Xem tướng con người –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
1. Sinh tài vượng vị
Trong phong thủy có nhiều phương pháp tìm tài vị. Một quan điểm cho rằng, góc chếch của cửa chính; hai là cho rằng tài vị ở vị trí khi phi tinh có tam bạch đông, tức là Nhất bạch Lục bạch và Bát bạch; ba là cho rằng, từ năm 1984 đến năm 2003 thuộc vận 7 của hạ nguyên, trong 20 năm này, tài vị vượng khi nằm ở phương Tây Bắc.
2. Tài vị ngũ dĩ
– Tài vị nên sáng sủa không nên u ám, sáng sủa là sinh khí dồi dào. Chính vì vậy tài vị có ánh sáng mặt trời hoặc ánh sáng đèn chiếu vào, điều này rất có lợi cho sinh vượng vị.
– Tài vị nên “sinh”, từ “sinh” ở đây là chỉ sinh khí, sinh sôi nảy nở, chính vì vậy mà nên đặt ở nơi tài vị những thực vật cây xanh quanh năm, đặc biệt là những cây lá to hoặc lá dày như cây cao su hoặc là cây thiết thụ của Braxin đều rất thích hợp; nhưng cũng cần lưu ý. những cây thực vật này phải dùng đất bùn để trồng, nếu mà dùng nước để nuôi dưỡng là không nên. Tài vị không nên trồng những loại cây như xương rồng có gai, nếu không thì sẽ từ “lợn lành biến thành lợn què”.
– Tài vị nên đặt gần chỗ ngồi: tài vị là nơi tụ khí tài lộc của Căn nhà, chính vì vậy nên sử dụng. Ví dụ như đặt ghê salon ở gần tài vị, khi mọi người trong nhà ngồi trong đó nghỉ ngơi nói chuyện, có thể nhiễm nhiều tài khí bên trong đó, tự nhiên sẽ làm cho căn nhà trở nên lộn xộn. Ngoài ra, nếu đặt bàn ăn ở nơi gần tài vị cũng thích hợp, bởi vì điều này sẽ khiến cho mọi người tốt hơn.
– Tài vị nên đặt gần chỗ nằm: hầu như một phần ba thời gian trong ngày của con người là dành cho việc ngủ, chính vì vậy mà cát hung của vị trí ngủ có ảnh hưởng rất lớn. Nếu vị tri ngủ đặt ở tài vị, ngủ ở chỗ đó hàng ngày tích luỹ, tự sẽ thấy có lợi cho tài vận. Có một số người hiểu lầm rằng giường ngủ là vật gia dụng nặng, có thể dễ tài vị không sinh tài, nhưng quả thực đó là làm lãng phí tài vị mà thôi.
Tài vị nên ở vị trí tốt: tài vị ở những nơi khi ngưng tụ, nếu ở đó đặt những vật cát tường, như tam tinh Phúc Lộc Thọ hoặc là những tượng Văn Vũ thần tài, thi sẽ càng thêm cát lợi, có tác dụng rất lớn.
![]() |
![]() |
No.1 - Tuổi Dần | No.2 - Tuổi Ngọ |
![]() |
![]() |
No.3 - Tuổi Tuất | No.4 - Tuổi Thân |
Tuệ Anh (theo dyxz)
hay còn gọi là mắt hổ.
Thạch anh mắt hổ (Tên quốc tế Tiger Eye) là một loại thạch anh có cấu trúc dạng sợi màu vàng đến đỏ nâu. Tuy nhiên không giống các loại thạch anh khác, thạch anh mắt hổ được hình thành từ quá trình biến đổi Crocidolite. Crocidolite (một loại amiăng) là một loại khoáng vật dạng sợi màu xanh lơ thuộc gia đình riebeckite của silicat amphibol. Sự hình thành thạch anh mắt hổ bắt đầu khi mà thạch anh bao lấy các sợi crocidolite và cuối cùng là thay thế hoàn toàn, tuy nhiên vẫn giữ lại được cấu trúc sợi ban đầu. Bạn đã từng dành chút thời gian để tìm hiểu về loại đá này chưa? hôm nay hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về đá mắt hổ trong phong thủy trong bài viết dưới đây.
Nội dung
– Thành phần hóa học: SiO2
– Độ cứng theo thang Mohs: 6.5-7.0/10
Thạch anh mắt hổ thì đặc biệt được chú ý đến bởi hiệu ứng mắt mèo cũng như màu sắc rất thu hút của nó. Trong quá trình hình thành, nếu vật liệu có hàm lượng ion sắt cao sẽ tạo ra mắt hổ vàng nâu, còn ngược lại nếu vật liệu có hàm lượng sắt thấp sẽ có xu hướng có màu lam ban đầu của crocidolite và được gọi với cái tên là Thạch anh mắt chim ưng.
Trong tự nhiên, thạch anh mắt hổ có màu vàng, vàng nâu và đỏ nâu. Khi thạch anh mắt hổ có màu lam – đen sẽ được gọi với cái tên là thạch anh mắt chim ưng.
Như đã nói ở trên, thạch anh mắt hổ trong tự nhiên chỉ có màu vàng, vàng nâu và đỏ nâu. Khi thạch anh mắt hổ có màu lam – đen thì sẽ được gọi với cái tên là thạch anh mắt chim ưng. Như thế tất cả các màu sắc còn lại như màu hồng, xanh lục, ….đều là các đá thạch anh mắt hổ tự nhiên đã được nhuộm màu.
Các đá nhuộm thường dễ bị phai màu khi tiếp xúc với nước, hóa chất… Vì vậy không đủ tiêu chuẩn của một viên đá quý thông thường, khiến người dùng khó khăn trong việc sử dụng.
Màu thật của đá đã bị thay đổi hoàn toàn, trong khi bạn đeo vòng phong thủy hợp mệnh theo màu sắc. Như vậy cách lựa chọn màu đã sai ngay từ ban đầu, không còn ý nghĩa gì trong phong thủy.
Đá nhuộm thường có giá trị thực thấp, nhưng hiện nay trên thị trường các giá nhuộm màu vẫn được bán bằng với các loại thạch anh mắt hổ tự nhiên khác, thậm chí còn đắt hơn == > người mua sẽ phải trả một số tiền cao hơn nhiều so với giá trị thật của sản phẩm
Câu trả lời là KHÔNG. Một số loại thạch anh mắt hổ, mắt chim ưng dù đã có màu tự nhiên hoàn toàn, nhưng do màu nhạt, chất lượng kém, vẫn được nhuộm màu đề có màu sắc hấp dẫn hơn.
– Với các màu sắc không có trong tự nhiên như hồng, xanh lục, cam… bạn có thể khẳng định ngay đó là hàng nhuộm.
– Với các màu sắc có trong tự nhiên (vàng, vàng nâu, đỏ nâu, lam, lam – đen). Bạn có thể dùng axeton (các bạn nữ hay dùng để tẩy sơn móng tay) bằng cách thấm ướt axeton lên 1 miếng vải, sau đó lau vào viên đá. Nếu viên đá xử lý màu, các bạn sẽ thấy màu nhuộm dây ra miếng vải.
– Với cách này, bạn không thể nhận biết hết các đá thạch anh mắt hổ nhuộm hiện nay, vì có một số đa nhuộm ở mức độ nhẹ hoặc công nghệ nhuộm rất tiến tiến mà thử bằng axeton không cho hiệu quả. Tuy nhiên, phương pháp này có thể giúp bạn nhận biết những mẫu đã bị xử lý quá nặng.
Đá mắt hổ là một thành viên quan trọng của gia tộc thạch anh. Đá mắt hổ là một loại đá quý phong thuỷ đem lại giàu có và may mắn, từ trường của nó rất lớn và mạnh mẽ kích ứng thần kinh thái dương nên còn được dùng để trị bệnh.
– Những người luôn có rất nhiều dự định nhưng lại không thực hiện được, hãy đeo các trang sức đá mắt hổ, nó sẽ kích thích lòng tin và dũng khí hành động.
– Những người khí huyết hư nhược, thiếu dũng khí, hãy luôn nắm đá mắt hổ trong tay kết hợp với thở sâu để tăng cường sức sống và sức mạnh của cơ bắp.
– Khi làm việc gặp khó khăn, khó kiên trì chỉ muốn bỏ cuộc, hãy nắm đá mắt hổ ở tay trái kết hợp thở sâu, sẽ có được những phán đoán và hành động quả quyết chính xác.
– Những người trí nhớ kém, khả năng tính toán kém, hay quên, hãy đeo đá mắt hổ ở gần vùng thần kinh thái dương, như vậy sẽ tăng cường năng lượng tốt cho luân xa thái dương.
– Đeo đá mắt hổ trên người để đem lại sự giàu có và may mắn. Trong thời Trung cổ đá mắt hổ được dùng để xua đuổi những phép thuật ma quỷ và tránh tà.
– Những người hay ốm vặt, thân thể bị suy nhược, hãy cầm mỗi tay một viên đá mắt hổ tương đối to rồi đi dạo, chạy, vận động cho đến khi ra mồ hôi thì dừng lại, cứ mỗi tuần làm từ hai đến bốn lần như thế thì sẽ cải thiện được sức khoẻ.
– Những người bị suy yếu dạ dày và đường ruột, cầm quả cầu đá mắt hổ xoa vào vùng bụng, làm cho chức năng của các bộ phận vùng bụng khoẻ lên.
– Khi làm việc tại văn phòng, có thể đặt trên bàn đá mắt hổ hình cầu, hình thỏi, hình kim tự tháp hoặc các vật điêu khắc, như vậy sẽ làm cho tinh thần được tập trung ổn định, hoàn thành công việc một cách đầy đủ, chu đáo.
– Trong một tập thể, có người nào đó do không biết phải làm việc như thế nào, phải cống hiến như thế nào, từ đó sinh ra lơ là thờ ơ, hãy để người đó đeo đá mắt hổ, như vậy thì sẽ hiểu rõ được góc độ và vai trò của mình để hoà nhập với tập thể cộng đồng.
– Đeo vòng tay đá mắt hổ tụng kinh, niệm thần chú sẽ tăng cường sức mạnh của kinh văn và lời chú.
– Những người yếu bóng vía không dám đi đêm, hãy đeo đá mắt hổ để tăng cường trạng thái tinh thần, dũng khí.
– Đá mắt hổ giúp xóa bỏ sợ hãi, lo lắng hoang tưởng, do vậy nó là một liều thuốc cực kỳ hiệu quả với bệnh căng thẳng thần kinh.
– Những người nhát gan, sức khoẻ yếu, người làm việc không tới nơi tới chốn hãy đeo vòng tay đá mắt hổ vào tay, người đó sẽ trở nên hoạt bát hơn. Người phụ nữ sức khoẻ yếu sẽ trở nên khoẻ mạnh hơn.
– Một vài người dùng đá mắt hổ để chữa các bệnh về cổ họng, về mắt và sinh sản, đồng thời làm xương cột sống thêm cứng cáp, loại bỏ các chất độc và giảm đau.
Đình Chùa An Lạc là một công trình kiến trúc tín ngưỡng tôn giáo cho nhân dân làng An Lạc, tổng An Lạc, huyện An Dương, tỉnh Kiến An (cũ) xây dựng. Chùa An Lạc là nơi thờ Phật. Nơi đây thu hút đông đảo du khách thập phương, đặc biệt là vào ngày lễ hàng năm được tổ chức ngày 13/2 (âm lịch).
Đình Chùa An Lạc là nơi tôn thờ cụ Nguyễn Quý là Thành Hoàng có công xây dựng lập ấp dựng lên khu An Chân, phối thờ 2 cụ Trình Vinh và Nguyễn Túc, cả 2 vị đều là danh tướng thời Trần, có công giúp Trần Hưng Đạo phò vua Trần Nhân Tông đánh giặc Nguyên Mông trên sông Bạch Đằng lịch sử năm 1288.
Lịch Sử: Tương truyền, Chùa An Lạc được xây dựng từ thời nhà Trần (1226 – 1400). Xưa kia Đình Chùa An Lạc được xây dựng trên cùng một khuôn viên. Đình Chùa bố cục theo lối: Tiền Thánh hậu Phật. Đình Chùa là một cảnh đẹp ở huyện An Dương cũ. Cuối thế kỷ XIX do người Pháp lấn chiếm đất đai làm Sở Dỗu, Đình Chùa An Lạc được trùng tu xây dựng lại vào khoảng từ năm 1885 – 1895.
Kiến Trúc: Chùa An Lạc hiện nay được xây dựng trên khuôn viên diện tích 2598m2. Từ ngoài vào Đình Chùa là cổng Tam quan kiêm gác chuông sừng sững, mái đao tầng lớp như những kiến trúc tam quan khác của các Đình Chùa cổ truyền cũ của Việt Nam. Sau Tam quan là môt sân rộng lát gạch chỉ nghiêng phẳng phiu. Khoảng sân Đình Chùa phía trước là bồn hoa bể cảnh, chính giữa dựng tượng Quan Thế âm đứng bằng xi măng trắng. Bên trái sân Đình Chùa là 3 gian thờ mẫu và tăng phòng.
Kiến trúc chính của Chùa An Lạc là toà điện Phật bố cục theo kiểu chữ Đinh (J), đơn giản gồm 3 gian tiền đường, 2 gian hậu cung. Toà tiền đường xây dựng theo kiểu chồng dầm 2 tầng 8 mái. Mái lợp ngói vảy rồng rêu phòng cổ kính, phần chồng diềm lắp kính để đón ánh sáng trời. Khu Đình Chùa An Lạc không chỉ là công trình kiến trúc đẹp, cây cối xum xuê mà còn là một trong những cơ sở cách mạng trung kiên của Đảng ta trong thời kỳ hoạt động bí mật và kháng chiến chống thực dân Pháp trước đây. Nơi đây đã từng là địa điểm liên lạc, cơ sở chỉ đạo đấu tranh của công nhân Sở Dầu, công nhân nhà máy xi măng, xưởng carông Hải Phòng, v.v.
Đình Chùa An Lạc là địa điểm tập hợp lực lượng cách mạng của nhân dân chuẩn bị giành chính quyền ở huyện lỵ An Dương. Trong kháng chiến là nơi tập hợp, đóng quân của tự vệ khu 1 chuẩn bị tập kích Sở Dầu, ga Thượng Lý. Khu Đình Chùa An Lạc đã bị bom đạn giặc Mỹ huỷ diệt trong những năm chiến tranh phá hoại miền Bắc từ năm 1964 đến năm 1975.
Đời không đẹp như tên
Trong lời chúc tới tân Hoa hậu Việt Nam 2014, MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên đã viết rõ: "Kỳ Duyên" có nhiều ý nghĩa: Một là duyên kỳ ngộ, hai là một cuộc tình đẹp, hoặc 3 là người con gái duyên dáng tuyệt vời. Cái tên "Nguyễn Cao Kỳ Duyên" đã mang lại rất nhiều may mắn trên đường đời cho cô. Cô hy vọng nó cũng sẽ mang lại nhiều tình thương và hạnh phúc cho cháu và nhất là luôn được sự mến mộ của mọi người xung quanh".
Vậy tên người có vận vào số mệnh không? Bởi không phải ai cũng có cái tên “Kỳ Duyên” đẹp và may mắn, mà có những cái tên trái ngược hẳn với vận mệnh.
Đã có những trường hợp kỳ cục đổi tên rồi tiền mất, tật mang. Có người nghe thầy phán tên con “phạm” và “khắc” với hai vợ chồng, cần phải đổi tên mọi sự mới tốt lành. Ai ngờ từ ngày đổi tên, con ốm đau phải vào viện suốt… Có người đi đổi tên, làm lại giấy khai sinh, chứng minh thư… vì thái tuế mệnh Hoả, tên cũ mệnh Thuỷ - nên cả đời chật vật, thiếu thốn, đổi tên thì mới công thành danh toại. Nhưng từ khi mang cái tên mới, danh lợi không thành, may mắn không đến, gặp hạn liên tục, ảnh hưởng tới cả gia đình và con cái…
MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên và đương kim Hoa hậu Nguyễn Cao Kỳ Duyên.
Tên không đổi mệnh
Người nào ra đời cũng được cha mẹ đặt cho một cái tên. Đầu tiên là để làm giấy khai sinh. Sau đó cả cuộc đời sẽ làm hàng loạt giấy tờ khác gắn với cái tên đó. Số phận của mỗi người liệu có bị ràng buộc bởi một cái tên cha mẹ đặt không? Tên người có ảnh hưởng tới số mệnh không? Một số chuyên gia đã nói về vấn đề này, nhưng ý kiến có khác nhau.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải, có hai vấn đề ảnh hưởng đến con người là tâm lý và tâm linh. Về tâm lý, một đứa trẻ có tên đẹp sẽ thích thú, tự tin, dễ thành đạt. Ngược lại đứa trẻ có tên xấu thường ngại giao tiếp, ảnh hưởng đến tâm lý và các mối quan hệ của trẻ. Về tâm linh, dường như số mệnh của con người đã quyết định cái tên như vậy - điều này đã được Lê Quý Đôn khẳng định trong “Vân đoài loại ngữ” là có một mối quan hệ giữa tên và tính cách của đứa trẻ.
Theo ông Hà Thanh (Viện Nghiên cứu Ứng dụng Tiềm năng Con người), cha mẹ đặt tên cho con đa số có ý nghĩa nhất định, mong nhờ cái tên mà con có sức khỏe tốt, cuộc sống an lành, sung sướng, thông minh, thành đạt, có lòng nhân ái, mạnh khỏe, làm điều tốt… Trong cổ học phương Đông không có khoa nào nghiên cứu trực tiếp về tên người. Nhiều người tìm thầy để đặt tên cho con, mong nhờ tên mà con có sức khỏe tốt, cuộc sống an lành, sung sướng… Các thầy nghiên cứu về tứ trụ, thầy đồ đặt tên con theo bảng tứ trụ, viết họ - tên đệm - tên chữ Hán Việt xem thuộc bộ mấy nét, rồi đếm số nét để luận xem khiếm khuyết gì thì bổ cứu cho đương số...
Ông Hà Thanh cho rằng, Tứ trụ, Phong thủy… không đủ sức gánh cái tên “nặng” cả cuộc đời. Người ta cứ tin lạm dụng vào nó để luận, và cách tính toán đó rất phức tạp, chỉ có các thầy mới làm được.
Thay tên khó đổi vận
Theo nhiều thầy phong thủy, tứ trụ, Mệnh là cố định. Vận thì vận hành tuần tự theo thời gian nhất định. Mệnh và Vận trên thực tế là một quy luật khách quan của sự vận động sự sống. Vận mệnh đã là một quy luật khách quan thì sao có thể điều chỉnh được.
Về tên người có ảnh hưởng tới số mệnh không? ông Hà Thanh cho biết đó là điều rất nhiều người thắc mắc. Ý kiến riêng của ông Hà Thanh là cái tên không quyết định sẽ trở thành người như thế nào. Số mạng của một con người không phụ thuộc vào cái tên, mà cái Tâm và Tài mới quyết định. Nếu mang một cái tên đẹp, hay mạnh mẽ mà không được học hành, giáo dục tử tế thì hậu quả khó lường, thậm chí trở thành bi kịch.
Muốn thành đạt và có cái tâm trong sáng, người ấy phải sống trong một môi trường giáo dục tốt, với gia đình làm nền tảng, ý thức được hành vi bản thân và yêu thương đồng loại, bất chấp mình đã và đang mang một cái tên bình dị, chân quê hoặc “chẳng giống ai” đi chăng nữa. Và những cái tên kỳ cục, phản cảm sẽ dần tự mất đi.
Nhiều chuyên gia phong thủy cho rằng, người ta đặt tên cho con thường vận theo ngũ hành để "bổ sung" khuyết thiếu. Nhưng tên người không làm thay đổi hoàn toàn số mệnh, mà chỉ có thể làm giảm, hoặc tăng, hoặc bù cái thiếu. Nôm na tên người như gia vị trong món ăn có thể hỗ trợ làm giảm hoặc tăng những gì khiếm khuyết.
Còn trong cuộc sống, quy luật nhân quả luôn hiện hữu. Vì vậy mọi người nên sống bình đẳng, bác ái với cộng đồng và môi trường xung quanh thì cái tên có trái ngược, hoặc không tương thích với mùa sinh, tháng đẻ thì cũng không sao.
Tên gọi của mỗi người sẽ theo mỗi con người suốt cả đời. Vì thế các bậc cha mẹ nên suy nghĩ kỹ càng trước khi đặt tên con.
Cái tên dùng rất nhiều trong giao tiếp, học tập, sinh hoạt…, cha mẹ không nên gửi gắm quá nhiều vào cái tên con trẻ. Nếu chỉ bằng cái tên mà thay đổi được bản chất sự vật, thay đổi được tâm tính con người, đạt được mong ước thì mọi người sẽ không phải lao tâm khổ tứ duy trì cuộc sống.
Nếu muốn gửi gắm điều gì trong tên con, hãy chọn cái tên sáng sủa, đẹp đẽ, có nhạc tính, dễ nghe, dễ đọc… Đảm bảo cái tên sẽ không gây phản cảm, khó khăn cho con khi giao tiếp sau này.
![]() |
Ảnh minh họa |
1. Cây phất dụ
Cây phất dụ còn được gọi là cây phát tài (do cách đọc của người Trung Quốc: phất dụ đồng âm với phát tài), trong phong thủy, đây là loài cây mang lại may mắn cho gia chủ.
Cây phất dụ có hơn 20 loài cùng họ ở Việt Nam. Trong đó, gần như cây nào cũng mang lại may mắn, phát tài đúng như tên gọi của nó: Phất dụ xanh – biểu tượng của may mắn; phất dụ thơm – là cây thiết mộc lan, thơm về đêm; phất dụ rồng – còn gọi là huyết rồng, được dùng làm thuốc chữa bệnh; phất dụ lá hẹp – còn gọi là bồng bồng, thường dùng làm bánh; phất dụ trúc xua đi vận đen, vận hạn còn gọi là trúc thiết Quan Âm…
Trồng cây phất dụ (phát tài) không nên trồng trong nhà vì lá cây này nếu dùng trong nhà nhiều sẽ không tốt cho sức khỏe, tuy nhiên, một chậu cây nhỏ thì không ảnh hưởng lắm.
Bạn nên trồng phất dụ ở phía Đông hoặc Đông Nam ngôi nhà – khu vực đại diện cho Mộc và là nơi có ánh sáng thích hợp cho cây.
2. Cây lộc vừng
Theo cha ông xưa thì “Lộc” ứng với tài lộc, “Vừng” ứng với nhỏ nhưng nhiều. Hoa màu đỏ tượng trưng cho hỷ sự, tức là chuyện vui trong nhà. Tóm lại, cây lộc vừng có ý nghĩa mang lại nhiều lộc, nhiều niềm vui trong gia đình.
Nên trồng cây ở sân trước, vị trí thoáng đãng cả 4 phía để tán cây phát triển đều.
3. Cây kim tiền
Kim tiền thuộc cây cảnh họ Thiên nam tinh, sống lâu năm, xanh tốt. Thân cây to khỏe, nằm dưới mặt đất. Mầm nảy mạnh và hình thành nhiều thân nhỏ. Lá kép dạng to, cuống ngắn, chắc khỏe, màu xanh lục, sáng bóng rất đẹp, có tuổi thọ khoảng 2 - 3 năm và được thay thế không ngừng. Chính vì vậy, kim tiền được coi là cây “phát” - Kim phát tài.
Được coi là loại cây "phú quý", có tác dụng chiêu tài nên kim tiền rất thích hợp làm quà tặng trong những dịp mừng lễ, tết, thăng chức, khai trương. Nếu cột lên cây vài sợi chỉ đỏ hoặc vài đồng tiền vàng (tượng trưng) thì sẽ trở thành cây phát tài, có ý nghĩa về mặt phong thủy và rất đẹp mắt.
Nên bày cây ở hướng Đông, Đông Bắc trong nhà ở, phòng hội họp, văn phòng, nhà hàng, khách sạn.
4. Vạn niên thanh
Vạn niên thanh sống lâu năm mà vẫn xanh tốt, mùa đông lá không héo úa nên được coi là loài cây cát tường, sử dụng rộng rãi. Dùng vạn niên thanh trong ngày lễ tết là ngụ ý sung túc tốt đẹp, trong việc hôn nhân là cầu chúc như ý, trong lễ mùng thọ là để chúc sống lâu.
Tuy nhiên, không nên trồng cây vạn niên thanh trong nhà, đặc biệt là phòng ngủ vì cây có chất độc, khi vô tình bị nhựa cây dính vào mắt, da sẽ gây bỏng rất, nhất là trẻ nhỏ.
5. Cây ngọc bích
Cây ngọc bích có nguồn gốc từ châu Á. Ở một số nước, loài cây này còn có tên gọi khác là cây thường xanh. Tại Việt Nam, nhiều nơi gọi là cây hoa đá. Dựa vào ứng dụng phong thủy cổ đại, cây ngọc bích được đặt đúng vị trí sẽ mang lại sức khỏe và sự may mắn.
Với đặc tính rất dễ nhân giống, chỉ cần lấy một chiếc lá đặt xuống đất ẩm thì nó sẽ nảy mầm mọc thành cây mới. Ngọc bích được coi là biểu tượng của sự chia sẻ và tình bạn. Ngoài ra, tên gọi thường xanh còn tượng trưng cho tuổi trẻ vĩnh hằng. Đây là loài cây không ưa nước. Do đó, bạn hãy để chúng ở nơi thoáng mát, có đủ ánh sáng và nhiệt độ thấp.
6. Hoa đồng tiền
Cây hoa đồng tiền còn gọi là cây kim tiền. Trong những dịp đầu xuân năm mới, nếu trồng hoa hoặc cắm hoa đồng tiền sẽ mang đến nhiều tài lộc và tiền của cho gia đình.
Là biểu tượng của mùa xuân. Chúng cũng rất hữu ích trong việc lọc khí benzen - thường có mặt trong nhiều loại sơn. Vì thế, nếu bạn vừa sơn lại phòng, nên đặt một chậu hoa đồng tiền để loại bỏ các hạt benzen lơ lửng trong không khí.
7. Hoa cúc
Trồng những chậu cúc nhỏ hay cắm hoa cúc có thể giúp ổn định phúc khí trong nhà. Cũng lưu ý rằng, hoa cúc nên đặt nơi có nhiều ánh sáng trong nhà để sự may mắn thêm mạnh mẽ và rực rỡ.
Ngoài ra, nguồn năng lượng mà hoa cúc đem lại khiến cho gia chủ có một cuộc sống bình dị và cân bằng trong mọi việc. Đồng thời, nó cũng mang đến may mắn cho ngôi nhà.
Chuyên mục Phong Thủy Đời Sống - Tạp chí Lịch Vạn Niên 365
Người xưa cho rằng: mỗi người vào mỗi năm có một ngôi sao chiếu mệnh, tất cả có 9 ngôi sao, cứ 9 năm lại luân phiên trở lại. Cùng một tuổi, cùng một năm đàn ông và đàn bà lại có sao chiếu mệnh khác nhau. Trong 9 ngôi sao có sao tốt, có sao xấu, năm nào sao xấu chiếu mệnh con người sẽ gặp phải chuyện không may, ốm đau, bệnh tật. . . gọi là vận hạn.
Để giảm nhẹ vận hạn người xưa thường làm lễ cúng dâng sao giải hạn vào đầu năm (là tốt nhất) hoặc hàng tháng tại chùa (là tốt nhất) hay tại nhà ở ngoài trời với mục đích cầu xin Thần Sao phù hộ cho bản thân, con cháu, gia đình đều được khoẻ mạnh, bình an, vạn sự tốt lành, may mắn, thành đạt và thịnh vượng.
Theo quan niệm dân gian thì 9 ngôi sao chiếu mệnh chỉ xuất hiện vào những ngày nhất định trong tháng, từ đó hình thành tục dâng sao giải hạn vào các ngày như sau:
Sao Thái Dương: Ngày 27 hàng tháng
Sao Thái Âm: Ngày 26 hàng tháng
Sao Mộc Đức: Ngày 25 hàng tháng
Sao Vân Hán: Ngày 29 hàng tháng
Sao Thổ Tú: Ngày 19 hàng tháng
Sao Thái Bạch: Ngày 15 hàng tháng
Sao Thuỷ Diệu: Ngày 21 hàng tháng
Sao La Hầu: Ngày 8 hàng tháng
Sao Kế Đô: Ngày 18 hàng tháng
Lễ cúng dâng sao Thuỷ Diệu vào ngày 21 hàng tháng, thắp 7 ngọn nến, bài vị màu đen.
Thuỷ Diệu là sao phúc lộc, nhưng xấu đối với nữ và chủ về tai nạn, tang chế.
Lễ cúng gồm có: Tiền vàng; Hương hoa; Phẩm oản; Mũ đen; 36 đồng tiền.
Hướng về chính Bắc làm lễ giải sao
- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
- Nam mô Hiệu Thiên chí tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Thượng đế.
- Con kính lạy Đức Trung Thiện tinh chúa Bắc cực Tử Vi Tràng Sinh Đại đế.
- Con kính lạy ngài Tả Nam Tào Lục Ty Duyên Thọ Tinh quân.
- Con kính lạy Đức Hữu Bắc Đẩu cửu hàm Giải ách Tinh quân.
- Con kính lạy Đức phương Nhâm quý Thủy đức Tinh quân
- Con kính lạy Đức Thượng Thanh Bản mệnh Nguyên Thần Chân quân.
Tín chủ (chúng) con là:……………………………………….
Hôm nay là ngày…… tháng………năm….., tín chủ con thành tâm sắm lễ, hương hoa trà quả, đốt nén tâm hương, thiên lập linh án tại (địa chỉ)……………………………………………………………để làm lễ giải hạn sao Thủy Diệu chiếu mệnh:
Cúi mong chư vị chấp kỳ lễ bạc phù hộ độ trì giải trừ vận hạn; ban phúc,lộc, thọ cho con gặp mọi sự lành, tránh mọi sự dữ, gia nội bình yên, an khang thịnh vượng.
Tín chủ con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Hành: ThủyLoại: Dâm TinhĐặc Tính: Tắm gội, chưng diện, làm dáng, phong lưu, nhàn hạ
Phụ Tinh. Sao thứ 2 trong 12 sao thuộc vòng sao Trường Sinh theo thứ tự: Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.
Ý Nghĩa Của Mộc Dục
mộ (Thổ)
***
1. Ý nghĩa của mộ:
2. Ý nghĩa của mộ và một số sao khác:
- Mộ, Thai, Tọa: văn võ kiêm toàn, nhất là ở Tứ Mộ
- Mộ, Tuyệt: khôn ngoan, đa mưu, túc trí
- Mộ, Hao: Hao làm mất tính chất u tối của Mộ
- Mộ, Cái (hay Riêu, hay Mộc): dâm dục, thủ dâm
3. Ý nghĩa của mộ ở các cung:
a. ở Phúc:
b. ở Tài:
c. ở Tật:
d. ở Tử:
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Chùa Báo Quốc tọa lạc Tọa lạc trên đồi Hàm Long, đường Báo Quốc, phường Vĩnh Ninh, thành phố Huế, Chùa được trụ trì bởi Hòa thượng Thích Đức Thanh
Chùa Báo Quốc còn có tên cũ là chùa Hàm Long và chùa Thiên Thọ. Chùa do Hoà thượng Thích Giác Phong khai sáng vào khoảng thế kỷ thứ XVII (có thể 1687). Hồi đó chùa Báo Quốc còn mang tên là Hàm Long Thiên Thọ Tự.Thời sơ khởi, ngôi chùa nầy chỉ là một am tự nhỏ, thờ đức Phật Thích Ca cho những người trong địa phương đến lễ bái cúng tế. Mãi đến thế kỷ sau, mới bắt đầu những chương trình trùng tu. Hai bảo tháp cũng được dựng lên.
Năm 1747, khi lên nắm quyền ở Đàng Trong, chúa Nguyễn Phúc Khoát đã đến lễ chùa và ban một tấm biểu sơn son thiếp vàng có khác “Sắc tứ Báo Quốc Tự”; một bên của tấm biểu ghi thêm Quốc Vương từ tế, đạo nhân ngự đề. Năm 1808 đời vua Gia Long, Hiếu Khương Hoàng Hậu đã đứng ra tổ chức việc quyên góp để trùng tu lại ngôi chùa, bảo tháp và la thành, minh đường; nhiều quan lại trong triều đã tham gia trong công trình nầy. Chùa cũng đã được đổi tên ra Thiên Thọ Tự, trích từ một đoạn kinh trong Tứ Thập Nhị Chương.
Đến năm 1824 đời vua Minh Mạng, nhân một cuộc lễ trai đàn chẩn tế do hoàng tộc tổ chức tại ngôi chùa nầy và chính nhà vua đã đề nghị chư vị trụ trì và giám thọ trong chùa đổi lại tên là Báo Quốc.
Vào tháng năm năm 1940, vào thời kỳ chấn hưng Phật Giáo Việt Nam, trường Cao đẳng Phật Học đầu tiên đã được khai giảng đầu tiên tại chùa Báo Quốc dưới sự chứng minh của Hoà Thượng Thích Tịnh Khiết. Tháng 8 năm 1948, sau khi Huế hồi cư, Sơn Môn Phật học đường từ chùa Linh Quang cũng đuợc chuyển về chùa Báo Quốc cho tiện việc tập trung giáo dục trên một quy mô rộng lớn hơn.
Nơi đây đã tổ chức nhiều lớp Trung cấp và Cao cấp Phật Học đào tạo nhiều tăng tài. Trong thời kỳ nầy ngươi có công trong việc tổ chức và điều hành là Hoà Thượng Thích Trí Thủ. Ngài cũng là Giám đốc Phật Học Đường Báo quốc. Về sau, Ngài vào Nha Trang và tổ chức Phật Học Đường cho những tỉnh miền Nam Trung Phần. Báo Quốc trong giai đoạn này trở thành một trung tâm đào tạo Phật Giáo nổi tiếng.
Chùa xây theo hình chữ khẩu vuông vức và những thành phần ôm chặt vào nhau. Đường lên chùa phải ngang qua nhiều bậc tam cấp khá quanh co và khó khăn. Ngay giữa sân chùa có trồng nhiều loại cây kiểng và phong lan, hoa thơm bốn mùa; đây là một cảnh quan u tịch và trang nghiêm nhặt trong hệ thống chùa chiền cố đô Huế. Diện tích toàn thể của chùa chừng hai mẫu tây, trước do triều đình cấp phát. Trong khuôn viên của chùa có nhiều tháp và mộ thờ những tổ sư ở ngôi chùa lịch sử nầy.
Trong số ba ngôi mộ ở cạnh chùa về phía Nam, mới xây cất trong những năm gần lại đây, thì ngôi mộ giữa là thờ tổ, một bên thờ Hoà thượng Thích Trí Thủ; còn bên kia thờ Hoà thượng Thích Thanh Trí là hai vị có công nhất trong việc tu bổ, tổ chức giáo dục trong chùa và hoạt động xã hội mấy chục năm qua.
Phía bắc chùa có giếng Hàm Long. Như tên gọi của giếng nầy, nước giếng trong veo quanh năm, dưới giếng có tảng đá lớn hình thù giống như đầu con rồng. Chiều sâu của giếng chừng 4,5 thước.
Theo lời truyền tụng trong nhân gian thì nước giếng Hàm Long rất quý; ngày trước, những triều vua Nguyễn sai người đến múc nước giếng về dùng trong hoàng thành, nên cấm dân chúng dùng đến, cho nên gọi là “Giếng Cấm”. Trong chùa còn lưu lại nhiều tài liệu lịch sử liên quan đến các chặng đường xây dựng.
Những liễn đối, biểu từ, hoành phi có từ đời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1737-1765), những chứng liệu của những vị cao tăng đắc đạo qua nhiều thế hệ, các Hòa thượng từ Trung Hoa sang truyền đạo. Ngoài ra cũng cần nhắc đến một đại hồng chung được đúc từ đời vua Gia Long năm thứ 7 (1808).
Linh vị của Đức Hiếu Khương Hoàng Hậu cũng được thờ chính thức tại ngôi chùa lịch sử nầy. Vào thời nhà Nguyễn Tây Sơn đem quân ra vùng Thuận Hoá, đã dùng khu đất trong chu vi chùa Báo Quốc gần Phường Đúc để chứa diêm tiêu dùng trong việc đúc súng đạn trên con đường bắc tiến.
Báo Quốc là một ngôi chùa cổ ở vị trí trung tâm thành phố, được nhiều người biết đến, nên rất tiện cho sinh hoạt du lịch. Từ nhiều năm nay, chùa Báo Quốc rất đông đảo bạn bè, du khách gần xa lui tới thăm viếng.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Hành: Thủy
Loại: Dâm Tinh
Đặc Tính: Đẹp đẽ, khoái lạc, mau mắn, tốt lành, cưới hỏi
Tên gọi tắt thường gặp: Hồng
Phụ tinh. Một trong nhóm sao Đào Hoa, Hồng Loan, Thiên Hỷ. Gọi tắt là bộ Tam Minh (Đào Hồng Hỷ).
Ý Nghĩa Hồng Loan Ở Cung Mệnh:
Tướng Mạo: Sao Hồng Loan có nghĩa là hình tướng, tức là nhan sắc bề ngoài của mỗi phái (hình dáng, diện mạo, thể xác và sự hấp dẫn của hình tướng), tâm tướng, tức cái duyên của mỗi phái (nết hạnh, sắc đẹp bên trong). Nếu đắc địa thì nhan sắc và có duyên, nếu hãm địa thì kém hơn.
Tính Tình: Sao Hồng Loan ở Mệnh là người đẹp đẽ, khéo léo về chân tay, tính tình vui vẻ, duyên dáng, có nét thu hút, quyến rũ người khác.
Ý nghĩa Công Danh Tài Lộc:
Nếu sao Hồng Loan đóng ở bốn cung Di, Quan, Tài và Nô thì có sự may mắn về công danh, tài lộc do người khác phái mang đến, cũng như có thể bất lợi về công danh tài lộc vì đặc tính đào hoa của mình.
Sự hay dở còn tùy thuộc việc hội tụ với cát hay hung, sát tinh. Đi với cát tinh, Hồng Loan mang lại nhiều may mắn nhờ ở người khác phái giúp đỡ. Ngược lại, nếu gặp hung hay sát tinh thì sẽ bị liên lụy bởi ái tình vì người khác phái.
Ý nghĩa phúc Thọ Tai Họa:
Cung Mệnh có Đào hay Hồng tọa thủ, gặp nhiều Sát tinh hội hợp tất không thể sống lâu được.
Ý Nghĩa sao Hồng Loan Ở Cung Quan Lộc:
Sao Hồng Loan ở cung Quan Lộc có nghĩa như hoa sớm nở ở quan trường sự nghiệp, chủ việc ra đời sớm, sớm có công ăn việc làm, lập thân từ lúc trẻ tuổi.
Có sự may mắn về công danh do người khác phái mang đến, được người khác phái giúp đỡ.
Đồng cung với sao Đào Hoa ở Cung Tý, người tuổi Tý, tuổi Dậu làm ăn phát tài sớm nhưng không bền.
Gặp sao Đào Hoa, Thiên Hỷ, làm nên công danh lớn lao, dễ dàng.
Ý Nghĩa sao Hồng Loan Ở Cung Nô Bộc:
Có sức thu hút quyến rũ người khác phái, được bè bạn, đồng nghiệp thương mến.
Gặp các sao Tử Vi, Thiên Phủ, Thái Dương, bè bạn nể phục, kính trọng vì sự đoan chính, ngay thẳng, nết hạnh của mình.
Ý Nghĩa sao Hồng Loan Ở Cung Thiên Di:
Ra ngoài giao thiệp dễ thuyết phục được người khác, có nhiều lợi lộc do người khác phái đem lại
Ý Nghĩa sao Hồng Loan Ở Cung Phu Thê:
Vợ hay chồng là người có nhan sắc, quyến rũ.
Vợ hay chồng là người đa tình, lãng mạn, hoặc làm các nghề có liên quan đến nghệ thuật, thời trang.
Vợ hay chồng có ngoại tình hoặc chấp nối, nhiều lần lập gia đình, nếu gặp các sao xấu, hung hay sát tinh.
Hồng sao Loan Khi Vào Các Hạn:
Hạn có sao Hồng Loan, Đào Hoa, Thất Sát, Phá Quân, Liêm Trinh, Tham Lang, là hạn có hỷ sự, thành gia thất.
Hạn gặp sao Địa Kiếp, là hạn duyên nghiệp long đong trắc trở.
Hạn gặp sao Cự Môn, Hóa Kỵ, là hạn tơ duyên rắc rối.
Thời gian: tổ chức vào ngày 30 tháng 30 tới ngày mùng 1 tháng 11 âm lịch.
Địa điểm: thị trấn Thánh Bình, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương.
Đối tượng suy tôn: kỉ niệm ngày mất của vua Trần Nhân Tông.
Nội dung: Đầu tiên, lễ rước sắc được tổ chức vào sáng ngày 29/10. Sau khi tập trung ở đền Ngự Dội, đoàn lễ làm lễ xin sắc rồi rước về chùa để làm lễ tế xin khai hội.
Giữa tiếng trống chiêng, đội múa lân vui nhộn đi đầu cùng đoàn rước phướn Phật, cờ hội và các tăng ni phật tử. Kế tiếp là đội nghi lễ bát bửu, chấp kích do tám cô gái và tám chàng trai trẻ mặc áo nâu đỏ, quần trắng, đầu chít khăn.
Xong rồi mới đến long đình được đặt bát hương và mâm ngũ quả.Đi sau đoàn rước là các bô lão, quan viên và dân làng cùng du khách thập phương.
Sáng 30/10, mâm cỗ và bánh được rước về chùa cúng Vua và đức Phật rồi các trò chơi, các màn biểu diễn dân gian được bắt đầu. Hấp dẫn nhất là các trò cờ người, múa rối nước, diễn chèo, hát quan họ…
Đặc biệt, cuộc thi xếp mâm ngũ quả và làm năm loại bánh gồm bánh dày, bánh mật, bánh ít, bánh tày, bánh gấc làm nên nét cuốn hút riêng của hội chùa Minh Khánh.
Các mâm bánh phải đẹp mắt, thơm ngon. Các mâm ngũ quả thì được trình bày cầu kỳ theo một số chủ đề như cửu long tranh châu, cửu long bảo tháp, long lân khánh hội…
Vật liệu được sử dụng là những trái cây địa phương như bưởi, chuối, đu đủ, hạt tiêu, quất, mãng cầu, nhãn… Qua bàn tay tài hoa, trí tưởng tượng phong phú của người dân, những con rồng, phượng, lân trở nên vô cùng đẹp mắt, sống động.
Chiều mùng Một tháng 11, tế lễ xong, cỗ được chấm giải, bánh, rước sắc được đưa về đình Ngự Dội để kết thúc hội.Đây là phong tục độc đáo của một vùng hoa trái trù phú gắn liền với tục thờ vua còn duy trì đến nay.
Những năm gần đây, lễ hội chùa Minh Khánh với tục thi làm mâm ngũ quả cùng năm loại bánh đang được làm sống lại. Tiếc là lớp nghệ nhân am hiểu nghệ thuật cổ truyền phần lớn đã qua đời.
Mâm bánh trái của những người trẻ không hẳn là không bắt mắt nhưng dường như đã thiếu đi cái tinh tế, cái duyên dáng của người xưa…
Sao Thái dương tại cung Tỵ độc tọa thế vượng cung Tài bạch, tài vận vượng thịnh, có tài kinh doanh quản lý tiền tài, thu nhập cao, tay nghề giỏi, có thể đạt được danh lợi song toàn, nên theo đuổi ngành thương mại xuất nhập khẩu hoặc doanh nghiệp lớn.
Sao Thái dương tọa cung Tỵ, Hợi là độc tọa (cung Tỵ sao Thái dương là thế vượng, cung Hợi sao Thái dương là thế hãm), sao Cự môn thế vượng xung chiếu tại cung Phúc đức. Cung Mệnh là sao Thái âm (cung Dậu sao Thái âm là thế vượng, cung Mão sao Thái âm là rơi vào thế hãm), cung Quan lộc là sao Thiên lương thế vượng, cung Điền trạch là sao Liêm trinh thế bình và sao Thiên tướng nhập miếu, cung Thiên di là sao Thiên đồng thế bình.
Sao Thái dương tại cung Hợi là rơi vào thế hãm, không có duyên với cha mẹ, hao tâm tổn sức để kiếm tiền, mặc dù vất vả làm việc sớm tối nhưng thu được lại có hạn, lãng phí tiền tài, thích hợp làm công ăn lương cố định, cuộc sống tương đối yên ổn.
Chiếu sao Thái dương thế vượng tại cung Tài bạch, là mệnh cách Đan trì quế trì. Tiền tài sung túc, sự nghiệp thành đạt, có chí thanh vân. Sao Thái âm tại cung Mão là rơi vào thế hãm mất đi ánh sáng, lại tam hợp hội chiếu với sao Thái dương thế hãm tại cung Tài bạch, là mệnh cách Nhật nguyệt phản bối, chủ rời bỏ quê hương, một nắng hai sương, bôn ba vất vả, độc lập phấn đấu, đào hoa quấn chân, đứt quãng.
Sao Cự môn tọa cung Phúc đức, suy nghĩ chu đáo, nghĩ sao nói vậy, giàu tinh thần nghiên cứu, thu nhập không ổn định, kiếm tiền vất vả thường hay gặp trắc trở.
Sao Liêm trinh, Thiên tướng cùng tọa thủ cung Điền trạch, những năm trung niên và cuối đời thường có thể tích lũy được tài sản, nhà ở cao sang tĩnh mịch trang nhã, thích bạn bè tới thăm.
Sao Thiên lương tọa cung Quan lộc, sự nghiệp ổn định, thích hợp công việc về nhà giáo, tư pháp, tôn giáo, văn hóa, nghiên cứu, tránh làm kinh doanh thương mại.
Sao Thiên đồng tọa cung Thiên di, xuất ngoại có quý nhân phù trợ, khả năng thích ứng mạnh, quan hệ tốt với mọi người.
Đường sanh đạo
Đó là một trong những đường quan trọng nhất trong bàn tay. Đường này ở giữa ngón tay cái và ngón tay trỏ và chạy hướng về phía cổ tay. Đường này diễn tả mức độ sinh khí, năng lượng, sức mạnh thể chất, thành tích và sự bền chắc.
Đường nét rất rõ ràng: giới tính phát triển.
Đường cong yếu: thiếu năng lượng và sinh động, nhục cảm suy yếu.
Đường chỉ nhỏ và rõ: sức sống tốt, ý chí tốt.
Đường chỉ rộng: có sức mạnh thể chất nhưng hệ thần kinh rất mong manh.
Đường trí đạo
Nằm ngang ở giữa bàn tay dưới đường tâm đạo, đường chỉ này xác định bạn có suy nghĩ thuần lý hay tưởng tượng.
Nhỏ và sâu: thông minh, đầu óc lanh lẹ.
Rộng: phù phiếm, nông nổi, vật chất.
Đường định mạng (may mắn)
Đường bắt đầu đi lên từ phía đáy bàn tay, hướng về gò thổ tinh và chia bàn tay ra làm hai. Nó diễn tả yếu tố may mắn trong cuộc đời, định mệnh.
Không có: nó cho thấy một cá nhân cần phải làm việc khó nhọc mới thành công.
Đường chỉ sâu: thành công nhưng không thỏa mãn.
Xuất phát từ đường sinh đạo: người này chỉ dựa vào bản thân.
Xuất phát từ cổ tay: nếu khắc sâu, gặp may suốt đời, thành công.
Đường tâm đạo
Đường này nằm ngang ở phần trên của bàn tay. Đường này ngự trị các khía cạnh cảm xúc và biểu lộ tiềm năng tình ái, mối tương quan với người yêu và những người xung quanh, không có đường chỉ này: hoàn toàn vô cảm.
Thẳng: tư tưởng kiểm soát cảm xúc.
Xuất phát từ ngón trỏ: tình duyên và ghen tuông.
Xuất phát dưới ngón giữa: nhục cảm hoàn toàn, thiên về khoái lạc.
Xuất phát từ dưới ngón đeo nhẫn: kém cảm xúc.
Đường thái dương (hay là đường mặt trời)
Song song với đường may mắn, nhiều người không có đường này.
Xuất phát từ cổ tay cho đến ngón đeo nhẫn: may mắn và thành công tuyệt đối, một định mệnh phi thường.
Xuất phát từ gò hỏa tinh: kiên trì và có ý chí thành công.
Xuất phát từ gò mặt trăng: thành công nghệ thuật.
Xuất phát từ đường trí đạo: thành công đến từ sự suy nghĩ.
Xuất phát từ đường sinh đạo: chỉ biết dựa vào bản thân.
Xuất phát từ đường tâm đạo: thành công đến muộn.
Đường hôn nhân (giới tính)
Nằm dưới ngón tay út, nhưng người ta chỉ chú ý đến đường chỉ có nét sâu nhất vì thường có nhiều đường chỉ ở đây. Đây là đường chỉ về hôn nhân hay về giới tính.
Rõ ràng và thẳng: hôn nhân hạnh phúc.
Nhiều đường chỉ cạn: nhiều cuộc sống chung không hôn thú.
Đường chỉ đi lên: độc thân.
Đường chỉ đi xuống: ly thân.
Đường chỉ chẻ đôi lúc đầu: khó khăn khi bắt đầu sống chung.
Đường chỉ chẻ đôi lúc sau: tan vỡ.
Nguồn: Tổng hợp.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Ý nghĩa hình xăm hổ:
Hình xăm hổ là biểu thị sức mạnh, sự liều lĩnh, xả thân. Nó là biểu tượng của đẳng cấp chiến binh. Tuy hổ là chúa tể rừng xanh, nhưng cũng chỉ là thú hoang trong rừng sâu. Hung tợn mà không nham hiểm, khỏe mạnh nhưng không có cơ mưu, những người xăm hổ thường là những kẻ hữu dũng vô mưu xếp hàng Trương Phi.
Sao Địa Không
Thuộc tính ngũ hành của sao Địa Không là âm hỏa, là sát tinh thứ hai trong chòm Trung Thiên Đẩu, và cũng là một trong sáu Sát tinh, chủ về không vong, nhiều tai nạn (đa tai), tương đối bất lợi đối với tiền tài. Sao Địa Không thật ra không phải ngay từ lúc sinh ra đã không có gì, mà chủ về được rồi lại mất, vất vả mà vô ích. Trong cuộc đời, thường là đang lúc ăn nên làm ra, đột nhiên gặp phải tai họa (tai họa gì?) khiến nửa đường đứt gánh, mất cả chì lẫn chài. Vận hạn gặp sao Địa Không, cần phải chú ý những gì đã có, không thể mạo hiểm để tránh nguy cơ phá sản, sập tiệp.
Sao Địa Không nằm một mình tại cung Mệnh, chủ về tính cách khác người, đa biến, thường không giỏi ăn nói nhưng đầu óc thông minh linh hoạt, nhân sinh quan độc đáo khác người, hành sự kỳ dị lạ thường. Dù là mệnh nam hay mệnh nữ, có gia hội cát tinh hay không, đều chủ về tuổi thơ vất vả, thất học, không nơi nương tựa, nghèo khó cơ cực, thân thể yếu nhiều bệnh hoặc thường gặp tai ương, một đời biến động đa đoan, thường lênh đênh phiêu bạt nên không tụ tài.
Sao Địa Kiếp
Thuộc tính ngũ hành của dao Địa Kiếp là dương hỏa, là sát tinh thứ nhất trong chòm Trung Thiên Đẩu, là một trong sát Sát tinh, chủ về kiếp sát, phá tán, là ngôi sao bất lợi với tiền tài nhất trong sáu Sát tinh, đồng thời cũng rất bất lợi cho đường tình duyên. Kiếp nạn của sao Địa Kiếp là kiếp tài (cướp của), không phải từ lúc sinh ra đã như vậy, mà phần lớn là được tài trước rồi mới phá sản, mất mát, thậm chí mất nhiều hơn được, khiến nợ nần chồng chất, gây ảnh hưởng đến đời sống thường ngày, khiến cho cả vật chất lẫn tinh thần đều chịu nhiều áp lực, có thể còn bị vướng vào kiện tụng lao lý. Về đường tình duyên cũng gặp nhiều kiếp nạn, nên, có thể coi sao Địa Kiếp là vua của các Sát tinh, khiến cuộc đời tựa như con thuyền trong bão, bấp bệnh không thể ổn định.
Nếu sao Địa Kiếp đứng một mình tại cung Mệnh, chủ về một đời thăng trầm bất ổn, tâm tính cũng không có nguyên tắc, có lối suy nghĩ và nhân sinh quan độc đáo khác người, thông minh linh hoạt, hành vi kỳ quặc lập dị, không theo lệ thường, không giỏi ăn nói, không thể tụ tài. Nếu đại hạn và tiểu hạn gặp phải, chắc chắn sẽ phá sản.
Hợi thượng khởi Tý thuận an Kiếp
Nghịch khứ tiện thị Địa không hương.
Địa Không thuộc âm hỏa, Địa Kiếp thuộc dương hỏa.
Cổ nhân nói: "Địa không thủ mệnh, chủ về làm việc không tưởng, thành bại đa đoan" (Tác sự hư không, thành bại đa đoan). Địa Kiếp thủ mệnh, chủ về làm việc qua loa, sơ sài, không theo chính đạo. Thực ra có các thuyết này, là vì người có Địa Không thủ mệnh ưa ảo tưởng, cách suy nghĩ của họ, người khác không hiểu được; người có Địa Kiếp thủ mệnh thì thích làm trái với truyền thống, trái với xu thế phát triển của xã hội, hành vi của họ người ta cũng không hiểu được.
Địa Không chủ về tinh thần. Địa Kiếp chủ về vật chất. Cho nên, trắc trở do Địa không mang lại, sẽ đả kích về mặt tinh thần nhiều hơn là tổn thất vật chất. Còn trắc trở do Địa kiếp mang lại sẽ tổn thất về vật chất lớn hơn, đối với sự đả kích về tinh thần.
Địa Không thủ mệnh, ưa gặp tinh hệ chính diệu có sắc thái hành động, như tinh hệ "Vũ khúc Thất sát", hay Tham Lang ở cung vượng, hay Phá quân hóa Lộc, hoặc tinh hệ "Tử vi Thất sát", còn được gặp Cát tinh, tức là chủ về biến những điều không tưởng thành hành động, nhờ vậy có thể tiêu trừ khuyết điểm do Địa Không mang lại.
Nếu Địa Không cùng ở một cung với tinh hệ "Thiên cơ Cự môn", phần nhiều là người không tưởng, hoặc lý tưởng quá cao, mà không thể biến thành hành động thực tế, thế là có biểu hiện "làm việc trồi sụt thất thường", hoặc "làm việc giả dối".
Hỏa trống (không) thì phát, kim rỗng (không) thì kêu, cho nên Địa Không ưa gặp Hỏa tinh ở hai cung Tị hoặc Ngọ, chủ về phát đột ngột, cũng ưa gặp các sao thuộc kim ở hai cung Thân hoặc Dậu chủ về danh vọng. Tuy nhiên, không nên gặp thêm các Sát tinh còn lại và chính diệu hóa thành sao Kị.
Cung Tật Ách có Địa Không bay đến, phần nhiều chủ về mắc bệnh hiếm gặp. Vương Đình Chi từng gặp một trường hợp Thiên Lương thủ cung Tật Ách, gặp Hỏa Linh và Địa Không đồng độ, bị mắc bệnh viêm não.
Địa Kiếp tuy chủ về tổn thất vật chất, nhưng di chứng nhẹ hơn Địa Không. Ví dụ như thất bại của Địa Kiếp giống như mua được một món đồ cỏ quý giá, nhưng khi đến tay thì bị vỡ, tuy có thể sửa chữa, nhưng bản thân thấy không còn thích nữa, còn thất bại của Địa Không thì giống như muốn mua một món đồ cổ, thì lại bị người ta nhanh chân mua trước, cứ tiếc mãi.
Xét từ góc độ tinh thần, thì sự đả kích của Địa Không là khá nặng. Còn nhìn từ góc độ vật chất, thì sự tổn thất của Địa Kiếp là khá lớn. Do đó có thể biết, Địa Không thì không nên ở cung Phúc đức, cung Phu thê, cung Tử tức, đối với Địa Kiếp thì không nên ở cung Mệnh, cung Quan lộc, cung Tài bạch.
Địa Kiếp thủ mệnh, thích hợp với hành động thiết thực, nên khởi nghiệp trong ngành công nghệ, từ đó có thể sáng lập sự nghiệp mới, cũng chủ về có thể phát đạt. Địa Kiếp ưa hai cung Thìn hoặc Tuất, do nhập "Thiên la Địa võng" nên có khuynh hướng khá thực tế.
Không Kiếp giáp mệnh, chủ về cuộc đời gặp nhiều trắc trở, gập ghềnh, bất đắc chí
Không Kiếp đồng độ thủ mệnh, hoặc đối xung, phần nhiều chủ về lúc còn nhỏ tuổi bất lợi, không được cha mẹ che trở, hay đau yếu, nghèo khó, hoặc nhiều tai ách. Cần xem xét các tổ hợp sao của các cung mà định tính chất.
Không Kiếp thủ mệnh, hoặc giáp mệnh, cổ nhân cho rằng lợi về xuất gia. Ở thời hiện đại, có thể là người thích nghiên cứu các môn học ít người lưu tâm.
Địa không Địa kiếp chia ra ở cung Phu Thê và cung Mệnh, chủ về vợ chồng có tính cách không hợp nhau, hôn nhân có nỗi khổ khó nói, phần nhiều đều đau khổ trong lòng.
Địa không là Hung thì chủ về nhiều tai họa, là Cát thì chủ về độ lượng. Địa không ưa các sao Cát, ưa hai hành Kim Hỏa, miếu ở hai cung Hỏa Kim. Kị các sao Hung, chỉ không kị Hỏa tinh, Linh tinh, hãm ở cung Thủy Mộc.
Địa kiếp chủ phá tán, thất bại. Địa kiếp ưa nhất ở hai cung Thìn Tuất, ở các cung còn lại đều không Cát.
Người tuổi Thân phần lớn đều túc trí đa mưu, có tài năng vượt trội hơn người. Vậy trong tình yêu hôn nhân thì người tuổi Thân hợp với tuổi nào, nên kết đôi với ai để có hôn nhân hạnh phúc?
Người tuổi Thân phần lớn đều túc trí đa mưu. Tuy nhiên, họ cũng là người rất hoạt bát và hài hước. Sự lanh lợi, vui tươi cũng khiến họ có nhân duyên rất tốt. Chẳng thế mà người ta có câu: “Chọn vợ phải chọn con gái tuổi Thân mới chuẩn”.
Người này làm việc theo cảm hứng, giàu tính sáng tạo, có tài năng vượt trội hơn người. Có điều, vì bản thân họ quá xuất sắc nên có phần hơi hiếu thắng, độc đoán và trọng lợi danh.
Con người chẳng ai là hoàn hảo. Vậy người như nào sẽ là bạn đời lý tưởng, dung hòa và chấp nhận con người của con giáp này? Người tuổi Thân hợp với tuổi nào, nên kết đôi với ai để có hôn nhân hạnh phúc? Mời các bạn cùng tìm hiểu với Lịch ngày tốt nhé.
Tuổi Thân và tuổi Tị lục hợp, 2 con giáp này rất hợp với nhau về tình duyên, hôn nhân giữa họ cũng vô cùng mỹ mãn. Tuổi Thân cũng khá hợp với tuổi Tý và tuổi Thìn, nếu bạn chọn vợ chọn chồng, đừng bỏ qua 2 con giáp này nhé.
Tuy nhiên, tuổi Thân và Tị, Dần hợp lại thành thế cục Tam Hình, vì thế trong 1 nhà không nên có đủ mặt 3 con giáp trên. Tuổi Thân và tuổi Hợi tương hại, nên tránh kết hôn với người tuổi này để có được hôn nhân hạnh phúc bền lâu.
![]() |
![]() |
Hải Trung Kim nghĩa là vật báu dưới biển (Tuổi Giáp Tý và Ất Sửu) thành khí vật không cần dựa vào Hỏa lực để nấu luyện. Lan tài diệu tuyển có cách ngọc trai tiềm ẩn dưới biển sâu. Lấy Gíap Tý gặp kỷ hợi là Kim trong Thủy, là không dùng hỏa để hỗ trợ giúp tạo thành. Phùng không có cách "Bang châu chiến nguyệt" tức là ngọc trai soi sáng ánh trăng, vì Giáp Tý kim gặp kỷ mùi (hỏa), kim hỏa hóa thành quý thể ví như trong mệnh giáp tý gặp mậu dần, canh ngọ là thổ sinh kim, ất sửu gặp bính dần, đinh mão là hỏa khắc chế kim, tức là thổ sinh kim, hỏa khắc kim, hỏa sinh thổ. Ngoài ra thiên can còn có tình huống tam kỳ. Gặp loại mệnh cục này, mệnh chủ đều không ai được giàu sang và phát đạt.
Hiện tượng: Vào cửa nhìn ngay thấy nhà vệ sinh
Chúng ta vừa bước từ bên ngoài vào trong phòng liền chính diện với nhà vệ sinh, những uế khí từ nhà vệ sinh xông thẳng ra làm cho con người có cảm giác khó chịu, bất lợi cho môi trường trong nhà, gây ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe con người.
Phương pháp hóa giải: Có thể dùng một bức bình phong hình chữ L không trong suốt đặt sau cửa ra vào để hóa giải.
Nếu không có cách nào để đặt tấm binh phong thì cùng có thể treo một tấm rèm dài trên cửa nhà vệ sinh và ở nơi bậc cửa đặt một xâu đồng tiền Ngũ Đế đẻ hóa giải. Độ dài của tấm rèm cửa nhà vệ sinh phải vượt quá chiều cao của bồn cầu mới thích hợp, chất liệu của tấm rèm phải dày dặn, không nhìn xuyên qua được mới thích hợp, không nên dùng vải rèn hoặc rèm chuỗi hạt.
Điều nên biết
Nhà ai gặp các trường hợp kể sau đây thì nên đặt một con Đồng Long (rồng bằng đồng) đẻ hóa giải.
1. Nằm trong ngõ hẻm không cụt
2. Bên phải nhà cao, bên trái nhà thấp
3. Dương khí trong nhà không đủ
4. Phòng (nhà) quá lớn mà khí không tụ
5. Khi túc sát (khí lạnh lẽo) quá nặng
6. Khi cô khắc quá nặng
7. Có góc nhọn đâm thẳng vào, phạm thiên trảm sát
8. Vương tài.
NHẬN XÉT:
Tại đây dễ gặp các cách giáp hay. Đăc biệt giáp XƯƠNG KHÚC trong trường hợp nầy có câu: “XƯƠNG KHÚC giáp trì nam Mệnh quí nhi thả hiển”. Thực chất đây là bộ ÂM LƯƠNG gia thêm THÁI DƯƠNG hình thành tại đây bộ NHẬT NGUYỆT. NHẬT NGUYỆT tại Sửu ví như buổi bình minh Âm dần tàng, Dương bắt đầu sáng. Tại Mùi dương sắp tàn âm sắp vượng. Trong nầy có chứa đựng cách DƯƠNG LƯƠNG nhưng LƯƠNG ở đây không may mắn lắm. Nhưng Dương Lương tại Sửu vẫn còn hy vọng đẹp. Nhưng nói chung tùy thuộc Hung, Cát tinh kết luận mà thôi.
Bộ NHẬT NGUYỆT khi xấu là ÂM DƯƠNG điên đảo, ÂM DƯƠNG điên đảo là sao? Là phụ nữ có khi lấn quyền nam giới.
LUẬN ĐOÁN CÁC CHI TIẾT SAU
BÌNH MINH và HOÀNG HÔN:
ÂM DƯƠNG tại Sửu.
Hình ảnh. Đây là nơi giao hòa của Âm và Dương tại Sửu thiên về âm tàn, dương sắp thịnh, buổi bình minh đang đến hoặc sắp đến, lợi cho DƯƠNG hơn là ÂM. Tức là lợi cho nam hơn là nữ. Lợi cho hành bản MỆNH thiên về Hỏa như Thổ, Mộc. Vì THÁI DƯƠNG thuộc hành Hỏa. Lợi cho sự công khai hơn âm thầm. Lợi cho công việc thiên về ban ngày hơn ban đêm…
ÂM ƯƠNG tại Mùi.
Là cảnh chiều tà, là hoàng hôn buông xuống. Dương tàn Âm sắp thịnh hứa hẹn một đêm dài, đêm vui hay đêm buồn tùy từng trường hợp hợp ta mới biết được. Lợi Âm hơn Dương, lợi nữ hơn nam, lợi cho hành Thủy hoặc tương sinh như Kim, Thổ. Vì THÁI ÂM thuộc hành thủy. Lợi cho sự âm thầm hơn là công khai. Lợi cho công việc thiên về ban đêm hơn ban ngày…
ÂM DƯƠNG HÒA HỢP.
Đây là cảnh Âm Dương giao hòa của trời và trăng, của ngày và đêm, của trai và gái nếu như không có Hung Kỵ Hình tinh cảnh ‘bình minh’ báo hiệu một ngày lành (THIÊN LƯƠNG) và ‘hoàng hôn’ báo hiệu một đêm an vui bắt đầu. Chúng ta thường chúc nhau một ngày may mắn là đây. (Dương Lương: một ngày may mắn, một ngày tốt lành).
NGÀY VÀ ĐÊM:
Vất vả từ sáng sớm đến nửa đêm, một nắng hai sương. Buôn bán cả ngày lẩn đêm
Ngày chẳng yên đêm chẳng vui... tuỳ thuộc hung cát tinh để quyết đoán.
Tốt là ngày đêm yên vui. Xấu là khổ, buồn, cực cả ngày lẫn đêm. Đêm còn nghe tiếng khóc.
Có người công việc làm ban ngày đêm về nghĩ ngơi. Có người công việc khi đêm xuống, nhưng cũng có người đi từ khi (hoặc làm từ khi) còn sơm tinh mơ và trở về hoặc thôi làm khi đêm đã xuống. Thấy được cái cảnh một nắng 2 sương (sương mai và sương đêm). Nhưng cũng có thể là niềm vui như có nhiều thu nhập lớn, đáng buồn có người vất vả thì nhiều hưởng chẳng bao nhiêu.
Bộ ÂM DƯƠNG cho thấy cái cảnh suốt ngày, suốt đêm có thể là cảnh đầu tắt mặt tối (nắng trên đầu đã tắt, mặt tối sầm lại) cảnh suốt ngày ăn chơi đàn đúm, cờ bạc rượu chè, cảnh các chiến binh phải suốt ngày canh gác chiến đấu…. tùy hình ảnh ta nhìn thấy sao ta được quyền mô tả vậy. Nó học hành viết lách suốt đêm ngày, đó là hình ảnh đẹp.
NGÀY và THÁNG:
* Ngày tháng trôi qua, vui buồn, vinh nhục… Đây là yếu tố giúp ta đoán được thời gian. Thái Âm còn chủ tháng, THÁI DƯƠNG chủ ngày . Nếu có THÁI TUẾ chủ năm ta có bộ tam Thái. Từ những yếu tố nầy trình độ cao hơn ta có thể đoán được bao nhiêu năm tháng hạnh phúc hay tai họa, đau ốm bao nhiêu lâu thì khỏi… Chỉ cần bạn nhớ cho ngày và tháng là tốt rồi. Như: Những ngày tháng qua đi khi ta còn ngồi lại… Ngày và Đêm là những đề tài muôn thuở được khai thác nhiều, như thương như tiếc những ngày tháng trôi qua mà chẳng làm được chuyện gì có ích cho gia đình hay xã hội. Để khi cái chết cận kề thấy tiếc nuối.
Chính những người có bộ Âm Dương (không phân biệt Âm Dương Sửu Mùi, Âm Dương Tỵ Dậu, Âm Dương Thìn Tuất, Âm Dương Mão Hợi) dễ cảm xúc về ngày tháng, về đêm và ngày, về cái vất vả của ngày, cái buồn vương về đêm. Như: Thương ai về ngõ tối. Sương rơi ướt đôi môi. Thương ai buồn kiếp người. Lạnh lùng ánh sao rơi. Thương ai về ngõ tối. Bao nhiêu lá rơi rơi. Thương ai cười không nói. Ngập ngừng lá hôn vai.
Buồn kiếp người: Tang Kiếp. Lạnh lùng ánh sao rơi (LINH TINH khi xấu là vì sao rụng, là chiếc lá rơi rơi). Cười không nói là THIÊN LƯƠNG nông cạn, nói cũng chẳng ích gì thâm sâu để làm chi. Kẻ bán người mua thế đủ rồi. Đó là hình ảnh buồn do TCS vẽ ra trong đầu, hoặc chính là hình ảnh thấy trong vô thức lá số TỬ VI của ông ta. THÁI ÂM + TANG KIẾP+ LINH. Người đàn bà của TCS. Và thương ai là bộ HÀ TƯỚNG QUÂN nằm ở đó.
Khi ta dùng đến ngày… tháng … năm … tức là lúc ta có việc quan trọng mới dùng đến ngày tháng năm. Ví dụ ngày…tháng… năm Kỷ Dậu. Em ơi! Từ mặt trận P.T. anh viết vội thư này gởi về em… Từ đây nếu hỏa khí (Hỏa Linh Kình Đà) là những ngày khói lửa chiến tranh, nếu hòa bình là những ngày vất vả vì lịnh lạc khẩn cấp không phải những ngày tháng êm đềm luôn luôn có chuyện khẩn… Nếu có KHÔNG KIẾP là ngày tháng Không May… Tùy theo cái ta nhìn thấy mô tả nó một cách trung thực khi ta có dữ liệu sơ sở. Nếu không lấy gì mô tả, có chăng là nói bậy tùy hứng mà thôi, may nhờ rủi chịu, đúng sai không biết.
NGÀY LÀNH THÁNG TỐT…
Âm Dương ngộ Lương là ngày lành tháng tốt (yếu tố này áp dụng cho tất cả cách ÂM DƯƠNG có LƯƠNG) nhưng ở vị trí này THIÊN LƯƠNG không may mắn lắm (đừng hiểu lầm là lạc hãm, hóa là bất lương. Lương cần đi với Phúc là phúc duyên, đi với cơ là cơ duyên. Hạnh Phúc đâu phải chỉ cơm ăn áo mặc cần có tiếng nói trẻ con THIÊN ĐỒNG, cần có căn nhà THIÊN CƠ cơ ngơi… như vậy phải hiểu không may mắn lắm là như vậy… Bộ ÂM DƯƠNG LƯƠNG chưa hoàn chỉnh. Ý Bửu Đình nói là như vậy đấy. Nếu bất lương hay không thì có các sao KHÔNG KIẾP KỴ HÌNH nó nói. Nói một cách dễ hiểu nhất.
Chính tinh là chủ từ, bàng tinh là túc từ. Tôi muốn là THAM LANG, tôi muốn ăn roi là THAM HÌNH, Tôi muốn yêu thương là TƯỚNG QUÂN, Tôi muốn phục vụ cho Bửu Đình. THAM PHỤC BINH + Bửu Đình. Quá dễ phải không. Phục vụ cho cái xấu + KHÔNG KIẾP vào. Đúng không? Bởi thế người viết đã từng viết những lá số đến 50 trang vở học trò là bình thường. Cứ tặng Đình một sổ carnet một cây bút là thấy khổ rồi, sẽ chết vì chấm TỬ VI. Đâu phải lá số nào cũng dễ nói, né qua tránh lại thiếu trung thực.
Ngày lành tháng tốt là một yếu tố quan trọng trong xây dựng gia đình, nhà cửa… và sinh ra đời được bộ NHẬT NGUYỆT như Sửu Mùi và các cách NHẬT NGUYỆT khác có THIÊN LƯƠNG mà không có Sát Tinh Kỵ Hình được xem như là sinh vào ngày lành tháng tốt. Từ đó có ngày Sinh Nhật, cao hơn là Đản Sinh của Phật, Giáng Sinh của Chúa. Nếu ta sinh vào những tháng ngày khói lửa mặc dù không có cách đó tại MỆNH. Sau nầy có dịp chúng ta sẽ nếm khói lửa thời chiến, khói lửa thời bình, khói lửa ngay chính trong căn nhà chúng ta. Chứ đừng nói rằng, làm gì có chiến tranh trong khi cả thế giới nói chung đang hòa bình. Chiến tranh ngay trong nhà của bạn. Với những ngày không yên đêm không vui, đó là nhẹ nhàng. Ngày hồi hộp đêm lo sợ, chết đi còn sướng hơn. Đôi khi sự thật rất cay đắng. Tốt nhất tự đoán số cho mình là hay nhất. Từ đó, nên TRIỆT đi, xóa đi những hình khắc bắt bẻ, những đòi hỏi thái quá, những ghen tị những cái mình không thể có. Mà người thân mình cũng không thể thỏa mãn cho mình được. Hiểu biết TỬ VI coi như đã đi tu rồi, mĩm cười với HÓA KỴ, vẫy tay với KÌNH DƯƠNG, sẵn sàng vui với ĐÀ LA một đoạn, HỎA TINH ta chọn nhiệt tình, LINH TINH ta chọn sáng suốt, KHÔNG KIẾP ta lấy sợ nạn mà không làm chứ đừng không ngờ gặp nạn. Như vậy là cải số với trời chứ không cãi cọ với người.
TỬ VI Ứng Dụng đem lại cho bạn niềm an vui với số phận. Và Số (THIÊN CƠ) một nơi Phận (TỬ VI) một ngã, số phận gặp nhau là số phận đã an bài. Việc làm hôm nay là việc làm trong định số của người viết. Một người có ngôi TỬ VI TẤU THƯ tại MỆNH hạn tại CƠ ĐỒNG BINH TƯỚNG.
NAM NỮ, ĐÀN ÔNG, ĐÀN BÀ, TRAI GÁI:
Đây là vị trí cả nam lẩn nữ giao hội với nhau với THIÊN LƯƠNG là phơi bày. Quan trọng là phơi bày cái gì? Phơi bày tâm sự. Đó là hình ảnh bên anh đọc sách bên nàng quay tơ, bên sông em giặt lụa trên cầu anh đứng trông, hay bên hiên anh thơ thẩn trong song em lặng nhìn… và sau đó THIÊN LƯƠNG phơi bày tâm sự, cũng từ đó lại chọn ngày lành tháng tốt để anh đến nhà em, để trình bày (chứ không phơi bày nhé) nếu như không có bọn KỴ ĐÀ cản mũi… cứ thế khi nên vợ nên chồng phơi bày cái gì sau đó chắc bạn thừa hiểu, có điều đáng nói là Đình không bày nhưng bạn lại làm rất tốt, cái Đình bày cho lại phản đối?
Nhưng vậy cách ÂM DƯƠNG LƯƠNG có hàm ý dâm tính ở bên trong, tùy dâm tinh tụ tập nhiều hay ít để luận đoán.
GÁI TRAI và LƯƠNG THỰC, LƯƠNG TIỀN.
Khi nên vợ nên chồng vấn đề cái ăn trở nên bức thiết. Tại đây ta chỉ có lương thực chứ chưa phải là cách Đồng Lương là lương tiền (từ ruộng đồng sinh ra lương thực chuyển qua lương tiền) Vì thế bị đánh giá là kém hay như đã giải thích ở trên. Cho nên dẫu sao có THIÊN LƯƠNG là may mắn rồi. Nếu như không có nó thì sao?
GÁI TRAI và một mái nhà.
Tại đây ta chỉ thấy đôi trai gái và một mái nhà đó là THIÊN LƯƠNG (chủ nóc nhà) THÁI ÂM chủ thềm trong, THÁI DƯƠNG chủ thềm ngoài. Nóc và thềm thôi chư đâu phải là cơ ngơi như THIÊN CƠ vì thế khiếm khuyết về nhà cửa chưa hoàn chỉnh nhưng có THIÊN LƯƠNG này cũng có bóng mát cuộc đời, dù là không cao sang.
TIẾNG ĐỘNG DẬY LÊN. ÂM THANH DẬY LÊN:
THÁI ÂM chủ tiếng động. THÁI DƯƠNG chủ dậy lên, phát lên. Tiếng động phát ra có thể lời văn hay ý tốt, là tiếng nhạc tiếng đàn, lời ca tiếng hát nếu đi với XƯƠNG KHÚC và bây giờ nếu bạn còn thắc không khi có người nói: “ÂM DƯƠNG hữu XƯƠNG KHÚC nhi đắc lực” chỉ câu này thôi là hay biết bao nhiêu. Ngần ấy thôi là thấy có công danh, có nghề nghiệp có niềm vui. Vậy thì bộ ÂM DƯƠNG rất cần gặp THANH LONG chủ tiếng nói, hoặc HỒNG LOAN ‘la to’ tiếng nói vui mừng đi với HỈ HỒNG ĐÀO nhưng có thể lời than, tiếng khóc, chưởi rủa, bôi nhọ khi đi với thị phi tinh, sầu tinh… từ đó hướng luận đoán nhiều vô số kể.
Âm Dương Lương là tiếng động phát lên bày tỏ ra, phơi bày ra. Chúng ta chưa biết rõ họ dùng tiếng động đó để làm gì, tín hiệu vui hay cầu cứu SOS. Nếu là tiếng nói. Ồ nói năng có văn hóa nhỉ, nghe được đấy. Là nhờ bởi XƯƠNG KHÚC. Nghe vui tai là đi với ĐÀO HỒNG HỈ, nghe như trăm oán nghìn sầu là đi với TANG KHỐC ĐƯỜNG LA. Sao mà nghe vô văn hóa, chưởi bới… Nhìn sao nói vậy, nghe sao viết vậy.
MỘT SAO CHỦ ẨN, MỘT SAO CHỦ HIỆN, HIDE và SHOW:
Nào chúng ta vào Tools nhấn Foder Option muốn ẩn thư mục nào ta chon hide. Đúng chưa. Biết rồi khổ lắm. Hà hà…
Ẩn là THÁI ÂM tên thiệt của y là ‘âm thầm thái quá’ và THÁI DƯƠNG là ‘công khai thái quá’. Khi cần ẩn là ẩn khi cần hiện là hiện, biến hóa vô lường. Khi ta có 2 yếu tố nầy khi vui ta hiện khi buồn ta bay. Khi nguy biến phải thoát ngay. Nếu không gặp chuyện đắng cay vô cùng.
Thoắt ẩn, thoắt hiện là bộ sao nầy. Như trong vi tính có chức năng ‘Hide’. Tốt là khi cần ẩn thì ẩn, khi cần hiện lại hiện ra. Xấu là khi cần ẩn lại hiện, khi cần hiện ra lại ẩn. Nhận xét chung vừa ẩn, vừa hiện là một yếu tố rất hay. Ví dụ: Như cô ca sĩ hát xong lui vào sân khấu (chẳng lê đứng hát hoài), như một chiến binh khi cần phục kích phải ẩn núp kín đáo, khi cần xung phong lại hiện ra (khiến địch quân khiếp vía, nếu núp nữa coi cũng kỳ).
Và đến đây bạn thấy đó không phải vô cớ Bửu Đình lại phân biệt nhóm sao ẩn hiện. Vì từ đó chúng ta đến THÁI ÂM đôi khi là sao tốt đẹp nhưng thật ra nó không lợi cho ta là bao nhiêu, trong khi ta ưa dương, ưa lộ, ưa phơi, ưa khoe.
Vậy thì THÁI ÂM thuộc nhóm ẩn như TỬ VI THIÊN PHỦ ĐÀ TUẦN.
THÁI DƯƠNG thuộc nhóm lộ THIÊN LƯƠNG TRIỆT KÌNH. Và xem tiếp càng về sau càng hấp dẫn lôi cuốn không chán phèo. Có thế mới là kỳ lạ.
BÓNG TỐI và̀ ÁNH SÁNG. ĐEN TỐI, MỜ ÁM và RÕ RÀNG, SÁNG SỦA:
Kẻ trong bóng tối, người ngoài ánh sáng là đây. Khi cần thì khuất vào bóng tối, khi cần xuất hiện ra ngoài ánh sáng. Cũng như khi cần tắt đèn, khi cần mở đèn. Khi có 2 yếu tố nầy cũng có thể rất nguy hiểm vì có thể làm những chuyện mờ ám, vì thế nó luôn luôn nhị hợp với một sao thủ đoạn là VŨ KHÚC. Đọc tiếp phần dưới ta sẽ rõ hơn.
ÂM THẦM VÀ CÔNG KHAI:
THÁI ÂM chủ âm thầm, lén lút, mờ ám
THÁI DƯƠNG chủ công khai, hợp pháp, minh bạch rõ ràng
Ví dụ: Về mặt công khai đó là công ty bay (công ty hoá chất, vận tải, cửa hàng ăn uống...) nhưng dằng sau đó âm thầm mua bán (vận chuyển, trao đổi...) ma tuý (vũ khí, tiền giả...). Hoặc là nơi chứa chấp (cung cấp...) bọn khủng bô ́(gián điệp, đĩ điếm..).
Đây là bộ sao mang 2 bộ mặt khác nhau. Một bộ mặt hợp pháp, công khai một bộ mặt xã hội đen, buôn lậu, thế lực chống đối hoặc âm thầm, lén lút, mờ ám làm chuyện bất chính. Xung đột mâu thuẩn một bên mờ ám, lén lút, âm thầm và một bên công khai rõ ràng minh bạch như mặt trời với mặt trăng, như ban ngày không thể gặp ban đêm.
Nhưng dẫu sao xét cho cùng, đây cũng là một yếu tố rất hay. Có những cái ta cần âm thầm, có những cái ta cần công khai. Cái quan trọng là âm thầm cái gì? Công khai cái chi?. Đối với người, ta có thể âm thầm thương nhưng công khai la mắng, trong kinh doanh ta cũng có những cái âm thầm ngay nhân viên cũng không được tiết lộ, còn hàng hóa tất nhiên cần được công khai rồi. Trong Quân Sự, Chính Trị yếu tố nầy càng mạnh mẽ, trong âm thầm làm một đường, nhưng công khai làm một nẻo...
Đây là bộ sao phù hợp với một số người, nhưng bất bình cho một số khác. Điển hình là những người thuần dương (THÁI DƯƠNG) như THÁI DƯƠNG tại Tí Ngọ Dần Thân.
Kết luận là kết quả của Sát tinh có hay không? ĐÀO KỴ KIẾP có hay không? Có tạo ra tai họa cho người không?
Tôi âm thầm học tập nghiên cứu. Nay công khai tuyên bố là:…con vi khuẩn D35 có thể chữa bịnh cho người lãnh cảm.
Con âm thầm theo dõi người ấy lâu lắm rồi. Cô ấy là người rất tốt. Nay con công khai đến đây xin phép …
Công khai đưa người cửa trước, âm thầm rước người cửa sau…
Vầy thì cái âm thầm thuộc dạng âm mưu sợ gì? Sợ bại lộ.
Bây giờ giải thích với bạn rằng: Bộ NHẬT NGUYỆT rất khoái bộ TANG HƯ KHÁCH và rất kỵ TRIỆT đáo đầu.
Âm thầm và công khai tốt xấu tùy mục đích.
Âm thầm để một mai dương lên, vươn lên là đặc tính của bộ sao nầy. Một người có bộ Âm Dương tối tăm về già cuộc đời càng sáng sủa. Thuở trẻ thường hay chịu cảnh tối tăm.
TAI và MẮT. NHỮNG ĐIỀU TRÔNG THẤY.
Các sách TỬ VI thường cho là Bộ ÂM DƯƠNG là đôi mắt, điều nầy không có gì bàn cãi. Có chăng là THÁI ÂM còn đãm nhiệm sự nghe. THÁI DƯƠNG đảm nhiệm sự thấy. 5 ngũ quan là : Tai mắt mũi miệng và tay chân. Tay chân ta có THIÊN MÃ đúng rồi, CỰ MÔN là cái miệng ăn nói. Cái mũi, trời ơi! Cái mũi là cái nghệ sỹ… chưa bao giờ đề cập hoặc đề cập một cách kín đáo khó nhận biết. Nào là: Anh nhớ mắt môi em mĩm cười… má em gầy, vai em gầy guộc từng sợi nhỏ (là cái chi?), dài tay em mấy thuở mắt xanh sao. Có ai nhớ cái mũi đâu mà nữ giới đi sửa mũi làm gì tốn tiền vậy chứ. Nhưng Vua Tự Đức viết:
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng.
Xếp tà y lại để dành hơi.
Và cũng chỉ nói cái mũi của mình thôi. Người có văn hóa đập phá cũng có văn hóa. Qua Trần Thiện Thanh là: Gương xưa còn đó nhưng bóng người nào thấy đâu. Áo xưa còn đó nhưng mùi hương phai nhạt rồi… trong ‘Từ đó em buồn’
Và cái mũi là ngôi sao THAM LANG. Đập phá để ngửi (xin cám ơn vua Tự Đức)
* Là thấy tận mắt, là nghe tận tai. Những điều ấy đem đi tố cáo với người khác trở thành 'tai mắt' cho người, có khi là cho địch, có lúc lại đem loan truyền… Cũng có khi không thấy tận mắt, chẳng nghe tận tai nhưng quả quyết là tai nghe mắt thấy.
* Là tai nghe chuyện vui, mắt thấy chuyện mừng. Tai nghe những cái hay, mắt thấy những cái đẹp…
* Cũng là tai nghe mắt thấy những chuyện chướng tai gai mắt, những chuyện không muốn nghe phải nghe, những chuyện không muốn thấy phải nhìn.
* Cũng là tai nghe mắt thấy nhưng tai nghe không tiếp thu, mắt thấy mà không hiểu. Tốt là nghe một hiểu mười, thấy một cái hiểu nhiều cái.
* Có tai như điếc, có mắt như mù, có cũng như không.
* Tốt là tai thính, mắt sáng. Xấu là tai điếc mắt mù. Có cả bộ môn cho Khoa Tai Mắt Múi Họng.
Theo Nguyễn Du bộ ÂM DƯƠNG là những điều trông thấy.
"Trải qua một cuộc bể dâu. Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. "
Lần nữa ta lại thấy giá trị của câu: Âm Dương hữu XƯƠNG KHÚC nhi đắc lực. Được nghe được xem và được nói về văn học nghệ thuật.
(So sánh với cái dò xét theo dõi đáng sợ của Liêm Trinh, cái quan sát của THẤT SÁT, xem xét của THIÊN TƯỚNG và THÁI DƯƠNG dương mắt ngó nhưng một hôm THÁI DƯƠNG dương mắt ngó xong rồi cãi nhưng nó không nằm tại đây).
SỐNG DỞ CHẾT DỞ, DỞ SỐNG DỞ CHẾT, ÂM DƯƠNG bàng hoàng:
* Khi xấu bộ sao nầy rơi vào trạng thái dở sống dở chết. Âm chẳng ra người âm, dương chẳng ra người dương, sống cuộc đời thực vật. Cũng như mọi bộ sao khác
Bộ ÂM DƯƠNG cư Sửu cần gặp và kị gặp
CẦN GẶP:
TAM MINH(ĐÀO HỒNG HỈ) xem mục “Tiếng động dậy lên”
“Mệnh cư ĐÀO, HỈ hướng TỬ, DƯƠNG (THÁI DƯƠNG) phú quí khả kì.
Thân hữu HỒNG, ĐÀO, THAI TOẠ nhi công danh khả tất”
Tức MỆNH có TỬ VI hay THÁI DƯƠNG đi với ĐÀO Vui, Hỉ Mừng phú quý lạ kỳ (Dĩ nhiên không gặp thêm Hung tinh). Thân có 4 sao ĐÀO HỒNG THAI TỌA tất có công danh (ngồi cao la lớn không có công danh sao được)
XƯƠNG KHÚC: mới đắc lực, phú quí vinh hoa. Phú viết: ÂM DƯƠNG hữu XƯƠNG KHÚC nhi đắc lực.” hoặc Phú quý vinh hoa. Cũng như bộ TỬ PHỦ cần Tả Hữu bộ sao hành động cần người giúp đỡ. Bộ ÂM DƯƠNG đa phương tiện (Multidial) cần đi với bộ Nghệ Thuật XƯƠNG KHÚC .
BÁT TOẠ: Xuất nhập nơi quyền quí. Hợp cách.
“BÁT TOẠ hướng THÁI DƯƠNG thị tụng ư cung cấm’. Hình ảnh người đàn ông ngồi trên đài cao. Đặc biệt sao THÁI DƯƠNG rất ái mộ sao nầy.
KHOA LỘC: “NHẬT NGUYỆT KHOA LỘC Sửu cung định thị công danh. QUÍ ÂN, THAI TOẠ, KHÔI HỒNG. văn tài nguỵ lý xuất xử thành công”. Đi với KHOA LỘC tất thị có công danh (ở đây không thể có đủ bộ 3 sao KHOA QUYỀN LỘC
TUẦN KHÔNG: “NHẬT NGUYỆT Sửu Mùi ái ngộ TUẦN KHÔNG. QUÍ ÂN XƯƠNG KHÚC ngoại triều văn tất thượng cách đường quan xuất chính”. Vì Tuần chủ tập trung vào, thu hút vào, nhân vật quan trọng vì văn tài XƯƠNG KHÚC, và bộ QUÍ ÂN chủ ân thưởng vẽ vang. Để giải thích câu phú này cả một loạt tiểu mục để minh chứng. Nếu Âm Dương đắc cách là tiếng nói của một nhân vật quan trọng có văn tài rất vẽ vang, tập trung (tuần) mà nghe.
LỘC TỒN: “THÁI ÂM, VŨ KHÚC, LỘC TỒN đồng. TẢ HỮU tương phùng phú quí ông”
Tức THÁI ÂM + LỘC TỒN + TẢ HỮU, hoặc VŨ KHÚC đi với TỒN TẢ HỮU. Có LỘC TỒN không còn lo lắng bộ KÌNH ĐÀ phức tạp xuất hiện. Bộ LỘC TỒN TẢ HỮU đi với sao nào cũng hay trừ trường hợp đi với SÁT PHÁ, CỰ.
THÁI TUẾ : Tam thái cách. Thái sư, Thái phó, Thái bảo… mơ hồ khó đạt được cần có KHOA LỘC. Làm thái sư phụ dễ gặp.
KỊ GẶP:
TAM ÁM (DIÊU ĐÀ KỊ). Tai nghe mắt thấy bị ám rồi còn nghe thấy chi nữa. Nếu MỆNH có bộ NHẬT NGUYỆT hạn đến bộ tam Ám là xui nhất. Đây là 2 bộ sao kỵ nhau nhất.
HAO TINH: Phi lễ thành hôn (đối với nam)
“Âm phùng Hao tú một phương. Thành hôn chẳng lọ là đường cưới xin.” Vì khi có HAO tức THÁI ÂM ngộ ĐÀ hay ngộ KÌNH
ĐÀ LA: Mệnh cung kị NGUYỆT ngộ ĐÀ LA có tính loạn dâm. Âm ám chủ bị nữ lôi kéo.
KÌNH ĐÀ : Đa khắc thân. Nhân ly tài tán. Vì hình thành các bộ ÂM KÌNH, DƯƠNG KÌNH ÂM ĐÀ, ÂM KÌNH tức âm thầm hay công khai chống đối 2 giới nam và cả nữ trong gia đình (đa khắc thân: khắc nhiều người thân). Từ đó vui thì sống, buồn thì đi (nhân ly tài tán là thế).
KÌNH DƯƠNG :”TUẦN TRIỆT bất khả LỘC TỒN tư cơ phá bại. DƯƠNG NHẪN bất nghi NHẬT NGUYỆT bệnh tật triền miên”. KÌNH ở đây còn chủ phải chống đỡ với nhưng nguy cơ âm thầm trong thân thể của mình (chứ tui không chống ai hết)
“THÁI ÂM ngộ DƯƠNG ĐÀ tất chủ nhân ly tài tán
DƯƠNG NHẨN bất nghi NHẬT NGUYỆT bệnh tật triền miên”
VIỆT LINH HÌNH: Phòng sấm sét, búa đao.
TRIÊT: Tất cả đều lộ ra hết, y như cặp trai gái nằm phơi bày lồ lộ. Cái lộ đó càng cay đắng hơn nếu như có chén thuốc đắng HÓA KỴ bên cạnh, nếu như thuốc độc không ngại gì mà không uống.
Tất cả Âm Mưu, tất cả sự thầm kín sẽ bị phơi bày (THIÊN LƯƠNG) công khai (hoặc đưa ra ánh sáng THÁI DƯƠNG). Xấu tốt do hung, cát tinh mà thôi. Tụ tập nhiều hay ít. Biết bao nhiêu người bị chết… cháy vì cách nầy. Như đã nói cách này không được hoàn chỉnh… vì thiếu một ngôi sao THIÊN ĐỒNG thâm sâu, ngôi sao THIÊN CƠ tính toán kỹ. Vì thế ta ít khi gặp lá số Âm Dương tốt. Nếu không có gì xấu xa khi bị lộ (mà rất dễ lộ. sao TRIỆT cứ chu kỳ 5 năm đến thăm Sửu Mùi một lần, có lúc rủ thêm Kỵ thế là họa đến) không làm điều xấu xa bị phơi bày ra ánh sáng có khi quảng cáo cho mình. Ờ cái đó là âm mưu à! Cái đó là âm thầm giúp đỡ mà thôi. Tại anh ghét anh nói vậy thôi.
Dĩ nhiên những âm thầm nguy hiểm (Kỵ Kiếp) chưa kịp tạo ra có khi bị bóp chết trong trứng nước là vì thế.
Ở đây người viết cần giải thích thêm. Ý người viết nói tại đây có bộ KỴ KIẾP, tức tại bản cung, tam hợp cung hội họp. Nếu có bộ này nằm ở cung xung chiếu mang ý khác. Bản cung có Kỵ cung xung chiếu có KIẾP mang ý khác và ngược lại, bản cung có Kiếp xung chiếu có KỴ tất phải mang ký khác. Ví dụ nội Kỵ ngoại Kiếp: Tại anh ăn hiếp (tức là KIẾP) tui, nên tui mới ghét (kỵ) anh. Vi dụ: Nội Kiếp ngoại Kỵ: Ê mày dám chê (vì Kỵ xung) tao hả? Tao sẽ ức hiếp mày bằng thích. Giải thích rất bình dân, thực tế như vậy không biết bạn có hiểu kịp không? Hay bạn ưa nghe mơ hồ: cần phân biệt thế xung và hợp, nói như vậy 10 người chỉ có 1 người lanh trí hiểu.
KHÔNG KIẾP:
“NHẬT NGUYỆT sát hội nam đa gian đạo nữ đa dâm”
Không cần giải thích bạn cũng hiểu. Đôi trai gái trời ơi này.
GIÁP HAY RẤT DỄ GẶP:
Tại vị trí Sửu Mùi thường dễ gặp các bộ sao đôi hợp chiếu và dễ gặp các cách giáp như: Long Phượng (kề cận quý nhân), Thai Tọa (công danh, nhàn hạ), Quang Quí (ân thưởng vẽ vang). Hay nhất là giáp XƯƠNG KHÚC (ví như tay trái xem sách, tay phải chơi đàn, 2 cung phụ mẫu huynh đệ là giới văn nghệ sỹ). Có câu:
“XƯƠNG KHÚC giáp trì nam Mệnh quí nhi thả hiển”. Trì là tên riêng của Âm Dương, Quế trì là THÁI ÂM, đan trì là THÁI DƯƠNG.
MỘT SỐ CÂU PHÚ LIÊN QUAN .
Ghi lại đây một số câu phú có liên quan, quan điểm một số nhận xét của người xưa.
“NHẬT NGUYỆT Sửu Mùi. ÂM DƯƠNG hổn hợp tự giảm quang huy kị phùng sát tinh, nhược lai văn diệu, diệc kiến QUÍ ÂN, THAI TOẠ, KHÔI HỒNG văn tài nguỵ lý xuất xử thành công”
Tự giảm quang huy. Đình không đồng ý. Đã giải thích ở đầu bài ở Sửu lợi cho THÁI DƯƠNG ở Mùi lợi cho THÁI ÂM. Văn tài nguỵ lý cũng không đồng ý vì các bàng tinh sẽ đánh giá công việc ấy như HƯ PHÁ, PHI LIÊM.
“NHẬT NGUYỆT Sửu Mùi ái ngộ TUẦN KHÔNG. QUÍ ÂN XƯƠNG KHÚC ngoại triều văn tất thượng cách đường quan xuất chính”
“Mấy người bất hiển công danh. Vì chưng NHẬT NGUYỆT đồng tranh Sửu Mùi”
Ngày xưa KHHB tranh luận câu này. Người cho bất hiển, người cho là phỉ hiển (Thỏa mãn toại nguyện). Xét cho cùng quá võ đoán, vớ vẩn chỉ bộ Âm Dương chưa đủ điều kiện ắt có và đủ như trong toán học. Thấy tốt ta mới kết luận tốt, xấu ta kết luận xấu. Đó là việc làm của các bàng tinh.
Kể các câu phú dưới đây thuộc loại võ đoán.
“NHẬT NGUYỆT Mệnh, Thân cư Sửu Mùi tam phương vô cát phản vi hung”.
“NHẬT NGUYỆT đồng lâm quan cư hầu bá”
“THIÊN LƯƠNG, THÁI ÂM tác phiêu bồng chi khách.”
Sưu tầm
Cận thị có liên quan đến thói quen xấu, nhưng cận thị ở một số người là do di truyền.
Có một số em bé khi sắp bị bệnh thì nằm mơ thây bệnh nhưng không biết cách đề phòng, cũng không nói cho bố mẹ biết.
Có một bé trai tên là Lâm Phong ở Trung Quốc khi lên 9 tuổi nằm mơ thây một đóa hoa lớn, màu hồng, nở rộng nhưng héo ngay; trên đóa hoa có mây mù, giống như buổi sáng mùa đông. Do còn bé nên em không nói cho ai biết về giấc mơ. về sau em cảm thây mắt có chút mờ đi, xem sách phải để gần. Đến tuổi hiểu biết em cảm thây đau khổ, sau đó đi khám em mới biết thị lực hạ thấp khá nghiêm trọng.
Lâm Phong có một em trai tên là Lâm Nguyên theo cha sông ở Paris. Khi Lâm Phong nằm mơ thấy đóa hoa thì Lâm Nguyên ở xa hàng chục nghìn cây số cũng nằm mơ thấy những vật tương tự như thế. Lâm Nguyên kinh ngạc kể với cha. Cha của Lâm Phong và Lâm Nguyên là một nhà thiên văn học, hiểu biết về mơ không nhiều, nhưng ở Paris ông có một người bạn, một chuyên gia tâm lý, ông này sau khi biết nội dung giấc mơ của Lâm Nguyên đã dự đoán có thể em bị cận thị, ông hỏi về tình hình bệnh tật của toàn gia đình rồi kết luận đây là do di truyền. Ông đề nghị đưa Lâm Nguyên đi bệnh viện kiểm tra mắt. Kết quả là bệnh khá nặng nhưng nhờ kịp thời điều trị nên có chuyển biến tốt.
Trong giấc mơ của Lâm Phong và Lâm Nguyên, đóa hoa tượng trưng cho đôi mắt của hai em. Hiện tượng này cho thấy: Không được xem thường giấc mơ.