Đinh Hợi mệnh gì –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
Các sao yểu mệnh và trường thọ của người lớn trong lá số tử vi:
Sự nghịch lý của Âm Dương: gây trục trặc căn bản và đa diện, tạo một yếu tố bất lợi cho cuộc đời nói chung và sự yểu nói riêng.
Sự đối khắc giữa Bản Mệnh và Cục: rất quan trọng, tuy không hẳn là quyết định.
Sự đối khắc giữa cung Mệnh và Bản Mệnh: trong trường hợp Mệnh vô chính diệu thì xấu.
Sự đối khắc giữa cung Mệnh, chính tinh của Mệnh và Bản Mệnh: nếu cung Mệnh có chính tinh, cung an Mệnh khắc chính tinh đó rồi chính tinh đó khắc lại Bản Mệnh một lần nữa thì trực tiếp hại cho Bản Mệnh.
Trường hợp bại địa và tuyệt địa của cung an Mệnh: rất bất lợi.
Cung Phúc xấu: làm dễ yểu hơn nữa. Cung Phúc xấu trong những trường hợp sau:
– có chính tinh tốt, đắc địa mà bị Tuần hay Triệt hoặc cả Tuần lẫn Triệt. Chỉ có một ngoại lệ duy nhất là Âm, Dương đắc địa ở Sửu, Mùi cần gặp Kỵ, Tuần, Triệt mới sáng lại;
– có chính tinh (tốt hoặc xấu, nhất là xấu) mà bị sát tinh nghịch cách xâm phạm. Số lượng sát tinh càng nhiều thì càng bất lợi. Nếu gặp hung, hao, hình, bại tinh thì đỡ hơn.
– không có chính tinh mà thiếu Tuần, Triệt trấn đóng;
– không có chính tinh mà thiếu Tuần, Triệt, Địa Không, Thiên Không hội chiếu;
– không có chính tinh mà bị xung chiếu bởi chính tinh hãm địa;
– cung Phúc ở bại địa và tuyệt địa;
– chính tinh của Phúc bị hành của cung khắc, chính tinh này lại khắc hành của Bản Mệnh;
Cần lưu ý rằng những bất lợi trên bổ túc thêm các bất lợi ở các mục trước. Nếu chỉ gặp riêng những trường hợp xấu của cung Phúc thì trước hết là yểu, hoặc là thọ mà nghèo hèn, hoặc là bị bệnh tật và họa nặng, hết sức bất lợi cho sự sống, hoặc có thể vì bệnh, họa, tật và nghèo đói mà tự tử.
Cung Mệnh, cung Thân, cung Hạn cùng xấu: Gặp thêm ba cung này xấu, càng dễ yểu hơn. Cái xấu của ba cung này tương tự như cái xấu của Phúc. Hạn nào xấu nhất thì dễ yểu trong thời gian đó. Nếu Mệnh tốt, Thân xấu gặp Hạn xấu sẽ yểu trong thời gian của Thân và của Hạn. Nếu Mệnh xấu, Thân tốt gặp Hạn xấu có thể đỡ khổ hơn: nếu không yểu trong thời hạn của Mệnh thì có thể qua khỏi và sẽ hanh thông sau 30 tuổi, chỉ hiềm phải hết sức vất vả trong vòng 30 tuổi đầu, đặc biệt là trong vòng hạn xấu (cụ thể như nghèo, thất nghiệp, bệnh, họa, tang khó, mồ côi, tự lập ...)
Cung Tật xấu: cá nhân bất hạnh về sức khỏe, về yểu dù có phú, có quý. Trong trường hợp này, ba cung Phúc, Mệnh, Thân phải đặc biệt tốt mới quân bình ít nhiều cái xấu của Tật.
Yểu cách của chính tinh:
Tử Vi: đi chung với Tham Lang thì giảm thọ, với Phá Quân thì phải ly hương mới sống lâu, với Tuần hoặc Triệt thì yểu, với Kình Đà Không Kiếp thì bị hãm hại. Yểu cách càng rõ nếu Tử Vi ở những vị trí bình hòa như Hợi, Tý, Mão, Dậu.
Liêm Trinh: đi với Thất Sát hoặc Tham Lang, Liêm Trinh chẳng những yểu mà họ hàng cũng có người chết sớm, bằng không cũng bị ác bệnh, tù tội, nghèo hèn, tha phương cầu thực. Đi với Phá Quân thì phải xa quê và vất vả mới thọ.
Thiên Đồng: đóng ở Dậu, Thìn, Tuất có nghĩa giảm thọ và xa cách họ hàng. Đồng cung với Cự Môn cũng yểu, hay bị quan tụng và tranh chấp nhau trong gia đình. Đồng cung với Thái Âm ở Ngọ cũng kém thọ và cô độc.
Vũ Khúc: giảm thọ nếu đồng cung với Thất Sát hay Phá Quân. Ngoài ra còn cô độc, rời tổ. Họ hàng cũng nghèo và yểu.
Thái Dương: đóng ở những cung ban đêm thì xấu: yểu và chết bi thảm, nhất là đối với người sinh về đêm. Ngoài ra, Âm Dương cùng hãm địa phối chiếu với nhau hoặc xung chiếu nhau cũng là yếu tố đối khắc vận mệnh quan trọng.
Thiên Cơ: xấu nếu đồng cung với Thái Âm ở Dần, đặc biệt là đối với phụ nữ.
Thiên Phủ: ở Sửu, Mùi, Mão, Dậu thì không hay. Đồng cung với Tuần, Triệt, Không, Kiếp, Thiên Không càng bất lợi hơn vì những sao này giảm thọ.
Thái Âm: đóng ở những cung ban ngày với người sinh ban ngày, Thái Âm hãm địa kém thọ, nhất là đối với nữ. Nếu Âm đồng cung với Thiên Đồng ở Ngọ hay Thiên Cơ ở Dần thì cũng có nghĩa tương tự.
Tham Lang: bất lợi ở Tý, Ngọ hoặc khi nào đồng cung với Tử Vi, với Liêm Trinh (ở Tỵ, Hợi).
Cự Môn: không tốt ở Thìn, Tuất vì giảm thọ, hay bị quan tụng. Đi với Thiên Đồng cũng có ý nghĩa tương tự.
Thiên Tướng: xấu ở Mão, Dậu lúc thiếu thời, chỉ khi về già mới có may mắn.
Thiên Lương: giảm thọ ở Tỵ Hợi hoặc đồng cung với Thái Dương ở Dậu.
Thất Sát: đóng ở Thìn, Tuất hoặc đồng cung với Liêm Trinh, Vũ Khúc thì yểu và chết vì binh đao, hình ngục. Riêng ở Tý Ngọ, tuy kém Phúc, ly hương nhưng cũng còn có ít nhiều cơ may thọ.
Tất cả các sao ở những vị trí kể trên mà gặp thêm sáu sát tinh Kình, Đà, Không, Kiếp, Hỏa, Linh thì tuổi thọ nhất định giảm. Nếu cung Mệnh, Thân cùng xấu, yểu cách càng dễ đoán.
Địa Không, Địa Kiếp: hết sức tai hại lúc hãm địa, có hiệu lực quân bình hay lấn át cả Tử, Phủ. Lúc hãm địa, hai sao này có ý nghĩa xấu toàn diện có liên quan đến cái chết, cái nghèo, cái họa, cái bệnh, cái tật, tóm lại nó tượng trưng cho sự đổ gãy nặng nề, mau chóng và bất khả kháng (nếu thiếu cát và giải tinh). Đóng ở những cung Phúc, Mệnh, Thân, tác họa toàn diện đó sẽ kéo dài suốt đời, dưới nhiều hình thái hoặc một trong các hình thái kể trên. Con người càng lớn tuổi, hai sao này mạnh thêm với thời gian để gây họa, bệnh, tật hoặc đồng loạt trên nhiều phương diện, có thể xem như là họa vô đơn chí. Nếu đóng ở cung cường khác như Quan, Tài, Di, Phu Thê, hai sao này tác họa trên những lãnh vực này một cách không chối cãi. Đi với sát tinh hãm địa khác, Kiếp Không càng sát hại mạnh mẽ hơn. Đi với Đào hay Hồng cũng yểu.
Hỏa Tinh, Linh Tinh: là "đoản thọ sát tinh", có hiệu lực làm giảm thọ, nhất là ở hãm địa. Nếu đắc địa thì mức thọ cao hơn. Đi chung với Kình, Đà hãm địa thì phải chết thảm, với Kiếp Không thì càng nguy kịch hơn.
Kình Dương, Đà La: giảm thọ nếu hãm địa và ly hương lập nghiệp vất vả. Đặc biệt ở Tý, Ngọ, Mão, Dậu, Kình Dương ở Mệnh thì chết non. Đi với sát tinh kể trên, tai họa càng khủng khiếp. Riêng ở Ngọ, Kình thủ Mệnh ví như gươm kề cổ ngựa, rất dễ nguy kịch. Nếu gặp thêm Thất Sát, Thiên Hình, chắc chắn phải yểu tử và chết tang thương. Được cát tinh đi chung thì may rủi đi liền với nhau.
Kiếp Sát: chỉ khi nào thủ Mệnh, Kiếp Sát mới nguy kịch, có ý nghĩa giống như sao Địa Kiếp, chỉ giảm thọ, đặc biệt là vì một bệnh hiểm nghèo, sau một cuộc giải phẫu.
Ngoài những sát tinh kể trên, yểu cách còn do bại tinh góp phần tăng hiệu lực. Đó là các sao: Tang Môn, Bạch Hổ - Đại Hao, Tiểu Hao - Thiên Khốc, Thiên Hư - Bệnh, Bệnh Phù - Suy, Tử, Tuyệt - Thiên Thương, Thiên Sứ nhập hạn.
Hóa Kỵ, Đà La, Thiên Riêu: giảm thọ nếu đồng cung hoặc hội chiếu hoặc ở vị trí tam ám liên hoàn (Mệnh có một sao, hai bên giáp hai sao) hoặc đi cùng với Thái Âm, Thái Dương (sáng hay mờ). Hóa Kỵ chỉ tốt khi đồng cung với cả Âm Dương ở hai cung Sửu và Mùi.
Cô Thần, Quả Tú: đi với sao xấu, Cô Quả chỉ giảm thọ hoặc là cô độc.
Giải Thần nhập hạn: nếu cả đại tiểu hạn cùng gặp Giải Thần cùng với các sao xấu khác thì chắc chắn phải chết một cách nhanh chóng. Sao này chỉ hóa giải được nạn nhỏ. Gặp đại nạn, đại bệnh, Giải Thần là tử thần, làm chết một cách nhanh chóng. Sao xấu dù đắc địa hội với Giải Thần ở đại tiểu hạn cũng không cứu gỡ được nguy cơ này.
Xương, Khúc: báo hiệu chết non nếu ở Nô hoặc đồng cung với Liêm ở Tỵ, Hợi, Sửu, Mùi, Mão, Dậu; với Phá ở Dần. Yểu cách lệ thuộc vào hai lý do: tại họa nặng nề và bất kỳ xảy ra; bệnh hoạn nặng nề mà có.
Cách thọ của người lớn:
Một cáchtổng quát, cát tinh đắcđịa nói chung đều cónghĩa thọ. Những cát tinhđó đóng ở Phúc vàThân thì càng hay.
Thọ cách của chính tinh:
Tử Vi: thọ nhất là Tử Vi ở Ngọ và khi Tử Vi đồng cung với Thiên Phủ hoặc Thiên Tướng. Tử Vi với Thất Sát thì kém hơn, nghĩa là cũng thọ nhưng phải ở xa quê cha đất tổ.
Liêm Trinh: thọ ở Dần, Thân, hoặc khi nào đồng cung với Thiên Phủ hoặc Thiên Tướng.
Thiên Đồng: thọ ở Mão hoặc khi nào đồng cung với Thiên Lương hoặc Thái Âm (ở Tý) hay Tràng Sinh.
Thái Dương: chỉ thọ khi tọa thủ ở các cung ban ngày như Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, nhất là đối với những người sinh ban ngày và tuổi dương. Tại Sửu, Mùi, đồng cung với Thái Âm, cần phải có Tuần, Triệt, Hóa Kỵ đồng cung mới thọ.
Thiên Cơ: thọ ở Tỵ, Ngọ, Mùi và khi đồng cung với Thiên Lương hoặc Thái Âm (ở Thân) hoặc Cự Môn.
Thiên Phủ: thọ ở Tỵ, Hợi hoặc đồng cung với Tử Vi, Liêm Trinh, Vũ Khúc.
Thái Âm: chỉ thọ khi đóng ở các cung ban đêm như Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý nhất là đối với người sinh ban đêm, đặc biệt vào giờ có trăng lên và người tuổi Âm. Tại Sửu, Mùi cần có Tuần, Triệt hay Hóa Kỵ đồng cung.
Tham Lang: thọ ở Thìn, Tuất hoặc khi đồng cung với Vũ Khúc hay Tràng Sinh, ở Dần Thân thì kém hơn.
Cự Môn: thọ ở Hợi, Tý, Ngọ hoặc đồng cung với Thái Dương ở Dần, với Thiên Cơ ở Mão Dậu.
Thiên Tướng: thọ ở Tỵ, Hợi, Sửu, Mùi hoặc đồng cung với Tử Vi, Liêm Trinh, Vũ Khúc.
Thiên Lương: thọ ở Tý, Ngọ, Sửu, Mùi hoặc đồng cung với Thiên Đồng, Thái Dương (ở Mão) và Thiên Cơ.
Thất Sát: chỉ thọ ở Dần, Thân, nhưng với điều kiện phải ly hương; hoặc khi đồng cung với Tử Vi.
Phá Quân: thọ ở Tý, Ngọ nhưng phải xa quê.
Những phụ tinh có thọ cách độc lập gồm: Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Thiên Mã, Long Trì, Phượng Các, Ân Quang, Thiên Quý, Thiên Quan, Thiên Phúc, Tràng Sinh, Đế Vượng, Thiên Giải, Địa Giải, Giải Thần, Long Đức, Nguyệt Đức, Phúc Đức, Thiên Đức, Thiên Thọ.
Những sao thọ liên đới tức là cần có sao tốt khác đi kèm, gồm có: Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phù, Hữu Bật, Cô Thần, Quả Tú, Đào Hoa, Hồng Loan và Đà La ở Dần Thân vô chính diệu, không có Tuần Triệt đồng cung.
Tất cả sao, chính hay phụ tinh, kể trên muốn toàn nghĩa phải có thêm điều kiện: không bị Tuần, Triệt trấn thủ, không bị sát tinh đồng cung. Nếu phạm những cấm kỵ này, tuổi thọ bị giảm. Đặc biệt tại cung hạn của tuổi già - hoặc là cung Thân, hoặc là cung đại hạn, tiểu hạn - cách thọ phải vẹn toàn, đông đảo thì mới mong sống lâu được.
Nếu áp dụng phương pháp dọn dẹp nhà cửa khoa học, hợp lý và đúng phong thủy, bạn vừa có thể tiết kiệm được thời gian, công sức mà lại mang đến nhiều may mắn, tài lộc cho gia đình mình trong năm mới.
Cho dù năm mới vừa qua, bạn có thể không may mắn ở một số chuyện, nhưng hãy tin rằng “tống cựu nghinh tân”, tức đuổi cái cũ, xấu đi thì cái mới, cái tốt sẽ đến. Trong số những cái cũ và xấu ấy, bụi bặm là nguyên nhân đầu tiên tác động xấu đến phong thủy của nhà bạn. Vì vậy, bạn hãy bắt đầu việc quét dọn nhà cửa với tâm trạng phấn khỏi và theo gợi ý dưới đây:
1. Dọn dẹp theo nguyên tắc
Bạn nên quét dọn theo nguyên tắc từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài: Bắt đầu từ tầng thượng đi xuống nhà dưới, từ bếp ra ngoài sân. Lau sạch bụi bám trên bề mặt các đồ vật bằng gỗ, kim loại, đặc biệt là gương, kính để tái kích hoạt các thuộc tính tự nhiên của ngũ hành trong đồ vật.
Sau đó quét dọn những góc nhà đầy bụi bặm, mạng nhện. Hãy nghĩ rằng những chỗ bụi bám chính là nơi tàng trữ xui xẻo, bạn cần chịu khó lau chùi thật sạch sẽ. Những đồ hư cũ, không dùng được nữa thì nên vứt bỏ. Riêng với giày dép cũ, bạn có thể tận dụng để hóa giải xui xẻo cho những người phạm Thái Tuế, Tam Tai, năm hạn…
Trước ngày 25 tháng Chạp, hãy mang giày dép cũ bỏ tại ngã 3 đường gần nhà, sau đó tìm đường khác để quay về nhà. Đây là quan niệm giải hạn của các cụ ngày xưa. Việc mang đồ ra bỏ ở ngã ba đường sẽ giúp những vị khách lãng du thiếu thốn có đồ sử dụng, niềm vui của họ sẽ hóa giải hết vận hạn của ta.
2. Lưu ý vật dụng trong bếp
Theo phong thủy, bếp là nơi tích tụ tài lộc của cả gia đình. Bếp thuộc Hỏa, kỵ Kim, Thủy. Vì vậy, khi dọn dẹp, cần sắp xếp những vật thuộc Kim (như dao, muỗng, nĩa…) hay Thủy (tủ lạnh, nước uống…) tránh xa bếp. Nếu để dao gần bếp thì gây tán tài, tiền bạc hao hụt. Điều kỵ nhất là vị trí bếp đối diện với nhà vệ sinh. Trong trường hợp này, nên sử dụng quạt hút gió, quạt treo tường để thay đổi hướng gió trong khu vực bếp hoặc bố trí cây xanh để tăng Mộc tính, trung hòa giữa Hỏa – Thủy và khử mùi, lọc khí CO2 thải ra khi đun nấu.
3. Làm mới phòng khách
Ở phòng khách, bạn nên giặt giũ hoặc thay rèm cửa, sơn phết, thay giấy dán tường mới. Năm Qúy Tỵ nghiêng về hành Thủy nên bạn có thể chọn những màu sắc thuộc hành Kim như trắng, xám bạc, vàng ánh kim; hay hành Thủy như xanh dương, hoặc hành Mộc như xanh lá cây, xanh nõn chuối để tạo ra sự tương sinh (Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc) nhằm mang lại may mắn. Bạn cũng có thể treo tranh “Kim Kê hý Nhật” – “Gà trống vàng gáy mừng mặt trời” để thành công trong sự nghiệp, tiêu trừ tật bệnh. Nếu đang kinh doanh, việc trang trí hình tượng trâu kéo bắp cải, trâu kéo xe tiền sẽ giúp công việc thuận lợi.
4. Cẩn trọng với bàn thờ
Đối với khu vực thờ tự, hãy dùng khăn giấy ướt lau sạch bụi bặm cho các tượng (thần tài, thổ địa) hoặc ảnh trên bàn thờ. Tuy nhiên, nên hạn chế di chuyển tượng, ảnh và không dùng giẻ lau. Tiếp theo, hãy kê gọn bàn thờ cho hợp lý theo nguyên tắc: Bát nhang lúc nào cũng đặt xa tượng/ảnh nhất, nghĩa là gần với người thắp nhang nhất, khoảng ở giữa dùng để bày nước, trà, rượu, bình hoa hoặc là mâm trái cây khi cúng. Đối với những nhà thắp nhang nhiều, khi cúng vào ngày 30 tháng Chạp nên đốt hết phần chân nhang của năm cũ, lưu ý là không được vứt vào sọt rác.
Theo phong thủy, quan điểm kỵ di chuyển bát nhang trên bàn thờ là không đúng. Thật ra, việc đánh bóng lư đồng, bát nhang vào dịp lễ, Tết vừa thể hiện sự trang trọng vừa giúp “tống cựu nghinh tân”.
5. Tẩy uế để xua khí xấu
Cuối cùng, hãy nấu nước lá bưởi hoặc lá khổ qua (mướp đắng) để tẩy uế cho nhà cửa. Sau đó, mau thuốc xông nhà hay nhang trầm đốt lên để xua đi tất cả khí xấu, chuẩn bị đón một năm mới thật tinh khiết, nhiều niềm vui.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Thông thường mỗi người có độ dài các ngón tay khác nhau, bạn muốn biết ngón tay dài nói lên điều gì? Độ dài các ngón tay khác nhau tượng trưng cho thân thế, con người bạn hay tính cách của bạn như thế nào? Bài viết dưới đây của ## sẽ giới thiệu tới bạn về Ngón tay dài nói lên điều gì?
Nếu ngón đeo nhẫn càng dài chứng tỏ bạn là người nam tính. Bởi theo một nghiên cứu của các nhà khoa học đến từ trường Đại học Concordia của Canada thì với những người đàn ông có ngón tay đeo nhẫn dài hơn ngón trỏ thường là người quyết đoán, có tham vọng lớn, bởi nồng độ testosterone cao ảnh hưởng đến sự phát triển của ngón tay đeo nhẫn. Họ cũng thích mạo hiểm và có ham muốn chiến thắng cao. Đặc biệt, những người đàn ông có ngón đeo nhẫn dài hơn ngón trỏ thường có khả năng trở thành người giàu có.
Tuy nhiên, nghiên cứu của các nhà khoa học cũng chứng minh được rằng những người đàn ông có này thường có tính trăng hoa và lăng nhăng, bở họ là mẫu đàn ông được nhiều người phụ nữ ưa thích và theo đuổi.
Ngược lại, đối với nữ thì những người có ngón đeo nhẫn không nói lên bất cứ tính cách hay khả năng đặc biệt của họ.
Bạn muốn biết ngón út ngắn nói lên điều gì? Hay ngón tay út ngắn hơn ngón áp út thì biểu hiện điều gì?
Thông thường ngón tay út luôn ngắn hợp ngón áp út. Những độ dài ngắn khác nhau cũng ảnh hướng đến tính cách của người chủ nhân đó. Nếu ngón út ngắn bằng 2 đốt ngón áp út ( ngón đeo nhẫn), thì người này sống khá nội tâm, thích ở một mình, thích sự cô đơn và trật tự.
Ngón út dài hơn 2 đốt của ngón đeo nhẫn thì bạn là người giỏi giao tiếp và hướng ngoại. Bạn thích giúp đỡ người khác nhưng nhiều khi cũng bị người khác hiểu nhầm.
Ngón út ngắn hơn 2 đốt so với ngón đeo nhẫn: Họ là những người sống tốt bụng, hòa thuận với mọi người. Bạn thường kỳ vọng nhiều vào những người mà bạn tin tưởng, thế nên bạn cũng dễ thất vọng khi họ không đạt được như mong muốn của bạn.
Đây cũng là những đặc điểm mà độ dài ngón út có ảnh hưởng đến tính cách của như vận mệnh của bạn.
Trên đây là những đặc điểm, tính cách con người qua độ dài ngón tay. Bạn có thể tham khảo thêm những bài viết hữu ích khác tại:
+ Số lượng hoa tay nói lên điều gì về bạn?+ Không có hoa tay nào thì có ý nghĩa gì?
+ Xem chỉ tay đường con cái để biết bạn sinh con trai hay con gái
+ Xem bói chỉ tay đoán vận mệnh, tình yêu của bạn
Có quá nhiều cách để bài trí cho một ngôi nhà, vậy cách bài trí như thế nào sẽ tốt cho Phong Thủy đây? Nếu bạn không chắc chắn thì nguyên tắc là chọn một căn nhà không có góc khuất, và đây chính là lí do:
Thời cổ đại, người Trung Quốc rất coi trọng sự vuông vắn vì nó có thể giúp chủ nhà mang lại giàu sang và may mắn, vì vậy một ngôi nhà thiết kế kiểu hình vuông là lựa chọn hàng đầu. Đó là lí do vì sao những cung điện cổ xưa thường được xây dựng trên những bản vẽ hình vuông. Một ngôi nhà không vuông vắn, chỗ thò ra thụt vào sẽ mang đến tâm trạng tiêu cực cũng như ảnh hưởng đến vận may của chủ nhà.
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, ta không khó để bắt gặp những căn nhà với thiết kế không vuông vắn như trên. Hãy xem xét liệu rằng căn nhà của bạn có xuất hiện những hiện tượng trên hay không.
Nếu bạn chia sàn nhà nhà mình theo hình bát quái, bạn sẽ phát hiện ra mỗi đỉnh bát quái sẽ ứng với một thành viên trong gia đình. Vậy hãy xem đỉnh nào ứng với thành viên nào nhé!
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
b. Nếu tự tay kinh doanh thì đã nổi tiếng với một hai vụ làm ăn rồi từ đấy có đà phát triển.
Nói tóm lại Vũ Khúc Hóa Khoa kể là cách danh lợi song thâu. Nhưng danh ở Vũ Khoa khác với danh ở Thiên Cơ Hóa Khoa, Thái Dương Hóa Khoa hay Tử Vi Hóa Khoa không phải danh trên văn chương, trên thế lực mà là cái danh của thực tế kiếm tiền.
Nếu Vũ Khoa gặp Liêm Lộc thường qua danh mà thâu lợi bất ngờ. Đã Vũ Khúc Hóa Khoa thì đương nhiên Thái Dương đứng với Hóa Kị (như người tuổi Giáp tứ Hóa an theo tuần tự: Liêm Phá Vũ Dương. Người xưa thâm ý muốn nhắn bảo phải cẩn thận khi đi vào vận Thái Dương Hóa Kị, danh cao bổng hậu cho người oán ghét ắt tai họa cũng gần chứ không xa.
Vũ Khúc Tham Lang đồng cung mà Vũ Khúc đứng bên Hóa Khoa cùng lúc lại có cả Linh hay Hỏa Tinh thì hoạnh phát mau hơn nhưng cũng lại vì dương danh vô lối mà thất bại chóng hơn.
Các nhà Tử Vi Trung Quốc chủ trương Vũ Khúc Hóa Khoa nên thành công qua nghề chuyên môn hơn là xông vào doanh thương, đỡ kẻ thù đỡ kẻ ghét.
Vũ Khúc Hóa Khoa đóng Thê, vợ đoạt quyền chồng nhưng đồng thời cũng phù trợ chồng chứ không đoạt quyền để lăng loàn. Vũ Khúc Hóa Khoa đóng Tử Tức không đông con và có nhiều khả năng con hai dòng nhưng con cái đa năng.
Vũ Khúc đơn độc đóng Phụ Mẫu dễ xung khắc với cha mẹ. Nhưng có Hóa Khoa không những bớt khắc mà còn sinh trưởng từ một gia đình uy danh. Cung Tật gặp Vũ Khúc Hóa Khoa gặp Hỏa Tinh phải coi chừng phổi nhiệt, khí quản viêm.
HÓA KHOA TỬ VI
Tử Vi rất hợp với Hóa Khoa, nếu cả Thiên Phủ đứng cùng càng hay vì khi có Thiên Phủ tất nhiên phải kèm Thiên Tướng như vậy kể là tạm đủ văn võ triều đình.
Ở trường hợp không Phủ Tướng mà lại thấy tứ Sát Hình Hao hội tụ thì Hóa Khoa vô dụng. Tuy nhiên về mặt học vấn vẫn xem là con người có học, ít nhiều đến được với khoa bảng.
Tử Vi Hóa Kị đứng với Xương Khúc Khôi Việt, Long Phượng thì đa tài đa nghệ theo đuổi một ngành nghề khả dĩ thành công.
Tử Vi Hóa Khoa có một điểm dở là bạn hữu, phần lớn Tử Vi Hóa Khoa đi với nhau ở cung Nô thường xấu. Tỉ dụ Tử Vi Hóa Khoa đóng Tí, cung Nô Bộc Thái Âm ở Tỵ đứng cùng Hóa Kị không bao giờ được sự đắc lực của thủ hạ hay bạn bè. Cung Nô cũng gây ảnh hưởng luôn với cung Bào Huynh. Như vậy Tử Khoa không có thể cộng tác với ai, cộng tác chỉ bị thiệt. Trường hợp sinh ban đêm hay Thái Âm đắc địa sẽ giảm những khó khăn trên. Tỉ dụ số nữ mà Tử Vi đóng Ngọ cung, Thái Âm ở Hợi đứng với Hóa Kị mà lại sinh ban đêm thì thuộc hạ bằng hữu thật hữu dụng.
Tử Vi Hóa Khoa tính tình khoan hậu, nhưng tính cách này lại rất dễ biến thành chủ quan, yêu ghét giận mừng một cách chủ quan khiến cho lòng khoan hậu vì thiện từ mà đâm phiền, có khi lại thành đố kị.
Cho nên Tử Khoa nếu vào vận Hình Sát ắt đưa đến tình trạng hoài tài bất ngộ, vào vận hanh thông lại dễ bị đố kị. Thà đừng Hóa Khoa thì cuộc sống yên hơn.
Các cung lục thân mà Tử Vi Hóa Khoa đều kể làm tốt. Tỉ dụ cung Huynh đệ Tử Khoa, anh em ruột thịt nâng đỡ, vào Phụ Mẫu được cha mẹ che chở, vào Thê cung dễ gặp vợ hơn tuổi nhưng đảm đang, vào cung Nô Bộc mà thấy cả văn tinh thì tài năng kém thuộc hạ, cần phải biết sử dụng khéo thì tình thế này mới hay. Tử Khoa đóng Tật Ách phải săn sóc hệ thống bài tiết nhất là nhiếp hộ tuyết.
HÓA KHOA THÁI DƯƠNG
Thái Dương bản chất là tán phát nên không thật thoải mái với Hóa Khoa. Hóa Khoa làm tăng thêm tính phát tán ấy cho nên dễ thành ra tiếng nhiều mà miếng ít. Bị người chú ý quá mức dù là ngưỡng vọng thì cũng phiền. Như quẻ dịch gọi bằng “Khang long hữu hối” là thế.
Thái Dương miếu địa đứng với Khoa không bằng đứng với Lộc, Quyền trên thực tế thâu hoạch tốt. Thái Dương Hóa Khoa cũng cần bách quan tề tựu mới thành đại sự, nếu chỉ gặp Sát Hình thì là hư danh hư lợi thôi, có khi còn bị thiên hạ lợi dụng nữa.
Nói về bách quan tề tựu cũng có hai hình thái khác biệt. Thái Dương Hóa Khoa nhất định là nổi danh, người đời chú ý từ cử chỉ đến lời nói, nếu được văn tinh Xương Khúc chế giàm tục khí ngôn hành văn nhã, thiếu văn tinh sẽ thô lỗ, ẩu tả cho người đời đàm tiếu. Thái Dương hãm địa hoặc bị Tuần Triệt sự ẩu tả đậm nét hơn.
Có Xương Khúc rồi thêm Lộc Tồn càng đẹp. Cách Dương Lương Xương Lộc đóng vào Mão tốt nhất, trường hợp này Hóa Khoa sẽ đắc lực hơn Quyền Lộc nếu vào học thuật văn chương, nhưng lại không thành giàu có.
Thái Dương Hóa Khoa chỉ thành phú cách nếu xung chiếu bởi Hóa Quyền và cung Quan có Hóa Lộc. Được Thiên Mã Tả Hữu sẽ rất sớm thành công nếu như không bị Hỏa Linh Không Kiếp.
Dương Khoa có Cự Môn đứng cùng hay chiếu, ăn nói lý luận cứng cỏi vào ngành ngoại giao hay pháp luật hợp cách. Thái Dương Hóa Khoa ở hãm cung mà bị Không Kiếp sẽ vì danh vọng hão mà mang họa vào thân.
Dương Khoa đóng cung lục thân đều hay trừ cung Nô Bộc. Dương Khoa đóng Bào Huynh, Phu Thê, Phụ Mẫu những người thân ấy đều có danh vọng. Đóng vào Nô Bộc, thuộc hạ sẽ lợi dụng danh mình hoặc tựa vào mình mà vượt trội lên hơn mình.
Dương Khoa vào lục thân cung nếu bị Đà La Không Kiếp lại thành ra bị lục thân bóc lột. Thái Dương Hóa Khoa đóng Tật Ách dễ bị bệnh ở buồng gan, can khí nhiệt uất bốc lên mặt làm thành bệnh mắt.
HÓA KHOA THIÊN CƠ
Thiên Cơ bản tính phù động, đứng với Hóa Khoa tính năng động ấy sẽ thành kế hoạch, giỏi về giao tế, thuyết phục thiên hạ. Khoa đi với Cơ tốt hơn Lộc đi với Cơ.
Khoa Cơ luôn luôn đeo đẳng một điểm phiền là gặp Hóa Kị đứng với Cự Môn (người tuổi Đinh tứ Hóa an theo thứ tự Âm Đồng Cơ Cự). Cự Kị đương nhiên này không tuyệt đối thành cặp hung thần nếu không bị hung sát tinh khác. Hễ có hung sát tinh hội tụ để trợ giúp Cự Kị lập tức sinh phiền nhiễu do vạ miệng, do những lời phê bình sắc bén mà gây thù oán ảnh hưởng cho công việc làm.
Thiên Cơ Hóa Khoa càng thông tuệ, có điều Thiên Cơ đa học nhưng lại bất chuyên. Bởi vậy Cơ Khoa ít hy vọng thành một chuyên gia thật giỏi. Cơ Khoa sẽ chịu ảnh hưởng nhiều từ Cự Kị khi vận đi xuống. Bởi thế Cơ Khoa lúc đắc thời đắc thế cần thận trọng.
Ông Vương Đình Chi đưa ra lập luận sau đây: “Thiên Cơ đóng Mệnh rất ngại sao Thiên Lương đóng Phúc Đức (đó là cách Cự Cơ Mão Dậu đấy) sẽ đưa đến tình trạng tự thị thông minh mà rơi vào lầm lẫn to tát, khiến cho khả năng quyền biến thành hư ngụy, hoặc ra con người khinh bạc khó thành đại sự”
Cơ Khoa đóng Huynh Đệ, anh em bất hòa thường trực, hoặc bằng mặt mà chẳng bằng lòng, anh em cộng tác với nhau mà mỗi người lại tính toán riêng. Thà không Hóa Khoa còn hơn, có Hóa Khoa vào Huynh Đệ không chỉ ảnh hưởng đến anh em mà còn ảnh hưởng đến cả bè bạn. Có Hóa Khoa tóm lại khó lòng gặp được người cộng tác trung thực.
Cung Tật Ách thấy Cơ Khoa can hỏa vượng thịnh, khó ngủ vì tâm thần bất giao do sự hun nóng của lá gan đưa đến thần kinh suy nhược.
HÓA KHOA VĂN XƯƠNG
Xương Khúc tuy là phụ tinh nhưng cũng dự phần vào chuyện an tứ Hóa. Một phụ tinh nữa dự phần tứ Hóa là sao Hữu Bật. Xương Khúc chủ văn chương nên gặp Hóa Khoa kể như hữu lý.
Một phái hệ Tử Vi bên Trung Quốc không chấp nhận Hữu Bật đứng với Hóa Khoa, nhưng đấy chỉ đặt vấn đề thôi, không được giải quyết.
Thời xưa do khoa cử mà nên công danh (dĩ nhiên cũng không thiếu gì người qua dị lộ mà có công danh). Bởi vậy khi chuyển vào số mà chủ trương Mệnh hay Thê cung mà có Xương Khoa rất đáng mừng. Vận gặp Xương Khúc Hóa Khoa cũng thuận lợi cho công danh.
Đời bây giờ Xương Khoa không còn sức mạnh để đạt công danh như ngày trước, chỉ xem là giành được phần khoa bảng thôi.
Văn Xương chủ về văn thư khế ước, viết sách nổi tiếng, hoặc có văn bằng mà thành danh giá. Xương Khoa Hóa Lộc đi cùng khả dĩ nhờ một khế ước mà có tiền.
Xương Khoa cần có thêm Tấu Thư càng dễ nêu cao danh vọng. Xương Khoa cũng là dấu báo của một tin vui. Xương Khoa là một con người giỏi thích ứng với cuộc sống, yêu đời.
Xương Khoa vào vận hạn hay các cung lục thân mà gặp nhiều hung sát tinh thì lại không tiếp tục mang tính chất mừng vui hỉ khánh nữa mà có thể ra tang lễ. Tại sao? Vì Xương Khoa chủ về lễ nhạc kèn trống tế lễ.
Thê cung thấy Xương Khoa đi cùng Đào Hoa vào cổ thời là con người ưa lấy vợ lẽ thiếp hầu, ở thời này thường xảy ra những cuộc tình ngoại hôn. Xương Khoa vào cung Tật Ách mà có Hỏa hay Linh thì bệnh tật để lại vết sẹo, như giải phẩu hoặc nám da.
HÓA KHOA THIÊN LƯƠNG
Thiên Lương chủ quí nên cần gặp Hóa Khoa để mà danh dự. Cơ Lương đi cặp đứng cùng Hóa Khoa là con người quản trị giỏi. Thiên Lương Hóa Lộc dễ được người tin cậy.
Cách Cơ Cự Đồng Lương được Hóa Khoa là một cán bộ hành chánh cừ khôi, hoặc là loại chuyên viên có hạng. Cao thấp còn tùy sao bản mệnh.
Lương Khoa trên tính tình là con người từ ái, chuộng nghĩa khinh tài. Lương Khoa mà gặp Văn Khúc Hóa Kị đối xung thì sức lực bị giảm hẳn, gây thù chuốc oán vì cái tính bới lông tìm vết xét nét tiểu tiết nhỏ nhặt.
Lương Khoa có Tấu Thư học vào ngành viết diễn văn, làm đổng lý phụ tá đắc lực.
Lương Khoa đi cùng Thiên Đức Giải Thần học thuốc dễ thành công.
Thiên Lương Thiên Đồng hễ có Hóa Khoa thì không sợ thấy Thiên Mã, không Khoa chỉ có Thiên Mã thôi Đồng Lương sẽ ra lãng đãng, bông lông.
Đồng Lương Hóa Khoa có Thiên Mã thành ra con người giao du rộng rãi “tứ hải văn danh”. Ngay cả Thiên Lương Tỵ Hợi mà được Khoa cũng giảm bớt chất phiêu bồng thêm Khôi Việt nữa thì qua cơn phiêu lãng trải nhiều kinh hiểm khả dĩ nên công. Lương Tỵ Hợi vào Thê cung dù có Khoa cũng vẫn không đẹp.
Lương Khoa đóng Phụ Mẫu hay Tử Tức đều tốt, được ân đức cha mẹ và con cái thành đạt. Thiên Lương đóng Tật Ách gặp Không Kiếp dễ bị tê thấp đau nhức, có Hóa Khoa càng nặng.
Nữ mệnh Thiên Lương Hóa Khoa đóng Tật Ách gặp Linh Hỏa bị lưu sản, bệnh lộn xộn đường kinh. Từ trước tới giờ người ta nghĩ Hóa Khoa vào Tật Ách là giải hết bệnh hoạn, điều này qua kinh nghiệm không đúng
HÓA KHOA THÁI ÂM
Thái Âm là tài tinh, khi đã hóa thành Khoa khiến cho tài nguyên thuận lợi. Thái Âm Hóa Khoa vào kinh doanh hợp cách, dễ tạo thanh danh cho công việc kinh doanh mà sinh lợi. Tỉ dụ một tiệm ăn nổi tiếng, tiệm quần áo nổi tiếng….
Thái Âm khác Thái Dương ở điểm: Thái Dương trải ánh sáng đi, tán quang trong khi Thái Âm lại liễm ánh sáng tới. Bởi thế nên sự thành danh cũng khác với thành danh của Thái Dương. Thái Dương mở rộng ra quần chúng, Thái Âm lại cần hạn hẹp với lợi ích bản thân.
Thái Âm Hóa Khoa tạo tính lạc quan, dễ sống, thích nghi hưởng thụ. Thái Âm Hóa Khoa đóng Phúc Đức quan niệm sống thoải mái với hưởng thụ nhân sinh. Do đó mới có luận cứ rằng: Âm Khoa đóng Mệnh đắc địa không hay bằng đóng Phúc Đức trên mặt nhàn nhã hưởng thụ. Vì Âm Khoa ở Mệnh thì cung Phúc Đức có Cự Môn thường đưa đến tình trạng đam tâm thái quá dễ mệt mỏi tinh thần.
Âm Khoa vào Tài Bạch cung thì cung Mệnh sẽ là sao Thiên Lương thủ. Tiền bạc không do tự tay mình tung hoành mà nhờ thanh vọng chức tước sẵn có để hưởng bổng lộc. Thái Âm đóng hãm cung mà có Hóa Khoa càng vô duyên với những vụ đầu tư, hãy theo đuổi chức nghiệp thì hơn.
Thái Âm hãm đứng với Hóa Khoa ở Tật Ách chủ về bệnh âm hư. Âm Khoa đắc địa vào cung lục thân Phụ Mẫu Tử Tức xem là tốt đẹp kể luôn cả Thê cung, nhưng nếu lạc hãm thì ngược lại.
HÓA KHOA VĂN KHÚC
Xương hay Khúc đều là văn tinh cho nên đương nhiên cần Hóa Khoa. Thời xưa cho rằng Văn Khúc không bằng Văn Xương vì Văn Khúc mang khuynh hướng dị lộ công danh. Văn Khúc Hóa Khoa cùng với Ấn Quang Thiên Quí tốt hơn Văn Khúc chỉ với một Hóa Khoa, như vậy mới thành cách “Ân Khoa”. Cách này dễ được đề bạt vào chức vị.
Văn Khúc sao có tài ăn nói nếu gặp Cự Môn Hóa Lộc thì nói ra tiền, hoặc vì giỏi ngôn từ mà được người đời tin cậy. Văn Khúc cũng chủ về thuật số đứng với Khoa và Cơ Âm học về thuật số khả dĩ nổi danh.
Văn Khúc Hóa Khoa chịu ảnh hưởng nhiều từ các sao mà chúng đứng cùng. Tỉ dụ Tử Vi Thất Sát không ưa Văn Khúc Hóa Khoa lắm. Tử Sát chủ về quyền lực, Khúc Khoa không làm tăng tấn quyền lực, đôi khi còn làm trở ngại cho khả năng quyết đoán.
Vũ Khúc có thể cần Văn Khúc thôi, nhưng không cần Văn Khúc với Hóa Khoa vì Khoa chen vào tạo thành mâu thuẫn đáng lẽ cần tham, quyết định thì là dùng dằng mà hỏng việc. Nhưng Thiên Cơ Thiên Lương thì tuyệt đối cần Văn Khúc Hóa Khoa. Cơ Lương có được Khúc Khoa thanh vọng tăng lên, nhưng đồng thời cũng mang một khuyết điểm là nhiều lý thuyết hơn hành động.
Cự Môn Hóa Lộc đứng với Văn Khúc Hóa Khoa tài ăn nói hơn người với điều kiện đừng có Sát Kị tinh. Gặp Sát Kị sẽ bị họa do ngôn từ. So Xương với Khúc thì Văn Xương thiên về tư tưởng, Văn Khúc lại ngả về hành động. Văn Xương khi suy tư rất sáng nhưng vào hành động lại vụng về, trong khi Văn Khúc suy tính không tinh sảo nhưng hành động đắc lực.
Khúc Khoa vào cung Phúc Đức ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc đời. Khúc Khoa đóng Mệnh mà Thê cung lại thấy Văn Xương Hóa Kị thì trước khi có vợ đã có thiếp. Nữ mệnh mà như thế lúc lấy chồng không còn là con gái nữa. Nó không rõ rệt như Tham Đào nhưng là ngấm ngầm.
HÓA KHOA THIÊN PHỦ
Thiên Phủ ưa nhất Lộc. Khoa đối với Phủ chỉ là thứ yếu. Thiên Phủ thiếu Lộc mà gặp cả Sát tinh như Triệt Tuần, Linh Hỏa, Không Kiếp sách gọi bằng: “Phủ khố không lộ” (kho thủng, kho không cửa ngõ). Khoa vào chẳng giúp ích được gì.
Thiên Phủ Hóa Khoa không bị sát tinh là người quản thủ tiền bạc giỏi. Thiên Phủ Hóa Khoa gặp Sát tinh nên học một nghề cho tinh để vinh thân.
Phủ Khoa thành một cách đặc biệt nếu gặp Thiên Riêu đứng bên. Hễ có Riêu thì không sợ các sát tinh. Thêm Sát tinh càng tốt, biến ra con người nhiều mưu chước kinh doanh tài chánh, hoàn cảnh càng biến hóa càng lên cao. Phủ Khoa Riêu không Sát tinh thì chỉ là con người gây được tín nhiệm của thiên hạ nhưng coi chừng tâm tư người này quá lớn.
Tử Vi Thiên Phủ đồng cung hoặc đối xung thì Thiên Phủ Hóa Khoa kể làm tốt nhất là với người tuổi Nhâm vì còn hội thêm với Quyền Lộc. Phủ Khoa trong trường hợp trên đem lại khả năng lãnh đạo và được người tin cậy miễn đừng thấy Hóa Kị đứng bên Vũ Khúc. Có Vũ Kị biến ra lý tưởng quá mức mà đưa đến không tưởng.
Phủ Khoa đóng lục thân, có thể tin cậy trong mọi công việc làm ăn. Tỉ dụ vào cung Bào hãy cộng tác với anh em ruột thịt. Phủ Khoa đóng Thê cung hay Phu cung luận đoán phức tạp hơn. Vì Phủ ở Thê thì Mệnh là Tham Lang. Phủ Khoa như vậy người phối ngẫu sẽ chỉ phúc hậu với điều kiện hơn tuổi (vợ già hay chồng già). Phủ Khoa gặp Sát tinh đóng Tật Ách thường bị bệnh ở bộ phận tiêu hóa: dạ dày, ruột.
Trước hôm cải táng làm lễ cáo từ đường. Đến hôm cải táng, lại làm lễ khấn thổ công chỗ để mả mới táng.
Trước hết khai mả, nhặt lấy xương xếp vào một cái tiếu sành, rẩy nước vang vào rồi che đậy thật kín, không cho ánh sáng mặt trời lọt vào được. Nhà phú quý thì dùng quan quách liệm như khi hung táng.
Đoạn, đem cải táng sang đất khác. Còn quan tài cũ nát thì bỏ đi, tốt thì đem về dùng hoặc làm cầu, hoặc làm chuồng trâu chuồng ngựa, để trâu ngựa đứng cho khỏi sâu chân.
Tục lại tin rằng: Hễ ai đau tức thì lấy mảnh ván thộ (mảnh ván quan tài nát) đốt lên, để gầm giường mà nằm thì khỏi đau tức.
Cải táng có nhiều cớ.
Một là vì nhà nghèo, khi cha mẹ mất, không tiền lo liệu, mua tạm một cỗ ván xấu, đợi xong ba năm thì cải táng, kẻo sợ ván hư nát thì hại đến di hài.
Hai là vì chỗ đất mối kiến, nước lụt thì cải táng.
Ba là vì, các nhà địa lý, thấy chỗ mả vô cớ mà sụt đất hoặc cây cối ở trên mả tự nhiên khô héo, hoặc trong nhà có kẻ dâm loạn điên cuồng, hoặc trong nhà đau ốm lủng củng, hoặc trong nhà có kẻ nghịch ngợm, sinh ra kiện tụng lôi thôi, thì cho là tại đất mà cải táng.
Bốn là, những người muốn cầu công danh phú quý, nhờ thầy địa lý tìm chỗ cát địa mà cải táng. Lại có người thầy nhà khác phát đạt, đem mả nhà mình táng gần vào chỗ mả nhà kia, để cầu được hưởng dư huệ.
Trong khi cải táng, tục lại có ba điều là tường thuỵ (tức là mả phát tốt đẹp) mà không cải táng.
Một là, khi đào đất thấy có con rắn vàng thì cho là long xà khí vật. Hai là, khi mở quan tài ra thấy có dây tơ hồng quấn quýt thì cho là đất kết. Ba là, hơi đất chỗ đó ấm áp, trong huyệt khô ráo không có nước hay là nước đóng giọt lại như sữa đều là tốt. Khi nào gặp như thế thì phải lập tức lấp lại ngay.
Trước đây, nhiều người vẫn có sự nhầm lẫn về cách tính Kim lâu. Tôi vẫn thường thắc mắc, tại sao có tới hai cách tính mà kết quả của hai cách tính này lại khác biệt nhau. Và bức màn bí mật, sự thắc mắc của tôi đã được giải thích một cách thấu đáo.
Kim lâu là gì ? Là những năm không tốt, bất lợi cho việc mưu tính, khởi công hoặc làm đại sự. Nếu như phạm phải, cuộc sống gặp nhiều trở ngại, bất trắc, không được như ý muốn. Theo mục đích của cuộc sống người ta phân chia ra hai cách tính kim lâu, dành cho các đối tượng và công việc khác nhau, cần phải phân biệt và chú ý cho tinh, kẻo có sự nhầm lẫn.
Cách tính tuổi kim lâu khi chọn tuổi kết hôn: “Người xưa thường nói, lấy vợ xem tuổi đàn bà, làm nhà xem tuổi đàn ông”. Như vậy, các quý cô sau khi trải qua quá trình yêu đương tìm hiểu, quyết định xây dựng tòa lâu đài hạnh phúc cho mình đều phải lưu ý. Cách tính Kim lâu trong hôn nhân, chỉ áp dụng có phái nữ, có cách tính như sau : Lấy số tuổi âm, chia cho 9, nếu dư 1, 3, 6, 6 là phạm kim lâu, không nên tổ chức đám cưới vào năm đó. Kim lâu còn phân ra bốn dạng:
Sau khi chia cho 9 nếu số dư là 1 là Kim lâu thân : Bản thân có những bất lợi về sức khỏe, công danh.
Nếu dư 3 là Kim lâu phu thê : Dễ gặp tai nạn, hình khắc chia li, gãy đổ cho gia đạo, hôn nhân chẳng được hạnh phúc, cơm lành canh ngọt.
Nếu dư 6 là Kim lâu tử : Bất lợi cho con cái
Nếu dư 8 là Kim lâu súc : Các loài vật nuôi trong nhà sẽ bị bệnh dịch mà chết, gây thiệt hại đến sản xuất và kinh tế.
Ví dụ cô Nguyễn Thúy Hằng, sinh năm Canh Ngọ 1990, đến năm 2015 là phạm Kim lâu súc. Ta lấy 2015 – 1990 = 25 + 1 (Tuổi bào thai) = 26 : 9 dư 8. Nếu cô kết hôn vào năm nay sẽ gặp tình huống đó. Gia đình mà làm kinh tế nông nghiệp, chăn nuôi quy mô lớn, ắt phải để tâm đề phòng.
Cách tính Kim lâu trong khởi công xây dựng cửa nhà, hoặc mưu toan đại sự, thường áp dụng cho nam giới. Chúng ta áp dụng biểu đồ như sau.
Bắt đầu từ cung Cấn là 10 tuổi, tính thuận chiều Kim đồng hồ, 11 ở cung Chấn, 12 ở cung Khôn, 13 ở cung Ly, 14 ở cung Tốn, 15 ở cung Đoài, 16 ở cung Càn, 17 ở cung Khảm, 18 ở cung Cấn, 19 ở cung Chấn, nếu tuổi nào rơi vào các cung màu xanh là phạm Kim lâu, chớ nên khởi công, động thổ xây dựng. Nếu phạm vào cung Cấn là Kim lâu thân : Hại cho bản thân chủ nhà. Nếu phạm vào cung Khôn là Kim lâu thê : Không lợi cho vợ của gia chủ. Phạm vào cung Tốn là Kim lâu tử : Con cái gia chủ phải giữ gìn. Phạm vào cung Càn là Kim lâu lục súc : Các vật nuôi trong nhà dễ bị bệnh dịch.
Đến năm 20 tuổi thì lại khởi hạn từ cung Chấn và theo chiều thuận Kim đồng hồ, đến năm 30 tuổi thì hạn lại được khởi từ cung Khôn, cứ như vậy, tiếp tục, đó chính là cách tính Kim lâu trong khởi công xây dựng làm nhà. Ngoài ra, người ta con tính cả hạn tam tai và hoang ốc nữa. Nhưng ở đây, cần phân biệt để không bị nhầm lẫn trong mục đích sử dụng.
Tổng hợp
Tết Đoan Dương còn nhiều tục lưu truyền đến nay; sáng sớm cho trẻ ăn hoa quả, rượu nếp, trứng luộc, bôi hồng hoàng vào thóp đầu, vào ngực, vào rốn để giết sâu bọ. Người lớn thì giết sâu bọ bằng cách uống rượu (hoà ít tam thần đơn) hoặc ăn rượu nếp. Trẻ em giết sâu bọ xong khi còn ngồi trên giường, rồi rửa mặt mũi, chân tay xong bắt đầu nhuộm móng tay móng chân, đeo chỉ ngũ sắc. Em gái đến độ tuổi xâu lỗ tai cũng chọn ngày này mà xâu. Vì là đoan ngọ nên lễ cúng gia tiên phải cúng vào giờ ngọ (buổi trưa).
Tục hái thuốc mồng năm cũng bắt đầu từ giờ ngọ, đó là giờ có dương khí tốt nhất trong cả năm, lá cây cỏ thu hái được trong giờ đó có tác dụng chữa bệnh tốt, nhất là các chứng ngoại cảm, các chứng âm hư. Người ta hái bất kỳ loại lá gì có sẵn trong vườn, trong vùng, miễn sao đủ trăm loại, nhiều ít không kể. Tuy vậy, nhân dân ta quen dùng thảo mộc chữa các chứng bệnh, biết phân biệt loại có độc, chẳng hạn lá ngón, cà độc dược, lá sắn... dẫu người nặng đầu óc mê tín cũng chẳng dám hái.
Ngược lại, các cây cỏ chữa bệnh thông thường có tác dụng trừ phong ích khí thì hái nhiều hơn như ích mẫu, ngải cứu, sả, tử tô, kinh giới, lá tre, lá bưởi, cam, chanh, quýt, mít, muỗm, hành, tỏi, gừng, chè, ổi, trầu không, sài đất, sống đời, bồ công anh, sen, vông, lạc tiên, nhọ nồi..
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Thiên bẩm chính là chỉ một người khi sinh ra đã có năng lực sáng tạo thần kỳ, khiến cho người khác không thể xem thường được. Hành vi, cử chỉ của họ siêu phàm thoát tục, bàn tay cũng đặc biệt, từ vị trí các gò, đường chỉ tay và các ký hiệu đều có rất nhiều điểm khác thường so với người bình thường, điếu đó ngầm báo hiệu cho thấy một tương lai huy hoàng đang chờ đón họ. Hãy cùng xemboituong tìm hiểu xem bạn có là một trong số đó…
Ngón vô danh có hoa tay tròn
Nếu xem bói tay mà bạn có hoa tay tròn trên ngón vô danh thì bạn là người có năng lực nghệ thuật, thẩm mỹ cao, có khả năng sáng tạo, dự báo sẽ là một nhà nghệ thuật. Thích hợp làm việc trong ngành nghệ thuật mang tính sáng tạo.
Có đường Công danh dài kéo tới gò Nguyệt
Báo hiệu là người có năng lực sáng tạo rất tốt, giàu tính nghệ thuật. Người có đường Công danh như vậy, không những đạt được thành công trong lĩnh vực nghệ thuật mà còn có thể đạt được thành tựu trong các lĩnh vực khác, nên làm công việc mang tính chất sáng tạo. Nếu như có thêm hình sao trên gò Thái dương thì nhất định sẽ gặt hái được thành công trong lĩnh vực nghệ thuật hoặc các ngành nghề sáng tạo khác.
Khả năng tưởng tượng phong phú, là người có năng lực đặc biệt. Trong đó người có đường Trí tuệ kéo dài đến nửa dưới của gò Nguvệt, mặc dù tư tưởng mạnh mẽ nhưng linh cảm phong phú, tài hoa xuất chúng, có thể sáng tác ra những tác phẩm rung động lòng người.
Có vòng Kim tinh
Cảm quan nhạy bén nhưng thần kinh có chút suy yếu.
![]() |
![]() |
1. Hội Đình Bà Tía
Thời gian: tổ chức từ ngày 8 tới ngày 10 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: thôn Vĩnh Ninh, xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: Nhằm tôn vinh vị Thánh hoàng làng là Bà Tía - một vị tướng của hai Bà Trưng thời đầu công nguyên.
Nội dung: Trong hội đình Bà Tía có lễ tế thành hoàng làng, và còn nhiều trò chơi dân gian đặc sắc như: thi đấu vật, đánh cờ, đi cầu đập nồi niêu.
2. Hội Đình Thanh Liệt
Thời gian: Tổ chức từ ngày 8 tới ngày 10 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn ở đình ngoại là Phạm Tu (một võ tướng, công thần ở thời nhà Lý. Ông còn là người có công lớn giúp vua Lý Nam Đế đánh đuổi quân xâm lược nhà Lương, thành lập nước Vạn Xuân); ở Đình nội thì tôn vinh Chu Văn An (một nhà giáo, thầy thuốc, một đại quan trong triều đại nhà Trần và được phong vinh Trình Công)
Nội dung: Trong hội đình, phần lễ có phần rước kiệu từ đình nội ra đình ngoại, còn phần hội thì có tiết mục diễn tuồng, chọi gà, đánh cờ bỏi.
3. Hội Đền Nghè
Thời gian: tổ chức từ ngày mùng 8 tới ngày 10 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn nữ tướng Lê Chân là một vị tướng giỏi của hai Bà Trưng được tấn phong làm Thánh chân công chúa hai Bà Trưng.
Nội dung: Bên cạnh các hoạt động tế lễ dâng hương thành lễ với cỗ tế chay, thì hội đền Nghè còn thu hút đông đảo du khách khắp nơi đến với lễ rước mũ.
Đầu năm đi cầu duyên là hoạt động thường thấy ở những ngôi chùa cầu duyên được coi là linh thương tại thủ đô Hà Nội. Người chưa có ý chung nhân thì cầu duyên đầu năm để mong tìm được người tâm đầu ý hợp, vận đào hoa được tốt đẹp. Người đã có cặp có đôi hay đã có gia đình cũng cầu duyên, nhưng mong được tình cảm giữa hai người lúc nào cũng đậm đà son sắc.
Việc cầu duyên cũng là cầu may, cầu phúc. May mắn thì người cầu sẽ có được ý trung nhân như mong đợi. Tuy nhiên, cầu duyên nói riêng và cầu những điều khác nói chung không phải tất cả đều ‘cầu được ước thấy’ mà do cái phúc của mình nhiều hay ít.
Người ta hay nói khi đi cầu duyên thì nên đến đền thờ bà Liễu Hạnh ở phủ Tây Hồ, nhưng cầu duyên hay cầu gì khác ở bất cứ đình, chùa nào đều không quan trọng. Cái quan trọng nhất là cái tâm, là tấm lòng thành của mình. Một khi đã đi cầu duyên thì nên tin để thành tâm và sớm đạt được điều mình mong muốn. Nhưng chỉ như vậy thôi chưa đủ. Ngoài chuyện thần linh sắp đặt duyên trời, muốn sớm có duyên đẹp, duyên như đã cầu thì phải do mình.
Chúng ta phải biết mình biết người. Mỗi người hãy tự tạo cho mình cái duyên về hình thức và phẩm chất mới có thể cải thiện được tình duyên. Vậy ngoài việc đến “Những ngôi chùa nổi tiếng cầu duyên ở Hà Nội” để cầu duyên các bạn nên tự tạo cho mình cái duyên để cải thiện tình duyên của mình.
Chùa Hà có tên chữ là Thánh Đức tự, cùng với đình Bối Hà, lập thành cụm di tích đình – chùa Hà nằm trên mảnh đất, trước kia thuộc làng Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, nay thuộc phố Chùa Hà, thôn Trung, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Không biết từ bao giờ mà người ta thường rỉ tai nhau về một địa điểm mà ai cũng cho rằng là nơi cầu duyên linh thiêng bậc nhất Hà Nội nói chung và Việt Nam nói riêng. Nên cứ như vậy những người đang “lận đận” chuyện tình duyên thường ghé thăm chùa Hà để sớm tìm thấy một nửa tương lai của mình.
Về thời điểm có chùa Hà có hai truyền thuyết. Truyền thuyết thứ nhất: vào thời Lý vùng Dịch Vọng đã có nhiều danh thắng nổi tiếng. Vua Lý Thánh Tông (trị vì 1054 – 1072) lúc 42 tuổi vẫn chưa có con nên đã cầu tự ở một ngôi chùa mà sinh ra Thái tử Càn Đức, do đó ngôi chùa này gọi là chùa Thánh Chúa để kỷ niệm sự kiện này. Trên đường đi vua còn ghé qua một ngôi chùa khác và ban tiền bạc cho chùa để trùng tu lại, vì vậy chùa này còn có tên là Thánh Đức tự.
Truyền thuyết thứ hai: Chùa Hà được xây dựng lên để vua Lê Thánh Tông (trị vì 1460-1497) bày tỏ lòng nhớ ơn các đại thần Nguyễn Trãi, Nguyễn Xí, Đinh Liệt đã cưu mang mình và phế bỏ Lê Nghi Dân để đưa mình lên ngôi vua vào năm 1460.
Du khách đến lễ Chùa Hà, ngoài việc tìm tới sự trong lặng nơi cõi Phật, ai cũng cầu nguyện một tình duyên trọn vẹn. Người đang yêu mong tình yêu đẹp mãi, hạnh phúc mãi; kẻ cô đơn mong sớm tìm được một nửa còn lại. Người già thì cầu mong sức khỏe, bình an cho gia đình. Ai cũng tin Đức Phật từ bi cũng như Thánh Mẫu trên cao sẽ thấu hiểu được lòng mỗi người.
Nhiều nhất là thanh niên nam nữ không chỉ ngày rằm, mùng một hay đầu năm mới mới đến chùa thắp hương cầu xin mà dường như quanh năm, chùa lúc nào cũng đông khách. Dọc con phố dẫn vào chùa Hà, ngoài các lễ vật được bày bán, hoa hồng được bán khá nhiều (có thể hoa hồng được xem là loài hoa dành cho tình yêu, thích hợp cho việc “cầu duyên”). Ngoài ra, để phục vụ cho các “tình yêu”, các cặp đôi vòng, nhẫn cũng được các chủ hàng bày bán.
Phủ Tây Hồ nằm trên bán đảo lớn giữa Hồ Tây; nay thuộc phường Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Phủ thờ Liễu Hạnh Công chúa, một nhân vật trong truyền thuyết, và là một trong bốn vị thánh bất tử trong tín ngưỡng của người Việt. Theo truyền thuyết, phủ được xây dựng vào khoảng thế kỷ 17 nhưng có thể có muộn hơn. Vì trong các sách nói về di tích của Thăng Long – Hà Nội cổ ra đời đầu thế kỷ 20 như Thăng Long cổ tích khảo, Long Biên bách nhị vịnh, Tây Hồ chí, Hà Thành linh tích cổ lục,…đều không ghi chép về di tích này.
Phủ Tây Hồ đã được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cấp bằng di tích Lịch sử-Văn hóa ngày 13 tháng 2 năm 1996. Ngoài ra, tại sân phủ có một cây si cổ thụ cũng đã được công nhận là “cây di sản Việt Nam”, và ở kề bên phủ còn có đền Kim Ngưu thờ Trâu Vàng theo truyền thuyết.
Phủ Tây Hồ được coi là một trong những chốn linh thiêng nhất trong hệ thống đình chùa của Hà Nội. Chính vì điều này mà ngày người ta đi Phủ Tây Hồ không chỉ để cầu tài lộc mà còn để cầu duyên. Đến phủ Tây Hồ không thiếu những bạn gái, bạn trai lững thững đi một mình đầy tâm trạng.
Am Mỵ Nương nằm trong chùa Cổ Loa (Hà Nội). Trong chùa, có am nhỏ thờ một bức tượng không đầu được trang trí rất đẹp và sang trọng. Theo người dân sống tại đây, bức tượng này là thờ công chúa Mỵ Châu bị vua cha chém đầu vì tội phản bội trong truyền thuyết xa xưa.
Câu chuyện tình cảm sắt son, chung thủy của nàng Mỵ Nương cùng Trọng Thủy khi xưa đã khiến bao người cảm động, tin tưởng rằng đến nơi đây cầu duyên sẽ được linh ứng. Cứ thế, một đồn mười, người ta đổ về đây mong kiếm tìm hạnh phúc”. Chính vì vậy am Mỵ Nương được người đời truyền tụng là rất có ứng nghiệm trong cầu duyên và hạnh phúc gia đình.
Chùa Phúc Khánh còn có tên Chùa Sở, tọa lạc tại số 382 phố Tây Sơn, phường Thịnh Quang, quận Đống Đa, Hà Nội.
Chùa được dựng vào thời Hậu Lê. Vào thời Lê, chùa là cơ sở đào tạo tăng tài cho Phật giáo. Sau đó gặp hỏa hoạn bị hư hỏng hoàn toàn. Có tài liệu cho chùa nằm trong khu vực diễn ra trận đánh Đống Đa năm 1789 nên bị đổ nát, sau được nhà sư Chiếu Liên xây dựng lại với sự hỗ trợ của Đô đốc Trần Văn Lễ (thời Tây Sơn) đã từng ém quân ở chùa. Ông còn cho đúc quả đại hồng chung và pho tượng Cửu Long cúng chùa.
Chùa Phúc Khánh nổi tiếng với các khóa lễ cầu an và cầu duyên đầu năm.
Tên sao | Đẩu phận | Âm dương - ngũ hành | Chủ | Bị khảo |
Địa kiếp | Trung thiên đẩu (thứ nhất) | Dương hỏa | Kiếp sát, phá tán | Rất bất lợi về tiền tài |
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Địa Kiếp là dương hỏa, là sát tinh thứ nhất trong chòm sao Trung Thiên Đẩu, là một trong số lục sát tinh, chủ về sao cướp (kiếp sát), phá tán, là sao bất lợi nhất về tiện tài trong lục sát tinh, đồng thời cũng khá bất lợi về tình cảm. "Kiếp" (cướp) của sao Địa Kiếp là "Kiếp tài" (cướp của). Nó không phải từ lúc sinh ra đã vậy, là phần lớn có rồi mới mất mát, thâm chí mất nhiều hơn được, khiến phải gánh vác nợ nần gây ảnh hưởng tới đời sống thường ngày, khiến cho người ta phải chịu áp lực về vật chất lẫn tinh thần, hoặc vì vậy mà vướng vào kiện tụng phiền toái. Về tình cảm cũng gặp nhiều kiếp nạn, nên có thể nói sao Địa Kiếp là vua của các sát tinh, khiến đời người tựa như con thuyền trong giông bão, bấp bênh bất định.
Nếu sao Địa Kiếp độc tọa tại cung mệnh, chủ về một đời thăng trầm bất định, tâm tính cũng không có nguyên tắc, có lối suy nghĩ và nhân sinh quan khác người, đầu óc thông minh và linh hoạt, hành vi thì kì quặc lập dị, không theo lệ thường, không giỏi nă nói, không thể tụ tài. Nếu đại hạn, tiểu hạn gặp phải, chắc chắn sẽ phá tài.
|
(Ảnh minh họa) |
Người tuổi Tỵ mệnh Mộc là người sinh năm Kỷ Tỵ 1929, 1989...
Nhiệt tình, hào phóng và luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người là điểm riêng của họ so với người tuổi Tỵ thuộc các mệnh khác.
Đa số họ thường có vẻ ngoài ưa nhìn, dễ tạo được thiện cảm với người xung quanh. Đây cũng là người khá hoạt bát, năng động. Tuy nhiên, có khi họ tỏ ra nóng vội, dễ dẫn đến bất lợi trong công việc.
Là người tuổi Tỵ, họ không tránh khỏi tính cách đa nghi cũng như luôn đặt ra những yêu cầu cao đối với người khác. Ngoài ra, họ cũng có khát vọng lớn về tiền bạc, danh tiếng và quyền lực.
Giống người tuổi Tỵ mệnh Thủy, họ luôn kiên trì với mục tiêu đã lựa chọn. Một số người có tính cách bảo thủ, ít chịu lắng nghe mà chỉ thường áp dụng các nguyên tắc, phương thức hành động của bản thân vào việc đánh giá, phê bình người khác. Chính vì điều đó nên họ đã vô tình tự cô lập bản thân. So với nam giới, nữ giới tuổi Tỵ mệnh Mộc thường dễ phát tài, có thể giúp đỡ chồng con về cả sự nghiệp và cuộc sống.
(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)
Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 5 trong 6 sao thuộc chòm sao Tử Vi theo thứ tự: Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh.
Vị Trí Ở Các Cung
Chùa Quang Lãng, tên thường gọi là chùa Giáng, ở huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây cũ, là nơi trụ trì của Đệ Tam Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thích Phổ Tuệ.
Thời điểm ra đời của chùa hiện không có thư tịch ghi lại, nhưng trước năm 1900, chùa được dựng ở ngoài bãi sông Hồng, cho tới năm 1900 thì có nguy cơ sạt lở, cho nên dân làng hai xã Quang Lãng và Mai Xá đã công đức và mời Pháp sư Thích Nguyên Uẩn tới trụ trì và dỡ chuyển chùa đến nơi hiện nay.
Khi đã xây dựng quy củ, Pháp sư tập hợp tăng ni trong Sơn Môn Pháp Phái để thành lập đạo tràng lấy tên là Viên Minh Pháp Hội giảng dạy tu học Phật pháp. Bởi thế, nơi đây còn được gọi là “Viên Minh tự”.
Năm Nhâm Dần 1902, Pháp sư Thích Nguyên Uẩn mở Đạo tràng Viên Minh Pháp Hội, quy tụ được hơn 100 tăng ni giảng dạy và tu học trong 12 năm (1903 – 1915). Đạo tràng đã biên soạn nhiều kinh sách, khắc ván in để quảng bá Phật pháp.
Khi còn tu học ở Tổ đình Bồ Đề, Ngài đã chép lại bộ kinh Hoa Nghiêm 81 quyển, vẽ tranh minh họa “Thất sứ cửu hội” quang cảnh Đạo tràng những nơi giảng đàn của Đức Phật Thích Ca, khắc ván kinh Pháp Hoa 2 tập 7 quyển, bộ Nhật tụng 2 tập, Luật Nghi phạm thụ giới 3 quyển, chép giúp chốn Tổ Tế Xuyên bộ Quy nguyên trực chỉ 3 tập, …
Hiện nay, tại chùa Giáng còn lưu giữ tạng ván kinh điển: Kinh 42 chương, kinh Phật Di giáo, Cảnh sách Quy Sơn giảng giải, kinh Vô lượng nghĩa, Khởi tín luận, Lục trúc song, Điệp văn Bồ đề, …..
Hiện nay Viên Minh tự được trùng tu mới phía trước, khang trang và tĩnh mịch.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Có thể nói, bạn là một người phụ nữ may mắn nếu "sở hữu" một đức lang quân có tuổi giáp sau đây. Các chàng không những chiều vợ, thương con mà còn biến cuộc sống mỗi ngày của bạn đều là màu hồng khiến ai nhìn vào cũng phải ganh tị.
Tuổi Ngọ
Bản tính của loài ngựa là yêu thích tự do, bay nhảy trên đồng cỏ thảo nguyên. Chính vì vậy các chàng trai tuổi này thường rất phóng khoáng, kiêu ngạo và trọng sĩ diện.
Tuy nhiên trong cuộc sống gia đình, các chàng trai tuổi Ngọ lại rất tôn trọng vợ. Họ là điển hình cho mẫu người chiều vợ, thương yêu con cái. Tuy nhiên, để thuần phục được những chú ngựa bất kham, bạn phải có một trái tim chân thành và sự kiên trì.
Tuổi Mão
Những chàng tuổi Mão thường là người rất hiền lành, thông minh và đa tài. Họ rất biết cách chăm sóc cho người khác. Họ thường yêu hết mình và chỉ biết tới người con gái mình yêu. Khi làm chồng, họ thường rất chiều vợ và chăm con.
Đôi khi trước mặt bạn bè, chàng trai tuổi Mão tỏ ra rất gia trưởng. Nhưng khi chỉ có hai người, họ lại sẵn sàng chiều theo mọi yêu cầu của nửa kia. Thậm chí, chàng sẵn sàng nấu cơm, rửa bát nếu vợ mệt.
Tuổi Tỵ
Những chàng trai tuổi Tỵ có vẻ bề ngoài rất nam tính. Họ thường là người có tính cách mạnh mẽ giống như những chú rắn chuông săn mồi, tinh thần trách nhiệm cao.
Chính vì tính cách đó mà mọi người lầm tưởng các chàng trai tuổi Tỵ gia trưởng. Nhưng thực tế không phải vậy, họ rất chiều chuộng và yêu thương vợ con hết mực. Ai may mắn lấy được các chàng trai tuổi Tỵ thì sẽ sung sướng suốt đời.
![]() |
Tuổi Dậu |
- Ngày, giờ nên tránh: Quý Dậu, Quý Mão, Kỷ Dậu
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Kỷ Mão
Tuổi Ất Dậu (1945, 2005)
- Ngày, giờ nên tránh: Ất Dậu, Ất Mão, Tân Dậu
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Tân Mão
Tuổi Đinh Dậu (1957)
- Ngày, giờ nên tránh: Đinh Dậu, Đinh Mão, Quý Dậu
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Quý Mão
Tuổi Kỷ Dậu (1969)
- Ngày, giờ nên tránh: Kỷ Dậu, Kỷ Mão, Ất Dậu
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Ất Mão
Tuổi Tân Dậu (1981)
- Ngày, giờ nên tránh: Tân Dậu, Tân Mão, Đinh Dậu
- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Đinh Mão.
Theo Đời người qua 12 con giáp
![]() |
Do số lý âm dương ngũ hành chỉ có 10 số biểu lý
Nghĩa là chỉ có 5 số biểu lý dương và 5 số biểu lý âm, và thuộc 5 hành, tức mỗi hành có 2 số biểu lý lần lượt theo quy luật tương sinh là: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim và Kim sinh Thủy vừa tròn 10 số biểu lý.
Quy tắc quy đổi
Trong số hóa ta có nhiều số biểu lý. Vậy muốn quy đổi sang số biểu lý Âm Dương Ngũ Hành 10 số biểu lý ta phải thực hiện quy đổi như sau:
– Nếu các số biểu lý nhỏ hơn và bằng số 10 (mười) ta giữ nguyên.
– Nếu những số biểu lý lớn hơn 10 (mười) ta phải lấy sô biểu lý đó trừ bớt đi 10 (mười) hay một số lần của 10 (mười) để lấy số hàng đơn vị từ 1 (một) đến 9 (chín). Trường hợp khi trừ mà còn lại số 0 (không) thì được coi đó là số biểu lý 10 (mười).
Ví dụ: Khi số hóa một cái gì đó: Họ, tên, biển hiệu, tên hàng, tên hiệu, đường phố, mã số, số điện thoại v.v… Khi quy đổi số biểu lý của 5 vận thế hay 3 biểu thế mà số đó lớn hơn 10 đều tuân thủ quy tắc chuyển đổi theo số biểu lý Âm Dương Ngũ Hành để tham biến định tính.
Các tướng gia CHÂU Âu cũng đề xuất những kiểu mặt theo tinh tú (Les étoiles et planètes) áp dụng cho người Âu Châu (Eropienes) như các ngài: Joself Renald, Kur Levin, Somon. Các ông gọi các kiểu mặt như:
1. Mặt của thần Le Génie Soleil (kiểu mặt của thần Mặt trời).
2. Mặt của thần La Lune (kiểu mặt của thần Mặt trăng).
3. Mặt của thần Le Génie Venus (kiểu mặt của sao Kim).
4. Mặt của thần Le Génie Saturne (kiểu mặt của sao Thổ).
5. Mặt của thần Le Génie Mars (kiểu mặt của sao Hỏa).
6. Mặt của thần Le Génie Mercure (kiểu mặt của sao Thủy).
7. Mặt của thần Le Génie Jupiter (kiểu mặt của sao Mộc).
Các ông quan niệm bản chất và tính cách theo quan niệm Âu Châu (Europa) cho người Châu Âu (Europienes). Do đó không mấy áp dụng ở Việt Nam.
![]() |
Pegasus - Thần thoại Hy Lạp
Pegasus có thể coi là con ngựa được mọi người nghĩ đến đầu tiên khi nói về ngựa thần. Pegasus có cánh như chim đại bàng, lông trắng muốt, là con của thần biển Poseidon và Medusa. Sau khi giúp đỡ người anh hùng Hy Lạp Bellerophon đánh bại quái vật Chimera, thần Zeus biến Pegasus thành một chòm sao trên bầu trời. Nó là một trong những sinh vật thần thoại nổi tiếng ở phương Tây và xuất hiện nhiều trong các bức tranh, thơ ca, sách báo và phim ảnh.
Sleipnir - Thần thoại Bắc Âu
Sleipnir có 8 chân, sở hữu sức mạnh vô song. Sleipnir còn có thể tới địa ngục Nifheim do nữ thần Hel cai quản. Hermod, con trai thần Odin, từng cưỡi sinh vật này xuống địa ngục để cứu anh trai Balder. Sleipnir được Odin xem là con ngựa vĩ đại nhất của loài ngựa.
Ngựa Uchchaihshravas - Đạo Hindu
Trong thần thoại Ấn Độ, Uchchaihshravas là một con ngựa có 7 đầu, trắng như tuyết, biết bay và xuất hiện vào giai đoạn Khuấy Biển Sữa (Churning of the Milk Ocean). Uchchaihshravas được coi là con ngựa tốt nhất, xuất hiện đầu tiên và là vua của các loài ngựa. Theo sử thi Mahabharata, Uchchaihshravas là thú cưỡi của Indra, vua của các vị thần, nhưng cũng có một số ghi chép cho rằng nó là thú cưỡi của vua quỷ Bali.
Al-Buraq - Đạo Hồi
Theo truyền thuyết của đạo Hồi, Al-Buraq là chiến mã, là phương tiện di chuyển của các nhà tiên tri. Cái tên Al-Buraq bắt nguồn từ tiếng Arab trong đó "buraq" có nghĩa là "tia chớp". Câu chuyện nổi tiếng nhất liên quan đến loài ngựa này được ghi chép trong kinh Quran. Nhà tiên tri Muhammad cùng với thiên thần Jibril (Grabiel) đã cưỡi chúng từ thánh địa Mecca tới Jerusalem, sau đó lên thiên đường chuyện trò với thánh Allah trong "Cuộc du hành ban đêm". Al-Buraq có lông màu trắng, đôi cánh mọc ở thân và đôi khi được mô tả mang khuôn mặt người
4 con ngựa trong Sách Khải huyền - Thần thoại Kito giáo
Chúng là biểu tượng của Sự chinh phục, Chiến tranh, Nạn đói và Cái chết. 4 con ngựa được nhắc đến trong Sách Khải huyền của Kito giáo như Phán xét cuối cùng về ngày tận thế. Chúng có màu sắc riêng biệt lần lượt là trắng, đỏ, đen và xanh xám hoặc xanh lá cây ánh vàng. Những con ngựa này trở thành nhân vật trung tâm trong Thuyết Mạt thế trong gần một thiên niên kỷ, đồng thời được biết đến là nhà tiên tri của tự nhiên.
Kanthaka - Thần thoại Phật giáo
Theo truyền thuyết dân gian, Kanthaka được mô tả "có chiều dài 18 cubit (1 cubit tương đương 45,72 cm) và chiều cao tương xứng... và bộ lông trắng". Đây là con ngựa yêu của Đức Phật Siddhartha Gautama. Đức Phật đã cưỡi trên lưng Kanthaka trốn khỏi cung điện của gia đình khi ông quyết định trở thành nhà tu hành. Sau khi chết, Kanthaka được tái sinh thành một học giả và tu luyện đạt được giác ngộ.
Đàn ngựa cái của Diomedes - Thần thoại Hy Lạp
4 con ngựa cái của Diomedes có tên gọi Podagros, Lampon, Xanthos và Deimos. Chúng rất hung bạo và thích ăn thịt người. Bắt giữ và thuần hóa đàn ngựa điên này là kỳ công thứ 8 trong số 12 kỳ công của Heracles. Người anh hùng trong thần thoại Hy Lạp đã hoàn thành nhiệm vụ bằng cách cho đàn ngựa ăn thịt chính chủ nhân của chúng. Ngoài việc là biểu tượng trong thần thoại Hy Lạp, đàn ngựa trên còn được cho là tổ tiên của Bucephalus, chiến mã của Alexander Đại đế.
Tulpar - Thần thoại Thổ Nhĩ Kỳ
"Tulpar" trong ngôn ngữ Thổ Nhĩ Kỳ ở khu vực Trung Á cũng có nghĩa là "ngựa có cánh". Tulpar xuất hiện trong nhiều truyền thuyết và thần thoại ở khu vực này. Một trong những truyền thuyết kể lại rằng, anh hùng dân gian người Tuvan, Oskus-ool, đã sử dụng những gì còn lại của con ngựa Tulpar yêu quý để tạo ra cây đàn violon đầu tiên.
Người ta tin rằng Tulpar là sự kết hợp mang tính biểu tượng giữa ngựa và chim săn mồi, hai loài vật thường được người dân Trung Á sử dụng trong săn bắt. Tulpar đóng vai trò quan trọng trong văn hóa Trung Á. Nó là biểu tượng trên quốc huy của Kazakhstan và Mông Cổ.
Chollima - Thần thoại Đông Á
Chollima (nghĩa là "thiên lý mã") là con ngựa thần với sải cánh rộng và có thể di chuyển 400 km một ngày. Chollima được miêu tả sinh động trong văn hóa các nước Đông Á như Triều Tiên, Nhật Bản. Tương truyền, loài ngựa này xuất hiện ở Trung Quốc vào khoảng thế kỷ III trước Công Nguyên, dưới triều đại nhà Tần. Ngày nay, Chollima là biểu tượng của sự tiến bộ và phát triển kinh tế ở Triều Tiên.
Nguyễn Tâm (theo Toptenz)
(Vn Express)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)