Giải mã ý nghĩa những giấc mơ đặc biệt

![]() |
Fon Fon
![]() |
Giải mã giấc mơ: Mơ thấy đi du lịch Hành động đi du lịch là biểu tượng của danh tiếng và sự thành công trong giấc mơ. |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Cát Phượng (##)
![]() |
Fon Fon
![]() |
Giải mã giấc mơ: Mơ thấy đi du lịch Hành động đi du lịch là biểu tượng của danh tiếng và sự thành công trong giấc mơ. |
ể có câu trả lời hãy đọc bài viết top chòm sao nữ tin tưởng người yêu một cách tuyệt đối dưới đây nhé!
Nội dung
Đối với những cô nàng cá tính như Sư Tử, yêu đồng nghĩa với sự tin tưởng. Vì tin tưởng, vì con tim đập loạn nhịp nên mới thấy yêu thương da diết. Vậy nên, một khi đã rơi vào lưới tình, Sư Tử bỏ ngoài tai những điều sẽ làm ảnh hưởng đến mối tình tuyệt vời của mình và tin tưởng đối phương gần như tuyệt đối.
Trong tình yêu, các nàng Bạch Dương tin tưởng đối phương một cách mù quáng. Thậm chí, họ coi lời nói của nửa kia như chân lý, chính xác đến từng centimet. Khi nghe thấy ai đó to nhỏ và có ý hoài nghi về tình cảm của đối phương dành cho mình, Bạch Dương ngay lập tức phủ nhận sạch trơn mọi thứ để bảo vệ người mình yêu.
Những cô nàng Song Tử thường rất tự tin về bản thân cũng như quyết định của mình. Họ cho rằng nhất cử nhất động của đối phương đều nằm trong lòng bàn tay họ. Nửa kia sẽ không có cách nào thoát khỏi sự kiểm soát của mình và có những suy nghĩ vẩn vơ về người nào khác.
Vậy nên, họ tin tưởng vào bạn trai một cách vô điều kiện, sẵn sàng đối lý với người nào có ý nói xấu sau lưng anh chàng mà họ yêu.
Đối với Nhân Mã, tình yêu là sự tin tưởng lẫn nhau, nếu không chớ yêu làm gì. Do đó, khi đã dành tình cảm chân thành của mình cho ai đó, chòm sao này sẽ toàn tâm toàn ý tin tưởng đối phương và không hề có chút hoài nghi nào cả.
Thậm chí, ngay cả khi có chứng cứ xác thực về việc “say nắng” của đối phương với cô gái nào khác, Nhân Mã vẫn sẵn sàng tha thứ và tin tưởng nếu chàng ta đưa ra lý do giải thích hợp lý.
Chòm sao này rất coi trọng sự riêng tư và không gian bí mật của mỗi người. Xâm phạm đời tư của người khác quá sâu là điều những cô nàng Thiên Bình chúa ghét. Do đó, họ tin tưởng vô điều kiện vào người mình yêu. Đồng thời, họ cũng hy vọng đối phương hiểu và tôn trọng tự do cá nhân của mình.
Các nhà nhân tướng học chỉ cần dựa vào lòng bàn tay và các ngón tay cũng có thể phán đoán được tài năng và khả năng của con người. Nếu ngón tay cái có 4 lóng hay bạn có thể biết được người thân của mình có ngón tay cái có 4 lóng. Vậy ý nghĩa của hiện tượng đó là gì? Bài viết dưới đây, ## sẽ giới thiệu tới bạn ý nghĩa của ngón cái có 4 lóng.
Bạn Huyền cần hỏi: “Tất cả các các ngón tay của em đều khá dài và nhất là ngón cái có 4 lóng. Điều đó có ý nghĩa là gì ạ? Em xin cảm ơn!”
Trả lời:
Thông thường rất ít người ngón cái có 4 lóng, nhất là với bạn có 4 lóng rõ ràng. Càng rõ ràng. thì ý nghĩa của nó cũng tăng lên. Ý nghĩa của những người có 4 lóng tay là sự nổi bật, sự nổi tiếng hay sự hơn người của họ. Nói chung, họ luôn nổi bật hơn những người xung quanh. Ví dụ bạn có thể là một đầu bếp nổi tiếng, bạn có thể là một nghệ sĩ được nhiều người biết đến, hoặc cũng có thể nổi bật theo chiều hướng ngược lại. Ví dụ như bạn có thể là một học sinh cá biệt, hay một con nợ,....
Trên đây là ý nghĩa của việc bạn có ngón cái có 4 lóng tay. Để tham khảo thêm những bài viết khác, bạn có thể tìm hiểu tại đây:
+ Ý nghĩa của móng tay hình bán nguyệt+ Đoán tính cách qua độ dài các ngón tay
+ Những đường chỉ tay cơ bản và đường chỉ tay hiếm
+ Xem bói chỉ tay đoán vận mệnh, tình yêu của bạn
Tận dụng triệt để phòng bếp như thế nào?
Đốỉ với nhiều gia đình, phòng bếp không đơn thuần chỉ là nơi nấu nướng và cất giữ đồ ăn thức uống mà còn kiêm luôn chức năng của một phòng ăn.
Một phòng bếp được coi là hoàn hảo không nhất thiết phải sử dụng những viên gách lát đắt tiền sặc sỡ hay những chiếc tủ chứa đồ với lối thiết kế tinh xảo. Nếu bạn muốn sở hữu một phòng bếp sạch đẹp và ngăn nắp thì trước khi lựa chọn vật liệu trang trí bạn hãy tự lên cho mình một kế hoạch trang trí chi tiết. Khi thiết kế phòng bếp, chi tiết đáng quan tâm trước hết là khu vực nấu nướng, tiếp đó là tường và nền nhà. Sử dụng các vật liệu bền và dễ lau chùi, cọ rửa. Khu vực chứa và cất giữ đồ ăn không cần thiết kế quá rộng. Toàn bộ cục phòng bếp phải thật hấp dẫn, thu hút được nhiều người ra vào. Với một bản thiết kế phù hợp, chúng ta hoàn toàn có thể biến những căn phòng quá rộng hay quá chật thành những căn phòng bếp lí tưởng nhất. Nói cách khác chỉ cần chịu khó lưu tâm nghiên cứu, bạn có thể tận dụng mọi khoảng trống không gian một cách triệt để nhất.
Thông thường, khu vực nấu ăn trong phòng bếp luôn có bệ bếp và bồn nước. Khi thiết kế phải đặt bếp nấu, bồn nước và bệ bếp liền kề nhau, chú ý không để chừa một khoảng trống hay vật chắn nào giữa chúng. Không nhất thiết phải sắp xếp chúng dọc theo các bức tường, nếu có thể tận dụng phần góc tưòng để tạo thành một kết cấu bồn nước, bếp và bệ bếp hình chữ L là hay nhất. Trong những gian bếp chật, thậm chí có thể xếp chúng dọc theo ba mặt tường liên tiếp nhau, tạo thành một hình chữ U, sao cho các hoạt động thao tác giữa bồn nước và bệ bếp không gặp trở ngại cũng như không cản trở lẫn nhau. Bồn nước, bệ bếp và tủ lạnh là những thiết bị cơ bản nhất trong phòng bếp, khoảng cách giữa chúng phải được thiết kế phù hợp, không gần quá cũng không nên xa quá, nếu không sẽ gây khó khăn cho các hoạt động diễn ra trong phòng.
Một chi tiết hay bị xem nhẹ trong phòng bếp, đó là độ cao của chiếc bệ bếp. Độ cao của bệ bếp phải tương ứng với chiều cao cũng như tư thế thoải mái nhất của ngưòi làm bếp. Ngoài ra, khi xác định độ cao của bệ bếp, cũng cần chú ý đến độ cao của các đồ dùng trong nhà bếp. Với những đồ dùng đã có sẵn chân hoặc giá đỡ, có thể điều chỉnh thêm cho tương ứng vối bệ bếp.
Khi đã xác định được chiều cao của bệ bếp và cách sắp đặt bồn nưóc cũng như bếp nấu, bước tiếp theo là cân nhắc xem làm thế nào để tận dụng tốt nhất các khoảng không gian thừa. Nếu phòng bếp của bạn hơi chật, bạn có thể treo một cái giá đựng bát đĩa trên bức tường gần nhất với bệ bếp. Ngoài ra còn có thể thiết kế chiếc bàn nhỏ, xung quanh bày thêm vài chiếc ghế tròn, như vậy là cả nhà bạn đã có một chỗ khá lí tưởng đê ngồi ăn cơm.
Màu sắc có thể làm thay đối bộ mặt chung của cả phòng bếp, vì thế cần phối hợp các màu sắc thật nhịp nhàng, phun các màu sơn thật đều đặn. Ở các nơi nấu nướng và cất giữ thức ăn nên bày những chạn bát, bàn ăn hoặc những chiếc tủ tự chế làm vật trang trí.
Cách thiết kế phòng bếp
Nên tận dụng triệt để khoảng không gian có thể để sắp xếp những vật dụng cần thiết trong bếp. Với các phòng bếp hẹp, có thể bài trí theo hình chữ nhất; còn đối với các phòng bếp rộng, có thể bày men theo các bức tường.
Một phòng bếp hiện đại nên sử dụng những đồ dùng được thiết kế theo kiểu tổ hợp hoặc kiểu gấp gọn, cũng có thể tận dụng các vật liệu thừa để tự chế những chiếc giá treo đựng đồ. Nếu làm một tấm màng lọc khí trên nóc bếp hoặc một chiếc quạt thông gió trên cửa sổ có tác dụng làm sạch không khí trong phòng.
Khi thiết kế phòng bếp, cần chú ý các điểm sau:
Chọn kĩ vật liệu
Các vật liệu để trang trí phòng bếp phải được lựa chọn kĩ lưỡng, chọn loại không dễ bị ố bẩn và hư hại, dễ làm sạch, chịu được nước và chống nhiệt. Chẳng hạn như sàn nhà bằng nhựa đã qua kiểm định chống lửa, gạch men… tất cả đều là những vật liệu lí tưởng, bạn có thể chọn lựa tùy theo nhu cầu và khả năng của mình.
Lựa chọn kiểu dáng phù hợp
Có nhiều kiểu dáng phong phú và đa dạng trong thiết kế khu vực bếp bạn có thể căn cứ theo sở thích cá nhân cũng như kích cỡ và vị trí của căn phòng để lựa chọn kiểu dáng riêng cho phòng bếp của mình. Có bốn kiểu dáng thường gặp: Kiểu chữ L, kiểu chữ U, kiểu hòn đảo, và kiểu chữ nhất. Cụ thể, phòng chữ L sắp xếp như sau: phân bố hợp lí tủ lanh, bồn nước và đồ nấu bếp theo kết cấu hình tam giác, tạo không gian thoải mái đủ cho hai người cùng vào bếp một lúc. Kiểu chữ L rất thích hợp áp dụng cho các căn phòng chỉ rộng khoảng 4 m2. Trong khi đó, một phòng bếp theo kiểu chữ U tức là một phòng bếp với các vật dụng được sắp xếp nối tiếp nhau dọc theo ba mặt tường liên tiếp, quầy tủ bày trong phòng bếp kiểu này tương đối đầy đủ, rất thích hợp với các căn phòng rộng. Phòng bếp hình hòn đảo: ngoài đồ nấu bếp, còn có thêm một chiếc bàn hoặc quầy lớn để làm chỗ thao tác nấu nướng, trông giốg như một hòn đảo nhỏ nằm tách rời độc lập so với bốn bức tường xung quanh, thích hợp nhất khi có nhiều người cùng nấu bếp một lúc. Phòng bếp hình chữ nhất: xét về mặt không gian mà nói thì phòng bếp theo kiểu hình chữ nhất khá chiếm diện tích và không kinh tế. Kiểu dáng này đến nay đã bị coi là lỗi thời, rất ít người lựa chọn.
Lựa chọn màu sắc phù hợp
Khi trang trí phòng bếp, cố gắng lựa chọn các màu sắc tương đồng hoặc tương tự nhau. Chẳng hạn nếu trần nhà sơn màu trắng thì các bức tường cũng phải ốp gạch men màu trắng, còn sàn nhà thì lát gạch đá hoa chổng trơn màu trắng xám, trong đó màu trắng chiếm tỉ lệ nhiều hơn. Không dùng các vật liệu lát nền có các hình vẽ lập thể (hình vẽ không gian, hình vẽ nổi) hoặc có độ sáng tối tương phản quá mạnh, nếu không sẽ gây cảm giác nền nhà mấp mô, không bằng phẳng.
Lên kế hoạch chi tiết
Nên căn cứ theo diện tích bếp và đặc tính các đồ nấu bếp cũng như các dụng cụ ăn uống để thiết kế. Thông thường, nên đặt bồn nước ở một góc bếp, các đồ nấu đặt ở chỗ kín gió, bệ bếp đặt ở giữa bồn nước và đồ nấu bếp. Chọn các loại chạn bát đa năng hoặc loại chạn treo với các tính năng như chiếm ít diện tích, chứa được nhiều đồ… sẽ làm cho căn phòng bếp của bạn gọn gàng hơn, ngăn nắp và tiện nghi hơn. Nếu bàn ăn nhà bạn đặt cạnh cửa sổ, hãy treo lên đó một chiếc rèm cuốn, khi dùng bữa, chỉ cần buông rèm xuống bạn sẽ có một không gian ăn uổng yên tĩnh và ngon miệng.
Lát nền nhà và ốp tường bằng gạch men
Gạch men to bản có bề mặt dễ làm sạch và không dễ sinh ra các vi khuẩn gây bệnh, vì thế có tác dụng bảo vệ sức khỏe con người.
Giữ cho không khí trong phòng bếp luôn trong lành
Trong quá trình nấu ăn thường sinh ra nhiều khí thải hay muội dầu, cách tốt nhất để loại trừ các khí độc hại này là lắp đặt một chiếc máy hút mùi, như vậy không khí trong phòng bếp sẽ trở nên sạch sẽ và trong lành dễ chịu hơn.
Sử dụng các loại tủ, chạn kiểu Âu
Với tính năng chứa được rất nhiều đồ, tủ chạn kiểu Âu sẽ giúp cho căn phòng bếp gọn gàng ngăn nắp hơn.
Cách lựa chọn beef mặt bệ bếp
Khi lựa chọn bề mặt bệ bếp cần căn cứ theo nhu cầu thực tế:
+ Bệ bếp bằng thép không gỉ: Mặt bàn bằng thép không gỉ khá đẹp mắt, nhưng khả năng chịu mài mòn không cao, dễ bị mốc hoặc mọc rêu, không dễ cọ rửa khi các vết dầu mỡ bám trên bề mặt, giá cả lại khá đắt.
+ Bệ bếp bằng gỗ: Bên ngoài nhất thiết phải phủ một lớp sơn chống lửa. Ưu điểm của loại này là giá cả phải chăng, chịu được mài mòn, không bị mốc hoặc mọc rêu, dễ cọ rửa các vết dầu mỡ.
+ Bệ bếp bằng đá: Bệ bếp bằng đá đẹp, bền, chống thấm, không dẫn điện. Nhược điểm của nó là khi va chạm vởi các vật cứng dễ để lại vết xước, ngoài ra, khả năng xử lí với các vết dầu mỡ không tốt so vói bệ bếp bằng gỗ.
Cách kiểm định chất lượng lắp đặt bệ bếp
+ Trước hết cần phác thảo sẵn một bản thiết kế, sau đó mới tiến hành thi công chứ không nên chỉ thi công dựa trên kinh nghiệm và cảm giác chủ qua.
+ Bề mặt bệ bếp phải rộng từ 500 mm trở lên, cao khoảng 800 mm (tính cả độ dày của vật liệu ốp bề mặt). Bệ bếp ga không cao quá 700 mm (tính cả độ dày vật liệu ốp bề mặt) và phải rộng từ 500 mm trở lên. Gầm bệ bếp cách mặt đất từ 100 mm trở lên.
+ Với các bệ bếp và cánh cửa làm bằng đồ mộc tinh xảo hay cánh cửa và khung cửa của một chiếc bệ bếp có kết cấu hỗn hợp, có thể ghép bằng mộng hoặc dùng keo dán để dính chặt chúng với nhau.
Cách kiểm định chất lượng lắp đặt hệ thống các đường ống dẫn:
+ Lắp đặt đúng thứ tự.
+ Lắp van đóng mở cho bình nước nóng và bình ga.
+ Các thiết bị như bình nước nóng, bình ga phải được lắp đặt đảm bảo độ an toàn, ổn định, thao tác thuận tiện và vận hành bình thường.
Cách lắp đặt máy hút muội dầu
+ Độ cao vừa phải. Thông thường là từ 0,6 đến 1 m. Nêu cao quá thì hiệu suất hút bị giảm, nếu thấp quá sẽ ảnh hưởng đến chất lượng món ăn.
+ Ống thoát khí không nên có nhiều chỗ uốn lượn, đồng thời cũng không nên dài hoặc ngắn quá.
+ Chú ý an toàn, vỏ ngoài của máy phải tiếp đất. Ngoài ra, có thể lắp một công tắc phía bên ngoài bếp để đề phòng trường hợp trong phòng bị rò rỉ ga, nếu mở máy hút mùi bằng công tắc này sỗ tránh không gây cháy nổ.
Một thanh niên học hành xuất sắc nộp đơn vào chức vụ quản trị viên của một công ty lớn. Anh ta vừa xong đợt phỏng vấn đầu tiên, ông giám đốc công ty muốn gặp trực tiếp để có quyết định nhận hay không nhận anh ta. Và ông thấy từ học bạ của chàng thanh niên, tất cả đều tốt và năm nào, từ bậc trung học đến các chương trình nghiên cứu sau đại học cũng đều xuất sắc, không năm nào mà anh chàng thanh niên này không hoàn thành vượt bậc.
Viên giám đốc hỏi:
- Anh đã được học bổng của những trường nào?
- Thưa không
- Thế cha anh trả học phí cho anh đi học sao?
- Cha tôi mất khi tôi vừa mới một tuổi đầu. Mẹ tôi mới là người lo trả học phí.
- Mẹ của anh làm việc ở đâu?
- Mẹ tôi làm công việc giặt áo quần.
Viên giám đốc bảo chàng thanh niên đưa đôi bàn tay của anh cho ông ta xem. Chàng thanh niên có hai bàn tay mịn màng và hoàn hảo.
- Vậy trước nay anh có bao giờ giúp mẹ giặt giũ áo quần không?
- Chưa bao giờ. Mẹ luôn bảo tôi lo học và đọc thêm nhiều sách. Hơn nữa, mẹ tôi giặt áo quần nhanh hơn tôi - Chàng thanh niên đáp.
- Tôi yêu cầu anh một việc. Hôm nay khi trở lại nhà, lau sạch đôi bàn tay của mẹ anh, và rồi ngày mai đến gặp tôi.
Ðến lúc ấy thì chàng thanh niên có cảm tưởng là công việc tốt này đang sẵn sàng là của mình. Về đến nhà, chàng ta sung sướng khoe với me, và chỉ xin được cầm lấy đôi bàn tay của bà. Mẹ chàng trai cảm thấy có điều gì đó khác lạ. Với một cảm giác vừa vui mà cũng vừa buồn, bà đưa đôi bàn tay cho con trai xem.
Bàn tay của mẹ, bài học của con
Chàng thanh niên từ từ lau sạch đôi bàn tay của mẹ. Vừa lau, nước mắt chàng tuôn tràn. Ðây là lần đầu tiên chàng thanh niên mới có dịp khám phá đôi tay mẹ mình: đôi bàn tay nhăn nheo và đầy những vết bầm đen. Những vết bầm làm đau nhức đến nỗi bà đã rùng mình khi được lau bằng nước. Lần đầu tiên trong đời, chàng thanh niên nhận thức ra rằng, chính từ đôi bàn tay giặt quần áo mỗi ngày này đã giúp trả học phí cho chàng từ bao nhiêu lâu nay.
Những vết bầm trong đôi tay của mẹ là giá mẹ chàng phải trả dài đăng đẳng cho đến ngày chàng tốt nghiệp, cho những xuất sắc trong học vấn và cho tương lai sẽ tới của chàng.
Sau khi lau sạch đôi tay của mẹ,chàng thanh niên lặng lẽ giặt hết phần áo quần còn lại cho mẹ.
Tối đó, hai mẹ con tâm sự với nhau thật là lâu.
Sáng hôm sau, chàng thanh niên tới trụ sở công ty. Viên giám đốc còn thấy những giọt nước mắt chưa ráo hết trong đôi mắt của chàng thanh niên, ông hỏi: “Anh có thể cho tôi biết những gì anh đã làm và đã học được hôm qua ở nhà không?”
Chàng thanh niên đáp: “Tôi lau sạch đôi tay của mẹ, và cũng giặt hết phần áo quần còn lại.”
Viên giám đốc: “Cảm tưởng của anh ra sao?”
Chàng thanh niên nói: “Thứ nhất, bây giờ tôi mới thấu hiểu thế nào là ý nghĩa của lòng biết ơn: Không có mẹ, tôi không thể thành tựu được như hôm nay. Thứ hai, qua việc hợp tác với nhau, và qua việc giúp mẹ giặt quần áo, giờ tôi mới ý thức được rằng thật khó khăn và gian khổ để hoàn tất công việc. Thứ ba, tôi hiểu sâu xa được tầm mức quan trọng và giá trị của liên hệ gia đình.”
Viên giám đốc nói: “Ðây là những gì tôi cần tìm thấy ở nơi con người sẽ là quản trị viên trong công ty chúng tôi. Tôi muốn tuyển dụng một người biết ơn sự giúp đỡ của những người khác, một người cảm thông sự chịu đựng của những người khác để hoàn thành nhiệm vụ, và một người không chỉ nghĩ đến tiền bạc là mục đích duy nhất của cuộc đời. Em được nhận.”
Sau đó, chàng thanh niên làm việc hăng say, và nhận được sự kính trọng của các nhân viên dưới quyền. Tất cả nhân viên làm việc kiên trì và hợp tác như một đội. Thành tựu của công ty mỗi ngày mỗi được cải thiện.
Câu chuyện nói về sự hi sinh của người mẹ. Nhưng em tự hỏi, điều gì sẽ xảy ra nếu không có người Giám đốc nọ, chắc hẳn người mẹ vẫn phải hi sinh thầm lặng mà người con không hay biết. Em mong rằng mỗi người mẹ trên thế gian này ngoài sự yêu thương không giới hạn, bàn tay làm việc không mệt mỏi thì hãy sớm để cho đứa con sớm nhìn ra bàn tay đó, để họ biết đươc giá trị từng giây phút hạnh phúc.
Theo Bài Học Cuộc Sống
Chào chuyên gia! Vợ chồng tôi vừa mua một căn nhà nhỏ 2 tầng. Căn nhà nằm ở khu vực sạch đẹp, thoáng mát nên chúng tôi rất ưng ý. Duy chỉ có một điều, dưới tầng 1 chỉ có 1 cửa sổ nằm bên cạnh cửa chính nên có cảm giác bên trong rất bí. Về mặt phong thủy, tôi nghe nói nhà ít cửa sổ cũng không tốt. Vậy xin chuyên gia tư vấn giúp tôi vấn đề này và cách cải thiện! Xin cảm ơn!
Hoàng Thị Liên Hoa (Q. Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng)
Chào chị Hoa! Theo phong thủy dương trạch, cửa sổ có vai trò quan trọng không kém cửa ra vào trong việc cân bằng sinh khí cho ngôi nhà, ảnh hưởng đến sức khỏe và tài vận của gia chủ. Nếu cửa ra vào chủ yếu là để đi lại thì cửa sổ chủ yếu mở ra để đón không khí và ánh sáng, mang vượng khí vào nhà.
Vai trò của “mắt và miệng” ngôi nhà
Đối với nhà có cửa sổ nhỏ hoặc chỉ có một cửa sổ mà không thể mở thêm, gia chủ có thể cải thiện bằng cách trang trí không gian sống tạo cảm giác thoáng mát, tươi sáng. Đầu tiên là bài trí đồ đạc trong không gian thiếu cửa sổ cần phải hết sức đơn giản, thoáng và ít ngóc ngách. Bài trí phức tạp càng làm tăng cảm giác bức bối, tù túng. Đối với phòng khách, gia chủ có thể trang trí trên các bức tường bằng tranh ảnh gia đình hay các vật trang trí khác một cách trật tự, làm tăng sinh khí cho căn phòng. Hay phòng bếp không có cửa sổ thì nên chọn vật liệu inox giúp khuếch tán ánh sáng và cho cảm giác sạch sẽ, gọn gàng... Ngoài ra, để giúp cho nhà, phòng không cửa sổ trở nên sáng và dễ chịu hơn thì nên sử dụng màu sắc sáng cho tường trần, chọn loại gạch lát sàn thích hợp. Gia chủ nên chọn các gam màu sáng và ấm như trắng, kem, xám… |
Từ xa xưa, cổ nhân đã rất coi trọng những ô cửa sổ. Tạ Thiên thời Nam Tề (Trung Quốc) có thơ rằng: “Song trung liệt viễn tụ/Đình tế phủ kiến lâm” (tạm dịch nghĩa: Cửa sổ bày núi xa/Sân trước phục rừng cao – KD). Nhà thơ Bạch Cư Dị đời Đường lại có câu “Đông song đối hoa sơn/Tam phong bích sâm lạc” (tạm dịch nghĩa là: Cửa sổ đông đối Hoa Sơn/Núi ba đình sâm biếc rụng). Có thể thấy, người xưa thường thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên qua khung cửa sổ. Không chỉ vậy, qua cảnh đẹp thiên nhiên với núi non, cỏ cây, hoa lá…, người ta còn có thể đào luyện tính tình, di dưỡng thân, tâm. Với một khung cửa sổ mở đúng cách, ánh sáng sẽ ùa vào làm cho căn phòng sáng sủa, sạch sẽ và sống động, đón được luồng gió mát trong lành, giúp cho tinh thần sảng khoái…
Phong thủy cũng rất coi trọng cửa sổ. Cửa sổ được ví như “mắt và miệng” của ngôi nhà. Theo đó trong trời đất, mọi vật phát triển sung mãn trước hết là do hội tụ đầy đủ hai khí âm dương. Nghĩa là, gió mang theo dương khí vào những vùng tối ẩm thấp chứa âm khí, khi hai khí âm dương giao hội sung mãn sẽ tạo ra phong thủy tốt. Có những ngôi nhà khi bước vào ta cảm giác có “tà khí” vây quanh bởi sự thiếu ánh sáng bao trùm. Ngược lại, ngôi nhà có quá nhiều ánh sáng lại tạo ra cảm giác sát khí nặng nề (môi trường sinh sống không tốt). Có người cho rằng, nhà có nhiều âm khí (nước) là nhà tụ tài, chiêu tài. Song ít ai biết rằng, âm khí là con dao hai lưỡi: âm khí quá nặng, lý khí mất cân bằng, nảy sinh bệnh tật, người trong nhà hay mắc chứng bệnh về ảo giác, hô hấp.
Bên cạnh đó, do tâm lý, sở thích…, một số người khi xây nhà lại mở thật nhiều cửa sổ với mục đích đưa thật nhiều ánh sáng vào trong mà không hay biết đã phạm vào dương kháng (dương qua mạnh) trong phong thủy, dẫn đến phát sinh các bệnh về lông, tóc. Dương khí quá thịnh dẫn đến tiền tài không tụ, hữu danh vô lợi, tiền đến tiền đi, và con cái sớm rời cha mẹ. Bởi theo lý luận tâm sinh lý hiện đại, người trẻ tuổi thường nhạy cảm với ánh sáng mạnh, người lớn tuổi thì ngược lại.
Bài trí cửa sổ hợp phong thủy
Theo như miêu tả thì tầng 1 ngôi nhà của bạn chỉ có 1 cửa sổ gần cửa chính. Như vậy là khu vực phía sau không hề có cửa sổ, điều này là khá bất lợi, khiến bạn có cảm giác bí cũng là điều dễ hiểu. Để khắc phục tình trạng này, bạn có thể mở thêm cho không gian sống của mình một đến hai ô cửa sổ để đảm bảo cân bằng hai khí âm dương. Dưới đây là những lưu ý khi mở cửa sổ để mang lại ý nghĩa phong thủy.
Khi chọn hướng mở cửa sổ, bạn nên tránh hướng Tây vì mặt trời hướng Tây chói chang sẽ khiến người trong nhà rất dễ bị đau đầu, cáu gắt và làm việc không hiệu quả. Dù khí hậu và vị trí địa lý có khác biệt và với những nhu cầu đặc biệt nhưng cửa sổ mở ra hướng Tây luôn làm hại cho khí của người sống trong đó. Nếu không còn hướng nào khác để mở cửa sổ thì nên treo chuông gió thủy tinh (pha lê) dạng giọt hoặc hình cầu, có nhiều mặt để biến ánh nắng mặt trời thành sắc độ cầu vồng làm mạnh cho vượng khí trong cả căn phòng đó nói riêng và toàn bộ ngôi nhà nói chung.
Không nên mở cửa sổ đối diện với cửa chính, bởi cửa chính là nơi tất cả mọi người trong nhà ra vào hàng ngày. Khi cửa chính ở vị trí thuận lợi, gió và không khí từ ngoài thổi vào cũng thuận và lành. Khi cửa chính và cửa sổ thông nhau theo một đường thẳng, nếu cửa sổ không nhiều thì ảnh hưởng của nó không lớn. Tuy nhiên, nếu cửa sổ vừa nhiều lại vừa lớn thì sẽ không giữ lại cho phòng những luồng khí tốt lành vì thế sẽ gây ảnh hưởng đến vận mệnh của ngôi nhà và tiền bạc của mọi người ở trong nhà cũng bị hao tổn dần. Điều này sẽ khiến vận may, tiền tài tiêu tan vì các nguồn năng lượng ngũ hành từ cửa ra vào bị hút ra ngoài bằng cửa sổ theo một đường thẳng.
Kích thước cửa sổ nên vừa phải, phù hợp với diện tích và cấu trúc căn nhà. Cửa sổ quá to sẽ làm nhiễu loạn trường không khí trong nhà, gây bất cân xứng hoặc tệ hơn chúng sẽ thu hút năng lượng lên trên trần nhà. Ngược lại, cửa sổ quá nhỏ sẽ khó lấy được ánh sáng và luồng không khí trong lành cho căn phòng và giá trị của chúng cũng bị lãng quên. Ngoài ra cửa sổ quá nhỏ sẽ làm hạn chế tầm nhìn và ảnh hưởng đến tâm lý của người trong nhà, hạn chế sự liên kết với thế giới bên ngoài. Ngoài ra, cửa sổ phải luôn luôn mở ra phía ngoài, không được mở vào bên trong nhà.
Không nên đặt giường ngay phía dưới cửa sổ, đặc biệt là đầu giường, vì cửa sổ là nơi có luồng khí và luồng ánh sáng mạnh nhất, có ảnh hưởng nhiều đến giấc ngủ, bạn sẽ không có sự hỗ trợ cũng như bảo vệ nào. Do đó, năng lượng bản thân dễ bị tản mát. Nếu bắt buộc kê ở vị trí này, bạn hãy dùng rèm cửa dày để che bớt ánh sáng và nguồn khí lớn. Ban đêm, bạn nên đóng cửa kín lại để có giấc ngủ sâu và an lành. Bằng cách làm này, bạn sẽ có cảm giác an toàn khi ngủ giống như bạn được tựa vào một bức tường vững chắc vậy.
Việc xây dựng cửa sổ hướng ra con sông, bờ hồ, đồng cỏ, hàng cây… sẽ mang lại nhiều lợi ích cho những người sống trong nhà. Hướng nhìn đẹp từ cửa sổ có thể mang đến cho bạn cảm giác thư thái, thoải mái sau những giây phút làm việc căng thẳng, mệt mỏi. Đặt cửa sổ ở hướng Đông được coi là mang lại nguồn năng lượng dương dồi dào, thu hút sự may mắn cho ngôi nhà. Ngoài ra, không nên bố trí đồ nội thất quay lưng vào cửa sổ. Ví dụ trong phòng khách, nếu có một chiếc cửa sổ lớn thì cần tránh sắp xếp ghế sofa hoặc ghế ngồi quay lưng về phía cửa sổ. Điều này tạo cho người ở trong căn phòng, cụ thể là khi sử dụng chúng luôn có cảm giác dễ bị tổn thương.
Ánh sáng tự nhiên là điều rất cần trong mọi ngôi nhà, tuy nhiên, nếu ánh sáng quá nhiều (dư thừa năng lượng dương) sẽ khiến cho căn phòng mất cân bằng năng lượng. Điều này tạo nên sự căng thẳng cho các thành viên trong gia đình, thậm chí còn mang đến tâm lý cáu gắt, tức giận. Cách tốt nhất là nên tạo sự hài hòa trong ánh sáng tự nhiên bằng những biện pháp như đóng cửa sổ, treo rèm vào buổi trưa, để chỉ lấy lượng ánh sáng dịu mắt.
Cuối cùng là cần giữ cửa sổ luôn sạch sẽ, bởi cửa sổ được xem là “đôi mắt” của ngôi nhà, là cách mà những người trong nhà nhìn ra thế giới bên ngoài. “Đôi mắt” có trong thì nhìn mới rõ. Nó còn giúp tạo cảm giác khỏe mạnh cho gia chủ và tạo vẻ đẹp cho toàn ngôi nhà. Hãy thường xuyên lau chùi cũng như thay mới những bản lề bị gỉ sét hay cửa kính nứt vỡ để tạo nét khỏe khoắn cho ngôi nhà.
![]() |
![]() |
Lại còn có một số Thần người nước ngoài xâm lăng nước ta, khi chết tạo sự bất an cho dân, như Nguyễn Bá Linh theo nhà Nguyên đánh Đại Việt, Trương phụ là tướng nhà Minh…cũng được thờ ở Ninh Bình, Quảng Ninh cho bớt sự quấy đảo… Nhưng các Thần người nước ngoài có công với chúng ta, thể hiện đạo đức phù hợp với bản chất dân tộc Việt được nhân dân tôn thờ, sùng kính. Ví như đền thờ Mỵ Ê ở Lý Nhân, Hà Nam, là vợ vua Chiêm có khí tiết đáng kính. Triệu Trung là tướng nhà Tống theo Đại Việt đánh giặc Nguyên được thờ ở Cao Đài - Mỹ Thành – Nam Định và đặc biệt Tứ Vị Thánh Nương, triều đình Nam Tống kháng chiến đế quốc Mông – Nguyên không thành, cơ đồ nhà Tống tan nát, hận mất nước mang nặng, tình nguyện âm phù cho Đại Việt đánh giặc cũng như nhân dân Việt làm ăn, phát triển sĩ, nông, công, thương… được dân gian chiêm ngưỡng rộng rãi khắp Trung, Bắc, Nam và lịch đại phong tặng danh hiệu Thượng đẳng thần.
Việc sùng bái này tuy có thời sóng gió, nhưng một vài thập kỷ gần đây được phục hồi, Nhà nước quan tâm tu bổ di tích như đền Cờn - Nghệ An, đền Mẫu – Hưng Yên, đền Lộ - Hà Nội, đền Ninh Cường, đền thờ Mẫu ở Thái Bình, đền các xã Quần Anh cũ, đền xã Trực Khang – Nam định… Phải chăng đạo nghĩa dân tộc, tầm nhìn tổ tiên đã vượt qua biên giới, nói cách khác là đã có quan điểm toàn cầu. Quý hoá thay, đáng kính thay! Riêng với Nam Định nay (vì Nam Định xưa, đầu thế kỷ 19 quản lãnh cả Thái Bình và một phần Hưng Yên) tục thờ Tứ Vị Thánh Nương còn được khôi phục ở khá nhiều nơi, đặc biệt vùng biển, nay thuộc huyện Hải Hậu, huyện Trực Ninh. Xin dẫn chứng lịch sử tôn thờ Tứ vị, với công trình khẩn hoang mở đất phía Nam sông Cường Giang (nay là sông Ninh Cơ) để có được phần lớn đất đai huyện Hải Hậu, huyện Trực Ninh ngày nay. Theo di tích, truyền thuyết địa phương thì các cụ tổ sáng lập đất Quần Anh là Trần Vu, Vũ Chi, Hoàng Gia, Phạm Cập (địa chí ghi là Tứ tính) cùng chín họ Lại, Nguyễn, Lê, Bùi… (địa chí ghi là Cửu tộc) vượt sông Cường Giang, từ vùng Tương Đông - Trực Ninh sang khai hoang lấn biển vào cuối thế kỷ 15 đầu thế kỷ 16, khi điền địa hình thành, lập xóm trại, họ đã lập đền thờ. Phần này trong sách chép tay Quần Anh tiểu sử của Tiêu Viên Hoàng Diễn (1872-1914), do Phương Châu Đoàn Ngọc Phan dịch và chú thích năm Ất Sửu 1985, mục xây dựng đền, miếu, đàn, chùa và bi ký có ghi: “Nguyên trước đền thờ Tống Thái hậu (người họ Dương là vợ vua Tống Độ Tông, mẹ Tống Đế Bính cùng hoàng hậu và hai công chúa bị nạn giặc Mông - Nguyên chết đuối ở bể năm Kỷ Mão 1279). Đền Bóng trước tại xứ Cồn Khuôn bị xã Cát Chử chiếm mất, bèn lập lại đền Bóng tại phía Bắc sông Trệ (nay thuộc cầu Xẻ, xã Thượng). Tương truyền khi Tú Tổ khai trương, phía đông có đền xã Quần Mông, phía tây có đền thờ Tống hậu còn gọi là Tứ Vị Thánh Nương (do ai xây, xây từ bao giờ?... Các tổ nhân sẵn đền cũ tu bổ lại, đúc tượng đồng phụng sự… Niên hiệu Cảnh Thịnh năm thứ 13 mới đúc tượng đồng ở đền Bóng sông Trệ lại trang hoàng từ vũ. Diện tích khu đền rộng hơn một mẫu, nước hồ trong vắt, cây cối um tùm, nhân dân kỳ đảo linh ứng, trải qua nhiều triều đại có sắc phong… Sau khi Quần Anh phân làm ba xã (1804) đến năm Minh Mạng thứ 2 (1821), xã Hạ lập đền Bóng tại phía bắc chợ Đông Cường, xã Trung, xã Thượng vẫn thờ tại đền Bóng phía bắc sông Trệ. Năm Thành Thái thứ 10 (1890), xã Trung mới lập đền Bóng ở phía nam sông Trà, phía đông Cầu Đông. Từ đó các xã đều có đền Bóng riêng, tục gọi là đền Chánh. Còn đền tại Vĩ Châu do Ninh Cường phụng sự, nhưng hai xã Thượng và Trung thay phiên nhau hàng năm lên kinh tế”… Như vậy, trong vòng 5-7 km, các xã giáp nhau đều có đền Bóng thờ Tứ Vị Thánh Nương. Theo truyền thuyết đây là đời sống tinh thần của dân khai hoang mở đất Quần Anh. Sách Quần Anh dấu xưa mở đất của Trần Xuân Mậu (Hội Văn học nghệ thuật Nam Định - 2002) còn ca ngợi đền Chánh xã Trung là công trình kiến trúc tuyệt đẹp. Thợ nề Quần Anh có tài nặn, đắp, tạo hình…Đôi nghê chầu do hai phó nề quây cót đắp thi khá thành công, đã có thơ ca ngợi… Gần 4 ngôi đền phía nam sông Cường Giang, phía bắc sông có đền Lạc Chính nay thuộc xã Trực Khang, huyện Trực Ninh. Lịch sử lập đền vào cuối thế kỷ 19, xin chân nhang ở đền Ninh Cường (cửa biển Lác) về thờ và ngày càng tu bổ đẹp đẽ, lại là cơ sở cách mạng, kháng chiến của địa phương. Đơn cử một số điểm thờ Đại Càn Thánh Mẫu, hoặc Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định để chúng ta tìm hiểu về nguyên nhân cũng như ảnh hưởng của Tứ Vị Thánh Nương đối với cộng đồng dân tộc Việt. Có thể có sự đồng cảm bởi Vương hậu, Vương phi nhà Tống vì kháng chiến chống kể thù chung Mông – Nguyên. Có thể bởi đức độ giữ chư tiết nghĩa mà ngọc phả dẫn, phù hợp với chất đạo lý dân tộc, hoặc do sự âm phù vua Trần Anh Tông cho nên biển lặng, sóng yên giúp quân Trần nhanh chóng chinh phạt kẻ thù phương Nam thành công, hay có sự anh linh, một niềm tin nào đó cho sĩ, công, nông, thương Đại Việt trước kia, rồi Đại Nam, Việt Nam chúng ta ngày nay cầu được ước thấy, mưa thuận gió hoà, thuận buồm xuôi gió…dẫn đến đời sống ấm no, hạnh phúc mà dân gian hết lòng tôn kính, lập đền thờ tự.
Hoặc do dân quê thuần phác, đời sống khó khăn, trong công cuộc khai hoang lấn biển, nhiều lần nước mặn phá vỡ đê biển, nhiều lần tràn ngập cướp đi hàng ngàn, hàng vạn ngày công… dân quê không còn cách nào hơn là lập đền ở Vĩ Châu, rồi sau là đền Chánh, đền Bóng thờ Tứ Vị Thánh Nương mong sự cứu độ và đây là liều thuốc an thần, giúp dân khai phá thành công, thiết lập làng xã với một nếp sống nông thôn nghĩa tình, có từ đường thờ tổ, văn đàn, võ đàn, đền, miếu, chùa cảnh, thờ Thần, Phật, Tổ lập lăng. Còn chấn hưng việc học, xây cầu, lập quán tạo cuộc sống đầy đủ vật chất, chu đáo về tâm linh cho dân. Đây là văn hoá bản địa, văn minh bản địa khá tiêu biểu ít nơi có. Và để minh chứng xin trích dịch “Tân đình bi ký” (1815) tại xã Trung, nay là Hải Trung, Hải Hậu, Nam Định. … “Đất ta cổ truyền là đất chua mặn, cát chữa nên ruộng, bằng phẳng bốn bề, chỗ cao có thể dựng nhà cửa, chỗ thấp có thể cấy dâu gai, ngàn mẫu tạo nên mà trăm nhà dựng, xanh tươi sầm uất thành vũ trụ trời Nam… từ niên hiệu Hồng Thuận chung nhau một xã, đình làng cùng chung, chợ cùng nhau họp, cầu cùng nhau leo, đều cùng nhau cúng. Năm Giáp Tý (1804) mới cắm mốc chia làm ba làng”… Văn bí chùa Phúc Sơn (Quần Phương Trung, Phúc Sơn tự ký) lập năm 1932 còn ghi: … “Năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) lập thành tên xã Quần Anh, dựng đền Quốc Mẫu tối linh Thần ở thôn An Cường, nguyên trước là thôn Tây Cường, nay là xã Ninh Cường, cửa bể sông Lác bãi Vĩ Châu, dựng thêm đền Bóng ở cửa sông Trệ, dựng chùa thờ Phật gọi là chùa Phúc Lâm”. Những dòng chữ Hán của người xưa, muốn cho cộng đồng cư dân Nam Định ghi nhớ dấu tích đời sống tinh thần trong đó có tục thờ Tứ vị, cũng như đức tin của người Nam Định đối với các vị Thần Tổ lập biển lập làng, tạo an sinh xã hội”
Nhìn chung các di tích thờ Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định khá lớn, khá nhiều, thường có hai hoặc ba toà chính, có hệ thống tường hoa, cột trụ vây quanh tạo khuôn viên nội chữ đinh, hoặc nội chữ công, ngoại chữ quốc, quy mô hoành tráng. Phần thư tịch, câu đối đều có nhắc tới nạn xâm lăng của nhà Mông – Nguyên, triều đình Nam Tống bị diệt vong, thái hậu cùn ba con bị nạn trôi đến Càn Môn - Quỳnh Lưu - Nghệ An, nêbn dân gian coi đền Cờn - Nghệ An là nơi phát tích, hàng năm vẫn có người vào đền Cờn dâng lễ tỏ rõ lòng thành, không 1uên gốc. Đơn cử câu đối đền Lạc Chính nay là xã Trực Khang ghi: Nam Hải thần phong thiên hữu sắc Cần môn ba tố địa giai binh Tạm dịch: Nam Hải thần do trời ban sắc, Cầu môn nổi sóng đất anh linh. Lễ hội ở đây, ngoài việc tế lễ, ngày 7 tháng giêng có lệ thi trâu béo, khoẻ. Để làm việc này, ngay từ ngày 6 tháng giêng các giải pháp tắm rửa cho trâu, cho trâu ăn no, lại trang trí trên đầu, trên sừng trâu. Các nhà trong giáp góp gạo thổi xôi làm lễ, tối mồng 6 thắp đuốc rước trâu. Người cưỡi trên lưng trâu giơ cao ngọn đuốc và đoàn người trống chiêng hối hả theo sau. Đoàn rước có tới hàng chục con trâu béo, trâu đẹp được tập trung để dự thi, con nào đạt thì được giải. Lệ này được duy trì cho mãi đến ngày nay, vừa khích lệ tinh thần chăn nuôi tạo sức kéo, vừa nhớ lại chuyện xưa trẻ trâu thấy đền Cửa Lác thờ, bắt chước đắp đất làm đèn, vì thế các cụ mới sang Ninh Cường xin chân nhang về thờ… Theo sách Thần tích Việt Nam của Lê Xuân Quang – Nxb Thanh Niên, 2003, thì thôn Thiện Đăng, xã Thời Mại, huyện Tây Châu, Nam Định có 2 tướng Đinh Thuyên và Nguyễn Phụng dưới trướng Trần Quốc Điền, theo lệnh của Hưng Đạo Đại vương đem 500 quân vào Châu Hoan do thám tình hình địch, trong cuộc kháng chiến lần thứ II – 1285. Nhưng kế hoạch bại lộ, bị địch truy đuổi, các ông cho quân sĩ lên bờ rút lui, bỗng trông thấy đền thờ Tứ vị, liền vào đền khẩn cầu kêu xin âm phù. Ít phút sau trời đất tối sầm, sấm chớp nổi lên, gió bão ập đến làm cho thuyền giặc gãy cột buồm trôi dạt trở lại. Quân ta thừa cơ tấn công, địch rút chạy, thu được hon chục thuyền chiến… Biết chuyện đánh thắng quân Toa Đô có nhờ sự âm phù của Thần ở Càn Hải. Vua Trần ban phong “Càn Hải Tứ vị linh thần”. Lại cho vàng bạc tu sửa đền thờ… Đáng tiếc một thời, các đền thờ Tứ vị nhiều nơi bị cấm đoán, thậm chí phá công trình, tẩu tán đồ thờ. Nhưng do ý thức tôn trọng Tứ vị trong dân gian, họ vẫn ngấm ngầm tìm đi các nơi cầu đảo Thánh Nương phù hộ. Các tư liệu, câu đối còn lưu, ca ngợi sự âm phù của Tứ vị cho triều đình chống ngoại xâm thắng lợi, âm phù cho các thuyền buôn, thuyền đi trên biển, trên sông an toàn. Tài liệu của ông Lê Xuân Quang còn ghi lại đạo sắc ngày 4/12 Quang Trung thứ 5 (1793) trong văn có câu: “Phi tự Đại Tống ngật kim tích tại Tiên tảo, danh tại sử, tướng duy ngã Việt lập quốc, công ư đế thế, trạch ư dân”. Tạm dịch: - Trải từ thời Đại Tống đến nay, dấu tích ghi trong sổ người Tiên, tiếng tâm ghi tự điển. - Âm phù nước Việt ta lập quốc, công giúp nhà vua, ơn sâu với dân cũng thấm nhuần khắp mọi nơi. Đạo sắc trên đây ở đền Hương Nại, xã Yên Nhân, Yên Mô, Ninh Bình phong Tứ vị là người Tiên. Liệu đây có là nguyên nhân để trong điện Thần tứ phủ có văn chầu Đại Càn Thánh Mẫu. Ảnh hưởng của Tứ vị được nhân lên, được dân gian hàon toàn đưa vào nội đạo của dân gian Việt Nam. Xin giới thiệu lại văn chầu Đại Càn Thánh Mẫu, sưu tầm trong những người hát văn ở Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng. Gương tứ đức sáng cùng nhật nguyệt, Nghĩa tam tòng tỏ hết Bắc Nam, Ngàn thu thơm nức hương lan, Đời càng ca tụng, tích càng hiển dương… Đức lồng lộng muôn dân khôn lượng, So bể, trời hình tượng cao sâu Sáng soi khắp chốn đâu đâu, Thơm danh Dương Thị hồi đầu Tống gia Trăm họ nức âu ca cổ vũ, Bốn bộ đều áo mũ đai xiêm. Khắp hoà Thuấn nhật, Nghiêu thiên, Đã vui cõi thọ lại lên xuân đài, Đang vui lúc lòng trời yên thuận, Quốc gia đều hoà khí xuân phong. Sau vì nhất quốc tam công, Người Nguyên ác độc đặt bày mưu mô. Nhà Tống phải thiên đô châu Quảng, Bóng tà dương soi rạng bể Nam. Thợ trời khôn tỏ cơ hoàn, Chúa tôi một dạ những toan phục hồi. Giang sơn Tống dẫu mười còn một, Có lẽ đâu chịu mất ngay đi. Ngoài thì tướng sĩ phù trì, Trong thì Thánh Mẫu khuê nghi luận bàn. Người son phán mà gan vàng đá Việc binh nhung vững dạ kiên tâm. Thần dân báo đáp quân ân, Nặng tình sơn hải mấy thân liễu bồ. Quyết giữ lại cơ đồ nhà Tống, Hẳn không dung những giống bất nhân. Lại khuyên võ tướng mưu thần, Gắng công vì nước đền ơn sinh thành… Nghe dụ chỉ quân dân quyết đánh, Nhưng khôn đua sức mạnh quân Nguyên Mới hay thành bại do thiên, Cơ huyền vẫn giữ, cơ huyền vẫn xoay. Cuộc thế sự hết bày trò rối, Trận Nhai Sơn hết đỗi gian nan… Lênh đênh trên biển liều thân, Quyết lòng thu thập quan quân phục thù, Nhược chẳng được mặc cho thuyền lắng, giãi gan cùng trời trắng bề trong. Ôi thôi thả lá giữa dòng, Qua ba bực sóng đều cùng thảnh thơi. Ấy mấy biết người trời khác giá, Trải gian nguy vẫn dạ trung trinh. Chí thành Phật cũng chứng minh. Bè từ đã đón thênh thênh lên ngồi Phép Phật độ tỉnh rồi mới biết, Chùa La Sơn Nam Việt là đây. Ung dung ở chốn am mây Khấu đầu lễ Phật giãi bày vân vi… Độ bốn vị đều nên Thần phúc, Hoá chân thân bốn khúc trầm hương. Gió đưa thoảng ngát một phương, Hào quang trước mắt ngư phường khô hay. Thuyền qua lại mấy ngày mới hiển, Rước lên thờ kính tiến khói hương. Nhờ ơn từ đấy mấy làng Lưới chài phong vận bạc vàng đầy chen. Đua cầu phúc lập đền tế lễ Độ cho người sông bể biết bao Kể chi giông tố ba đào Kêu cầu khắc ứng chuyện nào cũng yên… Công hộ quốc thơm ghi Nam sử, Lễ suy tôn khởi sự Đông – A Mẫu về chắc giáng điện toà Khuông phù đệ tử vinh hoa thọ trường. Như trên đã nói về ý thức người Quần Anh trong việc tôn thờ Đại Càn Thánh Mẫu. Ý thức trân trọng này được ghi vào tục lệ của làng. xin trích dẫn đôi điều cần thiết. Ngay trang đầu “tục lệ vào đám” có ghi: “Khoảng thế kỷ thứ 15, tiên tổ Quần Anh từ Tương Đông xuống khẩn điền lập ấp. Lúc đó đắp đê bể rất gian khổ nên đã lập đền thờ Tống hậu ở ngay cửa bể Lác Môn (đền Ninh Cường ngày nay) để cầu Thần ủng hộ”… “Khi xã Trung chưa làm đền Chánh, mỗi lần vào đám phải xuống xã Thượng rước kiệu Thần về đình… phải hưng công lập dịch bồi trúc con đường rước Thánh cho thật cao ráo, bằng phẳng. Ngoài ra các con đường khác cũng phải sửa chữa cho tiện đi lại và đón khách gần xa”. Theo lệ tục, những người rước Thánh phải là đàn ông, con trai đi rước, hoặc đi xem hội trên đường, còn các cụ già, đàn bà, em nhỏ thì đi thuyền dưới sông, nên sông Giữa, sông Múc nằm cạnh đường rước phải sửa, vét lại. Phàn đường, phần sông xã phân giao cho các giáp, các xóm, các tư nhân đảm nhận dưới sự kiểm soát của ban đốc công. … Đền Chánh là nơi khởi đầu cuộc rước phải tu sửa cho thật uy nghi, xứng đáng như cung điện Tống triều. Còn các đền khác cũng sửa sang cho tốt để quan khách trông vào. Xã lo phí tổn tu sửa đền Chánh, còn các đền khác các giáp tự lo… Khoản đồ rước như cờ, áo, kiệu, võng, tàn quạt, chiêng trống, gươm, roi… phải bắt tay từ năm, bảy tháng trước. Thợ thêu, thợ mộc, thợ sơn… mỗi hiệp hàng chục người phải làm liên tục…”. Tục vào đám còn ghi tỉ mỉ các khoản đóng góp, phân công cử người vào đám, đề chương trình tế lễ, đề nhật ký tiến cúng cho các giáp, quy định bầy đám, bầy điểm để phô trương văn vật địa phương. Đám do xã lo, thường bày giữa đình là gian thờ kiệu Thần nên phía trên và 4 mặt căng phủ màn thêu, hai gian bên thì đơn giản hơn, ngoài rạp cũng căng phủ màn, treo câu đối, cửa võng…Đồ thờ Thần có sập ngữ, võng ngự theo nghi thức hoàng hậu, hai bên tả hữu thiết đồ thờ theo nghi thức vương công. Điếm hát do các giáp lo nhưng cũng phải tươm tất, xứng với danh vị chủ nhân của giáp. Lại phân chia điếm văn, điếm võ,điếm thể sát để giải quyết mọi pháp lý, điếm đoàn áp (trị an, tuần phòng), điếm tổng cờ (chỉ huy thi đấu cờ), điếm tướng cờ nam, nữ… Phần rước Thần được ghi chép tỉ mỉ, nào phân công cầm “lộ bộ” (đi rước kiệu Thánh), nào người cầm mã đao, cầm cờ “thanh đạo” (dẹp đường), cầm tán, biển có chữ “tĩnh túc” (nghiêm tĩnh), “hồi tỵ” (tránh lại), cờ nhật nguyệt, bộ trống ngũ lôi (10 người), cầm thập kỳ (cờ đỏ viền xanh trắng, hoả xanh) rồi cầm tán, cờ ngũ hành “kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ”, cờ bát quái, tán, tàn… Ngay các hiệu lệnh, trống, chiêng cũng ghi chép tỉ mỉ, các phường hội sư tử, múa rồng, phường động, phường chèo, các trò đi kheo, đô vật… cũng được phân công, trước sau rất cụ thể. Nêu vấn đề trên để thấy việc tế lễ trịnh trọng như thế nào, nghiêm chỉnh như thế nào nhất là vai trò Thàn đền Chánh – Tứ Vị Thánh Nương là chủ chốt, oai linh nhất đối với dân Quần Anh – Nam Định nh thế nào. Phần cỗ rất linh đình. Có cỗ mặn, cỗ chay. Xin đề cập lễ rước cỗ chay tại xã Trung, nay là xã Hải Trung. Ngày 7 tháng giêng lễ khai hạ, lại là dịp kỷ niệm Đại Càn Thánh Mẫu cùng Tam vị, nên ngoài việc tế lễ, sang đêm ngày 8 tháng giêng tổ chức rước cỗ chay. Rước cỗ chay thường làm hai lễ, một lễ sang đền Chánh thờ Tứ vị, một lễ rước sang đền Khải xã, thờ liệt tổ khai sáng Quần Anh. Cỗ đặt trên “mân dàn” (mâm có nhiều tầng). Giữa bày hòn non bộ, bốn góc bầy tứ linh. Đi rước kiệu có đinh nam bưng mâm bồng có trầu rượu cùng cờ, quạt, chiêng trống… Cỗ chay thường có các loại bánh như bánh xu xê, nhựa mận, bánh dứa, bánh quế, bánh nhãn… Những cỗ chay cũng là nét riêng của từng địa phương, dùng sản phẩm riêng của địa phương. Ví như dùng quả đu đủ trổ thành các hoạ tiết, nấu thành mứt trong như kính rồi cắm vào tấm bánh, bày lên đĩa xung quanh có các thứ bánh chay. Mâm cỗ chính có 120 đĩa, các mâm bồng phụ, khoảng 12 đĩa làm toàn bằng ngũ cốc, nông sản, hoa quả. Điều đặc biệt là khi rước Thánh qua thôn xóm nào đèu có sự nghênh tiếp trịnh trọng. Việc này còn có câu đối lưu lại. Tạm dịch: Đền Thần mới sửa bên sông Trệ Kiệu Thánh mừng qua trạm xã Trung Hoặc câu: Âu ca một hội Xuân sau trước, Lễ nhạc trăm năm nghĩa láng giềng. Câu đối trên còn chứng tỏ đất Quần Anh sau khi tách làm ba, vẫn giữ được tình nghĩa làng cũ, nhất là ý thức đối với Tứ vị. Thần linh, coi như Thành hoàng che chở cho dân khẩn điền, lấp biển thành công. Riêng xã Hạ (nay là xã Hải Bắc, huyện Hải Hậu) lễ hội trong khu di tích thờ Phật, thờ Đại Càn Thánh Mẫu, thờ Liệt tổ, thờ Mẫu Liễu Hạnh, thờ Trần Hưng Đạo, xưa vẫn lấy ngày 6, ngày 7 tháng giêng là trọng tâm. Truyền thuyết cho ngày này là kỷ niệm Liệt tổ và Tứ Vị Thánh Nương. Ngoài việc tế lễ, rước kiệu Thánh du xuânb còn có các trò vui như tổ tôm điếm, đấu cờ tướng, cờ người, hát chèo, hát Ả Đào. Hát chèo, hát Ả Đào ở đây có truyền thống. Bởi xưa đây là xóm chuyên nghề này, sau xóm chuyển thành phố với tên phố Cô đầu, nhân dân sống nhờ nghề này và đã lập miếu thờ “Cầm ca nhĩ tổ” (Tổ nghề đàn, ca). Hiện miếu thờ không còn, nghề cũ cũng mai một, nhưng trong ký ức về rạp hát Thanh Kỳ do nghệ sĩ Quách Thị Hồ mở hàng chục năm, rồi nghệ sĩ Linh Nhâm, người con quê hương cũng ít nhiều gợi lại về một địa phương có nghề cầm ca. Xa xưa nghề cầm ca phục vụ các đám hát trong ngày hội Thánh, hầu Dương hậu, vương phi có các chức sắc, quan lại về dự, sau nghề cũ không phù hợp, nhưng truyền thống nghề nghiệp còn bảo lưu, giúp cho phong trào ca hát, đội văn nghệ địa phương trưởng thành. Và ngày hội hiện tại có các chiếu chèo, hoặc các nghệ sĩ hát ca trù dưới con thuyền trôi lững lờ trên sông nước trước đền chùa, gợi cảnh lệ vào đám xưa kia của tiên tổ Quàn Anh. Tục thờ Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định nhen nhóm từ thế kỷ 15-16, thịnh hành vào các thế kỷ 17, 18, 19 và đầu thế kỷ 20. Đặc biệt nhân dân ở các cửa lạch, cửa sông và người làm nghề trên sông biển. Dân gian tin Tứ Vị Thánh Nương lúc nào cũng từ bi cứu độ muôn dân, như xưa đa âm phù giúp vua Trần, tướng Trần, cùng vua Lê đánh giặc, lại âm phù cho ngư dân vào lộng ra khơi đánh bắt cá, thương thuyền buôn bán sóng lặng, bể yên. Phù hộ cho việc khẩn hoang lấn biển, ngự trị được nước cường, sóng lớn cho đê biển vững bền… Sự hiển linh tạo thành đức tin và để đền đáp, kính cẩn thần linh, dân gian lập miếu tôn thờ, theo cách nhìn: Ai có công giúp nước, giúp dân thì thờ. Việc thờ tự có lễ, lễ dâng hương tưởng niệm và hàng năm hoặc 3 năm một lần vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu làng vào đám. Vào đám để biểu hiện lòng thành cao độ. Nhưng vào đám cũng bày vẽ quá đáng, khiến dân thôn phải phục vụ hao tổn sức người, sức của. Ấy vậy mà không ai bảo ai cứ cố gắng hoàn thành tục lệ tế lễ, hội hè do làng xã quy định. Bởi tâm linh mọi người; đây là giờ phút thể hiện sự thành tâm của con dân đối với liệt tổ mở đất, đối với Tứ vị thần linh âm phù cho nước bình yên, cho dân hạnh phúc theo đạo lý dân tộc: “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Phải chăng đây là bản chất ưu việt của cộng đồng cư dân Nam Định và như câu nói cổ nhân: “Thực kỳ tự giả, bất huỷ kỳ khí, ấm kỳ thụ giả, bất chiết kỳ chi”. (Ăn cơm không đập vỡ mâm bát, đứng dưới bóng cây không bẻ gẫy cành).
Hồ Đức Thọ - Chi hội trưởng Chi hội VHDG tỉnh Nam Định
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác |
![]() |
Tử vi đẩu số là bộ môn khoa học huyền bí, được xây dựng dựa trên tổng hòa các yếu tố dịch học, số học, thiên văn học, kinh nghiệm thực tế..., nhằm luận đoán vận mệnh con người. Lá số tử vi là một trong những khái niệm quan trọng nhất của bộ môn này.
![]() |
![]() |
Giáp Dần nam mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.
Sanh năm: 1914 đến 1974 và 2034
Cung KHÔN. Trực KHAI
Mạng ĐẠI KHÊ THÙY (nước khe lớn)
Khắc SƠN HẠ HỎA
Con nhà HẮC ĐẾ (phú quý)
Xương CON CỌP. Tướng tinh CON TRÂU
Ông Quan Đế độ mạng
Đoán xem số mạng Giáp Dần,
Đại Khê mạng Thủy nước sông chảy hoài.
Số tuổi lúc nhỏ gian nan,
Có lúc bệnh tật khóc hoài khó nuôi.
Lớn lên làm có của kho,
Có rồi lại hết sớm đầy tối vơi.
Số này phải chọn phương xa,
Lập nên cơ nghiệp vậy mà mới yên.
Nhân duyên trắc trở buổi đầu,
Về sau mới được an hòa gia môn.
Trung vận phát đạt giàu sang,
Cũng nhờ hồng phước, của Trời ban cho.
Nhưng nhà chẳng đặng yên vui,
Trở về vận cuối gia môn đắc thành.
Tuổi Giáp Dần cuộc đời có nhiều may mắn sống trong sự thanh thản của cuộc sống hiện tại, tuy tuổi nhỏ cũng có lao đao nhưng rất ít. Tóm lại, tuổi Giáp Dần rất tốt, ít khi khổ cực về xác thể cũng như về tâm trí.
Tuổi Giáp Dần không có nhiều khổ cực lắm. Số hưởng thọ trung bình khoảng từ 52 đến 58 tuổi, nhưng nếu biết tu thân, làm phước đức thì được gia tăng niên kỷ.
T uổi Giáp Dần nếu sanh vào những tháng này thì sẽ có nhiều thay đổi nhiều lần về mối lương duyên, đó là sanh nhằm vào những tháng 8 và 12 Âm lịch. Sanh vào những tháng này tuổi Giáp Dần phải ba lần thay đổi lương duyên. Sanh vào những tháng: 2, 3, 4, 5, 9 và 10 Âm lịch, thì số phải 2 lần nối tiếp lương duyên. Sanh vào những tháng: 6, 7 và 11 Âm lịch thì cuộc sống đối với lương duyên được hạnh phúc và thủy chung.
Gia đạo cũng không được hoàn toàn êm ấm, hay có những bất đồng ý kiến, và có thể yên vui bắt đầu từ 47 tuổi trở đi, con cháu yên hòa và có phần phát triển về cơ nghiêp. Công danh tuổi nhỏ có phần lên cao, nhưng sau phải trở xuống đến mức độ trung bình.
Sự nghiệp bắt đầu hoàn thành vào những năm 36 và 42 tuổi, tiền bạc vẫn ở trong một mức độ không cao lắm, có thể nói rằng dư dả mà không có sự thiếu hụt, nếu có chỉ là một vấn đề tạm thời mà thôi.
N hững tuổi mà Giáp Dần rất trùng hạp nhất cho sự làm ăn cũng như về duyên phận là những tuổi: Giáp Dần, Mậu Ngọ, Canh Thân, Quý Hợi. Những tuổi này bạn có thể hùn hạp làm ăn mau tấn phát.
xem tuổi giáp dần nam mạng tuổi giáp dần nam mệnh gì tử vi giáp dần nam mạng 2016 tử vi giáp dần nam mạng tử vi 2016 đinh mão tử vi 2016 tân mùi tử vi 2016 quý hợi tử vi 2016 quý dậu tử vi 2016 mậu thìn tử vi 2016 kỷ tỵ tử vi 2016 giáp tý tử vi 2016 giáp tuất Tử vi 2016 cho tuổ Giáp Dần Nam Mạng tử vi 2016 canh ngọ tử vi 2016 giáp dần và đinh mão giáp dần và giáp tý giáp dần sinh năm bao nhiêu giáp dần nữ mạng năm 2016 giáp dần nam mạng năm 2016 giáp dần nam mạng 2016 giáp dần nam mạng giáp dần mệnh gì giáp dần là năm nào giáp dần hợp tuổi nào giáp dần hợp màu gì giáp dần hợp hướng nào giáp dần 2016 giáp dần
Tuổi Giáp Dần nếu kết duyên nhằm những tuổi này sẽ sống một cuộc đời cao sang quyền quý, đó là những tuổi: Giáp Dần, Mậu Ngọ, Canh Thân, Quý Hợi, Nhâm Tuất, Nhâm Tý, Tân Hợi. Kết duyên với những tuổi này có số hạp làm ăn đặng khá mau phát đạt.
Kết hôn với những tuổi này chỉ có cuộc sông trung bình mà thôi, đó là Giáp Dần kết hôn với các tuổi: Bính Tuất, Canh Tuất,Giáp Tý.
Kết bạn với những tuổi này thì nghèo khổ làm ăn khó khăn: Đó là các tuổi: Kỷ Mùi, Quý Sửu.
Những năm này tuổi Giáp Dần rất kỵ không nên cưới vợ vì sẽ sanh ra cảnh xa vắng phòng không, đó là những năm: 20. 24, 26, 32, 38 và 44 tuổi.
Sanh vào những tháng này tuổi Giáp Dần có rất nhiều vợ, đó là sinh vào những tháng 2, 3, 4, 8, 9 và 12 Âm lịch, có số lưu thê hay đau không về đ àn bà.
Những tuổi này rất đại kỵ trong việc hùn hạp làm ăn, hay kết duyên, đó là những tuổi: Ất Mão, Đinh Tỵ, Tân Dậu, Đinh Mão, Kỷ Tỵ, Kỷ Dậu.
Khi gặp tuổi kỵ, tuổi Giáp Dần phải xa lánh ngay, phải xem sao hạn của mình mà cúng cho đúng ngày, nhắm cho đúng hướng, phải đầy đủ hoa quả, van vái và khấn nguyện và không nên làm những điều có tánh cách ác đức, nhất là nhân tâm thì sẽ được giải hạn ngay.
Tuổi Giáp Dần có những năm khó khăn nhất, làm ăn không được phát đạt, bịnh hoạn hay nhiều thất bại, đó là những năm ở vào số tuổi 25, 28. 34, 38 và 42 tuổi.
Tuổi Giáp Dần chỉ có thể được may mắn, nếu xuất hành đúng vào những ngày giờ này, ngày lẻ, giờ lẻ và tháng lẻ, chẳng những không sợ thất bại mà còn có nhiều may mắn về phần tài lộc.
Từ 20 đến 25 tuổi: 20 tuổi có thành công đôi chút về tình duyên và sự nghiệp. 21 tuổi không được tốt, cẩn thận về sanh mạng, việc làm ăn bình thường, 22 và 23 tuổi, có số tốt vào tháng Giêng, những tháng khác đều xấu. 24 và 25 tuổi, hai năm này việc làm ăn trung bình.
Từ 26 đến 30 tuổi: 26 tuổi có nhiều tốt đẹp về nghề nghiệp công danh. 27 và 28 tuổi, hai năm này có phần tốt đẹp về gia đạo, xấu về công danh, những năm này không nên làm ăn và phát triển về nghề nghiệp. 29 và 30 tuổi, số không được tốt đẹp, trong hai năm này nên cẩn thận việc đi đứng và giao dịch về tiền bạc.
Từ 31 đến 35 tuổi: 31 tuổi thành công lớn về tài lộc và công danh. 32 tuổi có phần xui xẻo. 33 tuổi nên cẩn thận về tiền bạc. 34 tuổi, hay tốt nên cẩn thận về việc làm ăn và hay đẹp về vấn đề nghề nghiệp. 35 tuổi nhiều triển vọng tốt đẹp trong sự làm ăn.
Từ 36 đến 40 tuổi: 36 và 37 tuổi, hai năm này tiếng tăm nhưng về phần tài lộc thì bình thường, 38 và 39 tuổi, hai năm này toàn vẹn và có xui xẻo vào tháng 12 năm 38 tuổi và tháng giêng năm 39 tuổi.
Từ 41 đến 45 tuổi: 41 tuổi xấu, năm nay có hao tài tốn của. 42 và 43 tuổi, hai năm này thất bại về công danh sự nghiệp, việc làm ăn có phần tốt đẹp đôi chút tài lộc và tình cảm. 44 và 45 tuổi, hai năm này không nên đi xa, hay làm ăn lớn có thất bại, tài lộc yếu kém.
Từ 46 đến 50 tuổi: 40 và 47 tuổi, hai năm này làm ăn không được khá. 48 và 49 nên cẩn thận về bổn mạng, phần tài lộc bình thường, 50 tuổi hy vọng lấy sự nghiệp vững vàng.
Từ 51 đến 52 tuổi: Hai năm này việc tài lộc phát triển. Số có nhiều triển vọng về công danh, cũng như về sự nghiệp, đời sống về gia đình, con cái được sung túc. Cẩn thận đề phòng đau bịnh về mùa Đông.
Vận trình tử vi trọn đời 12 con giáp chi tiết
Xem bói tử vi tuổi Dần
Xem tử vi năm mới
Hướng kê giường phòng ngủ tuổi Đinh Dậu 1957
– Năm sinh âm lịch: Đinh Dậu
– Quẻ mệnh: Đoài Kim
– Ngũ hành: Sơn Hạ Hỏa (Lửa trên núi)
– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch
– Hướng tốt: Tây Bắc (Sinh Khí); Đông Bắc (Diên Niên); Tây Nam (Thiên Y); Tây (Phục Vị);
– Hướng xấu: Bắc (Hoạ Hại); Đông (Tuyệt Mệnh); Đông Nam (Lục Sát); Nam (Ngũ Quỷ);
Phòng ngủ:
Con người luôn giành 30% cuộc đời mình cho việc ngủ, nên phòng ngủ chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng.Vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)
Gia chủ mang mệnh Hỏa, Mộc sinh Hỏa, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Mộc, là hướng Đông; Đông Nam;
Nếu tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.
Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Xanh lá, đây là màu đại diện cho hành Mộc, rất tốt cho người hành Hỏa.
Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.
Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.
Sau thất bại năm 2008 trước đương kim Tổng thống Mỹ Barack Obama trong cuộc đua trở thành ứng viên tranh cử tổng thống của Đảng Dân Chủ, cựu Đệ nhất Phu nhân Mỹ Hillary Clinton sẽ một lần nữa trở lại cuộc đua vào năm 2016. Nếu lần tranh cử này giành thắng lợi thì bà sẽ trở thành nữ Tổng thống đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ. Liên tiếp các dự đoán kết quả bầu cử tổng thống Mỹ được đưa ra dựa trên phong độ của các ứng viên trên từng chặng đua. Giờ, hãy thử dựa trên lá số tử vi của Hillary Clinton xem liệu bà có thể trở thành người phụ nữ quyền lực nhất nước Mỹ trong năm 2016 này không nhé!
Bà Hillary năm nay 67 tuổi, bát tự là năm Đinh Hợi, tháng Canh Tuất, ngày Mậu Dần. Đại vận sắp xếp theo thứ tự: 35 tuổi Giáp Dần, 45 tuổi Ất Mão, 55 tuổi Bính Thìn, 65 tuổi Đinh Tỵ, 75 tuổi Mậu Ngọ. Mậu Dần là ngày Thất Sát, người sinh vào ngày này có khát vọng đề cao bản thân, không thích bị người khác chi phối, phủ định hay lãnh đạo. Đáng tiếc, bà Hillary đã hơi nóng vội, bát tự của bản thân vốn không kém nhưng thời cơ đại vận không tốt nên tương lai không gặp nhiều trợ giúp trong sự nghiệp. Nếu trúng cử Tổng thống Mỹ thì cũng không hứa hẹn sẽ đưa đất nước cờ hoa phát triển thịnh đạt như đã tuyên bố.
![]() |
Lấy vợ lấy chồng, ta có tục so đôi tuổi, xem có hợp thì mới lấy, tin rằng hễ không hợp thì về sau vợ chồng ở với nhau không được chu toàn. Cũng có khi là một cách nhã để từ chối không gả, đổ cho tại tuổi, chứ không phải chê bai. Nhưng phần nhiều là tin thật.
Ngũ hành tương sinh là hợp, là tốt:
Ngũ hành tương khắc là không hợp, là xấu:
Hành của chồng mà sinh hành của vợ thì gọi là sinh xuất, hành của vợ mà sinh hành của chồng thì gọi là sinh nhập. Khắc cũng thế, chồng khắc vợ là khắc xuất, vợ khắc chồng là khắc nhập.
Sinh nhập thì thật là tốt. Sinh xuất thì là tiết khí, hơi kém. Khắc xuất thì xấu, nhưng còn tiềm tiệm được. Khắc nhập thì thật là xấu, không nên lấy nhau.
Tị – Hòa: hai vợ chồng cùng một hành thì là tị – hòa cũng có thể dung được.
Có câu rằng:
Mỗi hành chia làm mấy thứ, như hành Hỏa, thì có Tích – lịch – hỏa (lửa sấm sét) với Thiên – thượng – hỏa (lửa trên trời), hai thứ cùng dữ dội. Hai thứ hỏa ấy là hỏa – diệt, không thể đi được với nhau.
Lại có câu:
Những thế cùng hành ấy là dung nhau được, như Phù đăng hỏa (lửa đèn) với Sơn – hạ – hỏa (lửa dưới núi) phải nhờ lẫn nhau mới sáng, thế là Lưỡng hỏa thành viêm.
Cũng có thế khắc, nhưng mà khắc nhẹ, vợ chồng ở với nhau chỉ lạt lẽo mà thôi, chứ không đến nỗi phải lìa.
Tuổi nào hành gì?
Năm | Can chi | Niên mệnh | Nghĩa niên mệnh | Quẻ dịch nam | Quẻ dịch nữ |
1905 | Ất Tỵ | Phú Đăng Hỏa | Lửa đèn to | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
1906 | Bính Ngọ | Thiên Hà Thủy | Nước trên trời | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
1907 | Đinh Mùi | Thiên Hà Thủy | Nước trên trời | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
1908 | Mậu Thân | Đại Trạch Thổ | Đất nền nhà | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
1909 | Kỷ Dậu | Đại Trạch Thổ | Đất nền nhà | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
1910 | Canh Tuất | Thoa Xuyến Kim | Vàng trang sức | Ly Hỏa | Càn Kim |
1911 | Tân Hợi | Thoa Xuyến Kim | Vàng trang sức | Cấn Thổ | Đoài Kim |
1912 | Nhâm Tý | Tang Đố Mộc | Gỗ cây dâu | Đoài Kim | Cấn Thổ |
1913 | Quý Sửu | Tang Đố Mộc | Gỗ cây dâu | Càn Kim | Ly Hỏa |
1914 | Giáp Dần | Đại Khe Thủy | Nước khe lớn | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
1915 | Ất Mão | Đại Khe Thủy | Nước khe lớn | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
1916 | Bính Thìn | Sa Trung Thổ | Đất pha cát | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
1917 | Đinh Tỵ | Sa Trung Thổ | Đất pha cát | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
1918 | Mậu Ngọ | Thiên Thượng Hỏa | Lửa trên trời | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
1919 | Kỷ Mùi | Thiên Thượng Hỏa | Lửa trên trời | Ly Hỏa | Càn Kim |
1920 | Canh Thân | Thạch Lựu Mộc | Gỗ cây lựu | Cấn Thổ | Đoài Kim |
1921 | Tân Dậu | Thạch Lựu Mộc | Gỗ cây lựu | Đoài Kim | Cấn Thổ |
1922 | Nhâm Tuất | Đại Hải Thủy | Nước biển lớn | Càn Kim | Ly Hỏa |
1923 | Quý Hợi | Đại Hải Thủy | Nước biển lớn | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
1924 | Giáp Tý | Hải Trung Kim | Vàng trong biển | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
1925 | Ất Sửu | Hải Trung Kim | Vàng trong biển | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
1926 | Bính Dần | Lư Trung Hỏa | Lửa trong lò | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
1927 | Đinh Mão | Lư Trung Hỏa | Lửa trong lò | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
1928 | Mậu Thìn | Đại Lâm Mộc | Gỗ rừng già | Ly Hỏa | Càn Kim |
1929 | Kỷ Tỵ | Đại Lâm Mộc | Gỗ rừng già | Cấn Thổ | Đoài Kim |
1930 | Canh Ngọ | Lộ Bàng Thổ | Đất đường đi | Đoài Kim | Cấn Thổ |
1931 | Tân Mùi | Lộ Bàng Thổ | Đất đường đi | Càn Kim | Ly Hỏa |
1932 | Nhâm Thân | Kiếm Phong Kim | Vàng mũi kiếm | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
1933 | Quý Dậu | Kiếm Phong Kim | Vàng mũi kiếm | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
1934 | Giáp Tuất | Sơn Đầu Hỏa | Lửa trên núi | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
1935 | Ất Hợi | Sơn Đầu Hỏa | Lửa trên núi | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
1936 | Bính Tý | Giảm Hạ Thủy | Nước cuối khe | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
1937 | Đinh Sửu | Giảm Hạ Thủy | Nước cuối khe | Ly Hỏa | Càn Kim |
1938 | Mậu Dần | Thành Đầu Thổ | Đất trên thành | Cấn Thổ | Đoài Kim |
1939 | Kỷ Mão | Thành Đầu Thổ | Đất trên thành | Đoài Kim | Cấn Thổ |
1940 | Canh Thìn | Bạch Lạp Kim | Vàng chân đèn | Càn Kim | Ly Hỏa |
1941 | Tân Tỵ | Bạch Lạp Kim | Vàng chân đèn | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
1942 | Nhâm Ngọ | Dương Liễu Mộc | Gỗ cây dương | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
1943 | Quý Mùi | Dương Liễu Mộc | Gỗ cây dương | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
1944 | Giáp Thân | Tuyền Trung Thủy | Nước trong suối | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
1945 | Ất Dậu | Tuyền Trung Thủy | Nước trong suối | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
1946 | Bính Tuất | Ốc Thượng Thổ | Đất nóc nhà | Ly Hỏa | Càn Kim |
1947 | Đinh Hợi | Ốc Thượng Thổ | Đất nóc nhà | Cấn Thổ | Đoài Kim |
1948 | Mậu Tý | Thích Lịch Hỏa | Lửa sấm sét | Đoài Kim | Cấn Thổ |
1949 | Kỷ Sửu | Thích Lịch Hỏa | Lửa sấm sét | Càn Kim | Ly Hỏa |
1950 | Canh Dần | Tùng Bách Mộc | Gỗ tùng bách | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
1951 | Tân Mão | Tùng Bách Mộc | Gỗ tùng bách | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
1952 | Nhâm Thìn | Trường Lưu Thủy | Nước chảy mạnh | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
1953 | Quý Tỵ | Trường Lưu Thủy | Nước chảy mạnh | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
1954 | Giáp Ngọ | Sa Trung Kim | Vàng trong cát | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
1955 | Ất Mùi | Sa Trung Kim | Vàng trong cát | Ly Hỏa | Càn Kim |
1956 | Bính Thân | Sơn Hạ Hỏa | Lửa trên núi | Cấn Thổ | Đoài Kim |
1957 | Đinh Dậu | Sơn Hạ Hỏa | Lửa trên núi | Đoài Kim | Cấn Thổ |
1958 | Mậu Tuất | Bình Địa Mộc | Gỗ đồng bằng | Càn Kim | Ly Hỏa |
1959 | Kỷ Hợi | Bình Địa Mộc | Gỗ đồng bằng | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
1960 | Canh Tý | Bích Thượng Thổ | Đất tò vò | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
1961 | Tân Sửu | Bích Thượng Thổ | Đất tò vò | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
1962 | Nhâm Dần | Kim Bạch Kim | Vàng pha bạc | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
1963 | Quý Mão | Kim Bạch Kim | Vàng pha bạc | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
1964 | Giáp Thìn | Phú Đăng Hỏa | Lửa đèn to | Ly Hỏa | Càn Kim |
1965 | Ất Tỵ | Phú Đăng Hỏa | Lửa đèn to | Cấn Thổ | Đoài Kim |
1966 | Bính Ngọ | Thiên Hà Thủy | Nước trên trời | Đoài Kim | Cấn Thổ |
1967 | Đinh Mùi | Thiên Hà Thủy | Nước trên trời | Càn Kim | Ly Hỏa |
1968 | Mậu Thân | Đại Trạch Thổ | Đất nền nhà | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
1969 | Kỷ Dậu | Đại Trạch Thổ | Đất nền nhà | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
1970 | Canh Tuất | Thoa Xuyến Kim | Vàng trang sức | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
1971 | Tân Hợi | Thoa Xuyến Kim | Vàng trang sức | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
1972 | Nhâm Tý | Tang Đố Mộc | Gỗ cây dâu | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
1973 | Quý Sửu | Tang Đố Mộc | Gỗ cây dâu | Ly Hỏa | Càn Kim |
1974 | Giáp Dần | Đại Khe Thủy | Nước khe lớn | Cấn Thổ | Đoài Kim |
1975 | Ất Mão | Đại Khe Thủy | Nước khe lớn | Đoài Kim | Cấn Thổ |
1976 | Bính Thìn | Sa Trung Thổ | Đất pha cát | Càn Kim | Ly Hỏa |
1977 | Đinh Tỵ | Sa Trung Thổ | Đất pha cát | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
1978 | Mậu Ngọ | Thiên Thượng Hỏa | Lửa trên trời | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
1979 | Kỷ Mùi | Thiên Thượng Hỏa | Lửa trên trời | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
1980 | Canh Thân | Thạch Lựu Mộc | Gỗ cây lựu | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
1981 | Tân Dậu | Thạch Lựu Mộc | Gỗ cây lựu | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
1982 | Nhâm Tuất | Đại Hải Thủy | Nước biển lớn | Ly Hỏa | Càn Kim |
1983 | Quý Hợi | Đại Hải Thủy | Nước biển lớn | Cấn Thổ | Đoài Kim |
1984 | Giáp Tý | Hải Trung Kim | Vàng trong biển | Đoài Kim | Cấn Thổ |
1985 | Ất Sửu | Hải Trung Kim | Vàng trong biển | Càn Kim | Ly Hỏa |
1986 | Bính Dần | Lư Trung Hỏa | Lửa trong lò | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
1987 | Đinh Mão | Lư Trung Hỏa | Lửa trong lò | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
1988 | Mậu Thìn | Đại Lâm Mộc | Gỗ rừng già | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
1989 | Kỷ Tỵ | Đại Lâm Mộc | Gỗ rừng già | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
1990 | Canh Ngọ | Lộ Bàng Thổ | Đất đường đi | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
1991 | Tân Mùi | Lộ Bàng Thổ | Đất đường đi | Ly Hỏa | Càn Kim |
1992 | Nhâm Thân | Kiếm Phong Kim | Vàng mũi kiếm | Cấn Thổ | Đoài Kim |
1993 | Quý Dậu | Kiếm Phong Kim | Vàng mũi kiếm | Đoài Kim | Cấn Thổ |
1994 | Giáp Tuất | Sơn Đầu Hỏa | Lửa trên núi | Càn Kim | Ly Hỏa |
1995 | Ất Hợi | Sơn Đầu Hỏa | Lửa trên núi | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
1996 | Bính Tý | Giảm Hạ Thủy | Nước cuối khe | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
1997 | Đinh Sửu | Giảm Hạ Thủy | Nước cuối khe | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
1998 | Mậu Dần | Thành Đầu Thổ | Đất trên thành | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
1999 | Kỷ Mão | Thành Đầu Thổ | Đất trên thành | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
2000 | Canh Thìn | Bạch Lạp Kim | Vàng chân đèn | Ly Hỏa | Càn Kim |
2001 | Tân Tỵ | Bạch Lạp Kim | Vàng chân đèn | Cấn Thổ | Đoài Kim |
2002 | Nhâm Ngọ | Dương Liễu Mộc | Gỗ cây dương | Đoài Kim | Cấn Thổ |
2003 | Quý Mùi | Dương Liễu Mộc | Gỗ cây dương | Càn Kim | Ly Hỏa |
2004 | Giáp Thân | Tuyền Trung Thủy | Nước trong suối | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
2005 | Ất Dậu | Tuyền Trung Thủy | Nước trong suối | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
2006 | Bính Tuất | Ốc Thượng Thổ | Đất nóc nhà | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
2007 | Đinh Hợi | Ốc Thượng Thổ | Đất nóc nhà | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
2008 | Mậu Tý | Thích Lịch Hỏa | Lửa sấm sét | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
2009 | Kỷ Sửu | Thích Lịch Hỏa | Lửa sấm sét | Ly Hỏa | Càn Kim |
2010 | Canh Dần | Tùng Bách Mộc | Gỗ tùng bách | Cấn Thổ | Đoài Kim |
2011 | Tân Mão | Tùng Bách Mộc | Gỗ tùng bách | Đoài Kim | Cấn Thổ |
2012 | Nhâm Thìn | Trường Lưu Thủy | Nước chảy mạnh | Càn Kim | Ly Hỏa |
2013 | Quý Tỵ | Trường Lưu Thủy | Nước chảy mạnh | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
2014 | Giáp Ngọ | Sa Trung Kim | Vàng trong cát | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
2015 | Ất Mùi | Sa Trung Kim | Vàng trong cát | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
2016 | Bính Thân | Sơn Hạ Hỏa | Lửa trên núi | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
2017 | Đinh Dậu | Sơn Hạ Hỏa | Lửa trên núi | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
2018 | Mậu Tuất | Bình Địa Mộc | Gỗ đồng bằng | Ly Hỏa | Càn Kim |
BẢNG LẬP THÀNH ÐỂ SO ÐÔI TUỔI VỢ CHỒNG THEO NGŨ HÀNH KHẮC HỢP
Trên đây là nội dung phương pháp "So đôi tuổi vợ chồng" lấy từ cuốn "Từ điển tử vi" của tác giả Đắc Lộc để bạn đọc tham khảo. Cá nhân tôi không đưa ra lời nhận xét nào. Nội dung trên chỉ mang tính chất tham khảo.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Tục lệ xưa cần có phù dâu vì hôn ngân cưỡng ép, do cha mẹ định đoạt, nhiều nơi lại có nạn tảo hôn, thông thường thì “Nữ thập tam nam thập lục”, con gái mười ba tuổi về nhà chồng đã biết gì đâu! Do đó cô dâu phải có người dẫn dắt. Người dắt cô dâu gọi là phù dâu.
Ngày xưa phù dâu phải là người cô, người dì hay chị em thân thiết của cô dâu, có khả năng thuyết phục, bày vẽ cho cô dâu, được cô dâu kính nể, mến phục, được bố mẹ cô dâu ủy thác. Đây phải là người may mắn, tốt phúc, duyên ưa, phận đẹp.
Con gái lành mạnh ngoan ngoãn, gia đình êm ấm, đề huề có thể truyền kinh nghiệm làm dâu, làm mẹ, làm vợ cho em, cho cháu mình. Nhưng cô gái này nhiều khi còn phải ở lại năm bảy ngày sau để cho cô dâu đỡ buồn và để chỉ bảo kinh nghiệm. Thông thường họ cũng trở lại với dâu rể trong lễ lại mặt.
Đám cưới ngày xưa phải có phù dâu, không định lệ, và cũng không có danh từ “Phù rể”. Đám cưới ngày nay, nhiều nơi có cả phù rể.
Chuyện về loài Ó
Nếu bạn đặt một con ó vào một chiếc lồng,với kích thước khoảng 2m x 2,5m, và hoàn toàn không có nóc, tức là phần trên được mở toang; thì cho dù vẫn có khả năng bay lên, nhưng con chim này sẽ hoàn toàn trở thành một ... tù nhân.
Lý do là một con chim ó luôn bắt đầu bay từ mặt đất lên,với đoạn "chạy đà" khoảng 3 - 4m.
Không có quãng đường để chạy, thì theo thói quen, chú chim thậm chí chẳng buồn cố gắng thử bay lên, mà chấp nhận bị cầm tù suốt đời, trong một "nhà giam" nhỏ chẳng hề có mái!
Chuyện về con Dơi
Một cơn dơi bình thường luôn bay ra ngoài vào buổi tối. Nó là một sinh vật nhanh nhẹn, linh lợi đến mức ấn tượng.
Tuy nhiên, nó không thể cất cánh từ một địa điểm bằng phẳng. Nếu nó được đặt trên sàn hoặc một mặt phẳng, thì tất cả những gì nó có thể làm là lê bước loanh quanh một cách vô vọng, và tất nhiên, một cách đau khổ.
Cho đến khi nó tìm được một độ cao nào đó, chỉ cần là một góc nâng nhỏ thôi, để từ đó, nó có thể tung mình vào không trung. Và, ngay lập tức,nó bay lên như một tia chớp.
Chuyện về loài Ong Nghệ
Một con ong nghệ, nếu bị thả vào một cái cốc lớn không có nắp, cũng sẽ ở đó cho đến chết, trừ phi chúng ta lôi nó ra.
Nó không bao giờ nhìn thấy đường thoát ở phía trên, mà cứ khăng khăng cố gắng tìm cách nào đó thoát ra qua các mặt bên, hoặc qua... đáy cốc. Nó sẽ tìm một con đường ở nơi mà không có con đường nào tồn tại, cho đến khi nó hoàn toàn tự hủy hoại mình.
Câu chuyện về Con Người
Theo rất nhiều cách, chúng ta cũng giống như con chim ó, con dơi và con ong nghệ. Chúng ta vật lộn với tất cả các rắc rối và tuyệt vọng của mình, mà không bao giờ nhận ra rằng rất có thể một giải pháp ở rất gần,chỉ cần chúng ta nhìn lên cao hơn - hay nhìn hướng tới phía trước.
Nhìn ngược lại có thể khiến bạn buồn bã. Nhìn quanh có thể khiến bạn lo lắng. Hãy nhìn lên cao, và nhìn tới trước,đó là cách sống lạc quan. Và tinh thần tích cực, nhiều hy vọng sẽ giúp bạn tìm ra giải pháp trong hầu hết các trường hợp.
Có một tác giả đã viết: "Khi không có giải pháp nào xuất hiện ngay trước mắt, thì con người rất dễ kết luận rằng không có giải pháp nào cả. Nhưng thực tế đã chứng minh, từ lần này sang lần khác, rằng giả thuyết đó là sai lầm."
Chỉ cần bạn nhìn lên cao hơn, rộng hơn tình huống hiện tại, rất có thể bạn sẽ thấy một lối đi ngay trước mắt mình.
Sống đơn giản, yêu thật lòng, quan tâm sâu sắc, hướng đến phía trước. Đó là bài học cuộc sống sâu sắc Chuyện về loài Ó, con Dơi, Ong Nghệ, Con Người
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
- Nguyên nhân thì có rất nhiều, có nguyên nhân do phạm vào hình thế bên ngoài:
+ Nhà bị con đường đâm trực diện hay hơi lệch,
+ Nhà bị đối diện với trại giam, cơ quan công quyền, đối diện nghĩa trang, đền đình...
+ Nhà bị góc nhọn đâm đến,
+ Nhà bị ngay cạnh nhà vệ sinh công cộng,
+ Nhà bị cô âm, cô dương,
+ Nhà bị ao xung trước nhà, hay bạch hổ há miệng,
+ Và các xung sát khác...
===== Những nguyên nhân này thì các chuyên gia phong thủy có kinh nghiệm xử lý hóa giải sẽ biến hung thành cát một cách nhanh nhất, thậm chí có người chỉ cần hóa giải ngày hôm trước (các đồ vật được khai quang và đặt đúng ngày giờ tốt theo Quẻ dịch) thì ngày hôm sau đã buôn bán tốt, có nhiều khách hàng, sự nghiệp thăng tiến.
- Nguyên nhân do bố trí trong nhà:
+ Tâm nhà bị xuyên tâm hoặc động khí: tức cầu thang đặt tại tâm nhà, hoặc tại tâm nhà có nhiều cửa của các phòng thông thiên tại khu vực trung cung.
+ Chân cầu thang đè lên trên bể phốt,
+ Bếp đặt không đúng cung vị tốt,
+ Bàn thờ đặt không đúng cung,
+ Các cung vị không được kích hoạt hoặc bị kìm hãm,
==== Đây là nguyên nhân khiến rất nhiều trường hợp dù nhiều nhà hợp hướng nhưng vẫn bại sản, gặp nhiêu tai họa khi về nhà mới.
Những trường hợp này thì phải thiết kế. Dùng các phép cao cấp trong địa lý như An Thần Sát để phân cung và thay đổi vị trí các phòng ban để hấp thụ các khí tốt cho phòng thờ, bếp...Để làm được việc này đòi hỏi thầy phong thủy phải uyên thâm Phép An Thần Sát và có khả năng nhìn khí đất, sự di chuyển của khí đất thì mới hiệu nghiệm và biến hung thành cát.
- Nguyên nhân do ảnh hưởng của các sao. Đây là dựa theo sự di chuyển của cửu tinh trong huyền không phi tinh, tức sự di chuyển của chín ngôi sau (nhất bạch, nhị hắc, tam bích, tứ lục, ngũ hoàng, lục bạch, thất xích, bát bạch, cửu tử), những ngôi sao này phi tinh theo vận (20 năm), phi tinh theo năm, theo tháng, theo ngày, giờ. Vậy như thế nào là phạm vào thế hao tài, tổn hại nhân định:
+ Nếu theo vận mà tại cung tọa có song tinh đáo tọa thì nhà này khi dựng xong và đến ở sẽ dần dần không còn một đồng nào, từ giàu trở thành nghèo hèn, khốn khó.
Ví dụ trong vận 8, hướng nhà tại sơn ất, tọa tân thì tại cung tọa có 2 sao số 8. vì sao hướng tinh 8 bị lạc vào sơn tọa nên nhà này không có tài lộc.
+ Nếu theo vận mà thế trận sao trong cửu tinh bàn lập sơn hướng phạm phải thướng sơn há thủy, tức là sao đương vận của sơn tinh lạc vào cung hướng, còn sao hướng tinh đương vượng lạc vào sơn tọa sẽ là cho gia chủ khi nhập trạch sẽ tổn về nhân đinh, bệnh tật, tài lộc cũng không có, nghèo hèn và chết chóc.
+ Nếu vận bàn mà lập sơn hướng cho ngôi nhà tại cung hướng có 2 sao đương vận của sơn tinh và hướng tinh cùng đóng tại một cung thì chủ về vượng tài lộc nhưng nhân đinh thì bị hao tổn, không có con trai.
+ Nhiều vận bàn khác với những thế trận sao, và kết hợp với hình thế loan đầu sẽ làm cho ngôi nhà bị những ảnh hưởng xấu về nhân đinh hay tài lộc, điều này phải khảo sát thực tế, tính toán cụ thể thì mới có cách hóa giải.
+ Sao lưu niên theo năm cũng vô cùng tác động đến ngôi nhà. do đó cũng cần hóa giải.
Ví dụ năm nay 2013 sao ngũ hoàng nhập trung cung, nhất là những ngôi nhà có cầu thang tại tâm nhà, những nơi kinh doanh mà tại khu vực tâm nhà có hệ thống đèn điện, loa đài, màu sắc là màu vàng, hay đỏ sẽ làm cho ngôi nhà kinh doanh bị mất khách, ốm đau (phù thuộc vào bát tự ngày tháng, giờ năm sinh của mọi người thì sẽ biết hung hại ra sao).
==== Để hóa giả và kích hoạt cho những ngôi nhà này thầy phong thủy cần phải căn cứ vào hình thế bên ngoài để tính toán và thu sơn xuất sát cho đúng thì hóa hung thành cát. đồng thời kích hoạt bằng các pháp khí phong thủy theo những phép riêng nhất định sẽ giúp gia chủ biến hung thành cát ngay lập tức.
- Nguyên nhân tại Cửa cổng, Cửa chính.
+ Cơ sở tính toán:
Dùng phép An thần sát để an thần sát cho cửu cung khí trường (địa lý cấp cao)
Dùng phép Khai môn điểm thần sát để mở cổng, cửa chính (địa lý cấp cao)
+ Khi tính toán 2 phép trên mà thấy cửa chính của ngôi nhà bị phạm vào khí thiên hình, đại sát, độc hỏa, thì ngôi nhà đó sẽ gặp họa và thất bại trong kinh doanh khi về ở nhà mới.
+ Khi cửa chính gặp được khí thiên lộc, âm quý nhân, dương quý nhân, thiên mã thì đến ở nhà đó sẽ có đại lộc, đại phúc, mọi điều tốt lành.
+ Khi tâm nhà gặp độc hỏa, đại sát, thiên hình, thì làm cho 8 cung khác bị ảnh hưởng xấu, cũng là tai họa.
=== Trường hợp mà dùng 2 phép an thần sát trên thấy khí xấu tại cửa thì cần phải điều chỉnh mở cửa chính tại nơi có khí thiên lộc, thiên mã, âm quý nhân, dương quý nhân là tốt nhất. còn có thể dùng các vật liệu, đồ pháp khí phong thủy để hóa giải và kích hoạt nhanh nhất.
Trong phong thủy coi trọng cửa chính, cửa cổng, vì họa phúc do cửa mà gây ra. Do đó nếu cửa chính, cửa cổng tốt thì nhà đắc lộc, còn không tốt thì nhà gặp họa liên miên.
+ Chọn ngày giờ, tháng, Năm động thổ cũng là nguyên nhân gây họa, nếu chọn phải ngày sát chủ hoặc các ngày xấu theo quẻ dịch thì xây xong hoặc đang xây dựng sẽ gặp họa. nếu chọn ngày giờ tốt theo quẻ dịch thì mọi việc hanh thông.
Chính vì vậy khi xây dựng nhà cửa khách hàng hay nhờ đến phong thủy thiết kế phong thủy cho ngôi nhà trước khi thiết kế xây dựng và xây cất để phân bổ các cung khí trường sao cho phù hợp với các phòng, vị trí bài trí nội thât trong nhà. có như vậy ngôi nhà của chúng ta mới là Một Trạch Cát.
Lưu ý: các đồ vật phong thủy phải được khai quang, đặt đúng ngày giờ và đúng cung vị thì mới có tác dụng, nếu sai cung vị, ngày giờ và không được khai quang thì sẽ không có tác dụng mà còn làm xấu hơn.
Nguồn Phong Thủy Tổng hợp
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
![]() |
Ảnh minh họa |
► Tham khảo thêm: Giải mã việc mơ thấy cá, mơ thấy máu theo thế giới tâm linh |
![]() |
=> Chuyên trang Tử vi - ## gửi đến bạn đọc công cụ tra cứu Tử vi hàng ngày, Tử vi trọn đời chuẩn xác nhất |
Ngày nay người tụng kinh niệm Phật không nhất định phái xuất gia tu hành, chỉ cần có lòng, bất cứ ai cũng có thể hướng Phật. Nhưng niệm Phật mà không hiểu Phật thì không có ý nghĩa gì hết. 12 điểm lưu ý tụng kinh niệm Phật dưới đây phải ghi nhớ thật kĩ trước khi bước vào Phật đường.
![]() |
![]() |
![]() |
Tại sao những người đàn bà đẹp thường lại có những ông chồng ngu dốt? vì một người đàn ông khôn ngoan không bao giờ lấy một người đàn bà đẹp làm vợ .
BẢY SÁT TƯỚNG CỦA NỮ GIỚI
1. Mắt lúc nào cũng vàng khè như bị bệnh
2. Mặt thì to mà miệng thì lại quá nhỏ, chúm chím .
3. Hai tai luân quách không rõ ràng, hoặc là không có vành tai
4. Tóc thì quá rậm mà lông mày lại quá thưa, hoặc như là không có lông mày
5. Đẹp rực rỡ , đẹp đến mê hồn, hay là có nét đẹp rất man dại , liêu trai .
6. Mặt thì nhỏ mà mắt quá lớn và hơi lồi , đi đôi với lông mày rậm và thô kệch .
7. Mũi nhỏ gầy, mà lại có văn chi chít .
QUÝ TRUNG HỮU TIỆN ( Phá Cách Của Tướng Phụ Nữ )
1. Ngũ quan đoan chính, đẹp đẻ nhưng da lại khô cằn , huyết suy
2. Mắt đẹp về hình, đen và đều, sáng và trong, nhưng nhìn chẳng ngay, hay liếc ngang liếc dọc
3. Ngũ Quang toàn mỹ cân đều và đẹp, nhưng khi nói năng thì hay la lối ầm ĩ chứ không dịu dàng ôn nhu 4. Mặt đẹp và rực rỡ, tươi như hoa, nhưng da thì lại rất lạnh
5. Giọng nói trong trẻo êm ái nhưng lại êm ái quá và lại có tính hay đắm say
6. Cười tươi như hoa là tốt, nhưng hay cười vuốt, không thật thà
7. Đứng ngồi đoan chính, nhưng lại hay chau mày nhăn mặt
8. Tướng toàn mỹ về ngoại hình nhưng hay cắn mống tay hay là hay vuốt tóc
9. Ngũ Quan toàn mỹ, ấn đường cao và sáng sủa , đắc thế với Mũi, nhưng ngồi mà cứ hay sữa qua sữa lại không yên
Ngũ Tú Của tướng Phụ nữ
1. Nhục Tú : Diện sắc tụ khí ( Mặt sáng như có hào quang )
2. Cốt tú : Nha sĩ tự Huỳnh Ngọc ( Răng đều trắng bóng, và đẹp như ngọc )
3. Huyết tu : Mi thanh nhi phát minh ( Lông mày, lông mi , âm mao và Tóc mịn màng đen bóng, óng ả , và thơm tho )
4. Khí tú : Thanh thanh nhi ngôn viên ( Gióng nói trong trẻo và rất rõ ràng , như tiếng ngọc cham vào nhau, dù đứng xa mà vẫn nghe rỏ ràng )
5. Chất Tú : Nhãn thần minh ( Mắt sáng nhưng thần quang ôn hoà trầm tĩnh, thu phát tuỳ ý, ánh mắt diu dàng …)
Nhất TIỆN phá cửu quý, nhất QUÝ phá cửu tiện
Đó chính là TÂM TƯỚNG, TÂM TƯỚNG có thể hoá giải được hết khuyết điểm của hình tướng . Vấn đề đạo đức và tu thân rất quan trọng đối với phụ nữ, Tam Tùng Tứ Đức tuy xưa nhưng vẫn là cái căn bản đầu tiên đòi hỏi người phụ nữ Vietnam nói riêng, và Á Đông nói chung, qua mọi thời đại và thế hệ, phải có !!! Cái gì đi quá giới hạn đêu` không tốt, dâm thì nên dâm nhưng không nên thái quá … lúc nào cũng tu tâm giữ mình , nên có ý chí để kiềm hãm đam mê, cố gắng kiểm soát chặc chẻ hành vi, đi đứng, nói năng, cười giỡn, nằm ngồi sao cho được nghiêm trang đoan chính , rèn luyện tính nết luôn ôn nhu dịu dàng, tâm địa hiền lương, thì cho dù có ngoại hình xâú xa đi nữa thì cũng hưởng phúc an nhàn , gia đình hạnh phúc vui vẽ …. Muốn rèn luyện bản thân thì không dể chút nào, đòi hỏi phải có một ý chí sắc đá, một nghị lực và kiên nhẫn phi thường …. Feurzinger nói : “Có người cả đời rất ít khi sữ dụng ý chí, làm tôi cho tình dục mà không dè ” . Đức Khổng Tử cũng nói :” Ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắc giã giã “
Đàn ông mà tài hoa cái thế, anh hùng xuất chúng thì thường là rất dâm, nên để chết vì đàn bà . Đàn bà càng đẹp lồ lộ bao nhiêu thì lại cũng thường rất dâm và cuộc đời luôn đa sầu đa khổ, hồng nhan truân chuyên . Tạo hoá rất công bằng trong vấn đề này .
Tại sao những người đàn bà đẹp thường lại có những ông chồng ngu dốt ?
Xin thưa :
Tại vì một người đàn ông khôn ngoan không bao giờ lấy một người đàn bà đẹp làm vợ .
TƯỚNG HÌNH PHU KHẮC TỬ :
1. Nhã trá tị khúc ( Nhĩ căn nhỏ hẹp, mũi gẫy, hoặc cong quặp ) ( Hình khắc vì tâm ác )
2. Tị lương hữu tiết ( Sóng mũi có đốt từng đoạn ) ( Hình khắc vì tâm ác )
3. Cốt hoành diện hắc ( Mặt nám đen, xương lộ nhọn )( Hình khắc vì tâm ác )
4. Thanh cố phát hoàng ( Tiếng nói rè, đục, tóc thì cháy khô, vàng khô )( Hình khắc vì tâm ác )
5. Cảnh đoản diện trốc ( Cổ ngắn, mặt nhỏ, lông mày sơ xác )( Hình khắc vì tâm ác )
6. Nhãn khởi tam giác ( Mắt hình tam giác ) ( Hình khắc vì tâm ác )
7. Phát thô sáp ( Tóc thì khô và rối, trông dơ dáy )( Hình khắc vì tâm ác )
8. Tị câu hữu văn ( Mũi quắp và có văn chằng chịt )( hình khắc vì ích kỹ hẹp hòi, cố chấp )
9. Sơn căn trung đoạn ( Sơn căn thấp tẹt hoặc gãy khúc )( hình khắc vì ích kỹ hẹp hòi, cố chấp )
10. Nhãn trường vô cái ( Mắt dài, mà lông mày ngắn ngũn và dầy )( hình khắc vì ích kỹ hẹp hòi, cố chấp )
11. Đầu như lập noãn ( Đầu trên nhỏ dưới lớn trông như cái trứng )( hình khắc vì ích kỹ hẹp hòi, cố chấp )
12. Hạ thần quá thượng ( môi trên mõng , môi dưới dầy và chìa ra ngoài ) ( hình khắc vì ích kỹ hẹp hòi, cố chấp )
Hành: ThủyLoại: Bại TinhĐặc Tính: Phiền não, ưu tư, bi quan, phá tán, xui xẻoTên gọi tắt thường gặp: Hư
Phụ Tinh. Một trong sao bộ đôi Thiên Khốc và Thiên Hư. Gọi tắt là Khốc Hư. Một trong 6 sao của bộ Lục Bại Tinh gồm các sao Tiểu Hao, Đại Hao, Tang Môn, Bạch Hổ, Thiên Khốc, Thiên Hư (gọi tắt là Song Hao Tang Hổ Khốc Hư).
Ý Nghĩa Thiên Hư Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Thiên Hư là sao ưu tư, âu sầu, cho nên thủ Mệnh thì da xanh, mắt có quầng đen, diện mạo buồn tẻ, mặt thiếu khí sắc, mắt kém thần, hay trông xuống, không trông xa.
Tính Tình
Là bại tinh và là sao âu sầu, Thiên Hư có nghĩa:
![]() |
Ảnh minh họa |
Hình xăm chó sói:
Một sự trung thành cùng đồng loại , một sự đoàn kết để có một sức mạnh mà không gì có thể sánh bằng,sói còn đc biết dến như 1 chiến binh , gan da và ko sợ hãi trước tình huống gì . Người có hình xăm chó sói thường nói lên họ rất coi trọng anh em của mình và sẵn sàng hi sinh mình trong bất cứ trường hợp nào
Tattoo chó sói trên vai gợi cảm của thiếu nữ . Ở con gái thường chọn hình xăm chó sói hiền lành nhưng ẩn giấu cái j đó rất thầm kín