Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Xem tướng phụ nữ qua gò má –

Hai gò má (lưỡng quyền) được khoa nhân tướng học ngày nay đưa vào hạng mục “tướng của xương” để xem xét góp phần phân tích và dự báo về “đường đời” của mỗi người trong cuộc nhân sinh... Nhất là hai gò má của phụ nữ thường được gợi lên bằng các hình d

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hai gò má (lưỡng quyền) được khoa nhân tướng học ngày nay đưa vào hạng mục “tướng của xương” để xem xét góp phần phân tích và dự báo về “đường đời” của mỗi người trong cuộc nhân sinh…

Nhất là hai gò má của phụ nữ thường được gợi lên bằng các hình dung từ bay bướm như: má hồng, má phấn, má đào… Phụ nữ có má đào là “má đỏ như quả đào chín”, má phấn là “má tô phấn, thường chỉ người gái giang hồ” và má hồng dùng “tỷ dụ người đẹp” . Song đó chỉ là những cách gọi dựa phần lớn vào sắc diện bên ngoài; chứ thực tướng của các “gò má” được quyết định bởi cấu trúc của phần xương bên trong.

Đối với phụ nữ mà nói thì đôi gò má trên gương mặt chính là nơi thể hiện cá tính của người này trong cuộc sống hôn nhân và sự nghiệp của họ.

Vì thế để xem xét nhân tướng cho rạch ròi, người ta đã gọi lưỡng quyền ở mỗi người (cả nam lẫn nữ) bằng hai tên gọi: “gò Tây” (gò má phía bên phải của khuôn mặt) và “gò Đông” (gò má phía bên trái của khuôn mặt), chẳng hạn:

Theo nhân tướng học thì người phụ nữ có khuôn trăng đầy đặn với hai gò Đông – Tây nằm cân xứng ở hai bên mặt thì là người phụ nữ có mệnh số cao, tương lai có thể vào hàng phu nhân quyền quý trong xã hội.

Nếu xương ở hai gò má không nhô cao lắm và nằm cân xứng nhau ở vị trí ngang với tóc mai là tướng tốt, sẽ đem đến nhiều điều may mắn, thuận lợi và sức khỏe ngay từ tuổi hoa niên. Còn như xương gò má kéo dài đến hai bờ tóc mai và nhô lên có sắc hồng hoặc có ánh vàng trơn láng vào giờ Ngọ, sẽ được nhiều người mến mộ, theo đuổi và thương yêu.

Xương gò má cùng các xương khác trong người đại thể có nhiều tướng trạng khác nhau, song theo các nhà nghiên cứu và dịch thuật có uy tín về nhân dạng học như Lê Giảng, Hoài Chiêm Tinh, Mã Khắc Hồng, Mai Giáo Chủ, thì tất cả các xương có một số đồng dạng về nhân tướng sau đây.

Hễ xương lộ ra quá mức sẽ thường gặp chuyện tranh chấp, cãi vã với người chung quanh. Hễ xương nhô ra có hình nhọn sẽ gặp trắc trở trong công việc kinh doanh vào tuổi trung niên. Người ta còn gọi gò Đông là “Đông nhạc” và gò Tây là “Tây nhạc”.

Người phụ nữ có Đông nhạc cao và cân xứng với Tây nhạc sẽ sống thọ – cao và nhô lên sát hai bên tai thuộc dạng xương Phượng Vỹ, tức đuôi con chim phượng, nếu theo nghiệp võ sẽ thành đạt vào hàng tướng tá quan quyền…

Cách xem tướng gò má phụ nữ đoán tính cách, sự nghiệp

Gò má nhô cao

Đối với những người phụ nữ có gò má quá cao là những người nhân tướng học cho là xấu số nhất. Người phụ nữ có gò má quá cao có tướng sát phu, gây hại cho chồng còn, thường xuyên gặp chuyện tranh chấp cãi vã với người xung quanh. Những người phụ nữ này thường không gây được thiện cảm đối với người lớn tuổi. Đôi gò má quá cao cũng làm gương mặt người phụ nữ trở nên già nua, góc cạnh hơn, mất đi tính thẩm mỹ của gương mặt.

Nhiều người Á Đông ủng hộ với quan điểm gò má cao sát chồng nhưng cũng chưa có bất kì một bằng chứng khoa học nào chứng minh cho điều ấy. Ngược lại, ở các nước phương Tây những người phụ nữ gò má cao luôn được đánh giá là người có cá tính mạnh mẽ và cuộc sống hôn nhân của họ không hề bị ảnh hưởng bởi quan điểm trên.

Trong công việc, cá tính mạnh mẽ ấy chính là ý trí kiên cường vượt qua mọi khó khăn, có khả năng gánh vác được nhiều việc quan trọng. Hơn nữa, tính cách cởi mở với mọi người giúp người phụ nữ chiếm được cảm tình của gia đình và bạn bè của mình. Đối với những người phụ nữ gò má cao và chóp mũi to, đây quả là sự kết hợp tuyệt vời. Chủ nhân vốn hiền lành và lương thiện này sẽ gặp nhiều may mắn và thành công hơn trên mọi lĩnh vực.

Người phụ nữ có gò má cao thường là người đạt được sự giàu có nhất định bởi theo nhân tướng học, người phụ nữ có gò má cao thường tích cực có ý chí phấn đấu, tuy nhiên do quyền hành cao hơn năng lực bản thân, nên để củng cố quyền hành cần phải cố gắng quá nhiều, thậm chí dùng cả thủ đoạn, dẫn tới chỗ trở thành kẻ hung hăng, tiểu nhân, dẫn tới hậu quả xấu cho người đó, vậy coi như gò má xếp nhầm chỗ (cao hơn mũi) không tốt.

Cung gò má quá to

Người phụ nữ có cung gò má quá to: Chủ nhân bản tính khá ương ngạnh và cố chấp. Thường gây mâu thuẫn với mọi người xung quanh vì không chịu nhường nhịn mọi người cuộc sống hôn nhân vì thế cũng có phần khó khăn.

Cung gò má nở rộng

Việc sở hữu đôi gò má nở to được xem là một hình mẫu lý tưởng, bởi chủ nhân của đôi gò má này là người có trí tuệ sắc sảo, có tinh thần cảnh giác cao và đặc biệt là khả năng nhìn xa trông rộng. Hầu hết ở họ điểm chung nổi bật nhất là có tố chất làm lãnh đạo. Nhờ vào ưu điểm đặc biệt này, bạn có thể thành công ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế với tư cách là đầu tàu.

Nếu người phụ nữ cung gò má nở rộng, mũi nhỏ, thì là người phụ nữ tính tình nóng vội, hay can thiệp chuyện của chồng, gây chuyện thị phi, đa nghi điều này khiến vợ chồng hay xảy ra mâu thuẫn. Cần phải biết kiềm chế và suy nghĩ chín chắn trước khi phát ngôn.

Gò má vừa rộng vừa cao

Trong cuộc sống, người này tự tin làm việc độc lập mà không cần nhận sự giúp đỡ của một ai khác khiến mọi người tưởng rằng bạn theo chủ nghĩa cá nhân. Đôi khi họ lại hơi quá tập trung vào giai đoạn ăn mừng chiến thắng làm bạn bè và người thân hiểu lầm rằng họ tự đắc. Nhưng nhờ sự chân thành, nỗ lực không ngừng khắc phục những nhược điểm của mình, mọi người không chỉ hiểu họ hơn mà còn ủng hộ họ thực hiện tiếp những hoài bão của mình. Phụ nữ độ tuổi trung niên là khoảng thời gian họ gặt hái được nhiểu thành công nhất.

Gò má thấp

Người phụ nữ sở hữu kiểu gò mà này thường nung nấu trong mình nhiều ước mơ và hoài bão cháy bỏng. Tuy nhiên, điểu đó chưa đủ để biến chúng thành sự thật nếu kế hoạch và chiến lược thực hiện không được triển khai. Lý do lớn nhất là họ vẫn chưa đủ lòng tin để xúc tiến một mình và họ lo sợ về khả năng thất bại cao. Đôi lúc tính cách rụt rè, nhút nhát, hướng nội đã làm cản trở họ thực hiện niềm đam mê. Điều quan trọng của mẫu người phụ nữ sở hữu loại gò má này chính là củng cố lòng tin vào chính mình.

Gò má tròn đầy đặn

Lưỡng quyền đầy đặn: là người có ý chí kiên cường, tinh thần phấn đấu cao, có năng lực ứng phó. Nếu phụ nữ tướng này sẽ là tướng vượng phu (giúp ích cho chồng trong sự nghiệp và cuộc sống). Phụ nữ có gò má đầy đặn, cao, tròn và thanh, không lộ xương là tướng gò má đẹp. Họ sẽ đạt được nhiều thành công trong sự nghiệp ở tuổi trung niên.

Không thích sự gò bó, thích phiêu lưu, chan hòa, hướng ngoại, khao khát sự chú ý của mọi người và có khả năng ứng phó với tình huống là những tính cách điển hình của người này. Trên con đường sự nghiệp, họ tỏa sáng và được sống thực với con người mình nhất chính là những công việc liên quan tới nhóm ngành giải trí như diễn viên điện ảnh, người mẫu, hoặc nhà báo…v..v.

Mặc dù áp lực công việc luôn đè nặng đôi vai nhưng sự thông minh và khéo léo của mình đã giúp họ cân bằng được mọi việc. Trong cuộc sống hạnh phúc gia đình, họ không chỉ là một người vợ, người mẹ chăm sóc chồng con chu đáo mà còn là nguồn động viên kịp thời cho những người thân yêu.

Gò má hai bên không cân xứng

Với những người phụ nữ có gò má hai bên không cân xứng nhau hay cái cao cái thấp thì được dự đoán là là người gặp khó khăn trên đường làm ăn,đường tình yêu gặp nhiều trở ngại, phải lớn tuổi mới lập gia đình. Tục ngữ xưa cũng đã đúc kết việc hai gò má không cân xứng nhau thành câu:

“Gò má mà chẳng cân phân. Cuộc đời cam chịu lắm phần lao đao”.

Nếu hai gò má sát gần với đuôi lông mày, hậu vận sẽ có phần khá hơn, vì được sự giúp đỡ của quý nhân và con cháu.

Cách xem tướng gò má phụ nữ đoán định vận mệnh và tình duyên, hôn nhân, hạnh phúc gia đình

– Phụ nữ có gò má thanh, tròn và ẩn, mắt và mũi thanh, chủ nhân là mẫu người vợ hiền, mẹ giỏi, có thể lấy được người chồng thành đạt, có trách nhiệm với gia đình.

– Phụ nữ có bờ gò má cao tới Thiên Thương (phía trên chân mày), chủ nhân là người từng trải, song, hôn nhân không mấy tốt đẹp, gia đình gặp chuyện xung khắc hoặc ly tán.

– Cung gò má của người phụ nữ nhô cao, chủ nhân cả đời nghèo hèn. Cung gò má lõm, chủ nhân không giúp được gì cho chồng con.

– Cung gò má quá to, chủ nhân bản tính dữ dằn, không hiếu thuận, hôn nhân cũng không mấy tốt đẹp, cuộc sống vất vả, về già cô độc.

– Cung gò má nhô cao, trán cao, chủ nhân có lối sống không lành mạnh, có thể khắc tới ba đời chồng.

– Cung gò má cao và to, bàn tay to, chủ nhân có thể chịu đựng được gian khổ, giỏi lập nghiệp nhưng khó hưởng phúc của chồng con.

– Cung gò má cao nhưng mũi lại nhỏ, chủ nhân hay làm trái lời chồng, chồng gặp nhiều khó khăn, cuộc sống hôn nhân không mấy tốt đẹp.

 

– Cung gò má nở rộng, mũi nhỏ, chủ nhân tính tình nóng vội, hay can thiệp chuyện của chồng, gây chuyện thị phi, đa nghi và đời sống hôn nhân không tốt đẹp.

– Cung gò má có sắc khí vàng tươi, môi đỏ, chủ nhân là cánh tay đắc lực của chồng con, được hưởng hạnh phúc đến già. Nếu có sắc khí vàng sẫm, chủ nhân có cuộc sống nghèo hèn.

– Sắc khí cung gò má xanh biếc, chủ nhân có tâm ý độc địa, khắc chồng, gia đình tan vỡ.

– Cung gò má lúc trắng, lúc đỏ gọi là “khuôn mặt đào hoa”, chủ nhân có lối sống buông thả, hời hợt trong chuyện tình cảm.

– Cung gò má và một số bộ phận khác có sắc trắng bệch, chủ nhân khắc chồng con, hôn nhân không mấy tốt đẹp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng phụ nữ qua gò má –

Tự thuật chấn động của một vị hòa thượng đã khai mở thiên mục

Trên đây là những sự thật khiến chúng ta phải giật mình chấn động trong lời kể sau đây của một vị hòa thường đã khai mở thiên mục, nói về lịch sử thuở xưa
Tự thuật chấn động của một vị hòa thượng đã khai mở thiên mục

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phát hiện những bí mật kỳ diệu của thân thể con người, sự thật kinh hoàng về thuyết tiến hóa của Darwin, hay tiết lộ về những phụ thể là động vật cáo, chồn … bám lên thân thể con người ngày nay. Đó là những sự thật khiến chúng ta phải giật mình chấn động trong lời kể sau đây của một vị hòa thường đã khai mở thiên mục.

Trước hết tôi xin được giới thiệu một chút, bản thân tôi năm nay đã 46 tuổi rồi, xuất gia làm tăng đã hơn 20 năm. Quê nhà của tôi ở tỉnh Vân Nam, nhưng tôi lại xuất gia ở một ngôi chùa của Miến Điện. Quê nhà chúng tôi rất kính ngưỡng Phật Pháp, gần như từng làng từng thôn, từng nhà từng hộ đều tín Phật, nếu như có người nào đó xuất gia làm tăng, toàn bộ gia tộc của người này đều sẽ cảm thấy rất tự hào.

Theo lời kể của mẹ tôi, lúc tôi vừa mới đầy tháng, thì đã được thọ giới, trở thành đệ tử của Phật. Tôi xuất gia vào năm 1990, lúc đó tôi 25 tuổi, lúc đó đứa con trai lớn của tôi đã được 8 tuổi. Vào ngày tôi xuống tóc, người dân trong thôn tôi đều đến chúc mừng tôi, vợ của tôi cũng rất vui mừng. Chỗ chúng tôi có phong tục như thế này, phàm là những người có gia đình xuống tóc xuất gia, vợ con của họ đều sẽ được cả làng chăm sóc tốt.

Ngôi chùa mà tôi xuất gia rất nhỏ, thêm tôi vào nữa thì cũng không đến mười người. Sư phụ của tôi là một hòa thượng rất già, những lúc bình thường không hay nói chuyện, nhưng mọi người dân trong làng gần đó lại rất tôn kính ông. Dưới sự dạy dỗ của sư phụ, tôi đã bắt đầu cuộc sống tu hành. Ngôi chùa chúng tôi thuộc về Phật giáo tiểu thừa, chỉ cung phụng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là tổ tôn, còn những vị Phật hay Bồ Tát khác, chúng tôi hết thảy đều không thừa nhận.

Cuộc sống tu hành cơ bản chính là như vậy: trồng trọt, ăn cơm, ngồi thiền tụng Kinh, ngoài ra cũng không có nội dung gì khác nữa, nhưng những điều này đối với tôi mà nói lại rất khó khăn, bởi vì tôi vốn không biết chữ, xem không hiểu kinh Phật, vậy nên chuyện tụng Kinh này tôi chính là làm không được. Tuy nhiên, sư phụ không cưỡng cầu tôi phải biết chữ, ông nói không biết chữ có khi trái lại còn là việc tốt, xem không hiểu kinh Phật cũng không hẳn là chuyện xấu, ông chỉ yêu cầu tôi nghiêm thủ giới luật, đả tọa tham thiền, vì vậy đã miễn việc tụng Kinh. Đương nhiên, sau này tôi lại biết chữ, nhưng đó là có cơ duyên khác dẫn đến.

Phật giáo tiểu thừa chúng tôi là thông qua trì giới nhiếp tâm, từ nhiếp tâm mà nhập định, từ nhập định mà khai mở trí huệ. Cũng không biết là tại sao, các sư huynh sư đệ thậm chí bao gồm cả sư phụ của tôi trong đó, nhập định đều rất khó khăn, trong khoảng một năm, khó mà thật sự nhập định được mấy lần, nhưng tôi thì lại khác, sau khi tu hành được ba tháng, tôi liền có thể nhập định trong lúc ngồi thiền.

Tôi biết, rất nhiều cư sĩ tại gia bản thân cũng từng ngồi thiền, nhưng lại không nhất định thể nghiệm qua cảm giác của việc nhập định. Thật ra nhập định chính là như vậy, các vị ngồi xếp bằng ở đó, khi tạp niệm dần dần diệt tận, mọi người sẽ tiến nhập vào một loại cảm giác tĩnh lặng hoàn toàn không còn một niệm, trong trạng thái tĩnh lặng này, công năng cảm quan của thân thế người toàn bộ đều mất hết, bản thân cảm thấy chỉ mới qua đi có mấy phút, thậm chí là mấy giây, nhưng khi xuất định xem lại thời gian, lại là đã trôi qua mấy tiếng đồng hồ rồi. Sư phụ nói tôi sở dĩ có thể nhập định mau chóng như vậy, thật ra chính là chỗ tốt do không biết chữ mang đến.

Thời gian mùa hè năm 1991, tôi xuất gia đã được hơn 1 năm rồi. Một buổi tối nọ, dưới sự dẫn dắt của sư phụ, toàn bộ hòa thượng trong chùa chúng tôi vây thành một vòng tròn ngồi thiền trước Pháp tượng của Đức Phật Thích Ca, bất giác tôi lại nhập định. Tuy nhiên, lần nhập định lần này không giống như những lần trước, lúc đó tôi tự mình cảm giác hẳn là đã nhập định được khoảng một giờ đồng hồ rồi, nhưng khi xuất định, các vị sư huynh nói với tôi rằng, tôi đã ở trước tượng Phật nhập định ròng rã suốt bảy ngày liền, hơn nữa trong bảy ngày này, phía trên đỉnh đầu của tôi cứ mãi có vầng sáng bảy màu lưu chuyển, ngày đêm không ngừng, cho dù những người bình thường dùng mắt thịt cũng có thể nhìn thấy được, nhưng vầng sáng này đến từ nơi nào, lại là điều ai cũng không nói rõ được.

Sau khi xuất định lại qua mấy ngày nữa, tôi ngẫu nhiên phát hiện, bản thân mình nhắm mắt lại cũng có thể nhìn thấy đồ vật, hơn nữa còn nhìn được rõ ràng hơn cả khi nhìn bằng con mắt. Tôi đi thỉnh giáo sư phụ rằng đây là chuyện như thế nào, ông nói tôi chính là đã khai mở thiên nhãn thần thông, là chuyện tốt. Từ đó, tôi càng cố gắng dụng tâm tu hành. Đến đầu năm 1992, có một buổi sáng sớm khi tôi bái lạy trước tượng Phật, tôi đột nhiên phát hiện Pháp tượng của Đức Phật Thích Ca phát ra ánh hào quang sáng chói, đồng thời cảm thấy có một luồng nhiệt giống như lửa từ đỉnh đầu của tôi tràn vào trong thân thể, dần dần tràn ngập ra khắp toàn thân, cả con người tôi cũng đã tiến nhập vào một loại trạng thái mơ hồ, tựa hồ như thời gian đều đã ngừng lại vậy. Cảm giác đó mĩ diệu phi thường, giống như là tắm nước nóng trong mơ vậy, tôi có một loại cảm giác đột nhiên đại ngộ, đồng thời thiên nhãn thần thông của tôi đã tăng tiến thêm một bước, ngay tại lúc đó, tôi đã nhìn thấy Pháp thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở trên tượng Phật. Chỉ đây thôi vẫn còn chưa hết, tôi còn nhớ lại rất nhiều sự tình của những đời trước kiếp trước.

Thì ra, trong hai kiếp trước của quá khứ, tôi đều là hòa thượng xuất gia tu hành, nhưng vì nghiệp tội đời đời kiếp kiếp tích lũy quá nhiều, chướng ngại trùng trùng, đều không tu thành Chánh Quả. Ấy vậy, mỗi lần trước lúc viên tịch, tôi đều phát thệ nguyện rằng đời sau vẫn sẽ tiếp tục tu hành, vậy nên đời này lại đi vào cửa Phật tiếp tục duyên xưa. Bởi sự tu hành trong hai đời trước, nghiệp tội của tôi đã tiêu, lại tích lũy được vô lượng công đức, vậy nên lần tu hành này đã trở nên dễ dàng vô cùng, là điều mà những người tu hành bình thường vốn không có cách nào so sánh được.

Dựa vào căn cơ cùng với hồng nguyện ba kiếp của tôi, chỉ cần ý chí kiên định, đời này tu thành Chánh Quả là chuyện nhất định. Đáng buồn thay, tôi vừa mới nhớ lại những chuyện đời trước, Pháp thân của Đức Phật liền khai thị cho tôi, Phật Tổ nói Pháp mà Ngài truyền đã không còn được nữa rồi, vốn không còn có thể độ nhân được nữa, càng không thể khiến người ta tu thành Chánh Quả, hơn nữa Phật Tổ cũng sắp buông bỏ thế gian, không còn quản chuyện của nhân gian nữa.

Khi nghe tin dữ này, lòng tôi không khỏi đau đớn, lúc đó hai hàng nước mắt chảy mãi không ngừng, tôi nói Phật Tổ buông tay cõi người, như vậy ai sẽ trông coi độ hóa cho những đệ tử tín phụng Người như chúng tôi đây? Pháp thân của Đức Phật Thích Ca nói, người này đi rồi, tự nhiên sẽ có người khác đến thay, trong tám vạn bốn nghìn pháp môn, tự nhiên sẽ có con đường có thể độ hóa các con đến bờ bên kia của Niết Bàn. Nói xong, Pháp thân của Đức Phật Thích Ca liền biến mất không thấy đâu nữa. Tôi đem tình huống mà Đức Phật nói với tôi kể lại với sư phụ và những người khác, sư phụ hỏi tôi sẽ dự tính thế nào, tôi đã đắn đo suy nghĩ rất lâu, nói với sư phụ rằng tôi sẽ đi vân du, đi tìm Pháp, đi tìm con đường thông đến bờ bên kia của Niết Bàn.

Phần trên nói tôi có thiên nhãn thần thông, tôi biết rất nhiều người cảm thấy hứng thú đối với cái này, ở đây, không ngại thì nói một chút vậy. Cái được gọi là thiên nhãn (thiên mục), thật ra chính là thể tùng quả của con người, cũng chính là Nê Hoàn cung mà Đạo gia nói đến. Mỗi người đều có thể tùng quả, chỉ cần trải qua tu luyện, thông qua năng lượng gia trì, đều có thể mở được thiên nhãn, cái này không có gì là thần bí cả.

Đạo sĩ tu luyện 300 năm trong núi sâu vén mở bí mật về công năng đặc dị

Dùng thiên nhãn nhìn thế giới, hoàn toàn không phải là cùng một khái niệm với con mắt thịt này, không phải là điều mà người thường có thể tưởng tượng được. Chúng ta dùng mắt thịt để nhìn đồ vật, thì đứng ở một chỗ chỉ có thể nhìn được một phương hướng, một tầng mặt, đúng vậy không? Dùng thiên nhãn nhìn thì sao, là toàn bộ phương vị, lập thể, cho đến hết thảy tín tức. Chính là nói chỉ nhìn thoáng qua một cái thì bốn mặt tám hướng, trên dưới trái phải, từ trong đến ngoài, toàn bộ tín tức nhìn không sót cái gì cả. Ví như nhìn một người, các vị dùng mắt thịt chỉ có thể nhìn được một khía cạnh của anh ta, hơn nữa chỉ có thể nhìn được bề mặt, còn dùng thiên nhãn thì sao, mỗi một tế bào của người này tôi đều có thể nhìn được hết sức rõ ràng, ngay cả trong lòng anh ta đang nghĩ cái gì, đều có thể nhìn ra được.

Thiên nhãn thông là gì, vì sao có thể nhìn thấy trước tương lai?

Sau khi khai mở thiên nhãn, đặc biệt là sau khi nhớ lại những việc trước đây của tôi, tôi liền lại có thể biết chữ, nhưng đều là chữ phồn thể, chữ giản thể tôi cũng đọc được, những quyển sách khác, ngay cả lật cũng không cần lật, tôi đảo mắt một cái toàn bộ đều biết hết. Bây giờ những cái gọi là khoa học kỹ thuật cao, trong mắt của tôi, đều là rất đơn giản, nhìn một cái là xuyên qua toàn bộ.

Thiên nhãn trong Phật gia chia thành năm tầng thứ:

  1. Nhục nhãn thông
  2. Thiên nhãn thông
  3. Huệ nhãn thông
  4. Pháp nhãn thông
  5. Phật nhãn thông.

Khi tôi vừa mới khai mở thiên nhãn là đã ở tầng thứ nhục nhãn thông, đợi đến khi bắt đầu vân du, chính là tầng thứ Pháp nhãn thông rồi. Đến bước Pháp nhãn thông này rồi, tôi không những có thể nhìn được toàn bộ tín tức của người và động vật, mà còn có thể nhìn được lịch trình ba đời quá khứ của một sinh mệnh, có thể nhìn được nhân duyên ba đời trong quá khứ. Chỉ đáng tiếc là, tôi nhìn không được con đường tương lai của một sinh mệnh. Thật ra, cái gọi là thiên nhãn này, không phải là mê tín gì cả, ngay cả dùng đạo lý của khoa học cũng có thể hoàn toàn giải thích được.

Ví dụ như, mắt thịt của người thường chỉ có thể nhìn thấy những ánh sáng nhìn thấy được, còn những tia X , tia gamma gì đó, con người không nhìn thấy chúng được. Mà những tia sáng có lực xuyên thấu còn mạnh hơn tia gamma thì nhiều không đếm hết, có thể nói là vô hạn, hơn nữa không đâu không có. Thể tùng quả có thể nhìn thấy, cảm nhận thấy những tia sáng này, vì vậy có thể nhìn xuyên qua thân thể người, có thể nhìn thấy những gì mà mắt thường không nhìn thấy được. Thể tùng quả của những người bình thường là bị phong bế, thông qua tu luyện, có thể dần dần đả khai loại phong bế này, khiến nó có thể nhìn được đồ vật.

Như vậy tại sao tôi lại biết được trong lòng người khác đang suy nghĩ những gì? Lại làm sao mà biết được nhân duyên ba đời của người khác? Cái này càng đơn giản hơn.

Rất nhiều người đều đã biết, đại não của con người, có khoảng 90% là bị phong bế, căn bản là không sử dụng được. Những người đần độn, bị phong bế nhiều một chút, có thể đến 95%, những người thông minh, thì bị phong bế ít hơn một chút, có thể đại não của anh ta chỉ bị phong bế 85%. Còn có những người, não bộ bị cắt bỏ nửa bên, chỉ số thông minh gì đó một chút cũng không bị ảnh hưởng, có thể sinh hoạt bình thường.

Gặp gỡ những người vẫn may mắn sống sót dù mất một phần não
Như vậy điều này cũng làm nảy sinh một vấn đề, phần lớn đại não kia làm những gì? Tôi xin nói cho các vị rằng, đó là dùng để tồn trữ kí ức, hết thảy kí ức trong đời đời kiếp kiếp của các vị đều tồn trữ trong đó, thậm chí tín tức của toàn bộ vũ trụ này trong đó đều có cả, chỉ là bị phong bế, vậy nên các vị dùng không được mà thôi. Những tín tức này, dùng thiên nhãn mà nhìn, đều là hình ảnh rõ ràng hoàn chỉnh, hơn nữa còn có màu sắc, giống như là ti vi vậy, ngay cả âm thanh đều có cả. Trong lòng bạn nghĩ cái gì, cũng sẽ hình thành hình ảnh ở trong đại não, vậy nên người ta nghĩ cái gì, những trải nghiệm trong quá khứ hay đời trước của ai đó, thì người có thiên nhãn thần thông nhìn một cái là rõ hết.

Thiên nhãn mở rồi, ngoài việc có thể nhìn thấy những gì mà con người không thể thấy được ra, tôi còn có thể nhìn thấy một số Thần Tiên, quỷ quái và những linh thể, hơn nữa còn có thể câu thông với họ. Nhưng thông thường tôi không hiểu được họ, bởi tôi là người đã từng nghe qua Phật Pháp, không dễ lý giải được những Thần linh ở tầng thứ tương đối thấp này. Bạn chắc chắn sẽ hiếu kỳ, Thần Tiên, quỷ quái là một loại phương thức tồn tại như thế nào? Hình thức đó quá nhiều rồi, phương thức tồn tại các dạng các loại đều có, muôn màu muôn vẻ vậy, nhưng những thứ này mà so với các Đấng Giác Giả thì thật là kém xa, ngay cả so sánh cũng đều không thể nào so sánh được, vậy nên tôi cơ bản là không quan tâm đến họ.

Có người có thể biết rằng, động vật là không được phép nghe Pháp, cũng không cho phép chúng tu luyện. Tại sao lại như vậy? Bởi vì động vật không có các nhân tố thiết yếu cần phải có để tu luyện Phật Pháp, cũng chính là thân thể người. Vậy bản chất khác biệt của con người và động vật rốt cuộc là ở chỗ nào? Có hai điểm, một cái là đan điền, một cái khác chính là Nê Hoàn cung, cũng chính là thể tùng quả. Trong đan điền tồn trữ khí tiên thiên trong vũ trụ, loại khí này là siêu việt hơn cả hai khí âm dương, lại được gọi là nguyên khí, vô cùng trân quý. Còn thể tùng quả, nó chính là hình ảnh thu nhỏ của đại thiên thế giới, linh hồn của con người chính là bị phong ấn ở nơi này, bên trong có thụ ấn của Phật để lại cho con người trước khi các vị chuyển sinh vào cõi người, tại sao nói ai ai cũng đều có Phật tính, chính là nhờ vào cái thụ ấn này, đây cũng chính là nơi tồn tại bản tính lương thiện của con người. Có hai thứ như vậy, con người mới có thể tu luyện, mới xứng đáng được nghe Phật Pháp. Thân người sở dĩ trân quý như vậy, chính là trân quý ở chỗ này. Nói con người là anh linh của vạn vật, chính là bởi vì trên thân thể của con người có thụ ấn mà Phật để lại.

Động vật nó không có thể tùng quả, cũng không có đan điền, cũng chính là nó không có trang bị bản tính lương thiện, vậy nên không để nó nghe Pháp. Không tin bạn xem mẫu giải phẫu của một số động vật xem, bất luận là động vật nào, đảm bảo là không có thể tùng quả, thứ này chỉ có con người mới có. Nói đến đây, tôi nghĩ đến thuyết tiến hóa của Darwin, nói con người là khỉ dần dần tiến hóa mà thành, đây hoàn toàn là ăn nói xằng bậy. Các nhà khoa học, nhà y học hiện đại, giải thích đối với thể tùng quả là con mắt thứ ba đã bị thoái hóa của con người. Như vậy được thôi, tại sao con khỉ, tinh tinh, vượn, khỉ đầu chó cho đến hết thảy các loài động vật linh trưởng này, đều chỉ có hai con mắt vậy? Chúng sao không có ba con mắt? Hơn nữa khi người ta thử giải phẫu những con động vật này, chúng nó đều không có thể tùng quả, điều này giải thích thế nào đây?

con người
Mục đích chính của tà thuyết xằng bậy của Darwin là đả kích vào tín ngưỡng của con người đối với Thần Phật, để mọi người tin rằng bản thân mình là con khỉ tiến hóa thành.

Xin nói rõ với các vị rằng, tôi thông qua thiên nhãn đã nhìn thấy được tình huống chân thật, Darwin thật ra là quỷ vương chuyển sinh vào cõi người, mục đích chính là làm loạn nhân gian, thuyết tiến hóa mà ông ta đưa ra, mục đích chính là đả kích vào tín ngưỡng của con người đối với Thần Phật, để mọi người tin rằng bản thân mình là con khỉ tiến hóa thành, mà con người lại thật sự đã tin vào cái tà thuyết của Darwin, đây quả thật là điều sỉ nhục nhất cũng là điều tức cười nhất của con người. Tại sao Đức Phật Thích Ca bỏ mặc thế gian con người rồi, một trong những nguyên nhân chính là đại bộ phận con người đều đã không tin vào sự tồn tại của Thần Phật nữa, Pháp mà Phật truyền lại cũng không độ hóa nổi những loại người này, vì vậy Đức Phật cũng chỉ có thể không còn quản nữa.

Thần Phật đại trí đại huệ, đại từ đại bi, có đủ Thần thông vô thượng, nhưng cũng có vấn đề mà Thần Phật không thể giải quyết được, đó chính là nhân tâm. Nhân tâm không biến đổi, Thần Phật cũng không còn cách nào.

Người hiện đại không còn tin vào Thần Phật, cũng không muốn tu luyện Phật Pháp, nhưng động vật thì lại không phải vậy. Động vật nó không có thể tùng quả, như vậy linh hồn và đại não của nó cũng chính là không có bị phong ấn, trí huệ hoàn toàn khai mở. Các vị tự mình cảm thấy bản thân thông minh hơn động vật, thật ra các vị thua xa nó nhiều lắm, động vật nó cái gì cũng đều minh bạch, vậy nên động vật chính là trăm phương nghìn kế muốn có được thân thể người, dùng để tu luyện. Đây chính là tình huống chân thật của hôm nay, rất nhiều người trên thế giới này, các vị đừng nhìn thấy họ có hình người, cũng nói tiếng người, nhìn vào chính là con người, nhưng họ từ sớm đã không còn là người nữa, mà thật ra chính là linh hồn của động vật bám lên thân thể người.

Những người chủ động đi làm kỹ nữ, 99% có phụ thể là cáo. Chúng dùng phương thức này để lấy cắp tinh huyết của con người. Một đoạn thời gian trước, Bắc Kinh không phải đã truy ra một kỹ viện gọi là “thiên đường chốn ở nhân gian” hay sao, những người phụ nữ bán dâm trong đó, toàn bộ đều là hồ yêu phụ thể, quả thật yêu khí ngất trời. Tại sao nói rằng đến chốn ăn chơi kỹ viện sẽ giảm phúc giảm thọ đây, chính là vì bên trong cơ thể của những kỹ nữ này có quá nhiều yêu quái, họ chính là dựa vào phương thức này để ăn cắp tinh khí của con người.

Mọi người chắc biết người sống thực vật chứ, nhục thể đó vốn không có tổn thương gì, các cơ quan chức năng đều bình thường, tại sao người thực vật lại không có ý thức tư tưởng? Bởi vì linh hồn của họ sớm đã tiến nhập vào luân hồi rồi, đã không còn ở đó nữa.

  • Có những người thực vật sau bao nhiêu năm lại tỉnh dậy, tuy nhiên ký ức bị mất đi quá nhiều, trí lực cũng giảm đi rất nhiều. Phàm là những tình huống này, phần lớn đều là động vật phụ thể.
  • Có một số động vật thời gian tu luyện ngắn ngủi, đạo hạnh còn kém cũng rất vô tri, nó không biết rằng bám lên thân thể người rồi, thì chính là không xuống được nữa, hơn nữa trí huệ của nó cũng sẽ bị phong bế
  • Vì vậy nó hễ bám lên thân thể người, người thực vật đó liền tỉnh dậy, nhưng trí lực lại rớt xuống trầm trọng.

Đương nhiên, có những con động vật đã tu luyện hơn cả trăm nghìn năm, có được thần thông rất lớn, lúc này nó dẫu có lên thân thể người đi nữa cũng sẽ không xuất hiện vấn đề này, xem ra thì thấy tất cả đều rất bình thường, những người bình thường căn bản vốn không phát hiện được.

Chuyện người tu luyện kể ra đây, mục đích cũng là khuyến thiện, tu tâm dưỡng tính, đừng bị tà ác dẫn dụ thành mê mờ, tâm sáng tỏ thì mới có thể nhìn ra chân tướng mọi việc thế gian. Chân tướng này vốn là điều khiến bất kì ai cũng có thể cảm thấy kích động, nhưng mong các bạn có thể tu khẩu nghiệp, đừng phỉ báng Thần Phật để rồi tự rước họa cho bản thân, cửa địa ngục chờ đón. Tin hay không tin là do bạn quyết định, phúc họa cũng theo đó mà thành.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tự thuật chấn động của một vị hòa thượng đã khai mở thiên mục

Đoán tính cách qua tướng đi, đứng và ngồi

Các nhà nghiên cứu nhân tướng học hiện đại cũng đã chú ý rất nhiều đến các tướng đi, tướng đứng và tướng ngồi biểu lộ ra bên ngoài (ngoại biểu) để xét đoán về tâm lý, cá­ tính và có thể cả tương lai của một người...

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tướng đi

Trước hết là tướng "đi" mà trong văn học Việt Nam qua một bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Nhược Pháp ta thấy cô gái đi chùa Hương không dám đi mau vì "ngại chàng chê hấp tấp - số gian nan không giàu". Còn dưới mắt các nhà nghiên cứu nhân tướng học, cách đi vội vã, vội vàng là biểu lộ của người có tính tình khá "nóng", dễ "nổi giận" và hay "gây sự".

Nếu "đi như chạy" càng khổ nữa, vì dễ làm "đổ tiền, đổ gạo" rơi vãi trên đường. Tới đây lưu ý bạn đọc cũng đừng có cái nhìn quá "một chiều" về những điều không tốt của tướng đi đó. Vì nếu người đàn ông có tướng đi nhanh như vậy, thậm chí lúc nào cũng như muốn "vượt lên" phía trước - đành rằng cũng khó mà "giàu lên" nhưng lại là người biết "nhìn xuống", có lòng thương kẻ nghèo hơn mình và biết ứng xử nhanh nhẹn, ứng cơ, hợp lý đấy!

Người có "dáng đi đỏng đảnh" như các chú vịt là người rất thích quyến rũ kẻ khác giới. Người có "dáng đi uốn éo" như rắn với cái đầu động đậy nhẹ theo từng bước chân, là người có "trái tim lạnh", thường mưu lợi riêng cho mình dù phải gây thiệt thòi cho kẻ khác.


Đi như con hạc chân cất cao khỏi mặt đất là người thích giấu mình trong đời sống nội tâm, kín đáo và khó chinh phục.

Đang đi mà đầu thường cúi xuống, lại hơi nghiêng về phía trước là người trầm mặc, mộng mơ và hay thay đổi bạn tình.

Đi mà từ bụng tới mông đều nhích động nhẹ nhàng là người vui vẻ, nhẫn nhịn và biết chiều chuộng bạn đời.

Đi với bước chân kéo lê trên mặt đất một cách chậm rãi là người đa cảm, dễ hờn, dễ giận, nhưng cũng dễ dỗ dành và rất chóng nguôi ngoai.

Đi mà lưng thẳng với những bước chân đều đặn hướng tới trước, thân người tới sau, là người có biệt tài nào đó, có tính cương nghị, nhiều thành công và là chỗ dựa đáng tin cậy cho người bạn trăm năm của mình.

Tướng đứng

Đi là vậy, mà "đứng" cũng có tướng riêng. Nếu không đứng hiên ngang "quân tử" như dáng cây trúc thì cũng đừng cong lưng mềm quá như cây liễu. Còn ở khoảng "trung đạo" với dáng đứng như cây thông của Nguyễn Công Trứ cũng là khó lắm: "làm cây thông đứng giữa trời mà reo"!.

Tướng ngồi

Tướng "ngồi" không yên với cái đầu chốc chốc lắc qua lắc lại là người làm ăn khó nên nổi, tiền bạc hao hụt, nên làm lành tu phước để hóa giải.


Người ngồi nghiêng qua một bên, khi bên trái, lúc nghiêng bên mặt (dầu không bị tật) đó là tướng của người không được may mắn, thường gặp đổ vỡ trong hôn nhân và bất lợi trong công việc kinh doanh mua bán.

Người ngồi vững như bức vách, như trái núi, đứng lên có dáng thẳng người, điềm tĩnh, đi nhẹ nhàng thoải mái, là người có phong thái sang cả, tướng quý.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán tính cách qua tướng đi, đứng và ngồi

Phương pháp hóa giải cho người phạm Thái Tuế

Theo tử vi, phạm Thái Tuế là trường hợp tới năm bản mệnh sẽ gặp nhiều điều xấu, vận khí không thuận. Tuy nhiên, vẫn có phương pháp hóa giải phạm Thái Tuế.
Phương pháp hóa giải cho người phạm Thái Tuế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo tử vi, phạm Thái Tuế là trường hợp tới năm bản mệnh, thường được coi là gặp nhiều điều xấu, không may mắn, vận khí không thuận. Tuy nhiên, vẫn có phương pháp hóa giải phạm Thái Tuế, nên đừng quá lo lắng nhé.


Phuong phap hoa giai cho nguoi pham Thai Tue hinh anh
 
Phạm Thái Tuế là khái niệm tử vi ám chỉ năm bản mệnh của một người. Ví dụ như năm 2016 Bính Thân thì người tuổi Thân phạm Thái Tuế. Giải thích cho điều này, tử vi lý giải sao Mộc xưng là Tuế tinh, vận hành theo chu kì 12 năm một lần theo Thái Dương nên khi đi qua năm nào thì người cầm tinh tuổi đó phạm Thái Tuế. Như vậy, Thái Tuế chính là vị trí của sao Mộc   Người phạm Thái Tuế có vận mệnh không tốt lắm nhưng vấn đề nào cũng có hai mặt, dẫu hung cũng có cách hóa giải. Dưới đây là phương pháp hóa giải phạm Thái Tuế   Năm Tý: Thái Tuế ở phương Bắc    Năm Sửu: Thái Tuế ở Đông Bắc    Năm Dần: Thái Tuế ở Đông Bắc    Năm Mão: Thái Tuế ở Đông    Năm Thìn: Thái Tuế ở Đông Nam    Bát tự phạm Thái Tuế năm 2016 mang họa vào thân 4 con giáp phạm Thái Tuế năm 2016 Thần sát trọng yếu trong phong thủy nhà ở
Năm Tỵ: Thái Tuế ở Đông Nam 
  Năm Ngọ: Thái Tuế ở Nam    Năm Mùi: Thái Tuế ở Tây Nam    Năm Thân: Thái Tuế ở Tây Nam    Năm Dậu: Thái Tuế ở Tây    Năm Tuất: Thái Tuế ở Tây Bắc    Năm Hợi: Thái Tuế ở Tây Bắc 

Phuong phap hoa giai cho nguoi pham Thai Tue hinh anh
 
Hàng năm, ở phương vị Thái Tuế, nên lợi dụng để hóa giải sát khí của Thái Tuế. Ví dụ, năm 2016 là năm Thân, phương vị Thái Tuế ở Tây Nam, nên đặt phòng ngủ, phòng làm việc, bàn làm việc theo hướng này để nghênh đón cát khí, hóa giải sát khí. Khi đi công tác, kí hợp đồng, đầu tư, buôn bán, kinh doanh liên quan tới công việc cũng nên xuất hành về hướng này để tăng may, cơ hội thành công được nâng cao. 

► ## cung cấp công cụ Lấy lá số tử vi của mỗi người chuẩn xác

Xem lá số tử vi khắc cha mẹ, tự thân lập thân Hướng dẫn 5 bước cơ bản để tự xem bát tự luận số mệnh Dạy cách xem bói thú vị bằng lược và bằng đũa Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phương pháp hóa giải cho người phạm Thái Tuế

Hoàn thiện bản thân - Chương 1: Giới thiệu

CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU Ở xứ ta (Trung hoa), khí công xuất hiện từ xa xưa và có một lịch sử lâu dài. Vì vậy, dân chúng có một ưu thế hiển nhiên trong việc tu luyện khí công. Hai chính pháp tu luyện khí công là Khí công Phật gia và Khí công Ðạo gia đã phổ truyền rất nhiều đại pháp mà chỉ được mật truyền trong quá khứ. Phương pháp tu luyện của Đạo Gia rất là độc đáo; và Phật Gia cũng có phương pháp tu luyện riêng của họ. Pháp Luân Công là một phương pháp tu luyện cao cấp của Phật Gia.
Hoàn thiện bản thân - Chương 1: Giới thiệu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong lớp học, trước tiên tôi sẽ điều chỉnh cơ thể của quý vị lên một trạng thái thích hợp cho việc tu luyện ở cấp cao, sau đó tôi sẽ gắn Pháp Luân và khí cơ (bộ máy khí) vào trong cơ thể của quý vị. Tôi cũng sẽ dạy các bài động tác cho quý vị. Ngoài ra tôi cũng có các Pháp thân sẽ theo bảo vệ quý vị. Nhưng có những điều đó thôi cũng chưa đủ, vì mục đích để phát triển công vẫn chưa đạt được. Nó còn đòi hỏi quý vị cũng phải hiểu rõ các nguyên lý tu luyện ở cấp cao. Ðây chính là mục đích của quyển sách này.
Tôi đang giảng về công ở cao tầng. Vì vậy tôi sẽ không bàn tới sự tu luyện về một mạch, một huyệt hay một kinh lạc đặc biệt nào hết. Tôi đang giảng về đại pháp để tu luyện, một đại pháp nhằm mục đích tu luyện thật sự về cao tầng. Lúc đầu nó có thể nghe như hoang đường, nhưng đối với những người dốc chí tu luyện khí công, xem xét kỹ lưỡng và chứng nghiệm bản thân, thì tất cả bí mật đều gói trọn trong đó.

1. Nguồn gốc của khí công

Khí công mà chúng ta nói đến ngày nay, thật ra, không được gọi là khí công lúc ban đầu. Nó có nguồn gốc từ sự tu luyện bí truyền của người Trung hoa thuở xưa, hay sự tu luyện trong tôn giáo. Qua các kinh sách về Ðan Kinh, Ðạo Tạng và Ðại Tạng Kinh, không bao giờ tìm thấy hai chữ "khí công" cả. Trong giai đoạn hiện tại của nền văn minh nhân loại đương thời, khí công đã trải qua thời kỳ ấu trĩ của tôn giáo. Nó đã hiện hữu trước khi tôn giáo được thành hình. Sau khi tôn giáo được thành lập, nó đã một phần bị pha trộn bởi tôn giáo. Danh xưng nguyên thủy của nó là "Ðại Pháp Tu Phật" hay là "Ðại Pháp Tu Ðạo". Hơn nữa, nó cũng có thời được mang tên như là "Kim Đan Cửu Chuyển", "La-Hán Pháp", "Thiền Kim Cang", v..v. Bây giờ chúng ta gọi là "khí công" để thuận theo ý thức hệ tân thời hơn và cũng để dễ dàng phổ biến trong xã hội. Khí công thật ra đã có mặt ở Trung hoa với mục đích rất thuần túy là tu luyện bản thân con người.
Khí công không phải do nhân loại của chúng ta phát minh ra. Nó có một lịch sử khá lâu dài và xa xôi trong quá khứ. Vậy chứ khi nào thì khí công được biết tới? Có người nói rằng khí công được thịnh hành dưới đời nhà Ðường và có một lịch sử khoảng ba ngàn năm. Có người nói rằng nó có một lịch sử khoảng năm ngàn năm, trải dài như nền văn minh Trung quốc. Có người nhận xét từ các di tích khảo cổ và cho rằng nó có một lịch sử khoảng bảy ngàn năm. Tôi thấy khí công không được phát minh ra bởi nhân loại đương thời. Nó thuộc về nền văn hóa tiền sử. Theo sự tra cứu của những người có công năng 1, vũ trụ mà chúng ta đang sinh sống đây là một hợp thể sau chín lần bị nổ tung ra. Hành tinh chúng ta đang ở đã bị hủy diệt nhiều lần rồi. Sau mỗi lần như vậy trái đất đã được phối trí lại và nhân loại bắt đầu sinh xôi nảy nở trở lại. Hiện tại, chúng ta đã khám phá được nhiều điều trong thế giới tiến vượt xa nền văn minh đương thời. Dựa vào học thuyết tiến hóa của Darwin, con người tiến hóa từ loài khỉ, và nền văn minh không vượt quá mười ngàn năm trở lại. Nhưng các khám phá về di tích khảo cổ cho thấy trong các hang động ở dãy núi Alps (Bên Âu Châu có các bức vẽ trên vách đá đã xuất hiện cách đây khoảng 250,000 năm, mà giá trị nghệ thuật rất cao, vượt hẳn khả năng của người thời nay. Trong viện bảo tàng của Ðại Học Quốc Gia ở Peru có một tảng đá lớn khắc hình người cầm một viễn vọng kính đang quan sát các thiên thể. Hình này đã có cách đây trên 30,000 năm. Như quý vị biết, Ga-li-lê chế ra một kính viễn vọng để xem thiên văn với độ lớn 30 lần vào năm 1609, tức là chỉ cách đây hơn 300 năm. Làm sao có thể có một kính viễn vọng cách đây 30,000 năm được? Có một thanh sắt ở Ấn Ðộ mà chất sắt đạt đến một tỷ lệ 99 phần trăm ở trong đó. Kỹ thuật luyện kim tân thời không thể nào sản xuất được sắt với độ tinh khiết cao như vậy, vì nó đã vượt xa trình độ kỹ thuật tân thời. Ai đã tạo ra nền văn minh đó? Lúc đó loài người có lẽ chỉ là các sinh vật vi tế, vậy làm sao có khả năng sáng tạo ra các điều này? Các khám phá này gây chú ý cho các khoa học gia toàn thế giới. Vì không thể giải thích các điều này nên người ta gọi chung nó là nền “văn hoá tiền sử".

Trình độ khoa học khác biệt nhau ở mỗi thời kỳ, có thời kỳ nó tương đối cao, vượt xa trình độ nhân loại đương thời. Tuy vậy những nền văn minh đó đã bị hủy diệt. Vì lý do đó, tôi nói rằng khí công không được phát minh hay tạo ra bởi người thời nay, nhưng được người thời nay phát hiện và làm cho hoàn hảo hơn, nó thuộc về nền văn hóa tiền sử.
Khí công thật ra không chỉ là sản phẩm của xứ ta, nó cũng có mặt tại các nước khác. Tuy vậy nó không được gọi là khí công, các nước tây phương như là Hoa kỳ, Anh quốc,v..v gọi nó là ảo thuật. Có một ảo thuật gia ở Mỹ tên là David Cooperfield, thật ra anh ta có mang một số công năng, làm cho anh ta có thể biểu diễn màn đi xuyên qua bức Vạn Lý Trường Thành. Khi sắp sửa bước xuyên qua bức tường, anh ta dùng một tấm vải trắng để che anh ta lẫn bức tường lại, và rồi đi xuyên qua nó. Tại sao anh ta đã làm như vậy? Vì theo cách đó, phần lớn người ta sẽ nhìn nó như là một màn trình diễn ảo thuật. Nó phải được làm theo lối này vì anh ta biết rằng có rất nhiều cao nhân ở Trung quốc. Anh ta sợ sẽ bị ảnh hưởng bởi những người này, vì vậy anh ta đã tự che mình lại trước khi bước vào bức tường. Khi từ bức tường đi ra, anh ta dơ một tay ra kéo tấm vải lên trước và bước ra ngoài. Người Trung hoa có câu tục ngữ là: "Người trong cuộc mới hiểu rõ sự tình, còn người ngoài chỉ thấy sự náo nhiệt", theo lối này thì khán giả nghĩ rằng đó là một trò ảo thuật. Lý do họ gọi những công năng này là trò ảo thuật, vì họ không dùng nó để tu luyện thân thể, mà chỉ dùng để biểu diễn các phép thuật và trình diễn giúp vui trên sân khấu. Vì vậy, ở cấp thấp, khí công có thể làm thay đổi các trạng thái vật lý của thân thể con người, đạt đến mục đích chữa bệnh và giữ gìn sức khỏe (khu bệnh kiện thân); Ở cấp cao, khí công chính là tu luyện bản thể 2.

2. Khí và công

“Khí” mà chúng ta nói đến hiện nay đã được người thời xưa gọi là “ Khí”. Cả hai trong cốt tủy của nó đều ám chỉ khí của vũ trụ, tức là một loại vật chất vô hình vô tướng trong vũ trụ. Nó không liên hệ gì đến khí trong không khí. Qua sự tu luyện, năng lượng của chất liệu này trong cơ thể con người sẽ trở nên hoạt động, làm thay đổi trạng thái vật lý của cơ thể, đạt đến tác dụng để trừ bệnh và khỏe mạnh. Nhưng khí vẫn chỉ là khí. Quý vị có khí, người khác cũng có khí. Khí với khí không có tác dụng kiềm chế lẫn nhau. Có người cho rằng khí có thể trị bệnh được; hay cho rằng quý vị có thể phát khí ra để trị bệnh cho người nào đó. Các lời này rất phản khoa học, vì từ căn bản khí không thể chữa được bệnh tật gì hết. Khi người luyện công vẫn còn mang khí trong mình, có nghĩa là họ chưa đạt đến trạng thái Thân Trắng Như Sữa (Nãi Bạch Thể), tức là họ vẫn còn mang bệnh tật trong người.
Một người luyện công đến trình độ cao không phát khí, thay vào đó họ phát ra một chuỗi cao năng lượng, chất cao năng lượng này thể hiện dưới hình thức ánh sáng với các hạt vi tử rất mịn và rất đậm đặc. Ðây là công, chỉ khi đó nó mới có tác dụng kiềm chế người thường, mới có thể chữa bệnh cho họ. Có câu châm ngôn như thế này: "Phật quang phổ chiếu, lễ nghĩa viên minh". Nó có nghĩa là người tu luyện theo chính pháp mang năng lượng thật to lớn trên mình họ, bất kỳ nơi nào họ đi qua, họ có thể điều chỉnh bất cứ tình trạng bất thường nào đó trong vùng ảnh hưởng bởi năng lượng của họ và thiết lập lại trạng thái bình thường. Chẳng hạn như bệnh tật trong cơ thể con người chỉ là điều kiện bất bình thường đang xảy ra trong cơ thể đó, các bệnh tật sẽ hết sau khi tình trạng này được sửa chữa. Nói rõ hơn nữa công chính là năng lượng. Công có các biểu hiện vật chất, qua sự tu luyện, người luyện công có thể kinh nghiệm và nhận xét được sự tồn tại khách quan của nó.

3. Công lực và công năng

(1) Công lực do sự tu luyện tâm tính mà có

Cái công3 thật sự quyết định cấp bậc công lực4 của một người không đến từ sự tập luyện các động tác, nó đến từ sự chuyển hóa của chất "đức" và từ sự tu luyện tâm tính. Quá trình chuyển hóa này không phải là thành quả của việc bắc nồi đặt lò (an đỉnh thiết lư), sắt thuốc luyện đan (thái dược luyện đan) như người thường tưởng tượng ra. Cái công mà chúng tôi nói ra đây được sinh sản phía bên ngoài của cơ thể, bắt đầu từ phân nửa dưới của cơ thể, tùy theo sự nâng cao tâm tính nó phát triển lên phía trên theo hình xoắn ốc, và được tạo thành trọn vẹn ở phía ngoài cơ thể, sau đó nó phát triển thành ra một cột trụ công (công trụ) ở trên đỉnh đầu. Cột trụ công cao đến đâu quyết định công của một người cao đến đó. Cột trụ công hiện hữu trong một không gian được giấu kín và rất sâu thẳm nên người thường không dễ gì nhìn thấy nó được. Công năng5 được gia tăng sức mạnh bởi công lực, công lực càng cao và cấp bậc của một người càng cao thì công năng của một người càng mạnh và càng dễ vận dụng những quyền năng này; Người với công lực thấp có các công năng nhỏ hơn, khó vận dụng chúng hơn, thậm chí không thể vận dụng được. Công năng tự nó không biểu hiện cấp bậc công lực của một người hay là trình độ tu luyện của một người. Công lực là yếu tố quyết định trình độ của một người chứ không phải là công năng. Một số người tu theo phương thức "khóa kín", công lực của họ rất cao, nhưng không nhất định có nhiều công năng. Công lực là yếu tố quyết định, và do sự tu luyện tâm tính mà có. Ðây là điều then chốt nhất.

(2) Công năng không phải điều mà người luyện công theo đuổi

Mọi người luyện công đều quan tâm đến công năng, các phép thần thông rất lôi cuốn và hấp dẫn trong xã hội, và nhiều người muốn có nó. Nhưng nếu tâm tính không tốt, người ta sẽ không có thể có được những quyền năng này. Vài công năng có thể được sở hữu bởi người thường, như khai mở thiên mục, thiên nhĩ, thần giao cách cảm và biết trước tương lai. Nhưng những quyền năng nay thay đổi tùy theo mỗi cá nhân, chúng nó không thể hiện ra cùng một lượt trong trạng thái tiệm ngộ (giác ngộ từ từ). Vài công năng không thể nào được ban cho người thường, chẳng hạn như việc biến chuyển một loại vật thể trong không gian vật lý này thành ra một loại vật thể khác, đây không phải là thứ mà người thường có thể có được. Các công năng vĩ đại có được nhờ sự tu luyện trước từ tiền kiếp. Pháp Luân Công phát triển thuận theo các luật của vũ trụ, vì vậy các công năng nào có trong vũ trụ cũng đều có trong Pháp Luân Công, tất cả đều tùy thuộc vào cách thức tu luyện của người luyện công. Ý nghĩ để có được vài công năng không bị xem là sai trái, tuy vậy, đeo đuổi theo chúng một cách quá trớn không được xem như một tư tưởng bình thường và sẽ sinh ra các hậu quả xấu. Công năng không được sử dụng nhiều cho lắm khi đạt được ở cấp thấp, trừ phi sử dụng chúng để biểu diễn khả năng của người đó trước mặt các người thường khác và trở thành người trội hơn giữa đám đông. Trong trường hợp này, nó cho thấy tâm tính của người đó không cao lắm và đúng ra không nên cấp công năng cho người đó. Vài công năng nếu giao cho người với tâm tính xấu có thể được sử dụng để làm điều sai trái, vì tâm tính của họ không chín chắn nên không bảo đảm là họ sẽ không làm điều xấu. Nhìn từ một khía cạnh khác bất cứ công năng nào có thể tiết lộ và biểu diễn thì không thể được sử dụng để thay đổi xã hội loài người hay là để sửa đổi sinh hoạt bình thường trong xã hội. Những công năng thứ thiệt không được phép tiết lộ và biểu diễn, vì tầm ảnh hưởng và sự nguy hiểm quá rộng lớn. Chẳng hạn như là người ta không được biểu diễn phá sập một tòa nhà lầu lớn. Nhất là đối với các quyền năng vĩ đại, trừ phi những người mang sứ mạng đặc biệt, các công năng vĩ đại đều không được cho phép sử dụng, cũng như không có thể tiết lộ chúng vì các thượng sư khống chế việc này. Tuy nhiên một số người thường nài nỉ các thầy khí công biểu diễn, bắt buộc họ tiết lộ các công năng để cho các người này có thể trông thấy. Người có công năng thường không muốn sử dụng chúng để biểu diễn, vì họ không được phép tiết lộ chúng ra, đem chúng ra sử dụng sẽ có tầm ảnh hưởng đến tình trạng của toàn xã hội. Người chân chính với nhiều đức tính tốt không được phép sử dụng các công năng của họ nơi công cộng. Vài thầy khí công cảm thấy rất khó chịu trong lúc trình diễn, sau khi trở về nhà họ muốn khóc thét lên. Xin đừng buộc họ phải biểu diễn! Họ sẽ cảm thấy rất bối rối khi phải tiết lộ những thứ đó. Tôi thấy rất ác cảm khi đọc một tạp chí mà một học viên đang cầm trên tay. Nó đề cập tới một hội nghị khí công quốc tế đang được tổ chức, người có công năng có thể tham dự một cuộc đọ sức, người nào có quyền năng mạnh nhất có thể đi dự hội nghị đó. Sau khi đọc xong, tôi cảm thấy rất khó chịu trong nhiều ngày. Ðây không phải là điều có thể được tiết lộ giữa công chúng để tranh tài, trình diễn chúng nơi công cộng là điều thật đáng tiếc. Người thường mà, họ chú trọng đến những điều thực tế trong thế gian này, nhưng những thầy khí công phải biết tự trọng. Ham muốn những công năng với mục đích gì? Nó phản ảnh cảnh giới của tư tưởng và sự mong cầu của người luyện công, tư tưởng không chính đáng, không chín chắn, nên không thể đạt được các công năng cao. Ở đây có một nguyên nhân, là vì trước khi quý vị được hoàn toàn giác ngộ, điều tốt hay xấu mà quý vị nhìn thấy chỉ là dựa trên các tiêu chuẩn pháp của thế gian này, quý vị không thể nhận ra bản chất thật sự của mọi vật, không thể thấy các quan hệ nhân duyên giữa các sự việc. Ấu đả, mắng chửi và bắt nạt nhau giữa người thường do các liên hệ nhân duyên mà ra, nếu không hiểu thấu điều đó quý vị có thể chỉ làm cho rối ren thêm. Chuyện ân oán, thị phi của người đời, đã có pháp của thế gian lo rồi, người luyện công không nên dính vào. Vì trước khi quý vị đạt đến giai đoạn giác ngộ trọn vẹn, những gì mắt quý vị thấy không nhất thiết là sự thật. Khi một người đấm đá một người khác, có lẽ là họ đang giải quyết món nợ nhân quả6 của họ, sự can thiệp của quý vị có thể làm trở ngại việc thanh toán món nợ của họ. Nghiệp là chất đen bao quanh cơ thể con người, nó là một vật chất hiện hữu trong một không gian khác mà có thể được chuyển hóa thành ra bệnh tật hay tai họa. Mọi người đều có công năng, vấn đề là phải khai thác và gia tăng sức mạnh của chúng qua sự tu luyện liên tục. Là người luyện công, nếu chỉ mong cầu đạt được các công năng thì người đó có cái nhìn thiển cận, tư tưởng không trong sạch, không kể người đó muốn công năng để làm gì, nó hàm chứa sự ích kỷ mà nhất định sẽ cản trở việc luyện công, kết quả là người đó không đạt được bất kỳ quyền năng nào.

(3) Cách sử dụng công lực

Có người luyện công chưa tập luyện lâu cho lắm, nhưng họ muốn chữa bệnh cho người khác, muốn thử xem nó có kết quả không. Ðối với những người mà công lực của họ chưa cao cho lắm, khi quý vị đưa tay ra và thử chữa bệnh, quý vị thu hút một khối lượng chất đen lớn, tức là khí bệnh, khí dơ bẩn, từ cơ thể của bệnh nhân sang cơ thể của mình. Vì quý vị không có năng lực để phòng chống lại khí bệnh, và hơn nữa cơ thể của quý vị chưa có tấm chắn bảo vệ, quý vị ở trong cùng vùng ảnh hưởng (trường) với bệnh nhân, không có một công lực thật cao quý vị sẽ không thể nào tự bảo vệ được, kết quả là quý vị sẽ cảm thấy rất là khó chịu. Nếu không có người độ cho quý vị, một thời gian sau, quý vị sẽ mang bệnh tật đầy mình. Cho nên người không có công lực cao, không nên trị bệnh cho người khác. Trừ phi quý vị đã phát triển được các công năng và đạt được một trình độ công lực nào đó, thì quý vị có thể dùng khí công để chữa bệnh. Ngay cả một số người đã phát triển công năng và có thể chữa bệnh, khi ở cấp thật thấp, thật ra họ đã sử dụng công lực tích tụ được để chữa bệnh, tức là dùng năng lực của chính mình để chữa bệnh. Vì công là năng lượng và cũng là một linh thể mà không dễ gì thu thập được, nên phát công ra thật sự sẽ làm tiêu hao công của quý vị đi. Kèm theo sự phát công của quý vị, cột trụ công trên đầu của quý vị sẽ ngắn lại và tiêu hao bớt đi, điều này quả không đáng làm chút nào. Vì vậy tôi không chủ trương việc trị bệnh cho người khác khi công lực của quý vị chưa được cao cho lắm. Không kể thủ pháp của quý vị cao đến đâu, quý vị vẫn làm tiêu hao năng lượng của chính mình. Khi công lực của quý vị đã đạt đến một trình độ nào đó, đủ loại công năng sẽ xuất hiện. Khi sử dụng các công năng này quý vị cần phải rất cẩn thận. Chẳng hạn như người ta phải sử dụng Thiên mục khi nó đã khai mở vì nó sẽ đóng lại nếu quý vị không bao giờ sử dụng nó. Tuy vậy quý vị không được nhìn bằng thiên mục thường xuyên. Nếu sử dụng nó quá thường xuyên, rất nhiều năng lượng sẽ bị mất đi. Vậy có phải là quý vị đừng bao giờ sử dụng nó? Dĩ nhiên là không. Nếu chúng ta không bao giờ có thể dùng nó vậy chúng ta tu luyện nó để làm gì? Vấn đề là khi nào sử dụng nó. Chỉ khi nào quý vị tu luyện đến một trình độ nào đó và có khả năng tự bổ xung năng lực trở lại thì quý vị có thể sử dụng nó. Khi người tu theo Pháp Luân Công đạt đến một trình độ nào đó, Pháp Luân có thể chuyển hóa tự động và cung cấp trở lại không kể bao nhiêu công mà người đó phát ra. Pháp Luân tự động duy trì mức độ công lực cho người luyện công. Công không có giảm đi bất cứ lúc nào. Ðây là đặc điểm của Pháp Luân Công. Chỉ đến lúc này mới có thể sử dụng các công năng.

4. Thiên mục

(1) Khai mở thiên mục 7

Lối thông ra (thông đạo) chính của thiên mục nằm giữa trung tâm của trán và sơn căn8. Cách người thường nhìn thấy với mắt phàm cũng giống như nguyên tắc chụp hình với máy ảnh. Tùy theo khoảng cách giữa vật thể và cường độ ánh sáng, cùng với sự điều chỉnh của ống kính hay kích thước của con ngươi, hình ảnh được tạo thành bởi các thần kinh thị giác trên tuyến tùng quả9 nằm ở phân nữa phía sau của đại não. Công năng nhìn xuyên thấu thật ra là trực tiếp sử dụng tuyến tùng quả nhìn thẳng ra bên ngoài thông qua thiên mục. Thiên mục của một người trung bình không thông vì khe hở của lối thông ra chính rất là chật hẹp, rất đen tối, không có chút linh khí, không phát quang. Lối thông ra của một số người bị tắt nghẽn vì vậy họ không có thể thấy được. Ðể khai mở thiên mục, trước hết chúng ta dùng sức mạnh ở bên ngoài hay là sức mạnh tự tu luyện được để khai mở lối thông ra. Hình dạng của lối thông ra thay đổi tùy mỗi cá nhân và nó có dạng như hình bầu dục, hình tròn, hình thoi và hình tam giác, người luyện thật giỏi thì lối thông ra rất tròn. Thứ nhì là vị thầy ban cho một con mắt, nếu tự mình tu luyện thì phải tự tạo nên con mắt này. Thứ ba là phải có tinh hoa khí ở vị trí của thiên mục. Thông thường chúng ta thấy được nhờ sử dụng cặp mắt này, đúng ra là hai mắt này ngăn chặn lối thông ra của chúng ta vào các không gian khác. Nó vận hành như là một tấm chắn, vì vậy chúng ta chỉ có thể nhìn thấy các đồ vật hiện hữu trong không gian vật chất của chúng ta mà thôi. Sự khai mở thiên mục cho phép người ta nhìn thấy mà không cần sử dụng hai mắt này. Sau khi đạt đến một trình độ rất cao, quý vị cũng có thể tu có được một chân nhãn. Rồi thì quý vị có thể sử dụng chân nhãn của thiên mục hay là chân nhãn ở nơi sơn căn để nhìn. Theo Phật Gia thì mỗi lỗ chân lông là một con mắt, có mắt ở trên khắp cơ thể con người. Theo Đạo Gia thì mỗi điểm huyệt (huyệt vị) là một con mắt. Tuy vậy lối thông ra chính là thiên mục, nó phải được khai mở trước tiên. Trong lớp học tôi đã gắn cho mọi người những thứ để có thể khai mở thiên mục. Vì cơ thể của mỗi người có tố chất khác nhau nên hiệu quả cũng không như nhau. Có người thấy một lỗ đen tương tự như một cái giếng sâu, điều này có nghĩa là lối thông ra của thiên mục màu đen. Có người thấy lối thông ra màu trắng, thiên mục sắp được mở nếu thấy đồ vật ở trước đường hầm này. Có người thấy đồ vật quay vòng, đấy là những thứ Thầy gắn cho để khai mở thiên mục. Quý vị sẽ có thể nhìn thấy một khi thiên mục được khai thông hoàn toàn. Có người có thể nhìn thấy một con mắt lớn qua thiên mục của họ và nghĩ rằng đó là mắt Phật. Thật ra đó chính là mắt của họ. Ðây thường là những người có căn cơ bẩm sinh (tiên thiên) tương đối tốt. Theo thống kê của chúng tôi, trong mỗi lớp học có hơn phân nửa người có thiên mục được khai mở. Một vấn đề được nêu ra khi thiên mục mở là người với tâm tính không cao lắm có thể dễ dàng sử dụng nó để làm điều xấu. Ðể tránh vấn đề này, tôi mở thiên mục của quý vị thẳng đến cấp huệ nhãn thông, nói khác đi là mở đến một cấp cao để cho phép quý vị thấy trực tiếp các cảnh vật ở các không gian khác và để nhìn thấy những thứ có thể sẽ xuất hiện trong lúc tu luyện để tạo thêm niềm tin cho quý vị, làm cho niềm tin vào sự luyện công thêm vững chắc hơn. Người vừa mới bắt đầu luyện công thì tâm tính của họ chưa thể đạt đến cao độ của người siêu thường. Nên khi họ có được những điều siêu phàm, nó rất dễ để họ làm những điều sai trái. Lấy một thí dụ vui vui là nếu quý vị đi ngoài đường và gặp quầy bán vé sổ số, quý vị có thể rời đó với một giải nhất. Ðiều này cắt nghĩa điều tôi muốn nói. Nó không được phép xảy ra như vậy. Một lý do khác nữa là hãy xét sự khai mở thiên mục của chúng ta ở đây trong một phạm vi rộng lớn. Thí dụ như thiên mục của mọi người được mở ở một cấp thấp, hãy chỉ tưởng tượng rằng nếu mọi người có thể trông thấy xuyên qua cơ thể con người, hay là có thể thấy các đồ vật phía sau bức tường; chúng ta còn có thể gọi đây là xã hội người thường nữa không? Nó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến trạng thái của xã hội người thường, do đó, nó không được phép cũng như không được thực hiện. Hơn nữa, nó không đem lại lợi ích gì cho người luyện công, và chỉ dung túng thêm sự ràng buộc10 của người luyện công. Vì lý do đó, chúng tôi không mở thiên mục cho quý vị ở một cấp thấp, thay vào đó chúng tôi mở nó trực tiếp ở cao tầng.

(2) Các cấp bậc của thiên mục

Thiên mục có nhiều cấp bậc khác nhau. Tùy theo cấp bậc, nó trông thấy các cõi giới khác nhau. Theo Phật giáo có năm cấp bậc11 là: Nhục Nhãn Thông, Thiên Nhãn Thông, Huệ Nhãn Thông, Pháp Nhãn Thông và Phật Nhãn Thông. Mỗi cấp bậc lại chia ra thành các cấp phụ là thượng, trung và hạ. Ở các cấp từ thiên nhãn thông trở xuống, nó chỉ quan sát được thế giới vật chất của chúng ta. Chỉ ở các cấp từ huệ nhãn thông trở lên nó sẽ có thể quan sát các không gian khác. Một số người có công năng xuyên thấu12, nhìn còn chính xác hơn các Máy Tạo Hình (Quét ảnh C.T). Tuy nhiên, những gì họ có thể trông thấy vẫn còn nằm trong thế giới vật chất này và chưa vượt khỏi không gian mà chúng ta đang ở. Nó không thể được xem như đã đạt đến một trình độ cao cấp về thiên mục. Cấp bậc của thiên mục tùy thuộc vào số lượng tinh hoa khí của một người cũng như bề rộng, độ sáng và góc độ cản trở của lối thông ra chính. Tinh hoa khí ở bên trong là điều then chốt để xem thiên mục có thể được mở trọn vẹn chưa. Ðiều đặc biệt là rất dễ mở thiên mục cho trẻ em dưới 6 tuổi. Ngay cả tôi không cần dùng tay nữa; nó mở ngay lập tức khi tôi bắt đầu nói vì trẻ em tiếp nhận rất ít ảnh hưởng xấu trong thế giới vật chất này của chúng ta và chưa phạm phải lỗi lầm nào hết. Tinh hoa khí của chúng được giữ gìn rất tốt. Ðối với trẻ em trên 6 tuổi, thiên mục của chúng càng khó mở hơn vì do nơi các ảnh hưởng xấu từ bên ngoài càng gia tăng khi chúng lớn lên. Ðặc biệt nữa là với một nền giáo dục không tốt, bại hoại, và trở thành đồi bại có thể làm cho tất cả tinh hoa khí tan biến mất. Sau khi tuột dốc đến mức độ nào đó, nó sẽ biến mất đi. Những người mà tinh hoa khí hoàn toàn mất hẳn đi có thể dần dần khôi phục lại qua việc luyện công, nhưng nó đòi hỏi nhiều thời gian và nhiều cố gắng hơn. Cho nên tinh hoa khí rất là quý báu.
Tôi không chủ trương mở thiên mục ở cấp thiên nhãn thông, vì khi công lực của người luyện công còn thấp, họ sẽ bị mất nhiều năng lượng khi sử dụng thiên mục hơn là năng lượng thu thập được qua sự luyện công. Nếu linh khí bị mất nhiều quá, thiên mục có thể bị đóng lại lần nữa, một khi nó đóng lại thì sẽ không dễ gì mà mở nó lại lần nữa. Vì vậy khi tôi mở thiên mục cho ai, tôi thường mở nó ở cấp huệ nhãn thông. Các người tu luyện sẽ có thể thấy các cảnh vật của các không gian khác mặc dầu có thể thấy rõ hay mờ. Do ảnh hưởng của các điều kiện bẩm sinh (tiên thiên), có người có thể thấy được rõ ràng, có người thấy lúc ẩn lúc hiện; có người không thấy được rõ ràng, tuy nhiên ít ra quý vị cũng có thể thấy được ánh sáng. Vì vậy nó mang lại ảnh hưởng tốt cho người luyện công để phát triển lên trình độ cao hơn nữa. Những người không thấy rõ ràng sẽ có thể khá hơn qua sự luyện công.

Những người thiếu chất tinh hoa khí chỉ thấy các hình ảnh trắng đen khi nhìn bằng thiên mục. Ðối với những người tương đối có nhiều tinh hoa khí hơn, thiên mục của họ sẽ có thể thấy các cảnh vật bằng màu sắc và hình dạng rõ ràng hơn. Càng có nhiều tinh hoa khí thì càng nhìn thấy rõ ràng hơn. Tuy nhiên, mỗi cá nhân đều khác nhau. Có người bẩm sinh thiên mục đã mở, trong khi một số người khác bị đóng rất chặt. Khi thiên mục đang mở ra, nó giống như cái bông đang nở từng lớp này đến lớp khác. Trong lúc ngồi thiền, lúc khởi đầu quý vị sẽ phát hiện thiên mục có một đóm sáng, lúc bắt đầu, cái đóm này không sáng chói cho lắm, và sau đó chuyển sang màu đỏ. Có người thiên mục bị đóng gắt quá nên phản ứng lúc đầu của họ cũng rất mạnh mẽ. Họ sẽ cảm thấy các bắp thịt chung quanh lối thông ra chính và vùng sơn căn đang căng phồng lên như bị ép và bóp chặt về phía bên trong. Hai bên thái dương và trước trán của họ bắt đầu cảm thấy như phồng to lên và đau nhức do các phản ứng của sự khai mở thiên mục. Người có thiên mục dễ mở đôi khi có thể thấy điều gì đó. Trong lớp học, có người tình cờ thấy được pháp thân của tôi. Khi họ cố gắng nhìn chăm chú hơn thì nó biến mất. Thật ra, họ đã sử dụng mắt thịt của họ. Quý vị phải giữ yên trạng thái khi trông thấy điều gì với đôi mắt khép lại, và dần dần quý vị sẽ thấy chúng rõ hơn. Khi quý vị muốn thấy gần hơn nữa, quý vị đã thật sự chuyển qua nhìn bằng mắt thịt của mình và sử dụng các thần kinh thị giác. Khi đó, quý vị sẽ không thể thấy được gì hết.

Thiên mục ở các cấp bậc khác nhau có thể nhận thức được các cõi khác nhau. Một số cơ sở nghiên cứu khoa học không hiểu đạo lý này và kết quả là vài cuộc thí nghiệm về khí công không đạt được hiệu quả mong muốn. Nhiều lần các thí nghiệm ngay cả dẫn đến kết quả ngược lại. Chẳng hạn như có một đơn vị thiết kế một phương pháp để trắc nghiệm các công năng, họ yêu cầu các thầy khí công nhìn vào trong một hộp đậy kín. Vì cấp bậc thiên mục của những thầy khí công này không giống nhau, nên các câu trả lời kết quả trắc nghiệm của họ cũng không giống nhau. Vì vậy, các nhân viên làm trắc nghiệm cho thiên mục là sai lầm, họ có cái nhìn lệch lạc. Thông thường người có thiên mục mở ở cấp thấp đạt được kết quả khả quan hơn với loại thí nghiệm này, vì thiên mục của họ mở ở cấp thiên nhãn thông, rất thích hợp để chỉ quan sát các đồ vật trong không gian vật chất này. Vì vậy người không hiểu rõ thiên mục nghĩ rằng những người này có các công năng tối cao. Tất cả các vật thể, bất luận vật hữu cơ hay vô cơ, hiện ra với hình dáng khác nhau trong các không gian khác nhau. Chẳng hạn cái ly thủy tinh khi vừa được chế tạo ra, thì đồng thời có một linh thể sinh ra ở một không gian nào đó. Hơn nữa, ngay cả trước khi linh thể này xuất hiện, nó có thể có điều gì khác nữa. Với thiên mục ở cấp thấp nhất, người ta sẽ thấy lớp thủy tinh. Ở một cấp cao hơn, người ta sẽ thấy một linh thể hiện diện trong một không gian khác. Ở một cấp cao hơn nữa, người ta sẽ thấy hình thức của vật chất trước khi có sự xuất hiện của linh thể.

(3) Công năng dao thị

Sau khi mở thiên mục, có người có được công năng dao thị (công năng thấy xa), họ có thể nhìn thấy các đồ vật ở cách xa ngàn dặm. Mỗi cá nhân chiếm cứ khoảng không gian riêng của họ và nó cũng rộng lớn bằng kích thước của vũ trụ, trong khoảng không gian riêng biệt13 này, họ có một tấm gương trước trán, nhưng không thấy được trong cõi không gian của chúng ta. Mọi người đều có tấm gương này, chỉ là người không luyện công thì nó quay vào trong, người luyện công thì tấm gương này từ từ quay chung quanh trục của nó. Khi quay tấm gương này có thể phản chiếu những gì người đó muốn thấy. Trong cõi không gian riêng biệt này, người đó tương đối to lớn, cơ thể của họ khá lớn và tấm gương này cũng thật lớn. Bất cứ cái gì người tu muốn nhìn thấy có thể được phản chiếu lại trên tấm gương. Tuy vậy một khi tấm gương ghi nhận được hình ảnh, người đó cũng chưa có thể thấy nó được. Hình ảnh sẽ lưu lại trên tấm gương trong khoảnh khắc, xong rồi tấm gương sẽ quay nữa, làm cho quý vị thấy được hình ảnh của đồ vật hiện trên đó. Nó sẽ lật trở lại thật mau. Nó quay lui và tới không ngừng nghỉ. Phim chớp bóng di động 24 hình trong một giây để đạt được động tác liên tục. Tốc độ mà tấm gương lật qua còn mau hơn đó nữa, vì vậy, các hình ảnh dường như liên tục và rõ ràng. Ðây là dao thị. Nguyên tắc của dao thị thật là đơn giản. Ðiều này vẫn được giữ thật bí mật, tuy vậy tôi tiết lộ nó với chỉ vài hàng.

(4) Các cõi không gian

Không gian, dựa vào những điều chúng ta trông thấy, quả thật là phức tạp. Nhân loại chỉ biết không gian mà con người hiện đang sống, và các cõi không gian khác thì chưa được thám hiểm hay là khám phá tới. Nói về những điều đến từ các không gian khác, các thầy khí công của chúng ta đã nhìn thấy hàng tá các cấp bậc không gian khác nhau và cũng có thể dùng lý luận để giải thích sự hiện hữu của nó, nhưng khoa học không thể chứng thực được. Có một số điều, ngay cả nếu quý vị không chấp nhận sự hiện hữu của chúng, nhưng chúng vẫn được phản ánh một cách trung thực trong không gian của chúng ta. Chẳng hạn như có một nơi gọi là quần đảo Bermuda, hay còn được mệnh danh là "vùng tam giác quỷ", một số tàu bè đã biến mất trong vùng này, một số máy bay cũng mất tích luôn, và sau đó lại xuất hiện trở lại vài năm sau đó. Không ai có thể giải thích được nguyên nhân, không ai đi quá giới hạn của các tiến trình suy nghĩ và lý luận của con người. Thật ra, nó là một đường đi vào một không gian khác. Không giống như cánh cửa bình thường của chúng ta với một vị trí cố định, nó ở một trạng thái không ổn định. Nếu chiếc tàu nào tình cờ đi vào khi cánh cửa được mở, nó có thể đi vào cõi không gian khác rất dễ dàng. Con người không thể cảm nhận được sự khác biệt giữa các không gian, và họ đi vào trong một không gian khác trong nháy mắt. Khoảng cách giữa các không gian không thể nào được diễn đạt bằng dặm, như là cách xa hàng ngàn dặm. Mọi thứ đều hội tụ vào một điểm nơi đây. Các không gian khác nhau thật sự xảy ra cùng nơi chốn và cùng thời gian. Chiếc tàu nhảy vào trong một chốc lát và trở ra lại do sự tình cờ thôi. Tuy vậy, nhiều năm đã trôi qua trong thế giới này vì thời gian khác nhau ở hai cõi không gian này. Có nhiều thế giới đồng nhất14 hiện hữu trong mỗi không gian, tương tự như mô hình của các cấu trúc nguyên tử, một quả cầu được nối liền với quả cầu khác bằng một đoạn thẳng và rất nhiều quả cầu lẫn nhiều đoạn thẳng liên kết với nhau như vậy, nó quả thật là phức tạp.
Bốn năm trước kỳ thế chiến tranh thế giới lần thứ 2, một phi công người Anh đang thi hành một công tác. Khi đang bay giữa chừng, anh ta đụng phải một cơn bão táp rất lớn. Dựa theo kinh nghiệm, anh ta tìm gặp một phi trường bỏ hoang. Vừa lúc phi trường xuất hiện trước mắt anh ta, một hình ảnh hoàn toàn khác hẳn đến trong tầm nhìn của anh ta, nó bỗng nhiên nắng chói và không có chút mây nào như thể anh ta vừa mới hiện ra từ một thế giới khác. Các máy bay đậu ở phi trường này sơn màu vàng, và người ta đang bận rộn làm việc trên mặt đất, anh ta có cảm giác rất lạ! Sau khi hạ cánh, không ai nhận ra anh ta. Ngay cả đài kiểm soát không lưu cũng không có liên lạc với anh ta. Người phi công quyết định rời khỏi nơi đó vì trời đã tạnh bão. Anh ta bay trở lại, và lúc tới cùng khoảng cách mà anh ta thấy phi trường này phút chốc trước đó, anh ta lại đâm đầu vào cơn bão táp một lần nữa. Cuối cùng anh ta xoay trở để ra khỏi nơi đó. Khi anh ta báo cáo tình trạng này và anh ta cũng ghi xuống trong sổ phi hành, cấp trên của anh ta không tin chuyện đó. B

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hoàn thiện bản thân - Chương 1: Giới thiệu

Phong thủy về tên người –

Nếu đứa bé đi học mà suốt ngày bị bạn bè chế giễu vì cái tên thì sẽ ảnh hưởng không ít đến phát triển tâm lý và sự tự tin khi giao tiếp. Hay nói cách khác, đó chính là hiện tượng phong thủy xấu gây ra những tác động tiêu cực không mong muốn. Họ tên c

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu đứa bé đi học mà suốt ngày bị bạn bè chế giễu vì cái tên thì sẽ ảnh hưởng không ít đến phát triển tâm lý và sự tự tin khi giao tiếp. Hay nói cách khác, đó chính là hiện tượng phong thủy xấu gây ra những tác động tiêu cực không mong muốn.

Họ tên của mỗi người là tài sản quý giá đầu tiên mà bố mẹ dành cho, phản ánh ít nhiều kỳ vọng, tình thương của cha mẹ đối với đứa con thân yêu của mình. Họ tên có ảnh hưởng quan trọng đến tương lai sự nghiệp, sức khỏe, vận mệnh của mỗi con người chứ không đơn giản chỉ là công cụ để phân biệt người này với người kia.

Chúng ta đều biết rằng, nghệ thuật phong thủy là phương pháp sử dụng các đồ vật bài trí trong nhà để thu hút sinh khí, loại trừ tà khí, đem lại may mắn, sức khỏe, hạnh phúc và thành công trong sự nghiệp cho gia chủ. Tương tự như vậy, họ tên của mỗi người có thể nói cũng là một công cụ phong thủy, ảnh hưởng đến “gia chủ”, tức là người mang cái tên đó, bởi nó thường xuyên đồng hành với mỗi “gia chủ” cho đến hết đời, hàng ngày được người ta nhắc gọi thường xuyên trong giao tiếp và trên giấy tờ. Tuy nhiên, việc ảnh hưởng xấu hay tốt đến vận mệnh cuộc đời mỗi cá nhân còn phụ thuộc vào cái “công cụ phong thủy” đó tốt hay xấu.

datten

 

Nếu như cái tên có âm dương hòa hợp, thuận theo ngũ hành tương sinh, phù hợp với bản mệnh…thì sẽ có trợ giúp đắc lực cho vận mệnh chủ nhân, đem lại may mắn, hạnh phúc, tài lộc, danh vọng. Ngược lại, nếu là một cái tên xấu, mất cân bằng âm dương, ngũ hành tương khắc, xung khắc với bản mệnh chủ nhân…thì sẽ có hại cho sức khỏe, đem lại điều rủi ro, tài lộc rơi vãi, thậm chí nguy hại đến tuổi thọ và tính mạng.

Mức độ tốt xấu của họ tên còn phụ thuộc vào ý nghĩa, âm vận của nó. Nếu như một cái tên được đặt mà gợi nghĩa xấu, thô tục, khiếm nhã thì chắc hẳn sẽ làm cho người xướng cái tên đó cảm thấy mất cảm tình (ví dụ Trần Đại Phá, Nguyễn Trường Hận, Mai Phạt Sáu Ngàn Rưởi, Võ Thị Xin Thôi, Lê Thị Ly Tan…). Một cái tên có ý nghĩa tuyệt đối còn có thể gây ra cảm giác khó chịu, dễ bị soi mói, chế giễu hơn là đồng cảm (ví dụ như Cao Bạch Tuyết, Bùi Mỹ Mãn, Vương Thái Hậu, Trần Diễm Lệ, Hoàng Vô Địch…). Ngược lại, nếu là một cái tên có ý nghĩa đẹp, trang trọng, thể hiện tình cảm, ý chí, khí chất cao nhã của người mang tên đó thì sẽ dễ chiếm được cảm tình của mọi người, rất có lợi cho quan hệ giao tiếp, làm ăn, đề bạt (ví dụ như Cao Đức Phát, Lê Hồng Phong, Phan Bảo Tín, Đặng Thành Tâm…).

Tương tự như ý nghĩa, âm vận của cái tên cũng có ý nghĩa phong thủy nhất định. Một cái tên có âm bằng trắc cân đối, nhịp nhàng, âm vang thì người gọi tên đó cũng cảm thấy thuận miệng, vui tai, nhớ lâu (ví dụ như Phạm Như Hoa, Đinh Bảo Thoa, Đặng Ngọc Hân…). Nếu như quan hệ bằng trắc rối loạn, âm thanh ngắn cụt hoặc trúc trắc thì rõ ràng đọc không thuận miệng, đem lại cảm giác trầm đục, thiếu sức sống hoặc gọi đứt hơi và khó nhớ (ví dụ Trịnh Thị Mộng Phượng, Nguyễn Tiến Vĩnh, Vũ Bảo Nghĩa…). Những cái tên như thế sẽ có ảnh hưởng nhất định đến cảm tính (trong tiềm thức) của bạn bè, lãnh đạo, đối tác trong giao tiếp.

Ngoài ra, những người có cái tên kém trang nhã hoặc có ý nghĩa xấu, thô thiển do hiện tượng đọc lái sinh ra (ví dụ như Lại Tiến Tùng, Trần Tú Viên, Nguyễn Y Vân, Đàm Nguyên Tú…) rất dễ là tâm điểm của sự trêu chọc. Nếu đứa bé đi học mà suốt ngày bị bạn bè chế giễu vì cái tên thì sẽ ảnh hưởng không ít đến phát triển tâm lý và sự tự tin khi giao tiếp. Hay nói cách khác, đó chính là hiện tượng phong thủy xấu gây ra những tác động tiêu cực không mong muốn.

Theo quan niệm của tử vi truyền thống, mỗi con người khi sinh ra về cơ bản đã được số mệnh an bài, cát hung đã định. Sự khác biệt ở thực tế (xấu hơn hoặc tốt hơn dự tính) là do có sự thay đổi ở môi trường sống, phúc đức của tổ tiên và chất lượng tu dưỡng của bản thân. Tương tự như vậy, trong Tính Danh Học (môn khoa học về đặt tên) cũng xác định Họ là yếu tố đã định, không thể thay đổi do có sự kế thừa truyền đời, đại diện cho âm đức của tổ tiên.

Tên (bao gồm tên đệm và tên chính) là yếu tố sinh sau, được lựa chọn có chủ ý và có thể thay đổi được nhằm hỗ trợ cho bản mệnh, tăng cường sự may mắn, tốt lành, loại trừ những tác động tiêu cực có thể xảy ra. Việc lựa chọn tên theo hướng phù hợp với bản mệnh, âm dương, ngũ hành, can chi…nhằm đem lại sự may mắn, an khang, hanh thông cho chủ nhân chính là nội dung chủ yếu của Tính Danh Học. Đây là một môn khoa học có lịch sử lâu đời ở Trung Quốc, Nhật Bản, trải qua hàng ngàn năm hun đúc và chứng thực, đã trở thành bảo bối được ứng dụng rộng rãi trong văn hóa đặt tên.

Người xưa có câu “cho con ngàn vàng không bằng dạy con một nghề, dạy con một nghề không bằng đặt cho con một cái tên hay”, có ý nhấn mạnh vai trò quan trọng của cái tên. Vì vậy, các bậc cha mẹ hãy cẩn trọng và cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định đặt tên cho con yêu của mình nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy về tên người –

Nhận biết mộ “kết”, mộ “trùng” để chọn thời gian cải táng tránh họa tai

Linh hồn của người chết yên ổn thì con cháu thịnh vượng, vì vậy các thầy phong thủy coi trọng âm trạch hơn dương trạch rất nhiều lần, nội dung chủ yểu của phong thủy là âm trạch. Với ý nghĩa như trên, thuật phong thủy cũng đã đưa ra những hướng dẫn để việc tổ chức cải táng mộ phần được thuận lợi, hợp lý.
Nhận biết mộ “kết”, mộ “trùng” để chọn thời gian cải táng tránh họa tai

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 >> Năm mới 2016 sắp tới. Ai XÔNG ĐẤT nhà bạn phù hợp nhất mang lại tài lộc, may mắn cho bạn cả năm. Hãy XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất nhé!

Linh hồn của người chết yên ổn thì con cháu thịnh vượng, vì vậy các thầy phong thủy coi trọng âm trạch hơn dương trạch rất nhiều lần, nội dung chủ yểu của phong thủy là âm trạch.

Bởi quan niệm nếu làm đúng, tốt thì gia đình sẽ gặp mạnh khoẻ, may mắn và thành công trong mọi việc, quan trọng hơn nữa là ông bà, cha mẹ sẽ được an lành, siêu thoát. Với ý nghĩa như trên, thuật phong thủy cũng đã đưa ra những hướng dẫn để việc tổ chức cải táng mộ phần được thuận lợi, hợp lý.

Công việc đầu tiên khi tổ chức cải táng là kiểm tra mộ và chọn thời gian cải táng. Đây những là bước quan trọng để xác định xem phần mộ có thể cải táng được không, thời gian nào “đẹp”, không xung sát để tránh gây hậu họa cho con cháu.

1./ Mộ kết và cách xác định mộ có "kết" hay không?

Việc phân biệt mộ thường (có thể bốc hay di dời) với những ngôi mộ kết (tuyệt đối không được di dời) cần phải hết sức cẩn trọng.

Mộ kết: Là mộ khi đặt vào vùng có trường khí tốt, đã quán Khí (tức là thu nhận được năng lượng của Địa Huyệt).

Gia đình có mộ kết thường là đang làm ăn phát đạt, con cháu học hành, công tác đều tốt. Bản chất của việc kết mộ hiện chưa có một tài liệu nào nói cho rõ ràng cả, song trong quá trình đi khảo sát hàng trăm ngôi mộ, có đưa ra nhận xét như sau: Thường là do phúc phận của dòng họ tới ngày thịnh phát nên có thể do chủ định (Nhờ thầy địa lý đặt mộ) hoặc do vô tình (thường là trường hợp Thiên táng rất bất ngờ) đặt được vào trúng “Long huyệt” (hay còn gọi là vùng có năng lượng tập trung). Không phải chỉ có những “Long mạch” khổng lồ kết Huyệt mới có mộ kết. Nhiều trường hợp chỉ có một “con Long” nhỏ cũng đủ để kết mộ và gia đình của có mộ làm ăn rất phát đạt .

Cách xác định mộ "kết"

Có nhiều cách để xác định một kết như cảm xạ, ngoại cảm, cảm nhận trường Khí... nhưng cũng có thể dễ dàng quan sát bằng mắt thường. Những ngôi mộ kết thường đất ngày càng nở ra, làm cho ngôi mộ cứ to dần, nhiều khi to như một cái gò. Mặt khác, cây cối trên và xung quanh ngôi mộ thường rất xanh tốt (đây là biểu hiện của vùng đất có Sinh Khí). Theo khảo sát một ngôi mộ kết tại Hà Tĩnh, người nhà đi thăm mộ, khi về vứt bỏ những đoạn thân của bó hoa cúc ra ven mộ, vài ngày sau những đoạn thân đó đã mọc ra những cây cúc hết sức tươi tốt. Người xưa cũng dùng phương pháp này để xác định Huyệt kết. Họ cắm những cành cây khô vào những phần đất nghi có mộ kết, nếu những cành khô đó nảy mầm xanh tốt thì gần như chắc chắn nơi đó có Huyệt kết.

Ngoài ra, có thể nhìn nhận một cách trực quan một ngôi mộ kết là những viên gạch, nhất là gạch men hay đá ốp vào mộ thường sáng bóng như có chùi dầu. Thông thường, các ngôi mộ ít chăm sóc lau chùi thường xuyên thường có bám một lớp bụi nhưng tại những ngôi mộ kết, ta thấy những viên đá hay gạch ốp vào luôn như vừa được chùi rửa sạch sẽ, sáng bóng. Một cách khác nữa là khi ngồi bên một ngôi mộ kết, ta cảm thấy như có một luồng hơi ấm áp, tràn đầy sinh lực thấm vào người, làm cho ta có cảm giác thoải mái, dễ chịu. Khi mộ kết, thông thường kết từ chân lên tới đầu, cũng có vài ngôi mộ do kết cấu của “Long mạch” và của mộ sẽ kết theo chiều ngược lại. Mộ kết có các dạng kết như kết mạng nhện, kết tơ hồng, kết băng, kết chu sa... Có các màu từ xám đến trắng, hồng, đỏ như chu sa là loại mạnh nhất.

Mộ kết có 2 loại:

Mộ kết: là mộ đại quan

Khi kết thì trong áo quan hình thành một màng trắng bao phủ thi hài. Màng này kín dần theo thời gian, dần dần kín hết bề mặt thân xác. Nếu khí vào trong áo quan thì lớp màng trắng này sẽ tiêu tan rất nhanh. Người khai mở nhãn thần có thể nhìn thấy màng trắng này trong mộ nằm sâu dưới đất.

Mộ phát: là mộ đã cải táng rồi, nay thấy trong tiểu sành có mầu hồng rực.

Mầu hồng càng rõ thì chứng tỏ mộ đang phát tốt. Người khai mở nhãn thần cũng nhìn thấy mầu này dưới tiểu sành.

Vì sao mộ kết phát?

Ngôi mộ Kết hoặc Phát thì phải có đồng thời 3 điều kiện:

Một là: Vùng đất tại mộ phải tụ Khí Trời

Hai là: Phải có hơi ẩm của nước. (Mộ đặt trên đỉnh đồi thi vừa bị tạt Khí vừa dễ không có nước).

Ba là: Người âm trong mộ ở cõi Trời đang thăng tiến, tức đang có năng lượng tâm linh cao. (Vì thế mà ngôi mộ kết thường có năng lượng cao hơn ngôi mộ bình thường, và do đó mộ kết sẽ có hiện tượng trương nở và cỏ trên mộ xanh tốt).

Khi gặp trường hợp mộ kết, tốt nhất là để nguyên không được dịch chuyển vì sẽ gây ra nhiều rắc rối trong cuộc sống của dòng họ. Nếu bắt buộc phải di dời vì lý do nào đó phải có những phương thức của Huyền môn và Phong thủy rất phức tạp

2./ Phân biệt mộ "kết" với mộ phạm “trùng”?

Một loại khác người ta thường hay nhầm với mộ kết là mộ bị phạm “trùng”.

Có nhiều loại trùng nhưng biểu hiện rõ nhất tại mộ là xác chôn qua nhiều năm không tan. Có những khu vực có hàng loạt mộ chôn tới hàng chục năm xác cũng còn gần như nguyên vẹn.

Nguyên nhân mộ phạm Trùng có thể do đặc điểm của khu vực đất bị bế Khí, có thể do người mất bị ung thư hay bệnh khác mà đưa vào người quá nhiều thuốc kháng sinh hay chất phóng xạ, còn một lý do nữa thường là phụ nữ, khi liệm quần áo bằng ni lon gây ra không có không khí để vi sinh vật trao đổi chất.

Khi gặp trường hợp này phải có phương pháp hóa giải theo chỉ dẫn của thầy phong thủy.

Theo các nhà phong thủy thì dựa vào ngày sinh, ngày mất ta có thể tra cứu Trạch Quẻ để xác định 4 hướng tốt, 4 hướng xấu, chọn các ngày tốt giờ tốt để di quan, hạ huyệt, để mong người chết lưu phúc lại cho con cháu.

3./ Những điều đại kị khi chôn mộ:

- Không chôn mộ nơi có nước đọng lại, có nghĩa là long mạch phải chảy, không bị cắt đứt, con cháu sẻ bị thận, hư răng, đau lưng, những bệnh không vận động sẽ phát sinh, chết bất đắc hay tuyệt tự, không con trai nối dõi.

- Không chôn mộ gần các cây lớn để rễ cây đâm vào hài cốt thì con cháu bị động, đau ốm. Có thể năm này thì rể cây chưa ăn vào nhưng các năm tiếp theo có thể bị. Trường hợp mộ bị động do thay đổi địa chất, rễ cây đâm vào, trâu bò đánh phá hoặc do nhiều tác nhân khác, chỉ cần tu sửa lại, sắm bát cơm quả trứng, chai rượu, vàng mã, quần áo mã và con ngựa mã, trầu nước hương đăng (có điều kiện thì lễ lớn hơn) tạ lễ thổ thần là được.

- Không chôn gần các nơi công cộng, khu vui chơi, bến xe, bến tàu, khu công nghiệp nặng, phần âm trạch sẽ bị nhiễu, con cái hư hỏng, học hành không đến nơi đến chốn, tù tội.

- Không nên đóng đinh, sắc thép vào quan tài, hoặc nếu nút áo của người chết bằng xương thú hay kim khí, cũng phải cắt bỏ, chứ không để nguyên như vậy mà chôn theo người chết. Con cháu điên khùng, ung thư.

- Mộ xây bằng bê tông cốt sắt mà bít kín mặt nấm sẽ tạo ra áp lực của nước, của khí. khi nhục thể bắt đầu thối rữa, phát sinh ra nhiệt, khiến con cháu bị huyết áp cao, tiểu đường, hay cholesterol.

- Bia mộ để dưới chân, Con cháu ngu đần, vất vả cơ hàn, nghèo đói.

- Long hổ giao nhau, núi đồi bên trái mộ và những gò đồi bên tay phải mộ, đụng vào nhau ở tiền án hay minh đường thì loạn luân, anh em dòng họ lấy nhau. (Như ngôi mộ nhà Trần kết phát 200 năm, nhưng gia tộc ruột thịt lấy nhau, vì sợ mất ngôi).

- Mộ nghịch long, tức là đầu mộ để dưới thấp, chân hướng về tổ sơn trên cao, con cháu loạn thần tặc tử, bất hiếu, bất trung.

- Mộ đang kết khí, kết thủy, kết mối mà bốc mộ dời đi: Con cháu suy sụp, chết bất đắc.

- Trùng táng hay trùng huyệt, tức là chôn nhằm chỗ mà trước đây đã có người chôn rồi; hoặc có xương thú như voi, trâu, bò: Con cháu bị bệnh nan y và chết trùng tang liên táng. Nghĩa là nhiều người chết liên tục trong vòng 3 năm.

- Trong gia đình có người chết trôi, chết nước phải lo đoạn nghiệp, vì sợ về sau sẽ có người chết chìm nữa.

- Địa lý âm trạch (về mồ mả) những trường hợp đặt sai hướng mộ, đặt sai huyệt vị, đặt sai ngày giờ, hoặc phạm xung sát… đều phát tác rất nhanh, có trường hợp phạm nặng, phát tác ngày trong vòng 3 ngày sau khi đặt mộ, chậm nhất sau 3 năm cũng đã phát tác.

- Kỵ nhất là huyệt là nơi đất đá, có chứa nhiều rác rưởi, hoặc có nguồn nước thải bị ô nhiễm. Đào lên ở đáy huyệt phải có mạch nước ngầm chảy dưới huyệt. Màu sắc của nước trong xanh, mùi thơm, tránh nước bị ô nhiễm hoặc nước có mùi hôi. Những huyệt ở đồng bằng, ruộng thì kỵ không có nước ở dưới huyệt.

Nếu muốn đổi vận phát tài phát phúc cho gia đình, phải chọn được ngôi đất mới thích hợp, Chú ý nhận biết nơi khởi đầu và kết thúc, dừng tụ của sơn mạch, thủy lưu điểm trúng kết huyệt, tìm kiếm phát hiện hình mạo hướng bối của long hổ triều ứng, để định huyệt vị tọa hướng, lại phải biết tuổi người chết có hợp để phù hộ lưu phúc cho con cháu hay không.

Tuyệt đối không nên động chạm nếu không gặp trường hợp phải di dời cho dự án chẳng hạn, không nên “Ma ngủ lại rủ ma dậy”.

5./ Lựa chọn những nơi đất chôn mộ tốt:

Dấu hiệu nhận biết huyệt cát:

- Nhập thủ đầy đặn: nhập thủ là nơi long mạch vào mộ. Nếu nơi đó hơi lồi như mu con rùa, đầy đặn, cỏ cây tươi tốt thì nên chọn để đặt mộ, gia chủ và con cháu sẽ phú quý.

- Màu sắc đất: sau khi đào thấy đất ở dưới mịn, có màu ngũ sắc, màu hồng vàng, màu son đậm, màu hồng có vân. Đất này gọi là " Thái cực biên huân".

- Đồi đất và dòng nước bao bọ: huyệt mộ nằm trong thế này được xem là huyệt quý. Để đảm bảo huyệt cát, khi đào huyệt thường dùng đất ngũ sắc, hoặc đất hồng sắc để chôn mộ, chôn tiểu quách. Ngoài ra, đất ngũ sắc và đất hồng sắc có tác dụng kết dính thành một khối khi gặp nước, đảm bảo huyệt mộ yên vị và không ngấm nước và trong quan.

- Ở các vùng nghĩa trang nơi quy tập nhiều mộ, thường bị tình trạng quá tải về diện tích, các mộ chen lấn nhau. Tránh huyệt bị các mộ xung quanh lấn chiếm, hoặc nằm án ngữ ngay trước phần mộ, hoặc đâm xuyên vào 2 bên cạnh mộ. Nếu chọn được huyệt phía trước rộng thoáng, lại nhìn ra ao hồ hay sông suối là đắc cách(tốt). Trường hợp đất đai quá hiếm không chọn được huyệt có phía trước thoáng rộng thì tối thiểu cũng phải có một khoảng đất trống nằm ngay phía trước huyệt mộ.

- Quan sát cẩn thận hệ thống đường đi xung quanh huyệt. Nếu huyệt có đường đi đâm thẳng vào giữa hoặc đâm xuyên sang hai bên thì gia chủ bị bại không thể dùng. Đường đi sát ngay phía sau huyệt cũng tối kỵ chủ tổn hại nhân đinh. Tốt nhất chọn huyệt nơi yên tĩnh xa cách với đường đi lối lại quanh khu vực mộ.

- Ở vùng núi non thì cần thẩm định huyệt theo những tiêu chí của địa lý chính tông. Huyệt cần được bao bọc có long hổ hai bên ôm lấy huyệt(hai đồi núi ôm lấy nhau, mộ ở phần giữa), phía sau có cao sơn che chắn, phía trước có minh đường thuỷ tụ…

Các bạn lưu ý rằng, nên nhờ một thầy chuyên gia có kinh nghiệm Phong Thuỷ chính tông tiến hành xem xét cẩn thận trước khi chôn, nếu không biết mà tự ý tiến hành thì sẽ dẫn đến những hậu qủa khó lường.

Nếu đã có nghĩa trang của dòng họ được thiết kế sẵn từ trước thì việc này rất đơn giản vì khi lập nghĩa trang đã có các Phong thủy sư tính toán cho rồi.

- Tầm Long tróc mạch - Xác định Huyệt Khí - Mua cuộc đất đã tìm được - Tính toán, phân kim sẵn, bao gồm các bước như xác định Loan đầu,Thiên Môn, Địa hộ, xác định vị trí kết Huyệt - Tính toán thời gian đặt mộ, độ sâu và phương đặt để đạt được Huyệt Khí Bảo Châu...

- Nhiều khu vực vì đã có đất hay nghĩa trang từ trước nhưng không tụ đủ Khí phải thực hiện việc dẫn Long về để tụ Khí tại cuộc đất đã chọn. Nói tóm lại những điều nói trên rất phức tạp và là chuyên môn của các Phong Thủy Sư. Một việc rất quan trọng là phải cân được phúc đức của dòng họ của mình. Phúc phận của dòng họ đó như thế nào phải đặt vào khu Địa Huyệt có năng lượng tương đồng mới có kết quả. Không vì khu đất kết Huyệt quá to, quá mạnh, quá nhiều đời mà đặt vào khi phúc phận của dòng họ chưa đủ.Thông thường những gia đình bình thường về phúc phận chỉ cần một con giun cũng đủ cho một cuộc sống bình an, ổn định, đâu có cần tới những con Long, những Huyệt kết đắc địa. Những Huyệt lớn chỉ sử dụng cho những vị to lớn, những dòng họ đã đủ phước báu do Thiên định mà thôi (như Võ Nguyên Giáp chẳng hạn).

- Phù Địa: Là mạch đất chỗ chôn mộ ngày càng nổi lên cao, do thủy tụ làm cho đất nở trương ra. ( Khác với phù sa là đất bồi do hiện tượng xâm thực của cuồng lưu.)

- Đất xốp: Nhẹ và mịn màng gần ao hồ, sông, bể. Huyệt đào lên thấy đất đỏ mịn như tròng đỏ hột gà.

6./ Chọn thời gian cải táng và quy tập mộ: 

Chọn lựa thời điểm để cải táng là một việc vô cùng quan trọng. Theo phong tục của người Việt Nam, người mất sau 3 năm thì cải táng, cũng là lúc con cháu mãn tang, tức là hoàn toàn hết để tang vong linh. Vì thế, việc cải tháng thường được tiến hành sau 3 năm chôn hung táng.

Tuy nhiên hiện nay, thực tế môi trường địa lý và khí hậu có nhiều thay đổi, các hoá chất được sử dụng nhiều trong đất để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Hiện tượng sau 3 năm xác người chết chưa phân huỷ diễn ra khá phổ biến nên nhiều gia đình lựa chọn giải pháp là để thời gian cải táng lâu từ 4 đến 5 năm để tránh hiện tượng trên.

Theo sách xưa để lại, thời gian tốt nhất trong năm để thực hiện cải táng là từ cuối Thu đến trước ngày Đông Chí của năm. Không ai làm đầu năm cũng như sau Đông Chí.

Việc chọn ngày bốc và di dời mộ cũng rất quan trọng. Theo lịch Âm, tháng đủ có 30 ngày, tháng thiếu có 29 ngày. Tuy lịch xếp là vậy nhưng trong việc chọn ngày không phải cứ giở lịch ra thấy ngày 29 hoặc 30 đã là hết tháng. Ta cần phải căn cứ vào 24 tiết khí hay chỗ nào hòa trực (tức là hai trực giống nhau nằm kề ngày nhau), lúc đó mới sang tháng khác. Bởi vậy, nhiều khi đã sang tháng mới theo lịch 5-7 ngày mà vẫn phải tính theo tháng cũ. Nên để ý là đầu tiết bao giờ cũng đi liền 2 trực giống nhau, một trực là ngày cuối tháng, một trực là ngày đầu tháng. 12 trực là: KIẾN - TRỪ - MÃN - BÌNH - ĐỊNH - CHẤP - PHÁ - NGUY - THÀNH - THÂU - KHAI - BẾ, mỗi ngày là một trực. Các trực tốt nên sử dụng như sau: Trực Thành, trực Mãn đa phú quý. Trực Khai, trực Thâu họa không vong (họa không tới). Trực Bình, trực Định hưng nhân khẩu.

Một lưu ý nữa là khi coi ngày là:

Coi đám cưới phải theo tuổi chú rể, coi làm nhà phải coi theo tuổi người chồng; cô dâu hay vợ là phụ thuộc nên không bị ảnh hưởng gì.

Coi ngày giờ tẩm liệm, chôn cất, bốc mộ thì phải coi theo tuổi của người chết.

Như vậy, năm để tiến hành cải táng phải lựa chọn theo tuổi của người đã mất, tránh những năm xung sát. Ngoài ra còn phải căn cứ theo tuổi của trưởng nam trong nhà vì trưởng nam là người phải gánh mọi sự may rủi.

Tuổi và ngày nên chọn theo Tam hợp, Lục hợp, Chi đức hợp, Tứ kiểm hợp. Tránh các ngày Lục xung, Lục hình, Lục hại.

Về Ngũ hành nên chọn ngày tương sinh hay tỷ hòa, tránh chọn ngày tương khắc.

Tùy theo tháng mà khi bốc hay di dời mộ cần phải tránh thêm các ngày Trùng tang, Trùng phục, Tam tang, Thọ tử Sát chủ, Nguyệt phá, Thiên tặc Hà khôi...

Trong thực tế, nhiều khi thời gian để cải táng rất hạn hẹp, ví dụ như năm Giáp Ngọ có tháng 9 nhuận nên hầu như toàn bộ thời gian làm mộ chỉ gói gọn trong tháng 10 Âm lịch (ngày 1/11 Âm lịch là ngày Đông Chí ).

Do vậy mà người ta có thể châm chước khá nhiều để có thể làm mộ trong tháng 10 âm lịch. Nếu so sánh ra ta thấy rằng: trong 2 trường hợp làm vào ngày tốt của tháng 9 và ngày xấu của tháng 10, ta vẫn chọn ngày xấu của tháng 10.

Đứng về Lý khí mà nói, điều đó lại là hiển nhiên. Ngày Đông Chí là ngày cực Âm và là ngày có khí Nhất Dương sinh ra. Đặt mộ phần trong thời gian trước Đông Chí là vì lý do đó. Sau Đông Chí, khí Dương ngày càng tăng và khí Âm ngày càng giảm.

>> Xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất!

>> Xem ngay VẬN HẠN 2016 mới nhất!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhận biết mộ “kết”, mộ “trùng” để chọn thời gian cải táng tránh họa tai

Bày đặt các vật dụng mang lại may mắn trong phòng –

Vật trang trí không chỉ có tác dụng làm đẹp cho căn nhà mà một số" vật trang trí còn có ý nghĩa may mắn, có thể làm tăng không khí vui vẻ, náo nhiệt. Do đó, rất nhiều gia đình thích bày vật trang trí may mắn trong nhà mình. Đặc biệt là tam tinh “Phúc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vật trang trí không chỉ có tác dụng làm đẹp cho căn nhà mà một số” vật trang trí còn có ý nghĩa may mắn, có thể làm tăng không khí vui vẻ, náo nhiệt. Do đó, rất nhiều gia đình thích bày vật trang trí may mắn trong nhà mình. Đặc biệt là tam tinh

phuc-loc-tho-phong-thuy-tam-da

“Phúc”, “Lộc”, “Thọ”, ba vật trang trí bằng sứ này có khuôn mặt hiền hậu, để trong nhà có thể tăng thêm may mắn. Thực ra, “Phúc”, “Lộc”, “Thọ” ngoài làm bằng sứ ra thì còn có loại vẽ trên giấy.

Bất kể là bày tượng tam tinh hay treo tranh tam tinh thì vẫn phải chú ý một số điểm: đầu tiên là tượng hay tranh tam tinh không thể đặt đối diện với cửa lớn, cũng không thể đặt đối diện với cửa sổ lớn, vị trí lý tưởng nhất là đặt đối diện với chiếc ghế sopha dài trong phòng khách, hoặc mặt hướng về bàn ăn trong nhà bếp, nói cách khác là nên đặt ở những nơi khách đến chơi có thể dễ dàng nhìn thấy. Thứ hai là tượng tam tinh phải luôn được lau chùi sạch sẽ, không được để bám bụi, nếu treo tranh cũng phải thường xuyên dùng chú ý phủi bụi.

Tiếp theo, ngoài tam tinh ra thì còn có những vật trang trí khác cũng mang ý nghĩa may mắn, như tranh công, phượng hoàng, rồng, sư tử may mắn đều là vật tượng trưng cho sự may mắn, rất phù hợp cho mọi ngưòi bày trong nhà.

Cũng có những người thích trải da báo, treo đầu thú, sừng trâu, mai rùa, mai đồi mồi ở phòng khách. Những năm gần đây, lại có người thích treo quạt gấp giấy cỡ lớn, dao dĩa bằng gỗ, thậm chí có cả dao cửa khẩu, dao dùng trong quân đội Nhật. Những vật nói trên đều có ý nghĩa tàn bạo, không phải nhà nào cũng thích hợp dùng để trang trí, đặc biệt là đốì với nhà có phụ nữ mang thai thì trải da hổ, da báo càng không có lợi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bày đặt các vật dụng mang lại may mắn trong phòng –

Xem bói tình yêu của người tuổi Ngọ

Khác hẳn với các cô gái tuổi Hợi dịu dàng và ôn hòa, những cô gái tuổi Ngọ khá mạnh mẽ. Các nàng tuổi Ngọ cũng không phải là người tôn thờ tình yêu kiểu
Xem bói tình yêu của người tuổi Ngọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nàng tuổi Ngọ yêu

Khác hẳn với các cô gái tuổi Hợi dịu dàng và ôn hòa, những cô gái tuổi Ngọ khá mạnh mẽ. Các nàng tuổi Ngọ cũng không phải là người tôn thờ tình yêu kiểu "một túp lều tranh hai trái tim vàng". Họ có quan niệm rất thực tế trong tình yêu và hôn nhân tuy rằng cũng mong muốn có được tình yêu thủy chung. Vì luôn đòi hỏi cao về điều kiện vật chất nên nếu chàng trai nào có thể trở thành chỗ dựa vững chắc cho họ trong suốt cuộc đời, họ sẽ trao gửi trái tim mình cho người đó.
 

12 chom sao khi yeu
 
Chàng tuổi Ngọ yêu Khác với các cô gái tuổi Ngọ, các chàng trai tuổi Ngọ thường có vẻ thiếu thực tế trong chuyện tình cảm. Họ cũng giống các chàng trai tuổi Mão, tuổi Hợi, không giỏi thể hiện tình cảm với người mình yêu, thậm chí, đôi khi họ tỏ ra khá vụng về, lúng túng. Khi còn trẻ, nam giới tuổi Ngọ thường tỏ ra hiền lành, nhút nhát nhưng khi trưởng thành, họ lại trở nên rất phong độ. Họ được nhiều cô gái trẻ theo đuổi.

(12 con giáp về tình yêu và hôn nhân)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tình yêu của người tuổi Ngọ

Có thể tin hay không chuyện giết người bằng ánh mắt ?

Giết người bằng ánh mắt - Sức mạnh sát nhân của ánh mắt thật ra được nhiều người biết đến từ lâu. Mời bạn đọc cùng tìm hiểu
Có thể tin hay không chuyện giết người bằng ánh mắt ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Đôi mắt rất quen thuộc với con người nhưng khả năng kì lạ của mắt thì mới đây các nhà khoa học mới khám phá ra.


► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật


Giet nguoi bang anh mat - chuyen that nhu dua (phan 2) hinh anh
 

3 - Đôi mắt sát nhân - Giết người bằng ánh mắt

Nhà khoa học chuyên nghiên cứu các hiện tượng dị thường người Nga Igor Vinokurov, trong một cuốn sách đã kể lại câu chuyện ly kỳ sau: tại một viện nghiên cứu thuộc Cơ quan điều tra hình sự Matxcơva, ông trưởng phòng nổi tiếng là khó tính và coi thường cấp dưới bỗng đột ngột qua đời. 
 
Cuộc điều tra cho thấy vào hôm đó, ông ta khiển trách gay gắt một nhân viên dưới quyền. Người này im lặng nhưng đã nhìn thẳng vào mặt ông ta với vẻ dữ dội khiến ông bất thình lình ngã gục, đập đầu xuống bàn rồi tắt thở. Cảnh sát không thể tìm ra nguyên nhân cái chết bởi trước đó, ông này hoàn toàn khỏe mạnh. 
 
Chuyên gia giải phẫu bệnh lý sau khi mổ tử thi cho biết, trái tim của người chết dường như đã bị ai đó nắm lấy và bắt nó ngừng đập, tương tự như với quả lắc của đồng hồ. Mọi người chỉ còn biết nghi ngờ cái nhìn căm thù của người cấp dưới là nguyên nhân khiến ông trưởng phòng thiệt mạng. 
 
Sức mạnh “sát nhân” của ánh mắt thật ra được nhiều người biết đến từ lâu. Năm 1553, nhà khoa học nổi tiếng khắp châu Âu là Corneniut Agrip đã viết trong tác phẩm “Nhãn khoa”: “ở Tactari, Ilirin và Tariban có những phụ nữ có thể làm hại tất cả những ai mà họ nhìn trong lúc giận dữ”. 
 
Một trường hợp gây chấn động xảy ra tại Paris vào thế kỷ 19, dưới thời đế chế 2. Ca sĩ Massol là người rất thành công trên sân khấu opera thời đó. Ông không chỉ có giọng hát tuyệt hay mà còn nổi tiếng vì ánh mắt long lanh khác thường. Một hôm như thường lệ, ông hát khúc Aria trong vở opera “Lời nguyền” của nhạc sĩ Halevy, cặp mắt của Massol ngước lên phía mái rạp, bỗng người thợ máy đang di chuyển phông màn trên đó ngã nhào xuống sân khấu và chết ngay tức khắc. 
 
Trong lần biểu diễn khác, ánh mắt ông tình cờ dừng lại hơi lâu chỗ người nhạc trưởng. Người này ngay lập tức cảm thấy nôn nao khó chịu và hai ngày sau thì chết vì một cơn rối loạn thần kinh khác thường. Lần thứ ba, Massol được khuyên nên nhìn vào lô ghế trống trong góc khán phòng khi biểu diễn. Nhưng không ngờ, lô ghế trống hôm đó là chỗ đã được đặt trước bởi một thương nhân đến muộn. Ông này cũng lăn ra chết vào ngày hôm sau. Sau một loạt những sự việc bi thảm đó, Massol đã quyết định từ bỏ sân khấu. 
 

4- Quan điểm của các nhà khoa học

Theo tiến sĩ sinh học Grant Demirchoglian – Viện sĩ Thông tấn Viện hàn lâm Khoa học tự nhiên Nga, những công trình nghiên cứu mới đây nhất của ngành nhãn khoa đều chứng tỏ rằng: con mắt – cũng như bất kỳ một hệ thống quang điện tử nào – không những có thể thu nhận mà còn phát xạ các tín hiệu. 
 
Bản thân cấu tạo của nhãn cầu và võng mạc mắt cũng gợi cho người ta liên tưởng tới một chiếc gương parabol có khả năng phản hồi các tia xạ. Các tia phát xạ phản hồi từ mắt là loại sóng ngắn nên có tác dụng xuyên thấu tựa như tia rơn-ghen hay laser. Nó có thể tác động đến hệ thần kinh trung ương, cũng như hoạt động của toàn bộ cơ thể. 
 
Ai cũng biết là trên tròng đen của mắt có những điểm chịu trách nhiệm về hoạt động của tất cả các cơ quan bên trong. Nếu phóng một tia laser hẹp vào một khu vực nào đó của tròng đen, chẳng hạn vào khu vực của tim, có thể làm tim ngừng đập. 
 
Những nhà Yoga đã từng biểu diễn khả năng uốn cong một vật bằng “nhãn lực” khi nhìn chăm chú vào nó. Nếu có thể chứng minh được các tia phát xạ từ mắt cũng có bản chất tương tự như tia laser, chúng ta có thể tin được về sự tồn tại của các nhân vật trong các truyện viễn tưởng có khả năng tiêu diệt hay đốt cháy kẻ thù chỉ bằng cái nhìn.
 
Để có thể khám phá bí mật của cái nhìn, tiến sĩ Gion Prat và nhà vật lý kiêm nhà tâm lý học Airon Stevenson thuộc đại học Tổng hợp Devengerxki (bang Corolado – Mỹ) đã tiến hành khoảng 800 thí nghiệm. Kết quả là các ông đã phát hiện tới 90% trường hợp trong số những người được thí nghiệm có khả năng dùng mắt phát ra các bức xạ kỳ lạ mang năng lượng sinh học. 
 
Những bức xạ ấy nếu nằm trong dải sóng milimet với tần số cực cao thì có thể gây tác động vật lý lên mọi vật xung quanh tạo nên những hệ quả rõ rệt. Vì vậy, chúng ta đừng coi thường sự tác động đó, đôi lúc, mắt có sức mạnh khôn lường.
ST

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có thể tin hay không chuyện giết người bằng ánh mắt ?

Táng huyệt vào long mạch - muốn cát phải chuẩn

Bát long là 8 loại long mạch ở 8 hướng theo bát quái. Sau đây là phương pháp sắp xếp các loại long mạch theo thuyết âm dương ngũ hành, rất thiết thực trong
Táng huyệt vào long mạch - muốn cát phải chuẩn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bát long là 8 loại long mạch ở 8 hướng theo bát quái. Sau đây là phương pháp sắp xếp các loại long mạch theo thuyết âm dương ngũ hành, rất thiết thực trong việc xác định huyệt cát để an táng.


► ## gửi đến bạn đọc công cụ xem thước lỗ ban online, xem hướng nhà theo tuổi chuẩn xác

Tang huyet vao long mach - muon cat phai chuan hinh anh
 
Dương Hỏa cục: Long mạch ở dưới hướng Bính (hướng số 12 – hướng Nam lệch Đông Nam) tụ khí kết huyệt, phải quay đầu về hướng Dần (hướng 5 – Đông Bắc lệch Đông). Dòng nước từ hướng Ất (hướng 8 – Đông lệch Đông Nam) bao bọc ngoài minh đường chảy đến hướng Tuất (hướng 21 – Tây bắc lệch Tây).
 
Âm Hỏa cục: Long mạch ở hướng Ất (hướng 8) kết huyệt, phải quay đầu về hướng Ngọ (hướng 13 – chính Nam). Dòng nước từ hướng Bính bao bọc ngoại minh đường đến hướng Tuất thì chảy đi. Dòng nước từ hướng Đông Nam (hướng Tốn) phải hợp Thủy cục Thân, Tý, Thìn, tức Nhâm long hoặc Tân long.
 
Dương Thủy cục: Long mạch ở hướng Nhâm (hướng 24) kết huyệt phải quay đầu về hướng Thân (hướng 17). Dòng nước từ hướng Tân (hướng 20) bao bọc ngoại minh đường, chảy đến hướng Thìn (hướng 9) thì chảy đi.
 
Âm Thủy cục: Long mạch ở hướng Tân kết huyệt phải quay đầu về hướng Tý (hướng 1 chính Bắc). Dòng nước từ hướng Nhâm (hướng 24) bao bọc ngoại minh đường chảy đến hướng Thìn (hướng 9) thì chảy đi. Dòng nước từ Tây Nam chảy đi: hướng Khôn phải hợp với Mộc cục Hợi, Mão, Mùi tức Giáp long, hoặc Quý long.
 
Dương Mộc cục: Long mạch ở hướng Giáp (hướng 6) kết huyệt phải quay đầu về hướng Hợi (hướng 23). Dòng nước từ hướng Quý (hướng 2) bao bọc ngoại minh đường,  đến hướng Mùi (hướng 15) thì chảy đi.
 
Âm Mộc cục: Long mạch ở hướng Quý (hướng 2) kết huyệt phải quay đầu về hướng Mão (hướng 7). Dòng nước từ hướng Giáp (hướng 6) bao bọc ngoại minh đường, đến hướng Mùi (hướng 15) thì chảy đi.
 
Dương Kim cục: Long mạch ở hướng Canh (hướng 18) kết huyệt phải quay đầu về hướng Tỵ (hướng 11), dòng nước từ hướng Đinh bao bọc ngoại minh đường chảy đến hướng Sửu (hướng 3) thì chảy đi.
 
Âm Kim cục: Long mạch ở hướng Đinh (hướng 14) kết huyệt phải quay đầu về hướng Dậu (hướng 19), dòng nước từ hướng Canh bao bọc minh đường chảy đến hướng Sửu (hướng 3) thì chảy đi.
Theo Bí ẩn thời vận
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Táng huyệt vào long mạch - muốn cát phải chuẩn

Câu chuyện luân hồi: Hòa thượng một niệm bất chính hủy đi cơ duyên cả đời tu luyện

Những câu chuyện luân hồi thật kỳ lạ, nhân duyên khiến cho người ta phải gặp lại nhau, dù là thiện duyên hay ác duyên cũng vậy, hãy cứ vui vẻ mà đối diện.
Câu chuyện luân hồi: Hòa thượng một niệm bất chính hủy đi cơ duyên cả đời tu luyện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có bao giờ bạn suy nghĩ rằng người thân, bạn bè, những người mà bạn gặp trong cuộc đời này là ngẫu nhiên không? Tại sao đó không phải là một người khác? Thực ra những quan hệ xã hội trong hiện tại tất cả đều dựa trên tiền duyên. Tiền duyên có một mối liên hệ mật thiết với sự luân hồi hay chuyển sinh mà Phật gia hay nói tới.

Hòa thượng Hoa Nghiêm là một đồ đệ của Thần Tú, ông tổ Bắc Phái của Thiền Tông. Ông từng tu hành tại Thiên Cung Tự thuộc Lạc Dương, Hà Nam, nơi ông dẫn dắt hơn 300 đồ đệ tu hành. Có một quy tắc nghiêm ngặt ở trong chùa là tất cả đồ đệ phải sắp xếp tề chỉnh bình bát (bát khất thực) của mình ra trước khi bữa ăn được phục vụ.

Một hòa thượng trong số các đồ đệ của Hoa Nghiêm ở tầng tu luyện cao hơn tất cả những người khác. Tuy vậy, ông lại rất hẹp hòi và cáu kỉnh. Một lần, vị hòa thượng này không dùng bữa cùng những hòa thượng khác vì ông đang ốm.

Một hòa thượng, người mới vào chùa đã để mất chiếc bát, tới để gặp vị này. Anh bái lạy và nói: “Tôi không có bát để ăn cơm. Tôi không biết phải làm sao nếu không có chiếc bát. Tôi băn khoăn không biết ông có thể vui lòng cho tôi mượn chiếc bát của ông hôm nay không. Tôi sẽ đi mua một chiếc mới vào ngày mai”.

Vị hòa thượng kia từ chối không cho anh ta mượn chiếc bát. Ông đáp: “Tôi đã dùng chiếc bát này vài chục năm rồi. Tôi sợ anh sẽ vô tình làm vỡ nó”. Vị hòa thượng tập sự van nài: “Tôi chỉ dùng nó cho bữa hôm nay thôi, rồi sẽ trả lại ông ngay. Làm sao tôi có thể làm vỡ nó khi tôi chỉ cầm nó trong chốc lát thôi?”

Sau khi cam đoan nhiều lần, vị hòa thượng kia cuối cùng đã cho anh ta mượn chiếc bát. Trước khi ông đưa chiếc bát, ông đã cảnh báo: “Tôi trân quý chiếc bát này còn hơn cả mạng sống của tôi. Nếu anh làm hư hỏng chiếc bát, anh đã thực sự giết tôi đấy!”

Vị hòa thượng trẻ cầm lấy chiếc bát, và anh giữ nó một cách cẩn thận bằng cả hai tay. Ngay khi anh vừa ăn xong và sẵn sàng trả chiếc bát, anh đã bắt đầu vội vội vàng vàng từ trong phòng. Vị hòa thượng tập sự này cầm chiếc bát và chạy xuống cầu thang từ nhà ăn. Không may, anh vấp vào một viên gạch và ngã xuống. Chiếc bát vỡ tan tành. Sau một lúc, vị hòa thượng kia bắt đầu thúc giục anh trả lại ông chiếc bát.

Vị hòa thượng mới này rất sợ sệt, nhưng anh không còn cách nào khác ngoài đến gặp vị hòa thượng kia và nhận lỗi. Anh xin lỗi bằng cách liên tục khấu đầu, nhưng vị hòa thượng kia gào lên: “Giờ anh đã thực sự giết tôi rồi đó!” Ông nổi trận lôi đình và không ngừng la mắng và chửi rủa độc ác. Vì biến cố này, sức khỏe của ông xấu đi nhanh chóng. Ông qua đời vào ngày hôm sau.

Một thời gian sau biến cố này, hòa thượng Hoa Nghiêm có một buổi giảng kinh tại chùa Nhạc Tự ở trên Tung Sơn cho hơn 100 đồ đệ, bao gồm cả vị hòa thượng tập sự kia. Đột nhiên, một âm thanh giống như một cơn bão ập tới từ thung lũng phía ngoài ngôi chùa.

Hòa thượng Hoa Nghiêm bèn bảo vị hòa thượng tập sự sang đứng bên cạnh ông. Ngay sau đó, một con rắn khổng lồ dài cỡ 8-9 trượng và đường kính cỡ 4-5 cánh tay bò vào trong chùa với một cái nhìn đầy phẫn nộ và miệng há to. Tất cả hòa thượng đứng xung quanh Hoa Nghiêm đều muốn trốn đi, nhưng Hoa Nghiêm đã ngăn họ lại, và yêu cầu họ đừng cử động.

Con rắn khổng lồ bò một cách chậm chạp vào giảng đường. Khi leo lên cầu thang, nó bắt đầu nhìn quanh và cố tìm kiếm thứ gì đó hay ai đó. Hòa thượng Hoa Nghiêm đứng chặn đường nó với một cây tích trượng và hô: “Dừng lại!” khi con rắn định bò lên ghế trong giảng đường. Con rắn khổng lồ bỗng cúi đầu xuống và nhắm mắt lại.

Hòa thượng Hoa Nghiêm bắt đầu quở mắng con rắn, gõ vào đầu nó bằng cây tích trượng và nói: “Giờ ngươi đã minh bạch được nghiệp mà ngươi đã tạo ra hay chưa. Ngươi nên hồi hướng Tam bảo”. [Chú thích: ‘Tam bảo’ là một ẩn dụ trong Phật giáo.] Ông yêu cầu tất cả hòa thượng ở đó cùng nhau niệm kinh Phật hướng về con rắn, và con rắn bò ra khỏi chùa.

Hòa thượng Hoa Nghiêm bèn triệu hồi vị hòa thượng tập sự tới và nói: “Con rắn đó là thầy của con (vị hòa thượng đã chết). Sau nhiều năm tu hành, ông ấy đã gần đạt chính quả. Tuy nhiên, ông ấy đã nổi giận chỉ vì chiếc bát đó. Thay vì tu thành chính quả, ông ấy đã chuyển sinh thành một con đại mãng xà. Ông ấy tới để giết con vì con đã làm vỡ chiếc bát. Nếu thật sự giết con, ông ấy sẽ phải xuống ngục vô gián, và bị chịu dày vò mãi mãi ở trong đó. May mắn thay, ta đã chặn ông ấy gây tội ác đúng lúc, và giải thoát ông ấy khỏi kiếp sống của con đại mãng xà. Bây giờ con nên đi xem ông ấy ra sao”.

Người đệ tử bèn đi ra và tìm kiếm con đại mãng xà. Thật là dễ dàng để lần theo dấu vết của con rắn dựa vào các đám cây cỏ bị đổ rạp khi nó bò qua. Bước đi theo vết bò của con rắn giống như bước đi trên một con đường trải dành cho xe ngựa kéo. Con rắn đã bò được 45 lý vào một vùng sơn cốc rất hẻo lánh trước khi nó tự vẫn bằng cách đập đầu vào một tảng đá. Người đệ tử trở về và báo với hòa thượng Hoa Nghiêm về điều đã xảy ra với con rắn.

Hòa thượng Hoa Nghiêm nói: “Bây giờ con rắn đã chuyển sinh thành đứa con gái sắp sinh của Bùi lang trung. Đứa bé gái này mười phần thông tuệ, nhưng lại chết yểu vào tuổi 18. Và rồi cô lại sẽ được đầu thai thành một đứa bé trai, sẽ xuất gia và tu hành theo Phật giáo khi lớn lên. Bùi lang trung là một trong những đồ đệ của ta. Con có thể tới thị trấn và thăm hỏi Bùi lang trung giùm ta. Phu nhân của Bùi lang trung đang gặp khó khăn khi sinh nở. Con nên đi ngay lập tức và giúp đỡ đứa bé gái.”

Ông Bùi Khoan là một vị lang trung phục vụ trong quân đội. Ông cũng là một đồ đệ của hòa thượng Hoa Nghiêm. Vị hòa thượng tập sự đi vào thành, và bái kiến gia đình ông Bùi Khoan. Tình cờ, ông Bùi đang xin nghỉ phép ở nhà để chăm sóc phu nhân. Người đệ tử bèn nhờ người hầu chuyển giúp lời tới ông Bùi: “Hòa thượng Hoa Nghiêm có chuyển lời tới ông!”

Vị lang trung bèn đi ra ngoài để gặp người đệ tử; trông ông khá bối rối. Người đệ tử hỏi lý do và biết được rằng phu nhân của ông đã bị đẻ khó từ sáu đến bảy ngày. Ông Bùi đã ở bên phu nhân của ông mỗi đêm với cây đèn dầu. Dường như bà và đứa bé đang trong tình trạng rất nguy kịch.

Người đệ tử nói: “Tôi có thể giúp đỡ phu nhân”. Người đệ tử yêu cầu trải một tấm chiếu sạch ở nhà ngoài bên cạnh buồng ngủ. Người đệ tử bèn ngồi lên tấm chiếu, đốt hương, gõ khánh, và kêu lên ba lần: “Hòa thượng.”

Phu nhân của ông Bùi lập tức sinh hạ được một đứa bé gái. Đứa bé gái này qua đời vào tuổi 18 đúng như hòa thượng Hoa Nghiêm đã dự báo.

Những câu chuyện luân hồi thật kỳ lạ, nhân duyên khiến cho người ta phải gặp lại nhau, dù là thiện duyên hay ác duyên cũng vậy, hãy cứ vui vẻ mà đối diện. Hy vọng rằng bạn sẽ có được cảm hứng từ câu chuyện này và nhận ra được tầm quan trọng của việc đối xử với những người chúng ta gặp bằng một trái tim từ thiện.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Câu chuyện luân hồi: Hòa thượng một niệm bất chính hủy đi cơ duyên cả đời tu luyện

Luận giải vận số của người tuổi Dậu theo ngày sinh

Người tuổi Dậu sinh vào ngày Tý trong đời sẽ gặp nhiều điều may mắn, vui vẻ. Tuy nhiên, do bị sao Cẩu Giảo chiếu mệnh nên nếu theo nghiệp kinh doanh khó phát
Luận giải vận số của người tuổi Dậu theo ngày sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sinh ngày Tý: Người tuổi Dậu sinh vào ngày này trong đời sẽ gặp nhiều điều may mắn, vui vẻ. Tuy nhiên, do bị sao Cẩu Giảo chiếu mệnh nên nếu theo nghiệp kinh doanh khó phát đạt.

(Ảnh minh họa)

  Sinh ngày Sửu: Người tuổi Dậu sinh vào ngày này cuộc đời thường ít may mắn, sự nghiệp không ổn định, mọi sự khó thành.

Sinh ngày Dần: Sinh ngày này, người tuổi Dậu có số may mắn, mỗi khi lâm nguy thường được người khác cứu giúp. Tuy nhiên, cần đề phòng bệnh tật, ốm đau triền miên.

Sinh ngày Mão: Người tuổi Dậu sinh vào ngày này vận số không tốt, hay bị tiểu nhân quấy phá gây hao tổn. Gia đình không yên ổn, dễ gặp thử thách, sóng gió.

Sinh ngày Thìn: Người tuổi Dậu sinh vào ngày này được sao Tử Vi chiếu mệnh nên trong đời mọi việc đều diễn ra thuận lợi, thành công. Có lúc gặp khó khăn, nguy khốn nhưng đều được quý nhân phù hộ.

Sinh ngày Tỵ: Ngày này có sao Bạch Hổ chiếu mệnh nên người tuổi Dậu sẽ bị phá tài, trong đời gặp nhiều tai họa. Nên cẩn trọng trong sự nghiệp và cuộc sống gia đình.

Sinh ngày Ngọ: Người tuổi Dậu sinh vào ngày này thường có vận số may mắn, cuộc sống vui vẻ, mọi việc thuận lợi, thành công dễ dàng, lại được sao Phúc Tinh soi chiếu nên luôn được che chở, độ trì.

Sinh ngày Mùi: Là người đôn hậu, hòa nhã, thành thực nhưng lại có số phận cô đơn; cuộc sống thanh nhàn, đạm bạc.

Sinh ngày Thân: Sinh vào ngày này thường là người có tính cách mạnh mẽ, nhiều lúc hung hăng, vận số thăng trầm, phải biết nhẫn nại chờ đợi thời cơ mới có thể gây dựng đại nghiệp.

Sinh ngày Dậu: Người tuổi Dậu sinh vào ngày này thường có dáng hình đầy đặn, thân thể khỏe mạnh, tính cách ôn hòa, rộng lượng; danh lợi song toàn.

Sinh ngày Tuất: Sinh ngày này là người thiếu thực tế, hay chạy theo hư vinh, sống xa xỉ, phung phí, bản mệnh không tốt, hay gặp vận đen.

Sinh ngày Hợi: Người tuổi Dậu sinh ngày Hợi thường trọng nghĩa. Số có tài vận và sự nghiệp phát đạt. Nhưng nếu bị thất bại cuộc đời sẽ đi xuống nhanh chóng.

(Theo Nhân duyên & tướng cách đàn bà)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải vận số của người tuổi Dậu theo ngày sinh

Tránh nguy cơ bị sa thải bằng thuật phong thủy nơi làm việc

Theo phong thủy học, một số vị trí làm việc không tốt không những ảnh hưởng đến việc phát triển sự nghiệp của bạn mà thậm chí còn có thể dẫn đến nguy cơ khiến bạn bị sa thải. Dưới đây là một số nguyên tắc bạn nên tuân thủ để đảm bảo sự nghiệp của mình luôn được vững vàng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Không nên ngồi ở vị trí đối diện với cửa chính, nếu không sẽ bị nguồn năng lượng và luồng khí bên ngoài xông thẳng vào phòng làm ảnh hưởng đến việc tư duy hoặc sinh bệnh tật, làm ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc của bạn.  
- Chỗ ngồi không nên quay lưng ra cửa lớn hoặc lối đi, cần phải có điểm tựa, nếu không sẽ khiến tinh thần mệt mỏi, không thể tập trung làm việc, lâu dần sẽ ảnh hưởng đến công việc và sức khỏe.

- Trước chỗ ngồi không được sát vào tường, nếu không sẽ gây ra áp lực công việc.

- Trước chỗ ngồi làm việc tốt nhất không nên có người qua lại, nếu không sẽ gây ảnh hưởng đến tâm lý, ngoài ra còn gây ảnh hưởng đến công việc vì phân tán sự tập trung.

- Chỗ ngồi không được đối diện với cửa nhà vệ sinh, nếu không sẽ vì hít phải quá nhiều mùi ô uế mà ảnh hưởng đến sức khỏe.

- Cạnh chỗ ngồi không nên có bồn rửa tay bởi nước chảy qua sẽ ảnh hưởng đến trường khí, đồng thời có thể làm mất cân bằng hệ thần kinh.

- Cạnh chỗ ngồi làm việc không nên để thùng rác lớn hoặc đồ đạc linh tinh. Tránh xa những loại khí uế thì những điều may mắn, cát lợi mới có thể đến với bạn.
 
- Chỗ ngồi không được quá tối hoặc không có cửa sổ, ánh sáng quá yếu, sẽ gây ra “âm khí quá nặng”, khiến người ngồi làm việc trở nên bi quan, có thái độ tiêu cực, chán ghét làm việc.

- Chỗ ngồi làm việc không được đối diện với nhà bếp. Nhà bếp là nguồn gốc của hỏa khí, nếu ở gần sẽ ảnh hưởng đến hệ thần kinh và tâm lý, cũng sẽ ảnh hưởng đến khả năng tư duy của con người.
(Theo Xzone)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tránh nguy cơ bị sa thải bằng thuật phong thủy nơi làm việc

Xem tướng cho người có đường chỉ tay chằng chịt –

Ai cũng mong cuộc sống của bản thân "thuận buồm xuôi gió", tuy nhiên không phải ai sinh ra cũng may mắn có số phận bình an. Những người có đôi bàn tay như thế này thường vất vả cả đời, bôn ba đó đây. Đường chỉ tay dài và chằng chịt Nếu trên lòng bàn
Xem tướng cho người có đường chỉ tay chằng chịt –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng cho người có đường chỉ tay chằng chịt –

Trồng cây phong thủy theo tuổi –

Có rất nhiều cách chiêu tài, giữ tài, trong đó mọi người có thể bày cây phong thuỷ để thu hút tài vận. Tùy vào từng con giáp bản mệnh mà có từng loại cây may mắn khác nhau. Chọn đúng cây phong thuỷ cho từng con giáp giúp bạn tăng cường tài vận trong

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có rất nhiều cách chiêu tài, giữ tài, trong đó mọi người có thể bày cây phong thuỷ để thu hút tài vận. Tùy vào từng con giáp bản mệnh mà có từng loại cây may mắn khác nhau. Chọn đúng cây phong thuỷ cho từng con giáp giúp bạn tăng cường tài vận trong sự nghiệp và mang lại may mắn trong cuộc sống.

Nội dung

  • 1 Tuổi Tý
  • 2 Tuổi Sửu
  • 3 Tuổi Dần
  • 4 Tuổi Mão
  • 5 Tuổi Thìn
  • 6 Tuổi Tỵ
  • 7 Tuổi Ngọ
  • 8 Tuổi Mùi
  • 9 Tuổi Thân
  • 10 Tuổi Dậu
  • 11 Tuổi Tuất
  • 12 Tuổi Hợi

Tuổi Tý

Cây mang lại tài vận: Cây Kim Tiền

Những người tuổi Tý đa phần không biết cách quản lý tiền bạc, nhưng họ luôn có ý thức tích lũy tiền bạc và tiết kiệm. Họ không am hiểu đầu tư, thường không nắm bắt được cơ hội kiếm tiền.

Người tuổi Tý nếu có thể đặt một chậu Kim Tiền trong nhà riêng sẽ giúp họ nhận được nhiều may mắn. Đồng thời tăng thêm tinh thần mạo hiểm, giúp người này dũng cảm đương đầu thách thức để nắm bắt những cơ hội phát tài.

Tuổi Sửu

Cây mang lại tài vận: Cây dứa cảnh nến

Nếu người tuổi Sửu trồng một chậu Cây dứa cảnh nến trên bàn làm việc sẽ mang vận tài lộc đến cho họ.

Tên thường gọi: Cây dứa cảnh nến (cây dứa cảnh lệ, cây dứa cánh sen, cây ngôi sao đỏ, cây ngọn lửa đỏ, cây phong lộc hoa).


Người tuổi Sửu chịu được vất vả, làm việc theo hướng thực tế, là người trung thực nhưng tương đối bảo thủ, mỗi ngày làm việc chỉ kiếm được một ít tiền.

Những người tuổi này nên đặt chậu dứa cảnh nến ở bên trái bàn làm việc để trợ giúp bạn kiếm được nhiều tiền hơn, mà bạn cũng sẽ cảm thấy thoải mái hơn.

Tuổi Dần

Cây mang lại tài vận: Cây Ngũ gia bì

Người tuổi Dần dám đương đầu với nguy hiểm, biết cách kiếm tiền. Nhưng thực tế thì họ không quá coi trọng tiền tài, mà chỉ thích quá trình kiếm ra nó. Đôi khi người tuổi này có chút nóng vội, hấp tấp dẫn đến nguy cơ cạn kiệt tiền tài.

Nếu người tuổi Dần trồng một chậu ngũ gia bì trong phòng khách sẽ giúp cho con đường tài vận của họ ổn định, phát triển thuận lợi; đồng thời giúp họ củng cố tài vận, giữ được tiền bạc không tiêu biến.

Tuổi Mão

Cây mang lại tài vận: Cây Trúc phú quý (cây phát lộc)

Người tuổi Mão không biết mẹo kiếm tiền, đối với chuyện tiền tài có chút bảo thủ. Vì vậy, tiền họ kiếm được thường ít và chậm hơn, cơ hội phát tài cũng không dễ dàng.

Người tuổi Mão nên đặt cành phát lộc trên tủ lạnh( chú ý là phải để số lẻ) để giúp tài vận của họ được thịnh, kiếm tiền nhanh hơn, nhiều hơn.

Tuổi Thìn

Cây mang lại tài vận: Cây xương rồng và cây vạn niên thanh

Đường tài vận của người tuổi Thìn vô cùng tốt. Không cần làm việc quá vất vả vẫn có tiền vào túi, nhưng bên cạnh thường có kẻ xấu giở trò mờ ám, từ đó cản trở con đường tài lộc của họ.

Người tuổi Thìn nên đặt một chậu xương rồng ở hướng Tây Bắc của phòng khách để hóa giải tà khí, phòng kẻ tiểu nhân và đặt một cây vạn niên thanh ở hướng Đông Nam giúp mang đến tài lộc.

Tuổi Tỵ

Cây mang lại tài vận: Cỏ đồng tiền

Kỳ thực người tuổi Tỵ có đường tài vận không tệ nhưng lại không biết nắm chắc cơ hội, vì do dự nên hay bỏ qua thời cơ kiếm tiền.

Người cầm tinh con rắn nên trồng một ít cỏ đồng tiền trước bệ cửa sổ để trợ giúp tài vận tăng tiến, đồng thời tăng năng lực phân tích cá nhân, giúp bạn mạnh mẽ hơn, hành động quyết đoán hơn.

Tuổi Ngọ

Cây mang lại tài vận: Cây trầu bà

Tài vận người tuổi này rất tốt, biết cách kiếm tiền. Nhưng tuổi này lại khá tham lam, chính tính cách này làm họ bị tổn thất trong quá trình kiếm tiền.

Trong nhà người tuổi Ngọ nên đặt mấy chậu trầu bà sẽ giúp tài vận của họ tập trung một mối, nhưng cũng phải suy xét tình hình kỹ lưỡng, không được tham lam.

Tuổi Mùi

Cây mang lại tài vận: Cây Lan quân tử

Người tuổi này không quan trọng tiền tài, khát vọng kiếm tiền cũng không lớn. Bởi họ không nỗ lực sức mình để kiếm tiền nên cơ hội phát tài là khá thấp.

 

Người tuổi Mùi nên đặt một chậu lan quân tử ở phía bên phải bức tường đối diện sofa trong nhà, sẽ mang đến quý nhân phù trợ họ trên con đường tài vận.

Tuổi Thân

Cây mang lại tài vận: Cây tùng bồng lai

Người tuổi Thân biết cách kiếm tiền, cũng biết cách nắm bắt cơ hội tài lộc, nhưng họ kiếm nhiều thì tiêu cũng nhiều. Họ tiêu tiền như nước, không biết tiết kiệm nên cuối cùng còn lại không đáng là bao.

Người tuổi Thân nên đặt một chậu tùng bồng lai trong phòng đọc sách, phòng làm việc. Điều này giúp họ kiếm được tiền, làm ví tiền không bao giờ cạn.

Tuổi Dậu

Cây mang lại tài vận: Cây Ngọc Lộ (sen đá)

Đường tài vận tuổi này rất vượng, nhưng không biết giữ. Tiền tài hoặc là bị vay mượn, hoặc hao tổn khi đầu tư. Khả năng tổn hao tiền tài rất cao.

Không muốn vậy, người tuổi Dậu nên trồng một chậu sen đá ở phòng khách, giúp họ ngăn chặn việc hao tổn tài lộc. Tiền tài tự nhiên sẽ giữ được.

Tuổi Tuất

Cây mang lại tài vận: Cây phát tài (cây kim ngân)

Người tuổi này có đường tài vận khá ổn định, nhưng không biết cách quản lý, không biết nắm bắt cơ hội kiếm tiền. Khi có cơ hội không biết cách trân trọng, nên rất khó phát tài.

Những người này nên đặt chậu kim ngân ở phòng khách, giúp họ tích lũy tiền tài, kiếm được nhiều tiền hơn, tài lộc lũ lượt kéo đến.

Tuổi Hợi

Loại cây vượng tài: Nhất mạt hương (tên tiếng Anh Plectranthus hadiensis var. tomentosus).

Người cầm tinh con lợn có cuộc sống đầy đủ sung túc, ăn ngon mặc đẹp, nhưng cũng vì cuộc sống xa xỉ này mà họ thường tiêu hết tiền, ít khi dư dả để tiết kiệm, tài sản dần dần ít đi.

Người tuổi Hợi nên đặt một chậu nhất mạt hương trên bàn máy tính trong văn phòng và ở nhà, để giúp bạn lý trí hơn mỗi khi tiêu tiền, hạn chế việc tiêu pha tùy tiện. Nhưng bạn phải nhớ thường xuyên chạm vào lá cây thì mới có hiệu quả!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trồng cây phong thủy theo tuổi –

Điểm mặt những con giáp có tình hình tài chính ổn nhất tháng 6

Góp mặt trong danh sách những con giáp có tình hình tài chính ổn định trong tháng 6 là những cái tên như tuổi Tý, Sửu, Thìn, Mùi…
Điểm mặt những con giáp có tình hình tài chính ổn nhất tháng 6

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


 

Tuổi Tý
 
Nhìn chung, tình hình tài chính của người tuổi Tý trong tháng 6 khá ổn định. Nếu có ý định đầu tư hoặc kinh doanh một lĩnh vực mới thì nên triển khai trong tháng. Lưu ý, cần hoạch định rõ thị trường trước khi tiến hành đầu tư. Nên bắt đầu từ cái nhỏ, đơn giản trước vừa không bỏ lỡ thời cơ lại không quá mạo hiểm.
 
Tuổi Sửu
 
Xét về tổng thể, tài vận của người tuổi Sửu trong tháng 6 khá ổn định, có được phúc tinh chiếu mệnh nên ngoài lương chính còn có các khoản thu nhập phụ khác. Dù là đầu tư ngắn hay dài hạn, trong tháng này và sang đầu tháng tới, nhất định sẽ gặt hái được thành quả tốt. Đây là một trong những con giáp có tình hình tài chính ổn định nhất nhì trong tháng này.
 
Tuổi Thìn

Diem mat nhung con giap co tinh hinh tai chinh on nhat thang 6 hinh anh
Ảnh minh họa

Tình hình tài chính của người tuổi Thìn khá ổn định và thuận lợi. Tuy nhiên, để tạo bước đà cho những nguồn thu từ các hạng mục đầu tư sắp tới, không tránh khỏi việc tiếp khách tăng cường mối quan hệ xã giao, nên phải tính toán thật cẩn thận kẻo khoản thu về không bù nổi khoản chi ra.
 
Tuổi Mùi
 
Vận thế về sự nghiệp của người tuổi Mùi có xu hướng tăng lên trong tháng 6. Công việc và các hạng mục đầu tư, kinh doanh đều thuận lợi và có dấu hiệu sinh lời, nên tình hình tài chính khá ổn định, lúc nào cũng rủng rỉnh tiền tiêu xài.
 
Tuy nhiên, cần lưu ý đầu tư phải biết điểm dừng hợp lí, tránh quá đà sẽ gây phá tài lớn. Nếu tình hình trước mắt không khả quan thì phải bình tĩnh làm tốt các công tác chuẩn bị, đợi thời cơ để tạo bước đột phá. 
 
Tuổi Dậu
 
Nhìn chung, tình hình tài chính trong tháng 6 của người tuổi Dậu khá ổn định, tuy nhiên các nguồn thu nhập ngoài gần như không có. Con giáp này có thể cân nhắc giữa việc làm chủ và góp vốn để xem bên nào mang lại lợi nhuận nhiều hơn. Đồng thời phải cân nhắc tiềm lực của mình, tránh được những tổn thất tài chính sau này nếu xảy ra bất trắc.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm mặt những con giáp có tình hình tài chính ổn nhất tháng 6

Luận giải cục mệnh Sát Phá Lang trong tử vi đẩu số

Sát Phá Lang là mệnh cách trong tử vi, chỉ vận mệnh có các sao Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang hội chiếu. Cùng xem, mệnh cách này có gì đặc biệt.
Luận giải cục mệnh Sát Phá Lang trong tử vi đẩu số

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sát Phá Lang là mệnh cách trong tử vi, chỉ vận mệnh có các sao Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang hội chiếu. Cùng xem, mệnh cách này có gì đặc biệt.


Luan giai cuc menh Sat Pha lang trong tu vi dau so hinh anh
 
Tử vi đẩu số là phương pháp luận mệnh dựa vào các ngôi sao chiếu mệnh, chia 14 chủ tinh thành 4 loại: Tử Phủ Liêm Vũ Tướng, Sát Phá Lang, Cự Nhật, Cơ Nguyệt Đồng Lương. Nói một cách đơn giản, cách cục Sát Phá lang tức là cung Mệnh, cung Tài Lộc và cung Quan Lộc của một người có Thất Sát, Tham Lang, Phá Quân cùng hội họp.   Thất Sát là tướng tinh, chủ xơ xác, tiêu điều, cô khắc, thay đổi từ từ. Nếu cùng với sao Tử Vi đồng cung có thể hóa sát thành phúc, đồng cung với sao Lộc Tồn có thể giảm bớt sát tính, cá tính nóng giận. Thất Sát bản tính kiên cường, cảm xúc biến hóa, thường làm việc một mình, ẩn chứa phản nghịch, khiến người khác cảm thấy khó ở cùng một chỗ. Vậy nên, người có sao này trong lá số tử vi thì tuổi trẻ bôn ba, sư nghiệp bất định, thường phải trải qua trắc trở mới có thể thành công.   Xem bát tự biết người phụ nữ sinh ra đã có phú quý mệnh
Phá Quân là sao tiêu phá, tiêu phí, gây tổn hại, tở cung nào là hao tổn cung ấy. Là một trong những sao khai sáng, Phá Quân có cá tính bốc đồng, phản ứng linh hoạt, nhưng sự nghiệp có nhiều biến hóa lớn nên thường tới bước khó khăn cận kề suy bại, phải kiên nhẫn, bền bỉ thì mới thành công.
  Tham Lang trong tử vi đẩu số là sao đào hoa bậc nhất, bản chất linh động, ý nghĩ tinh thông, phản ứng nhanh nhẹn, hài hước, giao thiệp rộng rãi, hứng thú với những sự việc mới mẻ. Nhưng vì thiếu kiên nhẫn nên không thích hợp với những công việc ổn định, thích tự gây dựng sự nghiệp hoặc công việc có tính chất thay đổi lớn.
 
Luan giai cuc menh Sat Pha lang trong tu vi dau so hinh anh 2
 
Sát Phá Lang là cách cục tử vi tràn đầy sức sống, xử sự tích cực, thích kích thích, ưu điểm là khai sáng sự nghiệp, có năng lực anh hùng, khuyết điểm là dễ xúc động, làm việc không lường trước hậu quả.
  Phá Quân có 3 loại tổ hợp song tinh đồng cung, ảnh hưởng tới chủ tinh, tính cách cũng có bất đồng. Tử Vi Phá Quân – ân uy cùng thời, có gan gánh vác, Vũ Khúc Phá Quân – yêu ghét rõ ràng, mười phần quyết đoán, Liêm Trinh Phá Quân – thị phi rõ ràng, không sợ gian nan.   Số mệnh đặc trưng của Lục Thập Hoa Giáp trong tử vi đẩu số (phần 6) Số mệnh đặc trưng của Lục Thập Hoa Giáp trong tử vi đẩu số (phần 5) Số mệnh đặc trưng của Lục Thập Hoa Giáp trong tử vi đẩu số (phần 4)
=> Lấy lá số tử vi và xem vận mệnh cuộc đời, công danh, tình duyên của bạn

Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải cục mệnh Sát Phá Lang trong tử vi đẩu số

Xem tướng cười đoán vận mệnh –

Cười chỉ có khi vui vẻ và ai vui cũng cười. Thế mà thực tế lại không thế. Cũng vui đấy thế mà người thì cười hô hô thoải mái, người lại chỉ mỉm cười, người cười mặn mà, người cười nhạt v.v... Không phải chỉ lúc cả nhóm vui thì cười. Nhưng có người ng
Xem tướng cười đoán vận mệnh –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng cười đoán vận mệnh –

Nhà nhiều âm khí và nhiều tia ác xạ, cách hóa giải

Ngôi nhà nhiều “âm khí” là một ngôi nhà mà tại đó địa khí không có năng lượng, thông thường đo được chỉ số từ 0 cho đến 3000 đơn vị Bovis ( đơn vị đo năng lượng của đất do nhà vật lý người pháp tại thế kỷ 19 phát minh ra – ông Antonio Bovis). Ở những ngôi nhà này thì sẽ có rất nhiều tia “ác xạ” phóng lên trên mặt đất và độ cao của tia “ác xạ” phóng lên trên mặt đất là 100m, do đó ở nhà chung cư vẫn bị ảnh hưởng bởi các “ác xạ”. Ngôi nhà nhiều “âm khí” là do trong nền nhà hoặc nền của khu đất có “vong” hoặc do đất không có năng lượng nên nhiều “tà khí” tụ lại.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1.    Tình huống trong nhà nhiều “âm khí”

-         Ngôi nhà nhiều “âm khí” là một ngôi nhà mà tại đó địa khí không có năng lượng, thông thường đo được chỉ số từ 0 cho đến 3000 đơn vị Bovis ( đơn vị đo năng lượng của đất do nhà vật lý người pháp tại thế kỷ 19 phát minh ra – ông Antonio Bovis). Ở những ngôi nhà này thì sẽ có rất nhiều tia “ác xạ” phóng lên trên mặt đất và độ cao của tia “ác xạ” phóng lên trên mặt đất là 100m, do đó ở nhà chung cư vẫn bị ảnh hưởng bởi các “ác xạ”. Ngôi nhà nhiều “âm khí” là do trong nền nhà hoặc nền của khu đất có “vong” hoặc do đất không có năng lượng nên nhiều “tà khí” tụ lại. -         Những ngôi nhà nhiều “âm khí” sẽ có những hậu quả sau: Nặng thì mắc bệnh ung thư rồi chết, nhẹ thì bệnh tật liên miên, khi ngủ hay mơ “ác mộng”, hay bị “bóng đè”,  hay xích khẩu, việc làm ăn kinh doanh bết bát, tiền vào bao nhiêu lại ra hết bấy nhiêu, nói chung là không tụ tài.

-         Cách hóa giải ngôi nhà “ Âm khí”: Để hóa giải ngôi nhà bị “âm khí” thì ta cần xác định từng trường hợp và có biện pháp hóa giải phù hợp sau:           

                                     
1.     Mảnh đất có năng lương thấp (chỉ số Bôvis thấp) - đây là trường hợp chưa xây dựng nhà, hoặc chuẩn bị xây nhà. Cách tốt nhất là xác định các tụ điểm có nhiều “ác xạ” và bố trí chôn đá thạch anh hoặc đá phong thủy theo một thế trận. Khi đá thạch anh được chôn dưới đất thì năng lượng và các tia khúc xạ của đá sẽ tiêu diệt các tia “ác xạ” và tạo ra một dòng năng lượng mới tốt hơn. 2.     Trường hợp đã xây nhà ở rồi và năng lượng của đất thấp. Cần phải xác định một cách chính xác các tụ điểm chứa “ác xạ” và những nơi có năng lượng thấp, sau đó chọn đá thạch anh có năng lượng cao và đặt tại điểm có “ác xạ” hoặc nơi có năng lượng thấp. ( Trong trường hợp này đá thạch anh nên chọn loại đá hình trụ lục năng và có tính thẩm mỹ để vừa trang trí vừa hóa giải). 3.     Trường hợp nhà có “vong”: Giải pháp đầu tiên của ngôi nhà hay mảnh đất có vong là nhờ một vị thầy sư giỏi hoặc người có khả năng “giải vong” lên chùa. Tiếp theo là dùng đá thạch anh hoặc đá phong thủy để cân bằng lại năng lượng cho ngôi nhà và mảnh đất đã bị tổn thương để mọi người trên ngôi nhà nhận được dòng “sinh khí”.   Lưu ý: + Phải xác định chính xác từng góc đất, cung trạch trong nhà để xác định các “ác xạ” và “âm khí” của trạch nhà. Đồ vật phong thủy phải được khai quang và chọn ngày giờ đặt cẩn thận.             + Đá phong thủy có nhiều loại đá năng lương kém (do khai thác ở dạng non nên năng lượng không đủ để hóa giải), nên cần tìm đến nơi bán đá uy tín hay nhờ người am hiểu về năng lượng của đá để chọn được loại đá tốt nhất, đá phong thủy cần được tẩy rửa năng lượng xấu và trì chú phật pháp vào trong đá để mang lại may mắn.   2.    Trường hợp thực tế       Trường hợp Ngôi nhà có nhiều âm khí tại quảng Ninh -         Tác giả có làm phong thủy cho một gia đình quan chức tại Quảng Ninh (Việt Nam). Kiểm tra trạch nhà của gia chủ, tác giả thấy ngôi nhà này có quá nhiều “âm khí”, qua kiểm tra năng lượng của đất phát hiện chỉ số Bôvis của đất là 1000 đơn vị, khi bước vào nhà thấy đầu óc căng thẳng và đau đầu, hướng nhà được hướng tốt, bếp không được hướng, ban thờ được vị trí và hướng. Tác giả có nói cho gia chủ là ở nhà này thì người sống trong ngôi nhà sẽ mắc bệnh ung thư, làm được bao nhiêu tiền thì tiêu tán hết bấy nhiêu. Nghe tác giả nói vậy gia chủ thán phục và nói vợ đang mắc bệnh ung thư, phải điều trị hết nhiều tiền của, làm ăn kinh doanh của vợ luôn thất thoát. -         Tác giả có đặt các trụ đá thạch anh vào các điểm trong ngôi nhà có nhiều “ác xạ”, thay đổi hướng bếp, đặt một đôi tỳ hưu (đã được khai quang) trước cửa để kích hoạt tài vận của ngôi nhà. -         Kết quả: Ngay sau khi hóa giải bằng đá thạch anh đã thấy năng lượng của ngôi nhà đo được là 10 000 đơn vị Bovis, dòng sinh khí trong nhà nhiều hơn. Sau một thời gian tác giả có điện cho gia chủ thấy tinh thần của gia chủ tốt hơn rất nhiều và sức khỏe và tiền tài cũng tốt hơn.   Trần Nhất Nam

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhà nhiều âm khí và nhiều tia ác xạ, cách hóa giải

Ngày 9 tháng 9 là ngày gì?

Nhiều người đã nghe qua nhưng không ít người không hiểu rõ ngày 9 tháng 9 là ngày gì vì thế, bài viết sau sẽ giúp bạn giải đáp thắc mắc về ngày đặc biệt này.
Ngày 9 tháng 9 là ngày gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 

Ngày 9 tháng 9 là ngày gì?


Ngày 9 tháng 9 âm lịch là một trong mười hai Tết cổ truyền của Việt Nam, tuy ít còn ảnh hưởng trong văn hóa Việt Nam nhưng ngày này vẫn là một ngày lễ quan trọng trong Nho giáo.

Tết Trùng cửu lấy sự lặp lại của hai số 9 để nói về sự trường thọ và không phải ngẫu nhiên mà ngày mồng 9 tháng 9 được xem là một ngày Tết quan trọng. Theo quan điểm dân gian cửu (số 9) là số dương và là đỉnh cao nhất trong một vòng lặp, một chu kỳ. Bất cứ cái gì đạt đến số 9 là đã đạt đến đỉnh cao nhất và là tốt nhất, trân quý nhất. 

Tết Trùng Cửu còn có một cách nói khác là Tết Trùng Dương hoặc Từ thanh - có nghĩa là "tạm biệt thảm cỏ xanh". Đây là ngày đánh dấu sự chuyển mùa, những màu xanh mơn mởn của cây cỏ sẽ không còn nữa và thay thế vào đó là sự hoang tàn, lạnh lẽo của mùa Đông. 

Vì thế, tết Trùng Cửu cũng là cơ hội đi chơi, thưởng ngoạn sau cùng của mọi người khi thời tiết sang Đông. Nhân dịp tết Trùng Cửu, nhiều người thường đến vùng ngoại thành để leo núi, thưởng ngoạn phong cảnh, hít thở bầu không khí trong lành.

Bây giờ ít có nơi tổ chức Tết Trùng Cửu và biết về một phong tục mang nhiều nét đẹp về văn hóa cũng như đối với sức khỏe, đời sống này. 
 

Ý nghĩa của ngày 9 tháng 9 Âm lịch


Sau khi đã hiểu ngày 9 tháng 9 là ngày gì chúng ta cũng đã biết được rằng thời điểm này trước ngày Tết Trùng Cửu mưa thu lất phất, trời âm u, cái nóng vẫn chưa hết, mọi vật dễ trúng độc, con người vào lúc chuyển mùa dễ sinh bệnh tật, cảm cúm. Vì thế, vào thời gian này chúng ta thường phải áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để phòng côn trùng, phòng nóng lạnh.

Mục đích là phòng trừ bệnh tật, côn trùng trong những ngày này nên đúng dịp Tết Trùng Dương người ta thường uống rượu cúc hoa, đeo cành thù du cũng có tác dụng giống như Tết Đoan Ngọ uống rượu hùng hoàng và treo cành xương bồ, trấn ngải. 

Được biết, thời kỳ Lý – Trần, nho sĩ Việt Nam cũng tổ chức leo núi, uống rượu hoa cúc gọi là thưởng tết Trùng Dương. 
 

Leo núi


Nhân dịp Tết Trùng Cửu, nhiều người thường đến vùng ngoại thành để leo núi, thưởng ngoạn phong cảnh, hít thở bầu không khí trong lành. Vào tiết trời thu, trời xanh cao, lên núi đi chơi, có thể khiến tinh thần sảng khoái, trong lòng thư thái.

Dân chúng lên núi còn có nguyên nhân về mặt kinh tế. Đó là tết Trùng Dương là lúc thu hoạch mùa màng xong xuôi, nông dân nhàn nhã. Lúc này cây thuốc hoa quả trên núi cũng bắt đầu già, chín, chính là dịp tốt để người ta thu hái. Chính vì vậy mà tết Trùng Cửu cũng là cơ hội đi chơi, thưởng ngoạn sau cùng của mọi người khi thời tiết sang Đông. 
 

Ngắm hoa cúc

  Ngày Tết Trùng Cửu mọi người uống rượu hoa cúc để giải trừ bệnh tật. Theo danh y đời nhà Minh tên Lý Thời Trân, hoa cúc có công dụng chữa trị nhiều bệnh như đau mắt, chóng mặt, nhức đầu, giải phong nhiệt. Rượu hoa cúc có thể giúp tránh bị trúng gió, khử nhiệt, bổ gan sáng mắt, tiêu viêm giải độc. Rượu hoa cúc có vị đắng, người xưa cho rằng, uống loại rượu này sẽ thêm tuổi thọ nên họ gọi đây là "rượu trường thọ".   Ngoài uống rượu hoa cúc, ngắm nhìn hoa cúc là một trong những phong tục của tết Trùng Cửu. Hoa cúc được xem là loài hoa tượng trưng cho sự cao thượng, đại diện cho tình bạn và nét nho nhã của danh sĩ. Cúc được xem là một trong bốn loài hoa quân tử: Mai - Lan - Cúc - Trúc.  

Cây thù du

  Tiết Trùng cửu cũng là lúc quả thù du chín đỏ, còn mùa xuân hoa thù du nở vàng rực rỡ khắp cành. Loại cây này ít có ở Việt Nam. Tiết xuân đến hoa thù du nở sớm nhất, có lẽ chỉ sau hàn mai, vốn nở từ lúc cuối đông. Người Nhật còn gọi hoa thù du là hoa hoàng kim của mùa xuân. Hoa mai báo tin xuân sắp tới, thù du cho biết mùa xuân đã tới rồi.  

Theo "Bản thảo cương mục” cơm quả thù du vị đắng cay mà thơm, tính ôn nhiệt, có thể trị hàn khu độc, người xưa quan niệm giắt lá nó vào người để trừ tà. Đó là lý do, mọi người thường có thói quen giắt vào người hoặc bỏ vào túi vải đeo theo người để trừ tà.

Trái cây châu du là một vị thuốc, chất lượng tốt nhất là vùng đất Ngô tức vùng Giang, Triết ngày nay nên còn gọi là Ngô châu du, lại cũng còn gọi là cây dầu Việt, Phong tục này học giả Chu Sở đầu thời Tấn viết trong “Phong thổ ký” là một phong tục của người Giang Nam.


Minh Minh

Tết Trùng Cửu 9/9 âm lịch - Những điều thú vị chưa biết

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngày 9 tháng 9 là ngày gì?

Tại sao những ngôi nhà cũ cần phải “thay Thiên tâm” và thay như thế nào? –

Trong khẩu quyết của phong thuỷ học có một kiểu thuyết pháp như sau: “Tam ngũ hung thành hoán Thiên tâm”. Câu này chỉ để nói những ngôi nhà cũ mà thôi. Tam ngũ là 15, cũng là chỉ những ngôi nhà cũ không có người ở thời gian quá 15 năm thì phải thay T

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

hiên tâm. Thay Thiên tâm có nghĩa là thay vị trí trung tâm trong căn nhà đi.

p76

Trước kia đa phần người ta sống trong căn nhà bằng, khi chuyển đến ở một căn nhà cũ thì phải mở một cái hốc trên trần nhà để cho ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp vào vị trí chính giữa của căn nhà. Vị trí này chúng ta gọi là Thiên tâm. Cách làm đó được gọi là “vượng Thiên tâm”, có tác dụng làm lại sinh vượng mới cho căn nhà. Thiên tâm được ánh sáng mặt trời chiếu 3, 5, 7 ngày, thậm chí là bảy bảy bốn mươi chín ngày tuỳ vào mức độ cũ nhiều hay ít của chính căn nhà đó thì có thể đậy hốc đó lại.

Người thời ngày nay chủ yếu sống trong nhà tầng hoặc nhà chung cư nên cũng khó tạo hốc trên trần nhà. Vậy ta có thể cậy nền nhà lên rồi lấp đi, đặt pháo trúc ở vị trí trung tâm hoặc ra ngoại thành lấy một ít đất tốt gói trong bọc vải màu đỏ rồi đặt ở trung tâm nhà. Đương nhiên cách đạt hiệu quả nhất vẫn là lấy pháo đã đặt ở trung tâm nhà đốt vỏ giấy màu đỏ bên ngoài đi thì có thể bắt đầu sinh vượng lại từ đầu.

Không nhất định cứ phải căn nhà để trống 15 năm trở lên mới được tiến hành biện pháp “thay Thiên tâm”. Chỉ cần là căn nhà cũ của người khác, khi mình dọn đến ở thì đều phải cậy nền nhà ở vị trí trung tâm lên rồi thay đi. Làm như vậy có thể tránh vận khí xấu của chủ nhà cũ quanh quẩn bên người bạn. Đồng thời có thể làm sinh vượng vận trạch của căn nhà đó.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại sao những ngôi nhà cũ cần phải “thay Thiên tâm” và thay như thế nào? –

CÁC HỌC THUYẾT PHONG THỦY

Phong thủy cùng vì một mục đích, đó là thực tiễn quá trình thiết kế, xây dựng, bày trí không gian kiến trúc, nhà cửa. Thế nhưng trong quá trình phát triển, mỗi một nhà phong thủy nghiên cứu ở một bình diện, khía cạnh khác nhau, cho nên bộ môn này đa dạng về các học thuyết và trường phái. Sau khi nghiên cứu, người ta tổng hợp thống kê lại, gồm có các học thuyết lớn sau.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

     Trong quá trình hình thành và phát triển, phong thủy phân hóa thành nhiều học thuyết, nhiều trường phái khác nhau. Tất cả các phái đều có những tinh hoa và hạn chế riêng. Với phạm vi một bài viết, tôi không có tham vọng đi sâu về nội dung các thuyết, chỉ có thể giới thiệu sơ lược về các trường phái phong thủy hiện hành mà thôi.

Các học thuyết phong thủy

    Phong thủy Bát trạch Phái này được Phong thủy sư Thái Kim Oanh, xâu chuỗi, hệ thống hóa, khái quái hóa trong tác phẩm “Bát trạch minh cảnh”.  Phái này có nguồn gốc từ thuyết âm dương ngũ hành, từ Thái cực phân chia thành Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng. Tứ tượng sinh Bát quái. Dựa vào năm sinh của gia chủ, xác định phân chia mệnh chủ thành  Đông tứ ( Khảm – Bắc, Ly – Nam, Chấn – Đông, Tốn -  Đông Nam), Tây tứ ( Đoài – Tây, Khôn – Tây Nam, Càn – Tây Bắc, Cấn – Đông Bắc). Từ mệnh cung xét các quan hệ với các phương vị khác tạo ra bốn hướng tốt Sinh khí, Thiên y, Phục vị, Phúc đức. Và lâm phải bốn hướng xấu Tuyệt mệnh, Họa hại, Ngũ quỷ, Lục sát.

    Phái này có một hạn chế là không tính đến sự hài hòa của môi trường xung quanh. Không xét đến vận khí của thiên thời biến đổi qua từng thời kỳ, từng giai đoạn…

    Dương trạch tam yếu: Tương truyền phái này do Triệu Cửu Phong đời Tống sáng lập. Phái này xét ba bình diện cơ bản của nhà ở. Bao gồm : Môn (là hướng của chính, cổng chính khi vào nhà), Táo (là nhà bếp), Chủ (là phòng ở của chủ gia đình)

 Phân ra Tịnh trạch, Động trạch, Hóa trạch, Biến trạch

 Nhưng khi vận dụng vào thực tiễn, có những căn nhà thiết kế chuẩn mực ba yếu tố trọng yếu kia, nhưng vẫn không gặp may mắn như mong đợi.

   Phái cảm xạ: Được khởi xướng bởi các nhà ngoại cảm, thông linh. Những người lựa chọn đất làm nhà, táng mộ theo thuyết này đều là các nhà ngoại cảm, theo Mật tông, khoa học nhân điện. Mục đích chính là tìm ra các vùng có tầm số năng lượng cao thấp mạnh yếu, để an định cửa nhà hoặc táng mộ. Dụng cụ họ sử dụng thường là đũa từ, con lắc, quả cầu năng lượng, hoặc dùng chính huyệt luân xa của mình để cảm nhận.

Phái này ít người học tập và tu luyện thành công

   Phái Huyền không: Dựa vào Tam nguyên, cửu vận, lập ra hệ thống tinh bàn. Để dự đoán cát hung, suy vượng của căn nhà theo từng thời kỳ, từng giai đoạn.

Nội dung phương pháp của trường phái này căn cứ trên những quy ước về sự vận động của cửu tinh trên 9 phương vị (8 phương và ở giữa – Trung cung), tùy theo thuộc tính quy ước của cửu tinh và vị trí của nó để luận cát hung cho căn hộ. Qua phần sơ lược về các trường phái nêu trên thì chúng ta đều nhận thấy: Đối tượng để nghiên cứu của các trường phái đều giống nhau (tức là con người với môi trường, điều kiện và hoàn cảnh sống của họ); nhưng lại được xem xét dưới các góc độ khác nhau mà chưa bao quát toàn bộ vấn đề cần nghiên cứu. Khái niệm thời gian và không gian và đối tượng nghiên cứu được mỗi trường phái xem xét và nâng tầm quan trọng dưới nhiều tiêu chí khác nhau.

    Phái Loan đầu: Do Dương Tùng Quân sáng lập. Phái này căn cứ xem xét ảnh hưởng của môi trường xung quanh, bao gồm, đặc điểm địa hình, sông ngòi, núi non, đường sá, và các công trình khác đối với nhà ở.

Nhà ở khi thiết kế xây dựng phải hài hòa với môi trường tự nhiên, để tránh thiên tai, địch họa, đảm bảo an toàn về sức khỏe, và gặp nhiều may mắn thuận lợi trong làm ăn.

Nhà ở phải tọa sơn, hướng thủy. Nhất vị, nhì hướng. Tức là dựa lưng vào chỗ cao, có thế tọa vững chắc, hướng nhìn rộng rãi, thoáng đãng, phong tầm mắt ra vô tận, thì mới đón được cát khí, vượng khí, tiền đồ mới rộng mở.

    Phái Tứ trụ : Phái này dựa vào năm yếu tố của cá nhân gồm có giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh, năm sinh và giới tính lập nên lá số Tứ trụ. Phân tích lá số tứ trụ sẽ thấy rõ được các yếu tố sinh vượng, mạnh yếu, khiếm khuyết về ngũ hành của mệnh cục. Biết được điều này sẽ chọ được dụng thần, bổ khuyết, điều hòa làm cân bằng hệ thống ngũ hành trong mệnh. Khi đạt tới sự cân bằng,(không bất cập, hoặc thái quá, không quá vượng, quá suy) thì cuộc sống con người sẽ đầy đủ, ấm no, về vật chất, hạnh phúc về tinh thần.

Môn dự đoán này do Trần Đoàn tiên sinh đời Tống sáng lập, Trần Đoàn truyền lại cho học trò là Thiệu Khang Tiết.  Nhà thơ Tản Đà nước ta cũng rất tinh thông môn dự đoán này. Gần đầy, Thiệu Vĩ Hoa (cháu của Thiệu Khang Tiết), Lý Cư Minh, nghiên cứu kỹ lưỡng môn dự đoán này, áp dụng cải vận thành công cho nhiều người. Hai nhà đẩu số này có biên soạn nhiều tài liệu để lại.

Áp dụng vào cuộc sống cá nhân, khi nắm được dụng thần, con người ta có thể đi về phương hướng có lợi, lựa chọn ngành nghề phù hợp, chọn tên, đặt bút danh, biệt hiệu, dùng trang phục, vật phẩm phong thủy là dụng thần của mình. Đối với phong thủy, việc lựa chọn hướng nhà theo hướng dụng thần, trồng thêm cây cối và tăng thêm đồ gỗ đối với người dụng thần là Mộc, đặt bể phong thủy, làm bể bơi, hồ bán nguyệt đối với người dụng thần là Thủy…

    Học thuật mênh mông vô bờ bến, những điều ta biết chỉ là một giọt nước nhỏ nhoi, giữa đại dương mênh mông. Nhưng khi chúng ta quyết tâm. Không gì là không thể. Việc lựa chọn đất, thiết kế, xây dựng phải được tính toán một cách chi tiết, tỷ mỷ, vận dụng nhuần nhuyễn, các nguyên tắc cơ bản của phong thủy. Tục ngữ có câu “An cư, lạc nghiệp”. Có được căn nhà hợp phong thủy, vận mệnh của bạn sẽ không ngừng hanh thông, thuận lợi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: CÁC HỌC THUYẾT PHONG THỦY

Ý nghĩa của Thạch anh màu hồng là gì –

Thạch anh hồng là một trong những loại thạch anh được yêu thích nhất trong thế giới đá quý. Thạch anh hồng làm say mê lòng người bởi vẻ đẹp nhẹ nhàng và dịu êm, vốn được ví như viên đá của tình yêu và hạnh phúc. Những nghệ nhân khắp thế giới đã lấy n

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

guồn cảm hứng từ đó mà tạo ra bao kiệt tác, giúp thạch anh hồng trở thành một sản phẩm thật sự gần gũi với đời sống con người. Vậy ý nghĩa của Thạch anh màu hồng là gì.

Nội dung

  • 1 Ý nghĩa của thạch anh hồng
    • 1.1 Ý nghĩa về sức khỏe của thạch anh hồng
    • 1.2 Ý nghĩa về phong thủy của thạch anh hồng
  • 2 Cách lựa chọn thạch anh hồng hợp mệnh
  • 3 Làm sao để nhận biết thạch anh hồng thật giả?

Ý nghĩa của thạch anh hồng

Ý nghĩa về sức khỏe của thạch anh hồng

Thạch anh hồng có tác dụng tốt với các bệnh ở hệ tim mạch và hệ thần kinh. Bằng tác động lên hệ thần kinh loại đá này loại trừ sự mệt nhọc ra khỏi cơ thể, nó còn có tác dụng làm hoạt hóa hệ thống lympha mà hoạt động của hệ này có liên quan đến hệ miễn dịch .

Thạch anh hồng còn ảnh hưởng đến hệ tiết niệu, mạch máu và tủy xương, có ý kiến cho rằng, thạch anh hồng có thể tránh thụ thai ngoài ý muốn và giúp kéo dài tuổi thọ.

Ý nghĩa về phong thủy của thạch anh hồng

Theo phong thủy, thạch anh hồng giúp chống lại stress , nó dập tắt những cơn nóng giận bộc phát. Thạch anh hồng có khả năng tăng cường sự sáng tạo và đem lại cảm giác tự tin cho chủ nhân của nó.

Thạch anh hồng làm dịu những cơn đau về mặt tình cảm và những vết thương lòng nó còn là lá bùa hộ mệnh giúp cải thiện quan hệ giữa chủ nhân với người khác.

Qủa cầu bằng thạch anh hồng hoặc cặp tỳ hưu bằng thạch anh hồng có ích lợi trong việc bảo vệ tình yêu, bảo vệ hạnh phúc gia đình và giúp những phụ nữ chưa chồng hoặc những đấng nam nhi chưa vợ sớm tìm được tình yêu của mình.

Đặt một quả cầu thạch anh hồng ở góc tây nam của phòng ngủ, để tăng cường năng lượng tích cực cho tình yêu và hôn nhân, khi còn là độc thân. Hoặc khi đã lập gia đình thì để cuộc sống hôn nhân của v/c được hạnh phúc hơn.

Thạch anh hồng tăng cường năng lượng tích cực cho tình yêu và hôn nhân. Nó thường được dùng để dưới giường ngủ của vợ chồng để tránh các mối bất hòa có thể xảy ra.

Giúp tăng cường sự tự tin và khả năng sáng tạo, giúp ngủ ngon, không mơ hoảng, giúp phục hồi trí nhớ.

Cách lựa chọn thạch anh hồng hợp mệnh

Thạch anh hồng hợp với những người mệnh Hỏa và mệnh Thổ. Người mệnh Hỏa dùng thạch anh hồng để được tương hợp, và người mệnh Thổ dùng để được tương sinh.

Tra cứu cung mệnh

Người mệnh Hoả sinh vào các năm 1956, 1957, 1964, 1965, 1978, 1979, 1986, 1987, 1994, 1995, 2008, 2009

Người mệnh Thổ sinh vào các năm 1960, 1961, 1968, 1969, 1976, 1977, 1990, 1991, 1998, 1999, 2006, 2007.

Ngoài ra, thạch anh hồng là đá của người sinh vào tháng giêng và là món quà cưới vào dịp kỷ niệm lần thứ 2.

Làm sao để nhận biết thạch anh hồng thật giả?

Theo đặc tính cơ bản của đá thạch anh hồng như đã nói ở trên, trên thị trường rất ít có khả năng có đá thạch anh hồng giả, do đây là loại đá phổ thông, có sản lượng cao và giá thành không phải ở mức quá cao. Tuy nhiên, trên thị trường đôi khi vẫn xuất hiện đá giả làm bằng nhựa, loại hàng này có thể dễ dàng nhận biết bằng mắt thường.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa của Thạch anh màu hồng là gì –

Long mạch vua chúa Việt “phát” thế nào?

Vâng lời vua Đường, Cao Biền đến nước ta bỏ công đi khắp nơi, xem xét núi non, rừng biển, sông hồ, chỗ nào địa thế tốt, có khí địa linh, thì đều yểm cả. Riêng núi Tản Viên là Cao Biền không dám đụng tới vì cho rằng đó là chỗ thiêng liêng của chư thần thường ngự, không thể yểm được.
Long mạch vua chúa Việt “phát” thế nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong những nơi mà Biền nhắm đến có một điểm khá quan trọng, đó là làng Cổ Pháp – nơi sẽ sinh ra bậc đế vương của trời Nam. Vì thế, sau nhiều ngày chú tâm xem xét về cuộc đất toàn vùng, Cao Biền cùng các thầy pháp và thầy địa lý của Trung Quốc đã ra tay “cắt đứt long mạch” bằng cách đục đứt sông Điềm và 19 điểm ở Phù Chấn để yểm.

La Quý nối chỗ đứt long mạch

Nhưng mưu thâm độc của vua Đường và Cao Biền trong việc phá hủy thế phong thủy và làm tan khí tượng đế vương ở nước ta đã bị một thiền sư thời ấy là ngài La Quý phá tan.

Ngài La Quý là trưởng lão tu ở chùa Song Lâm, thuở nhỏ du phương tham vấn khắp nơi, sau đến gặp pháp hội của thiền sư Thông Thiện liền khai ngộ. Khi đắc pháp, ngài La Quý tùy phương diễn hóa, nói ra lời nào đều là lời sấm truyền. Ngài rất thông tuệ, nhìn xuyên sông núi, biết rõ nguồn gốc phong thủy, biết quá khứ và tiên đoán được tương lai.

Trước khi mất, vào năm 85 tuổi (năm 936), ngài gọi đệ tử truyền pháp là Thiền Ông đến căn dặn: “Ngày trước, Cao Biền đã xây thành bên sông Tô Lịch, dùng phép phong thủy, biết vùng đất Cổ Pháp của ta có khí tượng đế vương, nên đã nhẫn tâm đào đứt sông Điềm và khuấy động 19 chỗ trấn yểm ở Phù Chẩn. Nay ta đã chủ trì lắp lại những chỗ bị đào đứt được lành lặn như xưa”.

“Trước khi ta mất, ta có trồng tại chùa Châu Minh một cây bông gạo. Cây bông gạo này không phải là cây bông gạo bình thường, mà là vật để trấn an và nối liền những chỗ đứt trong long mạch, mục đích để đời sau sẽ có một vị hoàng đế ra đời và vị này sẽ phò dựng chính pháp của chư Phật”.

Vị hoàng đế mà ngài La Quý báo trước là Lý Công Uẩn. Lý Công Uẩn mồ côi từ nhỏ, được sư Khánh Vân đem về chùa nuôi, lớn lên Lý Công Uẩn được thiền sư Vạn Hạnh nuôi dạy và sau này lên ngôi tức vua Lý Thái Tổ, mở ra thời đại hộ pháp hưng thịnh trong lịch sử Việt Nam… Như vậy, thuật phong thủy với khí tượng đế vương của các vùng đất đã liên quan nhiều đến lịch sử Việt Nam từ xa xưa.

Đến đời Lê, có ngài Nguyễn Đức Huyên sinh tại làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tỉnh, là người lặn lội học khoa địa lý phong thủy tận nơi khai sáng của khoa này trên đất Trung Hoa và cũng là người Việt Nam đầu tiên viết sách địa lý lưu truyền đến nay. Ngài là danh nhân có tên gọi quen thuộc không những trong dân gian mà cả giới nghiên cứu nữa: Tả Ao.

Tả Ao đã phân tích, nêu rõ hình các cuộc đất kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, cũng như việc tìm long mạch ra sao. Xin nêu ra đây đoạn nhỏ trong sách “Tả Ao địa lý toàn thư” do Cao Trung biên dịch, đại ý nêu hai mạch: Mạch dương cơ và Mạch âm phần. Mạch dương cơ nếu nhỏ thì dùng làm nhà, nếu lớn hơn làm doanh trại, hoặc rộng và tốt có thể dùng làm thị trấn, xây kinh đô. Còn Mạch âm phần dùng chôn cất.

Đại cương là vậy, về chi tiết còn có nhiều loại mạch khác, như Mạch mã tích tức mạch chạy như vết chân ngựa, lúc cạn lúc sâu; Mạch hạc tất tức mạch ở giữa nhỏ, hai đầu to ra dần, như gối của con hạc; Mạch phong yếu tức mạch nhỏ nhắn, phình ra to dần như lưng con ong; Mạch qua đằng tức mạch không chạy thẳng mà ngoằn ngoèo như các thân cây bí cây bầu, có khả năng kết được bên trái hoặc bên phải đường đi của mạch nên được xem là loại mạch quý. Đất kết có hai loại: một loại dùng chôn xương người chết và một loại để người sống ở đều tốt.

Riêng đất để người sống ở, sách Tả Ao địa lý toàn thư đã đề cập đến đất dương cơ liên quan tới lịch sử nước ta: Trừ nhà Hùng Vương được đất quá lớn ra, thì sau đó, nhà Đinh và tiền Lê trở về trước, những triều đại thịnh trị thật ngắn ngủi, không được tới ba đời, nên quốc sư Vạn Hạnh phải tìm một đại địa khác làm kinh đô. Đó là Thăng Long hay Hà Nội. Lý Công Uẩn nghe theo, dời kinh đô về Thăng Long nên nhà Lý làm vua được tám đời; và sau đó nhà Trần và hậu Lê (Lê Lợi) cũng nhờ có đại địa đó làm kinh đô, nên bền vững lâu dài hơn”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Long mạch vua chúa Việt “phát” thế nào?

Tướng đàn ông mông to –

Mông đàn ông nên tròn, to, lớn. Những người như vậy sức lực dồi dào, nghị lực lớn, trí dũng song toàn. Họ thường là kẻ dễ thành công, dễ đạt phú quý. Đàn ông mông to, nhưng mềm, thương lười nhác sợ khó sợ khổ. Nếu mông teo thường thô lỗ, học thức có
Tướng đàn ông mông to –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng đàn ông mông to –

Lịch Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử

Điểm qua các lịch đã được sử dụng ở Việt Nam từ xưa đến nay: Việc nghiên cứu, phục hồi cổ lịch vượt ra ngoài nội dung này nên chỉ trình bày một số tóm lược dựa chủ yếu vào các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này của Gs. Hoàng Xuân Hãn và Pgs. Lê Thành Lân - những trích lục từ các nguồn sử liệu khác cũng được lấy lại từ hai tác giả trên. Ngoài ra có một số ý kiến chưa được kiểm chứng kỹ hay nhất trí rộng rãi cũng được đưa vào để bạn đọc tham khảo, hy vọng trong tương lai sẽ có một bức tranh đầy đủ hơn về lịch Việt Nam qua các giai đọan lịch sử.
Lịch Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lịch trong xã hội xưa:

Lịch giữ một vị trí đặc biệt trong quan niệm của người á đông thời xưa, ở Trung Hoa lịch được xem là lệnh trời bày cho dân để theo đó mà làm nông vụ cũng như tế lễ, còn vua là thiên tử, thay trời trị vì thiên hạ và hàng năm ban lịch cho thần dân và các nước phiên bang. ở Việt Nam mỗi năm lễ ban lịch gọi là Ban Sóc cũng được tổ chức rất long trọng có nhà vua và hàng trăm văn võ bá quan tham dự. Các cơ quan làm lịch ở nước ta trước đây rất quy củ, Thời Lý có Lầu chính Dương, Thời Trần có Thái sử Cục, thời Lê có Thái Sử Viện, thời Lê Trung Hưng có Tư Thiên Giám, thời Nguyễn có Khâm Thiên Giám…Các cơ quan này không chỉ làm lịch mà còn "Coi các việc": suy lượng độ số của trời, làm lịch, báo thời tiết, như thấy việc tai dị hay điềm lành, được suy luận làm khải trình lên’

Trích từ Nguyên sử và Đại việt sử ký toàn thư” thì vào thời trần (1301), Đặng Nhữ Lâm khi đi sứ sang Nguyên đã bí mật vẽ đại đồ Cung Uyển, thành Bắc Kinh, mang sách cấm về, sự việc lộ ra và bị vua Nguyên trách cứ. Có thể trong các sách cấm đó có thư tịch về lịch pháp nên sau này con cháu ông là đặng Lộ ra làm quan Thái sử cục lệnh Nghi hậu lang đã chế ra Lung linh nghi để khảo sát hiên tượng tỏ ra rất đúng và vào năm 1339 đặng Lộ trình vua Trần Hiến Tông xin đổi lịch thụ thời sang lịch Hiệp kỷ đã được vua chấp thuận.

Như vậy các cơ quan làm lịch bao gồm cả chức năng dự báo thời tiết, thiên văn và chiêm tinh học. Tuy nhiên, hiện nay tư liệu về lịch Việt Nam còn lại rất ít nguyên nhân một phần do khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, chiến tranh liên miên tàn phá, một phần do lịch pháp gần như là một thứ bí thuật không phổ biến, cộng với việc khoa học nhất là khoa học tự nhiên không được chú trọng phát triển trong thời phong kiến. Điều này gây trở ngại cho việc tìm hiểu về lịch Việt Nam trong quá khứ và đó cũng là lý do khiến các nghiên cứu về lịch ở nước ta rất hiếm hoi.

Các nhân vật nổi tiếng trong lịch pháp thời xưa có Đặng Lộ, Trần Nguyên Đán vào cuối thời Trần (1325-1390) và Trần Hữu Thận (1754-1831), Nguyễn Hữu Hồ (1783-1844) ở thời Nguyễn … Trần Nguyên Đán là người thông hiểu thiên văn , lịch pháp và đã viết sách Bách thế Thông kỷ tiếc rằng đến nay không còn, ông chính là cháu tằng tôn Trần Quang Khải là ngoại tổ Nguyễn Trãi.

Liên quan đến nguồn sử liệu còn có các cuốn lịch cổ đáng chú ý sau: Khâm định vạn niên thư (lưu trữ tại thư viện quốc gia Hà Nội) in lịch từ năm 1544 đến năm 1903, trong đó các năm từ 1850 trở đi là lịch dự soạn cho thời gian tới, Bách Trúng kinh ( lưu giữ tại Viện hán nôm) in lịch thời Lê Trung HƯng ( Lê - Trịnh) từ năm 1624 đến năm 1785, Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh (lưu giữ tại Viện hán nôm ) in lịch từ năm 1740 đến năm 1883, ngoài ra còn cuốn Bách trúng kinh khác thấy ở Hà nội năm 1944, sách này chép lịch từ năm 1624 đến năm 1799 nhưng nay không còn.

Lịch Việt cổ và nguồn gốc Lịch Âm Dương Á Đông:

Lịch âm Dương Á Đông mà Trung Quốc và Việt Nam đang sử dụng hiện nay được xem là lịch nhà Hạ (2140 trước c.n -1711 trước c.n , tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng Lịch Âm Dương là kết quả của sự giao thoa văn hoá giữa hai vùng Hoa Bắc và Hoa NAm của Bách Việt hay Việt cổ. Vùng Hoa Bắc trồng kê mạch và chăn nuôi còn vùng hoa Nam tiêu biểu cho nền văn minh lúa nước. Lịch với chức năng chính là phục vụ nông nghiệp (tục gọi là lịch nhà nông) nên phải phù hợp với thời tiết khí hậu của vùng hoa Nam là vựa thóc chính của trung Hoa. Mặt khác sử sách cũng ghi lại một số tư liệu về sự tồn tại lịch của người Việt cổ như truyền thuyết về lịch rùa mà Việt Thường thị khi sang chầu đã dâng lên vua Nghiêu đời Đào đường ( Sách Việt sử thông giám cương mục) hoặc theo thư của Hoài Nam Vương Lưu An gửi vua nhà Hán (Thế kỷ 2 trước c.n) thì “ từ thời Tam đại thịnh trị đất Hồ đất Việt không tuân theo lịch của Trung Quốc” (Đại việt sử ký toàn thư).Ngoài ra cũng có những bằng cớ chứng tỏ là từ lâu trước thời kỳ Bắc thuộc cư dân nước Văn Lang đã sử dụng một thứ lịch riêng, chẳng hạn các tư liệu về lịch của dân tộc Mường và nhứng điều được miêu tả trong Đại Nam thống nhất chí: “ Thổ dân ở huyện Bất Bạt và Mỹ Lương, hàng năm lấy tháng 11 làm đầu năm, hàng tháng lấy ngày 2 làm đầu tháng, gọi là ngày lui tháng tiến, lại gọi là ngày nội, dùng trong dân gian, còn ngày quan lịch, thì gọi là ngày ngoại, chỉ dùng khi có việc quan”.


Lịch Việt Nam trong các giai đoạn khác nhau

Các sự kiện lịch sử ở nước ta vốn được ghi chép theo theo Lịch âm Dương Á Đông và để có một niên biểu lịch sử chính xác cần biết rõ loại lịch nào đã được sử dụng trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. tuỳ thuộc vào quan hệ bang giao giữa hai nước trong từng thời kỳ mà lịch Việt Nam có lúc trùng có lúc lại lại khác với lịch Trung Quốc. Mặt khác bản thân lịch Trung Quốc đã trải qua nhiều lần thay đổi, cải cách (tính từ Thế kỷ 14 trước c.n là năm bắt đầu xuất hiện đến nay riêng lịch Trung Quốc đã trải qua hơn 50 cải cách khác nhau), điều này làm cho việc so sánh đối chiếu niên đại lịch sử giữa hai nước thêm phức tạp. Các kết quả khảo cứu của Gs. Hoàng Xuân hãn và pgs. Lê Thành Lân cho biết:

Trong 1000 năm Bắc thuộc (từ khi Triệu Đà đánh bại nhà Thục và xâm chiếm nước ta đến lúc Đinh Bộ Lĩnh lập nên Đại Cồ Việt) lịch dùng chính thức ở nước ta là lịch Trung Quốc hoặc thuộc phần phía nam Trung Quốc bị phân chia (Việt sử ở thời kỳ này được ghi chép rất sơ sài gây khó khăn cho việc khảo cứu).Trong thời kỳ đầu của nền độc lập từ đời Đinh (969) đến hết thời Lý Thái Tông (1054) nước ta vẫn tiếp tục sử dụng lịch nhà Tống ( như lịch Ung Thiên hoặc lịch Sùng Thiên).

Từ đời Lý Thánh tông lên ngôi cuối năm 1054 Việt Nam có lẽ bắt đầu tự soạn lịch riêng, Lý Thánh Tông đặt quốc hiệu là Đại Việt, chấn hưng việc nhà nông, việc học. Lý Nhân Tông nối ngôi năm 1072 và 3 năm sau chiến tranh bùng nổ giữa Đại Việt và Tống ( Lý Thường Kiệt xuất quân đánh Tống đẻ ngăn chặn), bang giao gián đoạn giữa hai nước cho đến năm 1078,trong thời gian này chắc chắn nước ta đã dùng lịch riêng.

Các đời Lý và Trần từ 1080 đến năm 1399; lúc đầu nước ta dùng lịch được soạn theo phép lịch đời tống , sau chuyển sang sử dụng lịch Thụ Thời ( có từ năm 1281 đời Nguyên) và năm 1339 vua Trần Hiến Tông đổi tên lịch Thụ Thpì thành lịch Hiệp kỷ.

Năm 1401 nhà Hồ ( thay nhà Trần tè năm 1399 đổi lịch Hiệp kỷ sang lịch Thuận thiên, không rõ chỉ đổi tên hay phép làm lịch cũng thay đổi.

Năm 1407 nhà Hồ bị mất, nhà Minh đô hộ nước ta và dùng lịch Đại Thống ( nhà Minh lên thay nhà Nguyên năm 1368 và dến năm 1384 thì đổi tên lịch Thụ thời thành lịch Đại Thống, nhưng phép lịch vẫn như cũ. Năm 1428 nước ta được giải phóng nhưng triều Lê tiếp tục sử dụng phép lịch Đại thống cho đến năm 1644 và theo Gs. Hoàng Xuân hãn thì phép lịch này còn tiếp tục được sử dụng cho đến năm 1812 (Gia Long thứ 11 đời Nguyễn) mặc dù từ năm 1644 nhà Thanh đã thay thế nhà Minh và khoảng 3 năm sau thì chuyển sang dùng lịch Thời Hiến.

Gs. Hoàng Xuân hãn rút ra kết luận trên dựa vào sự phục tính lịch Đại Thống từ đời nhà Hồ đến năm 1812 và đem so sánh với quyển Bách trúng kinh do ông sưu tầm được, quyển này in lịch từ năm Lê Thần Tông Vĩnh Tộ thứ 6 (1624) đến năm Tây Sơn Cảnh Thịnh thứ 7 (1799). Theo một số tư liệu thì vào thời Lê Trịnh( từ năm 1593 đến năm 1788) lịch nước ta có tên là lịch Khâm thụ và Gs. Hoàng Xuân Hãn đồ rằng tên này có từ đầu triều Lê, tên khác nhưng phép lịch có thể vẫn là phép lịch Đại thống nếu như kết quả phục tính của Gs. Hoàng Xuân Hãn ở trên là đúng. Nhà Mạc từ năm 1527-1592 nằm trong khoảng thời gian giữa đầu triều Lê và thời Lê- Trịnh có lễ đã dùng lịch Đại thống do nhà MInh phát hành ít nhất cũng là từ năm 1540.

Về giai đọan từ thời Lê - Trịnh đến năm 1802 có một số ý kiến khác:

Qua khảo cứu cuốn Khâm định vạn niên thư (hiện lưu giữ tại thư viện quốc gia Hà Nội) Pgs. Lê Thành Lân cho biết trong vòng 100 năm từ năm Giáp thìn 1544 đến năm 1643 lịch Việt Nam và Trung Quốc khác nhau 12 lần, trong đó có 11 ngày Sóc , 1 ngày nhuận và tết. Điều này khác với nhận định của Gs. Hoàng Xuân hãn cho rằng trước năm 1644 vào thời Lê Trinh lịch Việt Nam và lịch Trung Quốc cùng dùng theo phép lịch Đại thống nên Giống nhau. Cũng theo Pgs. Lê Thành Lân từ năm Tân Mùi (1631)đến năm Tân Dậu (1801)lịch ở đàng trong trong cuốn Khâm Định vạn niên thư khác với lịch Trung Quốc 92 lần. lịch ở đàng trong tồn tại song hành với lịch Lê- Trịnh (hai lịch khác nhau 45 lần) và lịch Tây Sơn ( hai lịch khác nha 5 lần), mặt khác lịch thời Tây Sơn từ năm Kỷ dậu (1789) đến năm Tân Dậu (1801) khác với lịch nhà Thanh nhưng chưa có sử liệu chứng minh điều này. Lịch đàng trong lúc này có tên là lịch Vạn Toàn (hay Vạn Tuyền, phải đổi tên kị huý).

Từ năm 1813 đến năm 1945: Nhà Nguyễn dùng phép lịch thời Hiến ( giống như nhà Thanh)và gọi là lịch Hiệp Kỷ. Sau khi Pháp cai trị nước ta họ cũng lập các bảng đối chiếu Lịch Dương với Lịch âm Dương lấy từ Trung Quốc, trong khi nhã Nguyễn vẫn soạn và ban lịch của mình ở Trung Kỳ.

Việc chuyển sang dùng phép lịch thời Hiến là do công của Nguyễn Hữu Thuận, khi đi sứ sang Trung Quốc ông đã mang về bộ sách có tên là lịch tượng khảo thành và dâng lên vua Gia Long, sau đó vua sai Khâm Thiên Giám dựa vào đấy để soạn lịch mới. Bộ sách về thiên văn và lịch pháp này do vua Khang Hy sai các lịch quan Trung Hoa cùng với các giáo sỹ Tây phương kết hợp biên soạn và vua Ung Chính sai đem khắc vào năm 1723. Vào tháng chạp năm 1812 lịch Vạn Toàn được đổi tên thành Hiệp Kỷ.

Từ năm 1946 đến năm 1967: Trong giai đọan này Việt Nam không biên soạn Lịch âm Dương mà các nhà xuất bản dịch từ lịch Trung Quốc sang.

Từ năm 1968 đến năm 2010: vào năm 1967 Nha khí tượng công bố Lịch âm Dương Việt Nam soạn theo múi giờ 7 cho các năm từ 1968 đến năm 2000 (Sách lịch Thế kỷ XX). Trước đó vào năm 1959 Trung Quốc cũng công bố Lịch âm Dương mới soạn theo múi giờ 8. Sau đó BAn lịch do K.s Nguyễn Mậu Tùng phụ trách tiếp tục biên soạn l Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2010 in trong cuốn lịch n 1901-2010 (xuất bản năm 1992).

(Tổ biên soạn Nha khí tượng được chuẩn bị Thành lập từ năm 1959 dưới sự chỉ đạo cuẩ Gs. Nguyễn Xiển là giám đốc Nha khí tượng. Tổ làm nhiệm vụ quản lý lịch nhà nước và biên soạn, dịch thuật lịch Thiên văn Hàng hải cung cấp cho Hải quân. Đến năm 1967 tổ soạn được 33 năm Âm lịch, thi hành ở miền Bắc từ 1968. Lịch Thiên văn Hàng hải xuất bản đến năm 1989,1990 thì kết thúc. Năm 1979 theo quyết định của Chính Phủ, phòng Vật lý khí quyển và Thiên văn cùng bộ phận tính lịch chuyển từ tổng cục Khí tượng thuỷ văn sang viện khoa học Việt Nam. Bộ phận quản lý lịch nhà nước được đặt trụ sở thuộc Uỷ ban nghiên cứu vũ trụ Việt Nam. Trong các năm từ 1968-1992 Ban lịch đã soạn thêm được một số năm Âm lịch và kết quả thành bảng lịch Việt Nam (1901-2010). từ năm 1993-1997 do thay đổi về tổ chức hành chính (Uỷ ban vũ trụ giải tán ) nên Ban lịch (thực tế chỉ còn một vài người) chuyển về văn phòng thuộc trung tâm KHTN&CNQG. Ngày 16/4/1998 Giám đốc Trung tâm KHTN&CNQG (gọi tắt là ban lịch nhà nước) trực thuộc Trung tâm thông tin Tư liệu.)

Để thống nhất việc tính giờ và tính lịch dùng trong các cơ quan nhà nước và giao dịch dân sự trong xã hội, ngày 8-8-1967 chính phủ đã ra quyết định số 121/CP do cố thủ tướng Phạm Văn Đồng ký (ngày 14-10-2002 Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm đã ký quyết định số 134/2002/QĐ-TTg sửa một vài câu chữ trong Điều 1 của QĐ 121/Cp cho chính xác hơn nhưng về cơ bản tinh thần của QĐ 121/CP không có gì thay đổi). Theo QĐ 121/Cp giờ chính thức của nước ta là múi giờ thứ 7 bên cạnh Dương lịch (lịch Gregorius) được dùng trong các cơ quan với nhân dân thì Âm lịch vẫn dùng để tính năm tết dân tộc, một số ngày kỷ niệm lịch sử và lễ tết cổ truyền. QĐ 121/Cp cũng nêu rõ Âm lịch dùng ở Việt Nam là Âm lịch được tính theo giờ chính thức của nước ta chư Chỉ thị số 354/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Thông tư liên bộ số 88-TT/LB ngày 23-11-1970 của Bộ Văn Hoá và Nha Khí tượng, Quyết định 129-CP ngày 26-3-1979 của Hội đồng Chính phủ…

Những thay đổi về giờ pháp định trong Thế kỷ 20 ở Việt Nam:

Mặc dù hầu hết đát liền nước ta nằm dọc theo múi giờ 7 (kinh tuyến 105 độ đông đi qua gần Hà Nội) nhưng trong Thế kỷ 20 này giờ pháp định của nước ta đã bị nhiều lần thay đổi) theo ý định của chính quyền thực dân và hà đương cục. sự biến động chính trị trong Thế kỷ qua ở Việt Nam đã khiến cho giờ pháp định trong cả nước hay từng miền bị thay đổi tới 10lần. Sau đây là các mốc thay đổi giờ pháp định trong 100 năm qua ở nước ta kể từ khi hình thành khái niệm này:

Ngày 1/7/1906

Khi xây dựng xong Đài thiên văn Phủ Liễn, Chính quyền Đông dương ra Nghị định ngày 9/6/1906 (Công báo Đông Dương ngày 18/6/1906)ấn định giờ pháp định cho tất cả các nước Đông Dương theo kinh tuyến đi qua Phủ Liễn (104°17’17” đông Paris) kể từ 0 giờ ngày 1/7/1906

Ngày 1/5/1911

Sau khi nước Pháp ký Hiệp ước quốc tế về múi giờ, theo nghị định ngày 6/4/1911 (Công báo Đông Dương ngày 13/4/1911-trang 803) quy định giờ mới lấy theo múi giờ 7 (tính từ kinh tuyến đi qua Greenwich) cho tất cả các nước Đông Dương bắt đầu từ 0 giờ ngày 1/5/1911.

Ngày 1/1/1943

      Chính phủ Pháp ra nghị định ngày 23/12/1942 (Công báo Đông Dương ngày 30/12/1942)liên kết Đông Dương vào múi giờ 8 và do vậy đồng hồ được vặn nahnh lên 60 phút vào lúc 23 giờ ngày 31/12/1942.

Ngày 14/3/1945

      Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp và buộc các nước Đông Dương theo múi giờ của Tokyo (Nhật Bản) tức là múi giờ 9 nên giờ chính thức lại được vặn nhanh lên 1 giờ vào 23 giờ ngày 14/3/1945.

Ngày 2/9/1945

      Sau cách mạng tháng Tám Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tuyên bố lấy múi giờ 7 làm giờ chính thức (Sắc lệnh số năm/SL Của Bộ nội vụ).

Ngày 1/4/1947

      Theo nghị định ngày 28/3/1947 của chính quyền thực dân (Công báo Đông Dương ngày 14/10/1947) thì trong các vùng bị tạm chiếm ở Việt Nam, ở Lào và Campuchia giờ chính thức là múi giờ 8 kể từ ngày 1/4/1947. Tuy nhiên trong các vùng giải phóng vẫn giữ múi giờ 7 và sau Hiệp định giơnevơ các vùng giải phóng ở miền bắc cũng theo múi giờ 7 (Hà nội từ 10/1954 và Hải phòng cuối tháng 5/1955); riêng Lào trở lại múi giờ 7 vào ngày 15/4/1955.

Ngày 1/7/1955

      Miền Nam Việt Nam trở lại múi giờ 7 từ 0 giờ ngày 1/7/1955.


Ngày 1/1/1960

      Chính quyền Sài Gòn ra Sắc lệnh số 362-TtP ngày 30/12/1959 quy định giờ chính thức của Nam Việt Nam là múi giờ 8, đồng hồ phải vặn nhanh lên 1 giờ kể từ 23 giờ đêm ngày 31/12/1959 (tức 0 giờ ngày 1/1/1960)

Ngày 31/12/1967

      Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra Quyết đinh 121/CP ngày 8/8/1967 khẳng định giờ chính thức của nước ta là múi giờ 7 kể từ 0 giờ ngày 1/1/1968.

Ngày 13/6/1975

      Sau khi miền nam được hoàn toàn giải phóng, chính phủ cách mạng Lâm thời đã ra quyết định chính thức trở lại múi giờ 7 và giờ Sài Gòn được vặn chậm lại 1 giờ.


 (Theo Lịch Việt Nam Thế kỷ XX-XXI, tác giả Thạc sỹ Trần Tiến Bình, Việt Nam)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lịch Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd