Mơ thấy bơi lội: Nguyện vọng được tự thân trải nghiệm –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Chùa Bát Tháp được xây dựng từ rất lâu đời trên núi Vạn Bảo, một ngọn núi thấp ở kinh thành Thăng Long vào thời Lý Trần. Các nhà khảo cổ học sau chùa đã tìm thấy nhiều di vật thời Lý, Trần. Đến năm Gia Long thứ 2 (1803), dân làng Vạn Phúc đã hợp nhất chùa núi Voi và chùa Vạn Bảo để xây dựng nên ngôi chùa. Theo nhà nghiên cứu Trần Huy Bá giải thích thì sở dĩ chùa có “ngọn tháp để hình bát” nên được đặt tên là chùa Bát Tháp.
Chùa Bát Tháp nằm trên một khu đất cao quận Ba Đình – Hà Nội theo hướng Nam, trên vị trí cao nhất của ngọn Vạn Bảo Sơn, có mặt bằng hình chuôi vồ, gồm tiền đường 7 gian, 2 dĩ và hậu cung 3 gian.
Tam quan của chùa được xây hai tầng tám mái với lối vào được tạo dựng theo hai dạng thức khác nhau. Cửa chính có bề mặt hình chữ nhật, phần dưới mở vòm cửa lớn trông thẳng vào Tiền đường. Tầng trên mở nhiều cửa nhỏ trông ra bốn phía. Hai bên cửa được xây giống nhau trên trổ những cửa tròn “sắc – không” theo giáo lý đạo Phật. Tiền đường có quy mô lớn gồm có 7 gian, 2 dĩ, hàng hiên trước khá rộng do mái chảy dài. Ngoài hiên là hệ thống cột đá hình hộp chữ nhật được mài nhẵn, trên đá khắc những vế câu đối ca ngợi công đức nhà Phật và cảnh đẹp của chùa cùng những trang trí hình long, ly, quy, phượng. Sau chùa là nhà thờ Tổ và khu vườn rộng.
Kiến trúc chùa Bát Tháp đã tạo ra các hình khối chắc khoẻ, gây được cảm giác mạnh mẽ đối với con người. Bên cạnh đó là những đầu đao cong vút cùng các đề tài trang trí điểm xuyết lại tạo nên sự nhẹ nhàng, bay bổng cho kiến trúc. Bố cục chung của toàn bộ ngôi chùa cũng rất chặt chẽ, gắn kết và tôn đẩy lẫn nhau. Số lượng tượng tròn ở đây tuy không nhiều, kích thước vừa phải, nhưng có giá trị thẩm mỹ cao. Là những pho tượng mang ý nghĩa tôn giáo, nghĩa là phải tuân theo những quy định ngặt nghèo của lý thuyết cổ xưa, song bằng sức lao động sáng tạo, nghệ nhân xưa đã tạo nên nhiều tác phẩm nghệ thuật có giá trị theo dòng điêu khắc dân gian truyền thống.
Hệ thống tượng trong chùa gồm hai loại khác nhau: tượng Phật và tượng Mẫu, được làm bằng chất liệu gỗ và đồng. Niên đại tạo tác cũng không đồng nhất, một số ít ra đời vào cuối thời Lê, còn đa phần là những tác phẩm thuộc thời Nguyễn.
Chùa còn khá nhiều di vật có giá trị như: đôi hạc đồng, bát hương, chuông đồng “Bát Tháp tự chung” đúc năm Gia Long thứ 2 (1803)… góp phần làm cho di tích thêm sống động, phong phú. Chùa Bát Tháp đã được xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia ngày 5.9.1989.
Rất nhiều người khi bố trí nhà cửa thường quan tâm tới phong thủy phòng ngủ, phòng khách nhưng lại bỏ qua nhà bếp vì cho rằng nó không quan trọng. Nhầm to nhé, hướng nhà bếp tốt, phong thủy nhà bếp lành sẽ mang tới cực kì nhiều điều may mắn cho ngôi nhà đấy.
![]() |
![]() |
Mơ thấy Bồ Tát đang ngự trên tòa sen là điềm báo bạn sẽ đỗ đạt trong thi cử hoặc đạt công thành danh toại. Chiêm bao thấy Bồ Tát từ trên trời đang hạ xuống, gia đình bạn sẽ gặp nhiều may mắn, con cái sẽ thành đạt.
![]() |
Ảnh minh họa |
Giai thoại cùng với những lời sấm tiên tri của ông vẫn còn được truyền tụng tận đến ngày hôm nay và nhiều khi ứng nghiệm đến bất ngờ, chẳng hạn như hai câu “Bao giờ Tiên Lãng xẻ đôi/Sông Hàn nối lại thì tôi lại về”…
Học được nhiều điều từ mẹ
Tương truyền, thuở nhỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm có tên là Nguyễn Văn Đạt, với ý là sẽ thành đạt. Mẹ ông là Nhữ Thị Thục, con gái Hộ bộ Thượng thư Nhữ Văn Lân, là bậc nữ lưu tài hoa vào bậc nhất chốn kinh kỳ thời bấy giờ. Bà giỏi văn chương và tài học về lý, số., tử vi, toán học và phong thủy. Biết trước những gì có thể xảy ra và có ước vọng là lấy chồng làm vua hoặc có con làm vua.
Do đó trong quá trình dạy dỗ, bà đã truyền cho Đạt ước vọng ấy. Một hôm khi bà đi vắng, ông Định ở nhà với con và tình cờ hát: “Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung”. Không ngờ Đạt nhanh nhảu ứng đối lại ngay: “Vịn tay tiên, nhè nhẹ rung”. Khi bà về đến nhà, ông rất tâm đắc kể lại chuyện ấy thì bị bà trách: “Nuôi con mong làm vua làm chúa, cớ sao lại mong làm bầy tôi “ (Nguyệt chỉ bầy tôi).
Lại một lần khác, bà dạy cậu bé Đạt câu hát: “Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con tựa ngai vàng”. Ông Định hoảng sợ vì nếu triều đình hay được sẽ mất đầu về tội khi quân, nên sửa lại: “Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con vịn ngai vàng”. Nhiều lần như vậy, bà rất bất bình nên bỏ đi khiến Văn Đạt lớn lên chỉ được ở cạnh bố.
Đến tuổi trưởng thành, Văn Đạt đã cất công vào tận xứ Thanh để học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, một quan đại thần hồi hưu sớm. Vốn sáng dạ lại chăm chỉ nên chẳng bao lâu Đạt đã trở thành học trò xuất sắc nhất của người thầy họ Lương. Bởi vậy mà trước khi qua đời, Lương Đắc Bằng đã trao lại cho Nguyễn Bỉnh Khiêm bộ sách quý về Dịch học là “Thái Ất thần kinh”. Gặp thời đại loạn, trông gương thầy mình, lại biết “bấm độn” nên Văn Đạt đã bỏ qua tới 9 kỳ đại khoa (trong đó có 6 khoa thi dưới triều Lê sơ và 2 khoa thi đầu tiên dưới triều Mạc).
Tới năm 1534, dưới thời Mạc Thái Tông, ông mới quyết định đi thi. Trước khi đi thi, ông đổi tên khai sinh Nguyễn Văn Đạt thành Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nghĩa của hai chữ “Bỉnh Khiêm” được hiểu là “giữ trọn tính khiêm nhường”. Khoa thi Hương năm 1534 ông đỗ đầu, sau đó ông đỗ đầu hai kỳ thi Hội, thi Đình năm 1535, đoạt danh hiệu Trạng nguyên nhà Mạc.
Thầy địa lý phương Bắc cũng bái phục
Đồn rằng, do được thầy Lương Ðắc Bằng truyền cho quyển “Thái ất thần kinh” nên Nguyễn Bỉnh Khiêm tinh thông về lý học, tướng số, có thể tiên đoán được biến cố trước và sau 500 năm. Chẳng thế mà có đôi câu đối ở đền thờ Bạch Vân am “Kế tuyệt, phù suy Chư Cát Lượng/ Tri lai, tàng vãng Thiệu Nghiên Phu” (Nối được cái đã đứt, đỡ được cái đã suy như Chư Cát Lượng/Tìm hiểu việc đã qua, dự đoán việc mai sau như Thiệu Nghiên Phu). Tiếng tăm của ông không chỉ nổi ở trong nước mà còn vang đến tận Trung Hoa, khiến giới học giả ở đó cũng ngưỡng mộ xưng tụng: “An Nam lý số hữu Trình Tuyền”.
Sau khi Trạng Trình mất, có thầy địa lý nổi tiếng ở Trung Quốc muốn xem thực, hư chuyện Trạng thế nào đã lặn lội sang tận mộ cụ. Đến nơi, thấy ngôi mộ đặt đúng vào huyệt đất tốt nhưng huyệt phát ở đằng chân mà mộ lại đặt ngược, ông thầy Tàu cho là Trạng Trình cũng chỉ có danh mà không có thực, mới tự đắc bảo: “Cái huyệt ở đàng chân sờ sờ thế kia mà không biết lại tự đem để mả thế này. Có thánh nhân cái gì đâu, hay là thánh nhân mắt mù đó”.
Con cháu cụ Trạng nghe thấy vậy liền khẩn khoản nhờ thầy đặt lại mộ cho. Ông thầy Tàu đồng ý và bảo: “Không cần phải đem đâu xa cả, chỉ cần đào lên rồi xoay lại quan tài và nhích lên một chút là được”. Y lời, con cháu cụ Trạng đào mộ lên, đến gần quan tài thì thấy có tấm bia. Ông thầy mới bảo rửa sạch đi để xem bia viết gì. Thì ra tấm bia có khắc một bài thơ: “Ngũ thập niên tiền mạch tại đầu/ Ngũ thập niên hậu mạch quy túc/ Hậu sinh nhĩ bối ná năng tri/ Hà vị thánh nhân vô nhỉ mục?” (Nghĩa là: Ngày nay mạch lộn xuống chân/Năm mươi năm trước mạch dâng đằng đầu/ Biết gì những kẻ sinh sau/ Thánh nhân mắt có mù đâu bao giờ?). Đọc xong tấm bia, ông thầy Tàu kinh hãi, toát cả mồ hôi hột, thì ra Trạng đã tiên liệu mọi việc.
“Tư vấn” cho nhiều anh hùng, chính khách
Vào thời Lê – Mạc, giữa Trịnh Kiểm (con rể Nguyễn Kim) và Nguyễn Hoàng (con Nguyễn Kim) có cơ xảy ra mâu thuẫn một mất, một còn. Khi Nguyễn Hoàng xin ý kiến Trạng về đường đi nước bước, ông đã tặng cho hai câu: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, với ý bảo rằng hãy tìm đường vào phía Nam dựa vào dãy Trường Sơn mà tồn tại. Nguyễn Hoàng nghe theo, nên xin Trịnh Kiểm vào trấn giữ từ Đèo Ngang trở vào. Nhờ thế Nguyễn Hoàng chẳng những bảo toàn được tính mạng mà còn lập nên cơ nghiệp của họ Nguyễn ở Đàng Trong, truyền nối lâu dài đến mấy trăm năm.
Năm Mậu Thân (1548) Vua Lê Trang Tông mất, Trịnh Kiểm lập Thái tử tên Duy Huyên lên ngôi, tức Lê Trung Tông, được 8 năm thì mất, không có con nối nghiệp. Trịnh Kiểm muốn làm vua nhưng còn sợ dư luận nên sai người đến hỏi ý khiến Trạng Trình. Ông chỉ bảo: “Chịu khó mà thắp nhang, thờ Phật thì ăn oản” (có nghĩa rằng, phải thờ nhà Lê thì có lộc). Hiểu ý Trạng, sau đó Trịnh Kiểm tìm con cháu họ Lê, đưa lên làm vua, tức là Lê Anh Tông.
Nhà Mạc suy vong, trước khi Trạng mất đã đến xin ý kiến nên tồn tại thế nào, ông đã đọc hai câu: “Cao Bằng tàng tại, Tam đại tồn cô” (nghĩa rằng rút về đất Cao Bằng thì sẽ kéo dài thêm được ba đời nữa). Con cháu nhà Mạc đã theo kế ấy, thu về đất Cao Bằng và đã tồn tại được thêm ba đời là Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan và Mạc Kính Vũ.
Ứng nghiệm cả ở đời sau
Trước lúc mất, Trạng có giao cho con cháu một ống tre sơn son thếp vàng, bịt kín hai đầu và dặn đúng năm tháng ấy, ngày giờ ấy, phải để cái ống ấy vào kiệu rước lên dinh Thống đốc Hải Dương, trao cái ống này cho quan. Trạng còn dặn thêm là tuyệt đối không được mở ống ra xem trước thời hạn và trừ quan Tổng đốc ra, không ai được mở ống.
Sau khi Trạng mất, con cháu Trạng lâm vào cảnh đói nghèo, sa sút. Nhưng phải đến đời thứ bảy, cái ống tre ấy mới được rước lên dinh quan Tổng đốc, đúng ngày giờ đã ghi trong gia phả. Đang nằm nghỉ, nghe tin con cháu cụ Trạng mang thư đến gặp, quan Tổng đốc rất ngạc nhiên, không biết vì cớ gì, nên truyền cho vào, đồng thời quan ngồi dậy để đi ra cửa. Quan Tổng đốc vừa bước khỏi giường nằm được mấy bước thì bỗng “rầm” một cái, chiếc xà nhà bằng gỗ nặng không biết bị mọt ăn hỏng từ bao giờ, rơi ngay xuống chỗ giường vừa nằm.
Thật là một phen hú vía! Quan Tổng đốc mở ống tre ra xem, thấy bên trong có một cuộn giấy, đề hai câu thơ:”Ngã giải nhĩ thượng lương chi ách/ Nhĩ cứu ngã tử tôn chi bần” (Nghĩa là: Cứu ngươi thoát nạn đổ nhà/ Ngươi nên cứu cháu con ta khỏi nghèo). Quan Tổng đốc biết rằng Trạng Trình đã cứu mạng, nên ông ta đã giúp con cháu cụ Trạng nhiều tiền của để đền ơn.
Năm Minh Mạng thứ 14, Dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ được Vua điều đi khẩn hoang ở vùng Hải Dương. Vấn đề là cần phải đào con sông, mà đào sông thì phải phá đền thờ Trạng Trình. Ông bèn ra lệnh cho dân phu phá đền để đào sông.
Trước khi phá, sai người đào vào đền mang bát hương ra, Nguyễn Công Trứ chợt thấy dưới bát hương có một tấm bia đá nhỏ phủ vải điều. Sau khi lau sạch, tấm bia lộ ra dòng chữ: “Minh Mạng Thập tứ/ Thằng Trứ phá đền/ Phá đền phải làm đền/ Nào ai đụng đến doanh điền nhà bay”. Thất kinh, Nguyễn Công Trứ chẳng những bãi bỏ lệnh phá đền mà còn cho sửa sang lại khang trang hơn.
A. Câu chuyện về việc đeo nhẫn thuận theo phong thủy
Bà Thu, phụ trách kinh doanh công ty thương mại Thanh Hòa ở quận Tân Bình vốn là người chẳng bao giờ tốn tiền sắm trang sức cho mình. Thế nhưng mới đây, người quen gặp bà đều ngạc nhiên khi thấy bà đeo cả bộ nhẫn, lắc, dây chuyền. Bà bảo: “Vì mình xem ngày thấy cả ngày, giờ và tháng sinh đều là mạng thổ, thầy phong thủy bảo khi vượng thổ quá, thì dùng kim để hạn chế lại, làm ăn mới tốt”.
Có nhiều xu hướng khác nhau đang chi phối cách lựa chọn trang sức theo phong thủy.
Theo người phương Tây, có 12 loại đá, thể hiện dưới 12 sắc màu khác nhau ứng với 12 tháng trong năm để mang lại hạnh phúc, may mắn, sức khỏe... cho những người có ngày sinh trong tháng đó. Chẳng hạn, tháng 1 là đá garnet, tháng 2 là thạch anh tím, tháng 3 là aquamarine, tháng 4 là kim cương, tháng 5 là emerald…
Theo người phương Đông chọn những con vật linh như cóc, ngựa, rồng, sư tử... làm biểu trưng cho sự phát đạt, thành công, thăng tiến... Chọn đá quý và bán quý theo phong thủy của phương Đông là lấy các sắc màu đá ứng với ngũ hành kim, mộc, thủy, hỏa, thổ và tùy theo mạng từng người mà chọn theo hướng tương sinh tương khắc.
Quan điểm mới của những người trẻ hiện đại chọn những món trang sức gắn với các truyền thuyết và câu chuyện huyền thoại. Như cỏ bốn lá gắn với câu chuyện kể rằng, có một cậu bé can đảm bước vào rừng sâu, đi mãi qua bao thác ghềnh với một trái tim dũng cảm để tìm được loại cỏ bốn lá (four-leaf clover) – Bốn món quà thượng đế ban tặng cho mỗi đứa trẻ khi mới ra đời, là niềm hy vọng, niềm tin, tình yêu và sự may mắn.
Bên cạnh đó, niềm tin của người đeo trang sức theo phong thủy còn biến thể vào những con số. Quy luật phép cộng may mắn thể hiện rõ nhất khi dùng kim cương là chọn các loại hạt kích cỡ có tổng số cộng lại bằng 9 để đem lại sự may mắn, chẳng hạn, dùng kim cương 3,6 li; 4,5 li; 5,4 li; hoặc 7,2 li...
Chính điều này đã tạo nên nghịch lý, là giá kim cương 2,7 li có thể đắt hơn 3,2 hoặc 3,4 li. Người mua sính lễ tuyệt đối tránh những viên kim cương có con số tổng là 4 hoặc 14, vì theo phát âm tiếng Hoa chữ này trùng với âm “tử”– (tức là chết), rất xui xẻo. Nếu dùng làm quà tặng khai trương, tân gia hoặc giới làm ăn lại chuộng con số 8 với hy vọng tiếng Hoa phát âm chữ “bát” trùng với chữ “phát”.
B. Đã chơi thì theo cho trót
Anh Thuần, giám đốc công ty tư vấn một doanh nghiệp, anh khá tin vào thuật phong thủy, xem tử vi đã phải mất hàng tháng trời cùng với khoản chi phí gần 20 triệu đồng mới “thỉnh” được viên ruby sao màu đỏ tím từ một thầy chuyên coi phong thủy để làm mặt nhẫn đeo vào ngón giữa tay trái nhằm “trấn” giữ tiền bạc không bị hao tổn. Sự khác biệt này nhìn ở bề ngoài không thể thấy được, chỉ biết viên đá có trọng lượng và ánh – sắc tương tự, giá bán ở các tiệm trang sức chỉ chừng 6 – 7 triệu đồng.
Chị Trâm, một giảng viên ngoại ngữ còn phối hợp cả Đông – Tây lẫn quan điểm hiện đại. Cụ thể chị sinh tháng 9 – theo phương Tây hợp với đá Sapphire. Nhưng mạng của chị lại là mạng hỏa, nếu dùng màu xanh dương đặc trưng của Sapphire thì màu xanh này là đặc trưng của mạng thủy – thủy khắc hỏa không hợp với chị. Nên chị chọn Saphia màu cam và vàng.
Hai màu này trên thị trường hiếm có, chị phải vào mạng internet dò tìm, đến nhiều tiệm chuyên bán đá quý mới có. Khi chọn được đá, chị thiết kế kiểu nhẫn đeo vào ngón giữa chứ không đeo ngón áp út vì cho rằng chiếc nhẫn lấp đầy khoảng trống giữa các ngón tay (khi duỗi thẳng năm ngón thì không còn khoảng hở giữa các ngón), sẽ giúp tiền tài vào thì nhiều mà ra sẽ hạn chế.
Bà Hiền, giám đốc công ty vàng bạc đá quý ở chợ Xóm Chiếu, quận 4 đánh giá: “Trước kia chỉ người lớn tuổi mới chọn trang sức theo phong thủy, còn bây giờ giới trẻ cũng theo trào lưu này, có lẽ từ sự phổ biến lan truyền thông tin trên sách báo, mạng internet”.
Bà Mỹ Hạnh, giám đốc công ty trang sức thời trang Zemma bổ sung thêm: “Thông thường người mua trang sức chỉ chọn vàng để làm của, còn bây giờ giới trẻ mua trang sức theo phong thủy để tìm kiếm sự may mắn nên không quá chú trọng đến vàng, họ có thể chọn vàng thấp tuổi, bạc hay kim loại khác, miễn là màu sắc, loại đá và kiểu dáng phù hợp.
Hiện nay, hàng loạt các công ty kinh doanh trang sức đã nắm bắt nhu cầu thị trường, tung ra nhiều bộ sưu tập mới, thiết kế mới với từng tông màu, vàng, xanh lá cây, ngọc trai, xanh dương... theo từng tháng trong năm. Hoặc ở các tiệm vàng khu vực quận 5, quận 6, quận 11… các món trang sức hình hồ lô, cóc kim tiền, đồng tiền, nhẫn đính năm hạt (sanh – lão – bệnh – tử – sanh)… thường xuyên có mặt trong tủ trưng bày.
Với kinh nghiệm gần 30 năm trong nghề kinh doanh vàng bạc đá quý, bà Sương, giám đốc công ty Kim Hoàn Việt cho rằng: “Không chỉ có người buôn bán mới chuộng trang sức theo phong thủy, ngay cả giới trẻ, người đi làm ở các văn phòng, khi chọn trang sức cũng lựa đá, lựa màu theo tháng sinh, theo mạng tuổi…”
Ghi nhận từ các khách hàng, bà Sương cũng cho biết, khách chọn trang sức theo phong thủy để có niềm tin vào công việc sẽ tốt hơn, để tìm sự may mắn, hạnh phúc hơn, chứ không hề cực đoan như kiểu mê tín.
Vậy, thật ra đeo nhẫn có cần tuân theo quy luật Phong thủy nào không?
C. Ngũ hành của các ngón tay
Trong Phong thủy, khi đeo nhẫn ở bàn tay phải có nghĩa là bạn đang mong chờ sự giúp đỡ từ năng lượng siêu linh; ngược lại, đeo nhẫn ở bàn tay trái lại mang ý nghĩa bạn đặt hy vọng vào các mối quan hệ giữa người với người.
1. Ngón cái: Thuộc Mộc, tượng trưng cho cha mẹ, tự đứng vững trên đôi chân của mình
Khi đeo nhẫn ở ngón này, bạn là người độc lập, mạnh mẽ, thách thức bất kỳ trở ngại nào; Có thể bạn sẽ là một Lãnh đạo tốt song sẽ khó tìm một tình cảm chân thành khi cần; Bạn sẽ cô độc trong thế giới của mình, khó thành công trong cuộc sống.
2. Ngón trỏ: Thuộc Hỏa, củng cố uy quyền bằng sự độc đáo, sáng tạo
Đeo nhẫn ở đây khiến bạn trở nên có nhiều tham vọng với năng lực của chính mình. Chân thực, trách nhiệm và phóng khoáng, bạn suy nghĩ mọi thứ theo cách riêng của mình và không ngại khi nói cho người khác về điều đó. Ngón trỏ tượng trưng cho anh chị em ruột.
3. Ngón giữa: Thuộc Thổ, quan hệ ruột thịt và tình bạn là cao quý nhất, giảm hao tài
Nếu bạn đeo nhẫn ở ngón này, bạn rất quý trọng gia đình và bạn bè, gần như không có khúc mắc gì đối với họ vì bạn đối xử hết lòng. Bạn biết giữ cân bằng trong cuộc sống và khá kín tiếng về đời tư. Tuy nhiên, bạn thường gặp xung đột và rắc rối trong các mối quan hệ khác. Ngón giữa chính là bạn.
4. Ngón đeo nhẫn: Thuộc Kim, tăng vận đào hoa, thành công nhờ nhiệt huyết của trái tim
Đeo nhẫn ở ngón này nghĩa là bạn đang đặt hy vọng vào điều mà mình đang khát khao nhất bằng cả con tim; Bạn hăng say thực hiện để đạt mục đích một cách uyển chuyển và khéo léo. Bạn sống nội tâm và cũng mong người khác đối xử với mình bằng sự chân thật. Ngón đeo nhẫn tượng trưng cho người bạn đời của bạn.
