Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Giải thích cách phú: "Thạch trung ẩn ngọc" để xác định: Hình tượng của Nhật – Nguyệt

Bài viết của tác giả Nghi Nghi Trần Nhật Tường diễn giải cách Thạch trung ẩn ngọc rất hay và tường tận. Mời mọi người cùng đọc và khám phá.
Giải thích cách phú: "Thạch trung ẩn ngọc" để xác định: Hình tượng của Nhật – Nguyệt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài của Nghi Nghi - Trần Nhật Tường

Bài sau đây có những ý tưởng lạ khác với những cách giải đoán cũ, kính xin quý vị cao thủ thấy không thể tán đồng, cho chúng tôi ý kiến… Những người trẻ đi tìm Tử vi ngày nay khá đông, nghĩ sao là cứ nêu ra – nhưng còn vấn đề kinh nghiệm nữa.

Trước khi trình bầy lá số của Thạch Sùng tôi xin giải thích một câu phú ghi trong tập Tử vi đẩu số toàn thư của đức Hi Di Trần Đoàn sau đây thì mới thấy cái hay, cái lạ và cái vô cùng lý thú của Tử vi được:

“Cự môn Tý Ngọ: Khoa Quyền Lộc, Thạch trung ẩn ngọc, Phúc hưng long”

Nghĩa chính của câu phú thế này “Mệnh ở Tý Ngọ có Cự Môn tọa thủ gia thêm Khoa Quyền Lộc nữa là cách:

“Thạch trung ẩn ngọc” (Ngọc ẩn trong đá) sẽ được hưởng phúc lớn”.

Đó là ý chính còn muốn hiểu cho rõ ngọn nguồn và cho chính xác câu phú trên, ta phải tự hỏi: Cự môn là một sao thuộc hành Thủy, đóng tại cung Tý là Thủy địa hay vào cung Ngọ là Hỏa hướng, tại sao lại được coi như “Ngọc ẩn trong dá? Ngọc ở đâu và đá ở đâu? Trong khi chỉ thấy có Thủy, Hỏa. Nước với lửa không lẽ thành ngọc, thành đá được!

Để trả lời cho thỏa đáng câu hỏi này, tôi phải ghi lên đây một vài nhận xét mà trong dân gian thường dùng làm biểu tượng hay để ví von… Như câu:

“Song long tranh châu” chẳng hạn, thức là nói đến hình vẽ hai con rồng tranh ông mặt trời hoặc “Ngọc thổ thanh kỳ” là con thỏ ngọc trong đẹp lạ lùng: ý chỉ mặt trăng sáng sủa rực rỡ…

Từ đó nói chung: Châu, Ngọc là hình tượng của Mặt trời, Mặt trăng (Nhật, Nguyệt) theo quan niệm của Á đông ta vậy.

Hiểu như trên rồi, câu phú mới có thể giải thích được:

A)Trường hợp thứ nhất:

Cự môn ở Tý, Cự môn ở tý luôn luôn kết hợp với Thái Dương (ngọc) ở Thìn (Thổ thạch) để thành cách Cự, Nhật (Mệnh sẽ chịu ảnh hưởng sự chi phối của hai sao này).

Chú thích:
Ngọc: là hình tượng của Thái Dương
Thạch: là đá, thuộc Thổ, là cung Thìn

Cho nên: Thái Dương ở cung Thìn mới chính là “Ngọc ẩn trong đá” (Thạch trung ẩn Ngọc) vậy.

Sao Cự môn (Thủy) trong mạng chính là cái mầm mống dùng để câu hút Thái Dương (Hỏa) ở cung Thìn cho bản Mệnh được sáng sủa, không có nó không xong. Một Thủy một Hỏa một Âm một Dương thu hút lẫn nhau.

Suy rộng ra giống như luật hấp dẫn vũ trụ. “Attraction d’univers” của Newton ngày xưa vậy.

Cự môn ở Tý theo các sách Tử vi khác: “Nếu Mạng được Tuần triệt án ngữ hoặc Hóa lộc đồng cung (Kỵ ngộ Lộc tồn) thì vẻ đẹp sáng sủa tốt đẹp mới được rõ rệt, cũng như đá đã được phá vỡ, ngọc lộ hẳn ra ngoài”

Câu này được rút trong sách Tử vi Đẩu số tân biên của cố Biên giả Vân Đằng Thái thứ lang trang 56, nói về sao Cự môn. Hay nói chung các cụ ta cũng đều giảng như thế cả. Không hiểu các cụ đã căn cứ vào đâu để giảng giải như vậy? Theo tôi thấy thì nó có hơi kỳ cục! Nếu nói: “Gặp Tuần, Triệt án ngữ hoặc Hóa lộc đồng cung thì ngọc mới lộ được ra ngoài và đã coi như đã bị phá vỡ…” Một khi ngọc đã bị lộ ra ngoài là hết còn ẩn nữa rồi, mà hết còn ẩn thì coi như cách “Thạch trung ẩn ngọc” đã hỏng cho nên theo sự hiểu biết riêng của tôi thì: chữ Ẩn trong câu phú này chỉ có một dụng ý cho ta biết vị trí của sao Thái Dương đóng vào cung Thìn mà thôi. Còn điều cốt yếu trong cách này là: bản Mệnh có nhận được sức sáng của Thái Dương hay không? (do sao Cự môn câu hút). Để được tốt đẹp hơn, có thể thêm vào những phần phụ sau đây:

- Cần được Tuần, Triệt án ngữ ở Mệnh (trường hợp Cự môn ở Tý) để làm giảm, mất đi cái tính chất Ám (che, khuất) của Cự môn, Mạng mới sáng được.

- Kỵ ngộ Lộc tồn: không phải sao này làm cho ngọc cứ mãi mãi chìm trong đá. Mà vì nó có đặc tính giữ chặt lấy (Tồn) tính chất ám của Cự môn nên không có lợi cho bản Mệnh.

- Không cần sao Hóa Lộc trong trường hợp này để cho vào trường hợp sau, ở Ngọ.

B)Trường hợp thứ hai:

Cự môn ở Ngọ. Theo tôi thấy, Cự môn ở Ngọ tuy vẫn là cách “Thạch trung ẩn ngọc” song trường hợp này đã mất đi hết cái hay của cách rồi. Mấy điểm xấu có thể kể ra là:

1. Cự môn ở Ngọ bị sai vị: thất cách vì Cự môn là Bắc đẩu thủy tinh cư vào cung Ngọ thuộc Hỏa là Nam vị. Mặc dầu Thủy Hỏa vẫn kết hợp được theo nguyên tắc của Âm, Dương, Cự môn, vốn Vượng địa ở đấy nhưng…

2. Đưa đến tình trạng Thái Dương ở Tuất thất huy (không sáng sủa) nên không thể ghi “Phúc hưng long” được.

3. Khi cho Hóa lộc đồng cung: Không giải thích nổi tại sao lại tốt?

Vậy, tôi xin đưa ra một đề nghị: sửa lại câu này một chút như sau:

“Cự Cơ, Tý Ngọ Khoa Quyền Lộc.
Thạch trung ẩn ngọ, Phúc Hưng long”

Bỏ chữ Môn đi thay bằng chữ Cơ để giải thích cặp sao Cơ, Cự ở bốn vị trí: Tý, Ngọ, Mão, Dậu

  • Tý Ngọ: Thạch trung ẩn ngọc
  • Mão Dậu: Chúng thủy triều đông
  • Cự Môn ở Tý, Thiên Cơ ở Ngọ.

Bắc đẩu tinh Cự Môn vào Bắc vị mới hay và Nam đẩu tinh Thiên Cơ của Nam vị mới đúng. Khi đó cặp Nhật

Nguyệt mới sáng sủa tốt đẹp được.

Ghi chú thêm: Cơ, Cự ở Mão mới đúng cách: “Chúng thủy triều đông”. Còn ở Dậu không phải, có chăng chỉ là:

Cơ Cự Dậu thượng hóa cát giả
Túng ngộ Tài Quan dã bất vinh

Cũng như Cự ở Tý mới tốt, Cơ ở Ngọ mới hay còn ngược lại Cự ở Ngọ và Cơ ở Tý thì cũng quá, cũng lại “dã bất vinh” mà thôi, không thể “phúc hưng long” được

Vậy bây giờ xét trường hợp: Thiên Cơ ở Ngọ. Khi Thiên Cơ ở Ngọ thì bao giờ cũng vậy, Thái Âm (Ngọc) ở Tuất (Thổ thạch)

Chú thích:
Ngọc: là hình tượng của Thái Âm.
Thạch: là đá, thuộc Thổ, là cung Tuất, cho nên: “Thạch trung ẩn ngọc” cũng là cách của Thái Âm đóng vào cung Tuất vậy.

Tính chất của Mộc là thu hút Thủy nên Nam đẩu Thiên Cơ (Mộc) với Bắc đẩu Thái Âm (Thủy): Một Nam một Bắc, Một Âm, Dương: Thiên Cơ (Mộc) thu hút lấy Thái Âm (Thủy) để biến sinh, nuôi dưỡng bản Mệnh vậy.

Phần phụ thêm

Bây giờ nếu thêm vào sao Hóa Lộc đồng cung nữa sẽ thấy cái rất hay của cách phú:

Khi có Hóa Lộc đồng cung thì Thiên Cơ (Mộc) được Hóa Lộc (Thổ) bồi đắp Thái Âm (Thủy) dinh dưỡng, sẽ đâm chồi, nẩy lá (Hóa Lộc).

Cái cảnh cây xanh lá non với trăng sáng giữa trời còn gì đẹp bằng.

Đến đây coi như ta đã hiểu được thế nào là cách “Thạch trung ẩn ngọc rồi. Bây giờ chỉ còn một đoạn chót phải tìm hiểu thêm tại sao với cách này, Lão tổ Hi Di lại không ghi chẳng hạn như “Quan cư Hầu Bá” hoặc “Cự thương Cao Mại”… mà lại ghi là “Phúc hưng long”!

Ta thấy, vì trong thiên “Đẩu số cốt tủy” Lão tổ Hi Di dậy rằng: “Âm Dương duyên thọ tăng bách phúc”

Mà ảnh hưởng chính của cách này lại do cặp Âm Dương ở hai cung Thìn Tuất tạo nên. Do đó, bắt buộc ngài phải ghi thêm vào cái đuôi “Phúc hưng long” vậy.

Sở dĩ tôi phải giải thích câu phú trên là chỉ có một mục đích, muốn nêu lên một minh chứng rõ rệt để xác định về hình tượng của Nhật Nguyệt: đến khi giải thích sang lá số của Thạch Sùng, quý vị mới thấy cái linh diệu và cái vô cùng lý thú của Tử vi được.

KHHB số 74L2


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải thích cách phú: "Thạch trung ẩn ngọc" để xác định: Hình tượng của Nhật – Nguyệt

Vị trí bàn làm việc hợp phong thủy –

Trong phong thủy, việc đặt cái bàn, cái ghế trong nhà cũng hết sức quan trọng. Vì tất cả những yếu tố này đều tác động đến khí và vận của gia chủ. Để có một phong thủy tốt cho khu vực phòng làm việc cũng như đặt bàn làm việc đúng hướng của cung tuổi,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

gia chủ cần hội đủ một số điều kiện về ngoại thất, nội thất.

Tránh đặt bàn ở những nơi có khí bị tổn hại bạn sẽ đạt đưọc thành quả tối đa từ công việc. Cảnh trí nhìn từ cửa sổ của phòng làm việc nên thú vị nhưng cũng không quá cuốn hút để làm sao nhãng công việc. Một cảnh nhìn từ hồ bơi của nhà lân cận và khu vực nấu ăn ngoài trời sẽ không thúc đẩy sự làm việc của bạn. Ngồi đối diện với cửa sổ của nhà kế bên cũng không nên vì khiến cho bạn mất thoải mái.

103-14

Nếu cảnh bên ngoài làm bạn sao nhãng, nên dùng rèm mỏng che cửa sổ lại để có thể tiếp nhận ánh sáng từ ngoài vào và cũng giúp bạn không bị cảnh sắc bên ngoài làm phân tâm.

Có thể dùng chậu cảnh đặt ở bệ cửa sổ thay cho rèm cửa. Để tránh mệt mỏi, phòng làm việc nên được cung cấp đủ khí trời.

Khi phải ngồi một chỗ trong nhiều giờ liền, bạn nên chú ý đến điều kiện làm việc và chọn đồ đạc có kích cỡ phù hợp với vóc dáng của bạn để nâng cao hiệu quả đồng thời tránh những căn bệnh nghề nghiệp.

Ghế nên đặt vừa với bàn và chỗ ngồi nên có chiều cao thích ứng để viết và gõ bàn phím nếu bạn làm việc trên máy tính. Màn hình phải được đặt đủ xa để tránh các tia phóng xạ phát ra từ đó. Nếu có điều kiện bạn nên dùng máy tính xách tay. Các đường dây nối vào máy tính có thể gây nguy hiểm và làm khó chịu, cần sắp xếp và cột chúng lại cho gọn.

– Phía sau bàn làm việc nên có tranh ảnh về núi non. Tượng trưng cho điểm tựa vững chắc, lưng dựa vào núi được ví như phòng thủ, nhưng hình núi non phải có màu sắc thích hợp theo Ngũ hành.

– Trước mặt bàn làm việc nên có một bức tranh vui có ý nghĩa, trưòng hợp này dùng khi các bạn làm việc quá căng thẳng, sẽ nhìn vào bức tranh đó tạo cảm giác nhẹ nhàng sẽ giảm bớt áp lực trong công việc.

– Trên bàn làm việc bố trí giấy tờ cũng như máy vi tính gọn gàng. Các bạn cần lưu ý máy vi tính cũng xếp cho đúng hướng.

– Trên bàn làm việc phải có những vật phẩm phong thủy mang biểu tượng sự quyền lực, trí tuệ như: Gậy như ý, rùa đầu rồng, đĩa thất tinh, quả cầu phong thủy…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vị trí bàn làm việc hợp phong thủy –

Những cách nhìn khác nhau về một số sao (2)

Tác giả: Mộc Công Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông phương
Những cách nhìn khác nhau về một số sao (2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chỉ có Tử Vi Việt là đưa đủ vào 12 sao của vòng Thái Tuế. Và đặc biệt Tử Vi Việt còn có thêm sao Thiên Không luôn an cùng Thiếu Dương. Tất cả những sách Tử Vi được xem là chính tông đều ghi chép vòng Thái Tuế gồm có 5 sao: Thái Tuế, Tang Môn, Bạch Hổ, Điếu Khách và Quan Phù. Không hiểu từ đâu và do ai mà vòng Thái Tuế của Tử Vi Việt có đủ 12 sao kèm theo sao Thiên Không. Trong khi đó sao Thiên Không của Tử Vi bắc phái chính là sao Địa Không của Tử Vi Việt.


Những sao ăn theo Tử Vi gồm có Đào Hoa, Hồng Loan, Long Trì, Phượng Các, Kiếp Sát, Thiên Mã, Thiên Khốc, Thiên Hư.Những sao này hợp với vòng Thái Tuế để tạo ra những cách cục rất đặc trưng, mệnh có Thái Tuế tất có Long Phượng mà không có Đào Hồng, mệnh thân tạo thành thế Tang Mã Khốc Hư,... từng cách cục này có ảnh hưởng rất mạnh lên toàn bộ lá số.

Ngay như 12 sao của vòng Thái Tuế khi dùng để luận đoán chủ yếu chỉ dùng đến 5 sao đã kể trên kèm theo Khốc Hư, Đào Hồng, Long Phượng, và Thiên Mã, những sao như Tứ Đức, Kiếp Sát, Thiếu Dương, Thiếu Âm, ... hầu như rất ít dùng để luận đoán vì tính chất của nó không rõ ràng, mỗi người nói mỗi kiểu, đến khi xảy ra vận hạn không giải thích được thì lại cứ viện vào những sao này để lí giải, thật là rối rắm đâu thể nào làm khuôn mẫu được.


Cho nên dựa trên những nghiệm lý trên có lẽ khi xem Tử Vi chúng ta nên làm theo nguyên tắc là 1 nhóm nhỏ các sao quan trọng sẽ quyết định đến 90% thông tin về lá số, tất cả những sao còn lại chỉ là sự phụ trợ thêm mà thôi. Những sao quan trọng này bao gồm: 14 chính tinh, lục sát, Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt,Tứ Hóa, Thái Tuế và những sao đi theo, Lộc Tồn và một số sao đi theo. Nó là xương sống của Lá số, còn những sao còn lại chỉ là phụ trợ. Xem như vậy sẽ đơn giản hơn cho người học, mà thông tin luận đoán cũng sẽ chính xác hơn.


Lá số Tử Vi nó là tổng hợp tương tác của Năm, Tháng, Ngày, Giờ lên Lá số, trong đó chỉ duy nhất có 14 chính tinh là phải dùng hết cả 4 tương tác. Các sao theo Giờ, Tháng thực chất là tương đương nhau, qua đó chúng ta có thể thấy những sao đó là thông nhất của 2 dữ kiện Giờ và Tháng. Còn lại địa chi năm sinh đó là Thái Tuế.

5. Tả Hữu và chữ "ĐỚI" trong Ngũ Hành:

Như đã viết ở trên, Tả Hữu khởi an ở hai cung Thìn Tuất theo tháng sinh. Ý nghĩa của hai cung Thìn Tuất cũng đã nói rõ một cung là nơi mặt trời mọc vào ngày Đông Chí, một nơi là mặt trời lặn vào ngày Hạ Chí, một nơi là Thủy vượng, một nơi là Hỏa vượng. Tính của Thủy là nhuận hạ, tính của Hỏa là viêm thượng cho nên Tả Phù khởi ở Thìn được xem là thuận, biểu lộ cho một tính cách nhẹ nhàng, tượng cho Văn còn Hữu Bật khởi ở Tuất được xem là nghịch, biểu lộ cho sự mạnh mẽ, tượng cho Võ.

Khởi từ cung Thìn coi là tháng Giêng, ngày đông chí lại luôn rơi vào thàng Tý trong tự nhiên, cho nên tháng 1 của sao Tả Phù chính là tháng Tý trong tự nhiên, tháng mà Thủy cực vượng. Tương tự như vậy tháng 1 của Hữu Bật chính là tháng Ngọ, khi mà Hỏa cực vượng. Đặc tính của Thủy và Hỏa đều là sự nhanh nhẹn, và quyết liệt, cho nên khi Mệnh ở Thìn Tuất có Tả Hữu đó là người rất tháo vát và nhiều câu phú của Tử Vi khi nói về Tả Hữu cũng nói về tính tháo vát khi có Tả Hữu đóng mệnh.

Tả Hữu vốn hành Thủy, Hữu Bật vốn hành Hỏa. Đến tháng trọng xuân trong tự nhiên (tức là tháng 2) hay là tháng 4 của Tả Hữu thì Tả Hữu đồng cung tại Mùi. Đến tháng trọng thu trong tự nhiên (tức là tháng 8) hay là tháng 10 của Tả Hữu thì Tả Hữu đồng cung tại Sửu. Trọng xuân thì mộc vượng, cho nên người có tướng Mộc cách thì đầy đặn, cao; phú Tử Vi cũng có câu Tả Hữu cư Mệnh vi trọng hậu, đó chẳng phải là để chỉ người Mộc vượng đó ư. Ngược lại trọng Thu thì kim vượng, chủ về cứng rắn quyền hành, cho nên phú Tử Vi cũng có câu nói Tả Phù, Hữu Bật vị đến tam thai, đây chẳng phải là tính của Kim ư. Như vậy bản thể Ngũ Hành của Tả Hữu cũng thay đổi theo 4 điểm quan trọng nhất của một năm : trọng xuân, trọng thu, trọng hạ và trọng đông. Tại 4 vị trí này Tả Hữu đều ở những cung Tứ Mộ, cho nên mới nói 4 mộ cung Ngũ hành tạp vì táng chứa đầy đủ ngũ hành. Và để mô tả cho Ngũ Hành có sự biến động, người xưa dùng chữ ĐỚI, và đó cũng là nguyên nhân vì sao một số sách Tử Vi ghi Hữu Bật hành Thổ đới Hỏa, và nhiều ví dụ khác.

Qua đó cũng có thể thấy, khi xem về Tả Hữu, cần biết rõ, tháng sinh của mình để an Tả Hữu tương ứng thật sự với tháng nào trong tự nhiên để đoán về tính cách của Tả Hữu. Ví dụ sinh tháng 9 âm, Tả Phù an ở Tý, tháng 9 của Tả Hữu tức là tháng 7 trong tự nhiên, Kim vượng, lúc này nếu có Tả Hữu thủ Mệnh nó sẽ mang đặc tính của quyền lực, đương số sẽ không còn tính trọng hậu nữa mà sẽ là người quyền bính, cứng rắn, đặc tính này gia giảm, tăng lên và biến đổi còn phải tùy thuộc và chính tinh đi kèm. Tả Hữu lúc này sẽ có đặc điểm của một quyền tinh.

Như vậy cầm một lá số Tử Vi lên, nhìn vị trí của Tả Hữu có thể cho ta thấy cả một sự biến đổi của Ngũ Hành trên lá số, một bức tranh của Nguyệt lệnh.

6. Xương Khúc

Xương Khúc như đã nói ở trên nó chính là cặp sao đối chọi với Không Kiếp. Đã có Không Kiếp ở Mệnh tất không thể có Xương Khúc, cả 4 sao đều có thể an theo cả ngày sinh và tháng sinh. Không Kiếp là sát tinh hạng nặng vậy còn Xương Khúc thật sự là gì, liệu nó có mang cái ý sát tinh hay không?

Xương Khúc nổi bật nhất của nó là vai trò hỗ trợ giống như Tả Hữu và Không Kiếp, đi kèm nhiều cát tinh thì sẽ tăng sự cát lên, đi kèm nhiều hung tinh thì Xương Khúc sẽ hỗ trợ cho cái hung, ví dụ đi kèm chính tinh miếu vượng Nhật Xương vị đến Tam thai, đi kèm dâm tinh Xương Riêu là cách dâm dật.... như vậy bản chất của Xương Khúc không phải cát không phải hung mà phải xem nó đi kèm cùng những tinh đẩu nào để mà luận đoán. Đó là đặc tính nổi bật của Xương Khúc.

Xương Khúc có hoàn toàn như nhau? Không hoàn toàn như nhau. Cả 2 sao đều mang nghĩa là duyên dáng có tài ăn nói khi đi kèm những sao hùng biện như Thái Tuế, Lưu Hà, nhưng Văn Xương nó còn mang nghĩa là bằng sắc trong khi Văn Khúc thì không? Sao Văn Xương luôn có Thai, Cáo đi cùng đó là chỉ bằng sắc, ấn tín tài năng đã được công nhận một cách chính thức.

Ngoài ra an theo Xương Khúc còn có bộ Quang Quý chủ về quý nhân ân điển. Như vậy chỉ một bộ Xương Khúc mà đã có đến 4 sao an theo Thai Cáo Quang Quý, Tả Hữu thì có Thai Tọa an theo, trong khi đó KK lại chẳng có sao nào an theo nó cả. Khởi an từ trục Tỵ Hợi là nơi nghiêng lệch hẳn về âm dương, còn trục Thìn Tuất là nơi nhất âm nhất dương sinh nơi La Võng kìm hãm, đó chính là đặc điểm nổi bật của KK là sự mạnh liệt và nhanh bất ngờ, còn của XƯơng Khúc Tả Hữu là sự từ từ nhưng vững chãi. Tử Vi là vậy làm gì có chuyện cát tinh cứu giải, hung tinh gây họa, sao nào cũng là hung mà cũng là cát, chúng tổ hợp hòa quyện vào nhau khăng khít để tạo nên sự mã hóa tuyệt vời cho số mệnh của con người thông qua năm, tháng, ngày , giờ sinh... còn tiếp ...


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những cách nhìn khác nhau về một số sao (2)

Phân tích 51 cách cục thường gặp

Một bài viết trích từ cuốn Tử Vi Tam Hợp Phái của dịch giả Nguyễn Anh Vũ. Mời các bạn cùng đọc.
Phân tích 51 cách cục thường gặp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sách Trung châu tử vi Đẩu số - Tam Hợp phái - Dịch giả Nguyễn Anh Vũ

Chương 4: LUẬN VỀ CÁCH CỤC - PHÂN TÍCH 51 CÁCH CỤC THƯỜNG GẶP

CÁCH CỤC là một vấn đề lớn đối với người nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số

Thực ra, Tử vi Đẩu Số không giống như "Tử bình" dùng Tứ trụ để luận đoán Lộc mệnh. Từ Bình vận dụng nguyên lý ngũ hành sinh khắc chế hóa để luận đoán, tính linh hoạt khá lớn, hơn nữa có thể dựa vào Bát Tự để nhìn toàn bộ khí cơ của mệnh tạo. Phàm là khí cơ trôi chảy, thì người đó cuộc đời gặp nhiều điều thuận hòa. Hễ khí cơ tắc nghẽn, trở ngại thì cảnh ngộ của người đó nhiều trắc trở, khó khăn. Nếu như Tứ trụ trở thành "cách", thì không Phú cũng Quý.

Nhưng các tổ hợp tinh hệ của Đẩu Số, thì lại có tính giới hạn cục bộ. Lấy tổ hợp 14 chính diệu để nói, chỉ có 144 trình thức, nhưng thêm vào các sao phụ tá và hóa, thì có thể có hơn 17 000 000 trình thức biến hóa. Vừa quá đơn giản, vừa quá phức tạp, do đó định CÁCH CỤC là điều không dễ chút nào.

Tuy vậy, Tử Vi Đẩu Số toàn Thư vẫn có ghi chép một số "cách cục", đây có lẽ do người đời Minh đặt ra. Ví dụ như "Vũ Tham đồng hành", "Văn tinh củng mệnh",.v.v... Những cách cục này, trong xã hội đời Minh đương nhiên có một ý nghĩa nhất định, nhưng cổ nhân luận mệnh số, chỉ trọng ca quyết, mỗi một mệnh cục đều phụ kèm một bài ca, giải thích rất sơ lược.

Ngày nay, những người nghiên cứu Đẩu Số, nếu cứ dựa vào những ca quyết này, thì sẽ rất cứng nhắc. Nhất là khi luận mệnh cho người khác càng rất dễ sai, hoặc không nhìn ra giới hạn, sẽ đoán không ra mệnh vận của người đấy. Do đó, cần phải căn cứ vào bối cảnh xã hội hiện đại, để giải thích các "cách cục" này.

Tiết này giới thiệu về 51 cách cục của Đẩu Số và thêm vào phần bình luận, mục đích chủ yếu chỉ có một điều, là làm cho bạn đọc thấy được sự trọng yếu của "tinh hệ".

Theo Vương Đình Chi, muốn luận đoán Đẩu Số chuẩn xác, nhất thiết không được phân tích rời rạc từng sao, tức là đừng luận đoán tính chất cảu 155 sao một cách máy móc. Nếu không khi vận dụng thực tế sẽ cảm thấy có muôn ngàn ngõ rẽ, mất đi cái nhìn toàn cục.

Trong "Thập bát phi tinh" thời kỳ đầu, người xưa luận đoán Lộc mệnh rất võ đoán, sao nào nhập vào cung nào cứ y như vậy mà đoán cát - hung, về sau mới phát triển thêm, chú ý tới "tam phương tứ chính", sau đó mới phát triển khái niệm "tinh hệ". Tử Vi Đẩu Số chiếu theo truyền thống này, từ đó bắt đầu lưu ý đến tổ hợp "tinh hệ". Có nhiều "cách cục", tức là từ tính chất của "tinh hệ" rồi phát triển thành, ví dụ như "Vũ Tham đồng hành", "Thất sát triều đẩu", "Tam hợp Hỏa Tham",.v.v... toàn là tính chất của tổ hợp tinh hệ cơ bản.

Nhưng hậu nhân lại có khuynh hướng phát triển không lành mạnh, đó chính là xem trọng "cách cục" một cách quá đáng, mà bỏ xót một điều, thực ra "cách cục" chính là tinh hệ. Vì vậy, cuối đời Minh mới thành lập nhiều "ngụy cách", đem nhiều ý tứ tạp nham vào "cách cục" tinh hệ, biến thành rồng rắn lẫn lộn.

Chương này thảo luận về cách cục, Vương Đình Chi căn cứ vào bối cảnh xã hội hiện đại để gạn lọc, và chỉ ra những "ngụy cách", để bạn đọc biết được những ý nghĩa thực sự của Cách và Cục, mà không suy diễn mơ hồ, khi luận đoán không còn câu nệ vào tên gọi của Cách và Cục

Nhiều người thích nghiên cứu Đẩu Số, nhưng những sách hiện có trên thị trường, thông thường có khuyết điểm là thiếu thực tế, sao chép của người đi trước quá nhiều, và thường thần bí hóa khoa Đẩu Số. Trong thực tế, muốn nghiên cứu khoa Đẩu Số chăng khó, chỉ cần nhận thực được một số kết cấu chủ yếu của tinh hệ, thì đã có thể luận đoán khá chính xác.

Cái khó của người nghiên cứu Đẩu Số là, trong các sách thông thường chỉ đề cập tính chất của các Sao ở cung Mệnh và cung Thân, mà ít nhắc tới cung khác. Đối với tính chất cát - hung ở các cung như Tử nữ, Phu thê, Tài bạch, sự nghiệp,.v.v... sách chỉ nói vài lời vắn tắt, do đó khi luận đoán cảm thấy nghi hoặc. Về phương diện này, chúng tôi có vẻ như có cùng khuyết điểm. Nhưng đó là vì, khi bàn về tính chất tinh hệ, chúng tôi cung cấp cho bạn đọc một tiêu điểm, thoạt nhìn giống như chỉ nói về cung mệnh (hay cung thân), thực ra những tính chất này đều có thể vận dụng ở 12 cung.

Ví dụ như "Tử vi Tham lang" ở cung Dậu, nếu cung Dậu là cung Mệnh, bạn đọc có thể lưu ý xem có hội hợp Lục cát tinh, Lộc tồn, Thiên mã hay không?, nếu không, thì có khả năng là dâm tà. Nếu cung Dậu là cung Phụ mẫu, thì cha có khả năng nhiều vợ. Nếu cung Dậu là cung Huynh đệ, thì chủ về anh cả hoặc chị cả lập gia đình, hôn nhân của anh chị em chưa chắc được như ý. Nếu cung Dậu là cung Tử nữ, gặp cát thì con cái có triển vọng, gặp hung thì có khoảng cách giữ hai đời. Ở các cung đều căn cứ tính chất cơ bản của tinh hệ "Tử vi Tham lang" mà luận đoán, một điều thông thì trăm vạn điều thông. Cần chú ý thêm, "Tử vi Tham lang" ắt sẽ hội hợp "Vũ khúc Phá Quân" và "Liêm trinh Thất sát". Cho nên, phàm Tử vi Tham lang giữ cung nào, phần nhiều cũng chủ về biến động, nếu là cung Tài bạch và cung Sự nghiệp, bạn có thể luận đoán từ tính chất biến động. Đây là phương thức lấy "tinh hệ" để nghiên cứu Đẩu Số một cách mau lẹ.

CÁCH THỨ 1: TAM KỲ GIA HỘI CÁCH

"Tam kỳ gia hội cách" tức là Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội hợp cung mệnh.

Cổ ca nói:

Ba kỳ vây hướng Tử vi cung (Tam kỳ củng hướng Tử vi cung)

Mệnh lý đời người rất ưa gặp (Tối hỷ nhân sinh mệnh lý phùng)

Điều hòa âm dương chân tể tướng (Tiếp lý âm dương chân tể tướng)

Công danh phú quý ai sánh bằng (Công danh phú quý bất lôi đồng)

Hóa Lộc thông thường chủ về lộc quan, Hóa Quyền thông thường chủ về quyền bính, Hóa Khoa thông thường chủ về danh vọng, vì vậy cung mệnh đương nhiên thích 3 sao này hội hợp. Nhưng phải không gặp tứ sát Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la; hoặc không gặp Địa không, Địa kiếp; hoặc không gặp Thiên hình, Hóa Kị, thì mới được gọi là cách tốt. Nếu gặp "tam hóa cát" hội hợp, lại còn gặp các sao sát - kị, thì phải nghiên cứu tỉ mỉ tính chất của hóa diệu, sau đó mới có thể luận đoán ưu điểm và khuyến điểm của mệnh tạo.

Cho nên, trong Đẩu Số không có trường hợp nào phức tạp như cách này!

"Tam kỳ gia hội cách" lấy trường hợp hóa Lộc ở cung mệnh, hội hợp hóa Quyền hóa Khoa ở tam phương là kết cấu tốt nhất. Không ưa hóa Lộc hoa Quyền tập trung ở một cung, bởi vì hóa diệu quá tập trung, lực lượng ở các cung viên khác sẽ mỏng manh, dễ mất quân bình.

Hóa Quyền thủ mệnh, thông thường là chủ về nắm quyền bính, nhưng nếu gặp sát diệu, trái lại sẽ có chức mà không có quyền.

Hóa Khoa thủ mệnh, thông thường là chủ về có danh tiếng một cách thực chất, nhưng nếu gặp sát diệu, trái lại sẽ chủ về người này chỉ trộm hư danh.

Cho nên "Tam kỳ gia hội cách" chẳng dễ toàn mỹ.

Thời xưa xem trọng sỹ hoạn, coi thường nông thương, cho nên "Tam kỳ gia hội cách" đều vì lý do có thể ra làm quan mà được vinh hoa phú quý. Còn trong xã hội hiện đại, thì "Tam kỳ gia hội cách" cũng có thể là đầu não tập đoàn tài chính, không nhất định phải làm quan.

HÓA DIỆU LUẬN

Hoa diệu trong Tử Vi Đẩu Số, là các sao biến hóa then chốt liên thông các tinh bàn (Thiên bàn và Nhân bàn), nhất là Lưu niên và Đại vận, có các "Lưu hóa diệu" giao hội hỗ tương với hóa diệu của nguyên cục, khiến cho tính chất của tinh hệ hữu quan biến thành phức tạp, cũng chính nhờ như vậy mới luận đoán được cảnh ngộ của đời người khá cụ thể.

Hóa Lộc thông thường có ý nghĩa là "tài lộc"; Hóa Quyền thông thường có ý nghĩa là "quyền thế"; Hóa Khoa thông thường có ý nghĩa là "danh tiếng"; Hóa Kị thông thường có ý nghĩa là "trở ngại". Nhưng mỗi một tinh diệu biến hóa vẫn có ý nghĩa đặc biệt của nó, những ý nghĩa đặc biệt này thường thường là căn cứ để luận đoán.

Lúc luận đoán mệnh cục, chỉ có Tứ hóa của năm sinh, nên khá đơn giản, dễ quan sát. Luận đoán những điểm quan trọng, chỉ cần xem bản thân các sao Tứ hóa có hội hợp hay không? hội hợp ở cung độ nào? thì có thể biết được đại thể.

Lúc luận đoán Đại hạn, chỉ có Tứ hóa của Đại hạn và Tứ hóa của năm sinh, cũng chưa phức tạp mấy, xem các sao hội hợp với chúng cũng không đến mức hoa mắt.

Nhưng khi luận đoán Lưu niên, tổng cộng có 3 nhóm Tứ hóa, có thể cung độ nào cũng có hóa diệu hội chiếu hoặc đồng độ, thường khiến cho người nghiên cứu Đẩu Số hoa cả mắt.

Thực ra, thông thường chỉ cần xem hai nhóm hóa diệu của Đại hạn và Lưu niên; lúc nào tứ hóa của năm sinh bị xung khởi mới cần chú ý, không xung khởi thì tác dụng rất nhỏ.

Tứ hóa của năm sinh cấu tạo thành bản chất thuộc các cung viên, còn Tứ hóa của Đại vận và Lưu niên là hình thành hoàn cảnh của các thời kỳ trong cuộc đời. Do đó tứ hóa năm sinh có ảnh hưởng không lớn đối với hoàn cảnh của các thời kỳ. Điểm này bạn đọc cần hiểu rõ cái lý của nó.

Chỉ khi nào Tứ hóa của năm sinh bị tứ hóa của Đại vận xung hội, hoặc tứ hóa của Lưu niên xung hội, thì tứ hóa của năm sinh mới có tác dụng.

Dưới đây xin đề cử vài ví dụ cụ thể để thuyết minh:

Đơn cử một ví dụ:

Nếu "Thái dương Thái âm" thủ mệnh tại cung Mùi, người sinh năm Canh thì Thái dương hóa Lộc. Đến Đại hạn Ất Dậu, cung mệnh của Đại hạn là "Thiên cơ Cự môn" mà Thiên cơ hóa Lộc, hội hợp với "Thái dương Thái âm" (mượn sao cung Mùi an cung Sửu) mà Thái âm hóa Kị.

Lúc này, Thiên cơ hóa Lộc xung khởi Thái dương hóa Lộc, càng khiến cho Thiên cơ hóa Lộc có sắc thái "vì phục vụ mọi người mà được lợi ích". Thêm vào Thái âm hóa Kị, là bất lợi về kinh doanh riêng, cho nên lúc này chỉ có thể làm việc cho công ty để kiếm tiền, cá nhân thì không nên đầu tư.

Hóa Lộc ở nguyên cục lại hóa Kị ở Đại vận hoặc Lưu niên, ý là "sao hóa Lộc biến thành sao hóa Kị" (thí dụ như Vũ khúc hóa Lộc của nguyên cục biến thành hóa Kị), cho nên có thể vì tiền mà chuốc họa, hoặc sức kiếm tiền ban đầu giảm nhiều.

Hóa Kị ở nguyên cục, lại Hóa Lộc ở Đại vận hoặc Lưu niên, ý là "sao hóa Kị của nguyên cục biến thành sao hóa Lộc" (ví dụ như Cự môn hóa Kị của nguyên cục biến thành hóa Lộc của Đại vận hay Lưu niên). Cho nên, nhân tố bất lợi ban đầu, vào hạn này có thể nhuyễn hóa thành nhân tố có lợi, nhờ đó mà được tài phú.

Hai ví dụ trên cho thấy sự biến hóa thay đổi có ý nghĩa khi hóa diệu giao hội.

Hóa Lộc luận

Hóa Lộc thuộc âm thổ, cai quản tài lộc. Cho nên ưa có Lộc Tồn tương hội, gọi là "Lộc trùng điệp"; lai ưa gặp "Lộc tồn Thiên mã" gọi là cách "Lộc Mã giao trì".

Hóa Lộc không ưa đến 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu, nhất là cung Mão, rất ưa đến các cung Dần, Thân, Hợi, cũng ưa cung tứ mộ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Lộc Tồn không đến các cung Tứ mộ, nên ưa Hóa Lộc bổ túc, cần phải có sao Lộc xung khởi mới phát huy được.

Ý nghĩa của Hóa Lộc, thông thường là chỉ "nguồn tiền tài", tức là tính chất và năng lực kiếm tiền, cũng chỉ "cơ hội kiếm tiền".

Trong các tình hình thông thường, không ưa Địa không, Địa kiếp cùng bay đến (bốn cung Tý Ngọ Mão Dậu). Cổ nhân nói "Lộc mà đến cung nhược thì phát mà không chủ về tài", tức là chỉ được hư danh mà không có lợi lộc thực tế.

Hóa Lộc rất ngại gặp Hóa Kị xung phá, cổ nhân nói: "Lộc gặp xung phá, là trong cái tốt có chứa điềm hung". Trong các tình hình thông thường, chủ về tình hình vì kiếm tiền mà sinh tai họa. Ví dụ như vì cầu tài mà xảy ra bất chắc, đầu tư lớn mà không có thu hoạch, dẫn đến không còn vốn để tiếp tục đầu tư. Những trường hợp này, cần phải xem tổ hợp Sao thực tế mà định tính chất.

Hóa Lộc tượng hội với Hóa Quyền và Hóa Khoa, thông thường là kết cấu rất tốt, được gọi là "Tam kỳ gia hội cách", nhưng vẫn cần xem xét tính chất của các Sao bay đến để định nặng nhẹ.

Như cung mệnh "Liêm trinh Thiên tướng", mà Liêm trinh hóa Lộc, có Phá quân hóa Quyền vây chiếu, hội hợp với Vũ khúc hóa Khoa ở cung Sự nghiệp. rõ rằng là lấy Liêm trinh hóa Lộc làm chủ. Bởi vì "Liêm trinh Thiên tướng" chủ về làm việc trong chính giới, hoặc trong công ty có tính phục vụ, bản chất của cung mệnh này, Phá quân hóa Quyền chỉ làm tăng quyền bính về kinh tế, Hóa Quyền Hóa Khoa chỉ trợ giúp cho tình hình cát lợi của cung mệnh, không thể tính là chủ thể.

Hóa Quyền luận

Hóa Quyền thuộc dương mộc, nên phải đề phòng "cây to thì hứng gió". Cũng chính vì vậy, Đẩu Số ưa "Lộc trùng điệp" mà không ưa "Quyền trùng điệp", lúc hóa Quyền gặp hóa Quyền trùng điệp, sẽ dễ chuốc lực áp chế vào thân.

Nếu Hóa Quyền mà không có Hóa Lộc và Hóa Khoa sánh vai, chủ về dễ bị khuynh đảo, bài xích, chèn ép; nếu lại gặp sát tinh, nhất định sẽ xảy ra nhiều tình huống khó xử.

Hóa Quyền được Hóa Lộc sánh vai, chủ về nhờ quyền lực mà đắc lộc, hoặc nhờ "lộc" mà đắc "quyền", nhưng đừng vì thấy "Lộc Quyền gặp nhau" mà xem thường bản chất của Hóa Quyền.

Cổ nhân hay nhấn mạnh Hóa Quyền không sợ Hóa Kị, ý nói lúc Hóa Kị đến xâm phạm, Hóa Quyền dư sức áp chế. Nhưng theo phái Trung châu Vương Đình chi thì có khác, họ cho rằng ý kiến này hơi phiến diện.

Ví dụ như tinh diệu hóa Quyền ở nguyên cục lại bị Hóa Kị ở vận hạn tương xung, tức là "cây lớn thì hứng gió", "địa vị cao thì thế nguy", nhất là lúc "Quyền trùng điệp", bị sao Kị xung phá, chủ về tranh giành quyền lực, nhất là khi nắm được đại quyền, sẽ dễ phạm lỗi lộng quyền.

Nếu Hóa Kị ở nguyên cục hóa làm sao quyền ở vận hạn, thì phải đề phòng lực áp chế, không phải là hỉ sự. Cần phải xem xét kỹ tính chất phối hợp của toàn cục mà định.

Hóa Khoa luận

Hóa Khoa thuộc dương thủy, chủ về "trí", "lưu truyền", nên là "tiếng tăm, danh dự".

Các sách Đẩu Số thông thường cho rằng Hóa Khoa không nên gặp Hóa Kị. Ở thời cổ đại, hóa Khoa chủ về khoa cử công danh, sĩ tử cần phải xuất thân từ khoa cử thì mới dễ hiển đạt, cho nên không ưa Hóa Kị xung hội Hóa Khoa.

Ở thời hiện đại, không còn chuyên về khoa cử mới công danh hiển quý, cho nên lúc hóa Khoa và hóa Kị xung hội, thường thường chủ về nổi tiếng mà chuốc đố kị, có lúc lại chủ về nhiều người biết tiếng. Vương Đình Chi kể, ông từng đoán mệnh cho một vị luật sư, Cự môn hóa Kị ở cung mệnh, bị Thiên cơ hóa Khoa xung hội, vị luật sư nổi tiếng do tài ăn nói và cơ trí ứng biến lúc biện hộ cho thân chủ.

Nhưng thông thường, Khoa Kị tương xung dễ bị nói xấu, chê bai, dị nghị, phỉ báng, cần phải xem bản chất các sao mà định tốt hay xấu. Nếu Thái dương của cung mệnh nguyên cục Hóa Khoa, lại nhập miếu, chủ về người này ắt sẽ có danh tiếng lớn, đến Đại hạn hoặc Lưu niên không thích gặp Thái dương hóa Kị, chủ về vì có danh tiếng lớn mà chuốc điều tiếng thị phi.

Nếu gặp Thiên đồng hóa Kị, thì vì tiếng tăm mà hay gặp phiền phức và bận rộn, nên ít hưởng thụ, dễ sinh bệnh mà thôi.

Phái Trung châu có một bí truyền về Hóa Khoa, như sau:

Cung mệnh Hóa Khoa, người sinh ban ngày, đến cung hạn Thái dương nhập miếu được cát hóa, bất kể là Lưu niên hay Đại hạn, đều chủ về có thanh danh lớn. Nếu đến cung hạn có Thái dương lạc hãm, lại gặp các sao Sát Kị, thì thanh danh bị tổn thương. Cung mệnh Hóa Khoa, người sinh vào ban đêm, đến cung hạn Thái âm nhập miếu được cát hóa, cũng chủ về có danh tiếng lớn. Nếu đến cung hạn có Thái âm lạc hãm, mà gặp các sao Sát Kị, thì chủ về thanh danh bị tổn thương.

Thông thường, hai trường hợp trên, có thể xem các sao hội hợp thực tế mà định chi tiết.

Hóa Khoa thủ cung mệnh, ở cung độ lục hợp, gặp Hóa Lộc (ví dụ như hóa Khoa ở cung Tý, hóa Lộc ở cung Sửu), gọi là "Khoa minh Lộc ám", chủ về nhờ khoa cử công danh, có tiếng tăm mà được quan lộc, hoặc được nâng cao địa vị xã hội. Đây là nhờ danh mà đắc lợi. (có thể so sánh với cách "minh lộc ám lộc", Lộc tồn và hóa Lộc ở cung lục hợp, cũng chủ về quý hiển, đây là nhờ phú mà được quý, khác với cách "khoa minh lộc ám" là nhờ danh mà được quý).

Hóa Khoa không ưa đồng cung với Địa không Địa kiếp, chủ về khuynh gia bại sản, chỉ có hư danh, hoặc có danh vọng trong phạm vi cực nhỏ, cũng chủ về nghiên cứu triết học tôn giáo.

Hóa Khoa đồng độ với Lộc tồn, mà rơi vào cung có Địa không, Địa kiếp, nhất định sẽ bị Kình dương và Đà la giáp cung, vì vậy tuy tốt nhưng không có danh vọng. Đây gọi là "mạ không trổ bông, sao Khoa hãm ở cung hung". Cho nên, các sao hóa thành sao Khoa, mà danh vọng chỉ giới hạn trong phạm vi nhỏ là do nguyên cớ này, lúc luận đoán phải chú ý.

Hóa Kị luận

Hóa Kị thuộc dương thủy, giống Hóa Khoa, vì lời khen và lời nói xấu có cùng một dạng năng lực là quảng bá.

Hóa Kị chủ về sóng gió, trắc trở, tổn thất, thị phi, đố kị; xem các sao hội hợp thực tế mà định tình hình cụ thể.

Hóa Kị ở các cung, phần nhiều đều là hãm địa. Như các cung Dần, Tị, Ngọ, Thân, Dậu, Tuất, Hợi là lạc hãm, chỉ có cung Sửu là nhập miếu.

Nhưng Thái dương và Thái âm của nguyên cục nhập miếu mà hóa Kị, thì lại chủ về cát lợi, giống như "mây trôi che nhật nguyệt", bất quá chỉ bị lu mờ một chút mà thôi. Thái âm hóa Kị ở cung Hợi, Thái dương hóa Kị ở cung Mão, theo phái Trung châu gọi là "biến cảnh", càng chói mắt người ta, nhưng Thái dương không bằng Thái âm.

Thái dương Thái âm ở hãm địa hóa Kị thì không cát tường, làm mạnh thêm sắc thái thị phi tổn thất.

Các sao có tính chất tinh thần ở cung mệnh mà hóa Kị, cũng chủ về đầu óc trầm tĩnh, lạnh lùng. Thiên đồng hóa Kị ở cung Tuất, Cự môn hóa Kị ở cung Thìn, đều có cách "phản bối" (trở mặt).

Vì vậy không được luận đoán đại khái, hễ gặp hóa Kị lập tức cho là Hung. Mệnh cục gặp hóa Kị phải biết xem trọng sự tu dưỡng tinh thần.

Tử vi Đẩu Số luận đoán Lưu niên vận thế, điều then chốt nhất là giỏi vận dụng hóa diệu.

Như đã biết, thông thường hóa Lộc chủ về kiếm được tiền, hóa Quyền chủ về được thế, hóa Khoa chủ về danh dự địa vị, hóa Kị chủ về bị các tình huống khó xử. Người đời không thể thập toàn thập mỹ, cho nên ngoài vị thế, lợi lộc, danh tiếng ra, ắt phải có sao Kị để điểm xuyết hương vị cuộc đời. Người có kiến giải thông đạt, trong lòng sẽ không buồn phiền khi gặp Hóa Kị.

Tình hình gặp Hóa Kị ở rất nhiều loại, tình hình thường gặp nhất là "chuốc đố kị", nhưng "không chuốc đố kị thì phần nhiều là người tầm thường", cho nên gặp Hóa Kị cũng đừng sợ. Một tình hình khác là, xảy ra hiểu lầm không cần thiết với người khác. Hiểu lầm nhau, có lúc chưa chắc là không tốt, nếu người hiểu lầm quá xấu, thì dù có hiểu lầm, ít đi một người bạn xấu cũng hay.

Hóa Kị dễ khiến cho người ta gặp các tình huống khó xử, bị phỉ báng, nói xấu, bêu rếu. Nhưng thị phi tốt xấu rồi cũng có ngày rõ ràng.

Có lúc Khóa Kị chủ về buồn rầu lo lắng. Như cung Phụ Mẫu hóa Kị, thì có thể phải lo lắng cho sức khỏe của cha mẹ, sinh lão bệnh tử là quá trình tất nhiên của đời người, nên trong tình huống này, nên có kiến giải thông đạt một chút.

Hóa Kị cũng chủ về mắc bệnh, tuy nói là phải có kiến giải thông đạt, nhưng rốt cuộc cũng khiến cho người ta đau khổ, vì vậy trước khi sự việc xảy ra, chúng ta nên gìn giữ sức khỏe là hay nhất.

Tình hình nghiêm trọng nhất củ hóa Kị là phạm pháp, hoặc bị tai họa tới tấp, nhiều khi nhìn thấy tinh hệ này, người ta thường lo láng cho tương lai. Nhưng giả dụ như biết trước được vận thế, cũng không cần phải quá bất an. nhà Phật cho rằng nghiệp lực có thể nhuyễn hóa, trọng nghiệp vẫn có thể có quả báo nhẹ, chỉ cần giữ cho lòng trung hậu, lấy lòng thành để đối đãi với người, lập thân hành sự không hổ thẹn với lòng, thì có thể xoay chuyển được vận thế.

Cho nên, gặp Hóa Kị, phải xem xét cẩn thận tính chất của hóa Kị, và phải xem trọng tu dưỡng tinh thần, giả dụ như có tính tình phóng túng, bất chấp mọi người nghĩ gì, mà không nghĩ đến việc tu dưỡng để bổ cứu, lúc những trắc trở ập đến, không được nói là "do số mạng".

Cách thứ 2: "Văn quế Văn hoa cách"

Tức là mệnh an tại cung Sửu, hoặc cung Mùi, mà trong cung mệnh có hai sao Văn khúc và Văn xương cùng tọa thủ.

Cổ ca nói:

Kinh sách là đạo từ trời ban (Sách thư nhất đạo tự nhiên lai)

Gọi dậy tài an bang tế thế (Hoán khởi nhân gian kinh tế tài)

Mệnh lý vinh hoa đúng đáng khen (Mệnh lý vinh hoa chân khả tiển)

Thong dong thả bước trên cõi bồng (Đẳng nhàn bình bộ thướng bồng lai)

Thời đại khoa cử ngày xưa, học hành để có công danh là con đường tốt nhất, nên cổ nhân dùng Đẩu Số để luận mệnh cũng rất ưa Văn Xương và Văn Khúc. Ngoại trừ "Văn tinh củng mệnh cách", sau đó sẽ thảo luận đến "Văn Lương chấn kỷ cách", "Lộc Văn ám củng cách". Do đó có thể biết cổ nhân xem trong sao "văn" đến mức độ nào.

Trong xã hội hiện đại ta càn phải thảo luận thêm cho phù hợp

Văn Xương Văn Khúc cùng ở cung Mệnh, người này tất nhiên phong lưu nho nhã, có phong cách đặc biệt, hơn nữa còn thông minh tuấn tú. Đây là những ưu điểm của họ.

Nhưng, hai sao Văn xương và Văn Khúc rốt cuộc vẫn không phải là chính diệu, sức yết ớt, trong thời đại xưa, lấy thi cử làm sự cạnh tranh lớn nhất thì còn có thể ứng phó. Còn trong xã hội ngày nay, ngoại trừ thi cử còn có chuyện tranh quyền đoạt lợi khác, thì cần phải có chính diệu hữu lực khác phù trợ, mới có thể thích ứng với thời đại.

Cổ nhân không xem trọng nữ mệnh, cho nên Cách này không liên quan đến nữ mệnh. Nữ mệnh gặp hai sao Xương Khúc cùng tọa thủ, sau kết hôn, dễ có trở ngại về tình cảm, nếu gặp "Thiên phủ Vũ khúc" cùng chiếu cung mệnh, thì càng dễ bị đàn ông đã có gia đình theo đuổi, gây đau khổ, bối rối khó xử về tình cảm. Vì vậy "Văn quế Văn hoa cách" trong bối cảnh xã hội ngày nay chẳng tốt như thời cổ đại.

+ Mệnh an tại cung Mùi có hai sao Văn xương và Văn khúc tọa thủ:

- Năm Giáp Kỷ gặp Thổ cục

- Năm Ất Canh gặp Mộc cục

- Năm Bính Tân gặp Kim cục

- Năm Đinh Nhâm gặp Thủy cục

- Năm Mậu Quý gặp Hỏa cục

Trung châu phái - "Chư tinh cung viên triền thứ hỷ kị ca" khi Cách phối với Cục viết:

Xương Khúc ưa Kim cục, hãm ở cung hỏa viêm (Xương Khúc hỷ Kim cục, hãm vu hỏa viêm hương)

Như vậy, tuổi Bính Tân mệnh tại Mùi, tuổi Mậu Quý mệnh tại Sửu, có Xương Khúc tọa thủ, là Cách phối Cục ứng với "Chư tinh hỉ kị ca".

Bài đọc thêm về Văn Xương - can Bính hóa Khoa

--------------------------------------------------------------

Văn Xương ưa hóa Khoa, nếu so với Văn Khúc, thì Văn xương hóa Khoa thiết thực hơn. Trong các tình hình thông thường, khi Văn xương hóa Khoa lợi về các cuộc thi cử quan trọng, cũng lợi về văn nghệ, hoặc phương diện nghiên cứu học thuật, chủ về nhờ đó mà mang lại danh dự, thậm chí nhờ đó mà mang lại lợi lộc.

Văn xương hóa Khoa ở cung nhập miếu, sẽ chủ về làm tăng năng lực nghiên cứu, có sở trường về lý giải và có thể phát huy, vì vậy chẳng phải được hư danh. Chỉ khi nào Hóa Khoa ở cung lạc hãm (tức 3 cung Dần Ngọ Tuất), thì mới chủ về tự thỏa mãn về mặt tinh thần, có ý vị chỉ được hư danh.

Văn xương hóa Khoa, chủ về nhờ điển thí mà thành danh. Ở thời hiện đại cũng có thể biểu trưng cho sức cạnh tranh trong ti cử, hoặc canh tranh đắc lợi ở phương diện văn nghệ học thuật. Nếu gặp thêm Thiên khôi Thiên việt, mà chính diệu lại "thuần thanh", thì lợi về tham gia các cuộc thi cử cấp quốc gia, hoặc các cuộc thi cử chứng nhận tư cách chuyên viên cao cấp. Hai sao Khôi Việt thường thường có thể giúp thành công, nên Văn xương hóa Khoa rất ưa được chúng phối hợp.

Ở Đại vận hoặc Lưu niên mà gặp Văn xương hóa Khoa, có lúc chủ về được phát biểu tác phẩm, nhà văn thì có tác phẩm xuất bản; cũng lợi về thi cử, hoặc công tác nghiên cứu trước khi thi cử có tâm đắc đặc biệt, cho nên các cuộc thi cử không cần Văn xương hóa Khoa ở năm xảy ra cuộc thi cử, trước thi cử một năm cũng có lợi.

Bài đọc thêm về Văn Khúc - can Tân hóa Khoa

-----------------------------------------------------------

Can Tân là Văn Khúc hóa Khoa và Văn xương hóa Kị, hai sao này thường gặp nhau trong mệnh bàn, do đó cần phải lưu ý bản chất đặc biệt lúc chúng tương hội.

Thông thường, có thể biểu trưng cho học hành thông minh, nhưng lúc xử sự hay ỷ vào sự thông minh của mình, mà thường tự cho mình là đúng. Ở giai đoạn còn đi học, thì chủ về có nhiều hứng thú với toán lý, hoặc ngoại ngữ.

Tính chất cơ bản của Văn khúc hóa Khoa hơi giống Văn xương, đã gặp thuật ở bài trước. Làm tăng năng lực biện luận, ngôn từ dễ làm vui lòng người khác và hấp dẫn người khác giới.

Văn khúc ở 3 cung Dần Ngọ Tuất là hãm nhược, cho dù có Hóa Khoa, cũng chủ về có mầm mà không trổ bông.

---------------------------

Văn Khúc - can Kỷ hóa Kị

Văn khúc hóa Kị, ý nghĩa cơ bản là thiếu văn hóa, bản chất của Văn khúc vì hóa Kị mà bị trắc trở.

Văn khúc là biểu trưng cho tài ăn nói, Hóa Kị thì nói năng sai lầm.

Văn khúc biểu trưng cho văn thư, hợp đồng. Hóa Kị thì văn thư phạm sai lầm, do đó mà gây ra phiền phức, thậm chí còn bị tổn thất.

Văn khúc thường thường còn biểu trưng cho người khác giới để mắt, Hóa Kị thì vì vậy gây ra sóng gió, hoặc gây ra hiểu lầm không cần thiết trong sinh hoạt tình cảm. Có sát tinh nặng, thì biểu trưng cho là khó phát triển tình cảm với người khác giới.

Văn khúc là tài nghệ tinh, Hóa Kị thì lại không có liên quan về phương diện tài năng.

Văn khúc là thiên tài ngôn ngữ, Hóa Kị thì tiêu trừ năng khiếu này. Có sát tinh nặng, thì có thể nói cà răm, nói lắp, có lúc còn làm cho người khác phê bình chỉ trích.

Văn khúc còn mang sác thái kim tiền, Hóa Kị thì tổn thất tiền bạc. Cần phải xem xét các sao hội hợp mà định, như thu lầm chi phiếu không có tiền bảo chứng, hoặc bị lừa, bị hại. Những điều có tính vật chất này, không có ở Văn Xương hóa Kị.

Văn khúc hóa Kị, còn dễ xảy ra tình huống bị tình cảm và tiền bạc cùng gây lụy.

Văn khúc hóa Kị, còn chủ về dễ rơi vào ảo tưởng, mà còn chấp trước ảo tưởng, do đó nảy sinh cảm giác có tài mà không gặp thời.

Văn xương - can Tân hóa Kị

Văn xương hóa Kị, ý nghĩa trực tiếp nhất là "sai lầm về văn thư", cho nên lúc thi cử, làm hợp đồng, gửi văn thư, đều phải cực kỳ cẩn thận để tránh sai lầm, làm tăng thêm phiền phức không cần thiết. Tóm lại, Văn xương hóa Kị là "chữ nghĩa gây ra rối ren, phiền phức".

Văn xương tuy không dính dáng đến kim tiền, nhưng thời hiện đại là xã hội công nghiệp, văn thư thường có liên quan đến thương nghiệp, do đó cũng dễ tạo thành tổn thất kim tiền. Khác với Văn khúc hóa Kị, khi Văn xương hóa Kị là vì yêu cầu của người khác, hay vì sai lầm của người khác, mà bản thân mệnh tạo phải gánh trách nhiệm, còn đối với Văn khúc hóa Kị thì trách nhiệm là do bản thân phải gánh vác, tức sai lầm là do bản thân gây ra. Cho nên Văn xương hóa Kị thường dễ vì cho mượn, hoặc đứng ra lấy tư cách bảo đảm mà bị tổn thất.

Văn xương hóa Kị, lạc hãm thì làm việc không chú tâm, thường thường vì sơ sót mà gây ra trắc trở, còn biểu trưng cho là "mau quên", có lúc lại biểu trưng cho "có tài mà không gặp cơ hội, học mà không dùng", Văn xương hóa Kị cũng có thể biểu trưng cho "bỏ học nửa trừng".

Văn xương thích hợp làm công việc quảng bá, soạn thảo. Ngoài ra Văn xương hóa Kị còn là điềm tượng hôn lẽ không được trọn vẹn, nếu gặp sát tinh nặng, phần nhiều không có hôn lễ, cũng chủ về bị quấy nhiễu, gây khó khăn về tình cảm. Văn xương hóa Kị chủ về "lốm đốm", cho nên biểu trưng cho tàn nhang, nốt ruồi, đậu mùa.

"Mệnh lý phùng không cách"

"Mệnh lý phùng không cách" tức là Địa kiếp và Địa không thủ mệnh, cung mệnh lại không có sao cát.

Cổ ca nói:

Không diệu lai lâm cát diệu vô,

Cầu danh cầu lợi tổng thành hư,

Thanh nhàn cô độc phương diên thọ,

Phú quý vinh hoa quá khích câu.

Dịch nghĩa:

Sao không đến mà cát diệu không

Cầu danh cầu lợi mọi việc hư

Thanh nhàn cô độc sống mới thọ

Vinh hoa phú quý sẽ chóng qua

Theo Vương Đình Chi, trong cổ ca nói "sao không", có người cho là Thiên Không, Tuần Không, Tiệt Không, nhưng trên thực tế không phải vậy, mà là Địa không Địa kiếp.

Cổ nhân cho rằng:

"Địa không là thần Không Vong, thủ thân mệnh thì làm việc trồi sụt, thành bại đa đoan" (Địa không nãi Không Vong chi thần, thủ thân mệnh, tác sự tiến thoái, thành bại đa đoan)

"Địa Kiếp là thần Kiếp Sát, thủ thân mệnh thì làm việc cuồng loạn, không theo chính đạo" (Địa Kiếp nãi Kiếp Sát chi thần, tác sự sơ cuồng, bất hành chính đạo)

Đây là chỗ kị của Cách này. Vương Đình Chi cho rằng, gọi là "làm việc trồi sụt", "làm việc cuồng loạn", đối với người ngày nay gọi là "có cá tính". Những người cố chấp tục xưa mà gặp đám trẻ ngày nay chưng diện, với vẻ mặt cố ý làm ra vẻ lạnh lùng, thì sẽ cho chúng là "cuồng loạn", nhưng thực ra chỉ là thời trang phương tây. Bắt đầu từ thời "hippy", đến nay thành phong trào "hit hop", thực ra chỉ là xu thế phát triển của xã hội, không thể lấy đó để luận đoán suốt đời bất lợi.

Ngược lại, nhiều người "làm việc cuồng loạn", gặp được cơ hội, đùng một cái trở thành siêu sao ca nhạc, nhờ vào dọng ca đặc biệt mà nổi tiếng. Cổ nhân thì không phải vậy, người "có tính cách" phần nhiều ẩn dật chốn sơn lâm, thế là "suốt đời thanh nhàn cô độc". Vì vậy, cổ nhân luận đoán về hai sao Không Kiếp vẫn có chỗ đúng.

Bài đọc thêm về Địa không và Địa kiếp

------------------------------------------------------------

Địa Không thuộc âm hỏa, Địa Kiếp thuộc dương hỏa.

Cổ nhân nói: "Địa không thủ mệnh, chủ về làm việc không tưởng, thành bại đa đoan" (Tác sự hư không, thành bại đa đoan). Địa Kiếp thủ mệnh, chủ về làm việc qua loa, sơ sài, không theo chính đạo. Thực ra có các thuyết này, là vì người có Địa Không thủ mệnh ưa ảo tưởng, cách suy nghĩ của họ, người khác không hiểu được; người có Địa Kiếp thủ mệnh thì thích làm trái với truyền thống, trái với xu thế phát triển của xã hội, hành vi của họ người ta cũng không hiểu được.

Địa Không chủ về tinh thần. Địa Kiếp chủ về vật chất. Cho nên, trắc trở do Địa không mang lại, sẽ đả kích về mặt tinh thần nhiều hơn là tổn thất vật chất. Còn trắc trở do Địa kiếp mang lại sẽ tổn thất về vật chất lớn hơn, đối với sự đả kích về tinh thần.

Địa Không thủ mệnh, ưa gặp tinh hệ chính diệu có sắc thái hành động, như tinh hệ "Vũ khúc Thất sát", hay Tham Lang ở cung vượng, hay Phá quân hóa Lộc, hoặc tinh hệ "Tử vi Thất sát", còn được gặp Cát tinh, tức là chủ về biến những điều không tưởng thành hành động, nhờ vậy có thể tiêu trừ khuyết điểm do Địa Không mang lại.

Nếu Địa Không cùng ở một cung với tinh hệ "Thiên cơ Cự môn", phần nhiều là người không tưởng, hoặc lý tưởng quá cao, mà không thể biến thành hành động thực tế, thế là có biểu hiện "làm việc trồi sụt thất thường", hoặc "làm việc giả dối".

Hỏa trống (không) thì phát, kim rỗng (không) thì kêu, cho nên Địa Không ưa gặp Hỏa tinh ở hai cung Tị hoặc Ngọ, chủ về phát đột ngột, cũng ưa gặp các sao thuộc kim ở hai cung Thân hoặc Dậu chủ về danh vọng. Tuy nhiên, không nên gặp thêm các Sát tinh còn lại và chính diệu hóa thành sao Kị.

Cung Tật Ách có Địa Không bay đến, phần nhiều chủ về mắc bệnh hiếm gặp. Vương Đình Chi từng gặp một trường hợp Thiên Lương thủ cung Tật Ách, gặp Hỏa Linh và Địa Không đồng độ, bị mắc bệnh viêm não.

Địa Kiếp tuy chủ về tổn thất vật chất, nhưng di chứng nhẹ hơn Địa Không. Ví dụ như thất bại của Địa Kiếp giống như mua được một món đồ cỏ quý giá, nhưng khi đến tay thì bị vỡ, tuy có thể sửa chữa, nhưng bản thân thấy không còn thích nữa, còn thất bại của Địa Không thì giống như muốn mua một món đồ cổ, thì lại bị người ta nhanh chân mua trước, cứ tiếc mãi.

Xét từ góc độ tinh thần, thì sự đả kích của Địa Không là khá nặng. Còn nhìn từ góc độ vật chất, thì sự tổn thất của Địa Kiếp là khá lớn. Do đó có thể biết, Địa Không thì không nên ở cung Phúc đức, cung Phu thê, cung Tử tức, đối với Địa Kiếp thì không nên ở cung Mệnh, cung Quan lộc, cung Tài bạch.

Địa Kiếp thủ mệnh, thích hợp với hành động thiết thực, nên khởi nghiệp trong ngành công nghệ, từ đó có thể sáng lập sự nghiệp mới, cũng chủ về có thể phát đạt. Địa Kiếp ưa hai cung Thìn hoặc Tuất, do nhập "Thiên la Địa võng" nên có khuynh hướng khá thực tế.

Không Kiếp giáp mệnh, chủ về cuộc đời gặp nhiều trắc trở, gập gềnh, bất đắc chí

Không Kiếp đồng độ thủ mệnh, hoặc đối xung, phần nhiều chủ về lúc còn nhỏ tuổi bất lợi, không được cha mẹ che trở, hay đau yếu, nghèo khó, hoặc nhiều tai ách. Cần xem xét các tổ hợp sao của các cung mà định tính chất.

Không Kiếp thủ mệnh, hoặc giáp mệnh, cổ nhân cho rằng lợi về xuất gia. Ở thời hiện đại, có thể là người thích nghiên cứu các môn học ít người lưu tâm.

Địa không Địa kiếp chia ra ở cung Phu Thê và cung Mệnh, chủ về vợ chồng có tính cách không hợp nhau, hôn nhân có nỗi khổ khó nói, phần nhiều đều đau khổ trong lòng.

Cự phùng tứ sát cách

"Cự phùng tứ sát cách" tức là Cư Môn lạc hãm thủ cung Thân; tứ sát Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la thủ cung Mệnh.

Cổ ca nói:

Cự môn lạc hãm tại thân cung,

Tứ sát thiên vu mệnh lý phùng,

Nhược thị cát tinh vô cứu giải,

Tất tao lưu phối viễn phương trung.

Dịch nghĩa:

Cự Môn lạc hãm ở cung Thân,

Lại gặp hung sát cư Mệnh cung,

Nếu không cát tinh thời giải cứu,

Tất sẽ lưu lạc bốn phương trời.

Cách này, Vương Đình Chi cho rằng có chút nghi vấn. Căn cứ sách "Tử Vi Đẩu Số toàn thư" nói: "Cự Môn ở thân mệnh mà gặp chúng là kị, đối cung có Hỏa tinh, Linh tinh Bạch Hổ, mà không có Đế tinh, sao Lộc, thì lưu đầy ở chân trời" (Cự môn thân mệnh phùng chi vi kị, đối cung Hỏa Linh Bạch hổ cộng bạn, vô Đế Lộc, lưu phối thiên nhai). Ở đây nói, bất kể Cự Môn thủ cung mệnh hay thủ cung thân, đối cung mà gặp sát, thì mới là mệnh "lưu phối" (tức bị xung vào quân ngũ, một hình thức lưu đầy thời xưa), chứ chẳng phải Cự Môn thủ cung thân, còn tứ sát thủ cung mệnh. Nhưng cung thân rất nhiều lúc là cung Thiên Di, cho nên thuật sỹ thời Minh nói thành Cự Môn và tứ sát chia ra thủ cung thân và cung mệnh.

Có khả năng theo thể lệ của "ca quyết" bảy chữ thành câu, vì vậy nói không được rõ. Cự môn thủ mệnh gặp Kình dương Đà la, cổ nhân cho rằng "nam nữ dâm tà"; khi gặp Hỏa tinh Linh tinh là "chết ở ngoài đường". Do đó, người xưa đã gộp hai tính chất này lại thành mệnh cung "lưu đày nơi xa", trừ khi được Tử Vi và Lộc Tôn áp chế.

Theo kinh nghiệm của Vương Đình Chi hầu như lại chẳng gặp hung hiểm gì, bởi vì trong xã hội cổ đại, không có loại nghề nghiệp vận dụng "điều tiếng thị phi"; còn trong xã hội hiện đại, người theo những nghề này rất nhiều (như Luật sư, nhân viên quảng cáo, nhân viên môi giới,.v.v... ) Tức dù Cự môn thủ mệnh gặp tứ sát, cũng chỉ làm cho cuộc đời của người này tăng thêm chút sóng gió, trắc trở mà thôi.

Còn phạm pháp, đây lại là một đặc điểm khác, nếu Cự môn hóa Kị, thì cuộc đời sẽ vào tù ra khám.

Bài đọc thêm về "Cự phùng tứ sát cách"

-------------------------------------------------------------

Tính chất cơ bản của sao Cự Môn

Cự môn miếu ở 4 cung Dần Mão Thân Dậu, hãm ở hai cung Sửu Mùi.

Cự Môn là sao thứ hai của Bắc Đẩu, thuộc âm thổ, còn thuộc âm kim. Cổ nhân có thuyết "thổ yên tĩnh trôn kim", vì vậy lấy Cự Môn làm "ám tinh", chủ về "điều tiếng thị phi", và "tranh ngoài sáng, đấu trong tối".

Ngoài điều tiếng thị phi, Cự Môn còn chủ về khẩu tài, rất ưa Hóa Quyền, cách cục cao thì có thể phú quý, nếu không cũng có thể là bậc thầy dạy học đáng kính. Cự môn hội chiếu với Thái dương thì quang minh lỗi lạc, có thể phú quý.

Thời cổ đại do bị hạn chế điều kiên xã hội, nên người có Cự môn thủ mệnh bị giới hạn về nghề nghiệp, khác với bối cảnh xã hội hiện đại, có thể làm phát thanh viên, hay làm việc trong ngành quan hệ công cộng, thậm chí có thể làm công tác ngoại giao, hoặc luật sư. Nếu gặp các sao Liêm trinh, Tham lang, Long trì, Phượng các, Thiên tài, thì có thể hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.

Đặc tính của Cự môn là "khẩu tài", nhưng về phương diện giao tế, nó không giống như Tham Lang thiên về hưởng lạc và ham mê tửu sắc, cũng không như Thiên Cơ xử sự tròn trịa, khéo ăn khéo ở, mà nó khá thực tế.

Khẩu tài của Văn Khúc rơi vào tệ "xảo ngôn lệch sắc", mầu mè chải chuốt, hơi sốc nổi, không thiết thực; còn Cự Môn thì có thể dùng ngôn từ để chiếm lòng tin của người khác. Cho nên lúc Cự môn hóa Quyền, lời nói của người này sẽ có tính quyền uy. Nếu Cự môn hóa Lộc, thì thích hợp làm nghệ sỹ biểu diễn, đặc biệt có thể thành người dẫn dắt, điều khiển chương trình ưu tú, khi Cự Môn gặp Văn xương, Văn khúc, Hồng loan, Thiên hỉ, Thiên diêu, Hàm trì thì càng đẹp.

Nếu Cự môn hóa thành sao Quyền, hoặc hóa thành sao Lộc, hội hợp với chính diệu hóa Khoa, thì chủ về thanh danh vang dội, nhất định là người có tiếng tăm trong xã hội., thường phát biểu ngôn luận trước đám đông.

Đặc điểm lớn nhất của Cự môn là bản thân có biểu hiện khá tốt. Nhưng nếu học hành ít, không đủ để vận dụng, thì biến thành cá tính không nể phục người khác, do đó dẫn đến tị hiềm đố kị. Vì vậy Cự Môn rất ưa hội các sao Xương, Khúc, Khoa, cung mệnh dù không gặp sao "văn", nếu cung Phúc đức có văn tinh tụ tập, cũng có thể bổ cứu.

Cự Môn ở hai cung Tí hoặc Ngọ, gọi là "Thạch trung ẩn ngọc cách", chỗ tốt của cách này là giảm thiểu những biểu hiện dục vọng của bản thân, tài năng kín đáo không lộ. Lấy trường hợp gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, làm thượng cách; gặp Lộc Tồn là thứ cách, thảy đều chủ về người có địa vị cao trong xã hội, còn dễ trở nên giầu có. nhưng người thuộc Cách này, một khi đã có địa vị cao, thành nhân vật "số một", sẽ dễ chuốc tị hiềm đố kị mà dẫn đến thân bại danh liệt.. Xét từ Cách này, có thể thấy Cự Môn phải biết tiết chế biểu hiện của mình, đồng thời cũng cần chú ý tu dưỡng sở học.

Thái Dương hội hợp với Cự Môn, có thể giải "ám" của Cự môn. Xét về tính chất, đây là vì người "Nhật Cự thủ mệnh" làm việc phần nhiều đều quang minh lỗi lạc, dễ làm cho người ta hiểu rõ.

Tổ hợp tinh hệ "Thái dương Cự môn" còn có tính chất "người ngoại quốc", nên khi tinh hệ này hội hợp với sao Cát, xem nó rơi vào cung nào, để định tính chát sùng thượng người ngoại quốc, hay kết hôn với người nước ngoài.

Đối với Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Kiếp sát, Thiên hình, Hóa Kị, thì sao Cự môn đều sợ. Nói chung, thì Kình Đà dễ khiến tình cảm nổi sóng gió, Hỏa Linh khiến đời người thêm nhiều sóng gió, Không Kiếp khiến đời người gập ghềnh, gặp nhiều trở ngại, bất đắc chí. Theo thuyết của cổ nhân, có khả năng thủa nhỏ bị cha mẹ bỏ rơi, gặp các sao Hình Kị, thì xảy ra điều tiếng thị phi. Nếu tứ sát cùng chiếu, lại gặp Thiên hình, cung Tật Ách không tốt thì dễ yểu mạng.

Bài đọc thêm về "Cự phùng tứ sát cách"

-------------------------------------------------

Cự Môn tổng luận

Cự Môn là sao thứ hai của Bắc Đẩu, thuộc âm thổ, khí của nó thuộc âm kim. Trong Đẩu Số, Cự môn là ám tinh. Gọi là "ám tinh", chẳng phải nói Cự môn không có ánh sáng, mà là nói nó giỏi che mất ánh sáng của người khác, cho nên gọi là "ám".

"Che mất ánh sáng của người khác", là sắc thái đặc biệt nhất của sao Cự Môn. Trong xã hội, người nghị luật thao thao bất tuyệt biến người khác đều thành thính giả, cách biểu hiện cái "tôi" như vậy là sắc thái đặc biệt của Cự Môn. Hơn nữa, Cự Môn còn thích tiết lộ chuyện riêng tư của người khác, cho nên cổ nhân nói đặc tính của Cự Môn là "gây chuyện thị phi sau lưng" (bối diện thị phi)

Cự Môn còn có một sắc thái đặc biệt khác là "đa nghi". Cổ nhân nói nó "ở người thì chủ về ám muội, đa nghi thị phi" (vu nhân chủ ám muội, đa nghi thị phi). Đây là do Cự Môn đánh giá người khác phần nhiều thiên nặng về mặt "âm ám", cách nhìn đối với người khác rất phiến diện, đương nhiên có nhiều nghi ngờ.

Do hai tính cách này, nên quan hệ giao tế của Cự Môn không được tốt, nói "ít hợp với lục thân, giao du với người lúc đầu thì tốt, sau cùng thì xấu" là do lý luận này.

Vì vậy, lúc đánh giá Mệnh cục Cự Môn cần phải chú ý các sao nó hội hợp, xem chúng có làm mạnh thêm hai đặc tính này, hay là làm giảm bớt hai đặc tính này, hoặc có thể nhuyễn hóa hai đặc tính này.

Sao có thể hóa giải sự "âm ám" của Cự Môn mạnh nhất là Thái Dương ở cung miếu vượng. Cổ nhân nói "Cự Nhật đồng cung, phong quan ba đời", trường hợp "Thái dương Cự môn" là đúng, do Thái dương ở cung Dần là mặt trời mọc ở phương Đông, ánh sáng rực rỡ đang thịnh, có thể hóa giải "âm ám" của Cự Môn.

Nếu Thái dương ở cung Ngọ, sẽ hội hợp với Cự Môn thủ mệnh ở cung Tuất, cũng dư sức hóa giải tính "âm ám" thị phi của Cự Môn, nên cũng gọi là kết cấu đẹp. Ngoại trừ Thái dương có thể hóa giải tính "âm ám" của nó ra, chỉ còn dùng hóa Quyền và hóa Lộc để hóa giải. Cự Môn sau khi hóa thành sao Lộc, khí chất của Cự Môn biến thành khéo ăn khéo ở, còn Cự Môn sau khi hóa thành sao Quyền, thì tính giảm bớt lòng nghi kị, do đó cũng có thể cải thiện đặc tính của Cự Môn. Phàm Cự môn có cách cục tốt, đều ưa Hóa Lộc, Hóa Quyền là do duyên cớ này.

Có Thiên Cơ đồng độ hoặc đối củng, sẽ làm mạnh thêm khuyết điểm của Cự Môn, bởi vì Thiên Cơ sẽ biến Cự môn thành trôi nổi, không thiết thực, mà còn làm tăng đặc tính đa nghi của nó, cũng sẽ khiến nó hay "gây chuyện thị phi sau lưng", nhờ vào ngôn từ mưu trí và quyền biến, để chiếm lòng tin của người khác. Cần phải hóa Lộc, hóa Quyền, và hội hợp với các sao Cát, mới là cách cục tốt. Nếu có Sát tinh đồng cung, là cách cục phá tán, thất bại.

Sát tinh cũng có thể làm tăng đặc tính xấu của Cự Môn. Cự môn ở hai cung Thìn hoặc Tuất là hãm địa, thì càng nặng. Vì vậy cổ nhân nói: "Cự môn sợ hai cung Thìn hoặc Tuất hãm địa" (Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự môn); "Cự môn gặp tứ sát mà cung hãm thì hung" (Cự môn tứ sát hãm nhi hung); "Cự môn mà gặp Hỏa tinh và Kình dương thì cuối đời tự ải" (Cự Hỏa Kình Dương, chung thân tự ải); "Cự môn gặp Hỏa tinh Linh tinh, mà không có Tử vi và Lộc tồn áp chế, thì nhất định sẽ bị đày ngàn dặm" (Cự môn Hỏa Linh, vô Tử vi Lộc tồn áp chế, quyết phối thiên lý).

Tử phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, có thể nhuyễn hóa tính cách xấu của Cự Môn thành tốt đẹp. Tử phụ, Hữu bật chủ về trợ lực, Văn xương, Văn khúc chủ về tài năng, tuy có nói nhiều thì cũng sẽ không chuyên đi che ám người khác; sau khi được trợ lực rồi, cũng sẽ giảm bớt lòng nghi kị, mà còn có thể mang tính nghi kị biến thành tính lo toan suy nghĩ một cách hữu ích.

Cho nên Cự Môn tuyệt đối không nên gặp Sát tinh, mà rất ưa gặp Lộc tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, và Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc.

