ta-bà là chỗ uế trược độ chúng sanh, phải có lòng từ bi tràn trề, nên tượng trưng cho Bồ-tát Quan Thế Âm. Vì chúng sanh khó độ nên chúng ta thấy vẽ tượng đức Phật Di-đà ở trên mây duỗi tay xuống, còn chúng sanh đang trồi hụp dưới biển mà không chịu trồi đầu lên đưa tay cho Phật vớt, cứ hụp lặn ở dưới hoài. Vì vậy muốn không thối tâm phải có đại chí tức là chí cứng rắn vững vàng. Dù cho nó khó, nó mê, nó đắm say ngũ dục cũng ráng chờ vớt nó lên. Nếu không có chí lớn thì chán lắm.
Thí dụ trong hoàn cảnh xã hội của chúng ta, có người khá giả thấy những đứa trẻ bụi đời lang thang ở góc phố này góc chợ kia muốn gom lại nuôi dạy. Từ một người giàu có, bây giờ cất trại về ở với mấy thằng nhỏ khó dạy như vậy thì phải hi sinh sự ổn định của mình, chấp nhận cảnh khổ. Do đó phải có lòng từ bi trước, lòng từ bi thật rộng lớn mới làm được việc đó. Mấy đứa nhỏ đem về dạy có dễ đâu. Nhiều khi nó muốn thoi lại mình nữa. Nó là dân bụi đời, mình thương muốn dạy dỗ nó, nhưng nó lại không biết gì, không mang ơn mà còn cự cãi với mình. Nếu không có ý chí vững bền sắt đá thì không thể nào làm được.
Nên tôi nhắc Tăng Ni phải có tâm biết thương những người chờ đợi mình, trông ngóng mình. Học rồi đem sự hiểu biết chánh pháp đó giáo hóa được năm bảy người, thì phước đức cũng lớn lắm. Do đó quí vị thấy trách nhiệm chúng ta không phải đơn giản. Không phải lo cho mình có địa vị cao, có chức tước lớn là hay. Mà phải làm sao thực tế đời mình đem lợi ích thiết thực cho Phật tử, cho mọi người. Đó mới là giá trị thật đáng quí. Mong tất cả Tăng Ni ở đây hãy nhớ lấy điều này, mà đem hết tâm nguyện phụng sự chúng sanh để đền ân chư Phật.
Trước khi muốn biết người mệnh Kim hợp với màu gì, chúng ta phải xác định xem người mệnh Kim sinh vào năm nào ?. Nhâm Thân (1932, 1992) Ất Mùi (1955, 2015) Giáp Tý (1984, 1924) Quý Dậu (1933, 1993) Nhâm Dần (1962, 2022) Ất Sửu (1985, 1925) Canh Thìn
Trước khi muốn biết người mệnh Kim hợp với màu gì, chúng ta phải xác định xem người mệnh Kim sinh vào năm nào ?.
Nhâm Thân (1932, 1992)
Ất Mùi (1955, 2015)
Giáp Tý (1984, 1924)
Quý Dậu (1933, 1993)
Nhâm Dần (1962, 2022)
Ất Sửu (1985, 1925)
Canh Thìn (1940, 2000)
Quý Mão (1963, 2023)
Tân Tỵ (1941, 2001)
Canh Tuất (1970, 2030)
Giáp Ngọ (1954, 2014)
Tân Hợi (1971, 2031).
Quy luật Âm dương – Ngũ hành
Theo Ngũ hành mạng gồm 5 yếu tố là Kim (kim loại), Mộc (cây cỏ), Thủy (nước), Hỏa (lửa), Thổ (đất), giữa các “hành” luôn có sự hỗ trợ hay kìm hãm lẫn nhau tạo quan hệ tương quan hay tương khắc.
Mỗi “hành” đều mang một màu sắc đặc trưng như: Kim-màu trắng, Mộc-màu xanh, Hỏa-màu đỏ… Mỗi hành vừa thể hiện về tính chất, sự vận động biến đổi, vừa thể hiện vị trí trong không gian. Bất cứ một sự vật, hiện tượng nào đó trong tự nhiên hay trong xã hội đều có thể quy về một hành nhất định và cũng đều chứa đựng yếu tố âm dương.
Theo nguyên lý ngũ hành thì môi trường gồm 5 yếu tố chính đó là Kim (Kim loại), Mộc (Cây cối), Thủy (Nước), Hỏa (Lửa), Thổ (Đất). Với mối quan hệ tương sinh các hành với nhau làm giúp cho hành kia được hình thành phát triển đó là Mộc sinh Hỏa (Cây cháy thì sinh ra lửa), Hỏa sinh Thổ (Lửa đốt cháy mọi vật thành tro và sau chuyển hóa thành đất – Màu đỏ). Thổ sinh Kim (Tức là kim loại hình thành từ trong lòng đất) – Màu vàng. Kim sinh Thủy (Tức là kim loại nung nóng chảy thành dạng lỏng) – Màu trắng. Thủy sinh Mộc (Nước dùng để nuôi cây) – Màu xanh dương, màu xanh da trời.
Mối quan hệ tương khắc trong ngũ hành đó là Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy. Tức là nước thì có thể dập tắt được lửa, lửa có thể làm chảy kim loại, kim loại thì lại cắt được cây, cây thì hút chất màu của đất, đất thấm nước ngăn không cho nước chảy.
Người mệnh Kim hợp với màu gì?
Màu tương sinh: Do bạn là người thuộc mệnh Kim mà Thổ sinh Kim, vì vậy bạn nên sử dụng các màu của đất mẹ như màu nâu đất, màu vàng hoàng thổ.
Màu tương khắc: Vì Hỏa khắc Kim nên tốt nhất bạn nên tránh xa các màu của lửa hay các màu tương tự như màu hồng, màu đỏ. Bên cạnh đó, người mua cũng cần thận trọng khi mua bán và sử dụng các vật dụng, sản phẩm có màu tương khắc với mệnh để có thể an tâm khi sử dụng.
Mệnh Kim rất hợp với màu vàng. Vàng chính là màu của sự thuần khiết và trong sáng, là sự dung hòa của các màu khác nhau. Ngoài ra thì người mệnh Kim cũng hợp với màu xám nâu đất, màu sắc này tốt cho con cháu, quan lộc và có quý nhân phù trợ. Còn màu xám bạc tượng trưng cho sự tươi sáng, vẻ đẹp sạch sẽ, thanh cao. Màu sắc này cũng thể hiện rõ nét những đặc điểm tính cách nổi bật của người mệnh Kim như tinh tế, rõ nét và sâu sắc. Người mệnh Kim tốt nhất nên lựa chọn các đồ vật có gam màu sáng hay ánh kim vì đây chính là màu của bạn. Bạn cũng có thể kết hợp với màu nâu, màu vàng khi mua xe, sơn nhà,… bởi đây là những màu sắc sinh vượng.
Nếu lựa chọn màu sắc hợp với bản mệnh của mình sẽ giúp cho công việc của người mệnh Kim luôn được thuận lợi, tài lộc đến nhiều hơn, khi gặp khó khăn sẽ được quý nhân phù trợ. Không những vậy mà sức khỏe của bạn cũng sẽ tốt hơn, ít khi đau ốm và đường tình duyên cũng thuận lợi hơn, ít phải chịu cảnh chia ly, từ biệt.
Tuổi Ất Sửu (mệnh Kim, sinh năm 1925, 1985) cuộc đời vất vả, thăng trầm, đường học hành gian nan, ít đạt được thành tích. Trung niên làm ăn khó khăn nhưng lại
Cuộc đời: gặp được may mắn bất ngờ. Về già được hưởng an nhàn, hạnh phúc.
Tuổi Ất Sửu không nên hợp tác làm ăn, kết duyên với người tuổi Bính Dần, Nhâm Thân, Giáp Tuất, Mậu Dần, Nhâm Tuất, Canh Thân.
Các tuổi nữ giới sẽ gặp phải nhiều khó khăn lớn nhất là: 19, 23, 28, 35, 43; nam giới: 22, 26, 28, 31, 34.
Tính cách: Đây là người thẳng thắn, trung thực, cần cù, tính tình trầm lặng va thích sự yên ổn. Nhược điểm của họ là dễ mềm lòng, cả tin nên dễ bị người khác lợi dụng.
Tình duyên: Tuổi Ất Sửu đường tình duyên thường gặp nhiều may mắn.
Nam giới sinh vào tháng 3, 4, 8; nữ giới sinh vào tháng 4, 7, 8, 12 sẽ có hôn nhân hòa hợp, hạnh phúc. Tuổi Ất Sửu sinh vào các tháng khác hôn nhân tuy gặp phải sóng gió nhưng sẽ nhanh chóng qua đi.
Để có được gia đình hạnh phúc, tiền bạc dồi dào, công danh sự nghiệp phát triển nữ giới tuổi này nên kết duyên với người tuổi Ất Sửu, Mậu Thìn, Kỷ Tỵ; nam giới nên kết hôn với người tuổi Ất Sửu, Mậu Thìn, Đinh Sửu, Quý Mùi, Kỷ Mùi.
Những năm tuổi Ất Sửu nên kết hôn là: Nam: 17, 23, 24, 35, 41; nữ: 21, 25, 27, 33, 37, 39.
Gia đạo: Tuổi Ất Sửu gia đình không êm ấm, trung niên hay phải lo lắng, buồn phiền, về già mới được hưởng yên vui, hạnh phúc.
Công danh sự nghiệp: Người tuổi này khó thành công trong sự nghiệp, bước sang tuổi 43 họ sẽ có cơ hội thăng tiến.
Để công việc làm ăn thuận lợi, người tuổi Ất Sửu nên kết hợp với người tuổi Ất Sửu, Mậu Thìn, Tân Mùi.
Tiền bạc: Người tuổi này tiền bạc bất ổn, về sau mới được sung túc, giàu có.
Theo 12 con giáp, tính cách con người qua năm sinh
Những lời chúc sinh nhật đồng nghiệp hay. Đối với mỗi người, ngày sinh nhật thật vô cùng có ý nghĩa. Hãy tham khảo bài viết để chọn ra lời chúc hay nhất
Những lời chúc sinh nhật đồng nghiệp hay. Đối với mỗi người, ngày sinh nhật thật vô cùng có ý nghĩa. Ngoài những món quà vật chất thì những tin nhắn lời chúc sinh nhật nho nhỏ hay, ý nghĩa hài hước và dễ thương để gửi tới đồng nghiệp của mình cũng là một phần không thể thiếu.
Những lời chúc sinh nhật đồng nghiệp hay
We knew that God truly loved our company a lot when he gifted us with you! Enjoy your lucky day! Chúng tôi tin rằng Chúa thực sự yêu công ty chúng ta rất nhiều khi ngài tặng bạn cho chúng tôi. Hãy tận hưởng ngày may mắn của bạn
————-
You’re the boss today because it’s your birthday. Enjoy your special day! Cậu là ông chủ ngày hôm nay bởi vì sinh nhật bạn. Hãy tận hưởng ngày đặc biệt
————-
Happy birthday, name! We still don’t know how old you are. Only you, God, and Human resources knows your real age. Chúc mừng sinh nhật. Chúng tôi vẫn không biết bạn bao nhiêu tuổi. Chỉ có bạn, chúa và nhân sự biết tuổi thật của bạn.
————-
Thank you for your leadership and advocacy in the workplace. We are thinking of you on this important day and wishing you a very Happy Birthday. Cám ơn vì sự lãnh đạo và sự ủng hộ tích cực của bạn ở nơi làm việc. Chúng tôi nghĩ về bạn trong ngày quan trọng này và cầu chúc bạn có một sinh nhật vui vẻ.
Thank you for the leadership you have provided to our team over the last year and for pushing us to strive for excellence every day. Happy Birthday!
Cám ơn vì sự lãnh đạo mà bạn đã cung cấp cho đội chúng ta trong suốt năm ngoái và thúc đẩy chúng tôi cố gắng cho sự hoàn hảo mỗi ngày. Sinh nhật vui vẻ
In honor of your birthday, Dear***, our team has decided it should be party time! We’ll go out to party while you stay here and handle our deadlines!
Trong niềm vinh dự hôm sinh nhật, nhóm chúng ta quyết đinh nên tổ chức party. Chúng ta sẽ đi ra ngoài party trong khi bạn ngồi lại đây là thực hiện nốt deadline
Faith, union and patience are the secrets of progress. I wish you to remain firm on these golden principles throughout your life. Happy Birthday.
Tin tưởng, đoàn kết và nhẫn nại là những bí mật của tiến bộ. Tôi mong bạn sẽ giữ vững những nguyên tắc vàng này tróng uốt cuộc đời. Chúc mừng sinh nhật
Happy Birthday to a most extraordinary and unique person in our team!
Chúc mừng sinh nhật tới người độc đáo và tuyệt vời nhất trong team chúng ta
Chúc mừng sinh nhật người phụ nữ đàn ông khó tin và một người bạn, người đồng nghiệp tuyệt vời. Tôi hy vọng tất cả những mong ước ngày sinh nhật sẽ thành hiện thực, hôm nay và mọi ngày. Những điều tốt đẹp nhất
We are so happy that you’re a part of our team! Here’s wishing the best of blessings and good luck on your Happy Birthday!
Chúng tôi thật hạnh phúc vì bạn là một thành viên trong nhóm. Chúc bạn những lời chúc tốt đẹp nhất và may mắn trong ngày sinh nhật
This job has tons of benefits and being on a team with you is one of the best ones! Have a great Birthday and a great year ahead.
Công việc này có hàng tấn lợi ích và là một team với bạn là điều tốt đẹp nhất. Chúc bạn sinh nhật vui vẻ và có 1 năm tuyệt với sắp tới
You’re so fabulous co-worker, that they could pay me peanuts and I would still want to work with you! Have a superb day and a fantastic year ahead of you.
Bạn là người đồng nghiệp đáng kinh ngạc, người có thể trả tiền rất ít cho tôi và tôi vẫn muốn làm việc với bạn. Hãy có một ngày tuyệt vời và 1 năm ấn tượng sắp tới
Today is a perfect day to tell you that I really enjoy sharing my work days with you. Your presence alone seems to make the environment more comfortable and nice. Warm wishes for a Happy Birthday to you!
Hôm nay là ngày hoàn hảo để nói với bạn rằng tôi thật sự thích chia sẻ những ngày làm việc với bạn. Sự hiện diệnc ủa bạn làm cho môi trường trở nên thoải mái và tốt đẹp hơn. Những lời chúc ấm áp nhất cho sinh nhật của bạn.
Nice people like you are great to work with. Happy Birthday! Let’s celebrate the beginning of another wonderful year in your life!
Những người tốt như bạn thật tuyệt để làm cùng. Chúc mừng sinh nhật. Hãy chúc mừng sự khởi đầu của một năm tuyệt vời nữa trong cuộc đời bạn
I would take the privilege to tell you that you are a perfect coworker and a friend. Hope your birthday is as wonderful as you are!
Tôi muốn dành sự ưu tiên để nói với bạn rằng bạn là đồng nghiệp và người bạn hoàn hảo. Hy vọng ngày sinh của bạn cũng tuyệt vời như bạn
Let my deep blessing always. Surround magnificent travel of your life. I hope in years to come you will have a good health and plain sailing.
Hãy để những lời chúc sâu lắng của tôi luôn ở bên cạnh cuộc sống tuyệt vời của bạn. Tôi hy vọng trong năm tới bạn luôn khỏe mạnh và thuận buồm xuôi gió trong công việc.
This present is not valuable itself, but it is a souvenir hereto, it brings all most my warm sentiment. Happy birthday to you.
Món quà này riêng nó chẳng có ý nghĩa gì cả, nhưng đó là vật kỉ niệm anh muốn gửi tặng em với tất cả những tình cảm tha thiết nhất. Sinh nhật vui vẻ em nhé.
Wishing you a happy birthday. Praying you luckily.
Chúc em một sinh nhật thật nhiều ý nghĩa và hạnh phúc . Cầu mong mọi điều may mắn sẽ đến với em.
On occasion of your … birthday, wish you be younger, beautiful and happier. The best wishes including the luck and the best happiness will come to you in the new age.
Nhân dịp sinh nhật lần thứ … của em, chúc em luôn tươi khỏe, trẻ đẹp. Cầu mong những gì may mắn nhất, tốt đẹp nhất và hạnh phúc nhất sẽ đến với em trong tuổi mới.
Every candle on your cake is another year I’ve been lucky to know you, girl! Happy Birthday to a wonderful friend.
Mỗi một ngọn nến trên chiếc bánh của bạn là một năm tôi được may mắn khi biết bạn! Chúc mừng sinh nhật một người bạn tuyệt vời.
Friend is someone who reaches for your hand and touches your heart. Hope your special day is bright and beautiful, just like you!
Người bạn là một người nắm tay bạn và chạm đến trái tim của bạn. Hy vọng rằng ngày đặc biệt của bạn sẽ tươi sáng và rạng rỡ, như chính bạn vậy
On such a day like your birthday, may you be in arm with a truly happy day bringing fulfillment of your favorite hope your brightest promise.
Trong ngày sinh nhật tốt đẹp này, chúc bạn những ngày thực sự hạnh phúc trong tầm tay của bạn. Và chúc cho những ước mơ rực rỡ nhất của bạn đều có thể thực hiện được.
I want to wish you love and happiness on your birthday.
Tôi chúc bạn tình yêu và hạnh phúc nhân dịp sinh nhật của bạn
Sự tích tơ hồng trên đã gây sự tin tưởng vào tiền định trong hôn nhân, nghĩa là vợ chồng có duyên số. Sợi dây vô hình đã se kết những cặp vợ chồng với nhau.
Vị thần linh chú về hôn sự theo tin tướng của dân ta là ông Tơ hồng cũng còn gọi là Nguyệt lão. Nhiều khi Nguyệt lão bị phụ nữ hóa biến thành bà Nguyệt.
Nguyệt lão được hình dung trong quảng đại quần chúng là một ông già đầu bạc đang se những sợi chỉ tơ màu hồng. Hình dung này do sự tích của Vi Cố đời Đường cấu tạo nên.
Truyện Vi Cố thường được nhắc lại như sau:
Dưới đời nhà Đường có một nho sinh học hành uyên bác tên gọi Vi Cố. Một ngày kia Vi Cố dạo chơi dưới trăng, được gặp một ông già đang giở từng trang một quyển sách, bên cạnh có chiếc đẫy đầy chỉ tơ hồng.
Vi Cố hỏi, ông già đáp quyển sách đó ghi những lứa đôi của mọi cặp trai gái, còn những sợi tơ hồng dùng để buộc những cặp này lại với nhau. Ông già nói thêm: “- Dù cách biệt vì địa vị xã hội, dù gặp bao nhiêu khó khăn, cuối cùng số mệnh vẫn thắng và kẻ nào phải phối ngẫu với kẻ nào vẫn là do duyên số”.
Thấy ông già nói vậy, Vi Cố muốn biết người sau này sẽ sánh duyên với mình là ai. ông già liền chỉ vào một cô bé hai tuổi, con một mụ hành khất trong ngôi chợ gần đó và bảo đó là người vợ tương lai của họ Vi. Thấy vậy Vi Cố tự nhủ:
Có thể như vậy được chăng. Vợ ta, con một mụ ăn mày!
Sau đó Vi Cố thuê người giết chết cô bé. Kẻ hung đồ đã dùng dao đâm vào sọ đứa trẻ, nhưng nhát đâm không trúng mà chi sượt qua lông mày cô bé gây thương tích chỗ ấy. Mười bốn năm sau, Vi Cố thi đỗ, được bổ làm quan và được vị Tiết độ sử gả con gái cho. Cô dâu có một vết sẹo nhỏ trên lông mày. Vi Cố hỏi vợ, được nàng cho biết khi nàng 2 tuổi bị một kẻ hung đồ đâm hụt. Quan Tiết độ sử có chứng kiến vụ hành hung này, động lòng trắc ẩn, nhận nàng làm dưỡng nữ. Thì ra, lời ông già xe tơ đã ứng nghiệm. Họ Vi kết duyên với con mụ hành khất tại chợ nơi xưa.
Sự tích trên đã gây trong quần chúng sự tin tưởng vào tiền định trong hôn nhân, nghĩa là vợ chồng có duyên số và sợi dây Tơ hồng vô hình đã se kết những cặp vợ chồng với nhau. Và ông già se tơ được gọi là Nguyệt lão, vì Vi Cố đã gặp ông ta ở dưới trăng và ông cũng có tên là Tơ hồng vì ông se những sợi chỉ tơ màu hồng.
Tin tưởng ở ông Tơ hồng, trai gái đến tuổi lành duyên đều cầu khấn ông giúp cho được duyên may phận đẹp. Trong ca dao Việt Nam thường nhắc nhiều tới vị thần linh chủ về hôn sự này:
“Bắc thang lên tới Trăng già, Chỉ hồng đâu tá, mượn và bốn dây? Để ta xe kết đấy, đây, Xe chim loan phượng với cây ngô đồng, Xe tố nữ với anh hùng Xe trang thục nữ bạn cùng thi nhân…” Trai gái cầu khẩn ông Tơ hồng cho được duyên may phận đẹp, nếu tình duyên ngang trái, họ cũng quay trở lại oán than Nguyệt lão! “Trăng già độc địa làm sao! Cầm dây chẳng lựa, buộc vào tự nhiên!”
hoặc:
“Ông Tơ sao khéo đa đoan Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên!” Và cũng đã có những vần ca dao châm biếm về Nguyệt lão: Ông đã vụng xe tạo nên những cặp vợ chồng niên ký chênh lệch: Bắc thang lên đến tận trời Bắt ông Nguyệt lão đánh mười cẳng tay. Đánh thôi lại trói vào đây, Hỏi ông Nguyệt lão: “Nào dây tơ hồng?” “Nào dây xe Bắc, xe Đông?” “Nào dây xe vợ xe chồng người ta?” “Vụng xe, xe phải vợ già, “Tôi thì đến cửa đất nhà ông lên!”
Cây cối tươi tốt biểu hiện sinh khí nơi cư ngụ. Sắp xếp hài hòa cây xanh, mặt nước trong nhà ở chính là giải pháp phong thủy hữu hiệu và thân thiện với môi trường, cải tạo khí hậu nơi cư ngụ và có thể giảm xung hại.
Các yếu tố gây xung hại cho nhà ở rất đa dạng và đôi khi khó nhận biết. Chẳng hạn như một lối vào đâm thẳng cửa chính, một cạnh tường chéo hay cầu thang đi thẳng ra ngoài cửa… Để khắc phục những xung hại đó, bạn có thể dùng giải pháp xoay mặt cửa, mặt nhà và che chắn. Che chắn bằng cây xanh được xem là giải pháp hữu hiệu. Chẳng hạn như một cầu thang dẫn ra cửa chính có thể xoay miệng sang bên, dùng cây xanh làm bình phong cản gió và cản tầm nhìn xuyên thấu. Cửa cổng thẳng hàng với cửa chính thì có thể giảm bớt trực xung bằng cách đặt chậu kiểng.
Lu nước thả hoa có tác dụng giảm xung hại cho ngôi nhà
Nếu khéo sắp xếp, hồ nước hay bể cá, hòn non bộ trước nhà cũng sẽ là điểm tụ thủy và là tiểu cảnh thú vị. Hình thức này rất được ưa dùng trong nhà ở có sân vườn. Tuy nhiên, đối với nhà phố hay chung cư, diện tích và khoảng trống thường không đủ để làm hồ nước rộng và trồng cây lớn mà đặt non bộ trong nhà lại dễ gây ẩm thấp. Vì thế, chỉ nên dùng hồ cá vừa phải hoặc tiểu cảnh loại nhỏ để chủ động sắp xếp và không gây va chạm nhiều trong quá trình sử dụng. Đối với trường hợp này, bạn có thể dùng một lu nước thả hoa sen, súng. Khi sắp xếp cây cảnh, non bộ bạn có thể áp dụng theo các thế truyền thống (tam đa, tứ linh, ngũ hành, phụ tử…) kết hợp với đèn đá, tượng đá… sẽ tạo nên phong cách rất ấn tượng.
Hạng 1: Thuỷ Bình – nắm quyền trong tay, không quan tâm tới cảm giác của đối phương Thủy Bình dễ mất tình yêu bởi sự chăm chăm cho mình là đúng, là thông minh hơn người. Con gái không cần một “biết tuốt” bên cạnh, họ cần một người đồng hành sẻ chia. Hạng 2: Nhân Mã – quá nhiệt huyết chuyên tâm nên khiến đối phương đánh mất cảm giác Đàn ông Nhân Mã rất nhiệt tình, quan tâm tới người yêu nhưng lại khiến đối phương mất cảm giác kích thích vì những cử chỉ, hành động khá sáo rỗng. Anh bay nhảy khắp nơi không màng đến ai rồi mỏi gối chùn chân về tới tấp buông lời mật ngọt thì đâu có được. Hạng 3: Thiên Bình – không biết cách từ chối người khác, nên mới tổn thương tới họ Với ai cũng tốt, cũng nhiệt tình, vậy người yêu đứng ở vị trí nào trong lòng Thiên Bình. Hãy nhớ sự ưu tiên cần thiết dành cho người quan trọng. Hạng 4: Ma Kết – quá lý trí dẫn tới những lời nói không hay Chòm sao nam dễ mất người yêu không thể không có Ma Kết, bởi họ lý trí đến tàn nhẫn. Có những việc không nhất thiết phải buông những lời thẳng thắn đến cay nghiệt như thế với người mình yêu đâu Kết Kết nhé.
► Xem thêm: Mật ngữ 12 chòm sao, Horoscope được cập nhật mới nhất
Có khí sắc thì trước tiên phải xem khí sắc của hưu tù tử vượng, sau đó mới xem khí sắc đó hiện ở vị trí nào rồi mới có phán đoán được cát hung và thiện ác.
Trần Đồ Nam nói rằng: “Nếu khí sắc không sáng trong thì không nên gọi là khí sắc”. Nếu không trong sáng thì gọi là hư sắc, như vậy thì bất luận là tai ương hay là chuyện tốt lành đều không thể ứng nghiệm. Do đó không cần thiết phải phán đoán. Có khí sắc thì trước tiên phải xem khí sắc của hưu tù tử vượng, sau đó mới xem khí sắc đó hiện ra trên những vị trí nào từ đó mới có thể phán đoán được cát hung và thiện ác.
Màu xanh làm là chính sắc của trời, khói mây là khí của trời. Tướng của người là do mệnh định sẵn, hợp với đạo lý của trời đất. Nếu khí mà người tuân theo có biến động thì khí sắc toát ra cũng có hiến động. Ánh mắt có thần thái thì sẽ có phú quý, nếu trong sáng thì là cát lợi, nếu ảm đạm thì là hung họa. Nếu có màu hồng vàng hay tía thì cát sẽ cát lợi, nếu có màu xanh trắng đen thì sẽ có họa, nếu có màu hồng vàng thì có chuyện vui, nếu có màu tía thì được thăng quan.
Khí sắc hiện ra hiện tại chủ tương lai, còn khí sắc sắp mất đi chủ quá khứ. Nếu khí sắc không thể biến đổi thì có nghĩa là có tai họa, khí sắc đậm thì trước mặt sẽ có họa, khí sắc nhạt thì trong thời gian xa mới có tai họa. Người có thần sắc thản nhiên là người kiêu ngạo, tự mãn
Nếu khí sắc của người nào đó mà u ám bất định thì khí sắc hiển quý nhất định sẽ không hiện ra ở vị trí Chuẩn đầu. Nếu tính cách nóng nảy mà còn có bệnh tật thì khí sắc sẽ không thể chỉ hiện ra ở bộ phận mặt. Nếu tì vị, tim, ổ bụng đều có bệnh thì người đó sẽ gặp tai họa về nước, lửa, quan tụng. Nếu khí sắc người nào đó mà ít thay đổi thì rất khó phán định ra khí sắc chân chính, đó thường là khí sắc của tăng đạo. Nếu khí sắc người nào đó trông đỏ tự nhiên, như ẩn như hiện thì đó là khí sắc của người có ý thức cạnh tranh.
Nếu khí sắc của người nào đó trông trong sáng, không lẫn lộn thì đó là khí sắc của người đắc ý. Nếu khí sắc trông u ám, âm hợp dương tán thì đó là khí sắc của người yếu đuối. Nếu khí sắc thản nhiên thì đó là khí sắc của kẻ kiêu ngạo, tự mãn.
Vị trí trên mặt khác nhau thì màu sắc cũng khác nhau
Trán có màu đỏ vàng sẽ thăng quan, phát tài
Sách xưa viết: Trên trán nếu có 2 màu đỏ vàng như sợi tơ thì người này trong 30 ngày sẽ thăng quan phát tài. Nếu là người bình thường thì cầu sự thuận lợi, nếu là tăng đạo sẽ lên chức trụ trì.
Trên trán có màu đỏ vàng như sợi tơ thì người này trong vòng 30 ngày có quý lộc, nếu đại nhân sẽ thăng quan. Nếu vị trí giữa 2 lông mày có khí sắc này thì trong nhà mọi sự đều thuận lợi. Nếu là tăng đạo có khí sắc này thì lên làm trụ trì. Trên trán có màu tía thì trong 36 ngàv sẽ có việc vui, thích hợp để đi xa.
Nếu trên trán có màu đen sẽ phát sinh sự việc không thể lường trước, trong 6 tháng cần đề phòng sự việc bất trắc và kiện tụng. Nếu có màu xanh thì người này trong 60 ngày sẽ không thích hợp để đi xa, ngoài ra còn cần để phòng ruộng vườn bị tranh chấp.
Trên trán có màu tía thì sắp có việc vui
Sách xưa viết: Trên trán nếu có màu tía thì trong 60 ngày có việc vui. Nếu có màu đen thì trong 90 ngày sẽ phát sinh tai họa. Vị trí giữa 2 lông mày và Ngạch môn nếu có màu xanh cần để phòng, trong 60 ngày không trèo lên cao cũng tránh đi xa nhà, ngoài ra còn cần đề phòng kiện tụng liên quan đến ruộng đất.
Ấn đường có màu đỏ vàng sẽ sinh quý tử
Sách xưa viết: Trên trán có 2 màu đỏ vàng thì trong 90 ngày sẽ sinh quý tử mà có thể thi cử đỗ đạt, ngoài ra người trong nhà còn có thể phát tài bất ngờ. Ấn đường có màu đỏ và vàng thì sinh quý tử, người khác có thể phát tài bất ngờ, cưới được người như ý muốn và cầu quan thuận lợi. Ấn đường có màu tía thì người này sẽ có thêm ruộng vườn trong vòng 90 ngày.
Ấn đường có màu tía thì ruộng vườn tăng thêm
Sách xưa viết: Ấn đường có màu tía thì người này sẽ có thêm ruộng đất trong 90 ngày. Nếu có màu trắng như sợi tơ thì trong vòng 90 ngày phải đề phòng có tang sự. Ấn đường có màu đen như mực thì người hầu và ngựa đều phản chủ.
Ấn đường có màu xanh nhiều chuyện rắc rối
Sách xưa viết: Chỗ Ấn đường có màu xanh phòng trong 50 ngày sẽ có chuyện. Nếu có màu đen như nước thì phòng người hầu và ngựa có tai họa. Ấn đường có màu xanh thì người này trong 50 ngày có thể bị kiện tụng.
Sơn căn có màu tía là tướng làm quan
Sách xưa viết: Sơn căn (giữa 2 mắt) có màu vàng tía, nếu làm quan trong 90 ngày sẽ được thăng quan. Chức quan lớn tới mức có thể nổi danh trong vòng 3.000 dặm. Nếu là tăng đạo và người bình thường thì mọi sự đều cát lợi.
Chỗ Sơn căn có màu vàng tía sẽ được phong hầu nối danh 30 dặm, nếu là quý nhân thì thăng quan và được hoàng đế tuyên chiếu.
Nếu phần bên dưới Ấn đường có màu tía thì người này trong 40 ngày sẽ có niềm vui quay trở về.
Phần chính giữa trán gần đường chân tóc có màu vàng thì trong 90 ngày thăng quan.
Cằm có màu xanh đen thì vận mệnh thường chẳng thể dài lâu.
Chỗ nối với quai hàm có màu đen thì trong 48 ngày khó thoát khỏi cái chết.
Toàn bộ trán có màu đỏ sáng thì trong 8 ngày sẽ gặp chuyện kiện tụng. Trên trán có toàn màu xanh thì trong 90 ngày dễ xảy ra chuyện khó lường.
Niên thượng (dưới Sơn căn, trên Thọ thượng) và Thọ thượng (dưới Niên thượng, trên Chuẩn đầu) có màu tía thì trong 50 ngày trong nhà sẽ có tang.
Nếu ở cằm có màu đen như sương khói cần đề phòng tai họa liên quan đến rượu thịt. Góc trán có màu đen dạng mây thì phòng họa do ăn uống.
Vị trí Thiên trung có màu vàng nâu thì trong 90 ngày thăng quan.
Vị trí Long giác và Hổ giác có màu tía thì trong 50 ngày thi đỗ.
Vị trí Niên thượng và Thọ thượng có màu hoa đào thì trong 25 ngày sẽ thi đỗ.
Vị trí Bạch nhãn có màu vàng thì trong nửa năm sẽ thay đổi chức vụ.
Chỗ Dịch mã có màu xanh đen thì người này khi đi ra ngoài sẽ bị thương.
Toàn bộ trán có màu xanh thì người này ở nhà không cát lợi.
Dưới mắt có màu tía đen thì sẽ chóng gặp việc quan.
Khóe miệng có màu trắng khô thì phòng mắc bệnh.
Người học tướng thuật cần quan sát kỹ khí sắc, tiến hành luận đoán cẩn thận để biết rõ cát hung họa phúc.
Có thể từ Ngũ hành của hạng mục kinh doanh làm xuất phát điểm để tiến hành đặt tên. Phải chọn trong tên họ của chủ tiệm lấy một đến hai chữ kết hợp với đặc sắc của hạng mục kinh doanh làm căn cứ đặt tên. Lấy mùa vụ của khai nghiệp kết hợp với Ngũ hàn
Có thể từ Ngũ hành của hạng mục kinh doanh làm xuất phát điểm để tiến hành đặt tên.
Phải chọn trong tên họ của chủ tiệm lấy một đến hai chữ kết hợp với đặc sắc của hạng mục kinh doanh làm căn cứ đặt tên.
Lấy mùa vụ của khai nghiệp kết hợp với Ngũ hành số mệnh của chủ tiệm.
Có thể đặt tên xuất phát điểm từ hướng của cửa hàng.
Nếu như mở cửa hàng là cửa hàng liên hợp thống nhất đặt tên, tên của cửa hàng lại không hợp với Ngũ hành tương mệnh của người kinh doanh thì cố gắng lấy một tên hậu xuyết, nếu như không làm được như vậy thì có thể thêm tên hậu xuyết ẩn bên trong cửa hàng.
Đây là một bản kinh ngắn gọn, ghi lại lời Phật dạy cách đối nhân xử thế, cách thực thi các trách nhiệm của Phật tử đối với bản thân, gia đình và xã hội
Bấy giờ, đã đến lúc đức Thế Tôn khoác y – bát lên đường vào thành khất thực, trên đường đi, đức Thế Tôn thấy một chàng thanh niên đang lễ bái, là người con có hiếu nên nghe theo lời dạy của cha trước khi mất, cứ mỗi sáng, sau khi tắm gội xong anh ta ra đường thực hành việc lễ bái sáu phương: Đông, Tây, Nam, Bắc, trên, dưới. Cuộc gặp gỡ là duyên khởi cho bản kinh Thiện Sanh ra đời.
Đây là một bản kinh nguyên thủy, ngắn gọn, ghi lại lời Phật dạy cách đối nhân xử thế, cách thực thi các bổn phận và trách nhiệm của người Phật tử đối với bản thân, gia đình và xã hội, rộng hơn là Phật dạy cách kiến tạo một xã hội hài hòa, một cuộc sống đầy an lành và hạnh phúc.
Trong tạng A-hàm, theo bản dịch Việt từ Hán mới nhất của Thượng tọa Tuệ Sỹ thì Kinh Thiện Sanh thuộc No.16, Phần II, Trường A-hàm. Trong tạng Nikaya, theo bản dịch Việt từ Pali của Hòa Thượng Thích Minh Châu, tương đương kinh Thiện Sanh là Kinh Giáo Thọ Thi-Ca-La-Việt (Sigàlovàda sutta) thuộc No.31, Trường Bộ Kinh. Bài viết chủ yếu trích từ ấn bản điện tử từ trang nhà Phatviet.com của TT.Tuệ Sỹ, tất cả các đoạn trích đều được đóng mở “.”, phần lễ bái sáu phương, hầu hết lấy nguyên văn trong kinh.
Tránh bốn việc ác và sáu việc làm hao tổn tài sản
Khi Phật ở tại núi Kỳ-xà-quật, dẫn đầu đoàn khất thực với đại chúng hai ngàn năm trăm vị Tỳ-Kheo đi vào thành, đức Thế Tôn thấy một gia chủ tử tên Thiện Sanh đang lễ sáu phương, Ngài hỏi:
“Vì sao, ngươi vào buổi sáng sớm ra khỏi thành, đi đến khu công viên, với cả người còn ướt đẫm, mà ngươi lại lạy các phương như thế?”
Thiện Sinh bạch Phật:
“Khi cha con sắp chết có dặn: “Nếu con muốn lạy, trước hết hãy lạy các phương Đông,Tây, Nam, Bắc, trên và dưới”. Con vâng lời cha dạy không dám chống trái.”
Phật bảo Thiện Sanh:
“Này con trai trưởng giả! Quả có cái tên các phương đó chứ không phải không. Nhưng trong pháp Hiền Thánh của ta chẳng phải lễ sáu phương như thế là cung kính đâu.”
Thiện Sinh thưa:
“Cúi xin đức Thế Tôn thương dạy cho con cách lễ sáu phương theo pháp Hiền Thánh.”
Phật bảo Thiện Sinh:
“Nếu trưởng giả hay con trưởng giả nào biết tránh bốn nghiệp kết không làm ác theo bốn trường hợp và biết rõ sáu nghiệp hao tổn tài sản. Như thế, này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả nào tránh được bốn việc ác là lễ kính sáu phương”
Bốn nghiệp kết mà Phật dạy: Sát sinh, trộm cắp, dâm dật, vọng ngữ, đây là bốn điều xấu ác mà bất cứ ai cũng nên tránh, hàng ngày đọc báo chúng ta vẫn thường thấy nhan nhãn các tội phạm phạm bốn điều trên: giết người, cướp của… gây cho xã hội những bất an thường nhật. Rõ thấy, những điều mà Phật dạy chẳng có gì khác ngoài những chuyện thực thường ngày ở thế gian.
Bốn trường hợp ác: tham dục, sân hận, sợ hãi, ngu si. Về tham dục, không phải cứ tham dục là điều xấu, mà tham dục cần phân biệt có hai loại, loại tham dục phục vụ ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) khiến cho tâm trí mê mờ, dẫn đến những vọng tưởng điên đảo, sân hận, sợ hãi và ngu si… loại tham dục này thì cần phải loại bỏ, loại tham dục thứ hai phục vụ cho chánh kiến, chánh tư duy, chánh nghiệp… cho sự học hành, phát triển nhân cách, tinh thông trí tuệ, nâng cao dân trí, sự phồn thịnh xã hội, sự bình an, sự hạnh phúc..thì cần thực hành và phát huy.
Sáu nghiệp hao tổn tài sản cần tránh:
Đam mê rượu chè.
Cờ bạc.
Phóng đãng.
Đam mê kỹ nhạc.
Kết bạn người ác.
Biếng lười.
Phật bảo Thiện Sinh:
“Này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả biết rõ bốn kết hành không làm ác theo bốn trường hợp, lại biết sáu nghiệp tổn tài ấy là, này Thiện Sinh, tránh được bốn trường hợp, cúng dường sáu phương, thì đời này tốt đẹp, đời sau tốt đẹp; đời này căn cơ và đời sau căn cơ; trong hiện tại được người trí ngợi khen, được quả báo bậc nhất; sau khi chết được sanh lên trời, cõi thiện”.
Như vậy, Phật dạy người nào tránh được bốn nghiệp kết, bốn việc ác, sáu nghiệp hao tổn tài sản thì không những đời này đẹp và cả đời sau cũng được hưởng những quả tốt đẹp, đời này có duyên lành và đời sau cũng có duyên lành, trong hiện tại được người ngợi khen, xã hội ngợi khen, gia đình ngợi khen và trên hết phương ấy được an ổn, xã hội ấy được tốt đẹp, không lo sợ…
“Người nào không làm ác,
Do tham, hận, sợ, si,
Thì danh dự càng thêm,
Như trăng hướng về rằm”.
Bốn hạng kẻ thù và bốn hạng người đáng thân
Trong Trung Hoa Kim Cổ Kỳ Nhân có thuật lại tình bạn giữa Bá Nha – Tử Kỳ, một tình bạn đẹp lưu danh muôn thuở. Bá Nha là một vị quan làm đến chức Thượng đại phu, còn Tử kỳ chỉ là một chàng nông dân kém Bá Nha chục tuổi. Nhưng chỉ mỗi Bá Nha hiểu được tiếng đàn của Tử Kỳ, từ đó hai người trở thành tri kỷ, khi nghe tin Tử Kỳ chẳng may qua đời, Bá Nha đã cầm đờn đập mạnh vào tảng đá,cây đờn vỡ tan, sau đó đọc bốn câu thơ:
“Dao cầm đập nát đau lòng phượng,
Đã vắng Tử Kỳ đàn với ai?
Gió xuân bốn mặt, bao bè bạn.
Muốn tìm tri âm, thật khó thay!”
Trong cuộc sống ai cũng cần có bạn, tình bạn kiểu Bá Nha – Tử Kỳ thuộc dạng xưa nay hiếm, nhưng cũng cần phải lựa bạn tốt mà chơi, vì nếu “giao du với bạn xấu có sáu lỗi: 1, tìm cách lừa dối; 2, ưa chỗ thầm kín; 3, dụ dỗ vợ người; 4, mưu đồ chiếm đoạt tài sản của người; 5, xoay tài lợi về mình; 6, ưa phanh phui lỗi người”. Đó là sáu tai hại về bạn xấu. Nếu chúng ta làm bạn với kẻ ác mãi thì gia sản mỗi ngày mỗi tiêu tán”.
Nếu chúng ta làm bạn với kẻ ác mãi thì gia sản mỗi ngày mỗi tiêu tán
Phật bảo Thiện Sanh.
“Có bốn hạng kẻ thù mà như người thân, ngươi nên biết. Bốn kẻ ấy là những ai? 1, hạng uý phục; 2, hạng mỹ ngôn; 3, hạng kính thuận; 4, hạng ác hữu.
[(1) “Hạng úy phục thì thường hay làm bốn việc: một, cho trước đoạt lại sau; hai, cho ít mong trả nhiều; ba, vì sợ gượng làm thân; bốn, vì lợi gượng làm thân.
(2) “Hạng mỹ ngôn thì thường hay làm bốn việc: một, lành dữ đều chiều theo; hai, gặp hoạn nạn thì xa lánh; ba, ngăn cản những điều hay; bốn, thấy gặp nguy tìm cách đùn đẩy.
(3) “Hạng kính thuận thì thường làm bốn việc: một, việc trước dối trá; hai, việc sau dối trá; ba, việc hiện dối trá; bốn, thấy có một chút lỗi nhỏ đã vội trách phạt”.
(4) “Hạng bạn ác thì thường làm bốn việc: một, bạn lúc uống rượu; hai, bạn lúc đánh bạc; ba, bạn lúc dâm dật; bốn bạn lúc ca vũ.”
“Có bốn hạng người thân đáng thân vì thường đem lại lợi ích và che chở. Những gì là bốn? Một, ngăn làm việc quấy; hai, thương yêu; ba, giúp đỡ; bốn, đồng sự. Đó là bốn hạng người thân đáng thân cận”.
1) Này Thiện Sinh, hạng ngăn quấy thì thường làm bốn việc đem lại nhiều lợi ích và hay che chở: thấy người làm ác thì hay ngăn cản, chỉ bày điều chánh trực, có lòng thương tưởng, chỉ đường sinh Thiên. Đó là bốn trường hợp ngăn cản việc quấy đem lại nhiều lợi ích và hay che chở.
(2) Hạng thương yêu thì thường làm bốn việc: Mừng khi mình được lợi, lo khi mình gặp hại, ngợi khen đức tốt mình, thấy mình nói ác thì tìm cách ngăn cản. Đó là bốn điều thương yêu đem lại nhiều lợi ích và hay che chở.
(3) Hạng giúp đỡ có bốn việc. Những gì là bốn? Đó là: che chở mình khỏi buông lung, che chở mình khỏi hao tài vì buông lung, che chở mình khỏi sợ hãi, khuyên bảo mình trong chỗ vắng người.
(4) Hạng đồng sự thì thường làm bốn việc: không tiếc thân mạng với bạn, không tiếc của cải với bạn, cứu giúp bạn khỏi sợ hãi, khuyên bảo bạn lúc ở chỗ vắng người.”]
Lễ bái sáu phương hay cách thức xây dựng một xã hội hạnh phúc
Sáu phương là gì, tại sao phải lễ bái sáu phương như chàng Thiện Sanh đã làm, anh ta làm vì nghe lời cha mà không hiểu ý nghĩa của việc lễ bái đó. Phật dạy: “Sáu phương là gì? Phương Đông là cha mẹ, phương Nam là sư trưởng, phương Tây là thê thiếp, phương Bắc là bạn bè thân thích, phương trên là các bậc trưởng thượng, Sa-môn, Bà-la-môn, phương dưới là tôi tớ”. Bài dạy lễ sáu phương là cách mà Phật dạy đạo làm người.
Đạo hiếu làm con, phận làm cha mẹ.
Kẻ làm con phải kính thuận cha mẹ với năm điều:
Cung phụng không để thiếu thốn.
Muốn làm gì thưa cha mẹ biết.
Không trái điều cha mẹ làm.
Không trái điều cha mẹ dạy.
Không cản chánh nghiệp mà cha mẹ làm.
Kẻ làm cha mẹ phải lấy năm điều này chăm sóc con cái:
Ngăn con đừng để làm ác.
Chỉ bày những điều ngay lành.
Thương yêu đến tận xương tủy.
Chọn nơi hôn phối tốt đẹp.
Tùy thời cung cấp đồ cần dùng..
Này Thiện Sinh, kẻ làm con kính thuận và cung phụng cha mẹ, cha mẹ thương con, bảo bọc cho con thế thì gia đình ấy được hạnh phúc, xã hội bình an, phương ấy được an ổn không có điều lo sợ.
Đạo nghĩa thầy trò
Đệ tử cung phụng sư trưởng có năm điều:
Hầu hạ cung cấp điều cần.
Kính lễ cúng dường.
Tôn trọng quí mến.
Thầy có dạy bảo điều gì không trái nghịch.
Thầy có dạy bảo điều gì nhớ kỹ không quên. Kẻ làm đệ tử cần phải thờ kính sư trưởng với năm điều ấy.
Thầy cũng có năm điều để săn sóc đệ tử:
Tùy thuận pháp mà huấn luyện.
Dạy những điều chưa biết.
Giải nghĩa rành rõ những điều trò hỏi.
Chỉ cho những bạn lành.
Dạy hết những điều mình biết không lẫn tiếc.
Nếu đệ tử kính thuận, cung kính nghe lời sư trưởng, thầy thì thương trò, chỉ bảo dạy dỗ tận tình cho học trò thì nền giáo dục xã hội ấy phát triển, phương ấy vững bền, an ổn không có điều lo sợ.
Đạo nghĩa vợ chồng
Chồng phải có năm điều đối với vợ
Lấy lễ đối đãi nhau.
Oai nghiêm không nghiệt.
Tùy thời cung cấp y, thực.
Tùy thời cho trang sức.
Phó thác việc nhà.
Vợ cũng phải lấy năm việc cung kính đối với chồng
Dậy trước.
Ngồi sau.
Nói lời hòa nhã.
Kính nhường tùy thuận.
Đón trước ý chồng.
“Chồng đối với vợ thương yêu, tôn trọng, vợ đối với chồng cung kính đối đãi nhau, như thế thì phương ấy được an ổn không điều gì lo sợ”.
Quan hệ bạn bè, tình làng nghĩa xóm
Người ta phải lấy năm điều thân kính đối với bà con
Chu cấp.
Nói lời hiền hòa.
Giúp ích.
Đồng lợi.
Không khi dối.
Bà con cũng phải lấy năm điều đối lại
Che chở cho mình khỏi buông lung.
Che chờ cho mình khòi hao tài vì buông lung.
Che chở khỏi sự sợ hải.
Khuyên răn nhau lúc ở chỗ vắng người.
Thường ngợi khen nhau.
“Tình người, tình làng nghĩa xóm, biết thân kính bà con như vậy thì phương ấy được yên ổn không điều chi lo sợ”.
Quan hệ chủ tớ, trên dưới
Này Thiện Sinh, chủ đối với tớ có năm điều để sai bảo
Tùy khả năng mà sai sử.
Tùy thời cho ăn uống.
Phải thời thưởng công lao.
Thuốc thang khi bệnh.
Cho có thời giờ nghỉ ngơi.
Tôi tớ phải lấy năm điều phụng sự chủ:
Dậy sớm.
Làm việc chu đáo.
Không gian cắp.
Làm việc có lớp lang.
Bảo tồn danh giá chủ.
“Này Thiện Sinh, nếu chủ đối với tớ được như vậy thì phương ấy được an ổn không điều chi lo sợ”.
Quan hệ giữa đàn việt với Sa-môn
Kẻ đàn việt cung phụng hàng Sa-môn với năm điều.
Thân hành từ.
Khẩu hành từ.
Ý hành từ.
Tùy thời cúng thí.
Không đóng cửa khước từ.
Sa-môn, Bà-la-môn cũng khuyên dạy theo sáu điều:
Ngăn ngừa chớ để làm ác.
Chỉ dạy điều lành.
Khuyên dạy với thiện tâm.
Cho nghe những điều chưa nghe.
Những gì đã được nghe làm cho hiểu rõ.
Chỉ vẻ con đường sanh thiên.
“Này Thiện Sinh, nếu đàn việt kính phụng hàng Sa-môn, Bà-la-môn như thế thì phương ấy được an ổn không điều gì lo sợ”.
Bấy giờ Thiện Sinh bạch Phật:
“Lành thay, bạch Thế Tôn! Thật quá chỗ mong ước của con xưa nay, vượt xa những lời dạy của cha con. Như lật ngửa những gì bị úp xuống; như mở ra những gì bị đóng kín; như người mê được tỏ, đang ở trong nhà tối được gặp đèn, có mắt liền thấy. Những gì được Như Lai thuyết giảng cũng như thế; bằng vô số phương tiện khai ngộ cho kẻ ngu tối; làm rõ pháp thanh bạch. Phật là Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, do đó có thể chỉ bày, hướng dẫn cho đời. Nay con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Cúi xin đức Thế Tôn chấp thuận cho con được làm ưu-bà-tắc ở trong Chánh pháp. Kể từ hôm nay cho đến trọn đời, con nguyện không giết, không trộm, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.”
Đọc toàn bộ nội dung kinh, một bản kinh ngắn, súc tích, ngôn ngữ Phật dùng rất rõ ràng mà bất cứ ai đọc cũng có thể nắm bắt, lời dạy như luồng sáng mở ra những gì bị đóng kín; như người mê được tỏ, đang ở trong nhà tối được gặp đèn, có mắt liền thấy, rất thiết thực, căn bản, rất cần cho chúng ta trong ứng xử với các mối quan hệ thường ngày trong cuộc sống.
Các pháp đều nương với nhau mà tồn tại, cũng vậy, mỗi người trong cuộc sống cũng đều phải có nghĩa vụ và trách nhiệm về một điều gì đó với một ai đó, mỗi một ai đó sẽ là phần còn lại về nghĩa vụ và trách nhiệm của người nào đó, suy ra sẽ nhìn thấy một ma trận ngang dọc, ma trận vuông tròn các quan hệ. Quan hệ cha mẹ, con cái, ai cũng ít nhất một lần làm học trò, ai cũng ít nhất có một người bạn, ai cũng phải làm một việc gì đó để sống,…vì vậy cần phải ứng xử sao cho hợp đạo hợp nghĩa, đúng mực để tự bảo vệ bản thân tức là bảo vệ cho gia đình, cho xã hội.
Kinh Thiện Sanh, là bản kinh căn bản dạy cho ta biết cách giữ gìn các mối quan hệ đó một cách tốt đẹp, ở đó ta thấy được các quan hệ được Phật dạy đều theo hai chiều rất tinh tế, như đời: “đường hai nẻo xuống lên”.
Khi trang trí sân vườn, ngoài việc mua các loại cây cảnh, hòn non bộ, bạn còn có thể mua các loại đá dăm, đá lát, đá cuội về điểm xuyết cho sân vườn, nó sẽ có tác dụng làm tăng sự tao nhã của sân vườn. Nhưng nếu số lượng đá trong sân vườn quá nhiều s
Phong thủy học truyền thống cho rằng, nếu rải quá nhiều đá sẽ làm tiêu hao hơi khí của đất, ảnh hưởng đến cây trồng, tổn thương tới dương khí.
Đá hấp thụ nhiệt lượng rất lớn nhưng khả năng tản nhiệt lại rất chậm. Dưới ánh nắng chói chang của mùa hè, đá sẽ giữ lại nhiệt lượng và phản xạ nhiệt lượng ra ngoài, nhiệt lượng này tỷ lệ thuận với số đá được rải trong sân vườn, khiến cho bạn có cảm giác nóng nực. Vào mùa đông giá lạnh, đá hút khí ẩm ban ngày, khiến xung quanh càng thêm lạnh lẽo, bạn ra đó có thể bị nhiễm lạnh. Trong những ngày mưa, rải nhiều đá cuội sẽ cản trở sự bay hơi của nước đọng, càng làm tăng độ ẩm, làm nặng thêm hơi ẩm trong nhà.
Mặt khác, trong sân vườn rải quá nhiều đá cuội, thì khi bước, bàn chân cảm thấy chộn rộn không thoải mái, thậm chí có trường hợp nghiêm trọng là trật khớp, bong gân.
Vì vậy, khi lát, rải đá cần chú ý:
Trang trí đá tại sân vườn cần tăng cường dùng những vật liệu cứng nhân tạo hoặc có sự gia công của con người như khắc đá, khắc gỗ, chậu cảnh, đài phun nước, hòn non bộ và các cảnh quan mềm như trồng cỏ, bụi cây thấp, bồn nước, xen kẽ nhau, hỗ trợ nhau, thông qua cảnh quan toàn bộ ngôi nhà để thể hiện nét văn hóa sâu đậm.
Khi lát, rải đá, phải lựa chọn đá sao cho có kích thước vừa phải và mang tính thực dụng cho cả ngôi nhà. Nếu diện tích sân vườn rộng, có thể rải ít đá cuội có kích cỡ lớn, nhỏ khác nhau, phải lát, rải thật cẩn thận tỉ mỉ và trồng xen kẽ với cỏ để tăng thêm mỹ quan và tránh được tác hại do đá cuội gây ra.
Đọc bài của giáo sư Lê Trung Hưng viết về các bí quyết để đóan về cung Mạng của lá số tử vi, quý bạn từng theo dõi KHHB chắc thấy rằng giáo sư Hưng thuộc lò Thiên Lương. Giáo sư Hưng có thể được kể là môn đồ sang giá nhất của cụ Thiên Lương.
1.Tử Vi dưới nhãn quan Huyền Cơ đạo thuật
Khoa học Tử Vi theo truyền thuyết thì phát sinh từ đời nhà Tống (Trung Hoa) và do Trần Đoàn hiền triết phát huy thành hệ thống lý học, để rồi sau đó được các thế hệ nối tiếp vừa đóng góp nghiên cứu, vừa quảng bá nhân gian như một khuynh hướng tiên tri các hoạt động của mỗi con người. Xã hội Á Đông xưa trọng kẻ sĩ hơn hết thảy :
- Dân hữu tử, sĩ vi chi tiên
Mẫu người đại nhân phải hội đủ các yếu tố hơn đời và hơn người qua sự tinh thông nho, y, lý số. Trong khi đại đa số quần chúng lo sinh nhai bằng cách sinh hoạt trên căn bản nông nghiệp, thì giới sĩ phu miệt mài bằng các suy tư nhân linh của đạo học Đông Phương, lấy tĩnh trạng làm căn bản biện chứng cho các động trạng. Hai chiều hướng trái ngược :
- Đa số : Động trạng - Tĩnh trạng
- Thiểu số : Tĩnh trạng - Động trạng
Làm cho khoa lý học Tử Vi trở thành huyền học và tệ hơn nữa là thành đạo thuật mưu sinh của của những " bậc đại nhân nửa chừng xuân " vì tham vọng cho cá nhân. Nhãn quan chung của nhân gian, xưa đến nay một phần bị mê hoặc bởi các thuật sĩ, một phần chịu ảnh hưởng triết lý nhị nguyên của Tây Phương (qua cố gắng nhiệt thành của các quan Tây Phương cai trị thời pháp thuộc), nhìn môn Tử Vi như một kiến thức của óc mê tín, chỉ một vài năm gần đây, giới trí thức mới đang kiếm các phục hồi cho khoa Tử Vi bằng những nổ lực của luận lý, là đem kỹ thuật của Tây Phương giải thích sáng tỏ một phần góc cạnh " áo bí " của khoa học nhân văn này. Trong tinh thần mới ấy, khoa Tử Vi không thể chỉ nghiên cứu bằng những mẫu chuyện truyền khẩu, bằng những câu phú thực nghiệm trải qua thời gian đã bị tam sao thất bổn : mà phải vận dụng tinh thần tinh tế của lý học hiện đại đồng thời vẫn lấy căn bản " dịch lý " của Đông Phương làm nền tảng phán đoán. Nếu ai cũng biết cái tinh hoa của quan niệm " ý tại ngôn ngoại " " của " lời vô ngôn " đẻ ra cung cách của Thuật Zen (Thiền) thì cái tinh túy mềm dẻo và thích nghi của Yoga càng phải nên áp dụng vào khoa Tử Vi để linh động biện chứng những tương quan của các dữ kiện (tạm gọi là sao trên lá số Tử Vi) chi phối đời người.
2.Kỹ thuật tiêu chuẩn để nhận biết lá số Tử-Vi
Trong phạm vi bài tham luận này, bỏ ra ngoài những giai đoạn lập lá số Tử -Vi mà tạm coi như việc hoàn thành lá số có đầy đủ. Người có bản số hãy theo theo dõi các dữ kiện " sao " sau đây :
1- Dữ kiện nghị lực : Sao Thiên Mã.
2- Dữ kiện sinh tồn :các sao vòng Tràng Sinh.
3- Dữ kiện hưng thịnh : các sao vòng Lộc-Tồn.
4- Dữ kiện tính khí : các sao vòng Thái Tuế.
5- Dữ kiện thời vận : các sao Tuần và Triệt.
6- Dữ kiện bẩm chất : các sao Thiên Không, Đào Hoa, Hồng Loan.
7- Dữ kiện hoạt động : các sao Vòng Mệnh và vòng Thân.
8- Dữ kiện thú tính : các sao Địa Không, Địa Kiếp, Đà La, Kình Dương, Hỏa-Tinh, Linh-Tinh.
9- Dữ kiện phù trợ : các sao Tả-Phù, Hữu-Bật, Lực Sĩ, Bác-Sĩ, Hóa Quyền, Hóa Khoa.
10- Dữ kiện ma thuật : Mệnh vô chính diệu.
Ngoài các dữ kiện sao vừa nói, ta hãy nói sơ lược lại nền tảng phối hợp ngũ hành, để thích nghi luận lý :
a- Tương sinh : Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thủy-Mộc.
b- Tương khắc: Mộc-Thổ-Thủy-Hỏa-Kim-Mộc.
c- Bình Hòa : Thổ gặp Thổ (dù là loại Thổ gì cũng vậy)
d- Bất cập : Hỏa gặp Hỏa (dù là loại Hỏa gì cũng vậy)
e- Thái quá : Thủy gặp Thủy (dù là loại Thủy gì cũng vậy)
f- Phát triển :Kim gặp Kim và Mộc gặp Mộc.
Có nhiều sách ghi thêm tính chất của nhiều loại Thổ, nhiều loại Hỏa để cố gắng phân tích sự tiết giảm xung đột hay tăng thêm hòa hợp; điều này có phần biện bác để an ủi cho những người gặp cảnh ngộ xấu hoặc là tâng bốc những người ưa nghe điều tốt mà thôi. Vì đã ở thế cùng hành tất phải ở tình trạng ngưng đọng hơn là ảnh hưởng với nhau (lý thuyết nhất nguyên tính trạng) Do đó, chủ ý của bài viết này là nhằm cái biến dịch của ngũ hành trên 12 cung số của bản số Tử Vi mà luận giải.
3. Sao Thiên Mã
Người Đông Phương ưa cảm thông sự vật hơn phát biểu sự vật nên việc dùng từ ngữ chỉ có ý nghĩa tượng trưng (chứ không có tính cách mô tả chủ quan như Tây Phương) cho nên dữ kiện được gọi là " sao Thiên Mã " chỉ nên hiểu là cái nghị lực của con người trong bản số Tử Vi. Tùy theo vị trí của 4 cung : Dần, Tỵ, Thân, Hợi mà sao Thiên Mã đóng, ta hiểu như sau :
a- Thiên Mã ở cung Dần : đứng ở cung Mộc rất hợp với người mạng Mộc bạc nhược với người mạng Kim, vất vả với người mạng Thủy, làm hại người mạng Thổ, làm lợi người mạng Hỏa.
b- Thiên Mã ở cung Tỵ : đứng ở cung Hỏa rất hợp với người mạng Hỏa, làm lợi người mạng Thổ, vất vả người mạng Mộc, làm hại người mạng Kim, bạc nhược với người mạng Thủy.
c- Thiên Mã ở cung Thân : đứng ở cung Kim rất hợp với người mạng Kim, làm lợi người mạng Thủy, vất vả người mạng Thổ, làm hại người mạng Mộc, bạc nhược với người mạng Hỏa.
d- Thiên Mã ở cung Hợi : đứng ở cung Thủy rất hợp với người mạng Thủy, làm lợi cho người mạng Mộc, vất vả với người mạng Kim, làm hại người mạng Thổ.
4. Vòng Tràng Sinh
Vòng Tràng sinh có 12 sao đóng đủ trên 12 cung Tử Vi, ý nghĩa của vòng sao này ta nên coi là dữ kiện sinh tồn của đương số, do đó, khi cung an Mệnh, cung Phước đức (tiền kiếp) và cung Tật Ách (hậu kiếp) có những sao cùng hành với bản mệnh thì luận ra tính cách thọ, yểu, mạnh, khỏe, hay đau yếu :
a- Đối với saoTràng Sinh (là Thủy) Cung Mệnh sinh sao, sao sinh bản Mệnh là đắc cách. Thí dụ : Người hành Mộc, mệnh an tại Dậu (Tuổi Âm Nam, Dương Nữ) thuộc Kim có các Sao Trường Sinh là Thủy (Kim-Thủy) sao Trường sinh sinh ra hành Mộc. Cung Mệnh sinh sao, sao khắc bản mệnh là sống không khỏe mạnh. Cung Mệnh khắc sao, sao sinh bản Mệnh bất đắc kỳ tử. Cung Mệnh khắc sao, sao khắc bản mệnh : chết non.
b- Đối với sao Thai (Thổ) thì cần phải đóng ở cung Phúc Đức để chứng tỏ tiền kiếp đã kết tụ tinh anh, phát kết ra kiếp hiện tại, thì lý tự nhiên cuộc sống phải bền, để ý nghĩa của " Thai " hiện hữu như một căn bản không phản hồi được. Trường hợp này, cung Mệnh có sao Mộ, cung Quan có Trường Sinh, Cung Tài có Đế Vượng, (ngu si hưởng thái bình!?)
c- Đối với sao Đế Vượng (là Kim) cần phải tụ hội ở cung Tật ách (hậu kiếp) để minh chứng ngày ra đi sang kiếp sau được tiếp đón như một thành tích vẻ vang tuyệt đỉnh (vì trong chu kỳ sinh thái của Vòng Tràng-Sinh, thì giai đoạn Đế Vượng coi như điểm cực đại của hàm số Parabole, biểu diễn vòng luân hồi của con người). Trường hợp này là người có sao Tuyệt ở cung Mệnh (khôn ngoan ở đời)
5. Vòng Lộc Tồn
Sống ở đời, người ta ai cũng cần có phương tiện thuận lợi tối đa để hưởng hạnh phúc (dù là hạnh phúc tạm), nên trong khoa Tử-Vi có vòng sao Lộc Tồn được coi là những dữ kiện của sự hưng thịnh. Vòng Lộc Tồn cũng có 12 sao an đủ 12 cung trên bản số. Tuy nhiên ta lưu ý 4 cung : Dần, Mão, Thân, Dậu nhiều nhất :
a- Tuổi Giáp : Lộc tồn ở Dần.
b- Tuổi Ất : Lộc tồn ở Mão
c- Tuổi Canh : Lộc tồn ở Thân.
d- Tuổi Tân : Lộc tồn ở Dậu.
Cho nên, những người sanh năm Dần-Ngọ-Tuất mà tuổi Giáp (Giáp Dần, Giáp Ngọ, Giáp Tuất) thì hưởng cái lộc này lâu dài (đúng nghĩa Lộc tồn) những người tuổi Ất Mão, Ất Hợi và Ất Mùi; Canh Thân, Canh Tý và Canh Thìn; Tân Tỵ, Tân Dậu, và Tân Sửu cũng được hưởng may mắn nói trên. Kỳ dư các tuổi khác nếu, cung Mệnh, cung Quan hoặc cung Tài mà có Lộc tồn, thì Lộc tuy có nhưng không tồn được (hưởng trong giai đoạn ngắn mà thôi !? )
6. Vòng Thái Tuế
Có lẽ đây vòng sao hệ trọng nhất đối với người nghiên cứu khoa tử vi lý học . Bởi vòng này diễn tả cái tính khí, phẩm hạnh của đương số cũng như nó cho biết cái chu kỳ thăng trầm của cuộc đời . Cho nên ta phân 12 sao của ngũ hành là :
- Dần Ngọ Tuất : Hành Hỏa
- Tỵ Dậu Sửu : Hành Kim
- Hợi Mão Mùi : Hành Mộc
- Thân Tý Thìn : Hành Thủy
Thành ra 4 nhóm mệnh danh như sau :
a-Nhóm chánh phái : Thái tuế, Quan Phù, Bạch Hổ.
b-Nhóm tả phái : Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn.
c-Nhóm thiên hữu : Long Đức, Thiếu Âm, Trực Phù.
d-Nhóm thiên tả : Thiếu dương, Tử Phù, Phúc Đức.
Cung An Mệnh thuộc nhóm nào, thì giúp ta nhìn thấy cái cá tính chung của đương số ngay, Ví dụ như :
- Những người tuổi Dần, Ngọ, Tuất, cung Mệnh, cung Quan Lộc và Tài Bạch cũng đóng ở 3 cung Dần, Ngọ, Tuất (có nhóm chánh phái đóng) thì là những người đảm lược, lương hảo, anh hùng.
- Những người tuổi Tỵ, Dậu, Sửu có 3 cung Mệnh, Quan và Tài đóng ở 3 cung Tỵ, Dậu, Sửu (có nhóm chánh phái đóng) thì hiển hách hơn người, được kính nể;
- Ta tiếp tục lý luận như trên cho các người tuổi Thân, Tý, Thìn. Mệnh, Quan và Tài cũng đóng Thân, Tý, Thìn. Những người tuổi Hợi, Mão Mùi mà 3 cung Hợi, Mão, Mùi đều là chánh phái cả. Cộng thêm các dữ liệu sao có trong bản số của đương số thì kết luận thêm cho chính xác.
Giai đoạn tuổi ở 1 trong 3 cung của nhóm: Thái Tuế-Quan Phù-Bạch Hổ, đều là thời vận tốt nhất cho người có lá số tử vi. Khi cung Mệnh của của bản số tử-vi thuộc nhóm tả phái đó là người bất mãn, lang bạt và đau khổ. Cung Mệnh thuộc nhóm thiên hữu là người bẩm chất hiền lành nhưng nhu nhược, cung Mệnh thuộc nhóm thiên tả, là người khôn vặt, lanh lợi những chuyện tầm thường.
7. Luật của sao TUẦN & TRIỆT
Kiếp nhân sinh ví như cái xe lăn trên đường đời, Sao Triệt được coi như cái Thắng đầu của xe, còn sao Tuần coi như bộ thắng sau của xe. Thắng đầu cần mới nguyên, rất hữu hiệu trong việc cản bánh xe lăn (đôi khi còn tạo ra nguy hiểm ! làm cho xe lật) nên dưới 30 tuổi ảnh hưởng của sao Triệt thật đậm đà. Sao Tuần ít bộc phát ảnh hưởng rõ rệt, nhưng lại bền vững suốt đời người (thắng của bánh xe sau tác dụng điều hòa tốc độ của xe chạy). Luật hóa giải TUẦN-TRIỆT được đặc biệt cho những ai có bản số Tử vi mà cung Mệnh bị một trong hai sao Triệt và Tuần trấn đóng, thì đi đến giai đoạn cung có sao còn lại đóng, là vận hên đã tới.
Thí dụ : Mệnh đóng tại Tỵ có sao Triệt, cung Phúc đức có sao Tuần , vậy đi đến giai đoạn cung Phúc đức thì phát huy được danh phận (dù không thuộc vòng Thái Tuế-Quan Phù-Bạch Hổ). Lý giải điều này cũng tự nhiên. Vi khi xe chạy mà người tài xế điều hành được hai bộ thắng thì tất nhiên phải an toàn bảo đảm như ý muốn.
8. Bộ ba Thiên Không, Đào Hoa và Hồng Loan
Người biết coi Tử vi, ai cũng biết :Thiên Không (Hành Hỏa), Đào Hoa (Hành Mộc) và Hồng Loan (thuộc hành Thủy). Bản chất của Hỏa Tinh là tàn phá, là gieo rắc tai ương (Thần chiến tranh) : cho nên khi ba cung Mệnh, Quan và Tài của bản số tử vi có :
a- Thiên Không, Đào Hoa nghĩa là Mộc dưỡng hỏa, để Hỏa tàn phá thêm mạnh dạn, thêm khốc liệt, ý tượng trưng cho sự khôn ngoan quá quắt của đương số. Người có cách này là mẫu người muốn chiếm đọat, muốn lấn tới để ăn người.
b- Thiên Không Hồng Loan : Nghĩa là lửa đã bị Thủy trấn áp, bó tay qui hàng, nên cung Mệnh có cách này là mẫu người thoát tục, thích cảnh tịnh hơn cảnh động.
c- Thiên Không độc thủ (ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi có Hồng Đào chiếu) bụng dạ thất thường người Âm Nam, Âm Nữ là lửa ngầm, người Dương Nam, Dương Nữ là lửa bùng : tất cả đều thủ đoạn vặt hoặc không bộc lộ hoặc phát tiết ra ngòai.
9. Vòng Mệnh và Vòng Thân
Căn cứ của Luật Tam hạp :
- Dần Ngọ Tuất là Hỏa.
- Thân Tý Thìn là Thủy.
- Hợi Mão Mùi là Mộc.
- Tỵ Dậu Sửu là Kim.
Thì khi cung an Mệnh đứng ở vị trí nào so với vòng Thái Tuế, ta phải nhìn thế tam hợp của cung an Mệnh như Vòng tha nhân đối với Vòng bẩm tính đương số là vòng Thái Tuế tam hợp của cung an Thân là Vòng hành động của đương số. Biện chứng qua Luật ngũ hành tiêu-trưởng, ta vạch trần được tác phong đường số một các dễ dàng.
Ví dụ : Người tuổi Tỵ (Vòng Thái Tuế là Tỵ-Dậu-Sửu : Kim), cung an Mệnh đóng ở Tuất (Vòng tha nhân là Dần-Ngọ-Tuất : Hỏa), cung an Thân ở Tý (Vòng hành động là Thân-Tý-Thìn : Thủy). Ta lý giải ngay : số người này là mẫu người ra đời bị người ta chèn ép (do Hỏa khắc Kim), chịu nhiều thua thiệt, vất vả (vì Kim sinh Thủy)
10. Nhóm hung tinh chiến lược
Ta gọi là hung tinh chiến lược, vì các sao Địa không, Địa Kiếp, Đà La, Kình Dương, Hỏa Tinh, Linh Tinh, có những bộ mặt thú tính man dã nhưng hóa giải được khi điều hướng đúng chỗ.
a- Hai sao Địa Kiếp, Địa Không khi đứng trong nhóm tam hợp của vòng Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ, thì dù đắc địa (Tỵ, Hợi) hay hãm địa, cũng vẫn mất hiệu lực phá hại của nó, để trở nên ý nghĩa của người có tài mà không có thời. Mặt khác, nếu đương số thuộc hành Thổ thì đã làm cho tính chất Hỏa của Không Kiếp bị tiết khí : nên vẫy vùng yếu kém hẳn.
b- Hai sao Đà La đóng ở Dần Thân Tỵ Hợi và Kình Dương đóng ở tứ mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi ) lại có Vòng Thái Tuế ở đây thì không còn là sao tác họa mà trở thành bộ " hồi chánh tinh " đới công chuộc tội, phát võ hiển vinh, vượng phu ích tử.
c- Hai sao Hỏa tinh, Linh Tinh cũng là bộ Hỏa-Linh. Nếu đứng trong vòng Thái Tuế thì tạo thành những cái thất bại anh dũng của đương số. Người có cách này, dù " khí thiêng đã về thần" cũng được người đời kính nể khâm phục. Nói cách khác: Đấy là cách của người " Sinh thọ tử bất ninh thọ nhục "
11. Bộ sao phò trợ
Quan niệm " phù thịnh không phù suy " là ý nghĩa của các nhóm sao phù trợ : Tả Phù, Hữu Bật, Lực Sĩ, Bác Sĩ, Hóa Quyền ... Nếu các vòng sao này
lọt vào trong vòng Thái Tuế, thì đúng là những " lương đống công thần " giúp cho đương số thăng tiến thành đạt ở đường đời, bằng trái lại, chúng nhảy sang vòng Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn (nhóm tả phái), thì chẳng khác nào thả cọp về rừng, sức tán hại càng phát triển, làm cho đương số trăm chiều vất vả (Đặc biệt nếu cung Mệnh có cách này, mà vòng Thái Tuế không tam hợp với cung Mệnh, thì rõ ràng là loại Hoàng Sào thảo khấu, ác bá côn đồ). Nhớ đây chỉ là cái chung nhất cần phải kết hợp thêm các dữ liệu sao trong bản số Tử-vi để mà diễn giải thì mới có kết luận thêm chính xác tới mức độ nào.
12. Mệnh vô chính diệu : cách số của ma thuật
Nói chung những người có cung Mệnh vô chính diệu, thường là mẫu người sắc sảo, quyền biến có nhiều cảm ứng bén nhạy hơn người có chính diệu thủ cung Mệnh. Xem số Tử-vi những người Mệnh vô chính diệu rất khó, vỉ độ chuyển biến của các dữ kiện "sao" rất "Sensible" nghĩa là có cách số ma thuật huyền hoặc nhất. Càng nhiều hung tinh, bại tinh đắc địa tọa thủ Mệnh, càng có lợi cho đương số. Tuy nhiên vẫn cần vòng Thái Tuế tam hợp với cung an Mệnh hoặc cung an Thân để có thể hướng cái chánh nghĩa về cho nhóm ác tinh này, bằng không thì đương số sẽ trở thành những hồ ly tinh tu luyện thành người, bản tính dã thú ... khó phân biệt (!?) sẽ tạo ra những nghiệp ác để rồi đền tội một cách mau chóng (chết yểu).
Nếu nắm vững mười dữ kiện căn bản nêu trên, lẽ tất nhiên khoa Tử-Vi không còn là bí truyền ân sủng cho một riêng ai; tất cả chỉ còn là toàn những tương quan ngũ hành sinh khắc hoặc chế hóa, chỉ còn là những lý giải minh bạch cho các dữ kiện được gọi là "sao" của bản số Tử vi mà nhãn quan của con người nghiên cứu luôn luôn phải khách quan một cách thành khẩn.
Khoa lý học này sẽ có một ngày cởi bỏ cái " áo bí " của nó, để trở thành một khoa nhân văn chứa đựng tính thiện ác và thái độ vô cầu của người thâm cứu.
Người ngón tay ngắn, thô dù là nam hay nữ đều có tính cách hoạt bát, nồng nhiệt, tác phong làm việc quyết đoán mạnh mẽ, không lề mề chậm chạp, không cứng nhắc chú ý tiểu tiết, gặp chuyện gì cũng có thể nhanh chóng đưa ra quyết định. Kiểu người như vậy thích hợp để làm kinh doanh. Với bộ óc sắc sảo, cái nhìn độc đáo và cá tính mạnh mẽ, chắc chắn họ sẽ đạt thành tựu nhất định trong sự nghiệp.
2. Ngón tay thanh mảnh
Người có ngón tay thanh mảnh hay suy nghĩ, tính tình ổn trọng, cái nhìn sâu sắc. Họ có khả năng phát hiện ra những điểm mấu chốt sau đó bình tĩnh phân tích vấn đề. Những người như vậy rất thích hợp với công việc lao động trí óc như: nghiên cứu, kinh tế, tài chính, chuyên gia phân tích thị trường chứng khoán hoặc các công việc có liên quan. Họ có thể đạt được thành tựu tốt nếu theo đuổi công việc như vậy.
3. Ngón áp út và ngón trỏ có cùng chiều dài
Người sở hữu bàn tay như vậy thường có đầu óc linh hoạt, phản ứng nhanh nhẹn, rất nhạy bén với các cơ hội. Họ giỏi đầu cơ tích trữ để kiếm tiền, vì vậy phù hợp với công việc liên quan đến cổ phiếu, kinh tế, bất động sản, đầu tư...
4. Bàn tay gầy, tĩnh mạnh hiện rõ
Đây là đôi bàn tay điển hình của những người ham học tập nghiên cứu, họ không ham công danh lợi lộc, thích quan sát, kiểm tra. Họ thích tự chìm vào thế giới riêng của mình, tập trung nghiên cứu những điều họ quan tâm. Những người như vậy rất thích hợp với công việc nghiên cứu khoa học và có thể đạt được những thành quả lớn lao. Nhưng bởi họ chỉ tập trung vào nghiên cứu, hoàn toàn không có khái niệm về tiền bạc nên rất khó để trở thành người giàu có.
Lắp điều hòa trong phòng khách ‘chuẩn’ phong thủy –
Theo quan niệm của phong thủy, những vật dụng trong gia đình như tủ lạnh, điều hòa thuộc hành Kim.Vì thế, khi điều hòa hoạt động sẽ có ảnh hưởng tương đối lớn đến phong thủy trong phòng. Muốn tìm được vị trí thích hợp để lắp đặt điều hòa, đầu tiên cầ
Theo quan niệm của phong thủy, những vật dụng trong gia đình như tủ lạnh, điều hòa thuộc hành Kim.Vì thế, khi điều hòa hoạt động sẽ có ảnh hưởng tương đối lớn đến phong thủy trong phòng.
Muốn tìm được vị trí thích hợp để lắp đặt điều hòa, đầu tiên cần chú ý đến mệnh của các thành viên trong nhà. Nếu trong nhà, thành viên nào hợp với mệnh Kim sẽ bày trí điều hòa phù hợp với hướng tương ứng. Ví dụ bố hợp mệnh Kim nên đặt điều hòa hướng Tây Bắc, mẹ thuộc Kim nên đặt điều hòa hướng Tây Nam. Gió của điều hòa sẽ tạo ra từ trường phong thủy. Cửa điều hòa hướng lên trên sẽ có lợi cho phong thủy trong phòng, vì gió thổi lên sẽ tạo được sự lưu thông, điều hòa không khí tốt nhất cho phòng.
Bên cạnh cách xác định phương hướng, khi lắp đặt điều hòa trong căn phòng có nhiều vượng khí nhất, bạn cũng nên tránh một vài điều cấm kỵ sau:
1. Tránh phạm “Bạch Hổ sát”
Tính theo hướng từ trong ra ngoài, tả là Thanh Long, hữu là Bạch Hổ, hậu là Huyền Vũ, tiền là Chu Tước. Trong căn phòng, nếu đặt điều hòa phạm Bạch Hổ thì gió từ điều hòa được ví như hơi thở của hổ. Điều này sẽ gây bất hòa, vợ chồng thường xuyên xích mích, cãi cọ.Tuy nhiên, nếu điều hòa nhà bạn đặt ở hướng Bạch Hổ, bạn có thể hóa giải bằng cách lắp một chiếc quạt điện lên phía tường đối diện với điều hòa để đổi hướng gió. Bên cạnh đó, khi bật điều hòa cũng nên mở hé cánh cửa sổ để căn phòng có thêm không khí tự nhiên nhằm hóa giải sát khí mà “Bạch Hổ” gây nên.
2. Tránh thổi vào Tài vị
Khi gió của điều hòa thổi trực tiếp vào Tài vị, của cải và những tài vận của gia đình cũng tiêu tan. Đây là một trong những điều cấm kỵ nhất khi lắp điều hòa, đặc biệt đối với những gia đình làm kinh doanh. Cửa chính là nơi luồng khí của những vận khí tốt đi vào, nếu đặt điều hòa đối diện với cửa chính thì ngôi nhà sẽ không tụ được tài khí, khiến tình cảm giữa mọi người trong nhà trở nên lạnh nhạt. Bạn có thể hóa giải bằng cách đặt bình phong kính hoặc tấm rèm vải ở vị trí huyền quan.
3. Tránh đặt điều hòa trên sofa
Sofa là chiếc ghế mà chủ nhà hay ngồi, nếu điều hòa thổi trực tiếp từ trên xuống ghế sofa sẽ làm cho chủ nhà cảm thấy khó chịu. Điều này cũng rất kỵ bởi như vậy sẽ khiến gia đình như mất chỗ dựa vững chắc, ảnh hưởng lớn đến công việc và sự nghiệp. Bạn có thể giá giải bằng cách đổi hướng gió thổi của điều hòa hoặc chuyển vị trí ghế chủ sang một vị trí hợp lý hơn.
Hiện tượng: Trần nhà quá cao hoặc quá thấp đều có thể đều gây ảnh hưởng bất lợi cho người sống trong nhà.Trần nhà quá cao sẽ làm cho không khí trong nhà lưu thông kém, âm khí quá nặng, âm dương mất cân bằng, bất lợi cho sức khỏe con người. Trần nhà q
Hiện tượng: Trần nhà quá cao hoặc quá thấp đều có thể đều gây ảnh hưởng bất lợi cho người sống trong nhà.Trần nhà quá cao sẽ làm cho không khí trong nhà lưu thông kém, âm khí quá nặng, âm dương mất cân bằng, bất lợi cho sức khỏe con người.
Trần nhà quá thấp trong phong thủy gọi là “hống thiên ốc”. Kiểu nhà này sẽ làm hao tổn quá nhiều tinh khí của con người, dễ làm con người này sinh tâm lý cô độc, sợ hãi… Đối với xã hội hiện đại mà nói, ngôi nhà như vậy còn bất lợi cho môi trường và việc tiết kiệm năng lượng.Trong các đô thị hiện đại, chiều cao tốt nhất của trần nhà nên khống chế ở khoảng 2.8m – 3.2m. Như vậy mới có lợi cho sự cân bằng âm dương trong nhà.
Phương pháp hóa giải: Nếu trần nhà quá thấp thì không nên lắp thêm trần thạch cao nữa, có thể lắp nhiều đèn một chút để hóa giải, ngoài ra còn cần chú ý cố gắng mở cửa sổ để thông gió, để duy trì sự cân bằng âm dương khí trường trong nhà và trao đổi không khí trong lành, tốt nhất trong nhà nên đặt một Đồng Long (con rồng bằng đồng), hiệu quả sẽ càng tốt hơn. Nếu trần nhà quá cao thì rất dễ hóa giải, đó là lắp tấm trần thạch cao thấp xuống một chút là được.
Di tinh là hoạt động phóng tinh trong khi nằm ngủ. Di tinh còn gọi là mộng tinh có nhiều, phần lớn các nam thanh niên đều mộng tinh vì con trai từ 13 - 15 tuổi bắt đầu bước vào thời kỳ thanh xuân, có nhu cầu tình dục. Đây là hiện tượng sinh lý có liê
Sao Cự Môn trấn mệnh tại cung Tý, Ngọ, lại có Lộc Tồn, Khoa, Quyền, Lộc, Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt gia hội là hợp cách. Nhưng chỉ có người sinh năm Tân, Quý mới được coi là hợp cách cục này. Lá số sở hữu cách cục này chủ về lý tưởng cao xa, tài hoa xuất chúng, trí tuệ hơn người, theo nghề kinh doanh sẽ trở thành bậc đại phú, theo nghiệp chính trị sẽ có được chức vị, vị trí cao, nhiều lộc, nắm giữ binh quyền nếu không cũng trở thành nhân vật có quyền uy trong giới khoa học, học thuật. Nhưng phải trải qua một quá trình phấn đấu vất vả, gian khổ mới có được thành tựu, nên cách cục này mới có tên gọi là "Ngọc ẩn trong đá". Sinh năm Tân, Quý là thượng cách, sinh năm Tỵ cũng cát lợi, trấn mệnh tại Tý sinh năm Canh cũng chủ về cát lợi.
Ưu điểm: Có thị hiếu tốt, có hoài bão và nghị lực phấn đấu, ham thích nghiên cứu, tác phong linh hoạt, kiên cường, cứng rắn, tuổi trẻ gặp nhiều gian truân vất vả, đến trung niên và cuối đời mới thành tựu.
Khuyết điểm: Tuổi trẻ nhiều vất vả, gặp chuyện phiền phức, oan uổng.
Ca quyết như sau: Cự môn tý ngọ hỷ tương phùng Cánh trị sinh nhân Tân Quý trung Tảo tuế định vi phan quế khách Lão lai tư nhuận phú gia ông
Nghĩa là: Cự môn ưa gặp Tý cùng Ngọ Lại gặp năm sinh là Quý Tân Sớm được thành danh nhập cung quế Đến già thong thả hưởng giàu sang
Trong kinh viết rằng: "Cự môn tại Tý, Ngọ là ngọc ẩn trong đá", "Cự Môn tại Tý Ngọ gặp Khoa, Lộc, Quyền, ngọc ẩn trong đá phúc vô cùng". Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Văn hóa xem ngày tốt xấu và việc có nhất thiết phải chọn ngày tốt xấu
Theo Cup-ria-nô-vích (Liên Xô cũ) thì giả thuyết về nhịp tháng của các quá trình sinh học xác định ba trạng thái của cơ thể, không chỉ áp dụng ở Nhật Bản mà còn được áp dụng ở nhiều nước Tây Âu vào công tác an toàn, giao thông nói riêng, an toàn lao động
Viết về phong tục cổ truyền mà cố tình lảng tránh vấn đề này, ắt không thoả mãn yêu cầu của số đông bạn đọc, vì lễ cưới, lễ tang, xây nhà dựng cửa, khai trương, xuất hành... còn nhiều ngươi, nhiều nơi chú trọng ngày lành. Đó là một thực tế. Ngặt vì có một số người bài bác hẳn, cho là gieo rắc mê tín dị đoan; một số khác lại quá mê tín, nhất là việc lớn việc nhỏ, việc gì cũng chọn ngày, từ việc mua con lợn, làm cái chuồng gà, cắt tóc cho con, đi khám bệnh... mọi điều may rủi đều đổ lỗi cho việc không chọn ngày, chọn giờ. Một số đông khác tuy bản thân không tin nhưng chiều ý số đông, làm ngơ để cho vợ con đi tìm thầy lễ, thầy cúng định ngày giờ xét thấy không ảnh hưởng gì nhiều, hơn nữa, để tránh tình trạng sau này lỡ sẩy ra sự gì không lành lại đổ lỗi cho mình "Báng". Thế tất một năm, năm mười năm, đối với một người đã đành, đối với cả nhà, cả chi họ làm sao hoàn toàn không gặp sự rủi ro!. ngày tốt, ngày xấu về khí hậu thời tiết thì dự báo của cơ quan khí tượng là đáng tin cậy nhất. Khoa học đã dự báo được hàng trăm năm những hiện tượng thiên nhiên như nhật thực, nguyệt thực, sao chổi, sao băng... chính xác đến từng giờ phút. Nhưng tác động của tự nhiên sẽ tạo nên hậu quả xấu đối với từng người, từng việc, từng vùng ra sao, đó còn là điều bí ẩn. thời xưa, các bậc trí giả tranh cãi nhiều vẫn chưa ngã ngũ nên ai tin cứ tin, ai không tin thì tuỳ "Linh tại ngã, bất linh tại ngã" (cho rằng thiêng cũng đã tự mình ra, cho rằng không thiêng, cũng tự mình ra), "Vô sư vô sách, quỉ thần bất trách" (không biết vì không có thầy, không có sách, quỷ thần cũng không trách).
Thực tế, có ngày mọi việc mọi điều đều thành công, nhiều điều may mắn tự nhiên đưa tới; có ngày vất vả sớm chiều mà chẳng được việc gì, còn gặp tai nạn bất ngờ. Phép duy vật biện chứng giải thích đó là qui luật tất nhiên và ngẫu nhiên. Trong tất nhiên có yếu tố ngẫu nhiên, trong ngẫu nhiên cũng có yêú tố tất nhiên. Lý luận thì như vậy nhưng có bạn đọc cũng muốn biết cụ thể trong tháng này, ngày nào tốt, ngày nào xấu, ngày nào tốt cho việc làm nhà, cưới vợ, tang lễ phải chánh giờ nào...Đa số bà con ta vẫn nghĩ "có thờ có thiêng, có kiêng có lành", nhất là khi điều khiêng đó không ảnh hưởng gì mâý tới công việc cũng như kinh tế...
Thời xưa, mặc dầu có người tin, có người không tin, toà Khâm thiên giám ban hành "Hiệp kỷ lịch", mà số người biết chữ Hán khá nhiều nên phần đông các gia đình cứ dựa vào đó mà tự chọn ngày giờ. Thời nay, rải rác ở các làng xã, còn sót lại một vài người còn biết chữ Hán nhưng sách vở cũ hầu như không còn, các gia đình muốn xem ngày giờ để định liệu những công việc lớn đành mất công tốn của tìm thầy. Khốn nỗi, mỗi thầy phán một cách, chẳng biết tin ai. Đã có trường hợp, bốn ông bà thông gia vì việc chọn ngày tốt xấu, tuổi hợp tuổi xung, tranh cãi nhau phải chia tay để lại mối hận tình. Gần đây trên thị trường xuất hiện cuốn sách viết về cách xem ngày tính giờ. Cũng có tác giả có kiến thức, có tư liệu, viết rất thận trọng, nhưng ngược lại có người viết rất cẩu thả, dựa theo thị hiều thương trường, vô căn cứ với động cơ kiếm tiền bất chính. Có cuốn sách tốt xấu, thực hư lẫn lộn, không có tên nhà xuất bản, không có tên tác giả, không ghi xuất xứ của tư liệu...Cùng một ngày, cuốn này, ghi nên xuất hành, cưới hỏi, cuốn khác ghi kỵ xuất hành, cưới hỏi, làm người xem rất hoang mang. "Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay", biết tin vào đâu? Biết tìm ai mà hỏi?
Để đáp ứng nhu cầu của một số bạn đọc, chúng tôi xin trích dẫn một số tư liệu khoa học và toàn văn bài "Xem ngày kén giờ" của học giả Phan kế Bính đăng trong cuốn "Việt Nam phong tục"xuất bản năm 1915, tái bản năm 1990 tại nhà xuất bản thành phố Hồ Chí minh và chúng tôi xin có phần chủ giải (cũng bằng những câu hỏi). Nhưng trước khi xem nên nhắc lại các bạn: "Khi gia đình có việc hệ trọng, cần nhiều người tham dự thì càng thận trọng càng hay, nhưng chớ quá câu nệ nhiều khi nhỡ việc. Mỗi người một thuyết, mỗi thầy một sách, rối rắm quá, có khi cả tháng không chọn được ngày tốt. Xem như trong cuốn "Ngọc hạp kỷ yếu" không có một ngày nào hoàn toàn tốt, hoặc hoàn toàn xấu đối với mọi người, mọi việc, mọi địa phương.
Có ngày tối ngày xấu không?
Có những bạn đọc hỏi: Chúng ta đã từng phê phán và sẽ tiếp tục phê phán mọi loại thầy bói, mê tín dị đoan, bịp bợm. Nhưng gần đây lại thấy nhiều người bảo: Khoa học có thể tính toán để biết trước ngày tốt, ngày xấu, thực hư ra sao?
Thầy bói là người hành nghề mê tín, biết nắm tâm lý. "Bắt mạch" đối tượng (qua nét mặt, lời nói, chi tiết trình bày và những câu thăm dò...). Nhưng bài viết này không nói về họ mà chỉ điểm qua những điều khoa học dự tính để biết trước ngày lành, tháng tốt... của mỗi người.
Nhịp sinh học - đặc điểm của sự sống: Nghiên cứu mọi cơ thể sống đều thấy hoạt động của chúng không phải lúc nào cũng giống lúc nào mà có khi mạnh khi yếu, khi nhanh khi chậm... Những thay đổi đó nhiều khi xảy ra rất đều đặn và liên tiếp thành chu kỳ, còn gọi là nhịp sinh học: Có nhịp ngàyđêm, nhịp tháng (liên quan đến âm lịch) nhịp mùa xuân, hạ, thu, đông... Các nhịp sinh học có tính di truyền. Pháp hiện ra các nhịp sinh học người ta nhận thấy các quá trình sinh lý trong cơ thể có thể biến đổi theo thời gian. Sự biến cố đó có tính chất chu kỳ và tuần hoàn (lặp đi lặp lại khá đều đặn).
Nghiên cứu về sự chết và tỷ lệ chết của con người, thấy có nhiều biến đổi tuỳ thuộc vào nguyên nhân gây chết. Thí dụ: Vào khoảng 3-4 giờ sáng áp suất máu thấp nhất, não được cung cấp lượng máu ít nhất nên người bệnh hay bị chết nhất. Các cơn động kinh thường có giờ. Bệnh nhân hen cũng thườg lên cơn hen về đêm vào khoảng 2-4 giờ sáng (trùng với thời gian bài tiết cóc- ti-cô-ít ra nước tiểu xuống tới mức thấp nhất). Cơn hen về đêm nặng hơn cơn hen ban ngày. Những biến đổi có tính chất chu kỳ hàng năm thì có nguy cơ chết về đau tim cao nhất là vào tháng giêng đối với một số nước ở bán cầu phía Bắc. Cao điểm hàng năm của các vụ tự tử ở bang Min-ne-so-ta cũng như ở Pháp là vào tháng 6. Hai nhà khoa học An-đơ-lô-ơ và Mét đã phân tích 3620 trường hợp tai nạn lao động và thấy làm ca đêm ít tai nạn hơn làm ca sáng và chiều.
Ngày vận hạn của mỗi người: Trên cơ sở tính toán ảnh hưởng của các yết tố vũ trụ lên trái đất và bằng phương pháp tâm sinh lý học thực nghiệm, người ta đã rút ra kết luận là từ khi ra đời, cuộc sống của mỗi người diễn ra phù hợp với ba chu kỳ riêng biệt: Chu kỳ thể lực: 23 ngày, chu kỳ tình cảm 28 ngày, chu kỳ chí tuệ 33 ngày. Mỗi chu kỳ gồm hai bán chu kỳ dương và âm. Bán chu kỳ dương (1/2 số ngày của đầu chu kỳ) được đặc trưng bằng sự tăng cường khả năng lao động. Còn bán chu kỳ âm (1/2 số ngày cuối chu kỳ)thì các hiện tượng đều ngược lại. Cả ba chu kỳ trên đều chuyển tiếp từ bán chu kỳ dương sang bán chu kỳ âm. Ngày trùng với điểm chuyển tiếp này là ngày xấu nhất của mỗi chu kỳ. Thực tế đã chứng minh: Đối với chu kỳ tình cảm, vô cớ. Đối với chu kỳ trí tuệ, đó là ngày đãng trí, khả năng tư duy kém. Đặc biệt đối với chu kỳ thể lực, đó là ngày thường sảy ra tai nạn lao động. Đối với hai chu kỳ, số ngày chuyển tiếp trùng nhau chỉ xảy ra một lần trong một năm. Ngày trùng hợp đó của ba chu kỳ là ngày xấu nhất, có thể coi là ngày "Vận hạn" của mỗi người.
Nếu biết ngày, tháng, năm sinh của mỗi người, nhờ máy tính điện tử có thể dễ dàng xác định được các chu kỳ, điểm chuyển tiếp và sự trung hợp điểm chuyển tiếp giữa các chu kỳ.
Công ty giao thông của Nhật Bản Omi Reilvei đã áp dụng thành tựu vào bảo vệ an toàn giao thông. Họ đã xác định các chu kỳ, các điểm chuyển tiếp giữa các chu kỳ của từng người lái và báo cho lái xe biết trước những "ngày xấu" để họ phòng tránh. Nhờ đó số tai nạn giao thông ở Nhật Bản đã giảm đi rất nhiều, đặc biệt vào đầu năm áp dụng (969-1970) số tai nạn giao thông đã giảm hản 50%.
Theo Cup-ria-nô-vích (Liên Xô cũ) thì giả thuyết về nhịp tháng của các quá trình sinh học xác định ba trạng thái của cơ thể, không chỉ áp dụng ở Nhật Bản mà còn được áp dụng ở nhiều nước Tây Âu vào công tác an toàn, giao thông nói riêng, an toàn lao động nói chung.
Các vấn đề trên đây không phải là "thầy xem bói nói mò" mà dựa vào một dữ kiện thực tế nhất định. Nó cũng phù hợp với nhận thức về mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố địa vật lý vũ trụ với các quá trình hoạt động chức năng của cơ thể. (Bác sĩ Vũ Định- Trích báo "Hà nội mới chủ nhật" số 73)
Vua Trần Minh Tông với việc chọn ngày làm lễ an táng mẹ.
Năm 1332 Thuận thánh Bảo từ Hoàng Thái Hậu mất. Con là Thượng Hoàng Minh Tông lúc đó đã nhường ngôi cho con là Hiến Tông. Thượng hoàng sai các quan chọn ngày chôn cất. Có người tâu rẳng: "Chôn năm nay tất hại người tế chủ". Thượng hoàng hỏi : "Người biết sang năm ta nhất định chết à?". Người ấy trả lời không biết. Thượng hoàng lại hỏi: "Nếu sang năm trở đi ta chắc chắn không chết thì hoán việc chôn mẫu hậu cũng được, nếu sang năm ta chết thì lo xong việc chôn cất mẫu hậu chẳng hơn là chết mà chưa lo được việc đó ư? Lễ cát, lễ hung phải chọn ngày là vì coi trọng việc đó thội, chứ đâu phải câu nệ hoạ phúc như các nhà âm dương". Rốt cuộc vẫn cử hành lễ an táng.
Văn Khấn Tết Trung Nguyên (15/7 Âm lịch) - Cúng Chúng sinh
Văn Khấn Tết Trung Nguyên (15/7 Âm lịch) - Cúng Chúng sinh ngoài sân, trước thềm nhà để cúng cô hồn, ma đói là những vong linh ”không nơi nương tựa”.
Văn Khấn Tết Trung Nguyên (15/7 Âm lịch) – Cúng Chúng sinh được dùng vào Tiết Trung Nguyên. Theo tín ngưỡng truyền thống của người Việt Nam Tiết Trung Nguyên là tiết của dịp ”Xá tội vong nhân” nơi Âm Phủ. Người xưa cho rằng: Ngày Rằm tháng bảy hàng năm thì mọi tội nhân cõi Âm, trong đó có những vong linh của gia đình, họ tộc mình đang bị giam cầm nơi địa ngục được xá tội và ra khỏi Âm Phủ lên Dương Gian.
Bởi vậy, các gia đình ở Dương Gian làm cỗ bàn, vàng mã cúng gia tiên, cầu siêu độ trì cho họ. Ngoài cúng gia tiên ngày ”Xá tội vong nhân” mọi nhà còn bầy lễ cúng chúng sinh ngoài sân, trước thềm nhà để cúng cô hồn, ma đói là những vong linh ”không nơi nương tựa”.
Sắm lễ cúng tết Tết Trung Nguyên (15/7 Âm lịch) – Cúng Chúng sinh
Ngày Rằm tháng Bảy theo tục xưa, mọi gia đình đều sắm hai lễ để cúng:
– Lễ cúng gia tiên gồm: Hương, hoa, rượu, xôi và mâm cỗ mặn với nhiều món ăn được chế biến cẩn thận, trình bày đẹp, vàng mã, quần áo, hài giấy…
– Lễ cúng chúng sinh gồm các lễ vật: Bánh đa, bỏng, ngô, khoai lang luộc, trứng luộc, kẹo bánh, xôi chè và cháo hoa. Vàng mã, tiền giấy, quần áo chúng sinh…
Văn khấn tết Tết Trung Nguyên (15/7 Âm lịch) – Cúng Chúng sinh
Nam mô A di đà Phật! Nam mô A di đà Phật! Nam mô A di đà Phật!
Con lạy Đức Phật Thích Ca giáng trần Con lạy Bồ Tát Quan Âm, con lạy Táo phủ Thần quân chính thần.
Tiết tháng 7 sắp thu phân Ngày rằm xá tội vong nhân hải hà Âm cung mở cửa không nhà bơ vơ Đại Thánh Khảo giáo A nan Đà Tôn giả Tiếp chúng sinh không mả, không mồ bốn phương Gốc cây xó chợ đầu đường Không nơi nương tựa đêm ngày lang thang Quanh năm đói rét cơ hàn Không manh áo mỏng, che làm heo may Cô hồn nam bắc đông tây Trẻ già trai gái về đây hợp đoàn Dù rằng : Chết uổng ,chết oan Chết vì nghiện hút chết tham làm giàu Chết tai nạn – chết ốm đau Chết đâm chết chém chết đánh nhau tiền tình Chết bom đạn, chết đao binh Chết vì chó dại, chết đuối, chết vì sinh sản giống nòi Chết vì sét đánh giữa trời Nay nghe tín chủ thỉnh mời Lai lầm nhận hưởng mọi lời trước sau Cơm canh cháo nẻ trầu cau Tiền vàng quần áo đủ màu đỏ xanh Gạo muối quả thực hoa đăng Mang theo một chút để giành ngày mai Phù hộ tín chủ lộc tài An khang thịnh vượng hài hòa gia trung Nhớ ngày xá tội vong nhân Lại về tín chủ thành tâm thỉnh mời Bây giờ nhận hưởng xong rồi Dắt nhau già trẻ về nơi âm phần Tín chủ thiêu hóa kim ngân Cùng với áo quần đã được phân chia Kính cáo tôn thần Chứng minh công đức Cho tín chủ con tên là…………… Vợ/Chồng: ……………………….. Con trai: ………………………….. Con gái: ……………………
Mơ thấy đánh cược: Nhận thức của bạn có thể thay đổi –
Mơ thấy đánh cược cùng người khác, cho thấy nhận thức của bạn có thể được thay đổi. Mơ thấy người khác đánh cược, nhắc nhở bạn nên lưu ý đến đối thủ cạnh tranh. Mơ thấy mình thắng cược là một giấc mơ có ý nghĩa ngược lại, dự báo bạn có thể bị thua c
Phong thủy được nhiều người khát khao tin bởi nó là cái thuật tương đối chú trọng vào việc dò tìm ra cách phát phú quý, ngõ hầu nhanh chóng biến một người bình thường thành vinh hoa khác thường...
Theo ngôn ngữ của đám "cò" địa chính ở ta bây giờ, khái niệm "bất động sản" thường nôm nà mang nghĩa là "nhà" và "đất". Và để cho ngôi nhà hay mảnh đất ấy thật long lanh được giá, họ hay thao thao vẽ vời bàn về phong thủy. Đại loại, căn nhà lý tưởng thì trệt cũng như lầu, tả nên ốp đá xanh để lộ "Thanh Long", hữu nên gắn cẩm thạch trắng để hiện "Bạch Hổ". Khi nhà hay đất đã đúng theo thuyết phong thủy thì chủ nhân sẽ có "Tiền vào như nước sông Đà, tiền ra rò rỉ như cà phê phin".
Thực ra công năng của phong thủy là khá rộng, tuy nhiên nó không đi dò tìm long mạch của tình yêu, tình bạn, nhưng nó đâu chỉ bó hẹp trong danh lợi của dăm ba đời người. Hơn hết, nó thăng hoa bao quát cả một đạo lý. Thể của nó là khí. Dụng của nó là nước là gió. Bất cứ một ngôi nhà hay mảnh đất trong trắng lành mạnh nào muốn tồn tại, bắt buộc phải thanh thoát tụ khí. Và muốn đắc khí (có thể hiểu là Đạo) thì không gì bằng điều hòa cho được phong hoặc thủy.
Con người ta sống bám nhờ tự nhiên, hoặc nương thế đất hoặc theo hình trời. Sâu xa, phong thủy không phải là chuyện vớ vẩn huyền hoặc.
Phong thủy cũng hoàn toàn không phải là đặc sản chuyên biệt của Tàu, Tây cũng có mà Ta cũng có. Kim tự tháp Ai cập trục chính luôn chạy đúng theo hướng Nam Bắc. Các linh trụ trấn yêm Obelisk từ lâu đã xuất hiện trên vùng đất người Maya cổ đại. Trụ sở bộ quốc phòng Mỹ, lầu Năm góc khét tiếng là đồ hình bát quái đổ lật ngửa.
Ở ta đời nhà Lê, ông Nguyễn Đức Huyên người làng Tả Ao huyện Nghi Xuân (Nghệ Tĩnh) lừng danh là thầy địa lý cực giỏi. Rồi cũng giống như đa phần các thiêng liêng kinh điển, sách của ông Tả Ao đã thất truyền. Là cát bụi trở về với cát bụi.
Ngày nay, đám lăng nhăng hậu sinh hành nghề "cò" đất, đi đến đâu kiếm ăn cũng lấp lửng khoe trong tráp có giấu diếm sách này, cốt huênh hoang dụ xôi dụ thịt... Bây giờ là thời của "bất động sản" chưa ra để cửa đã rầm rầm gặp "phong thủy gia", comple ca táp lích kích những là thước Lỗ Ban rồi tróc long, la bàn.
Nhà chung cư xây đã có khuôn, ban công ngó thẳng vào ô văng hàng xóm cũng "bầy đặt" gọi "Minh đường hội tụ". Hỡi ơi, lăng Ly Sơn của Tần Thủy Hoàng quy mô to lớn phương vị tuyệt đúng. Thế nhưng, nó được xây trên xương máu của bảy mươi vạn dân công binh lính nên giấc mộng vạn thế đế vương chưa đầy 2 đời đã tuyệt hậu.
Người xưa đã từng khuyên "Tiên tích đức, hậu tầm long" (Tích đức trước rồi sau hãy tìm đất). Lời khuyên đơn giản này đang bị nhiều doanh nhân, quan chức đang trúng mánh lùng sục đi mua biệt thự theo đúng thuyết phong thủy thời thượng coi là lời vớ vẩn.
(Theo RobbReport VN/Motthegioi) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Cự Môn là âm thủy, là sao thứ 2 trong chòm sao Bắc Đẩu, hóa khí là ám, chủ về thị phi, đa nghi, tại chưởng quản vạn vật, tại số củ về thị phi.
Cự Môn là sao nói năng, chủ về tài ăn nói, phần nhiều thích hợp với những ngành nghề cần giao tiếp, nói năng, có sở trường xử lý các mối quan hệ công cộng, có khả năng trờ thành nhân tài ngoại giao. Nhưng cũng vì nói nhiều nên thất thố, dễ chuốc điều tiếng thị phi, lại khó tránh được canh tranh. Không thích hợp với nữ mệnh, trừ khi theo những nghề như giáo viên, biểu diễn, ngoại giao, marketing, nếu không, rất dễ trở thành hạng ngồi lê đôi mách.
Sao Cự Môn hóa ám, chủ về lo lắng buồn phiền, cũng chủ về vất vả. Ở bất kì cung vị nào, bất kể có cát tinh hội chiếu hay không, đều chủ về tuổi trẻ vất vả, phải phấn đấu gian khổ để có thu hoạch.
Sao Cự Môn rất ưa gặp Hóa Quyền, có thể tăng thêm lí tính và sức mạnh của lời nói, tính quyền uy. Nếu sao Cự Môn miếu vượng gặp Hóa Quyền, gặp lại lục cát tinh, phần nhiều đều nhờ có tài ăn nói mà trở thành nhà ngoại giao đảm đương những chức vụ quan trọng. Nếu sao Cự Môn ở cung miếu vượng mà gặp được sao Hóa Quyền, cũng có thể là bậc thầy nổi tiếng, có nhiều học trò.
Sao Cự Môn ưa gặp Hóa Lộc tại cung miếu, vượng địa, chủ về có khẩu phúc (được ăn ngon), đồng thời tăng thêm cảm tính và tài hùng biện, nếu gặp thêm các sao cát tinh chắc chắn sẽ có sự nghiệp về nghề nghiệp. Nếu như Hóa Lộc lại gặp Hồng Loan, Thiên hỷ, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Diêu, Hóa Khoa, rất thích hợp trong lãnh vực biểu diễn, diễn xuất, rất có khả năng sẽ trở thành nghệ sĩ nổi tiếng. Cự Môn, Hóa Lộc, Hóa Quyền có tửu lượng tốt, khẩu phúc tốt.
Sao Cự Môn không có sức đề kháng đối với lục sát tinh và sao Hóa Kị, và rất sợ gặp sao Kình Dương và Đà La, vì dễ khiến tình cảm trắc trở, gặp nhiều sóng gió. Nếu gặp các sao Hỏa tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp thì chủ về sự vất vả, trắc trở. Sao Cự Môn Hóa Kị thì ăn nói khó nghe nhưng lại rất thích nói, dễ gây phản cảm cho người khác, mà sinh ra điều tiếng thị phi, có khuynh hướng bất mãn với hiện thực, nếu gặp lại sát tinh, cần chú ý miệng lưỡi, dễ gây vạ đến kiện tụng thị phi.
Sao Cự Môn nếu gặp sao Thái Dương thì cát hung lẫn lộn. Gặp sao Thất Sát, chủ về sát thương, Gặp Tham Lang, Phá Quân, vì gian dâm mà tù tội. Gặp Đế Tọa (Tử Vi) thì khắc chế được tính ngoan cố của Cự Môn. Gặp Lộc Tồn thì giải trừ tai ách. Gặp Kình Dương, Đà La thì trai làm giặc cướp, gái làm xướng kĩ. Nếu đối cung có sao Hỏa Tinh, Linh Tinh, Bạch Hổ, mà không có Tử Vi trấn áp hay Lộc Tồn hóa giải, thì dễ bị đày ải hoặc xung quân đến phương xa. Tam hợp với Sát, Tấu dễ gặp hỏa hoạn, cố cô độc, là thân hà khắc, trừ khi theo nghiệp cửu lưu hoặc làm tăng đạo mới tránh được vất vả, hai hạn gặp hung tinh, nạn tai không nhẹ.
Sao Cự Môn và sao Thái Dương thủ mệnh tại cung Dần, Thân là cách "Cự Nhật đồng cung", có tài hùng biện, trước vất vả sau thành công. Sao Cự Môn thủ mệnh tại cung Tý, Ngọ, cung vị tam phương tứ chính có thêm Hóa Lộc, Hóa Quyền hoặc hóa khoa, là cách cục "Thạch trung ẩn ngọc" (ngọc ẩn trong đá), chủ về bất khuất kiên cường, lúc trẻ vất vả trung niên trở lên đạt thành tựu. Sao Cự Môn lạc hãm tại cung thân (Thìn, Tuất), lại gặp thêm tứ sát Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh tại cung mệnh là cách "Cự phùng tứ sát", nếu không có cát tinh ứng cứu thì sẽ dễ vì trốn tội mà phải lưu lạc nơi xa. Sao Cự Môn, sao Thiên Cơ cùng thủ mệnh tại cung Dậu có Hóa Kị đồng cung, hoặc tam phương tứ chính lại gặp Hóa Kị, là cách "Cự Cơ hóa dậu", chủ về làm việc gì cũng không thành, nữ mệnh ắt phá bại, khó tránh phiêu bạt.