5. Ngón út: Thuộc Thủy; Nhà ngoại giao tài ba
Khi bạn đeo nhẫn ở đây, bạn có thể thân thiết với mọi người, cho dù đó là ai, thuộc tầng lớp nào. Bạn nhận được sự cảm thông sâu sắc từ mọi người và thành công nhờ lòng yêu mến của họ. Ngón út tượng trưng cho con cái.
6. Người đàn ông giàu nhất hành tinh có đeo nhẫn
Bill Bates, Bernard Arnault, Lakshmi Mittal, Stefan Persson,Vladimir Lisin, Charles Koch.
7. Sáu người phụ nữ giàu nhất hành tinh có đeo nhẫn
Hillary Clinton, Indra Nooyi, Sheryl Sandberg, Michelle Obama, ChristineLagarde, Irene Rosenfeld.
D. Ngũ hành của nhẫn:
1. Nhẫn thuộc Kim:
Nhẫn thuộc Kim thường có hình dạng tròn, nhẫn trơn không có mặt lồi lên nạm bằng đá quý. Trên thân nhẫn có thể gắn kết những viên đá quý hình tròn có màu vàng, trắng. Nhẫn phải được thiết kế đơn giản với màu trắng hoặc màu vàng và chất liệu thường làm từ vàng tây, bạch kim, bạc. Nhẫn thuộc hành Kim hợp cho những người mạng Thuỷ. Ngũ hành thuộc Kim làm cho tình yêu thêm bền vững, tình nghĩa vợ chồng gắn kết lâu dài, lợi cho sự nghiệp, kinh doanh, buôn bán.
Sự kết hợp giữa kim cương, vàng và bạch kim sẽ tạo nên vẻ đẹp độc đáo cho mỗi chiếc nhẫn này.
2. Nhẫn thuộc Mộc:
Nhẫn cưới thuộc Mộc, thường có hình dạng tròn được cách điệu với những nét uốn lượn, vặn chéo, hoặc cách điệu thành hình chữ nhật. Nhẫn có mặt lồi lên được thiết kế thành hình tròn, bầu dục, hình chữ L, có nạm những viên đá quý màu xanh. Trên thân nhẫn có thể gắn kết những viên đá quý hình có màu xanh. Nhẫn thuộc hành Mộc hợp cho những người mạng Hoả. Ngũ hành thuộc Mộc làm cho tình yêu thêm chan hoà, tình cảm vợ chồng thêm những chia sẻ, thuận hoà, lợi cho con cái.
3. Nhẫn thuộc Thuỷ:
Nhẫn cưới thuộc Thuỷ thường có hình dạng tròn được cách điệu với những nét uốn lượn, thân nhẫn mảnh khảnh, có thể có dạng hình chữ S, nhẫn có mặt lồi lên được thiết kế thành hình tròn, bầu dục, có nạm những viên đá quý màu xanh tím, xanh đen, màu lục hoặc màu đen. Trên thân nhẫn có thể gắn kết những viên đá quý hình có màu sẫm. Nhẫn thuộc hành Thủy hợp cho những người mạng Mộc. Ngũ hành thuộc Thuỷ làm cho tình yêu thêm chan hoà, tình cảm vợ chồng thêm những chia sẻ, thuận hoà, lợi cho học vấn và sự nghiệp.
4. Nhẫn thuộc Hoả:
Nhẫn cưới thuộc Hoả thường có hình dạng nhọn, được cách điệu với những nét nhô cao, thân nhẫn có thể cắt chéo các cạnh, có thể có dạng hình chữ V, nhẫn có mặt lồi lên được thiết kế thành hình tam giác, đa giác, có nạm những viên đá quý màu hồng, đỏ hoặc màu da cam. Trên thân nhẫn có thể gắn kết những viên đá quý hình có gam màu đỏ, hồng. Nhẫn thuộc hành Hoả hợp cho những người mạng Thổ. Ngũ hành thuộc Hoả làm cho tình yêu thêm nồng cháy, ấm áp, tình cảm vợ chồng thêm những chia sẻ, lợi cho danh tiếng.
5. Nhẫn thuộc Thổ:
Nhẫn cưới thuộc Thổ thường có hình dạng vuông, được cách điệu với những nét vuông vắn, thân nhẫn có thể làm hình vuông, có thể có dạng hình chữ T, nhẫn có mặt lồi lên được thiết kế thành hình vuông, chữ nhật, có nạm những viên đá quý màu vàng. Trên thân nhẫn có thể gắn kết những viên đá quý có gam màu vàng, xám, màu ghi. Nhẫn thuộc hành Thổ hợp cho những người mạng Kim. Ngũ hành thuộc Thổ làm cho tình yêu thêm bền vững, dài lâu, tình cảm vợ chồng thêm những thuận hoà, lợi cho con cái.
![]() |
Người tuổi Mùi có năm sinh là 1967, 1979, 1991... |
Vốn kín đáo trong suy nghĩ và cả trong việc bộc lộ cảm xúc nên mọi người khó có thể nắm bắt được tâm lý của người tuổi Mùi. Khả năng tự kiềm chế tốt giúp họ có được những thuận lợi nhất định trong giao tiếp.
Bên cạnh đó, người cầm tinh con dê còn có tính tình hiền lành, ôn hòa. Nếu cộng sự hay cấp trên của họ là người mạnh mẽ, nghiêm khắc thì họ vẫn có thể phát huy được hết khả năng của mình. Biết cách tạo môi trường làm việc hài hòa là ưu điềm của người tuổi Mùi và vì thế họ thường nhận được sự giúp đỡ của đồng nghiệp.
Không chỉ có tài tổng hợp, họ còn là người có óc phân tích, luôn biết cách nhìn nhận vấn đề, sự việc một cách tỷ mỉ. Đây là một ưu điểm mà không phải ai cũng có được.
Dễ tin người cũng là nét tính cách dễ thấy ở những người tuổi Mùi. Trong cuộc sống hay làm ăn kinh doanh, không ít lần họ bị kẻ xấu lừa gạt. Lời khuyên cho họ là nên tránh đảm nhiệm những công việc cần có sự can thiệp của nhiều người, nhất là công việc đầu tư tiền tệ. Tuy nhiên, nếu được sự bảo trợ của một ai đó thì họ rất dễ thành công với hoạt động đầu tư bất động sản hoặc chứng khoán.
Xét một cách toàn diện, tuổi Mùi thường có cuộc sống bình lặng, ổn định. Tuy không phải ai cũng có thể trở nên giàu có nhưng ít người tuổi Mùi phải vất vả, lo lắng tới việc mưu sinh. Con đường sự nghiệp của họ phát triển khá ổn định và vững chắc.
(Theo 12 con giáp về sự nghiệp cuộc đời)
Việc dọn về nhà mới cũng đồng nghĩa với việc tất cả thành viên trong gia đình bạn sẽ bắt đầu một cuộc sống mới. Chính vì vậy việc nắm rõ một số lưu ý phong thủy truyền thống sẽ giúp cuộc sống ở nhà mới thuận lợi hơn.
Dưới đây là một số điều mọi người cần nhớ khi chuyển về nhà mới.
1. Một điều vô cùng quan trọng bạn cần nhớ đó là phải chọn ngày lành tháng tốt để chuyển nhà. Để chọn được ngày chính xác nhất, bạn cần căn cứ vào ngày tháng năm sinh của tất cả các thành viên trong gia đình, nhưng chủ yếu ưu tiên người trụ cột để lấy kết quả tốt nhất. Trường hợp bạn không thành thạo việc này có thể tìm đến các chuyên gia phong thủy để được tư vấn kỹ hơn.
2. Cần chuyển tới nhà mới theo đúng ngày giờ đã xem trước đó. Nên nhớ trong ngày hôm đó, mọi người tuyệt đối không mời khách đến chơi vì chỉ duy nhất người trong nhà mới được có mặt vào thời điểm đó. Bởi ngày hôm đó chúng ta chuyển nhà chứ không phải ngày tân gia. Mọi người cần phân biệt rõ hai ngày này để tránh mắc lỗi phong thủy.
Cần chuyển tới nhà mới theo đúng ngày giờ đã xem trước đó (Ảnh minh họa)
3. Vào ngày chuyển nhà, mọi người trong gia đình cần nhớ phải luôn luôn nói những điều tích cực, tươi sáng và tốt lành. Tránh tuyệt đối nói những điều u ám, tiêu cực.
4. Trong ngày chuyển nhà, mọi thành viên trong gia đình cần hòa thuận với nhau. Các bạn không nên cãi, đánh nhau. Bố mẹ không mắng con để tránh có tiếng khóc. Tất cả những hành động này tượng trưng cho sự bất hạnh và mối bất hòa trong gia đình vì thế cần tránh.
5. Khi chuyển sang nhà mới, bạn nên bật sáng tất cả các bóng đèn, thiết bị điện tử, thiết bị gas, xả tất cả vòi nước... trong nhà để chắc chắn mọi thiết bị trong gia đình đều hoàn hảo.
6. Trong đúng ngày chuyển nhà, mọi người không nên ngủ trưa ngay tại nhà mới vì nó tượng trưng cho sự lười biếng và bệnh tật.
Trong đúng ngày chuyển nhà, mọi người không nên ngủ trưa ngay tại nhà mới vì nó tượng trưng cho sự lười biếng và bệnh tật (Ảnh minh họa)
7. Bạn hãy đặt 1 túi vải nhỏ màu đỏ (loại chuyên dùng trong nghi lễ phong thủy) dưới đáy thùng gạo. Sau đó, đổ gạo vào túi cho đến khi đầy tràn, dính miệng túi lại và dán một tờ giấy đỏ có ghi chữ "Đầy đủ" hoặc “Viên mãn”.
8. Khi chuyển sang nhà mới, đừng tiếc nuối chiếc chổi đã từng sử dụng ở nhà cũ mà thay vào đó bạn hãy mua ngay cho mình một chiếc chổi quét nhà mới. Đây là hành động dùng chổi mới để quét đi những điều không may mắn của quãng thời gian sống trước đây.
Khi chuyển sang nhà mới, đừng tiếc nuối chiếc chổi đã từng sử dụng ở nhà cũ mà thay vào đó bạn hãy mua ngay cho mình một chiếc chổi quét nhà mới (Ảnh minh họa)
9. Khi bước vào nhà mới, đừng vào nhà với bàn tay trắng. Mỗi thành viên trong gia đình nên mang theo một cái gì đó tốt đẹp. Đó có thể là một số loại trái cây như cam (sự thịnh vượng), táo (sự an toàn), dứa (sự may mắn), lựu (cơ hội thăng tiến) và đào (sức khỏe dồi dào).
Khi bước vào nhà mới, bạn cũng có thể mang theo những thứ có giá trị như vàng, sổ tiết kiệm hay bất cứ thứ gì tượng trưng cho sự may mắn.
10. Phụ nữ đang mang thai nên tránh tham gia việc chuyển nhà.
11. Vào ngày đầu tiên khi chuyển về nhà mới, bạn bắt buộc phải mở bếp và nấu một thứ gì đó.
Trước tiên, Cự Môn thuộc nhóm Bắc Đẩu tinh, hành Thủy, miếu địa ở Mão, Dậu, vượng địa ở Tí, Ngọ và Dần. Về ý nghĩa thì Cự Môn là cái miệng, và chúng ta đã biết, con người sống cũng nhờ cái miệng, chết cũng vì cái miệng, được người thương cũng do cái miệng, bị người ghét cũng bởi cái miệng của mình mà thôi... Ngoài ý nghĩa trên, nếu Cự Môn tọa thủ tại những vị trí miếu, vượng thì Cự Môn còn là biểu tượng của sự giàu sang, thông minh, cơ trí, có khiếu ăn nói, có tài hùng biện, thích hợp với các ngành ngoại giao, giao thiệp, dạy học, luật sư... Chẳng hạn nếu thấy lá số của con cái mình có cách Cự Hổ Tuế Phù, là gồm các sao Cự Môn, Bạch Hổ, Tuế Phá và Thiên Phù hội họp với nhau thì nên khuyến khích cho con cái đi vào ngành luật, vì tương lai chắc chắn sẽ trở thành những luật sư tài giỏi. Nhưng ngược lại, nếu Cự Môn rơi vào những nơi hãm địa thì đã không tài giỏi lại thiếu suy nghĩ, cứ mở miệng ra là bị người ta ghét và suốt đời chỉ gặp toàn là những chuyện thị phi khẩu thiệt mà thôi.
Ý nghĩa thứ hai, Cự Môn là viên ngọc. Chẳng hạn, Cự Môn ở Tí Ngọ là cách Thạch Trung Ẩn Ngọc, có nghĩa là ngọc còn ẩn trong đá, Cự Môn gặp Thái Dương là cách Cự Nhật, là ngọc lấp lánh dưới ánh mặt trời, và Cự Môn gặp Hóa Kỵ là cách Cự Kỵ mà chúng ta đang bàn đến, còn gọi là Tì Hà Ngọc, có nghĩa là ngọc bị tì vết.
Sao thứ hai của cách này là Hóa Kỵ, một ám tinh với nhiều tính xấu như độc hiểm, ích kỷ, ghen tuông, tai tiếng, thị phi, kiện cáo, tai họa, bệnh tật, nông nổi và hay lầm lẫn... Với bản chất như vậy, cho nên Hóa Kỵ đã làm cho viên ngọc Cự Môn thành tì vết, nhưng Hóa Kỵ cũng có một điểm tốt là giữ được của.
Cách Cự Kỵ không có gì đáng nói đối với nam mệnh, ngoài những nét tổng quát là cuộc đời nhiều thất bại, lại thường hay bị nhiều điều thị phi khẩu thiệt, tai nạn về xe cộ hay sông biển, mà cách này chỉ đáng lưu ý hơn đối với nữ mệnh. Khi gọi cách Tì Hà Ngọc thì chữ ngọc hàm ý chỉ vào phái nữ, hay nói rõ hơn là vấn đề trinh tiết, phẩm hạnh của một người đàn bà, cho nên mẫu người Cự Kỵ mà chúng ta nói đến là bàn nhiều đến lá số của những người đàn bà có cách Cự Kỵ.
Khi lá số của một nữ mệnh có Cự Môn tọa thủ và có Hóa Kỵ đồng cung, xung chiếu hay hợp chiếu thì ít nhiều cũng có điểm bất lợi. Ở đây chúng ta phải lưu ý một điều là khi luận đoán một lá số của nữ mệnh mà có những cách như Cự Kỵ, Tham Kỵ, Đào Kỵ hay Thai Phục Vượng Tướng mà chúng ta sẽ đề cập tiếp theo, thì sự cân nhắc nặng nhẹ phải hết sức thận trọng, vì vấn đề sẽ liên quan đến danh tiết và phẩm hạnh của một người đàn bà. Do đó, chúng ta nên phân biệt rõ ràng mỗi trường hợp sau đây.
Trường hợp lá số của một người đàn bà mà cung Mệnh có Cự Môn miếu vượng tọa thủ và gặp Hóa Kỵ, chúng ta phải quan sát thêm ở cung Mệnh và các cung chính khác như cung Thân, cung Phúc, cung Phu, cung Quan, cung Nô... để xem nếu có những sao xác định nết đoan chính như Thái Dương, Tứ Đức... hoặc những sao khắc chế tính lẳng lơ như Hóa Khoa, Thiên Hình... thì Cự Kỵ ở đây nhẹ là những người thường hay gặp các hoàn cảnh khiến cho mình bị những tai tiếng thị phi hoặc dễ bị người khác hiểu lầm, đánh giá sai lầm phẩm hạnh của mình mà có những lời nói, cử chỉ xúc phạm, sách nhiễu tình dục (sexual harassement). Mức độ nặng hơn, nếu gặp những sao như Thiên Hình, Kiếp Sát... thì có thể vì bệnh tật mà phải mổ xẻ, như cắt bỏ buồng trứng, tử cung v.v... Hoặc có thể là những tai nạn về xe cộ và đáng kể nhất là những tai họa về sông biển như một số người đã gặp trên đường vượt biển trong những năm về trước. Như vậy, trong trường hợp này, viên ngọc của cách Tì Hà Ngọc vốn là một viên ngọc sáng, nhưng vì hoàn cảnh mà rơi xuống bùn nên vấy bùn, hoặc bị lăn xuống đường nên có tì vết, đó là ngoài ý muốn, là tai nạn của đương số mà thôi.
Trường hợp nếu Cự Môn tuy là miếu, vượng mà gặp Hóa Kỵ, lại còn được sự hỗ trợ của các sao có tính lãng mạn, như Văn Xương, Văn Khúc, Hồng Loan hoặc lẳng lơ, ham chuộng vật chất, nặng phần tình dục như Tham Lang, Đào Hoa, Thiên Riêu v.v... thì những gì không tốt xảy ra cho đương số là do bản tính chứ không phải là những rủi ro, tai nạn, và hoàn cảnh chỉ là những trợ lực thúc đẩy thêm mà thôi. Chẳng hạn, nữ mệnh có cách Cự Kỵ lại gặp thêm Đào Hồng thì làm sao mà giữ được trinh tiết cho đến ngày lên xe hoa, và khi đã có gia đình thì một đời cũng đau khổ vì tình hoặc phải lo buồn vì chồng con, dù cho họ có một cuộc sống vật chất đầy đủ, dù cho họ cũng có địa vị trong xã hội, là những mệnh phụ phu nhân... Trường hợp này có thể ví như mẫu người của Vương Thúy Kiều, ở cái thời xa xưa đó, với xã hội phong kiến đó, mà nửa đêm thân gái một mình vào nhà Kim Trọng đánh đàn, thì làm sao trách được sự đánh giá nghiêm khắc của người sau: Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm. Và như vậy, viên ngọc của cách Tì Hà Ngọc trong trường hợp này là một viên ngọc vốn đã có vết, có bọt ngay từ trong lòng đất, chứ không phải do tay người dũa ngọc hay người chủ của viên ngọc.
Trường hợp nữ mệnh có Cự Môn hãm địa tọa thủ mà không được Tuần, Triệt án ngữ hay được các sao “đoan chính” hóa giải phần nào thì đây là một mẫu người đặc biệt. Là mẫu người có một bề ngoài mà ai mới gặp cũng thấy yêu thích, nhưng khi tiếp cận lâu dài thì mới thấy rõ con người thật được che đậy vốn là một người đàn bà chua ngoa, ghen tương, đố kỵ đủ điều... Và nếu đi kèm với một ám tinh Hóa Kỵ nữa thì ba chữ Tì Hà Ngọc thật là đúng nghĩa!
Khoa Tử Vi cũng cho rằng, cách Cự Kỵ dù tọa thủ tại cung Mệnh hay các cung chính yếu khác như cung Phúc Đức, cung Quan Lộc, cung Tài Lộc hay cung Phu Thê cũng còn nói lên sự bất ổn trong cuộc sống tình cảm của đương số. Lá số có cách Cự Kỵ một đời khó lòng chỉ có một mối tình hay chỉ một cuộc hôn nhân, chuyện gãy đổ, chắp nối hay sống với nhau theo kiểu già nhân ngãi, non vợ chồng là chuyện bình thường của mẫu người này, nếu không được những sao hóa giải. Các trở ngại hay đổ vỡ trong tình cảm thường là do sự khắc khẩu, ảnh hưởng của Cự Môn, và tính ghen tuông cũng như lòng ích kỷ quá nặng, ảnh hưởng của Hóa Kỵ.
Tóm lại, cách Cự Kỵ không tốt cho cả nam mệnh và nữ mệnh, nhưng đối với nữ mệnh thì sự ảnh hưởng nặng nề và tai hại hơn trong lãnh vực trinh tiết và phẩm hạnh của đương số. Nói chung, nữ mệnh mà gặp cách Cự Kỵ thì cuộc đời chắc chắn là một kiếp phong trần, chỉ khác nhau ở mức độ nặng nhẹ mà thôi. Nhưng ở đây, chúng ta đừng quên một trường hợp đặc biệt, cách Cự Kỵ lại rất tốt cho những người tuổi Quý và tuổi Thân, khoa Tử Vi Đẩu Số gọi là phản vi kỳ cách, có nghĩa là từ xấu trở thành tốt vì có sự ứng hợp.
trời và nó cũng là đại hỷ sự trong nhân gian trời đất. Thế nhưng, tiếc thay có rất nhiều cặp vợ chồng kết hôn và sống chung cùng nhau chưa được bao lâu đã đế có lời qua tiếng lại, từ yêu thương chuyển sang thù gét, bi kịch gia đình bắt đầu từ đó. Có nhà phong thuỷ cho rằng, điều này ở một mức độ nào đó là do việc bố trí giường cưới không hợp lý. Vậy thì làm thế nào để giường cưới phù hợp nguyên tắc phong thuỷ? Dưới đây là một số ý kiến tham khảo:
(1) Vị trí giười cưới tốt nhất là ở nơi có đủ ánh sáng mặt trời, như vậy sẽ may mắn, nếu ở nơi quá tối sẽ dễ làm cho cả hai người cam phiền, khó chịu, gây ra cãi cọ.
(2) Không khí trong phòng tân hôn phải lưu thông để tránh hít phải mùi gỗ, mùi sơn từ các đồ dùng mới.
(3) Vách tường, đồ dùng, rèm cửa số phòng cưới nên tránh dùng loại có màu phấn hồng, nếu không sẽ dễ làm suy nhược thần kinh, lo sợ, bất an, tì khí suy nhược, chuyện cãi lộn sẽ thường xuyên xảy ra.
(4) Màu sắc trong phòng tân hôn quá tôi, ví dụ như màu xanh da trời đậm, màu xanh lá cây đậm, màu đỏ đậm, màu xám đậm sẽ dễ làm tình cảm vợ chống thiếu cởi mở.
(5) Màu nền nhà không được dùng loại quá đen, hoặc màu đó, màu phân hồng, những màu này có thể làm nóng tì khí, dễ gây chuyện cãi vã.
(6) Vị trí giường trong phòng tân hôn ở hướng bạch hổ là giảm khả năng tự kiềm chế, dẫn đến vợ chồng bất hoà.
(7) Hai đầu giường không được hướng ra cửa phòng tắm, phòng vệ sinh, nếu
không sẽ dễ mất an toàn.
(8) Trước giường không được hướng vào cửa phòng vệ sinh, phòng tắm, nếu
không sẽ bất an, gặp chứng đau thắt ngực, bụng dạ khó chịu, ăn không tiêu.
(9) Trước giường không được có tivi, đề phòng bị suy nhược thần kinh.
(10) Trước và bên trái bên phải giường tốt nhất không nên có gương, nếu
không sẽ gây tật nói nhiều.
(11) Trên tủ đầu giường tuyết đối không được để máy thu phát thanh, phòng tránh bị suy nhược thần kinh hoặc gặp hoạ vì miệng lưỡi.
(12) Trên đầu giường không treo ảnh tân hôn cỡ lớn, nếu không cảm giác bị đè nén quá nặng làm cho vợ chồng dễ gặp ác mộng (sinh ra mộng tưởng ly dị).
(13) Đầu giường không được để góc tủ, góc bàn chiếu thẳng vào, nếu không sẽ bị chứng thiên đầu thống (đau một bên đầu).
(14) Mặt bên chân gường không được đổi diện với cửa nhà vệ sinh, nếu không có thể bị các chứng đau xương khớp chân.
(15) Màu trần nhà không dùng màu hồng hoặc màu xanh da trời đậm, cũng không được dùng màu sắc loe loẹt, trang trí hình ảnh kỳ quái, cẩn thận đề phòng bát quái, thiên la địa võng, nếu không dễ gặp nhiều bệnh hại đến thân.
(16) Vị trí giường không được để xà nhà chiếu thẳng vào.
(17) Giường không được kê sát cửa sể, ánh sáng quá mạnh sẽ làm cho vợ chồng bất an.
(18) Tranh ảnh treo trong phòng cưới nên dùng loại mộc mạc, tao nhã, tránh treo tranh, ảnh nghệ thuật.
(19) Hai đầu giường tuyệt đối không được để đối diện với cửa, nếu không sẽ dễ làm cho tâm tính người ở bất an, sinh chứng đau đầu.
(20) Sau đầu giường phải có vật tựa, không được để trống, tốt nhất là có vách tường được dán giây, nếu không sẽ gây ảo tướng, tinh thần phân liệt.
(21) Hình dạng giường tôi nhất là dùng loại bốn cạnh, kiêng dùng giường
Ngưu Lang - Chức Nữ hay Ông Ngâu - Bà Ngâu là một câu truyện cổ tích. Truyện có liên quan đến các sao Chức Nữ (Vega) và sao Ngưu Lang (Altair), dải Ngân Hà và hiện tượng mưa ngâu diễn ra vào đầu tháng Bảy Âm lịch ở Việt Nam.
Ngưu Lang là vị thần chăn trâu của Ngọc Hoàng Thượng đế, vì say mê một tiên nữ phụ trách việc dệt vải tên là Chức Nữ nên bỏ bễ việc chăn trâu, để trâu đi nghênh ngang vào điện Ngọc Hư. Chức Nữ cũng vì mê tiếng tiêu của Ngưu Lang nên trễ nải việc dệt vải. Ngọc Hoàng giận giữ, bắt cả hai phải ở cách xa nhau, người đầu sông Ngân, kẻ cuối sông.
Sau đó, Ngọc Hoàng thương tình nên ra ơn cho hai người mỗi năm được gặp nhau vào ngày 7 tháng Bảy Âm lịch. Khi tiễn biệt nhau, Ngưu Lang và Chức Nữ khóc sướt mướt. Nước mắt của họ rơi xuống trần hóa thành cơn mưa và được người dưới trần gian đặt tên là mưa ngâu. Thời bấy giờ sông Ngân trên thiên đình không có một cây cầu nào cả nên Ngọc Hoàng mới ra lệnh cho làm cầu để Ngưu Lang và Chức Nữ được gặp nhau. Các phường thợ mộc ở trần thế được vời lên trời để xây cầu. Vì mạnh ai nấy làm, không ai nghe ai, họ cãi nhau chí chóe nên đến kỳ hạn mà cầu vẫn không xong.
Ngọc Hoàng bực tức, bắt tội các phường thợ mộc hóa kiếp làm quạ lấy đầu sắp lại làm cầu cho Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau. Vì thế cứ tới tháng bảy là loài quạ phải họp nhau lại để chuẩn bị lên trời bắc Ô kiều. Khi gặp nhau, nhớ lại chuyện xưa nên chúng lại lao vào cắn mổ nhau đến xác xơ lông cánh. Ngưu Lang và Chức Nữ lên cầu, nhìn xuống thấy một đám đen lúc nhúc ở dưới chân thì lấy làm gớm ghiếc, mới ra lệnh cho đàn chim ô thước mỗi khi lên trời làm cầu thì phải nhổ sạch lông đầu. Từ đó, cứ tới tháng bảy thì loài quạ lông thì xơ xác, đầu thì rụng hết lông.
Tuy nhiên sau một thời gian vì cảm thương cho sự chia lìa của cặp vợ chồng, Ngọc Hoàng đã trả lại hình hài cho những người thợ mộc và ra lệnh họ phải làm một cây cầu thật vững chắc để Ngưu Lang và Chức Nữ có thể gặp nhau.Từ đó, Ngưu Lang và Chức Nữ được sống bên nhau Có lẽ do tích này mà vùng Bình Định (miền Trung Việt Nam) có từ "quạ làm xâu" nói về những con quạ vắng đi đâu một thời gian rồi trở về với cái đầu trọc lóc trong rất khôi hài Có dị bản khác cho rằng tên gọi của Ô kiều là cầu Ô Thước do chim Ô (quạ) và chim Thước (chim Khách) kết cánh tạo ra…
Truyện cổ tích Việt Nam lại kể rằng: Ngày xưa, ở làng Ngưu Gia nằm ở phía Tây Nam Dương có một chàng trai thông minh, trung hậu, tên là Ngưu Lang, vì cha mẹ qua đời sớm, Ngưu Lang đành phải sống cùng với anh trai và chị dâu. Chị dâu họ Mã, là người rất độc ác, thường hành hạ Ngưu Lang, bắt Ngưu Lang làm việc cật lực.
Một năm vào mùa thu, chị dâu bắt Ngưu Lang phải đi chăn bò, chị dâu chỉ cho Ngưu Lang mang theo 9 con bò, nhưng lại yêu cầu Ngưu Lang lúc về phải có 10 con mới được về nhà, Ngưu Lang không còn cách khác, buộc phải cùng với đàn bò, rời khỏi làng.
Ngưu Lang một mình chăn bò trên núi. Ở núi có cây cỏ tươi tốt um tùm, Ngưu Lang ngồi dưới gốc cây, rất buồn rầu lo lắng, không biết đến lúc nào mới có được 10 con bò, để có thể được về nhà. Bỗng nhiên, một cụ già râu tóc bạc phơ hiện ra trước mặt Ngưu Lang, hỏi Ngưu Lang vì sao đau lòng. Sau khi biết câu chuyện của Ngưu Lang, cụ già vừa cười vừa nói với Ngưu Lang rằng: “Cháu đừng buồn nữa nhé, ở núi Phục Ngưu có một con bò già ốm nặng, cháu hãy cố chăm sóc và nuôi nấng nó. Khi con bò khỏi bệnh, cháu có thể dẫn nó về nhà.”
Ngưu Lang trèo đèo vượt núi, đi rất xa, cuối cùng đã tìm thấy con bò già ốm nặng. Ngưu Lang thấy bệnh tình của con bò già rất nặng, bèn vội vàng đi cắt cỏ cho bò ăn, suốt 3 ngày liền, con bò già được ăn no, từ từ ngẩng đầu lên nói với Ngưu Lang rằng: Ta vốn là bò tiên xám, vì vi phạm vào luật cấm trên thiên đình, bị đày xuống trần gian. Vì bị ngã gãy chân, không động đậy được, muốn dậy được phải dùng giọt sương trên hoa rửa vết thương 1 tháng mới khỏi được.
Ngưu Lang nghe vậy, không ngại vất vả, chăm sóc cẩn thận bò già một tháng, buổi sáng đi hái hoa, thu tập giọt sương, rửa vết thương cho bò già, buổi tối thì ngả vào bò già ngủ. Sau khi bò già khỏi bệnh, Ngưu Lang rất vui mừng, dẫn 10 con bò về nhà.
Sau khi về tới nhà, chị dâu vẫn đối xử thậm tệ với Ngưu Lang, nhiều lần muốn làm hại Ngưu Lang, may mà lần nào cũng được bò già tìm cách cứu giúp, cuối cùng chị dâu tức quá hoá giận, đuổi Ngưu Lang ra khỏi nhà, Ngưu Lang chỉ yêu cầu mang theo bò già ra đi.
Một hôm, Chức Nữ và các nàng tiên trên trời xuống trần gian chơi, đi tắm ở sông. Dưới sự giúp đỡ của bò già, Ngưu Lang đã làm quen với Chức Nữ, sau đó hai người đã có tình cảm với nhau. Rồi Chức Nữ lén xuống trần gian, trở thành vợ của Ngưu Lang. Chức Nữ còn mang tằm từ thiên đình xuống cho dân làng, và dạy dân làng biện pháp nuôi tằm, rút tơ, dệt vải lụa mịn màng và bóng đẹp.
Sau khi lấy nhau, Ngưu Lang ngày ngày làm ruộng, Chức Nữ dệt vải, tình cảm rất sâu đậm, hai người sinh được một trai một gái, cuộc sống gia đình rất hạnh phúc. Nhưng cuộc sống hạnh phúc không thể kéo dài, chuyện này bị Ngọc Hoàng Đại Đế biết được, Vương Mẫu Nương Nương đích thân xuống trần gian, ép Chức Nữ về thiên đình, hai vợ chồng đằm thắm với nhau bị cách xa.
Ngưu Lang không lên thiên đình được, bò già cho Ngưu Lang biết, sau khi nó chết, Ngưu Lang hãy dùng da của nó làm giầy, đi giầy da này thì có thể lên thiên đình. Ngưu Lang nghe theo lời bò, đi giầy làm bằng da bò, mang theo hai đứa con, cưỡi mây lướt gió lên thiên đình đi tìm Chức Nữ. Khi Ngưu Lang sắp đuổi kịp Chức Nữ, Vương Mẫu Nương Nương lấy trâm vàng cài trên tóc vạch một đường, bèn xuất hiện dòng sông Thiên Hà có sóng cuồn cuộn, Ngưu Lang và Chức Nữ bị ngăn cách ở hai bờ sông, hai người chỉ có thể nhìn nhau, rơi nước mắt.
Tình yêu chung thủy của họ đã làm chim khách cảm động, hàng nghìn hàng vạn chim khách bay đến và bắc cầu Thước Kiều, để Ngưu Lang và Chức Nữ gặp mặt tại Thước Kiều. Vương Mẫu Nương Nương đành chịu, cho phép hai người gặp mặt tại Thước Kiều vào mồng 7 tháng 7 hàng năm.
Sau đó, cứ đến mồng 7 tháng 7 Âm lịch, ngày Chức Nữ và Ngưu Lang gặp mặt tại Thước Kiều, các cô gái lại rủ nhau nhìn trời ngắm sao, tìm sao Ngưu Lang và sao Chức Nữ ở hai bờ dải Ngân Hà, mong được chứng kiến buổi gặp mặt một năm một lần của họ, cầu mong ông trời cho mình tài năng sáng dạ và khéo tay như Chức Nữ, cũng cầu mong mình có được mối lương duyên tốt đẹp. Do vậy, Tết Thất Tịch 07-7 đã hình thành.
Thời gian: tổ chức từ ngày 7 tới ngày 16 tháng 8 âm lịch (chính hội là ngày 10 tháng 8).
Địa điểm: Đền Kim, phường Thị Cầu, thành phố Bắc Ninh.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn thánh Tam Giang.
Nội dung: Lễ rước từ sông Cầu lên đền, rước kiệu, rước thánh từ đền Kim sang chùa và đình, hát thờ vào ngày 8 tháng 8 âm lịch, thi làm cỗ (làm những món ăn mới, lạ, ngon, sạch, trình bày đẹp sẽ đoạt giải), thi làm cỗ liên quan tới nghi thức cầu mưa, thi thả chim bồ câu.
Người ta thường nói “Cái răng cái tóc là góc con người”. Cùng với các bộ phận khác trên cơ thể, mái tóc cũng phản ánh một phần tính cách của chủ nhân. Bạn có mái tóc màu gì? Hãy kiểm tra xem màu tóc nói lên tính cách con người bạn có đúng không nhé!
![]() |
![]() |
![]() |
Thần Tài chưởng quản tài phú nhất định phải có địa vị xứng đáng thì việc kinh doanh mới thuận lợi. Vị trí đặt Thần Tài trong kinh doanh khách sạn hợp lý sẽ giúp bạn buôn may bán đắt và phát triển tốt hơn trong ngành dịch vụ “hái ra tiền” này.
![]() |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
![]() |
![]() |
► ## gửi đến bạn đọc công cụ Xem ngày cưới chuẩn xác theo Lịch vạn sự |
![]() |
► Cùng đọc những câu nói hay về cuộc sống và suy ngẫm |
![]() |
► Tham khảo thêm: Giải mã những giấc mơ và điềm báo hung cát |
![]() |
Ảnh minh họa |
Trong giấc mơ, bạn nằm mơ thấy hươu thì đât là điềm báo bạn sắp thành công trong sự nghiệp, ngoài ra giấc mơ này còn ngụ ý bạn sắp phát tài phát lộc.
Chiêm bao thấy một bầy hươu, điềm báo gia đình sung sướng, hạnh phúc.
Tuy nhiên, nếu bạn nằm mơ thấy mình bị hươu đuổi, thì nên cẩn thận trọng chuyện tình cảm, có thể bạn sắp bị người ta phản bội đó. Ngược lại, nếu chiêm bao thấy mình đuổi hươu thì lại là cát mộng, bạn sẽ có một tình yêu ngọt ngào và tươi đẹp.
Chiêm bao thấy một con hươu ở trong rừng, điều này ngụ ý bằng bạn sắp có một tình bạn mới và người bạn ấy sẽ mang lại nhiều điều thú vị đó. Ngoài ra, chú hươu này còn khẳng định cả khả năng, năng lực của bản thân bạn nữa.
Nhưng nếu chú hươu này ở trong sở thú hoặc bị giam cầm thì lại là điềm báo không may. Bạn sẽ gặp rắc rối với bạn bè, có thể một người bạn sẽ khiến bạn buồn bực và thất vọng. Tuy nhiên, chớ buồn lâu, nỗi buồn này sẽ sớm trôin qua và bạn sẽ bắt đầu chuỗi ngày mới với nhiều niềm vui mới.
Tổng hợp
Bài viết của tác giả Trần Việt Sơn
Chúng tôi vừa tiếp nhận được của một số quý bạn đọc những ý kiến về việc trình bày những kinh nghiệm Tử vi. Chúng tôi rất sung sướng được tiếp nhận các ý kiến đó, vì được thêm cơ hội để giãi bày quan điểm của mình, trong việc xin kinh nghiệm các vị lão thành Tử Vi, cũng như để cám ơn quý vị.
Một thái độ thanh thản để học tập
Chúng tôi xin thưa rằng chúng tôi thanh thản trong việc học tập và thâu thập kinh nghiệm, và tuyệt đối không có mặc cảm nào; tự tôn thì dĩ nhiên là không dám, vì chúng tôi là người đi học, nhưng tự ti cũng không… Như một vị đã nói, chúng tôi trọng tự do, trọng ý kiến của mọi người, và không thành kiến trong sự tìm hiểu cũng như trong việc trình bầy các ý kiến của các vị lão thành về Tử Vi. Chúng tôi cũng từng nói nhiều lần là xin sẵn sang cải chính những điều mình nêu ra, hoặc có những vị nào nêu lên những ý khác, chúng tôi cũng xin trình bày hết. Quý bạn đọc đã cảm thong cho chúng tôi về thái độ đó, là bởi vì, trong việc tìm học các khoa học huyền bí cổ truyền, người ta không biết lấy gì làm tiêu chuẩn căn bản. Các khoa học cổ truyền, như khoa Tử Vi, không phải là khoa học chính xác; không phải là một bài toán Hóa học, Vật lý hay Đại số, Hình học, để chỉ có một đáp số nhất định và rõ ràng. Trong Tử Vi, đáp số hoặc rất đại cương, hoặc tương đối. Tử Vi tương đối là điều mà giai phẩm này, ông Ân Quang đã giải thích nhiều lần và đó là ý kiến rất đáng quý.
Chúng tôi đã xin quý vị lão thành cho các kinh nghiệm của mình, là vì cái sự kiện đại cương và tương đối ấy của Tử Vi, và vì Tử Vi không phải là một khoa học chính xác. Chúng tôi xin kinh nghiệm là để cầu xin quý vị làm cho khoa cổ truyền đó chính xác hơn; đó là một cách xây dựng những khoa cổ truyền để các khoa đó khỏi bị mai một. Chúng tôi lại cũng biết rằng những khoa cổ truyền đó không phải chỉ với sách vở mà được trình bầy đầy đủ như một chương trình toán học, sách vở chỉ bày ra những cách gặp gỡ giữa các sao, mà không cho hay biết ý nghĩa sự phối hợp giữa các cách; ý nghĩa của từng vị sao tùy theo vị trí và mạng của đương số, cũng chỉ rất đại cương, thiếu sự chính xác; do đấy mà các kinh nghiệm càng cần, trước hết là những kinh nghiệm lớn, sau đó là những kinh nghiệm nhỏ. Lớn nhỏ đều cần như nhau.
Quan niệm của cụ Thiên Lương
Ngay buổi đầu được diện kiến với cụ Thiên Lương và xin được phép phổ biến các kinh nghiệm của cụ, chúng tôi đã được chấp thuận dễ dàng.
Cụ cũng nêu lên một quan điểm rất rộng rãi trong việc nghiên cứu và phổ biến kinh nghiệm.
Cụ cho biết:
- Đây là kinh nghiệm của tôi sau nhiều năm nghiên cứu và kinh nghiệm. Nói như vậy, có nghĩa là sẽ có nhiều vị khác có những công trình nghiên cứu và kinh nghiệm riêng, nhưng tôi muốn nêu lên một điều là không nên có những cuộc đấu bút chung quanh một điểm nào đó trong Tử Vi. Nếu có những vị nào nêu lên những kinh nghiệm khác mà có thể khác với kinh nghiệm của tôi, tôi cũng không đem những kinh nghiệm của tôi ra để chất chính lại.
Chúng tôi đã hiểu câu nói trên như sau:
Chúng tôi đã chiêm nghiệm
Sau khi có các kinh nghiệm của cụ Thiên Lương, chúng tôi đã đem ra để xét lại nhiều lá số mà chúng tôi có trong tay.
Và như đã trình bày, chúng tôi có thấy các kinh nghiệm đó đúng trên nhiều lá số mà chúng tôi đã xét lại. Chúng tôi đã trình bày một số những lá số ấy trên giai phẩm Khoa Học Huyền Bí, để minh chứng về nguyên tắc giải đoán cho vòng Thái Tuế liên quan đến đường hướng chánh yếu của Mệnh Thân và nhất là chu kỳ các đại vận tính theo vòng Thái Tuế.
Chúng tôi cũng nghĩ rằng trong việc tìm hiểu Tử Vi, nên tìm hiểu kinh nghiệm của các vị lão thành rồi kiểm chứng trên những lá số, đối chiếu với những biến cố trong cuộc đời. Chúng tôi đã xin các vị lão thành Tử Vi cho chúng tôi kinh nghiệm của các vị, để xây đắp nền học cổ truyền. Giai phẩm KHHB xin biết ơn quý vị. Chúng tôi xin đăng tải và tôn trọng tất cả các kinh nghiệm để quý vị bạn đọc sẽ được dịp chiêm nghiệm trên các lá số có trong tay.
Chúng tôi sẽ xin trình bày về sự chính xác trong Tử Vi: có những điểm tương đối, nhưng cũng có những điểm chính xác trong đại cương và những điểm chính xác trong chi tiết.
Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí
|
Trong bố cục ngôi nhà, phòng khách có vị trí quan trọng nhất. Phòng khách cũng là không gian đáng quan tâm nhất trong những ngày lễ Tết. Khi bố trí bàn ghế trong căn phòng này, ngoài yếu tố hình dáng hay kích thước, bạn còn phải chú ý đến những yếu tố phong thủy.
![]() |
Không nên treo hình thú dữ, trưng bày binh khí (gươm đao) trong phòng khách, nhất là dịp Tết. Ảnh: A Cộng |
Chúng ta có thể tự tìm hiểu về tính cách, con người của một ai đó thông qua dáng người, đường chỉ tay hoặc các đặc điểm về mái tóc, chiếc mũi,… Bên cạnh đó, hình dáng khuôn mặt cũng có thể là một đáp án chính xác cho câu hỏi bạn là người như thế nào?
Dưới đây là 4 kiểu hình dáng khuôn mặt phổ biến, bao gồm: khuôn mặt hình oval, hình tròn, hình tam giác, hình vuông. Mỗi kiểu khuôn mặt lại tương ứng với các tính cách khác nhau.
1. Khuôn mặt hình oval
Khi bạn có một khuôn mặt hình oval này, có nghĩa rằng bạn là người: trực quan, đáng tin cậy, dí dỏm, thành thật, dễ gần.
2. Khuôn mặt tròn
Người có khuôn mặt hình tròn, có nghĩa rằng bạn là: tốt bụng, nhã nhặn, thông minh, dũng cảm, hài hước, chăm chỉ.
3. Khuôn mặt hình tam giác
Còn khi sở hữu khuôn mặt hình tam giác, có nghĩa rằng bạn là người: trí tuệ, mạnh mẽ, đơn giản, chu đáo, hòa nhã.
4. Khuôn mặt hình vuông
Khi bạn có một khuôn mặt hình vuông thì bạn là người tham vọng, dễ được người khác ngưỡng mộ, nhân từ, thông minh và đáng tin tưởng.
Dân Việt
Việc xin quẻ Quan Âm (rút thẻ, xin xăm) ở các chùa chiền miếu mạo hoặc Đạo quán là tập tục được lưu truyền rộng rãi trong dân gian.
Trong suốt hàng trăm hàng nghìn năm nay, người ta vân tin tưởng vào sự linh nghiệm của việc này, cũng có người coi đó là việc nhất định phải làm sau khi vào chùa lễ Phật hoặc cúng thần, có thể là họ chỉ hy vọng rằng những lời lẽ huyền diệu sâu xa đó sẽ giúp họ xem xét, suy ngẫm lại về cuộc đời của con người. Hưởng phúc lo họa, trong họa cầu phúc, đó là tâm lý bình thường của con người. Sự lo lắng của con người đối với những điều chưa đến chính là căn nguyên cho sự lưu hành của tục xin thẻ.
Cho nên, bản thân việc xem bói, rút thẻ không hề huyền diệu, mà điều huyền diệu lại chính là lòng người, đó là trạng thái hiếu kỳ và lo lắng của lòng người đối với tất cả những điều chưa biết sẽ xảy ra trong thòi gian sắp tới. về mặt tâm lý, con người đều hy vọng có thể biết trước, dự đoán trước được tương lai, hy vọng có thể chế ngự những gì chưa đến. Con người không hề sợ những tai họa biến cố (bởi vì tai họa, biến cố không có lúc nào là không nảy sinh), điều mà con người lo sợ chính là bản thân mãi mãi không có cách nào xác định được tai họa biến cố sẽ nảy sinh vào thòi gian nào và ở nơi nào. Cho nên con người rất cần được chỉ bảo, rất cần có người thường xuyên cảnh báo bản thân trên chặng đường đời vô hình rằng: “Hãy cẩn thận! Hãy cẩn thận hơn nữa!”
Sự xuất hiện của bộ quẻ Quan Âm có lẽ bắt nguồn từ tâm lý này, cũng có thể được bắt nguồn từ sự tín ngưỡng của con người đối với Quan Thế Âm Bồ Tát. Trong “Diệu pháp Nghiêm hoa kinh” có nói rằng, nếu có hàng trăm vạn ức chúng sinh phải chịu khổ não, mà nghe đến Quan Thế Âm Bổ Tát, một lòng xưng tụng tôn hiệu của người, Quan Thế Âm Bổ Tát lập tức nghe thây tiếng của họ, và họ sẽ được giải thoát. Tin tưởng vào Quan Thế Am Bồ Tát, tại sao tất cả những điều khổ não đều có thế được giải thoát? Trọng điểm là cần phải tích đức và làm việc thiện. Nếu như con người có tâm lòng lương thiện, làm việc thận trọng, đương nhiên tâm sẽ được yên ổn, thân thể được thư thái, chắc chắn muôn việc sẽ được tôt lành.
Yêu cầu khi xin xăm /quẻ /thẻ Quan Âm thì không phức tạp, chỉ cần có sự thành tâm. Cụ thể như sau:
Nhưng, có một điều vẫn cần phải nói rõ là, những nội dung như giải thích bài thơ trên thẻ và giải thích thẻ đều là ý kiến cá nhân của tác giả, vì thế người đọc nên cố gắng vận dụng khả năng của mình để tìm hiểu về bản nghĩa của thẻ, chứ không nên nhất nahats nghe theo những kiến giải. Nhiều nội dung trong phần “tiên cơ” cũng không còn thích hợp với xã hội hiện đại, người đọc cũng nên kết hợp với học thức, trình độ, tâm trạng, hoàn cảnh và những nhân tố khác của bản thân, để tự mình thể nghiệm, như thế mới có thể có được những gợi ý thiết thực cho bản thân.
Ngoài ra, nếu như bạn hoàn toàn gửi gắm mệnh vận của mình vào việc suy đoán cát hung phúc họa, thì rõ ràng là không thỏa đáng, đối với những người vụ thực, càng là lợi ít hại nhiều. Vì thế, khi tác giả tiến hành giải thích lời văn trên thẻ, tuy dựa theo tập tục dân gian để nêu ra những ý nghĩa ẩn dụ trong lời văn của mỗi thẻ, nhưng lại nhân mạnh về các nguyên lý triết học và nhân sinh trong việc xử thế ẩn chứa ở trong đó, tức là chỉ coi lời văn trên thẻ như những lời mang tính khích lệ, cảnh báo, nhằm mục đích khơi dậy tiềm lực và ý chí của con người.
p/s: xăm Quan Âm hay bói Quan Âm đều là tên gọi khác nhau khi dân gian nói về việc đi xin quẻ Quan Âm mà thôi.
– Nằm mơ thấy tấu nhạc thì khóc than.
– Nằm mơ thấy đánh trống: có tin xa đến.
– Nằm mơ thấy múa: có chuyên kinh sợ.
– Nằm mơ thấy ca hát: có chuyện cãi cọ
– Nằm mơ thấy có người đánh đàn cầm đàn sắt: rất vui.
– Nằm mơ thấy thổi sáo: đại cát.
Năm mới 2017 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2017 mới nhất nhé!
Ấm cúng gia đình bên nồi bánh trưng ngày tết
Bánh chưng gợi nhớ ngày Tết hay Tết gợi hương vị bánh chưng? Không biết tự bao giờ, món bánh truyền thống ấy đã trở thành thứ không thể thiếu trên bàn thờ tổ tiên, thành món ăn đặc trưng trong ngày Tết. Với nhiều gia đình, chiếc bánh chưng vuông nhỏ bé không còn đơn thuần là món ăn mà đã trở thành niềm vui, niềm hân hoan sum họp trong những ngày đầu năm mới.
Ngày Tết cổ truyền, nhà nào cũng có dăm ba cặp bánh chưng để cúng gia tiên. Bánh chưng là nét văn hóa lâu đời mà có lẽ mãi mãi về sau cũng không thể biến mất trong tâm thức người Việt. Cùng với sự phát triển của xã hội, hình ảnh nồi bánh chưng sôi sùng sục suốt đêm và những ánh lửa bập bùng trong đôi mắt người trông bánh nay đã thưa dần và gần như đã không còn thấy ở thành phố nữa. Mỗi năm Tết đến, nhớ về những cái Tết thời thơ bé với nồi bánh chưng ấm cúng mà đến khi trưởng thành người ta mới nhận ra nó ấm áp nghĩa tình biết bao.
Bánh chưng trong ký ức tuổi thơ và niềm vui sum họp
Cảm giác háo hức của một đứa trẻ lon ton chạy theo mỗi bước chân của bố mẹ đang hối hả cho các công việc ngày Tết. Có biết bao nhiêu thứ phải chuẩn bị: nào thịt, nào giò chả, dưa hành…, nào là đi chợ sắm Tết… Nhưng có lẽ cầu kì nhất là chuẩn bị những chiếc bánh chưng.
Để có được những chiếc bánh chưng vuông vắn, ngon lành thường phải mất từ 1 – 2 ngày với rất nhiều công đoạn. Từ những ngày 27, 28 Tết, các gia đình đã bắt đầu gói bánh chưng. Trước đó, các bà, các mẹ ai nấy đều tấp nập đi chợ mua gạo nếp thơm, đỗ xanh, thịt lợn, lá dong và một số vật dụng khác.
Cả nhà quây quần xung quanh để gói bánh chưng. Người lớn thì đôi tay thoăn thoắt, nhanh nhẹn mà khéo lắm nên gói bánh rất nhanh mà lại đẹp. Bánh chưa luộc mà nhìn đã ngon lắm rồi. Trẻ con thì chỉ ngồi… nghịch, ngồi xem là chính. Mà đứa nào cũng được bố mẹ, ông bà gói riêng cho một cái bánh nhỏ nhỏ xinh xinh. Trẻ con ở đâu cũng được “ưu tiên” như vậy và đứa nào cũng thích thú lắm.
Đám trẻ con chúng tôi cứ hay lanh chanh. Ngồi xem người lớn gói bánh mà nghe tiếng bạn í ới ngoài cửa là chạy ra ngay. Mấy đứa gặp nhau là tíu tít: “Nhà cậu gói bánh xong chưa? Đêm có trông luộc bánh không? Tối ra chơi nhé…”. Xong là lại lanh chanh chạy vào hết nhà này đến nhà nọ xem mọi người gói bánh. Có những nhà còn ngồi ra tận ngoài hành lang gói bánh nữa. Ai cũng khẩn trương, nhanh tay cho kịp luộc bánh buối tối. Ấy thế mà chẳng ai gợn lên chút gì mệt mỏi, ưu phiền. Những câu chuyện phiếm vui vẻ và những tiếng cười cứ không ngớt có lẽ vì vậy mà càng thấy ấm cúng hơn.
Chập tối, nhà nào nhà nấy đã gói xong những chồng bánh vuông vắn đều đặn. Bánh chưng được xếp trong một chiếc thùng phuy lớn, dưới đã chất sẵn củi. Tối đến, tụi trẻ con chúng tôi hẹn nhau ăn cơm thật nhanh rồi chạy ra ngồi bên nồi bánh. Trẻ con mà! Chỉ thích ngồi nhìn bếp lửa, ngồi nghịch lửa thôi. Rồi có khi bác hàng xóm mang ra cho bọn trẻ mấy củ khoai lang vùi vào bếp lửa là thích lắm. Người lớn thì vừa trông bánh, lại vừa có dịp ngồi bên nhau chuyện phiếm. Tiếng cười nói râm ran suốt cả buổi tối.
Vậy đấy! Chỉ có một buổi tối bên nồi bánh chưng mà biết bao ý nghĩa, ấm áp, chan hòa tình hàng xóm. Ngày nay, đời sống đã khác xưa, đã đầy đủ hơn nhiều lắm rồi. Người Hà Nội vẫn ăn bánh chưng ngày Tết như phong tục ngàn đời nay. Song, hình ảnh nồi bánh chưng đỏ lửa trong đêm quây quần thì gần như không còn nữa, để cho người ta bất chợt nhớ đến mà khát khao, mà nhớ thương
Truyền thuyết về nguồn gốc của bánh chưng
Có nhiều truyền thuyết dân gian cũng như có nhiều học giả, nhà nghiên cứu văn hóa giải thích khác nhau về nguồn gốc của bánh chưng.
Truyền thuyết kể rằng: Ngay sau khi phá xong giặc Ân, vua Hùng muốn truyền ngôi cho con. Vào dịp đầu xuân, vua cho mở hội và bảo các con rằng: Con nào tìm được thức ăn ngon lành để bày cỗ và có ý nghĩa hay thì ta truyền ngôi cho. Các Lang (các người con của vua Hùng) đã đua nhau làm ra những món lạ từ những nguyên liệu là sơn hào hải vị quý hiếm khắp nơi. Riêng người con trai thứ 18 của vua Hùng là Lang Liêu tính tình thuần hậu, chí hiếu, đã làm ra bánh chưng, bánh giầy.
Bánh giầy tượng trưng cho Trời, hình tròn, nhỏ, nằm gọn trong lòng bàn tay. Màu trắng nõn. Có hai miếng lá xanh cắt tròn đậy trên dưói. Mặt trên hình vòng cung giống như bầu trời. Trong xã hội Việt Nam thời xưa, bánh giầy dùng làm lễ vật tinh khiết để tế Trời và tế Thần. Chấp nhận Trời là đấng khai sáng vũ trụ, chủ tể trời đất. Thần là chủ trị địa phương.
Bánh giầy
Bánh giầy còn là lễ vật khao vọng cho những người được thăng quan tiến chức, hay học hành đỗ đạt. Biếu cặp bánh giầy là có ý nói lên lòng mơ ước tân chức biết sống có đức – độ, lấy quyền hành mà làm ích quốc lợi dân, thảo hoạch chương trình hành động theo ý trời hợp với lòng dân. Một thứ nhắc khéo là đừng vinh thân phì gia, đừng hãm hiếp dân lành, đừng vơ vét tham nhũng của dân.
Còn bánh chưng thì hình vuông, tượng trưng cho đất, theo quan niệm bình dân: Trời tròn đất vuông. Bánh dầy tượng trưng cho Trời, cho cha, cho rồng, cho sức mạnh… thì bánh chưng tượng trưng cho đất, cho mẹ, cho Âu Cơ, cho vẻ đẹp mỹ miều của Tiên. Việc gói bánh chưng phiền phức hơn làm bánh giầy, cũng nói lên tính cách phiền toái, đa dạng của lối sống trên mặt đất. Bánh chưng gói ghém hoa màu đồng nội, biến những thực phẩm thông thường hàng ngày của người nội trợ như thịt, mõ, đậu, hành, tiêu muối… thành một hương vị đặc biệt của ngày Tết.
Bánh chưng
Bánh chưng được gói năm ba lốp lá như lòng người mẹ bao bọc lấy người con. Con từ khi trong lòng mẹ, đến khi con chào đời, mẹ lo lắng cho từng cái khăn tã, cái miếng cơm ăn, miếng nước uống. Lòng mẹ bao la không hề quản khó nhọc nuôi con, dạy dỗ cho con thành người. Ngày Tết, ngày sum họp gia đình, ăn một miếng bánh chưng là cảm nghĩ về mẹ, sống với mẹ. Anh chị em đùm bọc lấy nhau, vì cùng một mẹ sinh ra như trăm con nở ra từ một bọc trứng. Ngày Tết là ngày vui nhất của đại gia đình về sum họp.
Cái giỏi và cái tâm của Lang Liêu là biết sử dụng những nguyên liệu thông thường có sẵn như: lá, gạo nếp, đậu xanh, thịt heo… để làm thành món ăn, mà trong đó đã gói ghém cả một nền văn minh nông nghiệp lúa nước, mang ý nghĩa sâu xa để làm vật phẩm cúng tế tổ tiên, đất trời. Kết quả Lang Liêu được vua cha chọn nhường ngôi.
Từ đó, cứ đến Tết Nguyên đán, dân gian bắt chước làm theo, sau thành tục lệ để cúng Tổ tiên, cúng Trời Đất. Dần dần, bánh chưng đã trở thành món ăn truyền thống, độc đáo của dân tộc. Đây cũng là một trong những bằng chứng cụ thể chứng tỏ văn hóa ẩm thực Việt Nam với nhiều món ăn đặc sắc, hấp dẫn.
Bánh chưng – món ăn độc đáo của dân tộc
Dân tộc nào cũng có những món ăn truyền thống, song chưa thấy dân tộc nào có một món ăn vừa độc đáo, vừa ngon, vừa bổ, lại gắn liền với truyền thuyết dân tộc lâu đời và mang nhiều ý nghĩa sâu xa về vũ trụ, nhân sinh như bánh chưng, bánh dầy của Việt Nam.
>>> Năm mới 2017 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?
Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2017 mới nhất>>>
Nguyên liệu để gói bánh chưng
Lá dong: rửa từng lá thật sạch hai mặt và lau thật khô. Rửa càng sạch bánh càng đỡ bị mốc về sau. Trước khi, gói lá dong được người gói bánh dùng dao bài mài thật sắc (loại dao nhỏ chuyên dùng để gọt) cắt lột bỏ bớt cuộng dọc sống lưng lá để lá bớt cứng, để ráo nước. Một số vùng vẫn hay dùng lá chuối, trước khi gói nhúng nước sôi để dẻo. Lau thật khô trên lá, cắt cạnh nhỏ vừa gói bánh.
Gạo nếp: nhặt loại bỏ hết những hạt gạo khác lẫn vào, vo sạch, ngâm gạo ngập trong nước cùng 0,3% muối trong thời gian khoảng 12-14 giờ tùy loại gạo và tùy thời tiết, sau đó vớt ra để ráo. Có thể xóc với muối sau khi ngâm gạo thay vì ngâm nước muối.
Đỗ xanh: Giã nhuyễn, ngâm nước ấm 40° trong 2 giờ cho mềm và nở, đãi bỏ hết vỏ, vớt ra để ráo. Nhiều nơi dùng đỗ hạt đã đãi vỏ trong khi những nơi khác cho vào chõ đồ chín, mang ra dùng đũa cả đánh thật tơi đều mịn và sau đó chia ra theo từng nắm, mỗi chiếc bánh chưng được gói với hai nắm đậu xanh nhỏ. Cũng có một số nơi nhét sẵn thịt lợn vào giữa nắm đỗ.
Thịt heo: Thịt heo đem rửa để ráo, cắt thịt thành từng miếng cỡ từ 2,5 đến 3 cm sau đó ướp với hành tím xắt mỏng, muối tiêu hoặc bột ngọt khoảng hai giờ cho thịt ngấm.
Nguyên liệu để gói bánh chưng
Khâu chuẩn bị nguyên liệu, vật liệu cho bánh chưng đặc biệt quan trọng để bánh có thể bảo quản được lâu dài không ôi thiu hay bị mốc. Thịt ướp dùng nước mắm, vo nếp không sạch, đãi đậu không kỹ hay rửa lá còn bẩn, không lau khô lá trước khi gói đều có thể khiến thành phẩm chóng hỏng.
Bánh chưng độc đáo, sáng tạo, đậm đà bản sắc dân tộc còn ở những vật liệu và cách gói, cách nấu. Lúa gạo thì tượng trưng cho nền văn hóa lúa nước, nhiệt đới, nóng và ẩm, được chế biến dưới nhiều hình thức khác nhau, mang tính đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam hay Đông Nam Á. Người Trung Hoa ưa chế biến từ bột mì hơn; người Ấn Độ thì ưa chế biến từ kê… Thịt lợn mềm thơm được ướp gia vị đậm đà, nhân đậu xanh vừa ngon lành vừa bổ dưỡng. Bánh chưng như thế rất nhiều chất dinh dưỡng, đặc trưng của các món ăn Việt Nam. Độc đáo hơn nữa, khi nấu bánh chưng, người Việt dành trọn một thời gian khá dài thường trên 10 tiếng, phải để lửa sôi âm ỉ, như thế bánh mới rền, mới ngon. Nấu bằng lò gas, tuy nhanh, nóng quá cũng sẽ không ngon. Vì được gói bằng lá dong, bánh chưng vừa xanh vừa đẹp, thơm hơn lá chuối. Phải gói thật kín, không cho nước vào trong, bánh mới ngon. Lạt phải buộc thật chật, chắc; gói lỏng tay, ăn không ngon. Song nếu chắc quá, bánh cũng không ngon.
Tuy gọi là luộc song vì nước không tiếp xúc với vật liệu được luộc, nên lại là hình thức hấp hay chưng (chưng cách thủy), khiến giữ nguyên được chất ngọt của gạo, thịt, đậu! Có lẽ vì cách chế biến bằng chưng, nên mới gọi là bánh chưng. Vì thời gian chưng lâu nên các hạt gạo mềm nhừ quyện lấy nhau, khác hẳn với xôi khi người ta “đồ”, khi hạt gạo nhừ quyện vào nhau như thế, người ta gọi bánh chưng “rền”. Vì nấu lâu như thế, các vật liệu như thịt (phải là thịt vừa nạc vừa mỡ mới ngon; chỉ thịt nạc, nhân bánh sẽ khô), gạo, đậu đều nhừ. Cũng vì thời gian chưng lâu, khiến các chất như thịt, gạo đậu nhừ, có đủ thời gian chan hòa, ngấm vào nhau, trở thành hương vị tổng hợp độc đáo, cũng mang một triết lý sống chan hòa, hòa đồng của dân tộc ta.
Cách chế biến như thế rất độc đáo, công phu. Bánh chưng, nhất là bánh dầy có thể để lâu được. Khi ăn bánh chưng, người ta có thể chấm với các lọai mật hay với nước mắm thật ngon, giàu chất đạm; cũng có thể ăn thêm với củ hành muối, củ cải dầm hay dưa món… Dân Bắc Ninh xưa thích nấu bánh chưng, nhân vừa thịt vừa đường.
Nét khác biệt của bánh chưng các miền
Từ Nam ra Bắc, từ xưa đến nay, bánh chưng đã có không ít thay đổi. Xưa kia, mỗi khi Tết đến, các gia đình thường cùng nhau gói bánh chưng rồi quây quần, háo hức cạnh nồi bánh, chờ luộc bánh chín. Nhưng ngày nay, do cuộc sống bộn bề, con người bận rộn, bánh chưng thường được mua sẵn tại các cửa hàng bày bán khắp nơi vào dịp Tết. Chủng loại bánh chưng cũng đa dạng hơn, nào là bánh chưng xanh truyền thống, bánh chưng gấc đỏ, bánh chưng cốm hay bánh chưng chay… đều có thể mua được. Ở miền Bắc, món bánh chưng ngày nay là món hàng quà bán hàng ngày, tuy nhiên bánh chưng vẫn là món ăn nghi lễ trong các ngày Lễ hội, Giỗ, Tết.
Những chiếc bánh chưng được gói vuông vắn trong những chiếc lá dong là hình ảnh quen thuộc thường thấy tại miền Bắc.
Người miền Nam lại có loại "bánh chưng" của riêng mình gọi là bánh tét. Nguyên liệu vẫn vậy nhưng bánh được gói thành hình trụ dài. Bánh tét thường được gói với ít đỗ và rất ít hoặc không có thịt, để có thể ăn được đến cả những ngày sau Tết. Bánh tét có thể dùng lá chuối thay cho lá dong. Với 2 đến 4 chiếc lá xếp theo chiều dọc, rải gạo, đỗ theo chiều của lá và quấn bằng lạt giang để bó chặt chiếc bánh. Ở miền Nam, bánh tét có rất nhiều loại như: bánh tét chay không nhân, bánh tét mặn, bánh tét ngọt và bánh tét nhân thập cẩm...
Người miền Nam thường gói bánh chưng thành hình trụ dài và gọi là bánh tét.
Từ năm 1802, sau khi đất nước được thống nhất dưới thời Gia Long, bắt đầu có sự kết hợp văn hóa cổ truyền của đất Bắc và văn hóa mới phong phú của vùng đất mới phương Nam. Do đó, ngày Tết ở miền Trung họ gói cả bánh chưng và bánh tét. Bánh chưng ở miền Trung thì thường được gói bé hơn chiếc bánh chưng ngoài Bắc và đặc biệt ít nhân hơn. Bánh tét thì giống như trong miền Nam, tuy nhiên, món bánh này lại không được dùng làm quà biếu trong những ngày đầu năm như ở miền Nam, bởi tên gọi “đòn bánh tét” nghe như đòn roi (Trẻ con miền Trung ngày xưa, mỗi khi lỡ ham chơi lêu lổng, bị cha mẹ la rầy kêu về, nghe câu dọa: “Đi mau về nhà được ăn bánh tét” thì hồn vía lên mây).
Ngày Tết ở miền Trung, người ta gói cả bánh chưng và bánh tét.
Ngoài ra, ở một số vùng miền núi của nước ta cũng có loại bánh chưng mang nét đặc biệt của riêng mình. Ví dụ như ở Sapa, họ gói bánh chưng thành từng chiếc nhỏ, không vuông như bánh Bắc, cũng chẳng dài như bánh Nam, có hai loại là bánh chưng trắng và bánh chưng đen. Còn về phần nhân thì cũng giống bánh chưng dưới xuôi gồm: vỏ gạo nếp (có thể là gạo nếp thường hoặc gạo nếp cẩm), nhân đậu, thịt mỡ. Món bánh này có vị mềm dẻo, dễ ăn nên rất được người Sapa và du khách ưa chuộng.
Bánh chưng đen Sapa – loại bánh đặc biệt gồm: vỏ gạo nếp, nhân đậu nhưng với hình dáng thuôn dài và đặc biệt là “lớp áo” đen là lạ.
Bánh chưng cẩm Lạng Sơn
Đây là món bánh chưng truyền thống của người Tày ở huyện Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn). Hình dáng chiếc bánh này rất giống bánh tét ở miền Nam được theo hình trụ. Điểm độc đáo của món bánh này chính là màu đen của bánh. Đó là một màu đen tím như hạt nếp cẩm nhưng lại rất mềm và dẻo, vị thanh mát. Vào tháng 10 âm lịch, khi gặt vụ mùa xong, người Tày tỉ mẩn chọn từng cọng rơm nếp to, mọng,vàng đem về rửa sạch bằng dòng nước suối tinh khiết chảy từ trong khe núi.
Sau đó, phơi khô và đem đốt thành tro, vò mịn, dùng miếng vải xô rây lấy phần mịn nhất của tro. Gạo nếp sau khi được vo sạch sẽ được trộn cùng với tro mịn từ gốc rơm, rạ sao cho những hạt nếp tròn mây mẩy được bao bọc bởi màu đen của tro. Nhân của món bánh này cũng thật khác lạ, người Tày trộn thêm cả hành vào nhân thịt mỡ cùng với hạt tiêu vỡ bọc ngoài là đậu xanh. Lá để gói bánh chưng cẩm là những chiếc lá dong rừng bánh tẻ khổ nhỏ có màu xanh đậm.
Ngày nay, do cuộc sống bận rộn, nhiều gia đình đã không còn giữ thói quen gói bánh chưng ngày Tết. Thế nhưng, đâu đó vẫn còn hình ảnh các mẹ tất bật rửa lá dong, ngâm gạo, đãi đỗ, trẻ con háo hức xem bố mẹ gói bánh, rồi cả gia đình quây quần quanh nồi bánh chưng qua đêm… Một hình ảnh đẹp và thật ấm áp làm sao!
>>Đã có VẬN HẠN 2017 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé!
Hãy đưa ánh sáng vào mục “chú ý” ngay từ khi bạn bắt đầu có ý tưởng thiết kế ngôi nhà của mình. Trước sảnh nhà Với nhà hợp hướng với trạch chủ thì việc treo đèn ở trước sảnh của tòa nhà sẽ kích hoạt khí tốt. Còn nếu hướng nhà không hợp với trạch chủ (như hướng nhà là hưỡng ngũ quỷ hay lục sát với trạch chủ…) thì không nên tăng cường nhiều ánh sáng ở phía sảnh đại môn vì khi đó sẽ kích hoạt luôn khí xấu vào nhà. Chỉ nên dùng đèn vừa đủ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của trạch chủ. Màu sắc của đèn nên tương sinh với mệnh của trạch chủ. Ví dụ chủ nhà Mậu Thân – Cung Khôn – Ngũ hành Đại dịch thổ thì nên dùng đèn ánh sáng màu đỏ hoặc vàng. Ngoài ra, căn cứ vào ngoại vi tứ diện để xem xét dùng đèn lồng để khắc chế những ảnh hưởng xấu, đồng thời kích hoạt tài lộc may mắn cho gia chủ. Về vấn đề này bạn nên tham khảo ý kiến của các chuyên gia phong thủy để dùng đúng và đủ. Trong phòng khách Nên dùng ánh sáng vàng, ấm cúng để tăng cường sinh khí của trạch nhà và tăng sự hòa hợp giữa các thành viên trong gia đình. Giữa trung tâm của trạch nhà, nên treo đèn chum có cường độ ánh sáng phù hợp nhưng cần bố trí số lượng bóng, màu sắc bóng tương sinh với trạch chủ. Trong phòng ngủ Sử dụng cường độ ánh sáng vừa phải để thích nghi với sự điều tiết bình thường của mắt. Không nên đặt đèn ở đầu giường, sẽ gây căng thẳng và ức chế thần kinh. Nếu có điều kiện, bạn có thể sử dụng ánh sáng tự nhiên, kết hợp với đèn đá muối để vừa trung hòa khí xấu trong phòng vừa tạo ion có lợi cho sức khỏe. Nên tắt đèn trước khi đi ngủ, để giấc ngủ chìm trong bóng tối thực sự. Nếu trong gia đình có người già, người huyết áp cao, không ổn định, thiếu máu… thì không nên bố trí đèn Halogen vì dễ gây choáng, kích động huyết áp. Kết hợp một đèn sinh khí nhỏ đặt trong bộ tài khí đáo gia sẽ giúp giảm bớt căng thẳng, có lợi cho sức khỏe. Trong phòng tắm-vệ sinh Đây là nơi phát tán các uế khí, khí xấu, việc dùng đèn hợp mệnh kết hợp với đá phong thủy hướng thiên có thể giải trì, ngăn chặn phần lớn sự phát tán này. Trong phòng tắm nên để đèn ánh sáng màu vàng, trắng hoặc đỏ, không để màu xanh, tránh cảm giác cô quạnh, yếu ớt. Sưu tầm
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)