Với tính chất sau khi chuyển hóa thành Tốt của Cự Môn, rất thích hợp làm những nghề nghiệp coi tài nói năng là nhân tố quan trọng. Người thuộc thượng cách có thể là Luật sư, hay nhân tài ngoại giao, đây phần nhiều là lấy "tính hay nói xấu" nhuyễn hóa thành "giỏi biện luận", lấy "tính nghi kị" nhuyễn hóa thành "tính lo toan suy nghĩ". Cũng thích hợp làm nghề bán hàng, dạy học, hoặc nghệ thuật biểu diễn để mưu sinh.

Cự Môn phân bổ ở 12 cung, sẽ đồng độ, hoặc đối củng với Thiên Cơ ở hai cung Mão hoặc Dậu, gọi là "Cự Cơ" đồng độ; ở 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu là kết cấu "Cự Môn Thiên Cơ".

Ở hai cung Tị hoặc Hợi (sách viết là Thìn hoặc Tuất), thì Cự môn độc tọa, ở đối cung sẽ là Thái Dương; ở hai cung Dần hoặc Thân, thì Cự môn và Thái dương đồng độ. Cho nên, ở 4 cung Dần Thân Tị Hợi là kết cấu "Cự Môn Thái Dương".

Thiên cơ tính trôi nổi, không thiết thực, nên bất lợi đối với Cự Môn, Thiên Đồng thì có thể hòa với khí của Cự môn, nhưng lại có thể khiến cho tâm trạng của Cự Môn càng "âm ám" kín đáo. Thái Dương thì có thể dùng ánh sáng rực rỡ của mình để hóa giải tính "âm ám" của CỰ Môn, thông thường kết cấu "Cự môn, Thái dương" là tốt nhất, nhưng trong đó cũng có biến cách.

Cự Môn thủ mệnh cũng có một số cách cục nổi tiếng, Cự môn độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, hóa Lộc hoặc hóa Quyền, gọi là cách "Thạch trung ẩn ngọc", chủ về mệnh tạo "anh hoa nội liễm" (tài năng không lộ)

Cự môn độc tọa ở cung Thìn, hóa thành sao Lộc, được Văn xương hóa Kị cùng bay đến, ở đối cung có Thiên Đồng, mà còn hội hợp Thái dương hóa Quyền. Hóa Quyền của Thái dương có thể điều hòa tính xấu của Cự môn, hơn nữa bản thân Cự môn đã hóa Lộc, tính chất được nhuyễn hóa, còn Thiên đồng có thể hóa giải Hóa Kị của Văn xương, vậy là vừa khớp trở thành "cách đặc biệt". Cổ nhân nói: "Cự môn ở hai cung thìn hoặc Tuất là không đắc địa, mệnh khổ nhưng trái lại biến thành cách cục đặc biệt" (Cự môn Thìn Tuất bất đắc địa, tân nhân mệnh ngộ phản vi kỳ) là ám chỉ điều vừa nói, nhưng không tiết lộ một điều là cần phải có Văn Cương Hóa Kị đồng độ.

"Cự Môn Thiên cơ" ở cung Mão, Hóa Lộc, hội hợp với Lộc tồn, mà không có thêm Sát tinh, lại được Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, gọi là "Cơ Cự đồng lâm cách", nhưng nếu có Sát tinh là phá Cách, kị nhất là có Kình dương, Hỏa tinh.

Cung mệnh của Đại hạn, hoặc Lưu niên gặp Cự Môn, thì không chủ về có đặc tính của Cự Môn, mà lại chủ về một đoạn đời người gặp cảnh ngộ bị Cự Môn che phủ. Nếu không có Thái dương miếu vượng hóa giải, lại không có Quyền Lộc, trái lại còn gặp các sao Sát Kị, thì chủ về Đại vận hoặc Lưu niên không cát tường, điều tiếng thị phi trùng trùng, mà còn chủ về phạm pháp, kiện tụng, cần phải gặp các sao Cát và cát hóa, sau mới hưng thịnh. Cự Môn là sự phiến nhiễu của thị phi, không thể không thận trọng.

Cự Môn biệt luận: Sáu tình huống Cự Môn tọa mệnh

Cự Môn có quan hệ mật thiết với các sao Thái Dương, Thiên Cơ, Thiên Đồng, được phân bố trong 12 cung như sau:

- Ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thì Cự Môn đối chiếu với Thiên Cơ

- Ở hai cung Sửu hoặc Mùi, thì Cự Môn đồng cung với Thiên Đồng.

- Ở hai cung Dần hoặc Thân, thì Cự Môn đồng cung với Thái Dương.

- Ở hai cung Mão hoặc Dậu, thì Cự Môn đông cung với Thiên Cơ.

- Ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thì Cự Môn đối chiếu với Thiên Đồng.

- Ở hai cung Tị hoặc Hợi, thì Cự Môn đối chiếu với Thái Dương.

Về đại thể, quan hệ giữa Cự môn với Thái dương, đồng cung sẽ không bằng đối chiếu, bởi vì Cự môn là "ám tinh", khi đồng cung với Thái dương, là một "minh" và một "ám" cùng ở một cung vị, trái lại sẽ gây lụy cho Thái dương. Đối chiếu thì khác, "ám" của Cự môn không đủ sức truyền đi xa, nhưng ánh sáng và nhiệt của Thái dương lại có thể chiếu tới Cự môn, nên có thể giải trừ "ám" của Cự môn.

Quan hệ với Thiên Đồng, thì đồng cung ưu hơn đối cung, bởi vì Thiên Đồng có tính cách bảo thủ, chỉ lo bảo toàn bản thân, mà bất kể thế sự, lại còn hay sợ việc. Ưu điểm của Cự môn là không chiếu xạ đối cung của mình, mà còn bị ảnh hưởng ngược lại từ đối cung, khiến cho tính chất (tính cách) của Cự môn xảy ra thay đổi. Đồng cung thì khác, hai bên sẽ tác động lẫn nhau, nên có thể "hơi" thay đổi khuyết điểm của Cự môn, làm giảm bớt điều tiếng thị phi.

Cự Môn quan hệ với Thiên Cơ, dù đối chiếu hay đồng cung, đều có sở trường riêng. Tổ hợp tinh hệ này, phần nhiều đều có chút tính chất khéo ăn khéo ở, còn giỏi biểu đạt và điều hòa. Khi Thiên cơ và Cự môn đồng cung, tính cách (tính chất) khéo léo của Thiên Cơ sẽ cải thiện tính chất điều tiếng thị phi của Cự Môn, nhưng cũng đồng thời làm giảm bớt tính chất "Thiên Cơ hóa khí thành khéo léo" dẽ thành đầu môi trót lưỡi, bụng dạ hẹp hòi. Lúc Thiên cơ và Cự môn đối chiếu, tính chất của hai bên sẽ dung hòa, Thiên cơ không đến nỗi biến thành bụng dạ hẹp hòi vì ảnh hưởng của Cự môn, mà Cự môn cũng không đến nỗi biến thành sốc nổi, không thiết thực, vì ảnh hưởng của Thiên Cơ. Nhưng tính chất "điều tiếng thị phi" của bản thân Cự môn vẫn không bị ảnh hưởng, dễ nhanh mồm nhanh miệng mà chuốc họa.

Cỏ nhân nói: "Giao du với người có mệnh Cự môn, lúc đầu tốt về sau xấu", đại khái là lấy tổ hợp tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" để nói, bởi vì bất kể hai sao đối chiếu hay đồng cung, cũng đều có những khiếm khuyết đáng tiếc, hơi thiếu đường đường chính chính.

Cự Môn cát hay hung là do có tài học hay không

Cổ nhân rất có thiên kiến với Cự Môn, có thuyết: "Cự môn miếu vượng, tuy phú quý cũng không được lâu bền"; hay "Cự môn thủ cung mệnh hoặc cung thân, một đời chuốc điều tiếng thị phi", thậm chí khi luận các cung Huynh đệ còn nói "anh em thảm thương", cung Phu thê còn nói "vợ chồng thất tiết", cung Tử tức còn nói "con cái tổn hậu", hay cung Tài bạch còn nói "tiền bạc khéo trộm mà có",.v.v... có thể nói là không có chỗ nào đúng.

Vương Đình Chi cho rằng, tiền nhân của phái Trung Châu đánh giá Cự Môn khách quan hơn, cho rằng: "Cự môn có lòng chính nghĩa, thường thường sở học ít khi tinh thâm, tài không đủ để dùng" nhưng chính nhờ đó mới có tính bỗng nhiên lãnh ngộ.

Người có Cự môn ở cung mệnh, đại khái đều có biểu hiện tốt về tính cách của bản thân, thêm vào đó còn giỏi biện luận, do đó thường dễ chuốc tị hiềm đố kị. Nếu như tài học của mệnh tạo đủ sức khiến cho người ta khâm phục, thì tính chất "chuốc tị hiềm đố kị" sẽ giảm bớt, sẽ khiến người ta ghét tính nói nhiều của mệnh tạo, quan hệ nhân tế đương nhiên rất tệ, gây nên "một đời chuốc lấy điều tiếng thị phi", "tuy phú quý nhưng không được lâu bền". Đây cũng là nói, hễ người có Cự Môn tọa cung mệnh, nếu có tài học, mà còn học tinh thâm, thì cũng là mệnh cục tốt.

Cổ nhân rất ưa Cự môn đồng cung hay đối chiếu với Thái dương, cho rằng Thái dương có thể giải "ám" của Cự môn, thực ra chỉ vì người có "Cự Nhật thủ mệnh" làm việc quang minh lỗi lạc, dễ làm cho người ta dễ hiểu mình mà thôi.

Cự Môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ, tuy không gặp Thái dương, nhưng có Hóa Lộc, Hóa Quyền, hoặc Hóa Khoa, ba sao hợp chiếu, cổ nhân cũng cho rằng đây là cách cục tốt, gọi là "Thạch trung ẩn ngọc", đó là vì nhờ có các sao hóa diệu này, nên sở học của mệnh tạo không đến nỗi tệ, thêm vào đó Thiên Cơ ở đối cung "hóa khí thành khéo léo", nên vừa có tài học, vừa có tu dưỡng, do đó tính chất "điều tiếng thị phi" của Cự môn sẽ nhuyễn hóa thành tài ăn nói, lời nói ra ắt sẽ khéo léo, biến thành cách cục tốt.

Cổ nhân luận mệnh thích giấu đi một chút, thường chỉ nêu ra một Sao để phán định, cho nên dễ khiến cho hậu nhân mơ mơ hồ hồ, nếu không động não phân tích thì khó mà hiểu được.

Nói về ánh của các Sao, thì Thái dương là không có chỗ nào không chiếu đến, vì vậy Cự môn không thể che ánh sáng của Thái dương, chỉ khi Thái dương lạc hãm, lúc đó ánh sáng yếu nhất, Cự Môn mới che được, do đó Thái dương lạc hãm cũng không nên hội Cự môn.

Ảnh hưởng của Cự Môn đối với các sao, dựa vào kết quả tính chất của các sao bị "ám" mà định.

Như Thiên Đồng gặp Cự Môn, đồng độ hoặc vây chiếu, Thiên Đồng chủ về tình cảm và tâm trạng, sẽ biến thành tình cảm và tâm trạng u ám. Thế là tận trong thâm sau nội tâm, có nỗi đau khổ thầm kín mà không thể cho ai biết.

Lại như Thiên Cơ gặp Cự Môn, đồng độ hoặc vây chiếu, Thiên Cơ chủ về cơ mưu, kế hoạch, biến thành cơ mưu và kế hoạch bị tính toán sai, do đó có phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, do dự thiếu quyết đoán. Có điều Thái Dương gặp Cự Môn đồng độ hoặc vây chiếu, nếu Thái dương nhập miếu thì không bị Cự môn "ám", ánh sáng chiếu xa, nên chủ về được người ngoại quốc hoặc người ở nơi xa xem trọng, còn khi lạc hãm thì ánh sáng lu mờ, làm việc đầu voi đuôi chuột.

Như đã thuật ở trên, để luận đoán điềm quan trọng của Cự Môn, cần phải xem xét tính chất toàn bộ các sao mà định, sau đó "thâm nhập" tính chất "che ám", thì mới có thể luận đoán hoàn chỉnh.

Ví dụ như tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" vốn chủ về phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, cho nên chủ về ý chí không kiên định, nhưng nếu Thiên Cơ hóa Quyền làm tăng tính ổn định, thì lực "che ám" của Cự Môn lại biến thành chủ quan quyết định mà phạm sai lầm, vì vậy mà đánh mất cơ hội tốt.

Lại ví dụ như tinh hệ "Thiên đồng Cự môn", vốn chủ về có ẩn tình che dấu triền miên, nhưng nếu Thiên Đồng hóa Lộc, thì lại có thể biến thành chấp trước một môn học nào đó, hoặc chấp trước một thú vui sở thích nào đó. Như vậy chưa chắc là không tốt. "Cự Môn Thiên Đồng" đồng độ, phải có sao Lộc, nếu không có Lộc, dù gặp Cát tinh cũng không cát tường. Cổ nhân nói "Cự môn ở Sửu Mùi là hạ cách, dù phú quý cũng không được lâu" (Sửu Mùi Cự môn vi hạ cách, túng nhiên phú quý diệc bất trường). Khuyết điểm của kết cấu tinh hệ này là ở chỗ: dễ nghe lời dèm xiểm, nói xấu, xử sự nặng tình cảm mà dẫn đến thất bại.

Cự môn đồng độ với Thiên cơ, cần phải được cát hóa và có sao Cát thì mới phú quý (ở cung Mão ưu hơn ở cung Dậu), nhưng gặp Hỏa tinh hoặc Linh tinh bay đến là phá Cách, chủ về cuộc đời nhiều chìm nổi. Không gặp Cát tinh hoặc không được Cát hóa, mà gặp sát tinh thì phá tán, tàn tật.

Cự môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ là cách "Thạch trung ẩn ngọc" được cát hóa là tốt, hóa Lộc thì chủ về phú, hóa Quyền thì chủ về quý. Có điều cuộc đời không nên ở vị trí tối cao.

Trường hợp Cự môn hóa Lộc hay hóa Quyền, thường đều thất bại ở Đại vận cung Tị; hóa Quyền thì thất bại vì tranh quyền; hóa Lộc thì thất bại vì quá muốn làm giầu. Nó thường thành công ở những đại vận "Vũ khúc Thất sát", Thiên phủ.

Cự môn ở hau cung Tý hoặc Ngọ, đồng độ với Lộc tồn, cần phải gặp Cát tinh mới phú quý. Rất kị cung hạn Thiên Cơ, cũng không ưa cung ở tam phương có Địa không Địa kiếp bay đến. Nó thường thành công ở Đại vận có sao Lộc trùng điệp.

Cự môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ, không có sao Lộc, cần phải đến Đại vận hoặc Lưu niên gặp sao Lộc, mới chủ về phát vượt lên, gặp niên hạn có Địa không, Địa kiếp và Hóa Kị (nhất là Thiên cơ hóa Kị), sẽ chủ về phá tán, thất bại.

Cự môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thông thường bất lợi cung Huynh đệ. Vì vậy không nên hợp tác với người khác, cũng thường chủ về kết hôn muộn, Cự môn ở cung Tý thì càng đúng.

Cự môn ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thông thường là bát lợi. Cổ nhân nói: "Cự môn ngại bị hãm ở hai cung Thìn Tuất" (Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự môn), chủ về vất vả, tranh chấp thị phi. Khi Cự môn hóa Kị, có sát tinh bay đến là hạ cách. Cự môn ở hai cung Thìn hay Tuất, thì không nên đến các cung hạn Thiên tướng, Thiên lương, Thiên đồng, Thiên phủ, thường xảy ra sự cố, mà nên đến các cung hạn Thái âm, Thái dương nhập miếu. Rất nên đến các vạn hạn gặp Lộc tồn, Hóa lộc có thể giải tai ách của Cự Môn.

Cự Môn hóa Lộc ở cung Thìn, có Văn Xương hóa Kị đồng cung hoặc vây chiếu, là cách cục đặc biệt, rất phú quý. Đến cung hạn Thiên Phủ, là đại vận phát đạt. Cự môn ưa sao tiền tài, cho nên ưa cung hạn Thiên Phủ. Nhưng Cự môn không nên đến niên hạn Thiên Đồng, thường vì tham cầu thái quá mà gặp hung.

Cự môn ở cung Tuất hóa Lộc hay hóa Quyền đều cát, nhưng không nên gặp Văn Xương hóa Kị, gặp Thiên Phủ thì nên, gặp Thiên đồng thì ngại.

Cự môn ở hai cung Tị hoặc Hợi, có sự khác biệt rất lớn. Ở cung Hợi thì có Thái dương ở cung Tị vậy chiếu cho nên cát, nếu được cát hóa và có sao cát, ắt chủ về phú quý. Nhưng đến Đại vận Thiên cơ Thiên đồng (kị nhất là Lưu niên Thất sát), sẽ dễ vì cố xuất đầu lộ diện mà gây ra tai họa, hoặc vì quá lộ tài năng mà gây ra tai ương.

Cự môn ở cung Tị, thì Thái dương ở đối cung vô lực, cho nên không là cát lợi, chỉ khi nào gặp sao Lộc, mới chủ về nhờ cần kiệm mà trở nên giầu có. Ưa đến các cung hạn "Tử vi Thiên phủ", Vũ khúc, có Lộc tồn, Hóa Lộc, không ưa đến cung hạn Thất sát, cung hạn "Liêm trinh Thiên tướng", cung hạn Tham lang.

Cự Môn ở 12 cung đều ưa gặp sao Lộc, trường hợp hóa thành sao Lộc thì rất tốt, trường hợp Lộc tồn là kế đó. Các vận hạn trong cuộc đời cũng ưa có Hóa Lộc và gặp sao Lộc. Hễ Cự môn hóa Quyền, ưa đến nhất là Đại vận hoặc Lưu niên gặp sao Lộc. Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" ở hai cung Sửu hay Mùi, là được Vũ khúc hóa Lộc và Tham lang hóa Quyền giáp cung, cũng khá tốt. Rất sợ có Hỏa Linh đồng độ, dù phú quý cũng không lâu dài.

Đọc thêm CỰ MÔN - can Đinh hóa Kị

Cự Môn không ưa hóa thành Kị, vì vốn đã có tính chất "điều tiếng thị phi", sau khi Hóa Kị càng làm mạnh thêm tính chất xấu này, khiến cho đời người thêm nhiều phiền phức rắc rối.

Cự Môn sau khi Hóa Kị cũng ảnh hưởng đến phương diện tình cảm, thường dễ xảy ra phiền phức liên tiếp mà không thể đoán trước được. Cho nên người Cự môn hóa Kị tọa mệnh, bất kể các sao của cung Phu Thê hoàn mỹ đến đâu, ít nhất cũng có một lần gãy đổ trong tình yêu hoặc hôn nhân, tất nhiên sau đó để lại vết thương lòng suốt đời khó quên.

Thích cầu toàn cầu mỹ, nhưng bất kể đã nỗ lực như thế nào, sự nghiệp phát triển cũng không được như lý tưởng. Nhưng mệnh tạo lại chấp trước sự hoàn mỹ vì vậy mà sinh ra thất vọng, hơn nữa trong quá trình sự kiện phát triển mệnh tạo rất đau đớn khổ sở và vất vả. Lúc có Đà La đồng độ, khuynh hướng này càng rõ rệt.

Cự Môn hóa Kị độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Thiên cơ hóa Khoa, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, cung tam hội có Thái Dương độc tọa và mượn "Thiên Đồng Thiên Lương" mà Thiên Đồng hóa Quyền. Cự môn hóa Kị trong tinh hệ này, thường nhờ "hung sự" mà biến thành lực kích phát. Sự số trắc trở đang trong quá trình phát triển thì ngưng lại, những mỗi lần trắc trở như vậy, thực ra lại khiến cho kết cục càng hoàn mỹ. "Thấy Hung thực ra là Cát" là đặc điểm của nó.

Mệnh cục này bất lợi về hôn nhân, tuy giao du với nhiều người khác giới, nhưng tình cảm vẫn duy trì lâu dài một cách lặng lẽ, hoặc lúc tình cảm phát triển tới mức độ sâu đậm thì bỗng nhiên xảy ra biến cố, dẫn đến chia ly. Ở cung Ngọ dễ chuốc điều tiếng thị phi hơn ở cung Tý, nhưng lại trở thành sức mạnh kích phát.

"Thiên đồng Cự môn" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, khi Cự môn hóa Kị ắt Thiên đồng hóa Quyền (xin tham khảo phần Thiên Đồng hóa Quyền) khi Thiên đồng hóa Quyền còn làm mạnh thêm sự xung động trong bản thân.

Tinh hệ "Thái dương Cự môn" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân (ở cung Dần gặp Lộc tồn), Cự môn hóa Kị, cung tam hội mượn "Thiên cơ Thiên lương" mà Thiên cơ hóa Khoa, và mượn "Thái âm Thiên đồng" một sao hóa Lộc một sao hóa Quyền. Tinh hệ này là cách cục tứ hóa hội hợp, nhưng do Cự Môn của bản cung hóa Kị, nên rất bất lợi về quan hệ nhân tế. Thông thường bất lợi đối với người thân phái nam, nên không thích hợp với nữ mệnh, đến tuổi trung niên không có duyên với chồng, đến tuổi vãn niên thì có khoảng cách đối với con cái. Bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, đều chủ về thiếu duyên với cha, hoặc dễ xung đột với thượng cấp. Do tính chất "điều tiếng thị phi", nên rất thích hợp với nghề nghiệp "dùng lời nói để kiếm tiền" như luật sư, dạy học,.v.v... nhờ "Lộc Quyền Khoa hội" có thể thăng tiến danh dự và tài lộc.

Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, khi Cự môn hóa Kị, ắt Thiên cơ hóa Khoa (xin tham khảo phần Thiên Cơ hóa Khoa)

Cự Môn độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Thiên Đồng ở đối cung hóa Quyền, cung tam hội Thái dương độc tọa và mượn "Thiên cơ Thái âm" mà Thái âm hóa Lộc, Thiên cơ hóa Khoa. Cự môn hóa Kị ở Thiên la Địa võng lại chủ về cát lợi, tính chất "thấy Hung mà thực ra là Cát" rất rõ ràng. Cho nên bề ngoài tuy gặp trắc trở, điều tiếng thị phi, nhưng kết cục thường thường lại khiến cho người ta bất ngờ, có điều vẫn khó tránh phải trải qua gian khổ, tâm lư lo nghĩ. Nếu gặp Hỏa Linh, hoặc Không Kiếp đồng độ, thì rất thích hợp "dùng lời nói để kiếm tiền". Có điều mệnh tạo ưa giải quyết khó khăn cho người khác, nên sự nghiệp tuy tốt nhưng cuộc đời lại khó được yên tịnh. Hôn nhân cũng chủ về mỹ mãn, bất kể nam mênh hay nữ mệnh, đều nên lấy người có sự nghiệp.

Cự môn độc tọa, hóa Kị ở hai Cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thái dương, ắt sẽ gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Đà la, cung tam hội là Thiên đồng độc tọa hóa Quyền và Thiên Cơ đọc tọa hóa Khoa. Thông thường, tinh hệ này ảnh hưởng đến lục thân ở mức độ nhẹ, Cự môn ở cung Hợi càng nhẹ hơn, nhưng tình hình về "điều tiếng thị phi", và sóng gió trắc trở trong tình cảm thì khá nặng. Nam mệnh ắt sẽ lấy được vợ đẹp, nữ mệnh ắt sẽ lấy được chồng có đường sự nghiệp tốt, bàng nhân thiên hạ đều cho rằng họ đẹp đôi, nhưng phần nhiều họ lại bất mãn với người phối ngẫu, sau trung niên thường thay lòng đổi dạ, khiến cho mọi người xung quanh đều ngạc nhiên.

Đan trì quế trì cách

"Đan trì quế trì cách" tức là Thái Dương cư Thìn, Thái âm cư Tuất, an mệnh tại cung Thìn hoặc cung Tuất. Thái dương cư Tị, Thái âm cư Dậu, an mệnh ở cung Tị hoặc cung Dậu.

Cổ ca nói:

Nhị diệu thường minh chính đắc trung

Tài hoa thanh thế định anh hùng

Thiếu niên tế đắc phong vân hội

Nhất dược thiên trì tiện hóa long.

Dịch nghĩa:

Hai sao thường sáng chính đắc trung

Tài hoa thanh thế định anh hùng

Tuổi trẻ đỗ đạt ra làm quan

Một bước lên mây hóa thành rồng.

Thái dương thủ mệnh mà nhập miếu, cổ nhân gọi là "đan trì", Thái âm thủ mệnh mà nhập miếu, cổ nhân gọi là "quế trì".

Thời cổ đại xem trọng công danh khoa cử, mà không trọng sự giầu có của giới thương nhân, do đó cho rằng "đan trì quế trì" là đại lợi về cầu Danh. Vì vậy, cổ quyết mới có các thuyết:

- "Thái dương thủ cung Mão, phú quý vinh hoa",

- "Thái dương thủ mệnh ở các cung Mão Thìn Tị Ngọ, gặp các sao Cát, là đại quý" (Thái dương thủ mệnh vu Mão Thìn Tị Ngọ, kiến chư cát đại quý)

- "Thái âm ở cung Tý là đài quế nước trong, được chức quan trọng yếu, là trung thần can gián" (Thái âm cư Tý, thị thủy trừng quế ngạc, đắc thanh yếu chi chức, trung gián ti tài)

"Trăng sáng cửa trời ở cung Hợi, là phong hâu thăng chức tước" (Nguyệt lãng thiên môn vu Hợi địa, tiến bước phong hầu)

Thảy đều vì Thái dương, Thái âm miếu địa mà ra.

Nhưng hậu nhân lại thiên lệch, phải tìm cho ra cách "hai sao đều sáng", với ý đồ làm tăng vẻ vang cho Mệnh Cục, do đó đưa ra cách: "Nhật Nguyệt tịnh minh cách", và "Nhật Nguyệt hội minh cách", ngoài ra còn cật lực tìm ra tinh hệ Nhật Nguyệt cư cung miếu vượng hỗ tương hội chiếu, làm thành mối quan hệ giữa Cách và Cục, còn không dùng cái tên "đan trì" và "quế trì".

Cách này có tính giới hạn cục bộ rất lớn. Thứ nhất là phải gặp sao Lộc, thứ hai là phải gặp các Cát tinh Xương Khúc Tả Hữu, thứ ba là phải gặp một ít Sát tinh trong số Hỏa tinh Linh tinh Kình dương Đà la. Nhưng nếu phù hợp điều kiện này, về căn bản không phải nệ vào cách cục nữa.

Đọc thêm về Đan trì quế trì cách

------------------------------------------

Thái Dương tổng luận

Như chúng ta đã biết, Thái Dương là chủ tinh của các sao Trung thiên, thuộc dương hỏa. Do thái dương là chủ tinh của Trung Thiên, cho nên cũng ưa "bách quan triều củng".

Đặc tính rất quan trọng của Thái Dương là phát ra ánh sáng và nhiệt, nhờ vậy mà ánh sáng chói lọi. Vì vậy, trong đời người nó chủ về thanh danh và quý hiển, trừ phi Thái dương hội hợp với các sao chủ về tài phú, như Thái âm, Hóa Lộc, Lộc tồn, nếu không càng chủ về quý mà không chủ về giầu có.

Chủ về quý là đặc tính của Thái Dương, do đó cũng ưa đồng độ, hoặc hội hợp với các sao mang tính chất quý hiển, như Thiên lương, Thiên khôi, Thiên việt. Thậm chí người Thái Dương tọa mệnh, đến cung hạn có các sao quý hiển tọa thủ như: Tử vi, Thiên phủ, Thiên lương, Thái âm cũng cần đặc biệt chú ý, đây có thể là niên hạn khai vận. Nếu được thêm lưu Khôi, lưu Việt xung chiếu Thiên khôi, Thiên việt của nguyên cục, thì chủ về gặp nhiều cơ hội.

Thái Dương đã có đặc tính phát xạ, vì vậy đang lúc nhập miếu, thì không nên gặp quá nhiều các sao mang tính chất phát xạ, như Thiên Mã, Linh tinh, Hỏa tinh, Thiên lương, Thiên sứ, Cô thần, Quả tú, Phỉ liêm, Phá toái. Nếu không nhiệt và ánh sáng của Thái dương sẽ khuếch tán thái quá, càng dễ thành trống rỗng mà thiếu thực tế.

Cũng vậy, Thái dương thủ mệnh ở cung Ngọ, trái lại, không tốt bằng ở cung Tị. Bởi vì Thái dương của cung Ngọ đã thuộc "Nhật lệ trung thiên", lại đi quá một bước mặt trời bắt đầu lặn về Tây, hơn nữa lúc này ánh nắng rất mãnh liệt, không bằng Thái dương của cung Tị, trái lại còn có chỗ để phát triển.

Cho nên muốn phán đoán sự tốt xấu của Thái Dương, cần phải tuần tự phân tích theo 4 nguyên tắc sau:

(1)- Trước tiên nghiên cứu xem, Thái dương ở vào cung vị miếu vượng lợi hãm thế nào? Đại khái là, nên miếu vượng mà không nên lạc hãm, người sinh vào ban đêm (người sinh vào các giờ Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu) càng không nên.

(2)- Do không có sao tiền tài hội hợp, mà phán đoán xem nó thuộc sang quý thanh cao, hay thuộc tình huống gồm đủ phú quý, hoặc nhuyễn hóa thành phú mà không quý. Đương nhiên tình huống xấu nhất biến thành không phú mà cũng không quý.

(3)- Như luận đoán trong vận hạn, thì cần lưu ý Thái Dương ở cung mệnh của vận hạn có gặp cơ hội khai vận hay không.

(4)- Bất kể luận đoán cung mệnh của thiên bàn, hoặc cung mệnh của vận hạn, đều phải chú ý "trung hòa". Nếu Thái dương ở trong cung quá mạnh mẽ, thì nên gặp các sao có tính thu liễm. Nếu ánh sáng và nhiệt của Thái dương không đủ (như ở cung Thân đã có hiện tượng mặt trời lặn về Tây), thì có thể nhờ các sao có tính phóng xạ để trợ giúp. Tóm lại, thảy đều phải quy về hai chữ "trung hòa".

Thái dương hóa Lộc chủ về phú và quý. Nhưng khi cung mệnh của vận hạn gặp Thái dương hóa thành sao Lộc, mức độ phú quý của nó vẫn phải căn cứ các sao của của mệnh của "thiên bàn" để tính. Nếu các sao quá yếu, như mệnh vô chính diệu, mượn các sao Thiên đồng Thái âm hóa Kị để nhập cung, hoặc tinh hệ "Cự môn Thiên cơ" lạc hãm, thì mức độ phú quý sẽ giảm rất nhiều.

Thái dương hóa Quyền hóa Khoa sẽ không bằng hóa Lộc, bởi vì hóa Quyền và hóa Khoa chỉ có thể làm tăng sự quý hiển của Thái dương, mà không thể làm cho giầu có được. Thời xưa tệ trọng phú hơn trọng quý còn ít, trong xã hội thương nghiệp hiện đại, người ta trọng phú nhiều hơn là trọng quý. Vì vậy không ưa tính chất hơi thiên lệch của Thái dương hóa Quyền hay hóa Khoa. Bất kể cung mệnh của mệnh bàn, hay cung mệnh của vận hạn, tính chất đều thuộc như vậy.

Người sinh vào ban đêm không nên có Thái Dương tọa mệnh, Thái Dương lạc hãm càng không nên. Nói "không nên" có hai tính chất như sau:

(1)- Bất lợi về lục thân phái nam. Nam thì bất lợi về phụ huynh hoặc trưởng nữ, đối với nữ thì bất lợi về Cha, Chồng và trưởng tử. Nhưng những bất lợi này không nhất định là tử vong, mà có thể là sinh ly, thiếu duyên phận với nhau, hoặc hình thành khoảng cách giữa hai đời, có lúc lục thân bị nạn tai, bệnh tật.

Những tính chất này đối với phái nữ mà nói, thì khá dễ cảm thấy trống rỗng, nhất là sau tuổi trung niên, thiếu duyên với Chồng, tóm lại đúng là khiếm khuyết của đời người.

(2)- Bản thân dễ bị tai nạn, bệnh tật, nhất là chủ về bệnh hệ tuần hoàn, hệ thần kinh. Nếu ánh sáng của Thái dương quá thịnh hoặc quá yếu, thì dễ mắc bệnh ở mắt, nhất là dễ loạn thị lòa mắt.

Kết cấu tinh hệ Thái dương trong 12 cung, luôn đồng độ hoặc đối củng với ba sao Thái Âm, Cự Môn, Thiên Lương, vì vậy 3 sao này ảnh hưởng rất lớn đối với Thái Dương.

Ở hai cung Tý hay Ngọ, Thái dương và Thiên lương chiếu nhau, ở hai cung Mão Dậu, "Thái dương Thiên lương" đồng độ. Cho nên 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp của thái Dương, Thiên Lương.

Ở hai cung Thìn Tuất, Thái dương và Thái âm chiếu nhau, ở hai cung Sửu Mùi, "Thái dương Thái âm" đồng độ. Cho nên 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tổ hợp của tinh hệ Thái dương Thái âm.

Ở hai cung Tị Hợi, Thái dương và Cự Môn chiếu nhau, ở hai cung Dần Thân, "Thái dương Cự môn" đồng độ. Cho nên 4 cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp của tinh hệ Thái dương Cự môn.

Trong các tình huống thông thường, Thái dương rất ưa trường hợp tinh hệ "Thái dương Cự môn" ở cung Dần, hoặc Thái dương độc tọa ở cung Mão, Thìn, Tị. Khá ngại "Thái dương Cự môn" gặp các sao Sát - Kị - Hình ở cung Thân, và tinh hệ "Thái dương Thiên lương" gặp các sao Sát - Kị - Hình ở cung Dậu.

Thái dương còn là sao chủ về kiện tụng và điều tiếng thị phi, vì vậy không nên gặp quá nhiều sao Hình, như Kình dương, Thiên hình, Quan phủ, Bạch hổ. Nhất là Thái Dương hóa thành sao Kị, gặp sao Hình càng dễ chuốc oán, nạn tai.

Liên quan đến kiện tụng thị phi, nhiều lúc do cung Phúc đức mang lại, chứ không chỉ thuộc cung Mệnh, vì vậy khi luận đoán mệnh bàn, gặp Thái dương tọa thủ cung Phúc đức cũng cần chú ý.

Đọc thêm về Đàn trì quế trì cách

-------------------------------------------------

Thái Dương biệt luận

Ba đặc tính của Thái Dương tọa mệnh

Cổ nhân có thiên kiến đối với Thá Dương, cho rằng miếu vương thì Cát, lạc hãm thì Hung. Nói "miếu vượng" tức là mặt Trời (Thái dương) ở vào Giờ có ánh sáng mạnh, bắt đầu từ cung Mão đến cung Ngọ, thì mặt Trời ở giữa Trời, đến cung Dậu bắt đầu mặt Trời lặn về Tây, sau đó đến cung Dần mặt Trời bắt đầu lại nhô lên. Do đó lúc luận đoán đương số có Thái Dương thủ mệnh, cần phải xem trọng tính chất của từng cung độ. Nói cách khác, Thái dương thủ mệnh ở cung Hợi, mệnh vận sẽ không thể bằng ở cung Tị. Công thức đoán mệnh này hầu như đã thành mẫu mực.

Vì vậy, đối với người có Thái Dương thủ mệnh, cổ thư có mấy câu bình giải điển hình như sau:

- "Thái dương thủ mệnh lạc hãm, dù Hóa Quyền Hóa Lộc vẫn hung, quan lộc không hiển đạt, thành bại bất nhất"

- "Thái dương tủ mệnh, lạc hãm mà thêm hung tinh sát tinh, chủ về người mang tật"

- "Thái dương thủ mệnh miếu vượng, phú quý vinh hoa"

- "Nữ mệnh Thái Dương ở bốn cung Mão Thìn Tị Ngọ, không có sát tinh, chủ về vượng phu ích tử"

Tóm lại, cổ nhân cho rằng cung Mệnh mà gặp Thái Dương buổi sáng là Cát, gặp Thái Dương buổi chiều là Hung. Công thức đoán mệnh này đánh mất tính cách thông thường của Thái dương, mà còn bỏ xót một điều rằng: Thái dương buổi sáng cũng có khiếm khuyết của nó, Thái dương buổi chiều cũng có uy lực của nó. Vương Đình Chi cho rằng, phái Trung Châu luận về Thái dương khách quan hơn.

Thái dương tọa mệnh thực ra có 3 đặc điểm như sau:

(1)- Một là: hào phóng. Nói "hào phóng", có nghĩa là không tính toán, so đo tiểu tiết. Cho nên người có Thái dương thủ mệnh thường làm cho người khác phải ghi nhớ trong lòng.

(2)- Thứ hai: danh lớn hơn lợi. Trong Đẩu Số, Thái âm chủ về Phú, Thái dương chủ về Quý. Cho nên người có Thái dương tọa mệnh, bất kể sự nghiệp phát triển lớn đến mức nào, cũng chưa chắc là "cự phú", thậm chí có lúc bản thân không giầu có bằng người dưới quyền của họ.

(3)- Thứ ba: tâm cao khí ngạo. Dù là người ở địa vị dưới cũng thường không phục thượng cấp, trừ khi thượng cấp của họ rất có danh vọng, hoặc rất có tài lãnh đạo. Người có Thái Dương thủ mệnh, thường cảm tháy vận khí của mình không được tốt, mà chẳng cảm thấy chính mình có chỗ không bằng người.

Thái Dượng tọa mệnh có ba loại phối hợp

Thái Dương đồng cung với chính diệu khác, chỉ có 3 tình huống. Một là lúc đồng độ với Thái âm ở cung Sửu hoặc cung Mùi; hai là lúc đồng độ với Cự môn ở cung Dần hoặc cung Thân; ba là lúc đồng độ với Thiên lương tại cung Mão hoặc cung Dậu. Ở sáu cung Tý, Thìn, Tị, Ngọ, Tuất, Hợi còn lại, đều là Thái dương đọc tọa.

Nhưng Thái dương độc tọa cũng có 3 tình huống khác nhau. Thái dương độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, nhất định sẽ đối nhau với Thiên lương, Thái dương độc tọa ở hai cung Tị hoặc Hợi, nhất định sẽ đối nhau với Cự Môn, Thái dương độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, nhất định sẽ đối nhau với Thái âm.

Cho nên, Thái dương có quan hệ với chính diệu, thực ra chỉ có 3 sao Cự môn, Thiên lương, Thái âm, và chia thành hai tình huống: đồng cung và đối cung.

Phái Trung Châu nghiên cứu đặc tính của Thái Dương, rất chú trọng mối quan hệ của Thái dương với Thái âm, Cự môn, Thiên lương, mà không chỉ chăm chú vào tình hình Thái dương ở cung độ sáng hay tối.

Cự môn chủ về "ám", Thái âm chủ về "phú", Thiên lương chủ về "sang quý thanh cao". Ba tính chất cơ bản này sẽ ảnh hưởng đến Thái dương thủ mệnh. Cho nên, về đại thể, Thái dương gặp Cự môn là người chỉ có hư danh, Thái dương gặp Thái âm là người có thể phú quý, cũng có thể chỉ thuộc loại tiểu phú quý, thậm chí chỉ là người ở bậc trung có chút quyền lực, Thái dương gặp Thiên lương là người quá tuân thủ nguyên tắc, thành nhân vật được người trong giới chuyên nghiệp biết đến, nhưng không phải là người trong đại chúng nghe danh.

Đương nhiên, trên chỉ là những đặc tính cơ bản, tình hình cụ thể vẫn phải cần xem xét các sao hội hợp khác mà thay đổi.

So sánh Thái Dương với Tử Vi

Trong Đẩu Số, Thái âm chủ về "phú", Thái dương chủ về "quý", đây là tính chất cơ bản nhất, cho nên hễ người có Thái dương thủ mệnh, thì phải xem xét từ phương diện "quý" này.

Vì chủ về "quý", nên Thái dương rất ưa hội hợp với một số trợ tinh chủ về "quý", như: Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Tam thai, Bát tọa, Ân quang, Thiên quý, Long trì, Phượng các. Các trợ tinh này chia thành 6 cặp, nếu có "sao đôi" đủ cặp, hội hợp với Thái Dương, thì sức mạnh càng lớn.

Ví dụ: Thái dương hội hợp với 3 sao cát là: Văn xương, Hữu bật, Thiên khôi, sẽ không bằng hội hợp với một cặp "sao đôi" trong đó, như chỉ hội hợp với cặp "sao đôi" Tả phụ, Hữu bật, thì sức mạnh của nó sẽ lớn hơn là hội hợp với ba sao cát phân tán kể trên.

Hai cặp sao đôi Tam thai và Bát tọa, Ân quan và Thiên quý, một khi phân tán sức mạnh sẽ cực kỳ nhỏ. Nhưng nếu "sao đôi" đủ cặp đồng cung với Thái dương, sức mạnh lại cực kỳ lớn, thậm chí so với ba bốn sao lẻ không thành đôi trong lục cát tinh là Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật, cũng không lớn bằng.

Tính chất của Thái Dương có thể nói so với Tử Vi thì kém hơn không nhiều, bởi vì Tử vi cũng cần các sao Cát "triều củng", sau đó mới có thể phát huy sức mạnh của nó. Nhưng trong đó cũng có một số phân biệt như sau:

- Tử vi thích Thiên phủ, Thiên tướng triều củng, đối với Thái dương thì không được nói chính diệu triều củng. Trong số lục sát tinh thì Tử vi sợ Tham lang và Phá quân, nhưng Thái dương thì không sợ hai sao này mà lại sợ Cự môn. Tử vi thủ mệnh chủ về rất có tài lãnh đạo và có uy nghiêm, Thái dương thủ mệnh thì chỉ hai có tài lãnh đạo, nhưng lại có đặc tính "cho mà không nhận", dễ khiến người khác gần gũi.

- Nhưng Thái dương lại có lực "hình khắc", còn Tử vi thì không có. Người có Tử vi thủ mệnh, duyên phận với Cha Mẹ, anh em, con cái đều khá tốt. Nhưng người có Thái dương thủ mệnh, thì lại có "hình khắc" đối với Cha, Anh, con cả, nặng thì tử vong, nhẹ thì sinh ly, hoặc tình cảm thân thuộc không được tốt.

- Thậm chí, ngay cả tình hình sức khỏe, tính chất của Tử vi cũng tốt hơn Thái dương.

Thái Dương tọa mệnh, hình khắc hay quý hiển

Do Thái dương có khuyết điểm "hình khắc", cho nên cổ nhân cho rằng "Thái dương Thái âm thủ mệnh không bằng chiếu hợp", lý do là, nếu cung mệnh không gặp Thái dương tọa thủ mà lại được Thái dương vây chiếu, thì vẫn khiến cho cung Mệnh có tính chất "quý", hơn nữa lại có thể giảm bớt mức độ "hình khắc" của Thái dương.

Kinh nghiệm của Vương Đình Chi, người hiện đại nếu gặp Thái dương thủ mệnh, mức độ "hình khắc" trên thực tế chẳng nặng như cổ nhân đã nói, mà mức độ quý hiển cũng không lớn như cổ nhân đã nói.

Có lẽ do phương thức sinh hoạt của cổ nhân và người hiện đại khác nhau. Thời xưa, cha con hai đời cung ở một nhà, dễ xảy ra va chạm, không như người hiện đại, sau khi kết hôn thì ra ở riêng. Vì vậy mệnh tạo có thể phát huy đặc tính tình cảm của sao Thái dương. Nhìn từ góc độ khác, ở riêng cũng có thể tính là "hình khắc" ở mức độ rất nhẹ.

Quan hệ với bạn bè cũng vậy, phạm vi xã giao của cổ nhân khá hẹp, do Thái dương tính tình mạnh mẽ, cho nên khi ở trong một phạm vi nhỏ, người ta khó mà tiếp nhận nổi, biến mệnh tạo thành người không hợp quần. Không như ngày nay, phạm vi xã giao khá lớn, có thể gặp những bạn bè tiếp nhận được mẫu người có tính tình đặc biệt.

Cho nên, dùng Đẩu Số để đoán mệnh, gặp Thái dương thủ mệnh, phải cận thận một chút, không nên hoàn toàn chiếu theo ca quyết của cổ nhân để luận đoán.

Ví dụ như cổ nhân nói: "Thái dương ở Ngọ, quý mà chuyên quyền", đó là vì cổ nhân thích Thái dương có ánh sáng chói lọi ở cung Ngọ. Trên thực tế, người hiện đại chưa chắc đã làm việc trong chính giới, mà con đường làm việc trong chính giới cũng ít, nếu kinh doanh làm ăn, thì người có Thái dương thủ mệnh ở cung Ngọ sẽ dễ biến thành người ưa xuất đầu lộ diện. Đây là vì Thái dương chủ về "quý", nên mệnh tạo ưa thích hư danh, ở phương diện khác Thái dương không chủ về phú, càng ưa hư danh càng dễ khoa trương phù phiếm.

Thái Âm tổng luận

Thái âm thuộc tinh hệ Trung Thiên, người sinh vào ban đêm (giờ Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý, Sửu) lấy nó làm chủ tinh, thuộc âm thủy.

Do Thái Âm cũng là chủ tinh, nên cũng ưa "bách quan triều củng". Trong các tình hình thông thường, rất ưa Xăn xương, Văn khúc hội hợp, làm tăng sự sáng sủa, rực rỡ của Thái âm, mà còn làm tăng bẩm tính thông minh, khí chất thanh nhã. Nếu chỉ gặp một minh Xăn xương, hoặc một mình Văn khúc thì không phải là cách này, mà biến thành thủ đoạn, cổ nhân gọi là "giả văn vẻ", khi gặp Sát tinh thì biến thành "ngụy quân tử".

Thái Âm tuy cũng sáng sủa, rực rỡ, nhưng tính chất khác với Thái Dương. Tính chất của Thái dương là khuếch tán phát xạ, tính chất của Thái âm thì tiềm tàng và thu vào bên trong. Cho nên, lúc đánh giá mệnh Thái dương, thường ngại ánh sáng của Thái dương quá lộ, cho là điềm không lành; còn khi đánh giá mệnh Thái âm thì ngại sự thu vào bên trong quá đáng của nó, cho là không điều hòa.

Do đó, lúc Thái âm bất hòa, thường cần phải nhờ Thái dương cứu. Lúc Thái âm lạc hãm hóa Kị, hoặc lúc hội hợp với các sao chủ về tiềm tàng và thu vào bên trong như Đà la, Linh tinh, Thiên hình, Đại hao, Thiên hư, Âm sát, nếu được Thái dương nhập miếu, hoặc hóa Lộc ở tam phương tứ chính hội hợp, thì có thể cải thiện tính chất thu vào bên trong quá đáng của Thái âm, phát huy cái tốt của nó, mới không thành vô dụng mà biến thành âm mưu thủ đoạn.

Trái lại, lúc Thái âm nhập miếu, được cát hóa, lại ưa tính thu liễm vào bên trong một cách thích đáng, đây gọi là "anh hoa nội liễm" (tài năng nhưng không lộ ra). Nếu gặp các sao Thiên mã, Hỏa tinh, Thiên thương, Thiên sứ, Cô thần, Quả tú, Phỉ liêm, Phá toái, thì không phải là "anh hoa nội liễm", trái lại sẽ chủ về bên trong trống rỗng, không có thực chất, hành động phù phiếm.

Thái dương chủ về "quý", Thái âm chủ về "phú", vì vậy Thái âm gặp hóa Lộc và Lộc tồn là thành Cách "phú" (phú cách)

Thái âm có sao Lộc mà gặp Văn xương, Văn khúc, thì tính chất của các sao khác mà nó gặp nên vững vàng, như Thái dương đồng độ với Thái âm. Cho nên cổ nhân luận mệnh số, có thuyết "Thái âm Thái dương hội Xương Khúc thì xuất thế vinh hoa". Nếu thuộc tinh hệ hiếu động, trôi nổi, thì không nên gặp Xương Khúc, cổ nhân nói: "Thái âm Thiên cơ Xương Khúc đồng cung ở Dần, nam là nô bộc, nữ là xướng kỹ", là vì tinh hệ "Thái âm Thiên cơ" quá hiếu động, trôi nổi.

Thông minh và cơ trí tiểu xảo vốn cách nhau chỉ một đường ranh. Trong trường hợp hội Xương Khúc, cần phải xem xét kỹ để phân biệt.

Còn trường hợp gặp "sao lẻ" Văn xương, hay Văn khúc, nhất là trương hợp chỉ gặp một mình Văn khúc, đối với Thái âm rất là không nên, người xưa nói đây là Cách yếu kém "Văn khúc Thái âm, cửu lưu thuật sỹ".

Gặp Lộc tồn có nên đồng thời gặp thêm Thiên mã hay không? Còn phải xem Thái âm là nhập miếu hay lạc hãm, tinh hệ có tính ổn định hay hiếu động trôi nổi mà định. Ở đây hơi giống trường hợp Văn xương, Văn khúc.

Có Tả phụ, Hữu bật hội hợp, có thể làm tăng địa vị của người có Thái Âm thủ mệnh. Có Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, thì có lợi trong tranh chấp. Nhưng những phụ diệu này, chỉ có thể dựa vào việc đã có mà làm tốt đẹp thêm, luận về bản chất, thông thường Thái âm vẫn ưa gặp các tá diệu hơn, tức Xương Khúc, Lộc tồn, Thiên mã.

"Phụ diệu" chủ về "tha lực", tức là do người khác giúp sức và gặp cơ hội tốt. Đối với "tá diệu", thì chủ về "tự lực", tức là bản thân phải nỗ lực mới có thể phát huy tiềm năng. Thái âm ưa "tá diệu" hơn "phụ diệu", do đó nỗ lực Hậu thiên trở thành rất quan trọng. Cách Thái âm tọa mệnh có tốt, cũng chủ về phải trải qua phấn đấu mới có thành tựu. Khi luận đoán Đẩu Số, cần phải biết điều này.

Thái Âm giống Thái Dương, không ưa Kình dương, Đà la. Người xưa nói:

- "Thái dương, Thái âm gặp Kình Đà, chủ về phần nhiều khắc người thân"

- "Thái dương Thái âm ở cung hãm gặp các sao ác sát, chủ về vất vả bôn ba"

Nhưng Thái âm lại sợ Kình dương, Đà la hơn Thái dương, cổ nhân nói: "Thái âm gặp Kình dương, Đà la, ắt sẽ xảy ra người thì chia ly, tiền tài thì hao tán".

Đối với sự ưa hay ghét Hỏa tinh, Linh tinh, cần phải xem mức độ sáng sủa rực rỡ của Thái âm mà định.

Lúc có Địa không, Địa kiếp đồng độ, Thái âm sẽ nhiều ảo tưởng, hay bất mãn, điều này dễ thành căn nguyên của sự thất bại trong đời, đối với nữ mệnh cần đề phòng vì vậy mà ảnh hưởng đến đời sống tình cảm.

Thái âm thủ mệnh, cung Phúc đức có ảnh hưởng rất quan trọng đối với mệnh tạo. Khi luận đoán Tử Vi Đẩu Số, cung Mệnh và cung Phúc đức vốn phải xem xét cùng lúc, có điều đối với người Thái âm tọa mệnh, thì vai trò của cung Phúc đức càng quan trọng hơn.

Nếu Thái âm yên tĩnh ở cung Mệnh, mà cung Phúc đức lại biến động thay đổi, không ổn định, ví dụ như cung mệnh là tinh hệ "Thiên đồng Thái âm", Thái âm hóa Lộc, nhưng cung Phúc đức lại là tinh hệ "Thái dương Cự môn", Cự môn hóa Kị, nếu lại thêm các sao Hình - Sát, thì mệnh tạo sẽ bị bối rối khó sử về tinh thần mà ảnh hưởng đến sự yên ổn thực tế.

Nếu Thái âm phát huy anh hoa đúng như phận của nó ở cung mệnh, mà cung Phúc đức lại u ám, trôi nổi, hiếu động. Ví dụ như cung mệnh Thái âm hóa Quyền ở Tuất, ánh sáng rực rỡ phát ra, nhưng Cự môn ở cung Phúc đức lại có Thiên cơ hóa Kị đối củng, nếu lại gặp các sao hình - sát, về tinh thần sẽ nhiều mặt u ám, mà còn hay làm chuyện thị phi sau lưng, nhiều cơ tâm, vì vậy mà ảnh hưởng đến Thái âm ở cung Mệnh. Qua hai thí dụ này, có thể thấy cung Phúc đức của Thái âm thủ mệnh mà có Cự môn thì nên chú ý.

Cổ nhân cho rằng, đời người không nên thuộc Thái Âm tọa mệnh, Thái âm lạc hãm thì càng không nên. Giống như người Thái dương tọa mệnh sinh vào ban đêm, cũng có hai điều không tốt như sau:

(1)- Bất lợi về lục thân phái Nữ, nam mệnh thì bất lợi về Mẹ, Vợ, con gái, nữ mệnh thì bất lợi về Mẹ và trưởng nữ. Bất lợi ở đây không nhất định là tử vong, có thể chỉ thuộc tình cảm không dung hợp, hoặc lục thân gặp nhiều nạn tai, bệnh tật.

(2)- Bản thân mệnh tạo cũng gặp nhiều nạn tai bệnh tật, nhất là bệnh ở thận và các cơ năng trọng yếu. Gặp Đà la thì sinh bệnh tật ở mắt, đặc biệt tinh hệ "Thái âm Thiên đồng" thì càng nghiệm.

Kết cấu tinh hệ Thái Âm ở 12 cung, ắt sẽ đồng độ hoặc đối nhau với Thiên đồng, Thái dương, Thiên cơ. Thái âm ở 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp "Thái âm Thiên đồng". Thái âm ở 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tinh hệ "Thái âm Thái dương". Thái âm ở 4 cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp tinh hệ "Thái âm Thiên cơ". Thông thường trong các tình hình này, khá ưa "Thái âm Thiên đồng" của cung Tý, ưa Thái âm độc tọa của hai cung Tuất hoặc Hợi, hơi ngại Thái âm độc tọa ở cung Tị, "Thái âm Thiên đồng" của cung Ngọ. Những trường hợp kể trên, sẽ thuật rõ ở chương: "Luận về sáu mươi tinh hệ".

Thái âm biệt luận

Thái Âm lạc hãm cũng không đáng sợ

Thái âm tức là mặt Trăng. Trong Tử vi Đẩu Số, Thái âm và Thái dương là một cặp "sao đôi" rất hữu lực của Trung Thiên, không thuộc Nam Đẩu mà cũng không thuộc Bắc Đẩu.

Hễ là "sao đôi" thì đều có tính chất vừa tương đồng lại vừa tương dị. Thái âm chủ về "phú", Thái dương chủ về "quý", Thái âm chủ về Nữ, Thái dương chủ về Nam, Thái âm chủ về nhu, Thái dương chủ về cương, Thái âm chủ về thủy, Thái dương chủ về hỏa.

Cổ nhân cho rằng, Thái Âm có sự biến hóa rất lớn. Ở các cung Hợi Tý Sửu là nhập miếu, về cơ bản là mệnh tốt, ở các cung Tị Ngọ Mùi là lạc hãm, sẽ mang lại tai hại rất lớn. Cổ nhân nói: "Thái âm lạc hãm thì tổn thương vợ và mẹ", tức là bất lợi đối với người thân phái nữ, nếu là nữ mệnh thì nói: "là xướng kỹ tì thiếp, hình phu khắc tử". Thuyết này cổ nhân quá võ đoán. Đẩu Sô không đơn giản như vậy, Thái âm dù lạc hãm thì cũng phải gặp tứ sát tinh và Địa không Địa kiếp, hơn nữa còn phải có Sát tinh đồng cung, thêm vào đó cung Phúc đức và cung Thân cũng không tốt, thì mới xảy ra sự cố không vui vẻ, chứ chẳng phải như cổ nhân đã nói.

Ta lấy Thái âm thủ mệnh cư Ngọ làm thí dụ: Thái âm ở cung Ngọ là lạc hãm, đồng cung với Thiên đồng cũng lạc hãm. Chiểu theo thuyết của cổ nhân là "hóa cát thì thành hung, gặp sát tinh thì dâm tà", tức là nói nếu Thái âm và Thiên đồng mà hóa Lộc hóa Quyền hay hóa Khoa, thì ngược lại sẽ thành hung Cục, nếu còn gặp Hung - Sát tinh thì không còn gì để nói.

Nhưng trên thực tế thì không phải như vậy, có thể nói chẳng có chỗ nào đúng. Vương Đình Chi tôi từng đoán mệnh cho một nam một nữ, đều là người mệnh có "Thiên Đồng Thái Âm" thủ cung Ngọ, nam là một nhân vật quản lý cấp cao trong giới làm ăn kinh doanh, nữ là một chuyên gia trọng yếu của Cty quan hệ công cộng nổi tiếng. Nguyên nhân chủ yếu là vì bối cảnh khác nhau. Phàm là người có "Thiên đồng Thái âm" thủ mệnh ở cung Ngọ, đều có tính cách hướng nội, rất thích hợp với công tác nội vụ, đồng thời có tính kế hoạch rất mạnh, nhưng lại hay tưởng tượng. Tính cách này, ở xã hội cổ đại rất khó phát huy, còn ở xã hội hiện đại, thường có thể óc tưởng tượng mà sinh linh cảm, sau đó biến linh cảm thành kế hoạch. Hơn nữa các Cty hiện đại đều có một bộ phận vạch kế hoạch, nên người có kết cấu cung mệnh dạng này có thể phát huy sở trường của họ.

Thái Âm thủ mệnh, cần phải xem kèm cung Phúc đức

Cổ nhân luận đoán các tình hình Thái âm tọa thủ cung mệnh, chỉ căn cứ bối cảnh xã hội thời cổ đại, cho nên nhiều tư liệu ngày nay chỉ có thể dùng để tham khảo.

Ví dụ Thái Âm thủ mệnh ở cung Tuất, ánh sáng rực rỡ (thừa vượng), nhưng Phúc đức lại có Cự Môn ở cung Tý, cung Phúc đức chủ về tình trạng hưởng thụ tinh thần, Cự Môn tọa thủ cung Tý, ắt sẽ đối xung với Thiên Cơ, một khi gặp Sát tinh, sẽ dễ dẫn đến tranh chấp, khiến thân tâm đều bất an, làm sao "một đời vui vẻ"? Đây là do bối cảnh xã hội khác nhau gây nên sự khác biệt.

Lại như cổ quyết nói: "Thái âm ở cung Tý, thi cử đỗ đạt, làm quan cao, là người trung thành và ngay thẳng". Hễ Thái âm ở cung Tý, ắt sẽ đồng cung với Thiên đồng, cổ nhân xem Thiên đồng là "sao Phúc", khó tránh cổ nhân đã đánh giá quá cao. Nhưng phúc khí của Thiên đồng là phải nỗ lực mới có được, do đó cung Phúc đức càng quan trọng. Lúc Thái âm thủ mệnh ở cung Tý, cung Phúc nhất định là tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ cung Dần, nếu gặp sát tinh, chủ về tinh thần bị rắc rối khó xử, đồng thời vào thời điểm tranh chấp, dễ dùng thủ đoạn không chính đáng. Tình hình này nhất định sẽ ảnh hưởng đến sức kiên nhẫn và sự nỗ lực của Thiên đồng. Do đó cũng cần phải đánh giá lại luận đoán "Thái âm ở cung Tý, thi cử đỗ đạt, làm quan cao, là người trung thành và ngay thẳng".

Ở xã hội cổ đại mọi việc còn đơn thuần, dù Thái dương và Cự môn thủ cung Phúc đức có gặp sát tinh, cũng chủ về người này cần phải động não khi "nói năng" mà thôi, cho nên mới có thể thành "người trung thành và ngay thẳng". Xã hội ngày nay, áp lực cạnh tranh rất lớn, bức bác người có "Thái dương Cự môn" gặp sát tinh, thủ cung Phúc, phải "xuất chiêu quyền biến", làm sao "trung thành và ngay thẳng"? Cho nên, khi luận về Mệnh của người có "Thái âm thủ mệnh", cần phải xem kèm cung Phúc đức để đánh giá.

Tả hữu đồng cung cách

"Tả hữu đồng cung cách" tức là hai Phụ diệu Tử Phụ và Hữu Bật cùng tọa thủ ở cung Mệnh.

Cổ ca nói:

Mệnh cung Phụ Bật hữu căn nguyên

Thiên địa thanh minh vạn tượng tiên

Đức nghiệp nguy nhiên nhân ngưỡng kính

Danh tuyên kim điện ngọc giai tiền.

Dịch nghĩa:

Cung mệnh Phụ Bật là gốc rễ

Trời đất sáng sủa vạn vật tươi

Đức nghiệp lớn lao người kính ngưỡng

Tên được tuyên truyền trước điện ngọc.

Cách này là dựa vào thuyết của người đời Nguyên, như sau: "Tử phụ Hữu bật suốt đời nhiều phúc" (Tử phụ Hữu bật, chung thân phúc hậu) ; "Tả Hữu đồng cung, khoác áo lụa tía" (Tả Hữu đồng cung, phi la y tử). Bởi vì cổ nhân cho rằng, Tử Phụ và Hữu Bật là phụ tá của Hoàng đế, do đó đương nhiên tuyên danh ở điện vàng, thân đứng trước thêm ngọc.

Nhưng, phàm người sinh tháng 4, thì Tả Phụ và Hữu Bật nhất định đồng độ ở cung Mùi ; người sinh tháng 10 thì Tả Phụ và Hữu Bật nhất định đồng độ ở cung Sửu, như vậy người sinh tháng 4 và tháng 10 nhất định làm quan hết sao? Nếu vậy, chẳng phải là có quá nhiều người làm đại quan?

Thực ra thì không phải vậy, Tử phụ Hữu bật tuy trung hậu, tinh thông chữ nghĩa, nhưng dựa vào tính chất của Phụ tá mà nói, bất quá chỉ là mạng thư ký trợ lý mà thôi. Bởi vì trong một cơ cấu, Tổng Giám đốc giống như Vua, tính chất của Tả phụ Hữu bật chỉ là trợ thủ cơ yếu.

Cổ nhân nói "Tả Hữu đồng cung cách" sợ Hỏa tinh và Hóa Kị ở tam phương xung phá, như vậy là phá Cách. Đây là vì xã hội cổ đại vốn không có "thư ký trợ lý", ngày nay thì khác, đây giống như nhân viên trợ lý hay phụ tá. Nhưng điều quan trọng nhất vẫn là hội ngộ với Chính diệu.

Nếu Chính diệu (nên sửa lại là Phụ diệu, tức là Tả Hữu) đồng cung với Liêm trinh, thêm Kình dương, lại gặp Hóa Kị, thì người này thậm chí có thể là kẻ lường gạt, người trong xã hội đen.

Tả Phụ thuộc dương thổ, Hữu Bật thuộc dương thủy.

Tính chất cơ bản của chúng là trợ lực đến từ những người ngang vai hoặc vãn bối: như đồng sự, người dưới quyền, bạn hợp tác, bạn học, môn sinh đệ tử. Khác với tính chất của Thiên khôi và Thiên việt chủ về trợ lực đến từ bậc trưởng bối, hoặc cấp chủ quản.

Tả Phụ và Hữu Bật cũng ưa hình thức "sao đôi" hội nhập một cung, nhất là ở cung viên lục thân. Nếu là "sao lẻ" thì chủ về cha con dòng thứ, hoặc cha mẹ "lưỡng trùng", anh em khác dòng, con cái khác dòng, hai lần hôn nhân, nhưng phải có các sao "đào hoa", hoặc tứ sát tinh hội hợp mới đúng.

Tả Phụ mạnh hơn Hữu Bật. Cho nên Hữu bật ở cung mệnh hội hợp với Tả phụ, thường thường không bằng Tả phụ ở cung mệnh hội hợp với Hữu bật, trợ lực kém hơn.

Tả Phụ và Hữu bật đều chủ về "lạc quan", "khoan dung", "đôn hậu". Cho nên dù chính diệu của cung mệnh có sắc thái lạnh lùng, hà khắc, hoặc bi quan tiêu cực, nếu có Tả Hữu hội hợp, thì cũng giảm nhẹ nhược điểm này.

Tả phụ và Hữu bật rất ưa giáp các chủ tinh, như Tử vi, Thiên phủ, Thái dương, Thái âm. Hội hợp ở tam phương cũng Cát, có thể phát huy trợ lực của nó.

Tả phụ và Hữu bật rất ghét như Thiên đồng, Thiên lương, Thiên cơ, Cự môn, Vũ khúc. Với Thiên lương thì không kiềm chế, với Thiên đồng thì hưởng thụ, với Thiên cơ thì giỏi quyền biến, với Cự môn thì thị phi, với Vũ khúc thì dức khoát, những tính chất này đều không hợp với bản chất của Tả Phụ và Hữu Bật. Tuy nhờ hội hợp với Tả Hữu sẽ giảm nhẹ nhược điểm của chúng, nhưng trợ lực cũng vì vậy mà yếu đi.

Lúc tính chất của tinh hệ xung đột quá nặng với bản chất "chất phác", "khoan dung", "đôn hậu" của Tả Hữu, thì sẽ chủ về nội tâm xảy ra mâu thuẫn xung đột, sẽ nổi lên sóng gió, trắc trở, và các áp lực tình huống khó xử trong cuộc đời.

Tả phụ và Hữu bật chủ về trợ lực "tiên thiên", như dễ kết giao bạn bè, dễ được người dưới quyền giúp sức, mà không cần có ý đi tìm. Nhưng nếu chỉ có "sao lẻ" hội hợp hoặc đồng độ, thì dù có nhiều người dưới quyền cũng chủ về thiếu trợ lực.

Lợi dụng tính chất này, nhiều lúc có thể giúp cho việc luận giải cung mệnh. Như Thất sát an mệnh ở cung Dần hoặc cung Thân, thành cách "Thất sát triều đẩu", "Thất sát ngưỡng đẩu", nếu gặp Tả phụ Hữu bật, sẽ chủ về có nhiều người dưới quyền, mà còn có tài lãnh đạo. Nhưng nếu chỉ gặp "sao lẻ" hoặc là Tả phụ hoặc là Hữu bật, thì có thể chỉ là người quản lý đại diện.

Cung Phu Thê gặp Tả Hữu, cần phải định đó là trợ lực cho hôn nhân, hay là có người thứ ba xen vào. Tình hình thông thường là, gặp "sao lẻ" (nhất là Hữu bật) thì chủ về có người thứ ba.

Nếu gặp Hỏa tinh, Kình dương, thì đoán trong hôn nhân có xảy ra thay đổi, hoặc trước hay sau hôn nhân có tình huống sa chân lỡ bước. Nếu chính diệu là các tinh hệ: "Liêm trinh lạc hãm", "Thiên lương Thiên đồng", "Thiên cơ Cự môn", "Vũ khúc", thì lại chủ về "bi kịch tình yêu", gặp nhiều sóng gió, trắc trở, hay nhiều nỗi khổ tâm đau khổ trong lòng. Nếu lại gặp Văn xương Văn khúc thì cũng chủ về "bi kịch tình yêu", nhưng có thi vị lãng mạn.

Nếu cung Mệnh và cung Phu Thê chia ra có Tả phụ và Hữu bật, mà còn gặp sát tinh, thì hôn nhân không tốt đẹp, phần nhiều thành oán hận nhau. Nếu cung Thân là cung Phu Thê, không gặp sát tinh, sẽ chủ về được vợ trợ giúp.

Cung Huynh đệ gặp Tả Hữu, có lúc chủ về số anh em tăng lên. Như tinh hệ "Tử vi Tham lang" đồng độ, chủ về có 3 anh em, khi gặp thêm Tả Hữu thì sẽ chủ về 5 người, nếu lại có thêm Thiên khôi Thiên việt là 7 người.

Muốn biết cụ thể tăng hay giảm, cần phải xem Tả phụ Hữu bật là miếu, bình, hãm, như thế nào để điều tiết, khi nhập miếu thì tăng lên nhiều, khi lạc hãm thì giảm bớt nhiều.

Cung Tử Tức chỉ gặp Tả phụ hoặc Hữu bật, chủ về sinh gái trước hay sinh trai trước. Tả phụ thuộc dương, tính chất rõ ràng.

Cung Tử tức gặp Tả Hữu, rất khó định là được con cái hay người dưới quyền trợ lực, mà chỉ chủ về có nhiều con cái. Trong các tình hình thông thường, lấy tinh hệ chính diệu của cung viên làm chuẩn. Như cung Tử tức có tinh hệ "Thiên cơ Cự môn", phần nhiều chỉ chủ về có nhiều thuộc hạ, nhưng lại thường hay thay đổi người. Xem con cái thì Tả Hữu sẽ chủ về tăng nhiều con, mà không chủ về trợ lực, vì vậy mà bản thân tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" sẽ không có trợ lực.

Tả Phụ và Hữu Bật có Hỏa tinh, Kình dương hội hợp, thì sẽ tiêu trừ khuyết điểm của nhau, cũng giống như lửa nóng luyện kim để thành vật dụng. Nhưng nếu chỉ gặp "sao lẻ" một là Tả phụ hoặc một là Hữu bật, thì âm dương mất điều hòa, cũng giống như lò nấu vàng bị vỡ, xảy ra trở ngại.

Linh tinh và Đà la cung hội hợp với Tả Hữu, phần khuyết điểm cũng có thể được tiêu trừ, mà trở nên đắc dụng. Nhưng nếu chỉ gặp "sao lẻ" như Hữu bật, thì quá âm nhu, âm dương mất điều hòa, sẽ khiến đời người nhiều sóng gió trắc trở.

Dưới đây là một số tính chất của kết cấu Tả Phụ và Hữu Bật:

1)- Tả phụ và Hữu bật giáp hai cung Sửu hoặc Mùi. Tinh hệ chính diệu được giáp cung nhờ vậy mà có trợ lực khá lớn. Dù các sao sát - kị được giáp cung, cũng sẽ nhuyễn hóa các nhân tố bất lợi thành nhân tố có lợi. Như tinh hệ "Vũ khúc tham lang" ở cung Sửu, Tham lang hóa Kị, chủ về dễ dẫn đến tranh đoạt lợi ích, nhưng khi có Tả phụ hữu bật giáp cung, thì có thể nhuyễn hóa thành lợi ích được chia mỏng ra cho hai bên, tính chất khác nhau rất lớn.

Các tinh hệ như "Tử vi Tham lang", Thiên phủ, "Thái âm Thái dương", rất ưa Tử phụ và Hữu bật giáp cung, chủ về tăng cao địa vị xã hội, cũng làm tăng sự ổn định của đời người. Rất ưa có Long trì, Phượng các đồng thời giáp cung, sức mạnh càng tăng, còn chủ về là người có tài nghệ.

2)- Tả phụ và Hữu bật cùng đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, tinh hệ chính diệu cũng được tăng mạnh sự trợ lực.

3)- Tả phụ và Hữu bật vây chiếu ở hai cung Thìn hoặc Tuất, cũng thành kết cấu có trợ lực khá lớn. Trong các tình hình thông thường, các sao ở cung Thìn hoặc Tuất là rơi vào "thiên la địa võng", nhưng có Tả phụ và Hữu bật vậy chiếu, sẽ chủ về có trợ lực thúc đảy thành đột phá. Nếu có thêm Long trì Phương các vây chiếu, cũng chủ về là người có tài nghệ, hoặc tăng cao địa vị xã hội.

4)- Khi chỉ gặp Tả phụ, hoặc chỉ gặp Hữu bật, nếu ở cung mệnh lại là tinh hệ vô chính diệu, "mượn sao an cung" là các tinh hệ "Thiên đồng Cự môn", "Thái dương Thiên lương", "Thiên cơ Thái âm", "Thiên cơ Cự môn", "Thiên đồng Thái âm", sẽ chủ về còn nhỏ đã chia ly với gia đình, xa cha mẹ, làm con nuôi của người khác, hoặc là con dòng thứ.

Nếu Liêm trinh hóa Kị, có Kình dương đồng độ, mà chỉ gặp Tả phụ, hoặc chỉ gặp Hữu bật, sẽ chủ về có khuynh hướng đạo tặc, bất kể giầu có hay nghèo nàn, đều như vậy.

Tử Phủ đồng cung cách

"Tử Phủ đồng cung cách" tức an mệnh ở cung Dần hoặc Thân, trong cung có Tử Vi cà Thiên Phủ đồng tọa.

Cổ ca nói:

Đồng cung Tử Phủ quý sinh nhân

Thiên địa thanh minh vạn tượng tân

Hỷ ngộ Dần Thân đồng đắc địa

Thanh danh lỗi lạc động kiền khôn.

Dịch nghĩa:

Tử Phủ đồng cung sinh quý nhân

Trời đất tươi sáng vạn vật tân

Ưa gặp Dần Thân cùng đắc địa

Tiếng tăm lỗi lạc động khôn kiền.

Đây là cách rất đáng thảo luận. Tử vi là chủ tinh Bắc Đẩu, hơn nữa Tử vi còn chủ về "quý", Thiên phủ chủ về "phú", xem ra đây là một kết cấu hoàn mỹ, không tỳ vết, hai chủ tinh tự thành Cách tốt.

Có biết vấn đề lại ở chỗ "hai chủ tinh đồng cung"! Dùng câu "một núi không thể có hai cọp" để hình dung thì dường như hơi quá đáng, nhưng tính chất mâu thuẫn giữa Tử vi và Thiên phủ lại có thể ảnh hưởng đến cảnh ngộ của cả một đời người.

Tử vi sở trường về sáng tạo, nhưng Thiên phủ lại có khuynh hướng bảo thủ. Tử vi có thể phát triển sự nghiệp mới, nhưng Thiên phủ chỉ giỏi về thủ thành, đây là những tính cách mâu thuẫn của hai sao. Thêm vào đó, tài lãnh đạo của Tử vi có khuynh hướng về uy tín, còn Thiên phủ chỉ khư khư giữ kiểu mẫu cũ để điều hòa. Vì vậy, về phương diện tài năng lãnh đạo cũng bị hai tính chất này gây cản trở, quấy rối nhau, không thể tạo uy tín, mà cũng không thể điều hòa người dưới quyền.

Cổ nhân đánh giá Cách này quá cao, do đương thời xã hội quan liêu, có chút danh vọng địa vị, đối với chính sự có thể vờ vịt làm cho qua, còn sợ mất chức. Còn xã hội ngày nay thì chú trọng đến trình độ và tài năng sáng tạo thực tế, do đó cách "Tử Phủ đồng cung" chỉ có thể đảm nhiệm vai trò chủ quản một bộ phận nhỏ mà thôi.

 Đọc thêm về Tử Phủ đồng cung cách

------------------------------------------------

LUẬN VỀ SÁU MƯƠI TINH HỆ

"Tử vi Thiên phủ" ở hai cung Dần hoặc Thân

"Tử vi Thiên phủ đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, đối cung là Thất sát, cung tam hợp là Vũ khúc độc tọa, và "Liêm trinh Thiên tướng".

Muốn luận đoán bản tính của nhóm sao "Tử vi Thiên phủ" này, cần chú ý xem chúng là chủ động hay bị động. "Tử vi Thiên phủ" thuộc về tính chủ động thì "công" hay "thủ" đều được, nếu mang sắc thái bị động, thì dễ có phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ.

Lấy bản thân "Tử vi Thiên phủ" để nói, thực ra tinh hệ này đã mang tinh chất mâu thuẫn. Tử vi giỏi khai sáng, Thiên phủ giỏi phòng thủ, hai sao ở trong một hệ, nếu tính chất quân bình, đương nhiên vừa có thể công và vừa có thể thủ. Nhưng nếu tính chất thiên nặng một bên, như thiên về Tử vi, thì sẽ bị Thiên phủ gây lụy, lúc đó cần tiến mà không giám tiến. Nếu thiên về Thiên phủ, thì sẽ bị Tử vi gây ảnh hưởng, cần lui lại không chịu lui, lúc đó mọi việc sẽ rơi vào thế bị động, chỉ có thể dùng toàn lực để ứng phó với hoàn cảnh khách quan.

Thất sát và Vũ khúc ở "tam phương tứ chính" đều có thiên hướng nặng tính chất của Tử vi, lúc nào cũng tranh thủ chủ động. Đặc biệt là khi Vũ khúc hóa Khoa, dễ phối hợp với Thiên phủ, tuy chủ động nhưng không khiến sự mẫu thuẫn của hai sao "Tử vi Thiên phủ" quá nặng nề, chỉ cần hệ sao "Liêm trinh Thiên tướng" không bị Hỏa tinh Linh tinh xâm phạm quấy nhiễu, về cơ bản có thể coi "Tử vi Thiên phủ" thuộc loại có tính chất quân bình.

Nếu Vũ khúc độc tọa hóa làm sao Quyền, khiến tăng sắc thái chủ động của Tử vi, tuy vậy tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" chưa chắc đã mất quân bình, nhưng sóng gió trắc trở trong đời người, thì vẫn sẽ lớn hơn lúc Vũ khúc hóa Khoa. Bất kể là nam hay nữ mệnh, trong khoảng trước sau khoảng 30 tuổi, phần nhiều sẽ phải trải qua một lần bị trở ngại, là trở ngại về tình cảm hay trở ngại về vật chất, thì cần phải xem xét tổ hợp sao thực tế của đại hạn mà định tính chất cụ thể.

Nếu Vũ khúc hóa Lộc, tính chất đồng khí với Thiên phủ, nhưng cũng lợi cho Tử vi có tính khai sáng, cho nên về cơ bản thuộc loại công hay thủ đều được. Có điều cần phải có Lộc tồn đồng thời bay vào cung độ của "Tử vi Thiên phủ", mới có thể hóa giải khí "cô độc và hình khắc" của Vũ khúc. Vận không có Lộc tồn, thì mệnh tạo thủa nhỏ khá gian khổ.

Nếu tính chất cơ bản của tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" thiên về Thiên phủ, lúc tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" thành cách "Hình Kị giáp ấn", sẽ làm mạnh thêm tính bảo thủ của Thiên phủ. Sau trung niên, sự nghiệp đã có sơ sở, thì không nên nghĩ đến việc thay đổi nữa, nếu không sẽ gây ra thất bại. Hoặc sau trung niên bỗng nảy sinh tình huống rắc rối khó sử về tình cảm, sẽ bất lợi về đời sống vợ chồng.

Lúc "Liêm trinh Thiên tướng" thành cách "Tài Ấm giáp ấn", sức phòng thủ càng mạnh, đồng thời sẽ xảy ra tình trạng thay đổi tình cảm, là vì dùng tiền bạc để đo lường. Trong lúc "Tử vi Thiên phủ" đang bị sát tinh quấy nhiễu gây khó khăn, nếu không an phận giữ mình, về phương diện tình cảm hay vạt chất sẽ đều có thể bị trở ngại. Nhất là người thủa nhỏ quá được nuông chiều, sinh hoạt vật chất quá dư giả, thì trở ngại càng lớn.

"Tử vi Thiên phủ" thủ cung lục thân, đều dễ có những khuyết điểm đáng tiếc, như có hai mẹ, hai lần hôn nhân, nếu thủ cung Nô thì cũng mang ý vị thường hay thay đổi bạn. Đây là vì tính chất của Tử vi và Thiên phủ khó có trạng thái cân bằng tuyệt đối. Một khi mất quân bình, mà còn hơi gặp các sao sát - hình, thì dễ biến thành tính chất không lành. Tình hình cụ thể xin đọc lại ở phần 1.

Lúc "Tử vi Thiên phủ" đến cung hạn Thiên cơ độc tọa, sẽ không chủ về biến động thay đổi trong thực tế, mà là chủ về biến động thay đổi trong tư tưởng. Nếu tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" có tính chất mất quân bình, đến cung hạn này, thì tính chất của Thiên cơ lại làm mạnh thêm sắc thái mất quân bình, dễ biến thành thâm căn cố đế, có thể ảnh hưởng đến hậu vận.

Ví dụ như nữ mệnh "Tử vi Thiên phủ" của nguyên cục hội hợp với Liên trinh hóa Kị (can Đinh), do đó Thiên phủ chịu ảnh hưởng, dễ trở thành thờ ơ, tiêu cực. Lúc "Tử vi Thiên phủ đến cung hạn Thiên cơ độc tọa, càng dễ rời vào tình trạng chọn lựa kiểu tạm bợ, hoặc nhìn thấy mọi việc có vẻ có vẻ như đang thuận lợi toại ý, dù có ý thay đổi hiện thực thì cũng thiếu dũng khí thay đổi trong thực tế. Sau 10 năm hết vận hạn này, lúc đến vận hạn sau, càng mất hùng tâm trong sự nghiệp. Nhiều lúc thấy ngược lại, một số nữ mệnh, đại hạn có Lộc Quyền Khoa hội hợp, bản thân lại là chủ gia đình, là do nguyên nhân này.

Một thí dụ khác, nam mệnh "Tử vi Thiên phủ" của nguyên cục có Kình dương Đà la chiếu xạ, đặc biệt lúc Vũ khúc "cô kị" đồng độ với Đà la (can Nhâm Lộc tại Hợi), hoặc tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" thuộc loại "không ưa kích thích" đồng độ với Kình dương (can Bính Mậu), khi "Tử vi Thiên phủ" đến hạn Thiên cơ độc tọa, sẽ thường dễ bị sợ gian nan, mà chọn sai hướng đi trong cuộc đời.

Nếu đại hạn là Thiên cơ hóa Lộc (can Ất), thì thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động. Nếu Thiên cơ hóa Khoa thì trái lại, sẽ thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính bị động. Bởi vì gặp sao Lộc là lợi về tranh thủ, gặp sao Khoa thì nên giữ gìn danh dự.

Cung hạn Phá quân hóa Lộc hay hóa Quyền, đều có lợi đối với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động, nhưng không nên đặt ra lý tưởng quá cao, một khi gặp cơ hội tốt thì từ đó vạn tốt sẽ đến liên tiếp, nếu không, ắt sẽ vì lý tưởng quá cao mà bị trở ngại.

Nếu cung hạn Phá quân có Kình dương Đà la hội chiếu, thì trái lại, thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính bị động, nên từ từ khoan tiến tới, để xoay chuyển dần thế xấu. Nếu bị người khác ảnh hưởng, gấp gáp thay đổi sẽ thất bại. Vì vậy lúc đến cung hạn này, phải thận trọng trong việc trọn người hợp tác làm ăn.

Cung hạn Thái dương nhập miếu, thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động, lạc hãm thì nên là "Tử vi Thiên phủ" có tính bị động.

Cung hạn Thái dương nhập miếu, thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động, cũng chủ về "danh" lớn hơn "lợi", hoặc nhờ danh tiếng mà có tài lộc. Nếu Thái dương hóa Kị, thì nên thận trọng trong việc đầu tư. Nếu Thái dương hóa làm sao Quyền hay sao Lộc, thì "Tử vi Thiên phủ" thuộc tính chất nào cũng đều là đại hạn hoặc lưu Niên thuận lợi toại ý.

Cung hạn Vũ khúc độc tọa, thông thường lợi cho "Tử vi Thiên phủ có tính chủ động đến. Có điều Vũ khúc của nguyên cục hóa Kị (can Nhâm), thì Tử vi đồng thời cũng hóa Quyền, như vậy tính chủ động của "Tử vi Thiên phủ" quá mạnh, kết cấu dạng này chỉ có lợi đối với nam mệnh, mà bất lợi đối với nữ mệnh, nữ mệnh sẽ làm tăng tính chất cô độc và hình khắc, mà còn quá chủ động. Còn nam mệnh lúc đến cung hạn Vũ khúc hóa Kị, sẽ không thay đổi tình trạng lực bất tòng tâm, tắc vẫn có thể duy trì tình trạng đã đạt được.

Cung hạn Thiên đồng độc tọa, đối với "Tử vi Thiên phủ" là thuộc loại trung tính. Bất kể Tử Phủ là chủ động hay bị động, Thiên đồng cũng đều nên cát hóa thành Khoa Quyền Lộc (vì Thiên đồng không có Hóa Kị). Nếu gặp các sao Hình - Kị, nhất là Cự môn hóa Kị đến gặp Thiên đồng, thì Tử Phủ dễ bị tình trạng tự mình tìm sự vất vả, tự làm mình rơi vào tình huống rắc rối khó xử. Lưu niên mà gặp nó (can Đinh), thì đây là năm "lòng dạ thay đổi", gặp thêm các sao đào hoa thì càng nghiệm. Nếu các sao Sát - Hình trùng trùng, thì vì "thay lòng đổi dạ" mà ảnh hưởng đến tiền bạc và sự nghiệp. Nếu lại gặp Văn khúc khóa Kị đến hội (can Kỷ), thì đây là "đào hoa kiếp" thuộc loại nghiêm trọng.

Cung hạn Thất sát độc tọa, không nhất định sẽ xảy ra thay đổi, cần phải gặp Lộc tồn và Thiên mã giao hội, mới chủ về vì hoàn cảnh khách quan nên buộc phải thay đổi. Vì vậy Tử Phủ có tính bị động mà đến cung hạn này, cần phải có Lộc tồn, Thất sát, Thiên mã hội hợp, mới chủ về có biên động thay đổi. Biến động thay đổi tốt hay xấu, phải xem các sao hội hợp với đại hạn hoặc lưu niên mà định. Rất ưa gặp Phá quân hóa Quyền (can Quý), đương nhiên đây sẽ là năm mang tính khai sáng, có thể tranh thủ chủ động.

Tử Phủ thông thường không ưa đến cung hạn Thiên lương tọa thủ, bởi vì Thiên lương không có tính chất lãnh đạo. Nếu đại hạn mà gặp nó, thì không có trở ngại gì lớn, chỉ chủ về thoái lui phòng thủ, lúc này đã là vận "già" của tinh hệ "Tử vi Thiên phủ". Nếu lưu niên mà đến cung hạn Thiên lương tọa thủ, có các sao Sát - Kị đến hội, phần nhiều thấy tình thế có vẻ như đang thăng tiến, nhưng thực sự thì lại đang thụt lùi. Nhưng lúc Thái dương nhập miếu, mà còn được cát hóa, thì lại có lợi về cạnh tranh, không phải là điềm ứng thụt lùi.

Cung hạn Liêm Tướng không nên có sao Hình - Kị đến, Tử Phủ có tính chủ động hay bị động mà đến cung hạn này, đều sẽ gặp tình huống đình trệ, bị kiềm chế. Nếu "Tài Ấm" đến giáp cung, thì chỉ nên lùi về địa vị "phó", dù trên thực tế đảm nhiệm công tác lãnh đạo, thì cũng không nên nhận chức danh lãnh đạo.

Gặp Liêm trinh hóa Lộc, cần chú ý không được xuất đầu lộ diện, phô trương tài năng.

Vận hạn Cự môn độc tọa, chỉ cần không hóa Kị, lại có Thái dương vượng cũng chiếu, thì Tử Phủ thuộc tính chất nào đến cũng đều có lợi. Nếu gặp Khoa Quyền Lộc, thì đây sẽ là năm được xứ khác (hay người ngoại quốc) đề bạt, hoặc lợi về hợp tác với người nước ngoài. Nữ mệnh thì nên đề phòng rắc rối về tình cảm. Nam mệnh nếu cung Phúc đức gặp đào hoa, thì dễ thay đổi tình cảm, có người tình khác.

Cung hạn Tham lang độc tọa, nếu hóa làm sao Kị (can Quý), rất có lợi cho Tử Phủ có tính chủ động đến, lúc này biến thành vận trình theo đuổi lý tưởng. Nếu là Tử Phủ có tính bị động đến hạn này, trái lại, sẽ đánh mất cơ hội.

Nếu đại hạn hoặc lưu niên gặp Tham lang, Hỏa tinh, Hóa Lộc, mà Tử Phủ có tính bị động đến sẽ dễ bị thất chí, một khi vào vận tốt sẽ không còn ý đồ tiến thủ, cuối cùng dẫn đến thất bại.

Tử Phủ nên đến cung hạn Thái âm nhập miếu, nếu Thái âm lạc hãm thì không nên. Có lợi đối với Tử Phủ có tính bị động, Tử Phủ có tính chủ động thì hơi kém hơn. Có điều, nếu Thái âm hóa Kị, thì Tử Phủ mà đến đại hạn hoặc lưu niên này, dễ vì say sưa đắc ý, quên mất tình hình thực tế mà đầu tư, dẫn đến thất bại. Thái âm phải hóa làm sao Lộc, sao Quyền, thì mới có thể phát triển lớn được.

Đến đây, đơn cử một ví dụ Tử Phủ ở cung Phu thê cư Thân, cung mệnh là Tham lang cư Tuất, người sinh năm Kỷ, thì Tham lang hóa Quyền đối nhau với Vũ khúc hóa Lộc. Tử Phủ hội hợp với Vũ khúc hóa Lộc mà không có Lộc tồn điều hòa, nên Vũ khúc mang tính "cô độc và hình khắc", các sao của cung mệnh lại mang tính tích cực. Đến đại vận Đinh Sửu, cung Phu thê của đại vận là Cự môn độc tọa hóa Kị ở cung Hợi, còn năm Bính Dần thì cung Phu thê của lưu niên là Liêm Tướng, hóa Kị, Kình dương Đà la cùng chiếu, lại gặp Linh tinh, chủ về người chồng bị mắc bệnh gan rất nặng vào năm đó.

 Phủ Tướng triều viên cách

"Phủ Tướng triều viên cách" tức là hai sao Thiên Phủ và Thiên Tướng hội chiếu cung mệnh. Thêm vào đó, cung mệnh cư Ngọ, Thiên phủ cư Tuất, Thiên tướng cư Dần, là lấy kết cấu "Phủ Tướng triều viên cách".

Cổ ca nói:

Mệnh viên phủ tướng đắc câu phùng

Vô sát thân đương thị thánh quân

Phú quý song toàn nhân cảnh ngưỡng

Nguy nguy hiển nghiệp mãn kiền khôn.

Dịch nghĩa:

Cung mệnh gặp đủ sao Phủ Tướng

Không có sát tinh Thân hầu vua

Phú quý song toàn người ngưỡng mộ

Đức nghiệp lớn lao khắp đất trời.

Thiên phủ là chủ tinh Nam Đẩu, cổ nhân gọi là "Ti mệnh thượng tướng" (Thượng tướng cai quản mệnh lệnh), "Trấn quốc chi tinh" (Sao chấn quốc), chuyên giữ kho tiền.

Thiên tướng là "ấn tinh" (sao ấn), người xưa gọi là "Ti tước chi tinh" (Sao cai quản chức tước).

Cho nên Thiên tướng và Thiên Phủ trở thành một cặp "Thần cai quản tước lộc". Trong Đẩu Số, có một số sao thường phải gộp thành cặp để xem, gọi là "sao đôi", "Phủ Tướng" là một cặp sao quan trọng trong số đó. Người xưa nói: "phùng Phủ khán Tướng" (gặp Thiên phủ phải xem Thiên tướng) chính là ý này.

Thiên Phủ ở trong 12 cung vốn ít bị lạc hãm, nhưng Thiên phủ của "Phủ Tướng triều viên cách" thì lại không ưa tọa ở 4 cung Tị Hợi Sửu Mùi, đây là do Thiên tướng lạc hãm ở hai cung Mão Dậu, cho nên Thiên phủ ở cung Hợi hoặc cung Mùi liên đới hội hợp với cung Mão, Thiên phủ ở cung Tị hay cung Sửu, liên đới hội hợp với cung Dậu, tính chất đều thành hơi thiếu lực.

Kết cấu tốt nhất của "Phủ Tướng triều viên cách" là thiên tướng ở cung Tý, Thiên phủ ở cung Thân; Thiên tướng cư cung Ngọ, Thiên phủ ở cung Dần, Thiên tướng cư cung Thân, Thiên phủ ở cung Thìn.

Thiên Phủ lấy trường hợp không độc tọa làm cách cục tốt, chủ về người tính tình công chính, nếu không sẽ dễ trở thành gian giảo. Có điều, gian giảo ở đây thực ra cũng chỉ là mạng làm ăn kinh doanh ngày nay mà thôi.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phân tích 51 cách cục thường gặp

Xem bói tử vi tuổi Sửu

Xem bói tử vi tuổi Sửu qua tính cách, tình yêu theo nhóm máu, các cột mốc sự nghiệp của tuổi Sửu, bói tử vi theo tháng sinh & giờ sinh, hợp khắc 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chuyên đề tử vi 12 con giáp tuần này bàn về xem bói tử vi tuổi Sửu qua tính cách, tình yêu theo nhóm máu, các cột mốc sự nghiệp của tuổi Sửu, sự xung khắc của tuổi Sửu với các con giáp còn lại. Chi tiết vận mệnh của Đinh Sửu, Ất Sửu, Quý Sửu, Tân Sửu, Kỷ Sửu theo tháng sinh và giờ sinh.

Trâu là con vật đứng thứ hai trong mười hai con giáp, và cũng giống như những người tuổi Tý, những người sinh vào năm Sửu thường có những tính cách mạnh mẽ và nổi trội. Họ là những người có lập trường kiên định và luôn tin rằng con đường đến với thành công là làm việc chăm chỉ.

xem bói tử vi tuổi Sửu

1.Tính cách người tuổi Sửu

Người tuổi Sửu thường là những người có đầy đủ những phẩm chất tốt, họ được biết đến bởi tính cách cần cù, chăm chỉ. Họ cũng là những người kiên định, mạnh mẽ, thực tế, và có ý chí vững vàng trong cuộc sống. Những ai sinh vào năm Sửu thường nhẫn nại, có khả năng chịu đựng cao, và nhờ đó có thể vượt qua được bao sóng gió cuộc đời. Nhưng có đôi khi tính cương quyết khiến họ trở nên bướng bỉnh, cứng nhắc bởi lẽ một khi đã quyết định thực hiện điều gì, họ khó có thể thay đổi mục tiêu của mình. Lời nói và việc làm của người tuổi Sửu thường đi liền nhau. Đó là tính cách nổi trội của họ. Sức chịu đựng và lòng quả cảm của người tuổi Sửu thật phi thường. Họ giống như mũi tên nhọn xuyên qua bất cứ rào chắn nào mà người đời cố tình dựng lên trên con đường đi tới của họ. Người tuổi Sửu điềm tĩnh nhưng kiên cường. Họ là người chăm chỉ và chu đáo. Khi làm việc họ rất có phương pháp và quyết đoán. Họ có tài lãnh đạo, người khác rất nể phục tính dứt khoát cũng như sức chịu đựng của họ. Họ là người biết nhìn xa trông rộng, không dễ dàng bị cám dỗ bởi cái lợi trước mắt. Với bản tính "bất khả xâm phạm", họ chọn lựa nghề nghiệp rất kỹ càng, miễn là họ được tự do làm điều họ thích.

Người tuổi này có đầu óc thực tế, không viển vông. Họ chân thành, chung thủy và khiêm tốn. Tuy nhiên, họ rất dè dặt với một vài người, thậm chí thờ ơ và xa lánh. Ngoài mặt thì điềm tĩnh, nhưng thực tế họ rất cầu tiến và tham vọng. Họ có khả năng thuyết phục, và thường thẳng thắn với những gì bất bình bất kể hậu quả ra sao.

Họ là người có tinh thần trách nhiệm cao, quyết đoán và biết nắm bắt cơ hội đang đến. Nhưng họ cũng rất chân thành và tin tưởng trong cách đối xử bạn bè. Họ lại là mẫu người sống khép kín. Họ không thích bộc bạch tâm sự của mình với người khác. Họ thích làm theo ý mình hơn là bị bó buộc bởi áp lực nào đó. Họ điềm tĩnh và trầm lặng nhưng nếu có ai đó làm họ giận hoặc bực mình thì họ lại rụt rè cả nể. Tính khí bướng bỉnh và ương ngạnh lắm lúc lúc làm phiền lòng người khác. Thường thì mọi điều đều suôn sẻ, nhưng họ cũng biết chấp nhận thất bại mỗi khi vấp ngã. Họ thường hay suy tư, không có óc hài hước và chẳng mấy thiện cảm với người mánh khóe, lừa lọc. Họ muốn luôn giữ vững lập trường của mình.

Năm Sửu tượng trưng cho thành công sau khi trải qua bao gian khổ, nỗ lực mới đạt được. Đây là những người làm việc không biết mệt. Người sinh năm này đáng tin, điềm tĩnh, có nguyên tắc, quy củ. Là một người làm việc cẩn thận, tích cực, không biết mệt mỏi. Rất nguyên tắc nhưng vẫn công bằng, biết lắng nghe ý kiến của người khác. Nhưng nếu muốn thay đổi quan điểm của anh ta thì rất khó, vì anh ta cố chấp, đôi lúc còn thiên vị. Người tuổi Sửu cần cù, nỗ lực vượt bậc mới gặt hái thành công.

Mặc dầu chậm chạp cứng nhắc như thế, tuổi Trâu không phải là con bò sữa ngoài đồng. Con vật khỏe mạnh này sinh ra đã là bậc lãnh đạo, đáng tin cẩn, và có khả năng tự nhiên làm nên việc lớn. Tuổi Trâu lề mề và nguyên tắc nhưng theo những dự toán từng bước một và không hề mất hướng.

Thiên hạ thấy tuổi Trâu quá nghiêm khắc và khó thay đổi. Cá tính bền chặt tự nhiên làm tuổi Trâu mất tình xã giao và trở thành ngượng ngập giữa đám đông. Tệ hơn nữa là tuổi này không màng tới người khác suy nghĩ ra sao mà chỉ thích làm điều gì họ nghĩ là tốt cho họ. Nghĩa là tuổi Trâu không quan tâm đến chuyện bị xô đẩy lắm, bởi vì họ nghĩ là họ là người tốt trong thiên hạ. Lý thuyết này cũng đúng, bởi lẽ tuổi Trâu thông minh, đáng tin cậy, biết quan tâm đến người khác, và rất trung thực. Nếu bạn cần lời khuyên chân thật, như nhất, và không thiên vị thì cứ hỏi người tuổi Trâu. Cái khó nhất cho tuổi Trâu là làm sao khắc phục mình khỏi phải tật thành kiến đã khiến họ khó làm thân với người khác. Nếu tuổi này biết đánh giá những phẩm chất tốt của riêng mình, họ sẽ mở rộng tấm lòng ra để đón người khác vào.

Người tuổi Sửu rất bảo thủ, khó chấp nhận ý kiến của người khác, song khi lâm cuộc lại rất hiên ngang, dũng cảm, bình tĩnh xử lý vấn đề, đưa sự hỗn độn trở về trật tự. Họ là những người trong kinh doanh dựa vào logic, dựa vào trí tuệ, làm việc gì thì làm đến cùng. Chính vì vậy, khi giải quyết công việc chủ yếu dựa vào lý, ít khi tựa vào tình, do vậy có chút cực đoan, nhưng thẳng thắn, liêm khiết. Do người tuổi Sửu chắc chắn, đáng tin cậy, có ý chí vượt qua mọi gian khó mà thành đạt, nguyên tắc, tự tin và điềm tĩnh, thích ẩn mình, nên sẽ được lãnh đạo và người có uy quyền tín nhiệm. Chỗ nào cần trách nhiệm ở đó có anh ta. Nhưng nên chú ý thận trọng, bằng không thắng lợi khiến cho u mê.

Người cầm tinh con trâu đi theo con đường chính tắc, có trình tự, không thích đi đường tắt; trong làm ăn rất rõ ràng, dứt khoát. Họ thích sự tôn nghiêm và đức hạnh, khuôn mẫu, tôn trọng những điều đã giao ước, ký kết. Họ là nhóm người rất tự trọng và bản thân luôn tự lực cánh sinh, không muốn làm phiền người khác. Đã nói là làm, họ không ưa nợ nần. Trong kinh doanh khi buộc phải nợ hoặc cho đối tác vay, chậm trả, họ luôn luôn nhớ chính xác con số và thời hạn thanh toán, đồng thời yêu cầu người khác cũng làm như vậy. Nếu là chủ doanh nghiệp, họ quản lý và điều hành theo mệnh lệnh; đối với nhân viên, họ có yêu cầu rất cao và không thiên vị bất cứ ai.

Họ là những người thẳng thắn, công bằng. Trong mọi việc cũng như trong kinh doanh, không bao giờ dùng thủ đoạn để đạt mục đích. Trong quản lý gia trưởng và võ đoán. Nhà doanh nghiệp tuổi Sửu luôn lấy chữ tín hàng đầu, hay giúp đỡ các bạn hàng, không ưa những cuộc chiêu đãi lớn, những nơi đình đám.

Người tuổi Sửu có tài lãnh đạo bẩm sinh, biết cách kiểm tra người khác bằng kỉ luật, thậm chí nghiêm khắc quá mức. Là một người phấn đấu nỗ lực mà giành được thành công, anh ta cho rằng mỗi một người đều nên làm tròn chức phận, trách nhiệm của mình. Khuyết điểm của anh ta là ở chỗ cứng nhắc, tính toán cặn kẽ khó gần, không khôn khéo, không biết cách quan tâm người khác, thường biểu hiện phong độ hơn người, điều này không phù hợp với những công việc tiếp thị, ngoại giao hay những việc đòi hỏi sự tinh tế. Tuy nhiên sự chân thành, tính nguyên tắc, kiên định được mọi người tôn kính, yêu mến. Những cải cách mang tính hệ thống sẽ biến cấp dưới thành người vô cùng trung thành, vì thế chẳng có việc gì anh ta không làm được.

Người tuổi Sửu không thích đi đường tắt, là người điềm tĩnh, có đạo đức và lòng tự trọng cao, tuyệt đối không muốn mượn bất cứ thủ đoạn không công bằng nào để đạt được mục đích. Và luôn tự lực cánh sinh, không cần người khác giúp đỡ đến nỗi bạn không thể không khẩn thiết mong anh ta chấp nhận sự phục vụ của bạn. Người tuổi Sửu thích sự hệ thống, cần thẩn mà thành tâm thành ý hoàn thành công việc đến cùng. Tính cách kiên nghị của anh ta sẽ truyền cho cả con cháu đời sau, dù họ không cùng một con giáp.

Người tuổi Trâu rất nhẫn nại, không mồm mép, ba hoa. Họ cởi mở, nên dễ lôi kéo người khác theo giúp mình. Họ ngông và hết sức cuồng tín. Dó là lý do độc nhất khiến họ không được người ta cảm mến, nếu có. Tuy vẻ ngoài họ điềm tĩnh, nhưng kỳ thực, tính nết người tuổi Trâu rất dễ nóng và cục. Họ chẳng mấy khi nổi nóng, nhưng đã nổi nóng thì rất khủng khiếp, chẳng còn e dè gì trong hành động. Cứng đầu và độc đoán, tuổi trâu có khuynh hướng càn lên, xông xáo, không biết lùi. Nếu tuổi này bị dồn ép vào chân tường thì chỉ có nước là đất cũng phải rung lên theo. Họ ít quảng giao, nhưng khi cần vẫn tỏ ra rất tài hùng biện. Họ rất chăm làm, cửa nhà thịnh vượng, bởi rất khéo tay. Người tuổi Trâu quyết định rất nhanh. Họ ương bướng, ghét những chuyện trắc trở trong công việc làm ăn của họ, đừng bao giờ trông mong sẽ được họ khoan thứ.

Tính cách bất khuất bướng bỉnh và suy nghĩ lôgíc của anh ta được che giấu bằng vẻ bên ngoài đơn giản, chất phác và chỉnh tề; sự thông minh, nhạy bén ẩn giấu dưới vẻ trầm lặng, kiệm lời, e dè. Dù về cơ bản thuộc mẫu người hướng nội, song với bản tính mạnh mẽ khiến anh ta có cơ hội liền trở thành một nhà diễn thuyết uy nghiêm, hùng hồn. Trong giờ khắc hỗn chiến, anh ta lâm trận hiên ngang, phẩm chất dũng cảm, oai hùng và lòng tự tin của anh ta sẽ bắt mọi thứ trở về đúng trật tự vốn có.

Người tuổi Sửu là người qui củ, ổn định, người theo mô thức kiên trì cố định, tôn trọng quan niệm truyền thống, luôn tỉnh táo tiếp nhận kì vọng của người khác để hành sự, đến mức mà mọi người đều có thể dự đoán trước hành động của anh ta. Có người không công bằng phê phán anh ta không có óc tưởng tượng. Nhưng người tuổi Sửu hiểu rằng chỉ khi làm việc kín kẽ thì mới không bị rơi vào thế thất bại. Suy nghĩ của anh ta rất đơn giản, rạch ròi, không ưa phức tạp hóa, bạn sẽ chẳng bao giờ thấy họ sống cẩu thả, bừa bãi hay lật đật, hấp tấp. Người này hoàn toàn thành công dựa vào trí tuệ và những chỉ thị từ người khác, người tuổi Sửu luôn có suy nghĩ kiên định và tinh thần cống hiến hết mình. Tôn trọng chữ tín. Cách đánh giá phiến diện tầm thường chẳng đáng kể gì, anh ta dồn hết tâm tư sức lực hoàn thành công việc chứ chẳng chịu bỏ gánh giữa đường.

Anh ta lý giải bí mật sâu thẳm trong lòng người khác bằng những suy nghĩ trong sáng chân thật, rất ít khi tranh giành tình yêu bằng cách dụ dỗ, mê hoặc. Người tuổi Sửu tôn trọng truyền thống, kiên trì và cố chấp, họ thiếu sự linh động và trí tưởng tượng. Họ không có tính lãng mạn như thích thơ ca hay âm nhạc. Trong cuộc sống sinh hoạt của người tuổi Sửu hiếm khi thấy một bài thơ ướt át hay đoạn dạ khúc ngọt ngào, thậm chí quà tặng cũng là những món đồ bền chắc, thực dụng. Những món quà hàm chứa ý nghĩa tinh thần nhiều hơn họ cũng không quan tâm, chỉ coi đó là một đồ vật mà thôi. Đàn ông tuổi Sửu có nguyên tắc sống đặc biệt và tư chất bề trên. Nhưng khi anh ta được người con gái ngỏ lời yêu, anh ta bỗng trở thành kẻ ngốc ngếch cả trong hành vi lẫn lời nói. Nếu kết hôn, anh ta sẽ thuỷ chung suốt đời và mang đến cho bạn gái một cuộc sống không lắm bạc vàng, nhưng cũng dư dật mà không cần có sự hỗ trợ của vợ.

Tuy làm mặt lạnh nhưng tuổi Trâu cũng không tránh khỏi chịu đau lòng, cô đơn, và mất thân tình với người khác. Bạn bè và gia đình là nguồn an ủi lớn lao cho người tuổi này, ngay cả khi họ cũng không hiểu họ đã làm gì cho tuổi Trâu nổi khùng nữa. Đối với người thân trong gia đình, tuổi Trâu thường đóng vai một cây cột trụ vững chắc, rất tình cảm, chu đáo nhưng không mấy khi nói thành lời.

Anh em nhà Sửu là những người trung thành, tin vào đạo lý truyền thống, và luôn gìn giữ chuẩn mực. Thực vậy, an toàn là một trong tiêu chí sống quan trọng của họ. Nói chung, họ không thuộc tuýp người ưa mạo hiểm, chỉ làm những gì quen thuộc vạch ra sẵn cho mình. Chinh vì lẽ đó mà họ thường hay quay lại guồng sống ưa thích để tìm đến niềm khuây khỏa và yên bình trong tâm hồn. Người tuổi Sửu thường hướng về thiên nhiên. Nếu sống nơi thôn quê, họ thích nhà mình có vườn tược bao quanh. Họ đặc biệt thích làm làm vườn và dành nhiều thời gian cho các hoạt động ngoài trời. Họ làm vườn rất giỏi, thậm chí còn dành hẳn một mảnh đất lớn để làm điều đó. Họ thích hợp với cuộc sống đồng quê hơn thành thị.

Đối với họ, gia đình là lẽ sống, là nguồn yêu thương, đó không chỉ đơn giản là nơi đi chốn về mà còn là nơi mà họ cảm thấy dễ chịu và được xoa dịu nhất. Họ là người biết xem trọng mái ấm gia đình và xem đó là chốn thiêng liêng hơn hết. Họ quan niệm gia đình là phải gắn bó lẫn nhau nhưng phải có một sự phân công rõ ràng. Họ muốn tích trữ để phòng về sau, lúc nào cũng tươm tất và gọn gàng. Họ chẳng dễ gì thay đổi chỗ làm hay chỗ ở, ngược lại còn vui vẻ chấp nhận. Họ thích "an vị" hơn là phải đi đây đi đó.

Người tuổi Sửu luôn tôn trọng quan niệm truyền thống, kiên trì giữ mẫu mực cố định nào đó. Vì vậy mà người ta dễ đoán được mẫu mực hành động của họ. Quá trình tìm hiểu đến với hôn nhân của họ rất dài. Họ phải trải qua một quãng thời gian dài mới có thể tiến triển đến giai đoạn công khai quan hệ, đôi bên bấy giờ mới biểu lộ tình cảm đích thực. Nam tuổi Sửu chắc là người vô cùng có trật tự, có tài đức, nhưng khi cần tỏ tình với cô bạn gái xinh đẹp thì lập tức biến thành anh chàng vụng về, nói năng lắp bắp.

Nhân duyên đối với người tuổi Trâu là chuyện thuộc hàng thứ hai. Đó là lý do khiến họ gặp những trắc trở rất lớn trong quan hệ tình duyên. Đời họ, chặng đầu, về đại thể, rất âm thầm, chặng giữa hay gặp trắc trở trong hôn nhân hoặc trong quan hệ xã hội. Đó chính là thời kỳ họ hay mất bạn bè hoặc những chỗ quen biết từng quý mến họ trước kia và bị những kẻ vẫn còn cảm phục khinh khi họ. Chặng cuối thường êm đẹp, có khi còn êm đẹp hơn chặng đầu nữa là khác.

Nhưng nếu bạn kết hôn và hoàn toàn tin tưởng, anh ta sẽ không bao giờ khiến bạn thất vọng, sẽ chân thành ở bên bạn suốt đời, bạn không cần phải lo lắng về tiền nhà hay những chi tiêu sinh hoạt. Tuy không chất vàng bạc kim cương thành đống trước mặt bạn, hoặc mua cho bạn xiêm áo chật tủ, nhưng anh ta sẽ gắng hết sức xếp đặt ổn thỏa cuộc sống, chẳng bao giờ cần bạn giúp đỡ. Với bản tính nghiêm túc, anh ta sẽ dạy con cái đến nơi đến chốn, họ sẽ nêu gương tốt cho con cái mình. Nhưng trong gia đình, họ là người gia trưởng, biết phải hạ lệnh thế nào và làm sao để người khác phải tuân theo. Họ rất thực tế, không để tình cảm xen vào công việc.

Nếu bạn may mắn cưới một phụ nữ tuổi Sửu, bạn chắc chắn đã tìm thấy một cô gái đoan trang, đảm đang. Cô sẽ giặt sạch sẽ quần áo của bạn như một bà mẹ, hằng ngày không quên dọn dẹp ngăn nắp đống báo chí trên bàn ăn sáng của bạn, nấu nướng hợp khẩu vị và cả nụ hôn “tốt lành chào buổi sáng”. Nhưng ngộ nhỡ bạn khó chịu trước những thói quen của cô ấy thì hãy suy nghĩ tới những nhân tố tạo nên chúng. Cô ấy gọn gàng, ngăn nắp, thủ thường. Cuộc sống hôn nhân của bạn sẽ chẳng bao giờ vương những bộ quần áo bẩn, bạn sẽ không phải mang những đôi tất bốc mùi, cũng không phải ăn những thứ dở nấu dở xào. Cô ấy sẽ là một người vợ lí tưởng. Sổ chi tiêu của bạn sẽ luôn cân bằng, khỏan dành dụm cũng chẳng khi nào chi vượt quá thu. Bạn nên giúp cuộc sống của cô ấy trở nên vui tươi sống động. Những việc cô ấy làm luôn cao hơn trách nhiệm cần có.

Ngòai những phẩm chất ưu thế kể trên, những khiếm khuyết của người tuổi Sửu chỉ dần dần bộc lộ sau một thời gian dài. Trí nhớ của người tuổi Sửu cực kì tốt, rành mạch, nếu xúc phạm anh ta, anh ta sẽ nhớ đến từng chi tiết nhỏ. Trước nghịch cảnh, người tuổi Dần, Dậu hay Tý đều oán thán kịch liệt, còn Mùi và Mão ủ rũ rồi sinh ra âu sầu cô quạnh. Người tuổi Sửu thì ngược lại, anh ta sẽ nỗ lực làm việc để giảm nhẹ gian khổ và gay gắt. Nếu như thất bại trong tình yêu, anh ta sẽ vùi đầu vào công việc và sẽ cự tuyệt chịu thêm một lần “rủi ro” để sống cuộc sống độc thân.

Người tuổi Sửu không thích nợ nần, khi gửi trả khoản đã vay, anh ta sẽ tính toán bằng hết. Nếu thiếu sót bạn mà không được bày tỏ nỗi cảm kích, anh ta sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho bản thân. Từ phía anh ta, bạn sẽ chẳng khi nào bắt gặp quá nhiều những lời cảm ơn sáo rỗng, anh ta cảm thấy bứt rứt, không thoải mái trước những ngôn từ hoa mỹ và sự bợ đỡ quá trớn, vì cho rằng điều đó làm tổn hại đến lòng tự trọng của mình. Anh ta nói được làm được, đó chính là tính cách của người tuổi Sửu.

Người tuổi Sửu có một đức tính nhẫn nại phi thường, nếu nổi nóng thì ắt đã xảy ra chuyện gì đáng sợ, thực sự cần đối phó một cách cẩn trọng. Lúc này anh ta sẽ mất sáng suốt, tấn công người cản đường hệt như một chú trâu hăng máu. Cách giải quyết duy nhất là tránh xa anh ta, để anh ta từ từ bình tĩnh lại. Tóm lại, trừ phi anh ta cảm thấy không sao chịu đựng nổi, thì bằng không chẳng bao giờ anh ta nổi cơn giận đùng đùng.

Ở nhà, anh ta biết ra lệnh và bắt mọi người tuân phục. Anh ta mong người khác nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị của mình và giữ quan điểm duy vật về cuộc sống. Dù mình hết sức yêu mến gia đình và tự hào về điều đó, nhưng anh ta yêu cầu rất cao đối với từng thành viên trong gia đình, luôn đo mức độ tình yêu gia đình bằng thước đo của sự thành công và những thành tích gặt hái được. Làm người cha trong gia đình, anh ta luôn ngạo mạn và võ đoán, không cho phép ai phá vỡ những qui định. Anh ta xâu cả cuộc sống gia đình, công việc và lợi ích quốc gia thành một chuỗi và luôn ưa thích kiểu đầu tư lâu dài, ổn định. Tuy không dễ dàng bị tình cảm lay chuyển, anh ta vẫn là một người chịu hi sinh để gia đình yên vui.

Trâu sinh ban ngày sẽ tích cực, giỏi tranh đấu hơn một chú trâu an lành vào buổi đêm. Cũng như vậy, trâu sinh mùa đông sẽ gian nan, nghèo khó hơn trâu mùa hè.

Bản tính của người tuổi Sửu là phải luôn căn cứ vào sự thật, tuyệt đối không giải quyết sự việc bằng tình cảm. Nếu bạn muốn thắng kiện nơi cửa quan thì phải vận dụng lí trí và trí tuệ. Trong một số việc nếu bạn hỏi ý kiến anh ta luôn đưa ra phương án đáng tin, chắc chắn. Nhưng chỉ dựa vào tình cảm thì khó lòng thay đổi được suy nghĩ của anh ta. Thể chất anh ta rất tốt, ít đổ bệnh, tự tin, không thỏa hiệp, anh ta coi thường sự yếu đuối ở người khác. Nếu chú tâm trau dồi tính hài hước và lòng nhiệt tình, anh ta sẽ hạnh phúc hơn.

Người tuổi Sửu không thích giao du với nhiều người, ngược lại chỉ kết bạn với những người hợp tính. Tuổi này đặc biệt hợp tính với tuổi Tý, Mão, Tỵ, và tuổi Dậu. Họ cũng có thể chơi thân với những người tuổi Thân, Tuất và Hợi. Nhưng họ không hợp với những người tính khí bất thường như tuổi Mùi. Họ rất khó kết bạn với người tuổi Ngọ, Thìn, Dần. Bản tính trầm lắng của tuổi Sửu không hợp với sự sôi nổi và bốc đồng của người mang ba tuổi trên.

2. Vận mệnh người tuổi Sửu

Người tuổi Ất Sửu - 1985: Trâu giữa biển (Hải trung Kim)

Họ thường có ý thức chủ quan mạnh mẽ. Tính chất cứng rắn của Kim khiến họ có phần bảo thủ. Trong công việc cũng như trong cuộc sống, người này thường rất ít khi có tư tưởng thỏa hiệp. Tinh thần đấu tranh và tính cách thẳng thắn đôi khi cũng đem lại cho họ không ít rắc rối. Họ là người có khả năng lãnh đạo, có thể tự tạo dựng được nhiều thành tựu nổi trội. Tuy nhiên, khát vọng vươn lên mạnh mẽ khiến những cảm giác trống trải hoặc tự ti vẫn xâm chiếm tâm hồn họ, nhất là khi sự nghiệp không được như ý. Song, cảm giác này sẽ nhanh chóng bị che khuất bởi tính cứng rắn, quyết đoán nên thường không mấy ảnh hưởng đến sự nghiệp. Họ cũng là những người có hiểu biết sâu rộng, ưa thích sự mạo hiểm. Đây chính là cơ hội để họ thử sức trong lĩnh vực kinh doanh. Nếu được sao tốt tương trợ, họ sẽ đạt được những thành công đáng kể.

Tuổi Đinh Sửu - 1997: Trâu trong hồ (Giản hạ Thủy)

Người tuổi Sửu mệnh Thủy thường theo chủ nghĩa hiện thực, luôn coi trọng thực tế và có khả năng quan sát bén nhạy. Điều đó cũng mang lại cho họ không ít thuận lợi, thành công trong sự nghiệp. Họ rất coi trọng địa vị xã hội cũng như tài sản cá nhân và luôn cố gắng duy trì tốt các mối quan hệ. Mỗi khi có cơ hội, họ có thể kết hợp giữa nhân lực, tài nguyên, sự kiên nhẫn và quả quyết của mình để thực hiện cho bằng được mục tiêu đã đề ra. Họ thích các mối quan hệ mang tính hồi đáp và cũng có khả năng ăn nói khá tốt. Họ có khả năng độc lập mạnh mẽ, không sợ khó khăn và luôn dũng cảm tiến lên phía trước. Học rộng hiểu nhiều, ý chí lớn, tính cách kiên trung là những yếu tố đã giúp họ rất nhiều trong sự nghiệp. Họ có thể đảm nhận được những trọng trách nặng nề, có được cả công danh và lợi ích. Vì thường không được sao tốt tương trợ nên họ hay có tư tưởng lo sợ, đôi khi trở nên thiếu tự tin. Chính vì vậy, tuy rất chăm chỉ nhưng họ cũng khó có được thành công lớn. Nếu tham gia kinh doanh, công việc của họ thường tiến triển chậm chạp và thường không giữ được chữ tín. Tuy nhiên, nếu có thể phát triển tích cách hướng ngoại thì họ lại có được nhiều thành công, gặp hung hóa cát.

Tuổi Kỷ Sửu - 1949: Trâu trong rào (Tích lịch Hỏa)

Mang đặc tính của hành Hỏa, người này thường có tham vọng lớn về quyền lực và rất ham hư vinh. Họ có lòng tự tôn nhưng lại thiếu tính kiên nhẫn, dễ xúc động và có ít cơ hội thành công nếu lựa chọn con đường sự nghiệp không thực sự phù hợp với mình. Họ cũng có tài năng về nhiều lĩnh vực, luôn đối xử chân thành, chính trực với mọi người. Chính tính cách này đã giúp họ có rất nhiều bạn bè cũng như được nhiều người ủng hộ, nâng đỡ. Họ có đầy đủ tiêu chuẩn để trở thành nhà lãnh đạo giỏi. Vì không được sao tốt tương trợ nên cuộc sống của họ cũng khá vất vả, bận rộn. Một số người có tính tự tư tự lợi nên không ít khi vừa hại người lại hại cả bản thân mình. Một số khác thì luôn cho rằng mình thanh cao trong cảm xúc của họ lại thô lỗ và thường bỏ qua cơ hội để có được một vị thế tốt hơn trong xã hội.

Tuổi Tân Sửu - 1961: Trâu giữa đường (Bích thượng Thổ)

Mang đặc tính của đất, người tuổi Sửu mệnh Thổ thường trầm tĩnh và luôn hy vọng sẽ có được những thành tựu tốt đẹp nhờ vào nỗ lực của bản thân. Họ cũng là có lý trí mạnh mẽ, thường không làm hoặc không đảm nhận những việc ngoài khả năng của mình. Họ thận trọng và nghiêm túc trong công việc, luôn tuân thủ theo kế hoạch đã đề ra. Chính vì vậy, họ cũng không giỏi trong giao tiếp và đôi khi cảm thấy cuộc sống thật cô độc, đơn điệu. Họ là những người có cá tính và rất nghiêm túc. Ngoài việc coi trọng tính công bằng của sự phân phối lợi nhuận, chính vì họ chính là những đối tác đáng tin cậy. Họ không bao giờ lùi bước trước khó khăn, thử thách và thường có được thành công nhờ sự giúp sức của bạn bè thân thiết. Vì không được sao tốt tương trợ nên người này thường khá vận vả, bận rộn với công việc nhưng kết quả không được như ý.

Tuổi Quí Sửu - 1973: Trâu trong chuồng (Tang đố Mộc)

Không trầm tĩnh như người tuổi Sửu mệnh Thổ, không mạnh mẽ như người tuổi Sửu mệnh Kim nhưng vẻ ngoài của họ toát lên khí chất nho nhã, thanh cao và luôn gây được thiện cảm với người xung quanh. Người tuổi Sửu mệnh Mộc vốn không sôi nổi nhưng luôn sẵn lòng giúp đỡ người khác. Họ có chí tiến thủ nhưng không quá tham vọng với quyền lực như người tuổi Sửu mệnh Hỏa. Trong công việc, họ cẩn trọng, biết tiếp thu ý kiến của người khác, có tinh thần cầu thị. Có thể nói, con người họ giống như tính chất của hành Mộc, luôn vươn lên tươi xanh và cân bằng và chan hòa sức sống. Người tuổi Sửu mệnh Mộc có tinh thần hợp tác và biết cách tạo dựng các mối quan hệ tốt đẹp trong công việc cũng như trong cuộc sống. Cũng có không ít người tuổi Sửu mệnh Mộc khá thông minh, nhanh nhẹn. Họ biết tận dụng mọi cơ hội khi có thể để biến lý tưởng của mình trở thành hiện thực. Cuộc đời của người tuổi Sửu mệnh Mộc tuy có gặp khó khăn nhưng họ đều biết cách vượt qua để tạo lập sự nghiệp cho bản thân.

3.Tình yêu của người tuổi Sửu

Sửu không phải là cung mệnh tách biệt, rụt rè nhất trong 12 con giáp, chỉ vì họ muốn được riêng một mình. Thông thường, những người này thường có một nhóm bạn, tuy không nhiều nhưng là những người bạn trung thành, thân tín. Trong chuyện tình cảm, họ không phải là người lụy vì tình hay quá đa sầu đa cảm, nhưng họ yêu một cách sâu sắc. Một khi dành hết trái tim cho ai, họ sẽ chung thủy, ít khi nào thay đổi.

Tuy vẻ ngoài lặng lẽ, nhưng trong lòng lại có một trái tim nồng nhiệt, thế giới nội tâm vô cùng phong phú. Đừng tưởng rằng ngày thường bạn luôn đủng đỉnh thủng thẳng, mọi chuyện đều nhẫn nại kiên trì, kỳ thực chẳng qua bạn giấu kín bản tính sôi nổi trong nơi thẳm sâu của tâm hồn. Nhưng đa phần bạn bè, người thân đều không hiểu bạn.

Tuy bạn có thể giới nội tâm phong phú, một trái tim nhiệt thành, nhưng đáng tiếc thường không suôn sẻ trong đường tình duyên. Bạn thường khá đơn độc, cô đơn, thỉnh thoảng gặp được người bạn tương đối thích, bạn vẫn không chủ định đi tiếp cận, có cơ hội tốt chăng nữa, bạn vẫn không chịu giữ chặt lấy, mọi thứ đều vì sai lầm của bản thân bạn mà trôi đi như dòng nước.

Có lẽ bạn vẫn chưa biết rằng, sức cạnh tranh xung quanh bạn vô cùng kịch liệt, chỉ cần lơ là, sẽ có khả năng mất người yêu. Vì bạn không hiểu kĩ về tình yêu, tình yêu đối với bạn chỉ giống như mối giao dịch. Khi yêu bạn luôn nghĩ rằng mình đã “đầu tư” bao nhiêu tình cảm thì nên nhận được ngần ấy sự đáp lại.

Nói tóm lại, quan điểm tình yêu của bạn là chú trọng hiện thực. Khi ở bên người yêu, thỉnh thoảng, cái “máu trâu” của bạn nổi lên, chỉ vì chút chuyện nhỏ mà nổi tính cục.

Có điều, hễ người tuổi Sửu thành lập gia thất rồi thì lại rất dịu dàng với người mình yêu. Sau khi cưới, những phút thăng trầm trong tình cảm là khó tránh khỏi, bạn cũng chẳng lấy đó là điều đáng than phiền, sau cơn mưa trời khắc sáng, khi ấy tình yêu càng thêm mặn nồng, chân thành. Có gì chia cắt nổi các bạn đây? Đã đến với nhau vì tình yêu, thì lẽ nào vì một phút nông nổi mà chia tay chứ? Hãy bình tĩnh lại, tự mình kiểm điểm mình xem sao.

Nữ giới tuổi Sửu rất bình tĩnh, ôn hòa, cẩn thận, nhẫn nại, là người phụ nữ tốt tính. Phụ nữ tuổi Sửu có trí nhớ tốt, nhưng hay bất mãn. Nếu ai làm họ bị tổn thương, họ sẽ ghi nhớ suốt đời từng chi tiết. Nếu thất bại trong ái tình, họ sẽ chôn mình trong công việc hoặc né tránh hiểm nguy bằng cuộc sống độc thân. Hễ họ đã thích đối phương, thì sẽ toàn tâm tòan ý với người yêu, dù có gặp một đối tượng khác tốt hơn, họ cũng sẽ không vì thế mà thay lòng đổi dạ. Họ một lòng một dạ với chồng, không hề có tư tâm gì, thậm chí có thể vì chồng, vì con thay đổi bản thân, chẳng hạn như kiểu tóc, phục sức, hay dáng vẻ… Họ là một người vợ tốt. Đồng thời dốc lòng dốc sức chăm lo việc gia đình, là một phụ nữ tuân thủ chế độ hôn nhân, tính cách khá thủ cựu.

Khuyết điểm của bạn là lòng đố kỵ và ham muốn độc chiếm đối phương. Dù người bạn đời cực kì yêu bạn, song vì lòng đố kỵ sẽ biến thành tính ích kỷ khiến họ không sao thích ứng nổi, thậm chí còn muốn bỏ chạy.

Nam giới tuổi Sửu thận trọng, bướng bỉnh. Bạn thích mẫu phụ nữ dịu dàng, yểu điệu, ôn nhu. Bạn mong đợi một tình yêu bền vững suốt đời, nhưng đáng tiếc chẳng dễ dàng gặp được, nên thường có cảm giác hụt hẫng, thất vọng.

Bạn có hai khuyết điểm nhất định phải sửa, thứ nhất là sau khi đã có người yêu, bạn vẫn đối xử quá tốt với các cô gái khác. Cứ như vậy thì chỉ khiến người ta hiểu lầm mà thôi và cũng có thể khiến người yêu bạn giận dỗi đòi chia tay. Thứ hai là tính đa nghi, người yêu chỉ trò chuyện dăm ba câu với ai đó, bạn phải căn vặn cả nửa ngày trời, khiến cô ấy khó chịu, mất cảm tình, nếu quá đi cô ấy sẽ rời xa bạn đấy.

Bạn là một người rất đỗi quan tâm đến gia đình, và cũng biết cách bảo vệ các thành viên trong gia đình, khiến họ không dễ dàng bị tổn thương. Bạn rất tốt với cả vợ và con cái, tan sở liền lập tức về nhà, tận hưởng niềm hạnh phúc ngọt ngào, bạn còn có một ưu điểm là thích làm việc nhà. Ai làm vợ bạn có thể nói là thật có phúc.

Tình yêu của người tuổi Sửu nhóm máu B

Bản thân những người này luôn khao khát có một tình yêu đẹp. Song vì một chút tự ti, xấu hổ nên họ không bao giờ thể hiện ra ngoài. Đôi lúc, họ tỏ vẻ lạnh lùng nhưng trong lòng họ lại thầm mong đối tượng mình có thể cảm nhận được tình cảm của mình. Đây cũng chính là mâu thuẫn trong tính cách của họ. Để có được "một nửa" như ý, mọi người nên "nhắm" vào những đối tượng có trái tim nhân hậu, giàu tình yêu thương thì mới có được tình yêu như ý. Theo đó, một người sâu sắc, một người cởi mở sẽ bổ sung cho nhau để cuộc sống luôn tươi mới và vui vẻ. Cuộc sống, công việc dù có bận rộn song những người này vẫn không quên dành thời gian chăm lo, vun đắp cho tổ ấm của mình. Những người phụ nữ tuổi Sửu thuộc nhóm máu B sau khi lập gia đình và có cuộc sống hạnh phúc, họ trở nên hiền thục và quyến rũ hơn. Đối với nam giới, họ sẽ là người mang lại bầu không khí vui vẻ, thân mật cho mọi thành viên trong gia đình cũng như mọi người xung quanh.

Tình yêu của người tuổi Sửu nhóm máu AB

Giống như người tuổi Sửu thuộc nhóm máu A, người tuổi Sửu thuộc nhóm máu AB khá thận trọng khi chọn người yêu. Họ cũng sẽ đầu tư thời gian, công sức để biết tính cách đối phương rồi mới quyết định lựa chọn. Những người này không giỏi thể hiện tình cảm và không biết cách lấy lòng đối phương. Họ không có vẻ ngoài thu hút song bù lại họ rất đôn hậu, thành thực và chính trực. Chính những điều này khiến đối phương cảm động và yêu mến họ hơn. Với người tuổi Sửu thuộc nhóm máu AB, hôn nhân không cần phải suy tính nhiều. Vì vậy, họ sẵn sàng kết hôn qua mai mối. Mặc dù vậy họ rất chung thủy, có trách nhiệm và luôn có thái độ tôn trọng người bạn đời của mình. Do cả hai người đều có ý thức vun vén cho gia đình nên cuộc sống hôn nhân càng về sau càng mang lại cho họ nhiều lãng mạn và thi vị. Tình cảm vợ chồng cũng vì thế mà gắn bó khăng khít, sâu đậm hơn.

Tình yêu của người tuổi Sửu nhóm máu O

Điều dễ nhận thấy ở những người tuổi Sửu thuộc nhóm máu O là sự điềm đạm, trầm tĩnh và luôn biết cảm thông. Điều này tạo cho người khác có cảm giác an toàn khi ở bên cạnh họ. Những người này không giỏi ăn nói nên họ không thể hiện được sự nồng nhiệt của mình để làm hài lòng đối phương. Tuy nhiên, tình yêu dành cho "một nửa" của họ thì không ai có thể sánh được. Đối tượng thích hợp để cùng chung tay xây dựng cuộc sống gia đình với họ phải là những người hoạt bát, nhanh nhẹn và năng động. Đa số những người tuổi Sửu thuộc nhóm máu này có xu hướng kết hôn thông qua mai mối. Nhưng dù kết hôn theo hình thức nào, họ vẫn luôn tôn trọng và yêu thương người bạn đời của mình. Phần lớn người thuộc nhóm máu này rất chung thủy. Chính vì vậy, họ tuyệt đối không chấp nhận người bạn đời phản bội hay lừa dối mình. Đây là một trong những nhân tố quan trọng để xây dựng gia đình hạnh phúc trọn vẹn.

4.Tương hợp và xung khắc giữa người tuổi Tý và các tuổi khác

Tuổi Tý vớiTuổi Sửu

Chuột và Trâu là cặp đôi khá hấp dẫn theo kiểu “trái chiều hút nhau”. Chuột thông minh, sắc sảo và hài hước còn Trâu nhút nhát và nghiêm túc. Tuy vậy, giữa họ vẫn có sợi dây liên kết vô hình. Chuột mê Trâu ở sự duyên dáng nhưng ẩn chứa bên trong là sức sống mạnh mẽ. Còn Trâu hâm mộ Chuột ở trí thông minh và sự đáng tin cậy.

Trâu rất thích chơi cùng bạn bè và người thân trong gia đình. Đây cũng là một điểm mà Chuột rất thích ở Trâu. Tuổi Tí có thể làm cho tuổi Sửu nhẹ nhàng, nhút nhát thấy mình luôn được quan tâm, chăm sóc. Hai con giáp cạnh nhau này cùng rất trung thành. Nếu là mối quan hệ tình yêu, người này không để cho người kia có lý do để ghen tuông hay xử sự theo kiểu “sở hữu”. Còn trong các mối quan hệ khác, Chuột sẽ bổ sung vào cuộc sống khá lặng lẽ của Trâu sự tươi mới và dí dỏm. Còn Trâu sẽ giúp Chuột ổn định lại cuộc sống khá bừa bộn mà Trâu đang sống.

Hai tuổi này không hề hợp nhau nếu tính chuyện trăm năm. Trong khi Chuột rất thông minh nhưng luộm thuộm thì Trâu lại rất chắc tính và không chịu nổi sự bừa bãi của Chuột. Hai tuổi này ít khi nhường nhịn nhau. Nếu muốn sống cùng, cả hai cùng phải giảm bớt cái tôi của mình.

Khi Tí và Sửu cùng nhau làm ăn, họ sẽ hỗ trợ rất tốt cho nhau. Trâu sẽ là nhân vật chủ chốt vì rất cần mẫn và chịu khó. Còn Chuột sẽ hỗ trợ Trâu bằng cách tận dụng trí thông minh của mình. Chuột đảm nhiệm rất tốt vai trò của người đàm phán hoặc gặp gỡ khách hàng.

Tuổi Sửu với Tuổi Sửu

Đặc điểm nổi bật của tuổi Sửu là kiên định, đáng tin cậy và năng lượng cơ thể khá dồi dào. Hai người cùng con giáp này sẽ tạo thành sức mạnh bền vững và kiên cố nếu họ thực sự hiểu được thành ý của nhau. Nếu cùng sống chung trong một gia đình, hai người tuổi Sửu rất ít khi to tiếng hay cãi lộn lẫn nhau. Họ biết các nhường nhịn và phát ngôn khi cần thiết. Không chỉ có vậy, mà trong các mối quan hệ khác, hai người cầm tinh con Trâu đều khá hài hòa và điềm đạm. Vấn đề tồn tại trong mối quan hệ của họ đó là hơi thiếu một chút gia vị để cuộc sống đỡ nhàm chán và buồn tẻ. Bởi vì cả hai đều sống có niềm đam mê nhưng lặng lẽ và quá đỗi thanh bình.

Người tuổi Trâu không thích đi chơi hay tụ tập đông người. Có những lúc họ cũng thích như những người khác ở sự hồn nhiên, vui vẻ nhưng thật khó. Lý do đơn giản bởi tuổi Trâu vốn đã quen với cách ứng xử nghiêm túc và chín chắn hơn so với tuổi. Trong các bữa tiệc, cách mà tuổi Trâu thể hiện trước mọi người dường như không nồng nhiệt lắm. Nếu hai tuổi Trâu sống cùng nhau, họ rất ít khi rủ nhau tới các bữa tiệc hoặc nếu có thì với vẻ mặt nghiêm nghị và trang trọng. Những điều đó thuộc về bản chất con người vốn có của con giáp này. Điều hết sức đáng quý ở “hành tinh” này là luôn coi trọng chất lượng hơn số lượng. Trong hầu hết các mối quan hệ, khó có thể tìm thấy sự gian dối của tuổi Trâu. Mang trong mình sự thông minh, sâu sắc và đáng tin tưởng, hai người cùng con giáp này sẽ xây dựng mối quan hệ rất bền vững.

Hai người cùng tuổi Sửu sẽ kết hợp khá ăn ý với nhau trong kinh doanh nhờ sự chăm chỉ và nỗ lực không ngừng. Tuy nhiên, đôi khi sự võ đoán của một người sẽ khiến người kia gặp rắc rối. Bên cạnh đó, người tuổi Trâu thỉnh thoảng rất kỹ tính và hay bình luận người khác. Nhưng nếu ngay từ lần đầu, mối quan hệ của 2 người suôn sẻ thì sẽ mở đường cho những thành công sau liên tiếp.

Tuổi Dần với Tuổi Sửu

Sự kết hợp này quả là thảm họa. Khó có thể mà khắc phục. Cả hai đều có lối sống quá khác biệt nhau. Tuổi Dần có nét gì đó hoang dã và khó thuần; ngược lại, tuổi Sửu hiền lành và rất thuần tính. Thỉnh thoảng sự khác biệt này cũng làm cho tình cảm của cả hai trở nên thú vị, nhưng cũng chẳng được bao lâu. Tuổi Hổ thích mạo hiểm trong khi tuổi Trâu lại sống khép mình và nội tâm; Hổ thích đi đó đây còn Trâu lại thích tích lũy và ổn định ngay từ đầu. Nhưng tệ hơn cả là cả hai con giáp này đều cho mình là đúng, chẳng bên nào chịu nhường nhịn và không tìm thấy điểm tốt của bên kia.

Nếu là đối tác kinh doanh, họ có thể kết hợp và tận dụng được những thế mạnh bên kia có nếu cả hai cùng cầu thị. Người cầm tinh con Hổ có thể học được rất nhiều điều bổ ích từ tuổi Trâu sâu sắc và chăm chỉ. Bên cạnh đó, tuổi Trâu có thể cảm thấy nhẹ nhàng hơn trong công việc vì luôn có tuổi Hổ thông minh, táo bạo và thường đưa ra những ý tưởng mới. Sửu sẽ dạy Dần cách bình tĩnh và tập trung; ngược lại, Dần chỉ cho Sửu cách đưa ra ý tưởng và mở rộng kiến thức.

Tuổi Mão với Tuổi Sửu

Có thể nói, hai tuổi Trâu và Mèo sống nội tâm nhất trong 12 con giáp. Họ rất khó biểu đạt tình cảm thành lời, nhưng trong lòng họ luôn đầy ắp sự yêu thương và nhường nhịn. Cả hai đều thân thiện, cẩn trọng và chú ý chăm sóc người khác.

Khi là cặp uyên ương, họ yêu theo cách rất riêng: lặng lẽ nhưng nồng thắm. Hai con giáp này thích quanh quẩn ở nhà, làm những việc thường ngày để trang hoàng cho ngôi nhà thân yêu của họ. Họ không thích tham gia nhiều vào các cuộc tụ tập bạn bè hay lang thang đâu đó. Trong tâm thức của họ, ngôi nhà vẫn là nơi bình yên nhất. Đó là mối liên kết ngầm nhưng hết sức hiệu quả để gắn kết hai tâm hồn này lại với nhau.

Tuy vậy, do tính cách hai người, nên đôi khi 2 tuổi này thấy cuộc sống khá tẻ nhạt và cần bổ sung thêm chút “muối”. Cảm giác này sẽ qua đi rất nhanh vì cả tuổi Trâu và tuổi Mèo đều đặt niềm tin, sự gắn kết lên trên tất cả. Nếu Mão và Sửu sống cùng trong một ngôi nhà thì họ sẽ rất hài hòa, và ngôi nhà của họ dường như lúc nào cũng rất yên bình.

Còn khi là đối tác làm ăn, hai nhân cách này ứng xử có hợp nhau không? Tuổi Mèo thường làm việc theo sự chỉ dẫn của tuổi Trâu bởi người cầm tinh con Trâu rất chăm chỉ và đặc biệt Mèo rất khâm phục Trâu bởi sự tốt tính và ứng xử điềm đạm. Trong khi một số tuổi khác chơi với Mèo vì Mèo khá bị động và dễ sai khiến, thì Trâu tìm đến Mèo với lý do hoàn toàn khác: Đó là sự chân thành. Vì vậy, tuổi Mão rất khâm phục và mến mộ tuổi Sửu. Với sự hài hòa của hai nhân cách này, sự kết hợp của họ sẽ rất hệ thống và chắc chắn.

Tuổi Thìn với Tuổi Sửu

Tuổi Sửu và tuổi Thìn có thể kết hợp rất ăn ý nếu họ có chung mục tiêu. Người cầm tinh con Rồng dữ dội, mãnh liệt ngược hẳn với người tuổi Trâu nhút nhát và khá nghiêm túc. Trong các cuộc tụ tập hay các hoạt động xã hội, thường ít khi xuất hiện tuổi Trâu. Nhưng các công chuyện liên quan đến gia đình hay trách nhiệm với bạn bè thì Trâu luôn xuất hiện rất đúng lúc. Chính vì vậy, tuổi Thìn rất nể tuổi Sửu. Tuy nhiên, tuổi Thìn vốn gan dạ và ít sợ sệt kia rất khó thay đổi mặc cho tuổi Trâu phàn nàn hay không vừa ý.

Trong mối quan hệ làm ăn, hai con giáp này góp phần tạo nên một tập thể khá vững chắc. Tuổi Thìn khá nhạy bén trong chuyện kiếm tiền nhưng không vì vậy mà coi tiền hơn tất cả. Tuổi Trâu tâm phục khẩu phục tuổi Rồng về đặc điểm trên và thành tâm hết sức để cùng tuổi Rồng xây dựng tập thể chung.

Với tính cách như vậy, Sửu và Thìn sẽ ứng xử với nhau thế nào trong tình yêu? Tuổi Trâu không hề quá lãng mạn nhưng đầy nhiệt huyết với người mình yêu. Tuổi Thìn nhận ra điều này và vô cùng hạnh phúc. Mâu thuẫn của 2 “hành tinh” này bắt nguồn từ bản chất 2 con người có phần trái ngược nhau: Trong khi tuổi Thìn hay lý tưởng hóa, đầy hoài bão và thường đóng vai trò là người tiên phong thì tuổi Sửu nhút nhát, sống nội tâm và yêu thích cuộc sống có trật tự. Thông thường, tuổi Trâu nhẫn nhịn và ít cáu gắt nhưng khi có “chiến tranh” thì cuộc đấu của họ cũng vô cùng khốc liệt.

Tuổi Tỵ với Tuổi Sửu

Tuổi Trâu và tuổi Rắn có nhiều điểm chung hơn là sự khác biệt: Cả hai đều chăm chỉ, sâu sắc và coi trọng chất lượng hơn số lượng và vẻ hào nhoáng bề ngoài. Hai “hành tinh” này đều đặt gia đình ở ví trí hết sức quan trọng. Họ coi ngôi nhà của mình là nơi bình yên và thoải mái nhất sau những giờ phút mệt mỏi và thăng trầm trong cuộc sống. Người ngoài cuộc có thể coi đây là cặp đôi nhút nhát và có phần nhạt nhòa trong cuộc sống sôi động nhưng thực chất, bên trong con người của họ vẫn cháy lên sự nhiệt huyết, đam mê công việc trong đời sống thường ngày.

Khi là một cặp uyên ương, hai con giáp này thực sự rất “hút” nhau. Vẻ quyến rũ của tuổi Rắn sẽ kéo tuổi Trâu ra khỏi vỏ ốc thường ngày để năng động hơn và hấp dẫn dẫn hơn. Tuy vậy, người cầm tinh con Rắn rất mực khâm phục tấm lòng luôn hướng về gia đình của tuổi Trâu. Tuổi Trâu “kết” tuổi Rắn bởi sự thông thái và tư duy tốt. Trên thực tế, hai con giáp này luôn học hỏi và bổ sung cho nhau để không khí luôn hài hòa. Mỗi người có cách tiếp cận riêng nhưng quan trọng là họ biết người kia cần gì. Tuổi Sửu sẽ biết cách xoa dịu tính hay ghen và sở hữu của người yêu. Sống với tuổi Sửu đáng tin cậy, tuổi Tị chẳng có lý do gì mà cảm thấy mất an toàn hay đáng nghi ngờ.

Nếu là đối tác kinh doanh, Sửu và Tị khá “hợp cạ”. Phương pháp tiếp cận vấn đề hết sức thực tế và thận trọng của tuổi Sửu sẽ bổ sung cho tuổi Tị ở chỗ: Tị thường nhanh chóng và khá trực giác khi đưa ra quyết định. Rắn khá thông thái và linh hoạt trong chuyện kiếm tiền. Bên cạnh đó, Rắn còn khéo giao tiếp và khá nổi bật trong công việc. Điều này chính là niềm mong đợi của Trâu vì tuổi này thường hợp với vị trí hậu phương hơn.

Tuổi Ngọ với Tuổi Sửu

Người cầm tinh con Ngựa thấy rất khó chịu nếu không đi đây đi đó vì Ngựa ít khi sống chung với cảnh tù túng, đơn điệu. Điều đó ngược hẳn với tính cách của người tuổi Trâu. Tuổi Sửu và Ngọ có rất nhiều điểm tương phản nhau. Có những lúc dường như họ không còn đủ kiên nhẫn với nhau bởi sự trái ngược hiện ra thật rõ nét. Trong khi tuổi Sửu nhút nhát, bảo thủ và thích sự ổn định thì tuổi Ngọ lại thích tự do, thích đi du lịch và thích sự khám phá cuộc sống mới.

Người cầm tinh con Ngựa thấy rất khó chịu nếu không đi đây đi đó vì Ngựa ít khi sống chung với cảnh tù túng, đơn điệu. Điều đó ngược hẳn với tính cách của người tuổi Trâu bởi quanh quẩn bên ngôi nhà thân yêu là sở thích khó thay đổi của tuổi này.

Nếu Ngựa và Trâu yêu nhau thì đây chưa phải là mối quan hệ lý tưởng. Bởi Ngựa nhiều khi thấy Trâu nhàm chán và đơn điệu, trong khi tuổi Ngựa lại thích khám phá những điều mới và thích đi nhiều nơi. Tuy nhiên, hai con giáp này cũng bổ sung một số điểm cho nhau. Đôi khi Ngựa cũng rất chiều và khâm phục tính cách kiên nhẫn, sự chịu đựng và yêu gia đình đáng quý của tuổi Trâu. Tuổi Trâu cho tuổi Ngựa thấy được giá trị bền vững của tình yêu chân thực. Đặc biệt là khi Ngọ gặp khó khăn hoặc căng thẳng, Sửu luôn dịu dàng và nhẹ nhàng giúp Ngọ vượt qua thử thách.

Khi là đối tác kinh doanh, hai “hành tinh” này thành công hay thất bại phụ thuộc chủ yếu vào con đường mà tuổi Ngựa chọn. Bởi tuổi Ngựa luôn thay đổi và có nhiều hướng đi. Tuy vậy, tuổi Ngọ khá chăm chỉ, điều này khiến tuổi Sửu đánh giá rất cao. Họ sẽ kết hợp rất ăn ý khi tuổi Sửu ủng hộ và đi cùng đường với tuổi Ngọ.

Tuổi Mùi với Tuổi Sửu

Mối quan hệ giữa Sửu và Mùi có rất nhiều điểm cần bàn vì đây là hai con giáp đối dường như đối lập nhau. Mâu thuẫn giữa hai “hành tinh” này bắt nguồn từ bản chất hoàn toàn khác nhau. Trong khi tuổi Mùi mơ mộng và có phần hơi lập dị thì tuổi Sửu lại hết sức thực tế và nhạy cảm. Bởi vậy, họ luôn tìm thấy những điểm khó chịu ở nhau. Người tuổi Dê cho rằng chính sự bảo thủ và thực tế của tuổi Trâu khiến người cầm tinh con con Trâu hạn chế khả năng của chính họ. Còn tuổi Trâu thì thấy tuổi Dê sống quá thiên về cảm xúc, ướt át đến mức khó chịu.

Nếu là bạn bè hay người yêu thì hai con giáp này đều khó hòa hợp. Trong những buổi hẹn hò đầu tiên, tuổi Mùi đã gây sự chú ý bằng vẻ nũng nịu mà trong mắt tuổi Sửu thì điều đó thật khó coi. Ngược lại, tuổi Sửu thể hiện sự nghiêm túc, sâu sắc hơn so với tuổi. Chính bởi nét tương phản này mà người cầm tinh con Dê thấy tuổi Trâu chẳng có chút sáng tạo nào, lúc nào cũng đặt cho mình những quy tắc; còn tuổi Dê luôn bất bình thường trong mắt tuổi Trâu. Họ chỉ có thể đi chung một con đường nếu cả hai cùng chịu khó hiểu nhau và không coi sự đối lập là điều tiêu cực. Tuy vậy, có đôi lúc, Mùi cũng rất khâm phục sự trung thực và đáng tin tưởng của Sửu.

Khi là đối tác làm ăn, hai tuổi này cần cố hiểu nhau thì mọi chuyện sẽ mới êm ấm. Khi mỗi người coi những điểm mạnh của người kia là tài sản quý giá thì họ sẽ tạo thành một tập thể khá vững chắc. Nhưng nói bao giờ cũng dễ hơn làm, bởi vậy đòi hỏi cả hai tuổi này phải cùng cố gắng và kết hợp hài hòa.

Tuổi Thân với Tuổi Sửu

Tuổi Trâu và tuổi Khỉ có nhiều điểm khác biệt. Tuy nhiên, họ có thể trở thành bạn thân nếu cả hai đều hiểu rõ bản chất của nhau. Người tuổi Trâu thích sự hòa hợp và trật tự; họ thường biết cách để tránh khẩu chiến khi có thể. Người tuổi Khỉ sẽ tìm cách để làm cho cuộc sống của Trâu phong phú hơn và đem lại khoảng thời gian thật vui vẻ cho người tuổi Trâu vốn trầm tính và nội tâm. Tuy nhiên, khi nào tuổi Thân quá ưu tiên cho sự náo nhiệt thì tuổi Sửu không còn đủ kiên nhẫn nữa.

Khi là hai người yêu nhau, người này biết cách tạo không gian riêng cho người kia. Tuổi Thân thích năng động, thích đi chơi cùng bạn bè và các hoạt động xã hội còn tuổi Sửu thì chỉ thích quanh quẩn bên ngôi nhà thân yêu của mình. Sở thích của tuổi Thân là tìm sự thoải mái cho bản thân mình. Bởi vậy, đôi khi người cầm tinh con Trâu khó có thể chịu nổi được tính ham vui của tuổi Thân. Trong mắt của tuổi Trâu, tuổi Khỉ có lúc tò mò, lúc lại thích lang thang một mình khiến người cầm tinh con Trâu không thể hiểu nổi.

Nếu là đối tác làm ăn, hai “hành tinh” này rất khó giao tiếp với nhau bởi đơn giản, họ có mục tiêu khác nhau: Tuổi Sửu muốn làm việc tập trung, chăm chỉ và làm đúng ngay từ lần đầu trong khi đó, tuổi Thân chỉ tập trung vào công việc khi biết chắc kết quả là tuyệt vời thôi. Ngược lại, tuổi Thân sẽ thấy chán ngán bởi tính thực tế, bảo thủ của tuổi Sửu và hơn thế nữa còn coi tuổi Sửu là “kẻ phá đám”.

Tuổi Dậu với Tuổi Sửu

Mối quan hệ giữa tuổi Trâu và tuổi Gà gần như đạt tới mức hoàn hảo dù là người thân, anh em hay bạn bè. Nếu có sự khác biệt giữa họ thì đó cũng là những điểm bổ sung và hỗ trợ cho nhau.

Sửu và Dậu đều khá thận trọng trong cách tiếp cận cuộc sống. Hai “hành tinh” này đều chọn cách giải quyết thực tế và ít khi thích mạo hiểm. Những đặc điểm của hai con giáp này sẽ giúp họ kết hợp rất ăn ý trong công việc. Bởi vậy, nếu là đối tác kinh doanh, Sửu và Dậu sẽ tạo thành một tập thể khá vững mạnh đó. Khi đó, tuổi Sửu sẽ là “xương sống” của tổ chức, còn tuổi Dậu sẽ là người thúc đẩy cho sự nghiệp của hai người phát triển theo hướng tích cực.

Nếu là cặp đôi uyên ương, họ rất tin tưởng và thành thực với nhau. Chẳng ai trong số họ phải thể hiện sự ghen tuông hay sở hữu nào cả. Bởi đơn giản, họ thấy họ hoàn toàn thuộc về nhau. Tuổi Trâu thường nhút nhát, nghiêm túc và ít khi bộc lộ tình cảm một cách thái quá nhưng rất sâu sắc và hết lòng với tuổi Gà. Điều đáng quý hơn cả là người cầm tinh con Trâu luôn biết cách tránh mâu thuẫn và tạo được không khí hài hòa trong cuộc sống tình cảm. Đặc biệt hơn nữa là tuổi Trâu có xu hướng lý tưởng hóa người yêu của mình. Còn tuổi Gà thì luôn sống tốt và thậm chí còn hơn nhiều so với sự mong đợi của tuổi Trâu. So với Sửu thì Dậu năng động hơn và thích tham gia các hoạt động xã hội hơn. Nhưng không vì thế mà Dậu xa rời Sửu; Dậu luôn tìm cách kéo Sửu ra khỏi vỏ ốc nếu Sửu chỉ biết nhút nhát và ngại ngùng. Mâu thuẫn chỉ xảy ra khi cả hai cùng bình luận hay đánh giá một ai đó và hơi có ý kiến khác nhau. Nhưng quan trọng hơn cả, hai “hành tinh” đều xuất phát từ sự chân thành và thẳng thắn nên giữa họ chẳng có điều gì phải suy nghĩ nhiều.

Tuổi Tuất với Tuổi Sửu

Dù là bạn, người yêu hay đối tác làm ăn, Sửu và Tuất đều kết hợp khá ăn ý với nhau.Cả hai con giáp này đều đánh giá rất cao niềm tin, bản chất trung thực và quan trọng hơn cả, họ đều tìm thấy ở nhau những điểm trên. Tuổi Tuất rất hay lo lắng và nghĩ cho người khác; còn tuổi Sửu vừa thông minh, vừa rất khâm phục Tuất và không bao giờ để Tuất có lý do gì để ghen hay phản bội.

Nếu là một cặp uyên ương, người này sẽ tạo cho người kia sự thoải mái và ổn định. Người tuổi Sửu thích sự hài hòa, thích nhà cửa luôn sạch sẽ và luôn biết cách để tuổi Tuất có phần quá nhạy cảm thấy yên lòng. Đôi khi Tuất có cái nhìn khá bi quan về cuộc sống. Thật may mắn là bên cạnh Tuất lại có người tuổi Sửu bởi Sửu sẽ là bờ vai để Tuất vượt qua nỗi sợ hãi. Sẽ chẳng khi nào có sự phản bội giữa hai con người này, bởi cả hai đều biết trân trọng sự thủy chung và chân thành. Tuy nhiên, thỉnh thoảng họ cũng có mâu thuẫn. Đó là mỗi khi trời trở gió và tuổi Sửu bướng bỉnh hơn thường ngày. Nhưng những sự kiện kiểu như thế này không xảy ra nhiều bởi họ thường rất hài hòa với nhau.

Khi là đối tác kinh doanh, họ sẽ rất phát đạt. Hai "hành tinh” này đều có giác quan kinh doanh khá nhạy bén. Sửu tin Tuất và ngược lại Tuất chẳng bao giờ phải lăn tăn về Sửu. Tuổi Sửu vừa chăm chỉ, vừa cẩn thận ngay từ bước đầu; còn tuổi Tuất có biệt tài đọc được tâm lý của người khác nên họ tạo thành một mối quan hệ khá bền vững.

Tuổi Hợi với Tuổi Sửu

Sửu và Hợi kết hợp khá ăn ý, đặc biệt khi họ là một cặp uyên ương. Họ có thể ở bên nhau cả ngày, quanh quẩn với chiếc giường, buồng tắm, tầm quất cho nhau, cùng ăn uống và tận hưởng cuộc sống. Không phải vì hai con giáp này lười biếng mà họ rất hợp nhau ở những khoản trên. Trên thực tế, tuổi Sửu sống thực tế và rất nghiêm túc; còn tuổi Hợi thì luôn đề ra các mục tiêu cho mình. Tuổi Sửu luôn có xu hướng tạo cho ngôi nhà của mình không khí hài hòa và yên tĩnh, đây cũng chính là điều mà tuổi Hợi mong đợi. Biết rằng Sửu thường ngại ngùng, nhút nhát nên Hợi thường tìm cách kéo Sửu đi cùng mình trong các cuộc vui để Sửu mở mang và năng động hơn. Bên cạnh đó, Hợi cũng rất vui khi được ở nhà cùng Sửu vì Sửu vốn thích quanh quẩn trong nhà hơn là các hoạt động xã hội.

Nếu là đối tác làm ăn, họ sẽ kết hợp khá thành công. Tuổi Hợi làm việc rất chăm chỉ vì lý tưởng của mình. Đây là điều mà tuổi Sửu đánh giá rất cao. Người tuổi Hợi vốn khá cầu toàn nhưng cũng đánh giá rất cao khả năng của tuổi Sửu. Hợi thường có xu hướng nhìn vào điểm tốt của những người khác và thấy được rằng tuổi Sửu rất trung thực, đáng tin cậy và có năng lực. Bởi vậy, Hợi rất hài lòng. Sửu không bao giờ lợi dụng những gì Hợi có, nhất là tính cách dễ bị mắc lừa của Hợi như các con giáp khác có thể làm. Mâu thuẫn chỉ xảy ra khi cả hai “hành tinh” này đều bướng bỉnh, không ai chịu nhường ai. Tuổi Hợi thích làm theo cách của mình còn tuổi Sửu rất khó thay đổi ý định khi đã có niềm tin.

5.Sự nghiệp người tuổi Sửu

Có ý thức và đáng tin cậy, người tuổi Sửu thường có đôi vai to rộng, luôn sẵn sàng gánh vác trách nhiệm về mình. Họ luôn được cấp trên tin tưởng vì tính chu đáo và hiệu quả trong công việc được giao. Người tuổi Sửu làm việc độc lập sẽ tốt hơn khi làm theo nhóm. Dù có vẻ không màng đến danh lợi, chỉ biết cặm cụi làm việc, nhưng bao công sức họ bỏ ra sẽ được đền đáp, vì thế mà sớm muộn gì họ cũng vươn lên vị trí dẫn đầu trong công việc.

Nói chung, thuở nhỏ và thời thanh niên của người tuổi Sửu khá bình lặng, cuộc sống vô cùng êm ả nhưng đến thời trung niên, sự phiền não sẽ dần dần xuất hiện, hơn nữa còn khá đau đầu nhức óc, đặc biệt là về mặt tình yêu – hôn nhân sẽ nảy sinh tình huống đột biến. Lúc này nếu bạn không thể bình tĩnh và giải quyết các mối quan hệ một cách tỉnh táo, hậu quả khó mà tưởng tượng nổi.

Ngoài ra, khi về già, bạn có thể sẽ gặp phải thất bại. Bạn không cần phải lo lắng quá, cũng không được lơ là, chỉ cần giải quyết thỏa đáng, tất cả sẽ trôi qua an lành. Mọi thứ đều ở chính bản thân bạn.

Thông thường, cuộc sống hàng ngày của bạn rất bận rộn, liên tục đôn đáo khắp nơi vì kế sinh nhai. Bởi thế, cuộc sống không an nhàn lắm. Bạn thiếu khả năng kinh doanh về mặt tiền bạc, nên sẽ không có một cuộc sống khá giả, có chút tích lũy phòng thêm nhưng không thật nhiều. Cứ chodù hôm nay tiền bạc chật túi, nhưng không đảm bảo ngày mai sẽ vẫn như vậy.

Về kinh tế, khoản chi của bạn luôn nhiều hơn thu. Trước tình huống này, tốt nhất nên tránh xa sòng bạc. Việc đầu cơ cũng nên né tránh, có tiền hãy làm những chuyện chính đáng. Có thể bạn sẽ thu được nhiều khoản ngoài dự tính, phát tài một đôi lần nhưng nhất thiết không được chìm đắm trong đó.

Cá tính của bạn đã lên đến cực điểm. Tuy biết trước mặt có món hời kha khá, nhưng hễ đối phương có thái độ thành kiến hay gai mắt, bạn sẽ nhất quyết cự tuyệt ý tốt của anh ta, vứt bỏ món lợi trước mắt. Chính vì vậy, bạn không giỏi vận dụng trí thông minh khi tiếp xúc, ngoại giao với người ta, không thể nhẹ giọng nín hơi ứng phó với họ, thường thì kiên quyết, nằng nặc không thay đổi mà mất đi món lợi đã gần cầm chắc trong tay.

Bạn luôn công bằng, dứt khoát, làm việc công khai, đó mới là con đường đúng đắn để giành lấy tài vận. Bạn rất ghét kiểu tính toán trước sau để tranh giành lợi ích. Người tuổi Sửu nếu không muốn dựa vào nguồn thu nhập ổn định để tăng vận tài, thì có thể đầu tư vào bất động sản.

7.Vận mệnh người tuổi Sửu với tháng sinh

Sinh tháng giêng

Tiết Đầu xuân, đợi thời xuất quân, tuy trước mặt vận chưa đến, về sau có công việc, đủ ăn đủ mặc, sức khỏe tốt, khi ấy khắc có đất dụng võ, tài lộc dồi dào, buồn phiền về đường gia đình.

Sinh tháng hai

Tiết Kinh trập, hấp tấp, láu táu, muốn làm lớn nhưng không có được thực quyền, do tính tự tôn cao, mạnh dạn, có uy nhưng vận đen trùng phùng, cả đời phiền muộn không vui.

Sinh tháng ba

Tiết Thanh minh, một bầu không khí trong lành, tiêu dao, vui vẻ, tự do tự tại, giành hết của thiên hạ, đến đâu cũng bình yên vô sự, không bị ai trói buộc, thông minh, mẫn cảm, tuy có chút trắc trở sóng gió vẫn đến được bến bờ, cuộc sống dư giả, tính độc lập cao.

Sinh tháng tư

Tiết Tiểu mãn, bôn ba khắp nơi, vô cùng vất vả, chẳng được nghỉ ngơi, hay bị người khác chỉ huy, quản thúc, không được tự do hành động, ít tài lợi, đường công danh cũng mờ mịt, không có biệt tài nổi bật, có tinh thần phi thường, tuổi thọ không dài, gian nan, khó khăn, vận mạng không may mắn, cô đơn, vất vả.

Sinh tháng năm

Tiết Mang chủng, biệt ly xa nhà, cách nạn chồng chất, gian nan trùng phùng, theo đuổi viển vông, khổ sở chẳng ích gì, uổng phí tâm huyết một đời, buồn vui lẫn lộn, không được tự do hành sự dẫn đến thất bại. Mọi việc đều nên nhẫn nại, thận trọng để tránh gặp phải nạn tổn hại sức khỏe, cay đắng vất vả vạn phần, cuối cùng cũng có ngày mở mày mở mặt.

Sinh tháng sáu

Tiết Tiểu thử, tài năng, biết nhiều hiểu rộng, nửa đời vất vả nửa đời hạnh phúc, thong dong, ít bận rộn, sự nghiệp như ý, lành nhiều dữ ít, hay được giúp đỡ, hưởng phúc tự nhiên, đường đi rộng thênh thang, vẻ mỹ đức trời phú, mặt trời ló ở phương đông, tây thiên có đại lợi.

Sinh tháng bảy

Tiết Lập thu, mạng hưng vượng, gia môn hòa mục, tiến thoái được thời, nóng lạnh đồng đều, cả đời ít khó khăn, mọi việc suôn sẻ, bốn phía thênh thang, từ nhỏ đã có phúc tinh chiếu mệnh, về già có hiếu tử hiếu tôn.

Sinh tháng tám

Tiết Bạch lộ, hưởng phúc đức của tổ tiên, mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, tuy không phú quí song cả đời ít ách vận sóng gió, danh lợi đồng đều, con cháu hưng vượng. Có ngày thành công về uy vọng, tài năng, tinh thông nghệ thuật, khỏe mạnh.

Sinh tháng chín

Tiết Hàn lộ, vạn sự như ý, mưu trí quyền lực, có chí ắt thành, mưu sự như ý, trường phát cát tường, gặp hung hóa cát, vừa không phải đề phòng bên ngoài, vừa ít muộn phiền bên trong, cứ thẳng tiến, hoạn nạn tiêu tan, cả đời hạnh phúc.

Sinh tháng mười

Tiết lập Đông, tuy phải chịu phong sương, thiếu ăn thiếu mặc, song về sau sự nghiệp tiến bộ, tiền bạc dư dật, có thể “nhật xuất đông phương – mặt trời mọc từ phía đông”, vĩnh hằng như mặt trăng.

Sinh tháng mười một

Tiết Đại tuyết, thân hàn ý lạnh, mọi việc khó toại nguyện, không thuận lợi, cuộc sống giàu có, không có công danh. Cuộc sống bình thường.

Sinh tháng mười hai

Tiết Tiểu hàn, bảng vàng thiếu tên, công danh phập phù khó thành, yên vui nhà cửa, một đời tầm thường.

Tình yêu hôn nhân của người tuổi Sửu với các tuổi khác

Tử vi Lục thập hoa giáp

Xem tử vi năm mới


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tử vi tuổi Sửu

Lời dặn khi giải mộng

Phàm như mộng triệu là những cảnh tượng, tình hình hay là thanh âm mà hằng ngày trong tâm chí không thường tư tưởng tới, mắt không thường trông thấy, tai không thường nghe tiếng, thình lình hiện ra tại trong giấc ngủ, mới gọi là mộng.
Lời dặn khi giải mộng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lời dặn

Phàm như mộng triệu là những cảnh tượng, tình hình hay là thanh âm mà hằng ngày trong tâm chí không thường tư tưởng tới, mắt không thường trông thấy, tai không thường nghe tiếng, thình lình hiện ra tại trong giấc ngủ, mới gọi là mộng, mộng thì mới có trưng triệu. Còn như cái tình hằng ngày vẫn tư tưởng, cái cảnh hằng ngày vẫn thấy, cái tiếng hằng ngày vẫn nghe mà ban đêm trong giấc ngủ mê nghĩ tới, trông thấy hay là nghe tiếng, đó là mơ tưởng, chứ không phải mộng, đã không phải mộng thì không có trưng triệu, nghĩa là không có ứng nghiệm về điềm tốt, xấu, sự nên, hư gì hết.

Đoán mộng thì phải tuỳ theo địa vị, phận lượng, sự thế, tư cách của người nằm mộng và tình cảnh trong giấc mộng, suy lẽ trong sách và tham đính lấy ý mình mà đoán ra, chớ không có thế nệ sách mà y theo lệ nhức định được. Vì rằng mộng mỵ biến ảo dị thường, xưa nay mỗi mộng mỗi khác, không mộng nào giống mộng nào, nên sách chỉ kể đại khái những mộng này thì ứng về những điềm này mà thôi, không có thể lập thành cho hết được.

Pháp sư Trần Ngọc Kiệm


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lời dặn khi giải mộng

Ý nghĩa của ba nốt ruồi thẳng hàng –

Ai cũng có một hay nhiều nốt ruồi trên người, nốt ruồi có thể “tiết lộ” cho bạn những điềm hung, cát trong cuộc đời. Khi phát hiện thấy nốt ruồi thiên tướng xuất hiện trên cơ thể, bạn chớ nên dại dột tẩy xóa vì nó sẽ mang tới cho bạn rất nhiều may mắ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

n. Vậy nốt ruồi phú quý thường xuất hiện tại những vị trí nào trên cơ thể?

Nốt ruồi khai vận ở Huyệt Thái Dương : Huyệt Thái Dương được coi là vị trí của “Cung Thiên Di” hay còn gọi là “Cung Dịch Mã”, là vị trí tiết lộ việc đi lại, du lịch, dịch chuyển.

Nốt ruồi khai vận giữa hai đầu lông mày: Vị trí giữa hai lông mày được coi là “Cung sự nghiệp” trong Nhân tướng học, tượng trưng cho sự thăng tiến và phát triển trong sự nghiệp, dựa trên khí sắc ở bộ phận này có thể tiên lượng được họa phúc trong cuộc đời một con người. Nếu xuất hiện nốt ruồi thiên tướng ở vị trí này nghĩa là bạn sẽ có một sự nghiệp thành đạt, nhưng nếu đó là một nốt ruồi xấu thì khoảng năm 28 tuổi bạn sẽ gặp vấn đề nghiêm trọng trong hôn nhân hoặc chuyện tình cảm.

Nốt ruồi khai vận mọc ở vị trí giữa mắt và lông mày: Vị trí giữa mắt và lông mày được coi là “Cung điền trạch”. Khi có nốt ruồi xuất hiện tại đây chứng tỏ bạn là một người liêm khiết, thanh tú, đa tài đa nghệ, hay được người đi trước nâng đỡ coi trọng, cuộc sống hôn nhân hạnh phúc mĩ mãn. Tuy nhiên nếu đó là nốt ruồi xấu thì bạn sẽ phải thường xuyên thay đổi nơi ở, những nơi bạn sinh sống hay có những hiện tượng khó lí giải xuất hiện như cơm bữa Do đó, bạn chớ nên đầu cơ vào lĩnh vực bất động sản, nếu không sẽ chỉ chuốc lấy những thất bại nặng nề.

Nốt ruồi khai vận mọc ở môi trên: Môi trên có nốt ruồi trong tướng học được coi là phúc tướng, biểu hiện việc cả đời được sung túc no ấm, không phải lo cái ăn cái mặc. Ngoài việc thường xuyên được mời đi ăn uống, bạn cũng là người theo chủ nghĩa “ăn ngon”, mối quan hệ trong làm ăn buôn bán rất tốt đẹp, chỉ có duy nhất một nhược điểm là đôi khi hơi quá thẳng thắn, dễ đắc tội với người; mệnh kỵ Thủy nên trong đời ít nhiều sẽ gặp nạn về đường thủy.

Nốt ruồi khai vận mọc ở cằm: Những người có nốt ruồi ở cằm là người có duyên về địa ốc, điền trạch, khi về già. Bạn sẽ có khối bất động sản đồ sộ hoa lệ, bên cạnh đó cũng tiết lộ bạn là người rất chú trọng việc thưởng thức phong vị của cuộc sống.

Nốt ruồi khai vận mọc trong lòng bàn tay: Nốt ruồi trong lòng bàn tay thể hiện bạn là một người rất thông minh và không bao giờ thiếu tiền, khi về già sẽ gặt hái được thành tựu to lớn
Nếu mu bàn tay có nốt ruồi thì biểu lộ bạn là người thích quản lý tiền bạc, sau khi kết hôn bạn sẽ là người nắm giữ kinh tế trong nhà, là người có khát vọng mạnh mẽ.

Nốt ruồi ở đuôi lông mày: Trong tướng học đây được coi là vị trí “Thái Hà”, tượng trưng cho những con người lí trí và tài năng. Khi lông mày có nốt ruồi thiên tướng nghĩa là bạn sẽ luôn ngập tràn niềm vui, mối quan hệ của bạn với mọi người thường rất tốt, làm ăn được hanh thông thuận lợi. Còn nếu ở đây xuất hiện nốt ruồi xám thì có nghĩa là anh chị em ruột hoặc anh chị em họ sẽ có người gặp bất hạnh, nếu không phải tứ chi hay bị thương thì cũng dễ vướng chuyện ngoại tình. Khi bạn 33, 34 tuổi cần đặc biệt chú ý nhắc nhở người thân

Nốt ruồi ở xương gò má: Nếu trên xương gò má xuất hiện nốt ruồi thiên tướng nghĩa là trên con đường quan trường bạn sẽ có vị trí và quyền lực nhất định, nếu đó là nốt ruồi xấu thì bạn dễ tin người, nên cũng dễ bị người khác bán rẻ, trong tình yêu hay gặp cảnh có kẻ thứ ba xen ngang tranh cướp, làm việc tốt cũng dễ bị kẻ khác tranh công. Không chỉ vậy, bạn cũng có nguy cơ tiềm ẩn về bệnh tim và tuần hoàn máu, do đó nên chú ý đề phòng chăm sóc bản thân hằng ngày.

Nốt ruồi ở mũi, cánh mũi: Trong 12 cung Diện tướng học, mũi được coi là “Cung Tài Bạch”, mũi càng dày, đầy đặn thì thu nhập càng cao, cánh mũi càng tròn trịa thì tích lũy được càng nhiều. Nếu trên mũi bỗng xuất hiện nốt ruồi có nghĩa là bạn có nguồn thu dồi dào thời gian gần đây, nếu là nữ giới nghĩa là đường chồng con không được tốt lắm, hay phải buồn sầu lo nghĩ cho một nửa của mình. Về tật ách cần đề phòng bị trĩ, đặc biệt khi vào thời điểm 40 tuổi nếu trên cánh mũi có nốt ruồi thì rất dễ rơi vào tình trạng tiền tài tiêu tán mà không ngăn được. Các mốc quan trọng cần đặc biệt chú ý trong đời gồm: 44 tuổi, 45 tuổi, 49 tuổi, 50 tuổi.

Nốt ruồi dưới lòng bàn chân: Nếu có nốt ruồi ở vị trí này thì bạn là người di chuyển rất nhiều, có cơ hội được đi đây đó và du lịch nước ngoài. Trong chốn quan trường, bạn là người có khả năng hô phong hoán vũ. Ngón chân có nốt ruồi biểu hiện bạn là người trung hậu thật thà, hay được bạn bè, cấp dưới giúp đỡ, bảo vệ, tương lai sau này là người có sự nghiệp hiển vinh rạng rỡ.

Tuy nhiên, cũng có nhiều người có 3 nốt ruồi thẳng hàng. Liệu điều đó dự báo điều gì về vận mệnh cuộc đời của bạn?

  • Nếu bạn là sở hữu 3 Nốt ruồi “Trí, nhân, dũng”
  • Là ba nốt ruồi nối tiếp nhau ở vị trí giữa cổ và bả vai được gọi là nốt ruồi “Trí, nhân, dũng”. Chủ nhân của tướng nốt ruồi này thông minh, lanh lợi, học hành giỏi giang, hiếu học, tài năng xuất chúng.
  • Bên cạnh đó, người này dũng cảm, hành hiệp trượng nghĩa, đi tới đâu cũng được mọi người yêu mến, tôn trọng.

Khi có những nốt ruồi như trên thì các bạn đừng nên tẩy xóa nó để mất đi vận mệnh may mắn mà trời ban cho mình nhé !.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa của ba nốt ruồi thẳng hàng –

Trình tự 11 nghi thức theo lễ cưới truyền thống

Trình tự tiến hành lễ cưới của người Việt Nam, từ Nam chí Bắc, từ miền ngược đến miền xuôi – tên gọi có thể khác nhau, nhưng đều thống nhất như sau:

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Lễ chạm ngõ

Lễ chạm ngõ là thủ tục đầu tiên dành cho đám cưới truyền thống của người Việt. Lễ chạm ngõ là nhà trai sẽ mang lễ vật như trầu, cau, rượu, chè sang nhà gái. Trong đó, trầu cau là lễ vật chính. Vì theo quan niệm của người Việt “miếng trầu là đầu câu chuyện”, là biểu thị cho tình nghĩa vợ chồng keo sơn, gắn kết bền chặt, thủy chung như câu chuyện cổ tích trầu cau của người xưa để lại.

2. Lễ vấn danh (ăn hỏi)

Lễ vấn danh hay còn gọi là lễ ăn hỏi. Theo cách gọi của mộc mạc của dân gian đó là ngày bỏ rào. Khi lễ ăn hỏi được tiến hành nghĩa là người con gái đó đã có nơi có chốn, không được để ý nhòm ngó bên ngoài. Mà phải giữ lễ tiết với chồng và có bổn phận trách nhiệm với nhà chồng. Lễ ăn hỏi cũng là dịp để hai gia đình ngồi lại với nhau để định ngày cưới.

lê hỏi.
Mâm quả trong ngày ăn hỏi

Sau lễ ăn hỏi, nhà gái sẽ mang lễ vật nhà trai mang sang để phân phát cho họ hàng với mục đích báo hỉ. Thông thường cau trầu được bọc trong giấy màu hồng hoặc hộp. Còn nhà trai sẽ báo hỉ với họ hàng bằng việc đi phát thiệp mời đám cưới.

3. Lễ cưới

Theo nghi thức lễ cưới truyền thống, trong đám cưới nhà trai phải thực hiện nghi lễ đầu tiên là lễ nạp tài. Trước khi tổ chức hôn lễ nhà trai sẽ mang sính lễ bao gồm trầu cau, gạo nếp, thịt lợn, quần áo cũng như đồ trang sức cho cô dâu sang nhà gái. Ý nghĩa của việc nạp tài là nhằm mục đích đóng góp với nhà gái tiền cỗ bàn, đồ nữ trang cho cô dâu làm vốn sau này.

lê cưới.
Cô dâu chú rể trao nhẫn cưới cho nhau

Tuy nhiên, do hiểu sai mục đích của lễ nạp tài nên ở nhiều nơi, nghi thức này đã biến tướng thành hình thức thách cưới nặng nề. Đây là hủ tục còn tồn tại ở nhiều vùng đồng bào dân tộc và một số địa phương cần loại bỏ sớm, để đám cưới thực sự là ngày hạnh phúc của đôi uyên ương.

4. Lễ xin dâu

Trước giờ đón dâu nhà trai cử người đem trầu, rượu đến xin dâu, báo đoàn đón dâu sẽ đến.

5. Lễ rước dâu

Sau khi hoàn thành tổ chức tiệc ở nhà gái, nhà trai sẽ tiến hành lễ rước dâu. Lễ rước dâu truyền thống được thực hiện như sau: Đoàn rước dâu nhà trai sẽ đi theo từng đoàn, người cao tuổi trong dòng họ sẽ cầm hương đi trước theo sau là những người mang sính lễ.

lễ rước dâu.
Nhà trai rước dâu về đàng trai

Tại nhà gái, đại diện người cao tuổi sẽ thắp hương và vái trước bàn thờ tổ tiên cùng rước đoàn nhà trai vào. Cô dâu và chú rể cũng làm lễ trước bàn thờ gia tiên nhà gái. Sau đó, cô dâu chú rể bưng trầu đi mời họ hàng. Bố mẹ và gia đình sẽ tặng quà cho con gái. Đồng thời nhà gái cũng bày cỗ bàn để quan viên hai họ cùng chung vui. Tiệc tan, đoàn sẽ rời nhà gái về nhà trai và tổ chức hôn lễ tại đó. Họ nhà gái chọn sẵn người đi theo cô gái, gọi là các cô phù dâu.

6. Rước dâu vào nhà

Khi đoàn rước dâu về đến ngõ, mẹ chồng sẽ cầm bình vôi tránh mặt một lúc để cô dâu bước vào nhà. Đến nay, chưa có những giải thích cụ thể về nghi lễ này. Nhưng dân gian cho rằng, đây là cách để giải quyết xung khắc “cảnh mẹ chồng nàng dâu” sau này.

7. Lễ tơ hồng

Sau khi lễ cưới ở nhà trai kết thúc, quan viên đã ra về, người thân sẽ ở lại để chứng kiến cô dâu chú rễ làm lễ tơ hồng. Vì theo quan niệm người xưa, duyên nợ vợ chồng là do ông tờ bà nguyệt xe nên. Cúng lễ tơ hồng với ý nghĩa cảm tạ hai ông bà này. Lễ vật cúng ông tơ bà nguyệt chỉ có rượu và hoa quả. Nghi lễ có thể được thực hiện trong nhà hoặc ngoài trời đều được.

Nghi lễ được thực hiện như sau: Người già nhất trong họ sẽ chứng kiến buổi lễ. Lạy cụ tơ hồng, rồi hai vợ chồng vái nhau (gọi là phu thê giao bái). Những đám cưới của gia đình giàu có, việc tổ chức có quy cách hơn.

8. Trải giường chiếu

nghi le cuoi (2).
Nghi thức mẹ chồng trải chiếu lên giường

Sau lễ tơ hồng cô dâu chú rể cùng mọi người vào phòng tân hôn. Ở trên giường, sẽ để sẵn đôi chiếu mới úp vào nhau. Mẹ chồng và đại diện người đông con hoặc cao tuổi của dòng họ sẽ trải đôi chiếu lên giường (ngày nay có thể thay bằng chăn, ra), ngay ngắn, xếp chăn gối gọn gàng, cẩn thận. Ý nghĩa của việc làm này, là chúc cô dâu chú rể nhanh có có tin vui và sinh được nhiều con cháu thảo hiền.

9. Lễ hợp cẩn

Là nghi lễ cuối cùng của đám cưới được tổ chức tại nhà trai. Trong nghi lễ này, cặp vợ chồng mới cưới sẽ được người cao tuổi trong dòng họ rót rượu vào chén để uống giao bôi và ăn bánh phu thê. Yêu cầu đôi tân lang, tân nương phải uống cạn rượu trong chén, ăn hết bánh không chia cho ai và không để dư thừa. Xong nghi thức này, mọi người sẽ ra ngoài để hai vợ chồng có thời gian tâm sự.

Ở một số nhà giàu có, thì những bạn bè với chú rể còn mang hoa, thắp đèn sáng rực trong phòng hợp cẩn. Họ cũng ca hát, gây tiếng động, hoặc vỗ tay, đập các khúc gỗ vào nhau. Do đó mà sau có chữ động phòng hoa chúc.

10. Lễ lại mặt

Lễ lại mặt hay còn gọi là ngày nhị hỉ. Sau ngày cưới, cô dâu sẽ trở về nhà gái, mang theo lễ vật để tạ gia tiên. Lễ vật trong ngày lại mặt gồm có: trầu, xôi, lợn. Nhà gái sẽ chuẩn bị một bữa cơm thân mật để mời cặp vợ chồng mới cưới.

11. Lễ cheo

Trong đám cưới truyền thống, lễ cheo rất được chú trọng là một nghi lễ quan trọng của đám cưới. Những nhà nho học ngày xưa, gọi lễ cheo là lễ lan nhai (nhiều người đọc ra là lễ lan giai). Lan nhai có nghĩa là tiền nộp cheo cho làng khi nhà trai đến đón dâu ở nhà gái.

Lễ cheo được tiến hành trước nhiều ngày hoặc sau lễ cưới 1 ngày. Nghi lễ này được tiến hành như sau: Nhà trai sẽ mang lễ vật hoặc tiền bạc đến cho làng của cô dâu, để mong nhận được sự công nhận của làng xóm đối với chú rể. Hiện nay, thủ tục này đã không còn thay vào đó khi các cặp đôi đăng ký kết hôn sẽ ra ủy bản để đăng ký và khai báo.

Yeutre.vn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trình tự 11 nghi thức theo lễ cưới truyền thống

Những lưu ý về phong thủy cho nhà bếp

Theo phong thủy, không gian nhà bếp cần phải được sắp đặt hợp lý để làm “giảm thiểu những điều chưa tốt” trong ngôi nhà bạn. Trong nhà, sẽ có những khu vực nào đó trong nhà được xem là “xấu” với các thành viên, dựa theo cung mạng, tuổi tác và giới tính của họ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nếu nhà bếp được bố trí tại một trong những khu vực "xấu" đó, thì đây là điều nên làm vì phong thủy nhà bếp tốt sẽ làm giảm thiểu những điều kém may mắn và mang đến những điềm lành cho gia đình bạn.



Vị trí của nhà bếp và các dụng cụ bếp núc

Nguồn năng lượng giúp đẩy lùi những điều xấu đến từ sức mạnh của lửa (một thành tố của ngũ hành) có ở nhà bếp. Nguồn lửa này cần phải luôn được kiểm soát, vì thế bạn tuyệt đối không nên làm lò sưởi hay bếp lửa nhà mình “mạnh mẽ” thêm bằng cách treo gương ở khu vực này.

Việc treo gương ở nhà bếp theo phong thủy là khá nguy hiểm, thậm chí có thể mang đến những tai nạn không đáng có cho gia đình. Bếp lửa hay lò sưởi cũng là một trong những yếu tố quan trọng nhất của phong thủy, có thể mang đến vô số điềm lành nếu được bố trí phù hợp.

Điều này có nghĩa là nguồn năng lượng toát ra từ bếp lửa nhà bạn phải đến từ một sự chỉ dẫn tích cực theo phong thủy. Đó có thể là việc đặt bếp lửa quay về hướng đông, hoặc theo hướng tốt của người trụ cột trong gia đình.

Bếp lửa cũng cần phải luôn được sử dụng để chế biến các món ăn cho cả nhà. Ngày nay, khi gần như mọi phương tiện nấu ăn đều hoạt động bằng gas hoặc điện, thì thật khó để có thể bố trí chúng sao cho thật “đúng hướng”.

Người Trung Quốc cũng như hầu hết các dân tộc châu Á khác đều dùng phương tiện nấu cơm như là một cách dễ nhất để chọn hướng tốt theo cung mạng của họ.

Tầm quan trọng của hai yếu tố tương phản

Theo phong thủy, nhà bếp có hai yếu tố tương phản nhau. Thứ nhất, vì đó là nơi chế biến các món ăn nên tượng trưng cho sự sung túc và giàu có của gia đình. Tuy nhiên mặt khác, vì đây là nơi thường xuyên có lửa nên có thể sẽ làm giảm những điều may mắn ở nơi mà nó có mặt.

Vì thế, nếu bếp lò hay lò sưởi được đặt ở một vị trí không tốt, thì không gian hay vị trí của nhà bếp càng quan trọng. Có hai yếu tố bạn cần phải quan tâm khi bố trí không gian trong nhà bếp.

Một là bếp lò, vì dụng cụ này tương trưng cho “lửa”, và yếu tố còn lại là tủ lạnh và nơi rửa chén bát, vốn tượng trưng cho “nước”. Trong ngũ hành, nước và lửa là hai thành tố khắc nhau, vì thế cần có một sự sắp đặt cân bằng giữa chúng, như là cách cân bằng âm – dương cho không gian nhà bếp của gia đình.  
  Sự sắp đặt không phù hợp

Các nhà phong thủy khuyên bạn không nên đặt bếp lửa hay lò sưởi hướng thẳng ra cửa chính, thay vì vậy nên hướng vào trong để giữ sựấm áp của “lửa” cho gia đình.

Sự sắp đặt phù hợp

Không gian nhà bếp cần phải có đủ ánh sáng, thoáng đãng và rộng rãi. Để nhà bếp có một phong thủy tốt, bạn cần phải tính đến yếu tố sắp đặt lò sưởi, bếp lửa, nồi cơm điện, tủ lạnh… Chẳng hạn, bếp lò hoặc lò sưởi (lửa) không nên đặt quá gần hoặc đối diện với tủ lạnh và bồn rửa chén bát (nước).

Khoảng cách cần thiết giữa chúng ít nhất là phải 60cm. Lý do là vì “nước” và “lửa” là hai thành tố khắc nhau. Nước cần phải được đặt cách xa lửa. Đặt một cái bàn hay kệ nhỏở giữa bếp lửa và nơi rửa chén bát cũng là cách có thể giúp bạn hóa giải sự tương khắc giữa chúng.



Hướng của bếp lửa


Vì là nơi chế biến các món ăn cho gia đình, tượng trưng cho sự sung túc và hạnh phúc, bếp lửa cần phải được đặt theo hướng tốt nhất của người trụ cột trong nhà. Với những dụng cụ dùng gas hoặc điện, bạn nên lưu ý đến vị trí nguồn điện hoặc gas cung cấp cho chúng.

Riêng nồi cơm điện (mặt có các nút bấm điều khiển) không nên hướng thẳng ra cửa chính, vì điều này ám chỉ có thể làm nguồn thực phẩm trong nhà bạn sẽ bị thất thoát ra ngoài. Trong khi đó các nút bấm điều khiển của bếp lò hướng thẳng lên trần nhà là điều có thể chấp nhận được.

Thêm một số hướng dẫn khác về phong thủy nơi nhà bếp

1. Nhà bếp nên ở gần cửa sau hơn là cửa trước của ngôi nhà bạn.

2. Vị trí nhà bếp không nên nằm ở giữa nhà.

3. Nhà bếp, đặc biệt là bếp lò hay lò sưởi, không nên xoay về hướng bắc. Điều này thường được mô tả như là “lửa ở cổng thiên đường” và tượng trưng cho điềm xấu.

Theo phong thủy, nhà bếp nằm ở hướng Bắc có thể khiến gia chủ bị mất việc, hao tài, làm ăn thua lỗ, không có hứng làm việc… Để hóa giải tình huống, bạn có thể thay đổi vị trí của bếp lò.

4. Bếp lửa hay lò sưởi không nên nằm đối diện với toilet, vì điều này có thể ảnh hưởng xấu đến thức ăn và mang đến những điều chưa tốt cho gia đình bạn.

Nên giữ cửa phòng tắm luôn đóng kín và thêm một cách để bạn hóa giải tình huống nữa là sơn cửa phòng tắm màu đỏ.

5. Bếp lửa hay lò sưởi không nên nằm đối diện với bất cứ cửa phòng ngủ nào trong nhà bạn.

6. Bếp lửa hay lò sưởi không nên nằm ngay dưới cầu thang hay bóng đèn.

7. Bếp lửa hay lò sưởi không nên nằm ngay dưới nhà vệ sinh của tầng trên.

(Theo DNSGCT)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lưu ý về phong thủy cho nhà bếp

Lá số tử vi có sao Thiên Tướng - người phụ tá đắc lực

Sao Thiên Tướng thuộc Thủy, Nam Đẩu đệ ngũ tinh, hóa Ấn, chủ Quan Lộc, có tính bình, giỏi phù trợ.
Lá số tử vi có sao Thiên Tướng - người phụ tá đắc lực

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi của bản thân chuẩn xác

La so tu vi co sao Thien Tuong - nguoi phu ta dac luc hinh anh
 
Thiên Tướng nhập Mệnh, chủ tướng mạo đôn hậu, chín chắn, khuôn mặt vuông tròn, thân hình trung bình, nhập miếu đầy đặn béo tốt, thích ăn nhậu, vật chất đầy đủ.
 
Người có sao Thiên Tướng tọa mệnh ăn nói chân thực, không giả dối, thấy người khác khó khăn thì động lòng xót xa, thấy kẻ ác thì bất bình. Lời lẽ cẩn thận, suy nghĩ chu đáo, có lòng chính nghĩa.
 
Quan hệ xã giao tốt đẹp, đối xử với mọi người chân thành, khiêm tốn lễ độ, giúp đỡ mọi người thường xuất phát từ tấm lòng chứ không tính toán chuyện báp đáp.
 
Lòng dạ lương thiện, ôn hòa, khoan dung, làm việc chăm chỉ, có năng lực quản lý và xử lý nghiệp vụ tốt, có thể hi sinh lợi ích bản thân để phục vụ đại cục. 
 
An phận thủ thường, một đời nhẫn nhịn chịu khó, một lòng trung thành, thích hợp làm các công việc phò trợ người khác. Tính tình tốt đẹp, thường được yêu quý.
 
Người có Thiên Tướng nhập Mệnh có khuyết điểm là việc gì cũng quá cẩn thận, suy nghĩ quá nhiều, thiếu sự thực tế và sự khai thác, bằng lòng với hiện tại, vì vậy thích hợp làm các công việc thư ký hay hậu trường.
 
Không quá giỏi kinh doanh là một trong số đặc tính của Thiên Tướng. Nếu kinh doanh tất là thương gia lương thiện. Người Thiên Tướng thật thà, không giỏi dùng mưu dùng kế, có lúc quá tin tưởng người khác, cơ hội đến nhưng không nắm bắt ngay nên thường lọt vào tay người khác.

Nữ mệnh Thiên Tướng dịu dàng hướng nội, nội tâm tốt đẹp, dung mạo đoan trang ổn trọng, lễ phép nhã nhặn, không tính toán với người khác, không quá coi trọng sự nghiệp, không thích khoe khoang và bàn chuyện không đâu, thích ở trong nhà. Thích hợp cùng chồng dạy con, là vợ hiền mẹ tốt, vật chất như ý.
Theo Tử vi toàn tập
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lá số tử vi có sao Thiên Tướng - người phụ tá đắc lực

Xem bói bạn có số mệnh giàu sang hay lận đận? - Xem bói - Xem Tử Vi

Xem bói bạn có số mệnh giàu sang hay lận đận?, Xem bói, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Xem bói bạn có số mệnh giàu sang hay lận đận?, tu vi Xem bói bạn có số mệnh giàu sang hay lận đận?, tu vi Xem bói

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem bói bạn có số mệnh giàu sang hay lận đận?

Nếu bạn là người tin vào số mệnh, hãy cùng xem bói tử vi và phán đoán xem bạn có số mệnh giàu sang hay lận dận để thử xem vận mệnh kiếp này của mình ra sao nhé.

Câu hỏi:

1. Bạn thấy mình có chí tiến thủ, luôn nỗ lực phấn đấu?

Đúng – Câu 2

Sai – Câu 3

2. Về bản chất, bạn là người có suy nghĩ tiêu cực?

Đúng – Câu 3

Sai – Câu 4

3. Bạn nghĩ tình cảm đáng quý hơn tiền tài?

Đúng – Câu 4

Sai – Câu 5

4. Bạn nghĩ cho đi thì phải có nhận lại?

Đúng – Câu 6

Sai – Câu 5

5. Bạn thích than vãn, kể khổ, nhưng không phải với ai bạn cũng nói?

Đúng – Câu 7

Sai – Câu 6

6. Bạn luôn nói chuyện một cách khách quan, không cố giấu lỗi lầm của mình?

Đúng – Câu 7

Sai – Câu 9

7. Dù bản thân mắc sai lầm, bạn cũng sẽ khiến người khác cảm thấy là mình đúng?

Đúng – Câu 8

Sai – câu 9

8. Có khi bạn lo sợ người khác biết suy nghĩ thực sự trong lòng mình?

Đúng – Câu 10

Sai – Câu 9

9. Trong mục tiêu phấn đấu của mình, bạn đặt vật chất lên hàng đầu?

Đúng – Câu 10

Sai – Câu 11

10. Bạn không tin vào hạnh phúc của những người nghèo khổ?

Đúng – Đáp án A

Sai – Đáp án B

11. Bạn thích một tình yêu tự do không trói buộc hơn một tình yêu quá mãnh liệt?

Đúng – Đáp án C

Sai – Đáp án D

Đáp án:

A. Bạn sinh ra đã có mệnh phú quý

Bạn thông minh, lý trí, không bao giờ lãng phí thời gian và tâm sức vào những chuyện không cần thiết, không đa sầu đa cảm. Ở bạn luôn tỏa ra sức hấp dẫn của sự tự tin và phóng khoáng. Bạn luôn thực tế, có khả năng giao tiếp cực tốt, biết kiểm soát cảm xúc. Những ưu điểm này giúp bạn dễ dàng đạt được thành công, có cuộc sống giàu sang phú quý. Tuy nhiên, song song với sự thành công, bạn mất đi nhiều mối quan hệ tình cảm.

B. Cuộc sống phức tạp và mâu thuẫn

Bạn mạnh mẽ, thiện lương, thông minh nhưng có tật xấu là ham hư vinh. Những đặc điểm tính cách này ít khi xuất hiện trên cùng một người, vì vậy có thể nói bạn là người đa tính cách, phức tạp và đầy mâu thuẫn, những người khác thường khó lý giải được bạn. xem bói Tính cách như vậy cũng thể hiện cuộc đời bạn đã định sẵn sẽ không bình lặng.

C. Cuộc đời phóng khoáng, vô lo vô nghĩ

Bạn có rất nhiều điểm khác biệt với những người xung quanh. Về tinh thần hay về suy nghĩ, bạn đều hơn người khác một bậc. Mọi người thấy lời nói, cử chỉ, cách suy nghĩ của bạn đều lạ thường, nhưng bản thân bạn lại không nhận ra điều đó, bởi tính bạn trời sinh là vậy. Bạn nghĩ mình vô cùng bình thường nhưng thực ra bạn chính là một người xuất sắc, độc nhất vô nhị. Tài năng và tâm hồn khiêm tốn, không so đo giúp bạn có một cuộc sống thoải mái, vô lo.

D. Bạn có số long đong lận đận

Bạn có trái tim quá cao ngạo, tự khiến mình phải buồn phiền khi quá mức so đo với những người khác. Tính cách của bạn cũng rất mâu thuẫn, có lúc bạn thấy mình phải nắm chắc những giá trị vật chất, có lúc bạn lại buông bỏ mọi thứ để chạy theo tình cảm. Bạn luôn hành động theo cảm tính và xúc động nhất thời, có tính sở hữu cao, đặc biệt là trong tình yêu, thường khiến đối phương thấy ngạt thở.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói bạn có số mệnh giàu sang hay lận đận? - Xem bói - Xem Tử Vi

Khám phá vận đào hoa của người tuổi Tỵ

Khác với những tuổi Mão hay tuổi Dần, người tuổi Tỵ thường gặp trở ngại về đường tình duyên trong năm tuổi của mình. Nếu có đi xa trong năm này, họ nên đi cùng
Khám phá vận đào hoa của người tuổi Tỵ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

với những người thân.

Nhìn bề ngoài, nữ giới tuổi Tỵ có số đào hoa rất cao. Nhưng trên thực tế, họ lại thường xuyên rơi vào tình cảnh đơn lẻ. Họ hay nhận được sự giúp đỡ của đồng nghiệp khác giới trong công việc. Những người này lại có tình cảm với họ. Lời khuyên cho những người phụ nữ tuổi Tỵ là nên mở rộng tấm lòng đón nhận tình cảm của người xung quanh. Nếu không, họ sẽ mất đi nhiều cơ hội để có được tình yêu đẹp.

(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)

Sức hấp dẫn của người tuổi Tỵ thường ít thể hiện qua trang phục hơn là ánh mắt và lời nói. Ánh mắt chăm chú, thân thiện của họ trong cuộc giao tiếp tạo ấn tượng mạnh cho người khác giới.

Theo phong thủy, những vật dụng sau đây đem lại cho người tuổi Tỵ may mắn và tình yêu: hoa lan lưỡi rồng, quả nhót, đá rubi.

(Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp)

 
 


 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khám phá vận đào hoa của người tuổi Tỵ

Ngày nào Ông Công Ông Táo quay lại dương gian?

Ngày 23 chúng ta tiễn ông Công ông Táo về trời. Vậy các Táo quân quay lại dương gian vào ngày nào? Tìm hiểu sự tích Táo quân theo truyền thuyết dân gian.
Ngày nào Ông Công Ông Táo quay lại dương gian?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 

 
Cứ mỗi 23 tháng Chạp âm lịch hàng năm, mọi gia đình đều làm lễ cúng ông Táo quay lại thiên đình. Ngày ông Công ông Táo là một trong những ngày lễ quan trọng nhất dịp cuối năm theo truyền thống dân gian Việt Nam.
  Tuy nhiên, nếu 23 ông Táo về trời, thì ông quay lại vào ngày nào? Nếu bạn có cùng thắc mắc, mẩu truyện tranh vui dưới đây sẽ giúp bạn giải đáp điều này.

Ngay nao Ong Cong Ong Tao quay lai duong gian hinh anh goc

Hi vọng rằng những kiến thức về ngày lễ ông Công ông Táo theo truyền thuyết dân gian Việt Nam trên sẽ giúp bạn hiểu thêm về ngày lễ truyền thống của dân tộc này nhé!

► Mời các bạn tra cứu Lịch 2017 theo Lịch vạn sự chuẩn xác

Nguồn: Internet

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngày nào Ông Công Ông Táo quay lại dương gian?

Xem tướng qua sắc khí –

Sắc khí của Diện tướng cũng là phần tham khảo quan trọng trong khi xem xét hình tướng một ai. sắc khí thể hiện ở mặt là đại diện và dễ dàng nhận thấy. Nhưng sắc khí thuộc “duy biến” và cả “thường biến”. Tuy nhiên muôn định được những thông tin thì ta

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

chỉ để ý đến “duy biến” sắc diện khi người đó đang ổn định, khỏe mạnh. Như vậy sắc khí chỉ nặng về tham khảo.

1397838897_news_92

1. Sắc khí bị thường biến (hay thay đổi) nên cho ta nhận định nhất thời mà thôi, như do: Bệnh, thời tiết, sự kiện… ví dụ như bệnh tật. Nó có giá trị cho các thầy thuốc chẳng hạn:
– Da vàng khè, đột nhiên trên hình thể yếu kém là dấu hiệu bệnh gan, sốt rét v.v…
– Da sám đen: nhiễm độc nặng v.v… Về tướng sắc khí, ta không quan tâm đến khía cạnh đó nhiều. Và sau đây là những biểu hiện tướng sắc: hay, dở, thiện, ác, được, mất.

2. Các tướng sắc khí duy biến (thay đổi do mệnh số).
– Tướng sắc khí có hai phần: sắc là màu sắc của da mặt. Trong đó quan tâm đến sắc tổng thể của mặt và của ngũ nhạc, ngũ quan, gò, tiểu khu…
– Khí lại có hai phần nhỏ:
+ Thần khí của mặt tổng thể và thần khí của năm giác quan và năm nhạc.
+ Khí là hơi thở ra của người đó thường xuyên “duy biến” và đột biến (đột ngột).

3. Sắc tương đối ổn định – duy biến gồm:
– Sắc mặt tổng thể:
+ Trắng trẻo tươi nhuận: Tướng phong lưu, thiện tâm.
+ Đen sạm: tâm đức không thiện, mưu mô.
+ Hồng phớt hai lưỡng quyền: Nặng tình cảm luyến ái. sắc này người ta gọi là sắc hoa đào.
+ Sắc nhạt, mặt phình phình: Người dâm loạn, nhẫn tâm, kẻ “tú bà” như cụ Nguyễn Du nói trong truyện Kiều.
+ Mặt đỏ tía: Nghĩa khí dũng cảm.
+ Mặt trắng bệch: Yểu tướng (không thọ).
+ Mặt vàng bóng: Quý, hiền nhân.
+ Mặt xanh ngắt: Yểu tướng, ốm yếu đôi khi là tài nhân.
+ Mặt xanh sạm: Bệnh hoạn, vô lối
Da vàng bình thường là da đặc trưng của người Việt Nam, nó không mang tính khí điển hình và không tham khảo vào tướng lý.

4. Sắc da “thường biến” – thường thay đổi theo nội tạng bị bệnh tật hay do thời khí, do tác nhân kích thích nên không đề cập trong tướng sắc như khi:
– Giận dữ thì sắc mặt hoặc đỏ bừng bừng ở người mệnh Hỏa. Hoặc tái mét ở người mệnh Kim.
– Giận mà nét mặt, sắc mặt không thay đổi là người cực kỳ nguy hiểm, thù dai và hay báo thù.
– Trời nóng thì sắc da hồng hào.
– Trời lạnh thì sắc da nhạt sỉn.
– Uống quá nhiều rượu thì hoặc đỏ gay hoặc tái mét.
– Sợ sệt thì sắc mặt tái sám, tái mét…
Đó là sắc diện bị kích ứng do các loại kích thích không cần quan tâm trong tướng pháp.

5. Trong y học thì Đông, Tây y đều quan tâm sắc khí:
Hải Thượng Lãn Ông viết trong “Đạo y dự vận” rằng:
Con hư thì cướp hai khí của mẹ, cho nên phế hư thì sắc mặt trắng khô, da nhăn lông rụng…” (Phần bàn về y lý – Hải Thượng Lãn Ông).
Người Tây cùng bàn về sắc diện và bệnh lý (Bác sỹ Joself Renald) ông là một bác sỹ gốc Áo (Autralia) là một bác sỹ, đa tài, giỏi về giải phẫu mà còn rất dam mê tướng pháp. Ông có nhiều tác phẩm liên quan và gắn kết cả hai lĩnh vực này. Bệnh lý và tướng pháp (patholofique và Anatolie pathologique et physiognomie et horoscopie) (… malade fait changer la couluer de la figuré…) (đau ốm làm thay đổi sắc da mặt).

6. Khí
Khí: ở đây tướng pháp quan tâm cả thần khí. Duy biến và thường biến, cả hơi thở, khí đột biến và duy biến.
– Thần khí không nên hiểu là “thần thái” sự kết hợp giữa thần khí và thái – phong thái.

7. Thần khí: Người có thần khí tốt thì ung dung, điềm đạm. Người ta hay nói câu: “Mặt thất thần” (mặt như kẻ mất hồn). Và “mắt có thần” nghĩa là nhìn vào đôi mắt: Sáng và sống động ngược với đôi mắt “đờ đẫn” mất “ngơ ngác”, ngái ngủ. Đấy là cái gọi là có thần khí, hay không còn thần khí.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng qua sắc khí –

Cặp con giáp nào dễ là thảm họa trong tình yêu

Các cặp đôi nam tuổi Tý - nữ tuổi Ngọ, nam tuổi Dần - nữ tuổi Thân hãy chiêm nghiệm xem những lời thú tội dưới đây có đúng không nhé!
Cặp con giáp nào dễ là thảm họa trong tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No.1. Nam tuổi Tý, nữ tuổi Ngọ

Một người thích tự do bay nhảy, làm việc phóng khoáng và cực kỳ thăng hoa với những ý tưởng mới. Mặt khác, người kia lại rất kỵ những người thiếu nguyên tắc, không tuân theo quy định sẵn có. Đó là trường hợp của cặp đôi nữ tuổi Ngọ và nam tuổi Tý. Hơn nữa, chàng trai cầm tinh con chuột lại luôn thích “lên lớp” đối phương, nên cô nàng tuổi Ngọ dễ bị tổn thương vì cho rằng mình không được tôn trọng.

ngo-9547-1439742005.jpg

Cặp đôi này sẽ luôn cảm thấy áp lực từ đối phương. Hơn nữa, cô nàng tuổi Ngọ thường không khéo léo trong cách thể hiện sự quan tâm với “gấu”, nên chàng càng có lý do để kết tội vô tâm, chỉ lông bông lo nghĩ chuyện không đâu.

No.2. Nam tuổi Dần, nữ tuổi Thân

Yếu điểm của chàng trai tuổi Dần là kém lãng mạn, khô cứng, nóng tính và hay dỗi. Điều đáng nói đây chính là những đặc điểm mà các nàng tuổi Thân ghét cay ghét đắng ở một người con trai. Họ cho rằng, phái mạnh thì cần ga lăng, hào hoa và rộng lượng, thay vì chỉ cần lỗi nhỏ đã giận, gây ra chiến tranh lạnh. 

than-8504-1439742006.jpg

Hơn nữa, các bạn nữ cầm tinh con khỉ lại đặc biệt “bồ kết” những lời nói hoa mỹ, cử chỉ lãng mạn. Họ lấy đó là thước đo tình cảm của đối phương. Vậy nên, nếu kết đôi, chuyện tình của nam tuổi Dần và nữ tuổi Thân sẽ sớm nở, chóng tàn.

No.3. Nam tuổi Mão, nữ tuổi Dậu

Điểm khắc tính khiến cho nam tuổi Mão và nữ tuổi Dậu không thể hòa hợp. Chàng trai cầm tinh con mèo thích sự phóng khoáng, lãng tử, đặc biệt ham chơi và khá bất cần trong chuyện tình cảm. Họ yêu theo bản năng, quyết định mọi chuyện bằng con tim, không suy nghĩ chín chắn nên bị cho là vô tâm. Cho dù chân thành đến đâu, cô nàng tuổi Dậu cũng không đánh giá cao.

dau-7040-1439742006.jpg

Với sự quyết đoán, tôn sùng chủ nghĩa hoàn hảo, cô nàng tuổi Dậu có tiêu chí rất cao trong việc chọn người yêu. Vậy nên, chàng tuổi Mão càng không phải là đối tượng phù hợp. Khi mâu thuẫn xảy ra, không ai chịu nhường nhịn, nên tình yêu sẽ sớm tan vỡ.

Mr.Bull (theo HCL)

ktt283tuoity28kienthuc-1438614-4741-4869 Top 3 con giáp nữ khiến 'đầu keo' ngán ngẩm

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cặp con giáp nào dễ là thảm họa trong tình yêu

Cách chọn bậc cầu thang theo phong thủy đúng chuẩn

Cách chọn bậc cầu thang theo phong thủy, sinh lão bệnh tử: Những bậc cầu thang nhỏ bé lại chứa đựng những yếu tố thần kì về Sinh, Lão, Bệnh và Tử.
Cách chọn bậc cầu thang theo phong thủy đúng chuẩn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những bậc cầu thang nhỏ bé lại chứa đựng những yếu tố thần kì về “Sinh, Lão, Bệnh và Tử”. Nếu biết lựa chọn bậc cầu thang phong thủy đúng cách, gia chủ sẽ rước tài lộc vào nhà.

 
Theo phong thủy nhà ở, cầu thang không chỉ là công cụ giúp gắn kết giữa các tầng trong nhà mà hơn hết, nó còn là dòng chảy năng lượng. Do đó, nếu dòng chảy này thông thoáng sẽ giúp nguồn vượng khí, tài lộc trong nhà lưu thông tốt, gia chủ dễ dàng rước tài lộc vào nhà. 
  Trong trường hợp cầu thang xông thẳng ra cửa chính sẽ như một chiếc miệng mở to đẩy hết sinh khí ra khỏi nhà. Những người sống trong ngôi nhà này khó tích tụ tài lộc và những điều may mắn. Có thể dùng cách hóa giải như sử dụng bình phong, đặt gương phản chiếu hay bày cây cảnh, chuông gió trước cửa nhà. 

Phuong phap chon dung bac cau thang Sinh, tranh bac Lao, Benh, Tu hinh anh
Ảnh minh họa
  Ngoài ra, những gia đình dùng cầu thang hình xoắn cũng khiến trường khí bị rối loạn, làm ức chế các dòng chảy quanh co, mang đến những điều xui xẻo cho gia chủ. Vì thế, khi xây nhà nhiều tầng cần đặc biệt chú ý đến vị trí và hình dáng cầu thang. Bạn cần nắm rõ 5 "không" trong phong thủy cầu thang để biết cách bố trí cầu thang đúng phong thủy bạn nhé! 

Ngoài vấn đề trên thì số bậc cầu thang cũng là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến sự may rủi, thành bại của bạn. Lịch ngày Tốt hướng dẫn cách bạn cách chọn bậc cầu thang theo phong thủy.
 

Cách tính bậc cầu thang để tránh bệnh tật, xui xẻo

  Theo phong thủy cầu thang, các bậc cầu thang được tính theo số bước chân lên xuống từ điểm đầu tới điểm cuối của cầu thang trong nhà. Những chỗ nghỉ, chỗ nối giữa các bậc cầu thang cũng được tính là một bậc. Số bậc trong nhà tốt nhất là rơi vào cung “Sinh” trong “Sinh, Lão, Bệnh, Tử”.

Phuong phap chon dung bac cau thang Sinh, tranh bac Lao, Benh, Tu hinh anh 2
Ảnh minh họa

Bậc thứ 1: Sinh
Bậc thứ 2: Lão Bậc thứ 3: Bệnh Bậc thứ 4: Tử Bậc thứ 5: Sinh
 
Cứ theo cách tính trên thì bậc tiếp theo lại là “Lão”, “Bệnh”, “Tử”… Như vậy, số bậc thang đẹp trong nhà tính theo công thức 4n+1, trong đó “n” là số lần chu kì lặp lại.
 
Số chu kì:                                          1    2    3    4    5    n Số bậc vào cung Sinh tương ứng:   5    9   14   17  21 4n+1
 
Tuy nhiên bạn nên nhớ rằng cuộc sống không có điều gì quá hoàn hảo. Khi sinh khí quá vượng sẽ khiến gia chủ không gánh được sẽ hóa thành sát khí.
 
Ví dụ: Nếu ngôi nhà có 5 tầng, 4 cầu thang. Nếu gia chủ bố trí cả 4 cầu thang là 21 bậc để vào cung “Sinh” thì sẽ “Tử” vì trên đời nếu đã có “Sinh” thì sẽ có “Tử”. Vì 21x4=84 bậc, số bậc này lại rơi vào cung “Tử”.

Bạn nên tham khảo thêm các bài viết sau: 
Ưu, khuyết điểm phong thủy của các loại cầu thang thường dùng Phong thủy cho cầu thang: Nên và không nên Bố trí cầu thang hợp mệnh gia chủ (phần 1)
ST
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách chọn bậc cầu thang theo phong thủy đúng chuẩn

Dái tai cho cái nhìn tốt về số phận

Tai đại diện cho sự may mắn, sự giàu có và sức khỏe. Người tai lớn, dái tai chảy xệ thường có cuộc sống giàu sang...
Dái tai cho cái nhìn tốt về số phận

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Người có một đôi tai vừa dày vừa hồng hào sẽ khỏe mạnh và sống thọ. 

2. Tai lớn là người thông minh và may mắn. 

3. Dái tai phẳng là người có phong cách của các nhà triết học.

4. Thềm thịt ở tai mỏng là người khiêm tốn.

5. Tai lớn là người nhiệt tình và tràn đầy năng lượng.

6. Tai nhỏ là người nhanh nhẹn và phản ứng mau lẹ trong mọi tình huống. Tuy nhiên, khả năng chịu áp lực của họ không cao.

7102013205310-2860-1411461396.jpg

7. Người có lông ở tai thích tự bảo vệ mình, ích kỷ và hay bỏ qua cảm xúc của người khác. 

8. Tai lớn, dái tai chảy xệ là người có cuộc sống giàu sang.

9. Tai nhiều lông là biểu tượng của sự trường thọ.

10. Tai cứng và hồng hào là người rất giàu có.

11. Màu sắc của tai trắng hơn mặt là người có tướng nổi tiếng.

12. Vành tai không rõ ràng là người thiếu chân thành.

13. Người có tai đậm màu, không tươi dễ mắc bệnh về tim.

Hạnh Yunnie (theo Meig)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dái tai cho cái nhìn tốt về số phận

Ý nghĩa hình xăm vô cực –

Ý nghĩa hình xăm vô cực : Hình xăm vô cực thể hiện một cái gì đó đi mãi mãi. Nó là gì mà đi mãi mãi phụ thuộc vào lý do tại sao một người nào đó đã nhận nó. Nó có thể được cho một "tình yêu mà đi mãi mãi" nó có thể được cho "sức mạnh mà đi mãi mãi" m

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa hình xăm vô cực :
Hình xăm vô cực thể hiện một cái gì đó đi mãi mãi. Nó là gì mà đi mãi mãi phụ thuộc vào lý do tại sao một người nào đó đã nhận nó.

y-nghia-hinh-xam-vo-cuc

Nó có thể được cho một “tình yêu mà đi mãi mãi” nó có thể được cho “sức mạnh mà đi mãi mãi” một “bộ nhớ mà đi mãi mãi,” bất cứ điều gì bạn muốn.

y-nghia-hinh-xam-vo-cuc-2Ý nghĩa hình xăm vô cực này thể hiện sự trẻ trung mãi mãi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa hình xăm vô cực –

Kiêng kỵ phòng khách tối tăm –

Hiện tượng: Chúng ta đều biết phòng khách là nơi tiếp nhận sinh khí, cũng là nội minh đường của dương trạch. Nếu phòng khách tối tăm không ánh sáng, ngoài việc đi ngược lại với quy tắc chuẩn cơ bản của dương trạch là “phòng khách sáng - phòng ngủ tố

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện tượng: Chúng ta đều biết phòng khách là nơi tiếp nhận sinh khí, cũng là nội minh đường của dương trạch. Nếu phòng khách tối tăm không ánh sáng, ngoài việc đi ngược lại với quy tắc chuẩn cơ bản của dương trạch là “phòng khách sáng – phòng ngủ tối”, phòng khách tối tăm như vậy còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe thị lực, con người sẽ trở nên bi quan, bảo thủ, mất hết ý chí, tự ti, không có chí tiến thủ.

itg1335340996

Phương pháp hóa giải: Phương thức hóa giải triệt để nhất là sửa đổi bố cục. Nếu trong trường hợp không thể sửa đổi được bố cục thì hệ thống chiếu sáng của phòng khách phải dùng bóng đèn halogen để làm công cụ thắp sáng, bổ sung đầy đủ khí trường cho phòng khách. Cũng có thể trong phòng khách đặt một con Kỳ lân hoặc tăng dương khí cho căn phòng của nhà bạn đẻ hóa giải. Nói tóm lại, mục đích chính là điều chỉnh âm dương trong phòng được cân bằng, đảm bảo sức khỏe của cơ thể và tâm lý cho những người sống trong ngôi nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ phòng khách tối tăm –

Hướng mở cửa sổ có lợi cho sức khỏe

Mở cửa sổ hướng nào có lợi cho sức khỏe?
Hướng mở cửa sổ có lợi cho sức khỏe

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhà mở cửa sổ hướng Đông là đại cát. Vì phương Đông dương khí mạnh, nhiều ánh nắng mặt trời. Trong phong thủy được gọi là tía khí đến từ phương Đông.

Nhà mở cửa sổ hướng Bắc. Ở Việt Nam, nhất là ở vùng phía Bắc nước ta, mùa đông lạnh lẽo, suốt ngày có gió Bắc phương Bắc thổi tới. Mở cửa sổ hướng Bắc đặc biệt không có lợi cho việc giữ ấm vài mùa đông khi thời tiết giá lạnh và có tác dụng không tốt đến sức khỏe của người trong nhà.

Đặc biệt cần chú ý là tránh cho cửa phòng, cửa sổ phòng trẻ nhỏ bị “ lộ xung” (đường chiếu vào phòng) vì sẽ bất lợi cho việc học hành và các tình huống ngoài ý muốn xảy ra với trẻ. Cũng giống như cửa, cửa sổ cũng có tác dụng dẫn khí, ánh sáng, làm cho khí và ánh sáng được lưu thông dễ dàng từ ngoài vào trong và từ trong ra ngoài. Hướng nhà của nguồn ánh sáng có thể cải biến, thay đổi từ khí năng trong nhà. Do đó, nếu nhà của bạn được các tia sáng từ tất cả mọi hướng chiếu vào thì đó là lý tưởng nhất, rất tốt cho bạn.

Nguồn: Sưu tầm


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng mở cửa sổ có lợi cho sức khỏe

Chớp mắt chọn đúng đối tượng phù hợp qua tướng mặt

Thông qua các nét tướng mặt, bạn có thể đoán biết phần nào tính cách, bản chất con người đối phương để có thể trao gửi tình cảm đúng người.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Xem tướng mắt   Đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn. Thông qua đôi mắt, bạn cũng có thể thấu hiểu phần nào tính cách, con người cũng như tâm tư, tình cảm của đối phương. Nhìn mắt chọn người, đây là cách đơn giản nhưng lại khá chính xác.   Nếu đối phương có mắt hình tam giác, chứng tỏ nội tâm đen tối, làm ít nhưng muốn hưởng lợi nhiều, chưa giúp người đã đòi báo đáp.  

Chop mat chon dung doi tuong phu hop qua tuong mat hinh anh
 
Hơn nữa, người này còn kén cá chọn canh trong việc lựa chọn bạn đời, đề ra tiêu chuẩn quá cao. Thường thì đối phương phải đáp ứng về điều kiện kinh tế và nhan sắc thì mới có thể lọt vào “mắt xanh” của người này.   Ngược lại, nếu quan sát thấy mắt đối phương có thần sắc, lòng đen và lòng trắng rõ ràng, chứng tỏ đó là người có tâm, trái tim nhân hậu, tốt bụng, có tinh thần trách nhiệm cao. Vì thế, nếu thấy tính cách có điểm tương đồng, bạn hoàn toàn có thể “bật đèn xanh” cho người này.  
2. Xem tướng mũi
  Thông thường, tướng mũi chủ về tài lộc, sự nghiệp. Người có sống mũi cao, thẳng thì tố chất thông minh, coi trọng sự nghiệp, có chí tiến thủ. Dù là trong sự nghiệp hay tình yêu, người này đều cảm thấy viên mãn, thuận lợi.   

 
Nếu sống mũi thấp, lại cong vẹo, khuyết hãm thì tài lộc khó vượng, làm việc dễ bỏ cuộc giữa chừng, dễ bị tác động bởi các yếu tố xung quanh. Ngoài ra, người này thuộc tuýp lãng mạn, làm việc theo hứng, không câu lệ tiểu tiết.   Nhìn chung, cuộc sống của người này khá vui vẻ, không nhiều áp lực. Bản thân họ không bao giờ tạo áp lực cho mình, lúc nào cũng tâm niệm sống vui vẻ, thoải mái là được.    3. Xem tướng gò má  
Chop mat chon dung doi tuong phu hop qua tuong mat hinh anh
 
Trong nhân tướng học, gò má đại diện cho quyền lực. Phần xương gò má quá cao, cho thấy chủ nhân có tính cách hung bạo, ngang ngược, làm việc gì cũng có dã tâm. Vì thế, đối tượng phù hợp với người này phải có tính kiên nhẫn cao độ, tính tình điềm đạm, cư xử khéo léo. Nếu không, hai bên dễ mâu thuẫn, cãi vã liên miên, hôn nhân khó mà viên mãn.   Ngược lại, người có gò má cân đối với toàn khuôn mặt thì lại luôn tìm kiếm cảm giác an toàn. Thế nên, họ rất cần những ai mạnh mẽ, can đảm ở bên cạnh để bảo vệ, che chở.  
4. Xem tướng cằm
 
Chop mat chon dung doi tuong phu hop qua tuong mat hinh anh
 
Chủ nhân của tướng mặt mà có cằm tròn đầy, tính tình chân thành nhưng khá thận trọng. Trong việc lựa chọn bạn đời, người này cũng khá kén chọn, nhưng không tới mức thái quá.   Còn những ai có cằm nhọn lại rất coi trọng vật chất, trước khi chọn đối tượng cho mình, họ sẽ cân nhắc điều kiện vật chất trước. Thói ham hư danh của người này dường như đã ăn sâu vào bản chất, khó lòng thay đổi.  
Ngân Hà
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chớp mắt chọn đúng đối tượng phù hợp qua tướng mặt

Câu chuyện luân hồi: Duyên phận cơm canh

Người ta thường nói bất kỳ một mối quan hệ nào đó tồn tại thì chắc chắn đó là Duyên, nhưng ở bên nhau được hay không thì còn chờ ở Phận.
Câu chuyện luân hồi: Duyên phận cơm canh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người ta thường nói bất kỳ một mối quan hệ nào đó tồn tại thì chắc chắn đó là DUYÊN, nhưng ở bên nhau được hay không thì còn chờ ở PHẬN. Duyên phận có được qua các kiếp luân hồi. Vậy làm sao một người biết được mình có “duyên” có “phận” với một ai đó?

“Luân hồi” trong tiếng Phạn cổ được hiểu là “lang thang, trôi nổi” hay đầu thai tiếp nối nhau giữa các kiếp, sinh mệnh bị luân chuyển khi chưa được giải thoát hay giác ngộ. Sau khi tái sinh, phần lớn một người sẽ không được phép nhớ gì về kiếp trước đó. Dưới đây là một câu chuyện cảm động giúp bạn hiểu thêm về duyên phận trong cõi người qua những kiếp luân hồi:

Tôi gặp được chị Trương trong công ty, chị làm đầu bếp nấu ăn cho các nhân viên. Chị Trương là người lương thiện, nhiệt tình, khéo ăn nói. Chị hay đổi món để chúng tôi được thêm khẩu vị. Mọi người đều ăn no và rất ngon miệng.

Có một lần, trong buổi cơm trưa mọi người xoay quanh vấn đề chính quyền Trung Quốc đàn áp môn tập Pháp Luân Công, tôi cũng phấn khởi tham gia ý kiến. Chị Trương ở gần đó nghe thấy cũng lên tiếng: “Ba mẹ tôi đều là những người tu luyện Pháp Luân Công, sức khỏe của họ trước đây không tốt, nhờ luyện môn này mà nay khỏe mạnh không phải thuốc men nữa. Tôi tuy không học, nhưng tôi biết nó tốt”.

Tôi hiện đã chuyển sang bộ phận khác công tác, nhưng khi có dịp vẫn quay lại phòng ban cũ, vẫn thấy chị Trương nhiệt tình, trong lòng luôn cảm thấy gần gũi và có duyên với người này, căn nguyên do quen thuộc những bữa cơm canh do chị nấu.

Trong một lần thiền định, tâm trí bỗng sáng suốt đưa trí nhớ tôi gợi về tận vùng Nhạn Môn quan, tỉnh Sơn Tây thời Bắc Tống.

Lúc bấy giờ tôi là một tướng lĩnh nhà họ Dương (trong Dương gia tướng). Võ công vô cùng lợi hại, thường xuyên giao chiến với quân Liêu. Trong một lần thắng trận đã bắt sống một đại tướng Liêu quốc, lúc đó tôi nghe nói y là người rất tiếng tăm nên có ý muốn thu phục.

Người này rất quật cường, thà chết chứ không chịu đầu hàng. Càng là như vậy, tôi càng cảm thấy y có khí phách. Một ngày nọ, không hiểu sao tôi lại thấy có hứng, đích thân xuống bếp làm mấy món ăn để đãi tên tướng bị thua trận.

Y ngần ngại trong thức ăn có độc nên không ăn. Tôi liền tự mình ăn trước. Y thấy vậy vững tâm cũng mở miệng cho tôi đút cho chút thức ăn vì hai tay vẫn đang bị trói.

Sau khi ăn xong một miếng, y nói : “Món ăn mà ông làm không phải là ngon cho lắm, đời này chúng ta ai vì chủ nấy, ông cũng đừng làm khó tôi nữa. Sau này tôi sẽ nấu những món ngon để cảm tạ cái ân tri ngộ của ông đối với tôi trong đời này”.

Nói xong, y cắn lưỡi tự vẫn.

Qua luân hồi, trong kiếp này viên tướng Liêu Quốc kia đã chuyển sinh thành một phụ nữ xinh đẹp, người phụ nữ này con cái đều đã hơn 20 tuổi, nhưng diện mạo chị ấy như chỉ ngoài 40, rất trẻ trung.

Thức ăn chị ấy nấu quả thật là rất ngon, chị lo lắng rằng các nhân viên trong công ty chúng tôi ăn uống không được đảm bảo, nên mỗi bữa đều làm rất đầy đủ. Hơn nữa khi chúng tôi có bạn bè đến thăm, chị ấy đều nhiệt tình chiêu đãi như đối đãi với người thân của mình.

Bởi vì thời gian có hạn nên tôi chỉ có thể kể ra được chút “duyên phận” đã kết trong quá khứ với chị Trương đời này vậy thôi, mượn lời thơ sau để bày tỏ nỗi lòng:

Xưa kia đối thủ gươm đao,

Gặp nhau phút chốc, xa nhau nghìn trùng

Hữu duyên nên lại tương phùng

Cơm canh đạm bạc đãi người thiện tâm

Suy nghĩ:

Bạn có tin vào “luân hồi” hay “duyên phận” không? Nếu có, hãy trân quý nó, bạn bè, người thân và cả những ai “tình cờ” trên đường gặp mặt có thể từng là “cố nhân” đầy “duyên nợ” của bạn đấy.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Câu chuyện luân hồi: Duyên phận cơm canh

Bàn bếp không được đặt trên ban công –

Bàn bếp không được đặt cạnh ống nước. Bếp đun không được đặt sát máng nước. Bếp đun dùng thắp lửa đun nấu, máng nước lại dùng để đựng nước, rửa bát, hai thứ này không thể gần nhau, ở giữa nên có vật ngăn cách mới tránh được thuỷ hoá tương xung. Bàn b

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bàn bếp không được đặt cạnh ống nước. Bếp đun không được đặt sát máng nước. Bếp đun dùng thắp lửa đun nấu, máng nước lại dùng để đựng nước, rửa bát, hai thứ này không thể gần nhau, ở giữa nên có vật ngăn cách mới tránh được thuỷ hoá tương xung.
Bàn bếp không được đặt bên trên chỗ đi vệ sinh.
Bàn bếp không được nằm trên cống nước, nếu không tiền của vào nhà rồi lại ra đi hết ngay.
Bàn bếp không nằm trên ống thoát nước nhà vệ sinh.
Bàn bếp không được tựa lưng vào phòng vệ sinh (tức là khi thao tác, người làm bếp hướng mặt vào vách tường phòng vệ sinh).

tubep2

Bàn bếp không được đối diện với bồn cầu nhà vệ sinh.
Bàn bếp không được chiếu thắng với bồn cầu nhà vệ sinh, kể cả khi có tường che.
Bàn bếp không được đối diện với cửa các phòng (nhất là phòng người già).
Bàn bếp không được chiếu thẳng với bàn thờ, nếu không sẽ mang lại nhiều điều tiếng thị phi vô lý.
Bàn bếp nên đặt ở vị trí tàng phong tụ khí.
Mặt bàn bếp hướng vào người trong nhà, trong nhà mọi người sẽ hoà hợp, đoàn kết.
Không dùng bếp đun đã quá củ, trong nhà sẽ yên ổn, hoà thuận.
Không đặt bếp ở giữa nhà.
Bếp nên đặt vuông góc hoặc song song với hướng nhà, tránh đặt lệch.
Phía sau bếp đun không được để trông. Vì nếu để trống sẽ dễ thu gió vào làm cho lửa không ổn định, ảnh hưởng đến tài vận, đặc biệt cấm kỵ sau bếp có cửa sổ.
Khi bố trí bếp dun phải chủ ý một vấn đề nữa đó là nếu trong phòng bếp có cửa sổ hướng Tây, khi mặt trời thấp xuống ở độ cao nào đó, ánh nắng có thể xuyên qua cửa số vào bếp, gặp trường hợp như vậy phải đóng cửa sổ lại, đợi khi ánh nắng không còn chiếu vào bếp nữa mới thao tác bếp.

(1) Phong thuỷ thích hợp cho bếp đun

1. Đặt bếp ở hướng hung là đại cát (rất tốt).
2. Bếp hợp với hướng Đông, hướng Nam, cát (tốt).
3. Bếp đặt ở vị trí tàng phong tụ khí, đại cát (rất tốt).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bàn bếp không được đặt trên ban công –

Hóa giải 3 cửa thông nhau –

Chi tiết câu hỏi: Chồng tôi sinh năm 1972, tôi 1975 làm nhà ống hướng đông nam, tôi làm 3 cửa thông nhau, vậy phải hoá giải thế nào? Mong chuyên gia chỉ giúp! Trả lời: Bước đầu tiên bạn nên làm một tấm màn trúc treo ngay giữa nhà ngay lối chính giữa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

dai_ky_cau_truc_cua_doi_cua_trong_nha_3

Chi tiết câu hỏi:

Chồng tôi sinh năm 1972, tôi 1975 làm nhà ống hướng đông nam, tôi làm 3 cửa thông nhau, vậy phải hoá giải thế nào? Mong chuyên gia chỉ giúp!

Trả lời:

Bước đầu tiên bạn nên làm một tấm màn trúc treo ngay giữa nhà ngay lối chính giữa. Trên cửa nhà trên dùng chuông gió chấn lại để tán khí và dùng thêm một gương cửu long bát cát tường mà chiêu tài cho nhà bạn!  


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải 3 cửa thông nhau –

Giải mã giấc mơ thấy tôm –

Mơ thấy động vật là giấc mơ thường thấy của rất nhiều người, bởi có lẽ những hình ảnh này vô cùng quen thuộc trong đời sống của chúng ta và đặc biệt là giấc mơ về con tôm. Nghe có vẻ buòn cười đúng không nào? nhưng nhiều người khi bắt gặp trường hợp
Giải mã giấc mơ thấy tôm –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ thấy tôm –

Ấn Đường đầy đặn, không giàu thì sang

Trong Nhân tướng học, Ấn Đường đầy đặn được coi là phúc tướng. Đa phần đàn ông và phụ nữ tướng Ấn Đường này đều thành đạt và cuộc sống hôn nhân hòa hợp.
Ấn Đường đầy đặn, không giàu thì sang

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong Nhân tướng học, Ấn Đường đầy đặn được coi là phúc tướng. Đa phần đàn ông và phụ nữ tướng Ấn Đường này đều thành đạt và cuộc sống hôn nhân hòa hợp, hạnh phúc.


► Lịch ngày tốt gửi tới bạn đọc công cụ xem tướng và xem bói tử vi để biết tính cách, số mệnh của mình
  Ấn Đường nằm ở vị trí giữa hai đầu lông mày, còn được gọi là cung Mệnh trong 12 cung tướng mặt. Quan sát Ấn Đường có thể nhìn thấy tính cách và vận mệnh của một đời người.    Đặc trưng tính cách của người có Ấn Đường đầy đặn   Tướng Ấn Đường tốt là phải rộng, đầy đặn, sáng bóng, không khuyết hãm, không có lông mày mọc tràn ra, đồng thời, khi nhìn từ hai phía thì thấy trán nhô nhẹ.   Người có Ấn Đường đầy đặn như vậy có lòng bao dung độ lượng, tính cách lạc quan, biết xử lí mọi tình huống khó khăn một cách độc lập, tự chủ do đó thích hợp với những công việc có tính chất xông pha, dẫn đầu phong trào và thường có cuộc sống hạnh phúc, cân bằng cả về công danh sự nghiệp cũng như đời sống hôn nhân gia đình.   Đàn ông có Ấn Đường đầy đặn

An Duong day dan khong giau thi sang hinh anh
Ảnh minh họa
  Nhân tướng học quan niệm rằng, đàn ông có Ấn Đường đầy đặn rất thông minh, nhanh nhạy, học hành giỏi giang, gặp nhiều may mắn trong công việc, nhân duyên tốt, có sức lôi cuốn mãnh liệt với người khác giới.    Đa số nam giới có tướng Ấn Đường này đều đào hoa, khá phong lưu khi còn trẻ nhưng sau khi kết hôn lại biết tiết chế cảm xúc nên cuộc sống hôn nhân hài hòa, hạnh phúc. Người này có lối sống phóng khoáng, thích thử nghiệm những điều mới lạ, biết thay đổi để phù hợp với hoàn cảnh nên chuyện phòng the khá viên mãn.   Phụ nữ có Ấn Đường đầy đặn

An Duong day dan khong giau thi sang hinh anh 2
Ảnh minh họa
  Sách tướng học có ghi “Ấn Đường đầy đặn, giúp chồng hưng gia”, ý chỉ phụ nữ có tướng Ấn Đường này có số vượng phu, trợ giúp đắc lực cho đường công danh sự nghiệp của chồng.   Ngoài ra, người này thường có sức khỏe tốt, ham học hỏi, có tấm lòng khoan dung rộng lượng, là chỗ dựa tinh thần, nơi hậu thuẫn vững chắc cho chồng khi gặp khó khăn trong cuộc sống, đặc biệt là về sự nghiệp.   An Khánh (Theo ZY)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ấn Đường đầy đặn, không giàu thì sang

"Ôn tửu trảm Hoa Hùng" có thật là công lao Quan Vũ?

Thắng lợi đầu tay của Quan Vũ "ôn tửu trảm Hoa Hùng" được mô tả là "uy chấn càn khôn". Nhưng một số sử liệu TQ lại cho rằng, chiến tích này thuộc về danh tướng Giang Đông Tôn Kiên.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ôn tửu trảm Hoa Hùng

Trong "Tam Quốc diễn nghĩa", điển tích "ôn tửu trảm Hoa Hùng" được cho là thuật lại chiến công đầu tay của Quan Vân Trường.

Theo tiểu thuyết, bối cảnh câu chuyện diễn ra khi 18 lộ chư hầu Quan Đông khởi binh thảo phạt gian thần Đổng Trác. Quân Quan Đông bao vây thành Lạc Dương.

Tướng quốc Bình Nguyên là Lưu Bị dẫn các tướng Quan Vũ, Trương Phi... theo cùng Thái thú Bắc Bình Công Tôn Toản.

Chư hầu cùng tiến cử Viên Thiệu làm minh chủ, Thái thú Trường Sa (một địa danh thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc ngày nay) Tôn Kiên làm tiên phong tới Dĩ Thủy Quan khiêu chiến.

Tướng của Đổng Trác là Kiêu kị hiệu úy Hoa Hùng tiếp chiến, đánh bại Tôn Kiên, chém đầu bộ tướng của kiên là Tổ Mậu.

Hoa Hùng khiêu chiến quân Quan Đông, trảm liên tiếp 2 tướng.

Trong lúc liên quân chư hầu bất lợi, Viên Thiệu đành than - "Tiếc rằng hai tướng Nhan Lương, Văn Xú chưa tới.

Nếu có 1 người ở đây thôi, đâu cần phải sợ Hoa Hùng?"

Lời Thiệu chưa dứt, Quan Vũ đã bước ra nói - "Tiểu tướng xin đi lấy đầu Hoa Hùng!"

Thời điểm đó, Quan Vân Trường chỉ là một "mã cung thủ" vô danh tiểu tốt, cho nên Viên Thiệu và Viên Thuật đều không bằng lòng, sợ mất mặt trước Hoa Hùng.

Trong các vị "lãnh đạo" có mặt, duy nhất Tào Tháo ủng hộ Quan Vũ xuất trận, và mời Quan Công một chén rượu.

"Rượu đã rót ra, Quan mỗ sẽ trở lại ngay!" - Quan Công nói xong cầm đao lên ngựa.

Không lâu sau đã thấy Quan Vũ đem đầu Hoa Hùng về ném dưới đất.

Chén rượu của Tào Tháo vẫn còn ấm, vì vậy mới có tích Quan Công "ôn tửu trảm Hoa Hùng".

theo tam quốc diễn nghĩa, trảm hoa hùng là thắng lợi đầu tay của quan vũ, và cũng là uy chấn càn khôn đệ nhất công.

Theo "Tam Quốc diễn nghĩa", trảm Hoa Hùng là thắng lợi đầu tay của Quan Vũ, và cũng là "uy chấn càn khôn đệ nhất công".

Hoa Hùng ở Lạc Dương, Quan Vũ ở đâu?

Mặc dù "ôn tửu trảm Hoa Hùng" đã trở thành một điển tích vô cùng nổi tiếng đối với độc giả Tam Quốc, xong nhiều tư liệu lịch sử lại cho thấy "chiến công" của Quan Vân Trường hoàn toàn phi thực tế.

Tháng giêng năm Sơ Bình thứ nhất (190), các quận Quan Đông khởi binh phạt Đổng Trác, tôn Thái thú Bột Hải Viên Thiệu làm minh chủ. Khi ấy, Công Tôn Toản vẫn còn ở U Châu chứ không tham gia hội sư.

Thêm vào đó, thời điểm này, Lưu Bị còn chưa về đầu quân cho Công Tôn Toản, cho thấy chi tiết Bị cùng Toản tham gia liên minh là không chính xác.

Theo các tài liệu lịch sử Trung Quốc, vào thời gian trên, Lưu Bị đang dẫn quân đánh Đốc Bưu.

Khi đại tướng quân Hà Tiến phái đô úy Khưu Nghị tới Đan Dương mộ binh, Lưu Bị mới dẫn đội quân ít ỏi của mình theo người này.

Tại Hạ Bì đụng độ giặc Hoàng Cân (khăn vàng), quân Lưu đánh trận lập công, Lưu Bị được phong chức phó quan ở Hạ Mật, sau làm Cao Đường úy, rồi Huyện lệnh Cao Đường.

Về sau Cao Đường bị giặc Hoàng Cân phá, Bị mới về đầu quân cho Trung lang tướng Công Tôn Toản và được phong làm Biệt bộ tư mã.

Thời gian Lưu Bị làm Biệt bộ tư mã không được "Tam Quốc Chí" ghi lại, nhưng sách "Tư trị thông giám" và "Tục hậu Hán thư" đều viết, giai đoạn này vào khoảng tháng 10 năm Sơ Bình thứ hai (191), tức gần 2 năm sau khi liên minh Quan Đông thành lập.

Căn cứ vào các mốc thời gian thực tế, khi các châu quận khởi binh đánh Đổng Trác năm 190, Lưu Bị nhiều khả năng vẫn còn làm quan ở Hạ Mật, hoặc Cao Đường, chứ không thể có mặt tại tiền tuyến Lạc Dương.

Lưu Bị không ở Lạc Dương, cho thấy Quan Vũ cũng không có khả năng xuất hiện tại Lạc Dương để... trảm Hoa Hùng.

Công của Quan Vũ hay của "mãnh hổ Giang Đông"?

Mãnh hổ Giang Đông Tôn Kiên mới chính là tác giả của chiến công mà Quan Vũ hưởng.

Theo một số nguồn sử liệu Trung Quốc, "Mãnh hổ Giang Đông" Tôn Kiên được cho là tác giả của chiến công mà Quan Vũ "hưởng".

Cái chết của mãnh tướng Hoa Hùng đã được lịch sử ghi lại. Nhưng nhân vật trảm Hoa Hùng không phải là Quan Vũ, mà là "Giang Đông chi hổ" Tôn Kiên.

Tôn Kiên vốn là Thái thú Trường Sa (địa danh ở tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc), tước Ô Trình Hầu. Thời điểm chư hầu Quan Đông khởi binh, Tôn Kiên cũng từ Hồ Nam bắc tiến, hội sư với Viên Thuật tại Lỗ Dương.

"18 lộ chư hầu" cất quân bao vây Lạc Dương, song thực tế mỗi bên đều e ngại Đổng Trác và tính toán bảo toàn thực lực nên không có bên nào tiến quân, mà tất cả đều giữ thái độ "quan sát".

Chỉ có quân đội của Tào Tháo, Tôn Kiên và Vương Khuông từng giao chiến với Đổng Trác.

Tôn Kiên bị tướng Đổng Trác là Từ Vinh tấn công ở phía đông huyện Lương, Kiên cùng mấy chục kỵ binh đột phá vòng vây.

Khi ấy, trên đầu Tôn Kiên thắt chiếc khăn màu đỏ, ông sợ bị quân địch nhận ra nên đưa khăn cho tướng thân tín là Tổ Mậu.

Tổ Mậu "đóng thế" cho Tôn Kiên, dẫn dụ quân Đổng Trác đuổi theo, Tôn Kiên mới thoát nạn.

Sự việc trên được tác giả La Quán Trung "biến tấu" trong tiểu thuyết "Tam Quốc diễn nghĩa", rằng tướng Đổng Trác tập kích Tôn Kiên là Hoa Hùng, và chính Hoa Hùng chém đầu Tổ Mậu.

Lịch sử Trung Quốc cho thấy, ở chiến dịch tiếp theo - chiến dịch Dương Nhân, Hoa Hùng mới xuất trận và cũng bị chém đầu trong trận đánh này.

Trong chiến dịch này, Tôn Kiên tập trung tàn binh đóng tại Dương Nhân ở phía tây huyện Lương. Đổng Trác phái Lữ Bố, Hoa Hùng, Hồ Chẩn tấn công Kiên.

Lữu Bố bất hòa với Hồ Chẩn, trong khi Chẩn là chủ soái, cho nên Bố cố ý gây rối trong quân, tạo tâm lý hoang mang, khiến sỹ tốt phe Đổng Trác mất tinh thần.

Trước sự tập kích của Tôn Kiên, 3 tướng Lữ - Hồ - Hoa thua chạy. Hoa Hùng bị Tôn Kiên chém đầu.

Trên thực tế, Hoa Hùng không có thành tích quân sự đáng kể. "Tam Quốc diễn nghĩa" đã cường điệu tài năng của viên tướng này. Chiến công chém 2 tướng Du Thiệp, Phan Phụng cũng chỉ là hư cấu.

Có nhiều bình luận cho rằng, "Tam Quốc diễn nghĩa" đề cao hình ảnh Hoa Hùng, mục đích không ngoài "tô điểm" cho sự lợi hại của Quan Vân Trường.

Tôn Kiên vốn là tác giả chiến công trảm Hoa Hùng, song tiểu thuyết hư cấu lại "tặng" công lao của Kiên cho Quan Vũ, quả thực là một sự bất công đối với danh tướng Giang Đông.

Bất chấp thực tế lịch sử, người đọc Tam Quốc vẫn biết đến Quan Vân Trường nhiều hơn với "càn khôn đệ nhất công" trảm Hoa Hùng:

Uy chấn càn khôn đệ nhất công,

Viên môn họa cổ hưởng đông đông.

Vân Trường đình trản thi anh dũng,

Tửu thượng ôn thời trảm Hoa Hùng.

theo Trí Thức Trẻ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: "Ôn tửu trảm Hoa Hùng" có thật là công lao Quan Vũ?

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd