Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Xem về hình xung hóa hợp của can chi (P2)

Nếu can của tháng sinh xét theo ngũ hành vào ở trạng thái sinh, vượng thì đây là gốc rễ của sự hưng vượng, chủ nhân có cuộc đời rất tốt đẹp.
Xem về hình xung hóa hợp của can chi (P2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Nhật can (can ngày) hợp hóa, gốc rễ hưng vượng

Ở đây muốn nói đến sự tương hợp giữa can ngày sinh với can của năm, tháng, giờ sinh. Nếu can của tháng sinh xét theo ngũ hành vào ở trạng thái sinh, vượng thì đây là gốc rễ của sự hưng vượng, chủ nhân có cuộc đời rất tốt đẹp.

Ví dụ:

Can Giáp, can Kỷ hợp hóa Thổ, phải sinh vào các tháng Thìn (tháng 3), Tuất (tháng 9), Sửu (tháng 5), Mùi (tháng 6) tức các tháng có Thổ hưng vượng.

Can Ất, can Canh hợp hóa Kim, phải sinh vào các tháng Tỵ (tháng 4), Dậu (tháng 8), Sửu (tháng 12), Thân (tháng 7) lúc Kim hưng vượng.

Can Bính, can Tân hợp hóa Thủy, phải sinh đúng vào các tháng Thân (tháng 7), Tý (tháng 1), Thìn (tháng 3), Hợi (tháng 10) lúc Thủy hưng vượng.

Can Đinh, can Nhâm hợp hóa Mộc, phải sinh vào các tháng Hợi (tháng 10), Mão (tháng 2), Mùi (tháng 6), Dần (tháng Giêng) lúc Mộc hưng vượng.

Can Mậu, can Quý hợp hóa Hỏa, phải sinh vào các tháng Dần (tháng Giêng), Ngọ (tháng 5), Tuất (tháng 9) , Tỵ (tháng 4) lúc Hỏa hưng vượng.

 

(Ảnh minh họa)

2. Gián cách xa xôi, hợp mà khó hóa

Sự hóa hợp của can, ngoài việc kết hợp với tháng sinh, còn phải xem khoảng cách giữa 2 can.

Nếu can năm là Ất, can giờ là Canh, khoảng cách giữa chúng quá xa, sức hợp mỏng manh nên không thể xét đến hóa. Ngược lại, nếu can tháng và can năm là Ất và Canh thì 2 can gần nhau, có thể xét đến yếu tố hóa hợp.

3. Thiên can tương hợp, cát hung đều có

Thiên can sau khi hợp bản thân chúng vẫn còn năm, sáu phần sức lực.

Ví dụ: Ất, Canh hợp thành Kim, Canh Kim tuy bị hợp nhưng tính chất vốn có của nó vẫn còn giữ lại hơn nửa phần.

Việc thiên can sau khi hợp là tốt hay xấu thì phải căn cứ vào tình hình cụ thể mới xác định được. Thông thường, hợp không phải là việc xấu, nhưng một khi Hỷ thần hoặc Dụng thần của can ngày bị hợp thì hung thần nhiễu loạn nên sẽ không tốt.

(Theo Thuật tướng số cổ đại Trung Quốc)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem về hình xung hóa hợp của can chi (P2)

Giải hạn cho nhà có hướng ngũ quỷ –

HÓA GIẢI NHÀ HƯỚNG XẤU PHẠM: NGŨ QUỶ - LỤC SÁT - HỌA HẠI - TUYỆT MỆNH 1. Chọn cung phi theo bảng dưới đây: (VD nam sinh năm 1970, cung phi Chấn) 2. Sau khi đã chọn xong cung phi, tìm hình có cung phi tương ứng (VD cung phi chấn chọn hình Bát quái có

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

HÓA GIẢI NHÀ HƯỚNG XẤU PHẠM: NGŨ QUỶ – LỤC SÁT – HỌA HẠI – TUYỆT MỆNH

1. Chọn cung phi theo bảng dưới đây: (VD nam sinh năm 1970, cung phi Chấn)

cung phi

2. Sau khi đã chọn xong cung phi, tìm hình có cung phi tương ứng (VD cung phi chấn chọn hình Bát quái có chữ Chấn, theo hình vẽ sẽ thấy có 8 hướng Đông-Phục vị; Tây-Tuyệt mạng…

khon

3. Xem giải nghĩa các hướng để biết hướng tốt, xấu:

* Hướng Tốt

Sanh Khí: thuộc Tham lang tinh, Dương Mộc, Thượng kiết. Phàm cung mạng hiệp được phương Sanh Khí này lợi cho việc làm quan, làm ăn mau giàu, nhân khẩu tăng thêm, khách khứa tới đông, đến năm, tháng Hợi, Mẹo, Mùi thì được đại phát tài.

Thiên Y: thuộc Cự môn tinh, Dương Thổ, Thượng kiết. Nếu vợ chồng hiệp mạng được cung Thiên y và tạo tác nhà cửa, đường ra vào được Phương này thì giàu có ngàn vàng, không tật bịnh, nhơn khẩu, ruộng vườn, súc vật được đại vượng, khoảng một năm có của. Đến năm, tháng Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì phát tài.

Diên Niên (Phước Đức): thuộc Võ khúc tinh, Dương Kim, Thứ kiết. Vợ chồng hiệp mạng được cung này, đường ra vào, phòng, nhà miệng lò bếp xoay vế phương Diên niên chủ về việc: trung phú, sống lâu, của cải, vợ chồng vui vẽ, nhơn khẩu, lục súc được đại vượng. Ứng vào năm, tháng Tỵ, Dậu, Sửu.

Phục Vì (Qui Hồn): thuộc Bồ chúc tinh, Âm Thủy, Thứ kiết. Phàm vợ chồng hiệp được cung Phục vì được Tiểu phú, Trung thọ, sanh con gái nhiều, con trai ít. Cửa lò bếp, trạch chủ nhà được phương Phục vì gặp năm có Thiên Ất Quy Nhơn đến Phục vì ắt sanh con quý, dễ nuôi (Muốn cầu con nên đặt lò bếp day miệng về hướng này).

* Hướng Xấu: 

Tuyệt mạng: thuộc Phá quân tinh, Âm Kim, Đại hung. Bổn mạng phạm cung Tuyệt mạng có thể bị tuyệt tự, tổn hại con cái, không sống lâu, bịnh tật, thối tài, ruộng vườn súc vật bị hao mòn, bị người mưu hại (người hà bị mưu hại: thương nhơn khẩu). Ứng vào năm, tháng Tỵ, Dậu, Sửu.

Ngũ Quỷ (Giao chiến):Liêm trinh tinh, Âm Hỏa, Đại hung. Bị hỏa hoạn, bịnh tật, khẩu thiệt, hao mòn ruộng vườn, gia súc, thôi tài, tổn nhơn khẩu. Lâm nạn vào năm, tháng: Dần, Ngọ, Tuất.

Lục Sát (Du Hồn): thuộc Văn khúc tinh, Dương Thủy, Thứ hung.Nếu phương hướng nhà cửa phạm nhằm thì bị: mất của, cãi vã, hao mòn gia súc vườn ruộng, thương tổn người nhà. Ứng vào năm, tháng: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.

Họa Hại (Tuyệt Thế): thuộc Lộc tồn tinh, Âm Thổ, Thứ hung.Phương hướng nhà cửa, cưới gả vân vân … phạm vào thì bị quan phi, khẩu thiệt, bịnh tật, của cải suy sụp, thương nhơn khẩu. Ứng hại vào năm, tháng: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.

4. Khi xây nhà chọn các hướng tốt cho những vị trí: Bếp (hướng bếp là hướng lưng người nấu) , cửa chính, bàn thờ, đầu giường… Chọn các hướng xấu cho các vị trí nhà vệ sinh, hầm tự hoại, sàn giặt…

5. Nếu hướng nhà phạm vào hướng xấu, có thể dùng hướng bếp hóa giải:

Sanh khí giáng Ngũ quỷ

Thiên y chế Tuyệt mạng

Diên niên yểm Lục sát

Chế phục an bài đinh

Ví dụ nhà có phướng phạm vào ngũ quỷ, xoay hướng bếp sang hướng sanh khí sẽ trừ được tà khí…

 6. Hóa Giải nhà Hướng Xấu bằng trụ thạch anh

Thạch anh tự nhiên mang nguồn năng lượng vũ trụ cực kỳ mạnh mẽ. Để hóa giải nhà hướng xấu không hợp tuổi gia chủ bạn nên dùng trụ thạch anh (trụ tối thiểu từ 0,5kg trở lên) loại lớn, để trấn các năng lượng xấu, tà khí xấu do hướng xấu như Lục sát, Ngũ quỷ, Mất mát, Họa hại gây ra. Năng lượng dương cực mạnh của thạch anh sẽ xua tan, đẩy năng lượng âm ra khỏi căn nhà của bạn. Bạn cần chú ý trụ thạch anh cần được ngâm nước muối tinh 7 ngày 7 đêm trước khi đặt, để mang lại hiệu quả trấn tốt hơn trụ thạch anh cần phải được trì chú và tính ngày giờ tốt hợp tuổi gia chủ để an vị. Nếu không có điều kiện dùng trụ thạch anh,  bạn có thể dùng 2 gương bát quái treo phía trước cửa nhà bạn đó là TIÊN THIÊN BÁT QUÁI VÀ HẬU THIÊN BÁT QUÁI

Bát quái treo bên ngoài dùng để trừ tà ma, chỉnh hướng cửa sai… Bát quái có nhiều loại, có loại có gắn gương (thường, lồi, lõm). Các loại gương này được dùng như liệt kê dưới đây. Có 2 loại Bát-quái là Tiên-thiên Bát-quái và Hậu-Thiên Bát-quái. Tiên-Thiên Bát-quái treo theo vị trí Càn trên Khôn dưới. Hậu-Thiên Bát-quái thì treo theo vị trí Khảm trên, Ly dưới. Khi muốn sửa nhà nằm trong vị trí xấu thì treo Tiên-thiên Bát-quái trong vị trí bình thường. Hậu-Thiên Bát-quái phải xoay để thay vị trí hướng xấu bằng vị trí hướng tốt như sau đây:

Xem cửa chính nhà đã phạm hướng xấu nào dựa theo Mệnh-quái của Bát-trạch.

Ðịnh vị trí Bát-quái cần phải dùng để sửa:

Sinh-khí để hóa giải cửa chính quay về hướng Ngũ-quỹ.

Thiên-y để hóa giải cửa chính quay về hướng Tuyệt-mạng.

Phúc-đức để hóa giải cửa chính quay về hướng Lục-sát.

Phục-vị để hóa giải cửa chính quay về hướng Họa-hại.

Vị trí bình thường của Hậu-thiên Bát-quái là Ly ở phía trên, Khảm ở phía dưới tượng trưng cho vị trí Phục-vị. Dựa theo Mệnh-quái, xoay vị trí Phục-vị đến vị trí cần phải sửa. Hay nói khác đi là xoay vị trí tên của Mệnh-quái đến thay thế cho vị trí cần phải sửa.

Thí dụ 1: Theo Mệnh-quái Càn thì cửa chính hướng về phía Ngũ -quỉ ở phía Ðông (Cấn). Phải dung Sinh-khí để hóa giải. Mệnh-quái là Càn thì Phục-vị ở hướng Tây-bắc (Càn), Sinh-khí ở hướng Tây (Ðoài). Phải xoay Bát-quái cho Càn thế chổ của Ðoài tức là xoay Bát-quái 45 độ ngược theo chiều kim đồng hồ. Như vậy phải treo Khôn trên, Cấn dưới.

Thí dụ 2: Theo Mệnh-quái Khôn thì cửa chính hướng về phía Ngũ -quỉ ở phía Ðông-nam (Tốn). Phải dùng Sinh-khí để hóa giải. Mệnh-quái Khôn thì Phục-vị ở hướng Tây-nam (Khôn), Sinh-khí ở hướngÐông-bắc (Cấn). Phải xoay Bát-quái cho Khôn nằm vào vị trí Cấn tức là phải xoay 180 độ (nửa vòng). Như vậy phải treo Bát-quái trong vị trí Khảm trên, Ly dưới.

Tuy nhiên bát quái không phải lúc nào củng có tác dụng khi ta mua từ tiệm về để dùng.Mà ta phải đem đến CHÙA nhờ CHÚ NGUYỆN,có nghĩa là MỞ MẮT THẦN cho bát quái,thì sử dụng mới có hiệu quả.

(Tất nhiên việc đặt bất cứ dụng cụ nào để hóa sát trong phong thủy,đều phải xem ngày TRỰC TRỪ và giờ HOÀNG ĐẠO để đặt.)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải hạn cho nhà có hướng ngũ quỷ –

10 nghiệp lành của đạo Phật giúp bạn sống hạnh phúc hơn (P2)

Bên cạnh ý nghĩa tôn giáo, 10 nghiệp lành của đạo Phật còn mang ý nghĩa đạo đức rất sâu sắc. Làm được 10 điều này thì tự nhiên cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn.
10 nghiệp lành của đạo Phật giúp bạn sống hạnh phúc hơn (P2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

10 nghiệp lành của đạo Phật bên cạnh ý nghĩa tôn giáo còn mang ý nghĩa đạo đức rất sâu sắc và thực tế. Làm được 10 điều này thì tự nhiên cuộc sống sẽ nhẹ nhàng, tự tại hơn.

Song hanh phuc hon voi 10 nghiep lanh cua dao Phat (phan 2) hinh anh
 

5. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói vu oan, vu cáo


Lời nói dối đã độc hại, nguy hiểm mà lời nói vu oan, vu cáo kẻ khác còn thâm hiểm, độc ác hơn nhiều. Lời nói dối, ban đầu, có thể do tham sân điều động nhưng chỉ ở mức độ vừa phải. Lên đến cấp độ vu oan, vu cáo thì tham sân ấy đã mạnh mẽ hơn nhiều. Lý trí mù quáng, đẩy người khác vào tội đáng ra không phải gánh là tạo nghiệt, con người tự đầy đọa nhau.Nghiệp lành của đạo Phật khuyên con người từ bỏ những lời có hại ấy mà sống khona hòa với nhau.
 

6. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói cộc cằn, thô lỗ, chửi rủa, mắng nhiếc, ác ngữ

Tuy những lời nói thuộc loại này không ác độc bằng cách nói trên nhưng cũng không tốt đẹp gì, đều đem đến nguy hại. Lời ấy biểu hiện cái tâm còn hoang dã, bản năng, thô xấu, thiếu văn hoá, thiếu giáo dục, thiếu gia phong. Không chỉ làm người khác đau lòng, dẫn tới sự xô xát mà còn tự hủy hoại đạo đức bản thân.
 

7. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói nhảm nhí, vô ích, rỗng không, phù phiếm

Thời gian là bạc là vàng, nói lời vô ích, phù phiếm chỉ tốn thời gian, lãng phí công sức mà lại gây hậu quả khôn lường. Nói nhiều thành quen, lời bỡn cợt trở thành hiềm khích, lời nhảm nhí trở thành tai họa. Vừa làm lây nhiễm thói hư tật xấu, gây phiền phức người xung quanh lại tha hóa bản thân, không làm được gì cho đời.
 

8. Ý vĩnh viễn từ bỏ sự tham lam

Tham lam là không bằng lòng, không vừa ý, không thỏa mãn những sở hữu mà mình đang có; không bao giờ biết sống đời tri túc, mà luôn cảm thấy thiếu thốn, muốn có thêm vật này, vật kia; luôn luôn dòm ngó của cải, tài sản của kẻ khác; muốn vơ vét, chiếm đoạt, cướp giật của cải tài sản của người. Có lòng tham nên con người làm đủ mọi cách, không từ thủ đoạn để đạt được, mới nảy sinh ra tội ác. Không có lòng tham thì không có tội ác.  

9. Ý vĩnh viễn từ bỏ sự sân hận (thù oán, oán hận, ác ý)

Thù oán, ác ý là hình thái cảm xúc cực đoan khi con người gặp phải điều không vừa ý. Đường đời không bằng phẳng, có lòng sân hận thì gặp đâu cũng thấy khó chịu, nảy sinh tư thù, làm ra chuyện đại nghịch, tội ác tày trời để thỏa mãn lòng hận của mình. Điều chỉ vậy còn khiến con người luẩn quẩn trong những ssuy nghĩ tăm tối, nóng giận, không khi nào bình yên, thanh thản.
 

10. Ý vĩnh viễn từ bỏ tà kiến (chuyển tà kiến thành chánh kiến)

Tà kiến là thấy sai, thấy lệch, thấy nghiêng, thấy một bên, thấy một phía, không thấy được cái chân, cái thực, cái toàn diện. Tuy nhiên, mới thấy tà như vậy cũng chưa phải tà kiến. Người thấy tất cả cái tà ấy, còn chấp cái tà ấy là chánh, là sự thật; ra sức bảo vệ, phát triển quan điểm lệch lạc ấy nữa, mới chính thật là tà kiến. cái nhìn sai lệch ấy khiến con người sống sai lệch, làm sai lệch và truyền sự sai lệch ấy tới mọi người xung quanh. Nghiệp lành thứ 10 khuyên con người phải sửa mình cho cái tà thành chánh, cái sai thành đúng.

ST

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 nghiệp lành của đạo Phật giúp bạn sống hạnh phúc hơn (P2)

Tảo mộ và những cấm kị quan trọng cần nhớ

Nếu bạn thường xuyên mơ thấy người thân hoặc bạn bè đã mất thì điều này cho thấy bạn cần phải đi tảo mộ của những người này ngay.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo



Tiết Thanh Minh không chỉ là thời gian để chúng ta tưởng nhớ lại tổ tiên, mà còn là thời gian để điều chỉnh lại phong thủy, bởi vì phong thủy chia làm hai loại: phong thủy âm và phong thủy dương. Nếu như một người cảm thấy mọi chuyện đều không thuận lợi, thường xuyên gặp trắc trở, tiết Thanh Minh đi tảo mộ, cúng bái Tổ tiên sẽ có tác dụng điều chỉnh lại phong thủy, thay đổi vận thế sau này.

 Tảo mộ và những cấm kị quan trọng cần nhớ - 1 Tiết Thanh Minh đi tảo mộ không chỉ để chúng ta tưởng nhớ lại tổ tiên…

Tiết Thanh Minh đi tảo mộ cần chú ý những điều sau đây:

1. Không nên đi cúng tế ở nơi hẻo lánh, tốt nhất nên đi những con đường mà mọi người hay đi để tránh gặp nguy hiểm. Hơn nữa, theo quan niệm phong thủy, đi đến những nơi như vậy sẽ dễ nhiễm tà khí, nếu như thật sự cần đi thì nên đi cùng nhiều người. 2. Khi đi cúng tế và tảo mộ cần phải chân thành, trên đường đi nếu có mộ, dù đi hay đứng lại đều cần phải lễ độ cung kính. Trong quá trình tảo mộ không nên làm lộn xộn quá nhiều các mảnh đất vụn đá vụn để tránh ảnh hưởng đến môi trường xung quanh. 3. Mộ phần của tổ tiên cần phải được quét dọn cỏ dại, thêm đất mới và hoa tươi, đừng quên quét dọn cả phía sau mộ. Khi làm mới lại diện mạo của mộ phần, trong lòng nhất thiết phải thật cung kính. 4. Khi tảo mộ, không nên dẫm đạp lên mộ của nhà khác hoặc đá vào đồ cúng trên mộ của người khác, nếu không sẽ đem lại điều không may cho bản thân. Đặc biệt là những trẻ vị thành niên lại cần phải chú ý. 5. Nếu như con gái đi tảo mộ, tốt nhất là tránh  trong thời kỳ hành kinh. Phụ nữ có thai cũng không nên đi tảo mộ. 6. Những bạn có khí trường yếu, tốt nhất là về nhà bước qua chậu lửa hoặc rắc nước lá bưởi để xóa bỏ năng lượng xấu. Trong cuộc sống thường ngày chúng ta rất hay thấy có người đi tảo mộ về bị sốt hoặc cảm thấy không khỏe, cũng có thể dùng cách này để tránh. 7. Bởi vì tảo mộ cũng thường là khoảng thời gian người thân tụ tập lại với nhau, lúc này cần chú ý không được chụp ảnh tập thể ở xung quanh mộ. 8. Khi tảo mộ, cần chú ý sửa sang bốn phía của ngôi mộ. Thứ nhất là để tỏ lòng kính trọng với những người đã khuất, thứ hai là để xem xét tình hình của mộ. Nếu như xung quanh mộ có nước (nước có thể vào bên trong hoặc vũng nước rất sát mộ) sẽ có ảnh hưởng không tốt cho vận thế của của người đời sau. 9. Tiết Thanh Minh có một số cấm kỵ phong thủy thường gặp cần phải đặc biệt tuân thủ. Tiết Thanh Minh không nên mua giày (vì trong tiếng Trung giày và từ tà (tà khí) đọc giống nhau). Thêm vào đó, những ngày này âm khí rất nặng, do vậy không nên đi đêm, nếu như có việc cần đi phải đem theo một số vật tránh tà.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tảo mộ và những cấm kị quan trọng cần nhớ

Phong thủy khi mua nhà –

Môi trường xung quanh có tác động lớn đến cuộc sống, hạnh phúc và thịnh vượng của bạn và gia đình. Ngoài việc xem xét về giá cả, vị trí, diện tích, điều kiện đường xá, tiện nghi trong và ngoài, một yếu tố quan trọng không thể bỏ qua, đó là phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Môi trường xung quanh có tác động lớn đến cuộc sống, hạnh phúc và thịnh vượng của bạn và gia đình.

Ngoài việc xem xét về giá cả, vị trí, diện tích, điều kiện đường xá, tiện nghi trong và ngoài, một yếu tố quan trọng không thể bỏ qua, đó là phong thủy của ngôi nhà đó tốt hay xấu.

house

1. Lịch sử của ngôi nhà

Chọn mua một ngôi nhà mới là lựa chọn tốt nhất. Nếu mua lại, người bán nhà vừa mới được thăng chức, trúng xổ số, và chuyển đến một ngôi nhà mới khang trang hơn là rất may mắn, tốt về phong thủy và tạo ra những năng lượng tích cực.

Nhà được bán từ một người mới ly hôn, bị tịch thu nhà, hay mắc một loại bệnh nguy hiểm thực sự không tốt. Mua một ngôi nhà như thế, có nghĩa là bạn đã mua những rắc rối vào mình. Có thể, những yếu tố về địa hình hay thế đất đã tạo nên khó khăn cho gia chủ.

2. Thế đất và hình dáng của khu đất

Ngôi nhà nằm bên cạnh một ngọn đồi là không tốt trong phong thủy, nhưng nếu ngọn đồi, hay tòa nhà cao tầng ở đằng sau ngôi nhà thì lại rất tốt.

Hình dáng đẹp nhất của khu đất là hình vuông, hình chữ nhật. Đằng sau rộng hơn và cao hơn đằng trước là điều tốt lành. Ngược lại, đằng sau hẹp hơn, thấp hơn, sẽ tạo ra sự mất mát, khó khăn.

3. Sự bố trí từ phòng ngủ cho tới phòng tắm

Nhìn vào sự bố trí từ phòng ngủ cho tới phòng tắm, chúng ta có thể đánh giá sự tốt, xấu của phong thủy ngôi nhà. Phòng ngủ bên trên gara, bếp, phòng giặt khô, hay không gian trống phía dưới; phòng tắm bên trên phòng ăn hoặc bếp; phòng ngủ chung tường với toa lét là những điều không tốt. Điều này có thể gây ra ốm đau, bệnh tật cho những người sống trong đó.

4. Phía đối diện ngôi nhà

Ngôi nhà đối diện với mảnh đất mở về phía trước rất tốt, có ý nghĩa mở ra một tương lai tươi sáng. Chúng ta có thể lấy ví dụ như Nhà Trắng ở Washington với bãi cỏ rộng ở mặt trước, hay tòa nhà Biltmore ở Asheville, Cazolina. Ngược lại, nếu căn nhà bị choáng ngợp bởi cây cối cũng không tốt. Nếu có cây lớn trước nhà, hay cây bụi sát nhà, trong phong thủy, nghĩa là, chặn mọi cơ hội tốt đẹp đến với gia chủ. Bạn có thể di dời những cây này tới trồng ở vị trí khác.

5. Bên trái, bên phải nhà

Hãy để ý xem có ngôi nhà nào bên cạnh mái nhọn, có một góc nhọn chĩa về nhà bạn không, nếu có thì không nên mua. Nếu ngôi nhà, hoặc mảnh đất bên trái cao hơn thì rất tốt, vì nó đang khai thác năng lượng của con Rồng (Thanh Long Bạch Hổ). Còn may mắn hơn nữa, nếu nhà bên trái nhìn ra hướng Đông.

6. Hướng tiếp cận và các ngõ cụt

Nếu đường đi đâm thẳng vào nhà, hay đường lái xe thẳng, dài, đâm thẳng vào nhà là điều rất tối kị, nhưng bạn vẫn có thể hóa giải bằng cách trồng cây hoặc treo gương. Tuy nhiên, nếu nhà có hai con đường song song, một phía trước, và một phía sau thì không thể hóa giải được (hai đường thẳng song song tán khí).

7. Hướng Tây Nam và hướng Tây Bắc

Đây là hai hướng quan trọng của ngôi nhà. Tây Nam là hướng của Trời, Tây Bắc là hướng của Mẹ. Hướng Tây Bắc không bao giờ được phép có ngọn lửa (bếp ga, lò sưởi) bởi dương khí ở những hướng này rất mạnh. Nếu có, hãy chuyển vị trí của chúng bởi điều này cũng rất tối kị, gây ra những khó khăn nghiêm trọng cho người cư ngụ trong nhà.

Tây Nam là hướng của người phụ nữ, người mẹ trong gia đình. Nếu ở hướng này có một cái kho, hay một phòng tắm, chủ nhà sẽ gặp khó khăn trong hôn nhân, hoặc bất hạnh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy khi mua nhà –

Xem ngày tốt xấu tháng Tám theo Đổng công tuyển trạch nhật

Xem ngày theo Đổng Công tuyển trạch nhật để chọn ngày tốt tiến hành công việc thì vạn sự sẽ được như ý, vạn việc đều được cát.
Xem ngày tốt xấu tháng Tám theo Đổng công tuyển trạch nhật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 


Xem ngay tot xau thang Tam theo Dong cong tuyen trach nhat hinh anh
12 con giáp

Nguyệt kiến Dậu: Bạch lộ - Thu phân. (Từ ngày 7-8 tháng 9 DL)  Trước Thu phân một ngày là Tứ ly  Sau Bạch lộ, Tam sát tại phương Đông, trên Dần, Mão, Thìn nên kị tu tạo, động thổ. 
 
Trực Kiến - ngày Dậu: 
Tiểu Hồng Sa -Thiên Thành: ngày này chính là lúc ngũ hành tự bại ,trăm sự đều hung, lại còn phạm cả Thiên - Địa chuyển sát  nên càng hung nhiều hơn; nếu lỡ phạm ngày này sẽ bị kiện cáo, sản ách, gặp tai nạn về nước, con cháu phải ly  tán, bại gia triền miên.
 
Trực Trừ - ngày Tuất: 
Ngày Canh Tuất là Thiên Đức, Nguyệt Đức. 
 
Mậu Tuất, Giáp Tuất nên làm các việc hưng công, động thổ, nhập trạch, khai trương, hôn nhân, mọi việc đều được thứ cát. 
 
Bính Tuất, Nhâm Tuất là Sát nhập trung cung, không nên làm việc gì, nếu dùng sẽ bị mất của, gia đình mâu thuẫn, đại hung.
 
Trực Mãn - ngày Hợi: 
Thiên phú.  Ất Hợi có Văn Xương quý hiển tinh. 
 
Đinh Hợi, Kỷ Hợi có các cát tinh Hoàng La, Tử đàn, Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Hoa Thái, Thao Trì, Lộc Mã cùng chiếu, tốt cho khởi tạo, hưng công, động thổ, buộc giàn, nhập trạch, hôn nhân, giá thú, khai trương, xuất hành, kinh doanh, làm lớn thì phát lớn, làm nhỏ thì phát nhỏ, trong vòng 60 ngày, 120 ngày, chậm là đủ vòng năm lại thấy tài thành, sinh quý tử, vượng điền sản và lục súc. 
 
Tân Hợi là ngày Âm Phủ Quyết Khiển, chẳng phải là ngày dùng ở dương gian. Quý Hợi là ngày tận cùng của lục giáp, ngũ hành vô khí, không nên làm việc gì. 
 
Trực Bình - ngày Tý: 
Vãng Vong, Chu tước, Câu Giảo, bị kiện cáo,  tổn hại tới gia chủ.  Bính Tý là khi nước trong sạch (khiết tinh). 
 
Canh Tý có Hỏa Tinh, lại thêm Thiên Đức, Nguyệt Đức cùng chiếu, và Mậu Tý. Ba ngày này nên làm các việc khởi tạo, giá thú, nhập trạch, xuất hành, động thổ thì rất tốt. 
 
Giáp Tý cũng có Hỏa Tinh, nhưng là Bắc phương Hắc sát chi khí. 
 
Nhâm Tý là lúc thảo mộc điêu linh (tàn hại), ngũ hành vô khí, không nên làm việc gì. 
 
Trực Định - ngày Sửu: 
Tân Sửu, Quý Sửu, Ất Sửu, Đinh Sửu là thứ cát. Chỉ có Kỷ Sửu bất lợi cho mọi việc, không nên làm gì, gia chủ bị bệnh tật, gặp tai ương. 
 
* * * * *  Tra ngày Định là Sửu ở Đổng công trong nguyên bản, có chép:  - Tân Sửu, Quý Sửu là ngày thứ cát. - Ất Sửu, Đinh Sửu cũng thứ cát. - Duy có Kỷ Sửu là bất lợi.  - Các nhà thố pháp (người làm việc chôn quan tài) nói Đinh Sửu, Quý Sửu phạm Chu tước, Câu giảo, lại có Bạch hổ, Sát nhập trung cung, những cái đó là hung tinh. - Mà Tân Sửu lại gặp Thu quỷ mộ, can chi vô khí, trăm việc đều kỵ.  * * * * * 
 
Tựa như khó nói cái đó là tốt, mặc dù « Hiệp kỷ biện phương thư » nói rằng Đinh Sửu, Kỷ Sửu nên làm việc hôn nhân, giá thú, nhưng 4 ngày Sửu là Đinh, Kỷ, Tân, Quý của tháng đó, đều có hung Sát, huống hồ Kỷ Sửu càng có thập ác chi hung (xấu vì có mười thứ ác), Xương Quỷ (quỷ cuồng vọng), bại vong nên không dùng được. Vì vậy mấy ngày này đều không nên làm bất cứ việc gì. 
 
Duy có Ất Sửu các sách đều nói là Thượng cát nên may ra có thể dùng được.
 
Trực Chấp - ngày Dần: 
Hoàng Sa.  Canh Dần có các cát tinh Thiên Đức, Nguyệt Đức, có Hoàng La, Tử Đàn, Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Kim Ngân Bảo Tàng, Điền Đường Khố, Châu Tụ, Lộc Đới Mã Loan, và Cung Diệu cùng chiếu, nên làm các việc khởi tạo, hôn nhân, động thổ, di cư, khai trương, xuất hành, thì được vượng điền, có hoạnh tài, tăng lục súc, thêm nhân khẩu, và con cháu sửa nhà, sân, gia đạo hưng thịnh. 
 
Các ngày Dần còn lại cũng là thứ cát, có thể dùng.  Riêng Giáp Dần là chính tứ phế, xấu. 
 
Trực Phá - ngày Mão: 
Thiên tặc.  Quý Mão, Ất Mão là thứ cát. 
 
Các ngày Mão còn lại đều bất lợi, có Chu Tước, Câu Giảo, bị kiện cáo, tranh cãi, còn phạm cái hung của Nguyệt Yểm. Ất Mão là chính tứ phế, cũng xấu. 
 
Trực Nguy - ngày Thìn: 
Nhâm Thìn là lúc nước trong sạch.  Bính Thìn nên làm các việc phá đất, hưng công, khai trương, xuất hành, nhập trạch, hôn nhân, trăm việc thuận lợi, rất tốt. 
 
Mậu Thìn thảo mộc điêu linh.  Canh Thìn là thiên địa cùng phế, không tốt.  Giáp Thìn là Sát nhập trung cung, rất xấu. 
 
Trực Thành - ngày Tị: 
Thiên hỉ.  Ất Tị, Kỷ Tị có các cát tinh Tử Đàn, Đới Lộc, Dịch Mã, Khúc Đường cùng chiếu nên làm các việc hôn nhân, nhập trạch, hưng công, động thổ, khai trương, xuất hành, khởi tạo kho chứa, chuồng dê ngựa, đều rất tốt, trăm việc thuận lợi. 
 
Các ngày Tị còn lại là thứ cát. 
 
Trực Thu - ngày Ngọ: 
Phúc Tinh chiếu nhưng tiếc là bị Kiến, Phá xung.  Nhâm Ngọ là Hỏa Tinh, thứ cát.
 
Mậu Ngọ có Hỏa Tinh, bất lợi. Canh Ngọ cũng bất lợi. Phạm ngày này sẽ bị tổn hại tới con cháu, bị kiện cáo, mâu thuẫn : hung
 
Bính Ngọ làm các việc động thổ, an táng, kinh doanh thì được thứ cát. 
 
Trực Khai - ngày Mùi: 
Đinh Mùi, Kỷ Mùi, Tân Mùi, Quý Mùi đều là thứ cát, ngày đó chỉ nên phạt cỏ, mở núi (khai sơn), nhổ cây, an táng. 
 
Duy Ất Mùi trăm việc đều không tốt, xấu, phạm phải thì suy, bại, tử tuyệt. 
 
Trực Bế - ngày Thân: 
Mậu Thân có Thiên Xá. 
 
Canh Thân, Bính Thân có Thiên Đức, Nguyệt Đức chiếu, nên làm các việc xuất hành, sửa mới, động thổ, hưng công, đặt móng, buộc giàn, hôn nhân, nhập trạch, an táng, khai trương, làm kho chứa, chuồng trâu, dê, lợn… có lợi con cháu, vượng điền sản, tiến hoành tài, nhà cửa phát đạt, thượng cát. 
 
Giáp Thân, Nhâm Thân thứ cát. 
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem ngày tốt xấu tháng Tám theo Đổng công tuyển trạch nhật

Cách tính ngày Hoàng Đạo (ngày tốt) và ngày Hắc Đạo (ngày xấu) theo tháng –

Các tháng Ngày Hoàng Đạo (Tốt) Ngày Hắc Đạo (Xấu) Giêng - Bảy Tý - Sửu - Tị - Mùi Ngọ - Mão - Hợi - Dậu Hai - Tám Dần - Mão - Mùi - Dậu Thân - Tị - Hợi - Sửu Ba - Chín Thìn - Tị - Dậu - Hợi Tuất - Mùi - Mão - Sửu Tư - Mười Ngọ - Mùi - Hợi - Sửu Tý -

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

2284_1195238533

Các tháng

Ngày Hoàng Đạo (Tốt)

Ngày Hắc Đạo (Xấu)

Giêng – Bảy

Tý – Sửu – Tị – Mùi

Ngọ – Mão – Hợi – Dậu

Hai – Tám

Dần – Mão – Mùi – Dậu

Thân – Tị – Hợi – Sửu

Ba – Chín

Thìn – Tị – Dậu – Hợi

Tuất – Mùi – Mão – Sửu

Tư – Mười

Ngọ – Mùi – Hợi – Sửu

Tý – Dậu – Mão – Tị

Năm – Mười một

Thân – Dậu – Sửu – Mão

Dần – Hợi – Mùi – Tị

Sáu – Chạp

Tuất – Hợi – Mão – Tị

Thìn – Sửu – Mùi – Dậu


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách tính ngày Hoàng Đạo (ngày tốt) và ngày Hắc Đạo (ngày xấu) theo tháng –

Người có số đào hoa cư Tý chiếu mệnh

Một bài viết rất hay của cụ Hoàng Hạc - Thu Giang Nguyễn Duy Cần - giảng giải về: sao Đào Hoa, Hạn Thiên Cơ, Thân có Trường Sinh, những người tuổi Mộc. Cụ Hoàng Hạc là một học giả rất uyên thâm.
Người có số đào hoa cư Tý chiếu mệnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhân được hân hạnh biết cụ Hoàng Hạc nên có theo lời cụ để kể chuyện Tử vi hầu quý bạn đọc trong mấy số đầu. Nay chúng tôi đã được phép để loan báo với quý bạn đọc rằng chính cụ Hoàng Hạc sẽ đích thân viết 1001 chuyện Tử vi kể từ số này. Ngoài sự am hiểu về Tử vi của cụ, quý bạn sẽ thưởng thức cả lối hành văn dí dỏm. Cụ Hoàng Hạc là một nhà văn, một nhà học giả đương lo những công trình văn hóa lớn, hiện là giáo sư ở Đại học Văn khoa. Trần Việt Sơn kính mời bạn đọc theo dõi.

Sao đào hoa

Trong những số trước chúng tôi đã đề cập tới sao lộc tồn và đã biết. Sao lộc tồn trong tử vi lạ lùng lắm, nó có 2 vai trò Phúc tinh hay Lộc tinh nó cũng lại có 1 công dụng là sao thanh cao gọi là chân nhân chi tử và nó diệt tất cả những tánh cách dâm đãng của các sao đào hoa và hồng loan. Bởi vậy về sau tôi có xem cho một người đàn bà (một vị giáo sư) đứng đắn lắm vậy mà lá số tử vi có đào hoa, sao thai thủ mạng nhưng thêm có lộc tồn.

Tôi giảng cho ông bạn tôi thì ảnh bảo:

- Lạ nhỉ để tôi kiểm lại.

Chúng tôi có cả một hồ sơ số các người đàn bà dâm đãng giang hồ mà tên tuổi không cứ là phải có Đào hoa. Nếu mà Đào hoa là có sắc đẹp thì Đào hoa nhập cung Hỏa còn đẹp nỗi gì?

Bạn tôi dạy tôi:

- Cái bí quyết của Đào hoa lại còn ly kỳ nữa. Đừng tưởng Đào hoa là xấu đâu. Nó ở đúng cung của nó như Đào hoa cư Tý thì số dách.

- Số dách ở chỗ nào?

- Thủ mạng không hay nhưng được nó chiếu, nghĩa là chánh chiếu thì bạn là người mà ai cũng thương mến. Không cần đọc sách học “đắc nhân tâm” cũng thành công; người nào mà thay vì gặp Đào hoa chánh chiếu (nhất là Đào hoa cư Tý) thì chả thèm học cái thuật gì cả thiên hạ họ mê như điếu đố, đi đâu người ta cũng thương, nói gì người ta cũng nghe.

Còn không có nó, hay gặp nó hãm địa hoặc gặp Hóa kỵ chánh chiếu. thì thôi: thiên hạ thấy cái bản mặt mình là đã ghét rồi mà mình có chọc ghẹo gì chúng đâu chúng cũng ghét.

Thật vậy tôi xét lời nói bạn có phần rất hữu lý. Có nhiều bộ mặt mình thấy là có thiện cảm nói chuyện bá vơ với họ là đã thấy dễ chịu và ưa mến họ rồi. Tây họ gọi mấy người đó có cái “Charme” còn có nhiều người không chọc ghẹo gì mình mà thấy cái mặt không mà thôi là đã có ác cảm rồi.

Bạn tôi thấy tôi ngồi suy nghĩ nói tiếp:

- Hễ Đào hoa cư tý chiếu mạng thì mạng phải ở cung Ngọ không bổ

- Đúng!

- Có gì lạ

- Mạng ở cung Ngọ (là thiên cung) có phải là “ngon” chăng đã ngon lại còn được kẻ yêu người mến thì làm gì không thành công, các bực được đại kỳ công trong xã hội, đều là bọn người có sao Đào hoa cư Tý hoặc chính chiếu, hoặc tam lục hạp chiếu…Bạn cứ tin tôi đi.

Họ có nghèo ở một cái nhà tranh vách đất, cũng là một người ra vẻ con người, lại đắc nhân tâm. Trái lại, thì dù có đọc cả ngàn làn sách học cũng không làm sao thực hiện được việc “đắc nhân tâm” là vì họ chưa nói, chưa làm thì tự mình đã tiết ra một “luồng khí” mà không một ai “ngửi” được!

Người sinh ra mà “vô duyên” ai thấy cũng “ghét” số thì thật là “bất công” hết sức.

Tôi đã bàn về các vì sao Thai và sao Lộc tồn nhưng khoa tử vi còn nhiều cái trớ trêu. Tuy trớ trêu mà thật sự nó có những nguyên lý hết sức khoa học.

Hạn Thiên Cơ, sống chết thế nào?

Có một ông thầy hồi đó đoán lá số cho người bạn tôi, quả quyết: đến năm Tỵ (cách đây 6 năm) sẽ chết, vì già mà ngộ Thiên Cơ, trùng hạn gặp Đào hoa. Quả thật, anh bạn tôi mất tại Ba Lê đúng vào năm ấy. Tôi lật số tử vi của ông bạn rồi tấm tắc khen thầm. Nhưng cũng một ông bạn khác nhờ ông này xem giùm thì cũng được ông ấy đoán:

Hạn Thiên cơ nhằm khoản 52 thì chết. Cũng giống số ông bạn kia. Nhưng ông bạn này đã trên 60 rồi, lại tôi bảo:

- Ê! Toa nói thằng cha ấy hay! Nhưng moa khoảng 51 bước qua 53 bước lại, moa lo muốn chết. Té ra… Chẳng có gì cả! Thằng ấy “láo”

Tôi không biết nói sao, bèn nảy ra ý thì đi tìm một anh bạn thạo tử vi khác (anh này là nhà tu nhưng là một cây tử vi). Một hôm thình lình ông bạn đi vân du dã rồi, lại lò mò trở về ghé thăm bạn cũ. Mừng quá tôi đem lá số ấy ra hỏi, và thuật lại những lời mà ông bạn trên đây than phiền. Tôi hỏi,

- Tại sao hai lá số cùng một hạn Thiên Cơ mà một người bị, một người không?

Anh bạn nhà tu của tôi bảo:

- Thiên Cơ gì! Đào hoa gì! Người ta Thiên Cơ cư Sửu, Đào hoa cư Tý, nhưng Thân đeo cung Phúc ngộ Trường Sinh. Chết sao nổi mà chết!

- Thân cư Phúc địa ngộ trường sinh là sao?

- Đây, tôi nói cho anh nghe: Người này tuổi Thủy, mạng cư Ngọ vị, tức là sai mạng. Mạng cung tương khắc. Người này lại tuổi Âm nam nên vòng Đại hạn đi nghịch chiều. Trong khoảng nhỏ, anh bị lận đận, có thể chết ngay hồi trong lúc sơ sinh. Nhưng sống lại được, là nhờ Thân cư cung Phúc đã ngộ Trường Sinh mà còn Thân cư cung Thân Kim nữa. Kim trường sinh lại năng sinh Thủy thì Thủy vượng, lửa ở cung Ngọ đốt không đủ sức tiêu diệt. Vòng đại hạn nghịch chiều qua khoảng 30 trở lên thì anh này mới thấy khá được vì hết bị hỏa thiêu, nhưng chưa đắc thời là vì hạn vào các cung Mộc, mạng Thủy mà hạn lâm Mộc cung thì bị tiết khí (rút bớt khí) đi nghĩa là Thủy cũng bị lưng bớt vì phải lo nuôi dưỡng cung hạn. Tuy vậy lúc này anh ấy cũng khá hơn lúc thiếu thời. Đến lúc qua hạn, Thủy thì Thủy, Thủy trùng phùng, Phá quân cư Tý, tức là hạn chịu ảnh hưởng của cung phúc (thuộc hành kim) thì đã chẳng những không chết, lại còn Vượng lên ghê lắm; Phá quân cư Tý tức là sóng cồn đại hải ngộ, Thanh long cư Thìn (Long cư long vị) ngộ Lưu hà tức là rồng ra biển cả mặc sức tung hoành… làm sao chết nổi. Thằng cha thầy kia coi mò thiển cận quá, anh hỏi lại có phải vậy chăng?

Tôi thuật lại lời nói của ông bạn thày tu cho anh bạn tôi thì anh này nói:

- Hay quá: cái gì chứ lối cắt nghĩa như thế tinh vi.

Thân có trường sinh

Hồi nhỏ, tôi sinh ra, không được ba ngày là nhịn bú, và nằm khóc hoài. Cha mẹ tôi chạy thầy chạy thuốc hết phương, định bỏ rồi…thì bỗng dưng ‘Thất nhật hoàn hồn”: tôi tự nhiên hết khóc, rồi chịu bú lại. Bắt đầu từ đấy, mạnh lại như thường. Nhưng cứ èo uột mãi, đến khoảng 18,19 thì lại đau yếu liên miên, vì tôi cảm thấy đời mình sẽ không kéo dài hơn 25 tuổi. Vậy mà lần lần, tôi mạnh khỏe thêm, rồi khoảng 37, 38 tuổi tôi thấy khỏe mạnh hơn hồi nhỏ. Nay lớn tuổi rồi, vậy mà ít khi đau yếu, sức khỏe đối với hồi niên thiếu và làm việc hăng hái hơn, có khi người thanh niên làm việc không bền bỉ bằng tôi.

Sau đó tôi mới lưu ý đến cái mà tử vi gọi là “Thân” đeo cung Trường sinh quan trọng đến đổi cát lá số của những kẻ yểu tử không bao giờ gặp cung Phúc tốt, trái lại thường là gặp những điều không may. Nhất là tôi để ý đến cá đại hạn.

Những người tuổi Mộc

Những cung đại hạn nguy nhất những người tuổi hành Mộc mà lại tiểu hạn lâm vào các cung Hỏa thì nguy gớm! Có một cô gái quen với tôi, cậy tôi xem giùm lá số tử vi của cô. Tôi nhìn thấy cung Phu xấu lắm. Mạng cô là mạng Mộc, mà hạn sắp lâm vào cung Hỏa. Tôi nói:

- Cô hãy ráng lo mà học. Số cô đừng lấy chồng khoảng 4 năm này…Nếu cô cải số thì e phải hỏng cả.
Một ông bạn nghe tôi đoán, hỏi:

-Mạng Mộc sinh cung Tý thủy tốt lắm. Còn tiểu hạn cô dù lâm vào cung Hỏa, thì đại hạn còn ở thủy cung, chắc là không sao.

Tôi nói:

- Lấy Ngũ hành sinh khắc chế hóa thì nên biết không có mạng ai thuộc Mộc mà hạnh phúc. Là vì trong các hành, hành Mộc dở nhất. Mạng Kim, sinh Thủy, bị Hỏa khắc, nhưng Hỏa khắc Kim, thì Kim thành khí cụ, gian nan mà tốt về sau Mạng Thổ bị mộc khắc, nhưng Mộc khắc Thổ, bị khắc nhưng được Mộc che chở cho râm mát mà khỏi thành đất hoang…Thổ sinh Kim thì Thổ trở nên quý hơn. Chỉ có Hành Mộc sinh Hỏa thì bị tan ra thành tro bụi. Cho nên tuổi hành mộc này kỵ nhất là gặp người yêu mạng thuộc Hỏa. Gặp mạng Hỏa và gặp vào hạn Hỏa thì tiêu cả đời!

Anh bạn tôi phân vân, tuy không cãi lại nhưng vẫn nói:

- Để xem.

Một thời gian cô gái này đến gặp tôi bảo cô sắp lấy chồng. Chồng cô hứa cưới cô và ông chồng làm to lắm.

Học giỏi bảnh trai quân tử…Tôi hỏi:

- Tuổi gì?

- Tuổi Giáp Tuất

Tôi nhìn cô ngạc nhiên:

- Sao lại lấy chồng Hỏa, lại tuổi Hỏa. Cô đã quên lời tôi dặn rồi à.

- Nhớ chứ! Nhưng anh ấy yêu tôi lắm! Con nhà thế phiệt trâm anh, học giỏi lắm, ăn nói đàng hoàng…

Tôi lặng thinh.

Tôi không nói gì cả, chỉ thở ra và cũng hơi hoài nghi và rất mong mình đoán sai.

Té ra, không đầy một tuần lễ, thì bỗng thấy cô gái đến, tóc tai rũ rượi, khóc lóc bù lu bù loa: rằng đã bị người yêu phụ ước một cách chua cay. Tên Sở khanh đã để lại cho nàng một “bầu” tâm sự!

Tôi mới nghĩ: anh bạn tôi đáo để thật! Trước đây ảnh đã dặn tôi: hãy lưu ý thật kỹ về mấy cái hạn lâm vào cung khắc mạng. Mạng mộc mà hạn lâm vào cung Hỏa thật là cảnh đời tang tóc!

Sách tử vi cũng có nói, nhưng lại nhấn mạnh phần quan trọng đến thế, cho nên chúng tôi xem thường. Xem tử vi thì rất khó. Vô ý mà bỏ qua một vài chi tiết rất nhỏ cũng đủ làm cho mình đoán sai. Như về các dâm tinh, thì có nhiều người quá máy móc cứ đinh ninh rằng đàn bà có dâm tinh là người không đứng đắn. Cái đó tùy.

(KHHB số 4)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người có số đào hoa cư Tý chiếu mệnh

Cách làm mái nhà ống hợp phong thủy nhất –

Trong phong thủy, mái nhà được xem là nơi tụ khí, ảnh hưởng đến cả gia đình trong quá trình sinh sống. Vì thế, mái nhà thiết kế phù hợp sẽ giúp căn nhà không những đẹp, hợp lý hơn mà còn mang lại may mắn cho các thành viên gia đình. Dân gian xưa có

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phong thủy, mái nhà được xem là nơi tụ khí, ảnh hưởng đến cả gia đình trong quá trình sinh sống. Vì thế, mái nhà thiết kế phù hợp sẽ giúp căn nhà không những đẹp, hợp lý hơn mà còn mang lại may mắn cho các thành viên gia đình.

Dân gian xưa có câu, con không cha như nhà không nóc, nhưng thời hiện đại, mái hay nóc nhà được chú ý theo các hướng khác.

Đối với nhiều nhà hiện đại, ngoài nhà mái bằng của nhà ống, chủ nhà muốn xây dựng thêm mái, cất nóc phía trên nhằm mục đích giảm nóng, làm đẹp. Thông thường mái có thể làm bằng các vật liệu như tôn chống nóng, ngói hay đổ bê tông ốp ngói

lam-mai-cho-nha-ong-tot-va-hop-phong-thuy

Tuy nhiên, dưới góc nhìn phong thủy, mái nhà được chú tâm khá nhiều về sự tương quan mái nhà với căn nhà, độ nhọn. Cụ thể, vấn đề có thể được giải thích như sau: Về mặt hình khối, nhà ống hiện đại thường có xu hướng vươn cao từ 2 – 5 tầng. Đây là biểu tượng cho hành Mộc trong Ngũ hành. Mặt khác, phần chóp của ngôi nhà thường được đổ mái bằng hoặc làm tháp nhọn. Đó là đặc trưng của hành Hỏa. Theo Ngũ hành: Mộc sinh Hoả. Vì vậy, kiểu tương quan dưới Mộc trên Hoả sẽ tốt về Phong thủy.

Tuy nhiên, góc nhọn của mái nhà cũng là điểm quan trọng để các gia chủ chú ý và điều chỉnh. Phong thủy khuyên nên tránh xây dựng những nóc nhà quá nhọn, trên 45 độ. Điều này làm cho hoả vượng quá mức sẽ gây ra hiện tượng “hoả khí xung thiên”. Theo đó, căn nhà chỉ tốt cho gia chủ trong một thời gian ngắn ban đầu, càng ở lâu càng dễ nảy sinh tâm lý nóng nảy, vội vàng, dễ xảy ra mâu thuẫn.

Vì vậy, đối với nhà ống không nên thiết kế mái nhà quá nhọn. Tốt nhất phải thoải dưới 45 độ. Điều này cũng phù hợp với thẩm mỹ trong kiến trúc, mái nhà sẽ trở nên trang nhã hơn trong mắt người nhìn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách làm mái nhà ống hợp phong thủy nhất –

Tử Vi Đài Loan: Thời trăm hoa đua nở

Một bài viết tổng quan về Tử Vi Đài Loan thời trăm hoa đua nở
Tử Vi Đài Loan: Thời trăm hoa đua nở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của TS. Đằng Sơn

Hôm qua ở quán ăn tôi gặp lại một anh bạn. Đang bàn về “duyên” và “nghiệp” chưa ngã ngũ chẳng hiểu sao anh lại gợi chuyện Tử Vi. Nhưng rất có thể cái chẳng hiểu sao đó đã là một nguyên nhân khiến tôi hôm nay tìm cách “tái ghi danh” với Tuvilyso. Ly kì làm sao, khi tái ghi danh tôi mới hay cái tên VDTT đã có người lấy đi rồi. Đành tạm chuyển sang VDTT.1 vậy.

Người vắng mặt lâu tất có nhiều chuyện kể.

Nửa năm trước đây khi đảo qua các mạng mệnh lý tiếng Hoa, tình cờ tôi gặp cùng một bài được trích ở vài blogs khác nhau, trong đó có:

http://blog.sina.com...php?pbgid=40169

http://blog.udn.com/life888/2209417

Nhưng có thể đã bắt đầu từ

http://www.fengshui-...d.php?tid=33533

Nếu đúng thế thì bài này đã được viết năm 1998, tức là mười hai năm trước đây, khi mà khoa Tử Vi vẫn còn ở trong thời trăm hoa đua nở. (Theo nội dung tôi vẫn cho là bài này được viết sớm hơn nữa, khoảng đầu thập niên 1990’s, như 1992, 1993 chẳng hạn và được đăng đầu tiên ở một chỗ khác; nhưng đó chỉ là nghi vấn).

Tên tác giả thấy đề là Axis, có lẽ chỉ là nick trên mạng ảo.

Cảm thấy tác giả đã bỏ ra khá nhiều công lao và suy nghĩ khi đặt bút, tôi đã phỏng dịch lại bài này, hy vọng giúp các vị lưu tâm hoặc tò mò có cái nhìn rõ hơn về tình hình chung của khoa Tử Vi cũng như vai trò trọng yếu của hai nhân vật Liễu Vô cư sĩ và Tử Vân trong thời trăm hoa đua nở rầm rộ ấy ở đảo quốc Đài Loan.

Các vị hiểu bạch thoại có thể đọc thẳng bản Hán văn ở các websites kể trên.

Bài này phải đăng vài kỳ mới hết. Xin bắt đầu

Vài cảm nghĩ về phong trào mệnh lý mười năm qua

Mười năm lại đây, Đài Loan nổi lên phong trào nghiên cứu số thuật, khiến ngành học thuật này, xưa chỉ lưu hành trong giới trung hạ lưu xã hội hoặc trong giới văn nhân không toại chí, một lúc tựa hồ biến thành một môn hiển học. Trong xã hội các loại kỹ xảo, kỳ chiêu bách xuất, tựa như hô phong hoán vũ; thế nhưng cho đến ngày nay, đáo để có bao người suy ngẫm những kỹ xảo này rốt cuộc có lợi hay là có hại cho đời?

Chuyện cố ý làm ác thì trang xã hội của các báo dẫy đầy: Thầy bói lừa tiền lừa tình, thầy bói khiến người ta phá nhà mất mạng v.v… Còn một số người vô ý làm ác thì chẳng lẽ lại coi là được hay sao? Người đề nghị giờ sinh có điểm gì tốt? (dgc = dịch giả chú: Đây chắc ám chỉ những người đề nghị giờ sinh mổ, viện lẽ rằng mổ giờ tốt thì đứa con ra đời có số tốt)… “Số anh tương lai lấy một cô vợ cao thước sáu lăm nặng năm mươi ký”… Cách đoán thế này đầy dẫy khắp nơi trong thị trường bói toán… “Cô thiên tính cô khắc, kết hôn nhất định li dị, gia đình nhất định không hạnh phúc”… Cách đoán thế này cũng thấy rất thường.

Những loại loại thế này, rốt cuộc giúp được gì cho người ta? Nếu không có thái độ và quan niệm mệnh lý chính xác, các cách đoán kể trên chỉ khiến cho người ta kết vào lòng một tầng âm hưởng, đè trong tim một khối đá nặng nề! Bất luận tâm lý hoặc nguyên nhân thế nào, người đề nghị giờ sinh đều có quyền hiểu biết quan niệm mệnh lý chính xác, đều có quyền yêu cầu tự do không bị sợ hãi; nhưng một mặt khác người luận mệnh có nhiệm vụ hiểu dùm cho người ta mệnh lý là thế nào, tác dụng và hạn chế của mệnh lý ra sao… Đây đích xác chẳng phải là nhiệm vụ giản dị, nhưng tôi hy vọng những người luận mệnh tận lực hoàn thành cho bằng được. Bởi vì theo kinh nghiệm học tập Tử Vi nhiều năm của tôi thì số người bị mệnh lý làm hại vượt xa số người được mệnh lý làm lợi. Đây là một kết quả mười phần đau lòng, hy vọng những học giả sau này nhớ kỹ điểm ấy, kẻo không thì người đời sau lại tiếp tục bị nguy hại bởi tư duy sai lầm. Những sai lầm tư tưởng của nhân loại đã quá nhiều rồi, chẳng nên thêm một cái sai lầm nữa.

Tử Vi mười năm qua: Từ duy tâm luận đến tâm vật hợp nhất

Từ khi sách “Đẩu Số chân thuyên” của Tuệ Tâm trai chủ được xuất bản cho đến nay, thời gian đã quá mười năm, nếu bảo trước Dân quốc năm thứ 71 (dgc: tức 1982) Tử Vi còn ở thời tiềm phục, thì Đẩu Số chân thuyên quả thật đã kích khởi mười năm tưng bừng. Đến ngày hôm nay quay đầu nhìn lại những ngày huy hoàng đó thiết nghĩ là một việc làm có ý nghĩa và giá trị. Bởi vì trong quá trình ấy, mặt ẩn của Tử Vi, mặt ám của Tử Vi, năng lực và hạn chế của Tử Vi, nhất nhất đều được phát giác và bị kiểm thảo, lần hồi những phép tắc suy nghĩ có khoa học, hợp lý được đưa vào Tử Vi, trở thành một bộ phận không thể thiếu cho việc đoán mệnh chính xác. Những thay đổi về quan niệm này nếu nhìn từ góc độ triết học thì có thể nói là đã đi từ duy tâm đến tâm vật hợp nhất. Bút giả muốn ghi lại chuyển biến tư tưởng quan trọng này, mong rằng nhờ nó mà chúng ta hiểu rõ và sâu hơn mặt thật của mệnh lý.

Tương truyền Tử Vi do ông Trần Hi Di sáng chế ra, nhưng điểm này không quan trọng, (đáng nói là) sau khi sáng lập mấy trăm năm, Tử Vi tựa hồ bị đóng cứng như băng, không có phát triển nào to lớn. Tương truyền đời Minh ông La Hồng Tiên đã từng làm việc chỉnh lý, nhưng sau đó diễn biến thế nào thì không rõ. “Bí kíp” Tử Vi hiện đại là một quyển sách đời Thanh, phát hành trong thời Đồng Trị, tính đến nay chỉ mới hơn trăm năm (dgc: Hẳn ám chỉ “Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư” hoặc “Tử Vi đẩu số toàn tập”). Việc truyền bá Tử Vi vào các tầng lớp trung và hạ tầng xã hội cũng hình như không được coi trọng, như có thể thấy qua sự phát triển chậm chạp của khoa này. Lúc mà khoa bát tự đã rầm rộ ngàn hoa, rồi được đưa vào tứ khố toàn thư, khoa Tử Vi vẫn chẳng được nghe biết. Mãi đến những năm đầu của chính phủ Dân Quốc mới có sách “Đẩu Số tuyên vi” bình chú tường luận có hệ thống; nhưng chuyện đó xảy ra chỉ mới sáu, bảy mươi năm trước mà thôi

(dgc: Đẩu Số tuyên vi nguyên bản gồm hai tập, phát hành lần lượt các năm 1928 và 1935 ở Hoa Lục; gần đây được nhà xuất bản Vũ Lăng ở Đài Bắc, Đài Loan in lại. Ngoài ra cũng có tối thiểu một bản “man thư” Đẩu Số tuyên vi được phổ biến ở Đài Loan, bản “man thư” này có bảng tứ Hóa khác hẳn Đẩu Số tuyên vi nguyên thủy mà giống hệt chi phái Trung Châu của ông Vương Đình Chi.)

Nói về sự phát triển của khoa Tử Vi từ năm Dân Quốc 38 (dgc: tức 1949, hẳn là ám chỉ sự phát triển ở Đài Loan sau khi Mao chiếm Hoa lục khiến Tưởng phải chạy sang hòn đảo nhỏ này) trở về sau thì phải kể đến hai nhân vật trọng yếu, một vị là ông Thiết Bảng đạo nhân, vị kia là cụ Hà Mậu Tùng. Đương nhiên cũng có những người khác hiểu khoa Tử Vi, nhưng những cống hiến của họ về cách suy luận không lớn. Một học phái muốn phát huy ảnh hưởng thì việc thu thập môn đệ và trước tác lập thuyết đương nhiên tất yếu, nhưng nếu trong môn đồ có người xuất bản dương danh thiên hạ thì có lẽ còn trọng yếu hơn nữa. Trong hai vị đã kể trên, hiển nhiên cụ Hà Mậu Tùng của Thái Cực Huyền Xã là hiện tượng được đề cập. Đại đệ tử của cụ là ông Tử Vân, nhờ viết sách lập thuyết, nói đến những điều người xưa chưa nói, đã thành một đại tông sư của giới Tử Vi ngày hôm nay (dgc: Dĩ nhiên ý là “giới Tử Vi Đài Loan ngày hôm nay”). Ông là một đầu tàu của phong trào hiện đại hóa Tử Vi, mà thành tích sẽ được đề cập tường tận ở phần sau bài này.

Trước năm dân quốc 70 (dgc: tức 1981), việc học Tử Vi hơn nửa xảy ra trong các lớp ít người, nhưng sau khi Tuệ Tâm trai chủ bắt đầu bàn luận Tử Vi trong Trung Quốc thời báo thì Tử Vi đã có một luồng sinh khí mới. Nhờ Tuệ Tâm trai chủ xử dụng ngôn từ hiện đại dễ hiểu thuyên giảng tính chất các sao khiến thuật đoán mệnh cổ truyền này (dgc: tức Tử Vi) trở thành mười phần dễ dàng: Dễ lập lá số, dễ đoán vận mệnh. Bộ sách này (dgc: tức “Tử Vi đẩu số chân thuyên”) có thể nói là đã đạt thành công toàn diện, nghe nói đã bán đến mấy trăm ngàn bản, trở thành sách cầm tay, gối đầu giường của người học Tử Vi. Sau đó bà viết các sách Tử Vi xem hôn nhân, xem tài bạch, luận giới công thương v.v… cũng đều thành công cả, hiện nay bà vẫn viết một cột chuyên môn trên báo…

Sự thành công của “Tử Vi Đẩu Số Chân Thuyên” không phải là ngẫu nhiên, vì sách này giúp độc giả có thể tự an lá số, tự theo từng cung một mà luận mệnh, so với các “bí kíp” thì giản dị dễ hiểu, nhưng nhờ bà xử dụng phép tính từng cung một mà người ta nắm vững được quy tắc và kỹ xảo của khoa Tử Vi. Tóm lại, sách Chân Thuyên đã tạo được sự chú ý rộng rãi. Nhưng vì nội dung hạn chế, nó khiến độc giả không dễ tinh tiến.

Tiếng vang sâu rộng của sách Chân Thuyên dĩ nhiên có tác dụng rất tốt cho sự phát triển của khoa Tử Vi, nhưng nếu xét về nội dung thì nó đã để lại chẳng ít chỗ tranh luận, chẳng hạn vấn đề Hóa Kỵ của can Canh. Điểm chính là Tuệ Tâm trai chủ chủ trương Thái Âm hóa Kỵ vì bà cho rằng Thiên Đồng là phúc tinh không hóa Kỵ. Rốt ráo thì Thiên Đồng có hóa Kỵ không? Đó là một vấn đề đã được tranh luận trong một thời gian dài. Ngoài ra vì bà viết dưới dạng luận văn, mặc dù ý tưởng hiển hiện dễ hiểu, nhưng về những vấn đề nhân gian thực tế thì ít có trường hợp “chích kim thấy máu” (dgc: thành ngữ, ý nói có kết quả thấy ngay được), ấy bởi các điều được viết đa số có tính lý thuyết, gây bối rối cho người mới học. Lại nữa, tác giả tựa hồ thiên về đặc tính cơ bản của các sao, việc đoán vận mệnh tương đối sơ lược, ví như giúp người học đến trường mà không giúp họ vào được trong phòng học vậy.

Từ khi Tử Vi được coi trọng rồi thì rất nhiều người bắt đầu ra sách, thuyết của các nhà tranh tiếng tạo thành cảnh trăm hoa đua nở: có người theo tâm pháp cổ truyền, có người phối hợp văn học với Tử Vi, có người phối hợp Tử Bình với Tử Vi, lại có người theo chủ nghĩa huyền bí, phối hợp Tử Vi với tôn giáo, cũng có người chuyên cổ xúy “bí kíp” của tiên sư… trăm màu nghìn sắc. Trong đó tương đối được coi trọng phải kể đến:

Một: Ngô Tình. Đáng tiếc các tác phẩm của ông cơ hồ đều đã tuyệt bản, trên thị trường khó mà mua được. Tác phẩm lớn của ông là “Tử Vi Đẩu Số thất đoạn thức đoán mệnh pháp”. Trong sách này ông nặng nề phê bình cách xem Tử Vi cổ truyền. Chẳng hạn: “Đa số những sao nhỏ trong Tử Vi đều chẳng có công dụng gì cả”, “Thiên Thương Thiên Sứ thuyết cổ bảo có thể đoán chết sống chỉ là hù người”, “tính miếu vượng lợi hãm cũng không có công dụng” v.v… Tác giả trong sách này nhấn mạnh rằng trọng tâm của Tử Vi là sự biến hóa của tứ hóa, cho nên hóa Lộc và hóa Kị mới là yếu tố quyết định. Đồng thời trong sách này tác giả cũng nói rằng ông nắm trong tay “bí mật thiên cổ bất truyền” v.v… Nói chung thì ông đã lên tiếng đề xuất việc cải cách khoa Tử Vi, tiếc là thái độ của ông có lúc xem mình quí người tệ, rốt cuộc không thể đóng góp thêm nữa cho việc hiện đại hóa Tử Vi.

Hai: Thấu phái. Phái này lấy Tử Vi hợp với bảng phong thần. Họ gọi khoa Tử Vi là “Tử sắc tường vi chiêm tinh thuật” (khoa chiêm tinh dựa trên hoa tường vi sắc tím), ví Tử Vi là con trưởng của Văn Vương Bá Di Khảo; cái gì mà Thiên Đồng là Văn Vương, Phá Quân là Trụ Vương, Vũ Khúc là Hoàng Phi Hổ v.v… Đáng tiếc cách ví von của họ không lớp không lang, với những người Nhật Bản hiếu kỳ bị lừa không biết thì còn được, còn chúng ta người đời sau mà để cho bị lừa thì thật là quá đáng (dgc: “đời sau” đây hẳn ý nói là hậu duệ của người nghĩ ra Tử Vi).

Ba: Sở Hoàng. Vị này viết sách lập thuyết, chủ trương phối hợp Tử Vi với bát tự, và khi luận Tử Vi cũng xử dụng nguyên lý đoán mệnh của bát tự, nào là lý tương sinh tương khắc, cũng sáng chế lý luận “lạp hoàn” (dgc: kéo vòng tuần hoàn) để giải thích liên hệ giữa các sao và phép tính bát tự, cũng thành một cách xem riêng.

Bốn: Chính Huyền Sơn Nhân. Vị này đặt ra Thiên Địa Nhân Tử Vi Đẩu Số, tự xưng rằng kiến thức Tử Vi của mình là do “thần” dạy cho. Trong các tác phẩm khá đồ sộ ông có bỏ rất nhiều giấy mực để viết về tinh thần cầu đạo và quá trình học đạo của mình. Về nội dung thì có thể nói tương đồng với các khóa Tử Vi bổ sung.

Năm: Phan Tử Ngư. Đặc điểm của vị này là hạ bút như đao, chẳng hạn “Người này tất làm trộm cắp”, “Bà này nhất định bay chức” v.v… Trong các sách còn có đặc điểm nữa là hay dùng câu đại loại “Căn cứ theo bản riêng viết tay của tiên sư để lại…” để thiết lập đáp án cho các vấn đề hóc búa.

Các tác giả trên đây, nếu xét theo ngày hôm nay đều có thể nói là không hợp thời nữa, nhưng một khi nghĩ lại sự kiện họ đều đã có lúc phong quang thì không thể nào không lo nghĩ đến việc hiện đại hóa Tử Vi. Bởi người ta có thể hỏi rằng: Những đại sư, nhà tiên tri v.v… có thực là có danh lớn thì cái học cũng thật lớn chăng? Làm thân học giả đời sau tất phải nghĩ sâu về cái đạo lý trong câu hỏi ấy. (Còn tiếp)

Bắt đầu từ năm Dân Quốc 73 (dgc: tức 1984), Tử Vi tiến vào một thời đại mới, diễn biến này có thể quy công lao về ông Hoàng Trung Lâm và những người xung quanh ông, vì nỗ lực của các vị này mà việc hiện đại hóa Tử Vi đã lần hồi thành hình, và quan điểm khoa học của mệnh lý đã được thiết lập. (dgc: Riêng cho các vị nghiên cứu tính danh học: “Hoàng” là chữ hoàng của màu vàng, “Trung” của ‘trung thành’ trên trung giữa dưới tâm tim, “Lâm” của lâm li ướt át, trên vũ mưa dưới lâm rừng)

Ông Hoàng Trung Lâm, bút danh Liễu Vô cư sĩ (dgc: Liễu của kết liễu, Vô của vô vi), nghề gốc là ký giả, nhưng sau bắt đầu tiếp xúc với mệnh lý. Năm Dân Quốc 70 (dgc: tức 1981) ông bắt đầu viết sách bát tự. Năm Dân Quốc 73 (dgc: tức 1984) ông ra sách “Tử Vi luận mệnh” (dgc: Hẳn ám chỉ sách “Tử Vi luận mệnh bất cầu nhân”). Lúc ấy chỉ là một đòn “thử lửa” với làng Tử Vi, sách này tạo được phản ứng rất tốt đẹp, và nó đã cho Liễu Vô cư sĩ một cơ hội. Đầu năm Dân Quốc 73 (dgc: tức 1984) ông Châu Thật Long của Hi Đại Thư Cục cho Liễu Vô cư sĩ cơ hội đó, và từ năm Dân Quốc 74 đến 75 (dgc: tức 1985-86) Liễu Vô cư sĩ đã hoàn thành bộ sách quan trọng “Hiện đại Tử Vi” gồm 7 tập, thế là việc hiện đại hóa Tử Vi đã đi được bước đầu tiên. (dgc: dịch giả đã từng nhớ lầm, bảo là tập này 20 quyển. Thành thật xin lỗi độc giả).

Nội dung sách “Tử Vi luận mệnh” chủ yếu phê phán những tác phẩm của những người đương thời được coi là “đại sư”, tác giả cũng đưa ra luận chứng, thuyết minh quan niệm mệnh lý chính xác phải như thế nào. Phương thức vừa phá vừa dựng này có thể nói là đã nói dùm cho độc giả. Đương nhiên các “đại sư” phản pháo, thế là tạo ra một trường bốn phương công kích tranh luận tưng bừng.

Sau “Tử Vi luận mệnh”, Liễu Vô cư sĩ đã thành một tên tuổi mới trong làng Tử Vi. Nhờ phương pháp và mô thức suy luận có tính hiện đại, ông được coi là phát ngôn nhân của các phần tử trí thức trong giới nghiên cứu mệnh lý truyền thống. Trong bối cảnh đó, sự xuất hiện của “Hiện Đại Tử Vi” chẳng thể coi là ngẫu nhiên vậy.

“Hiện Đại Tử Vi” ra đời trong các năm Dân Quốc 74-75 (dgc: tức 1985-1986), tổng cộng 7 quyển. Tác giả ngoài Liễu Vô cư sĩ ra còn một số nhân sĩ, bao quát tiến sĩ Hứa Hưng Trí, Tuệ Canh thuật sĩ, Phi Vân cư sĩ v.v… “Hiện Đại tử vi” bao quát một bộ phận gọi là “Tử Vi quảng trường”, là chỗ cho độc giả bày tỏ quan điểm, đây có thể coi là một sáng kiến. Ở đây, trong tập thứ 7, một độc giả họ Thái viết về tác dụng của HIệN ĐạI Tử VI: “Quan niệm hình thành từ nhận thức. Rất nhiều người học mệnh lý thiếu nhận thức chính xác về mệnh lý, ông chính là người đã đề nghị (cho độc giả) những nhận thức (chính xác) đó”. Quan điểm loại này đã nói lên cái ảnh hưởng của Hiện Đại Tử Vi.

Mỗi tập Hiện Đại Tử Vi đều có điểm đặc sắc, chẳng hạn: Tập 2 có bài nghiên khảo về thuật “Đẩu Số bí nghĩa” được mệnh danh là thiên cổ bất truyền, (theo đó) nội dung sách tựa hồ tạp loạn bất nhất, nhưng rất nhiều quan niệm trong sách này được trình bày ra…

Trong tập 7, có rất nhiều quan niệm được đề cập. Một là đả phá tính mê “bí kíp”. Năm Dân Quốc 74 (dgc: tức 1985) Tử Vi Đẩu Số bí nghĩa xuất hiện, tạo thành một phong trào cực lớn, được gọi là “bí kíp Tử Vi không gì không đoán được”, mỗi bộ bán 15000 đồng Đài Loan (dgc: khoảng sáu trăm Mỹ kim), sau phát giác có chuyện xuống giá, từ 15000 xuống 5000, rồi 3000 xuống 1500, phảng phất giống như nhiều năm sau này cổ phiếu ở Đài Loan xuống giá vùn vụt vậy. Liễu Vô cư sĩ dùng học lý phê bình loại tâm lý này, đồng thời đề xuất rất nhiều quái chiêu của làng Tử Vi, cho mọi người biết rằng các “trò chơi” trong làng Tử Vi thật ra chẳng phải là ít. Một đề tài hay khác là nỗ lực hiện đại hóa Tử Vi. Giáo sư Hứa Hưng Trí phát biểu quan điểm, như trong tập thứ 3: Quan điểm về mệnh lý của một người trong giới khoa học kỹ thuật vân vân… với những lý luận mạnh mẽ và có cơ sở nhằm hiện đại hóa khoa Tử Vi, những bài viết của ông đề ra nhiều quan niệm và vấn đề, một số ngày hôm nay đã được giải quyết, một số khác còn phải chờ người sau nỗ lực. Nội dung những bài viết này thuộc loại khiến các độc giả ham học hỏi đọc một lần muốn đọc lại để ghi nhận kỹ lưỡng hơn.

Một phương hướng khác của Hiện Đại Tử Vi là xử dụng lô gích để nghiên khảo mệnh lý. Bộ phận này chủ yếu tập trung từ tập 4 trở đi, nhờ dùng tam đoạn luận mà xác nhận ra năng lực và giới hạn của khoa Tử Vi, đây là một bước thực tế rất lớn trên con đường hiện đại hóa Tử Vi. Ấy bởi vì trước đó quan niệm của người xem Tử Vi là: việc gì cũng đoán được, bất luận có liên hệ với người khác hay không, chỉ cần dùng thẳng phép “mượn cung”, người gì việc gì đều có thể dùng lá số mà xem ra được (dgc: Phép “mượn cung”, cũng gọi là phép “đổi cung”, theo đó thì cung hạn là cung mệnh tạm thời, hay là “hạn mệnh”, cung kế tiếp là hạn phụ mẫu, rồi đến hạn phúc, hạn điền v.v… thứ tự y hệt nguyên thủy, chỉ khác là các cung đều vận chuyển theo thời gian). Nhưng Hiện Đại Tử Vi phủ nhận phép bành trướng quá độ này (dgc: vẫn chấp nhận phép mượn cung, nhưng không cho rằng Tử Vi có tác dụng vạn năng), không cho rằng Tử Vi tự nó có khả năng đoán bất cứ sự việc gì liên hệ đến người khác -trừ phi thêm những dữ kiện liên hệ đến người ấy vào lá số. Đây là thành tựu vĩ đại của Hiện Đại Tử Vi, mặc dù chỉ được phân nửa. Về nửa kia -điều kiện thu nhập dữ liệu- thì phải chờ sư phụ là ông Tử Vân giảng giải. (Còn tiếp)

Do sự thành công của Hiện Đại Tử Vi, rất nhiều tác giả bắt đầu xuất bản mạnh mẽ, như Đường Sơn Dật Sĩ, Tuệ Canh thuật sĩ, ông Tử Vân v.v… Trong đó Tuệ Canh và Tử Vân ảnh hưởng tương đối lớn. Trước tác của Tuệ Canh thuật sĩ là tập “Tử Vi đẩu số khai vận toàn tập” tiếc là vì một số nguyên nhân mà chưa xuất bản hết, khá đáng tiếc vậy. Sách của ông giải thích kỹ lưỡng quan niệm và ứng dụng 12 cung cũng như tính chất các sao, là tác phẩm hay. Đó là chuyện sau năm Dân Quốc 77 (dgc: tức sau năm 1988). Cùng thời gian ấy ông Tử Vân xuất bản sách “Đẩu số dữ nhân sinh” (dgc: Tử Vi và nhân sinh), tự thuật lại chuyện mình học Tử Vi và giải thích cách đoán 12 cung.

Cũng trong khoảng thời gian này sách Tử Vi xuất bản liên miên, xếp thành hàng trong các tiệm sách xem đến cay cả mắt. Chẳng hạn theo người có khả năng chuyên môn chỉnh lý tác phẩm của người khác báo cáo thì: rất nhiều sách là sao lại, có sách suy diễn cách giải thích của phái hóa Lộc hóa Kỵ của cung can, lại có sách xưng là bí cấp của Khâm Thiên giám v.v… xếp thành đống. Nhưng các sách này dẫu nhiều mà không tạo được khí thế, nhất là sau khi ông Tử Vân làm công việc bổ sung rất nhiều chỗ khuyết rỗng của khoa Tử Vi cổ truyền.

Nói rõ hơn một chút: Về kỹ thuật luận đoán thì ông Tử Vân là bá vương của làng Tử Vi hôm nay (dgc: “Kỹ thuật luận đoán” có lẽ ám chỉ việc đoán người thật việc thật bởi ông Tử Vân một phần thành danh là nhờ chinh phục được niềm tin của nhiều bạn trẻ có ý “thử thầy” bằng cách đoán đúng những lá số hóc búa do họ đưa ra, “làng Tử Vi” nên hiểu là làng Tử Vi Đài Loan thôi). Nhất là từ năm Dân Quốc 80 (dgc: tức năm 1991) ông Tử Vân trong sách “Đẩu Số luận hôn nhân” (dgc: Thực ra tên sách là “Đẩu Số luận nhân duyên”, hay là có ấn bản tựa khác chăng?) đề xuất phép Thái Tuế nhập quái và nguyên tắc tương khế, trưng ra cách giải quyết vấn đề đã tồn tại nghìn năm của khoa Tử Vi về kỹ thuật đoán mệnh, cũng là giải quyết cái khiếm khuyết của Hiện Đại Tử Vi.

Thế là Tử Vi phát triển ra phép du nhập dữ kiện. Tử Vi cải biến thành một loại xu thế, phương hướng, có thể vì dữ kiện du nhập vào mà thành khác biệt. Từ đó Tử Vi có thể phân biệt được vận mệnh khác nhau của những người sinh cùng năm tháng ngày giờ. Đây đúng là một đột phá to lớn so với mệnh lý cổ truyền.

Vì ông Tử Vân (có vai trò) quan trọng như thế, thiết nghĩ cần nói rõ về những suy luận của ông. Cơ bản thì cách xem Tử Vi của ông Tử Vân dựa trên cách xem truyền thống, lấy đó là cái sườn, rồi thêm hoàn cảnh thực tế, thống hợp cổ kim, nối kết trong ngoài với nhau. Lại áp dụng rộng rãi những yếu tố tâm sinh lý của con người. Trên đây là phần bình luận của sư đệ ông là ông Hồng Thạc Phong, mười phần xác thật.

Trước năm Dân Quốc 78 (dgc: tức trước năm 1989), ông Tử Vân qua nhà xuất bản Thiên Tướng đã xuất bản các sách “Đẩu Số dữ nhân sinh”, “Đẩu Số luận danh nhân” v.v… dẫn khởi sự chú ý; nhưng uy danh của ông đã được xác định từ lâu trong Hiện Đại Tử Vi qua ngòi bút hoa bướm của Liễu Vô cư sĩ. Năm Dân Quốc 79 (dgc: tức 1990), đang lúc thị trường cổ phiếu ở Đài Loan chuyển từ thịnh sang suy, mức đầu tư giảm sút trầm trọng, ông Tử Vân hoàn thành sách “Đẩu Số luận cầu tài”. Sách này chỉnh lại cách xem của tiền nhân, đề xuất: Phàm tiền do đầu tư hoặc đầu cơ mà có phải xem cung Phúc Đức; lại nói: Tiền kiếm được dễ dàng không tốn thể lực trí lực không xem bằng cung tài bạch. Sau đó năm Dân Quốc 80 (dgc: tức 1991) ông Tử Vân hoàn thành “Đẩu Số luận hôn nhân”. Sách này theo quan điểm của bút giả (dgc: tức người Đài Loan viết bài này, không phải ông Tử Vân, không phải dịch giả) thì về mặt triết học Tử Vi, lý luận, và kỹ thuật đoán mệnh thực tế có sự phát triển với tính đột phá chưa từng thấy. Sách này có thể coi là một đại tác trong nỗ lực hiện đại hóa của giới nghiên cứu Tử Vi. Bút giả sau đây xin trình bày những tính quan trọng của nó.

MỘT: Triết lý Tử Vi

Tử Vi căn cứ vào lúc người ta sinh ra đời, về mặt thiết kế thì nếu khác giờ mệnh vận sai biệt chẳng ít, nói cách khác cơ bản thiết kế về thời gian thì giờ sinh là chủ, sau đó an bài 12 cung để nghiên phán xu thế đời sống con người. Muốn nghiên cứu đời sống con người, làm cách nào để thêm vào yếu tố của thế giới ngoại tại tất là mối quan hoài trong việc hiện đại hóa Tử Vi.

Phép Thái Tuế nhập quái đề xuất đáp án: thêm năm sinh (địa chi âm lịch). Xét cơ bản cách này phù hợp nguyên lý của Tử Vi, nguyên tắc định vị trí bằng thời gian, còn về phép tương khế, tất ứng với tác dụng hỗ tương của “chủ thể” và “khách thể” trong Tử Vi, tức là tác dụng giữa “ta” và “người”.

Ở đây bút giả muốn thảo luận một nghi vấn nhỏ: Dùng phép Thái Tuế nhập quái đặc tính sao trong lá số có tương tựa lá số thật của đối tượng hay chăng, tại sao? Chẳng hạn: Từ lá số của ta thấy bạn gái ta là điển hình Cơ Nguyệt Đồng Lương, nhưng theo giờ sinh của bạn gái ta mà an lá số lại thấy là Tử, Phủ, Tướng v.v… sự kiện này dính líu đến tác dụng giữa chủ thể (ta) và khách thể (bạn gái ta).

Tiến bước nữa, cung vị và tính sao của Tử Vi dựa trên nguyên tắc duy tâm, bạn gái ta xuất hiện trong lá số của ta, phần lớn chỉ quan hệ đến những gì ta hiểu về bạn gái ta hoặc những gì bạn gái ta biểu hiện với ta, mà cách xét những biểu hiện hoặc quan niệm này so với bản tính thật không nhất định phù hợp. Người ta đa số tùy tình hình, như người này tính nóng bạo nhưng đối với một số người lại đặc biệt lịch sự, (những trường hợp như thế khiến) người học phải suy xét kỹ.

Tử Vi lấy duy tâm làm gốc, các cung đều phản ảnh tâm thái liên hệ, cho nên cung phu thê là tâm thái tình cảm hoặc ý muốn người phối ngẫu của mình phải như thế nào, huynh đệ là tâm thái liên hệ đến tình anh chị em, thiên di là tâm thái đối với việc giao thiệp bên ngoài, tử tức là tâm thái với chuyện con cái nhiều ít và với thế hệ sau, tài bạch là tâm thái liên hệ đến việc cầu tài phú v.v… Nhưng nói ngược lại, thiên di là tâm thái của ta đối với việc giao vãng bên ngoài, nhưng đồng thời cũng là người đời nhìn ta như thế nào; quan lộc là tâm thái của ta đối với công việc, nhưng cũng là cái nhìn của người đời về khả năng nghề nghiệp của ta, đây gọi là tác dụng chủ thể và khách thể…

HAI: Lý luận và kỹ thuật xem số

Thái Tuế nhập quái giải quyết vấn đề du nhập dữ kiện, nhưng nguyên tắc và kỹ thuật xử dụng phức tạp hơn cách xem cũ. Ngoài việc du nhập tứ hóa theo năm sinh (của đối tượng) ra, còn phải thêm đại hạn, lưu niên, bản mệnh tứ hóa (của chủ nhân lá số), xét kỹ tác dụng hỗ tương giữa các cung. Dùng lá số để xem liên hệ sinh hoạt giữa hai và có khi ba người thế này quả là đã giúp nâng cao lý luận của Tử Vi hết mực, lại còn chủ thể (ta) và khách thể (người khác), lại còn đối tượng tốt với ta hoặc ta tốt với đối tượng, lại còn ta và đối tượng cùng oán nhau, thêm tác dụng của lưu niên hóa và hạn hóa vào thì quá trình liên hệ hỗ tượng hiện rõ.

Trong quá khứ cách định khách thể không rõ ràng, thông thường là cứ theo phép mượn cung. Phép này khuyết điểm là vẫn bị cảnh cùng lá số phải xem như nhau. Ông Tử Vân đã giải tỏa được cái hạn chế này.

Phép thái tuế nhập quái không những giải được các vấn đề liên hệ đến người, mà còn giúp phân biệt sự và việc nữa. Chẳng hạn năm nay thi vào sở nghiên cứu một lúc thi ba viện, xem tốt xấu ra sao, lại biết năm thành lập của ba viện ấy, cho tứ hóa vào, nếu thấy Lộc thì vận thi tương đối tốt, nếu thấy Kị thì thực lực giảm nhiều. Cùng lý, có hai công ty cùng ngành như nhau, làm sao chọn chỗ làm tốt, có cơ phát triển? Lại cho tứ hóa vào, nguyên tắc tương đồng… Vậy là ông Tử Vân vừa lấp được chỗ đã trống lâu năm, lại giúp cho khả năng tiên đoán cũng như lý tính của khoa Tử Vi tăng cao. (Còn tiếp)

Sau một trận ba đào dữ dội (dgc: không hiểu ám chỉ gì), ông Tử Vân hoàn thành sách “Đẩu số luận sự nghiệp”, trong đó đưa cách giải tính thiên biến vạn hóa của của cung sự nghiệp (dgc: tức cung quan lộc), sau đó Dân Quốc năm 82 (dgc: tức 1993), lại một trận ba đào xô tới: Ông Tử Vân đưa ra quyển “Đẩu số luận điền trạch” (dgc: Lại nhắc đến “ba đào” lần nữa, ắt phải có một ý nghĩa nào đó, có lẽ dính líu đến thời thế). Sách này ngoài việc luận cung điền tốt xấu ra, lại đề xuất phép xem địa hình địa vật. Nói cách khác, Tử Vi có thể xem phong thủy, và quý hơn nữa là chỉ cần thêm phương vị vào phần suy luận, ngoài ra cách xem chẳng khác gì các mặt khác của Tử Vi. Sự kiện này giúp phạm vi ứng dụng của Tử Vi được mở rộng, đúng là một bước đại đột phá, cũng bổ sung cho cái khiếm khuyết về địa hình địa vật của khoa Tử Vi. Tới đây bút giả mong mỏi ông Tử Vân tận lực xuất bản “Đẩu số luận tật ách”, tôi nghĩ sách này sẽ lại khai mở một phần trời cho khoa Tử Vi (chú không rõ của ai: Đã xuất bản thêm một số sách rồi).

(Dịch giả chú: Như lời chú không rõ của ai ở trên, ông Tử Vân sau đó đã xuất bản thêm vài tựa sách, trong đó có “Đẩu Số luận tật bệnh”, “Đẩu số luận tử nữ”, “Đẩu Số luận phụ mẫu tình”, đây cũng cần nói rõ tựa đầu là “tật bệnh” mà không phải “tật ách”, vì quả quyển này chỉ luận bệnh tật, không luận tai ách. Theo chính lời của ông Tử Vân tự thuật thì quyển “Đẩu số luận tật bệnh” bán ế nhất trong các sách mà ông đã xuất bản, nhưng trong một cuộc đàm thoại, một cao thủ Đài Loan lại khen ông rằng sách này có tính đột phá học thuật cực cao, tối thiểu hơn “Đẩu số luận cầu tài” đã dẫn trên, cũng của ông Tử Vân. Mọi lời khen đều có tính cách cá nhân, nhưng có hai điểm cần chú ý về ĐSLTB: Một là trong sách này lý ngũ hành của các sao phối hợp với đông y đóng vai trò hết sức trọng yếu, hai là cách xem tật bệnh của ông Tử Vân không giới hạn trong cung tật ách, mà phối hợp hết 12 cung).

Ước chừng đồng thời một số học giả mới cũng viết sách lập thuyết, trong đó cũng có sách xem được, như “Đẩu số tân quan niệm” của Ngô Đông Tiều, “Tử Vi đẩu số đạo luận” của Trần Thế Hưng, “Đẩu số tâm lý học” của ông Phúc Canh v.v… Những sách này phần thảo luận về tính chất cơ bản của các sao và cách cục cũng có thành tựu, (có thể) coi là những sách đáng đọc của lớp học giả lên sau. Người mới học đi vào khoa Tử Vi bằng các sách này không phải lo ngại, tất sẽ có quan niệm chính xác.

Sau khi nxb Thiên Tướng đóng cửa, “Tử Vi chi lộ” (con đường Tử Vi) của Liễu Vô Cư Sĩ không tái bản được, ông bèn bỏ tâm lực ra làm việc chỉnh lý các sách cổ, (trong đó có) bình chú hiện đại hóa “Đẩu số tuyên vi” và “Tử Vi đẩu số toàn tập”. Tiếp đó ông bỏ rất nhiều công lao đề xuất hệ thống Tử Vi riêng của ông. Lúc này Liễu Vô cư sĩ đã dần dà khác biệt với thầy của ông (dgc: “thầy” đây ám chỉ ông Tử Vân). Ông đề xuất khá nhiều cách xem, chẳng hạn: bỏ Lộc Tồn, Thiên Mã và nhiều sao cấp hai khác, lại đề xuất: bỏ Quyền Khoa không xem, tứ hóa chỉ còn lại hóa Lộc và hóa Kị, ngoài ra còn đề xuất một số nguyên tắc “khoa học thực dụng tính” v.v… (Những đề xuất này) khiến ông về mặt cải cách hệ thống Tử Vi càng xa người khác, nhưng những phát triển này có giúp ích cho khoa Tử Vi hay không e phải chờ người sau phán định.

Coi Liễu Vô cư sĩ là đầu tầu phái cải cách và Tử Vân là đầu tầu phái cổ truyền thì đến nay (cả hai) đều đã có phần đóng góp cho công cuộc hiện đại hóa Tử Vi; nếu theo cái nhìn của bút giả hôm nay (dgc: Tức người viết những dòng này bằng nguyên văn Hán tự, đến giờ vẫn chưa xác định được là ai) thì phái cải cách chú trọng việc suy tư về các quan niệm, thái độ có tính phê phán; còn phái cổ truyền thì chú trọng kỹ thuật lý luận, tinh thần tập trung ở việc diễn giải (dgc: nói nôm na là phái cải cách thiên về đánh giá và xiển dương các quan điểm, tức là lý thuyết, phái truyền thống chuyên đoán các lá số có thật, tức là thực hành). Hai phái đều có sở trường, các học giả sau này cần suy nghĩ cân nhắc cho kỹ hầu quyết định phương hướng cho riêng mình. (Còn tiếp)

Những năm gần đây Tử Vi có một số sách đáng chú ý nhân đây xin giới thiệu cùng quý vị cùng với ý kiến riêng của tôi (dgc: “Tôi” tức người viết bài này, không rõ là ai, nhưng không phải là dịch giả). Trong đó các sách loại “cơ sở” nên mua trước, các sách tiến cấp tính sau.

Bình sách Tử Vi

Sách cơ sở:

Đẩu số tâm lý học: Tác giả Phúc Canh. Sách này về mặt tính sao có nhiều chỗ hay, về tâm thái (ứng với) các sao có thể nói là mười phần sinh động. Có điều cách dùng chữ hơi lủng củng, có lúc chữ không theo nghĩa, khiến người đọc có thể bỏ sót điểm quan trọng. Ngoài ra các lập luận ở đầu sách có phần cần suy nghĩ lại, chẳng nên vội tin. (dgc: Dù không có liên hệ rõ rệt nào với phái Tử Vân, ông Phúc Canh vẫn triệt để xử dụng phép “Thái Tuế nhập quái”. Đây là một trường hợp điển hình cho thấy ảnh hưởng sâu rộng của ông Tử Vân trong làng Tử Vi Đài Loan).

Đẩu số tân quan niệm: Tác giả Ngô Đông Tiều. Sách này mười phần giản lược, nhưng có cái hay là những điểm chính viết rõ ràng dễ hiểu. Phần sau các cách cục cũng có phần chỉnh lý đáng xem; coi là sách nhập môn hay. Đáng tiếc ưu điểm cũng là khuyết điểm (nhưng) nếu có khả năng tưởng tượng thì không sao. Duy phần bình chú của ông Tử Vân mười phần trọng yếu, độc giả cần xem kỹ.

Tử Vi đẩu số đạo độc: Tác giả Trần Thế Hưng. Điểm quan trọng của sách này là viết theo văn nói. Tác giả có gốc Tử Bình nên cách giải thích nhiều phần nối từ Tử Bình qua, cũng thành ra một cách (đặc thù). Trong sách phần luận tứ Hóa mười phần hoàn chỉnh, có thể dùng để tham khảo một số quy tắc của Tứ Hóa. Sách này chỉ có một khuyết điểm nhỏ là phần luận đặc tính sao cho cảm giác như gãi chưa đúng chỗ ngứa. (dgc: Ông Trần Thế Hưng cũng một thời theo học ông Tử Vân; sau –theo lời tự thuật- thì nhờ một thầy khác ông mới được “mở hai mạch nhâm đốc” nhưng có thể thấy qua các sách là cách luận mệnh của ông Hưng chịu ảnh hưởng của ông Tử Vân rất nhiều, dĩ nhiên tận dụng phép “Thái Tuế nhập quái”).

Tử Vi đẩu số chân thuyên: Tác giả Huệ Tâm Trai chủ. Sách này mười năm trước dẫn đầu trào lưu, những sách liệt kê ở trên đều thuộc hàng vãn bối. Sách này có đóng góp về tính sao. Chỉ cần cẩn thận nắm được ý trong lời ắt có kết quả tốt. Khuyết điểm là luận mệnh theo lối từng sao từng cung, (người đọc) chẳng dễ nắm bắt đặc tính các nhóm sao và cách cục.

Tử Vi đẩu số khai vận toàn tập: Tác giả Tuệ Canh thuật sĩ (dgc: Theo dữ liệu phối hợp trong các sách Tử Vi thì ông Tuệ Canh là bạn thân của Liễu Vô cư sĩ từ thuở cả hai đều chưa có tên tuổi trong làng Tử Vi. Trong thời gian này -qua Liễu Vô cư sĩ- Tuệ Canh gặp ông Tử Vân và tham dự một số buổi giảng dạy Tử Vi “dã chiến” do ông Tử Vân chủ trì nên sau người ta coi ông là một đệ tử của ông Tử Vân. Thiết nghĩ chỉ nên coi là ông chịu một phần ảnh hưởng đáng kể của ông Tử Vân thôi.) Sách này mạnh ở nội dung và ý nghĩa 12 cung, có cách xem độc đáo; phần luận tính sao cũng chẳng dở. Khuyết điểm duy nhất là tập sách chưa xuất bản toàn bộ (dgc: Đây có lẽ ý muốn nói khéo là sẽ chẳng bao giờ xuất bản toàn bộ). Riêng quyển sách này phần nói về việc lĩnh ngộ đặc tính các sao mười phần kiệt xuất. Quý độc giả không thể không đọc. Bút giả ở phần sau sẽ khai triển thêm đặc tính các sao, quý vị nhớ đọc. (dgc: Không thấy phần khai triển này. Chẳng biết vì không viết hay là đã bị người trích cắt đi).

Hôn nhân tổng luận: Tác giả Thẩm Bình Sơn. Đặc điểm của sách này là có rất nhiều lá số ly kỳ quái dị; vô cùng đáng tiếc là độ chính xác của những lá số này rất khả nghi. Nhưng mà về tính sao thì có sức tưởng tượng hết sức phong phú; có tính khai phá mở đường cho những người trong cảnh bế tắc. Nhớ kỹ: Trọng điểm của sách này là tính khai phá, chẳng phải phương pháp hoặc quy tắc. (dgc: Có lẽ chỉ là cách viết lịch sự thôi. Hẳn ý muốn nói là ông Thẩm Bình Sơn có điểm độc đáo, nhưng cần đãi lọc thật kỹ mới xử dụng được).

Tử Vỉ đẩu số giảng nghĩa (quyển 2: đặc tính các sao): Lục Bân Triệu biên soạn. Sách theo theo lời truyền thì là bí kíp của Khâm Thiên Giám. Phần luận tính các sao so với các sách cổ truyền không khác bao nhiêu. Sách này do ông Vương Đình Chi bổ chú. Ông Vương Đình Chi có bổ sung một số điểm rất đáng chú ý.

Sách tiến cấp:

Về bộ phận sách tiến cấp (thì nên) bắt đầu với “Đẩu số và nhân sinh” của ông Tử Vân và các sách khác cũng của ông Tử Vân, trong đó sách “Đẩu số luận hôn nhân” quan trọng hơn hết, giới hậu học phải cố gắng hiểu những điểm chính yếu trong sách này. (dgc: Có lẽ vì trong sách này ông Tử Vân chính thức áp dụng cách xem “Thái Tuế nhập quái” để giải quyết một số vấn đề nan giải của khoa Tử Vi).

Bảy tập “Hiện Đại Tử Vi” của Liễu Vô cư sĩ đều đáng đọc. Bộ sách này chứa nhiều quan niệm và cách suy luận của khoa Tử Vi (dgc: Đây hẳn muốn nói đến sự kiện là tập sách này ghi lại cách xem Tử Vi của rất nhiều trường phái khác nhau, kể cả các trường phái cực kỳ quái dị). Đây là sách “chuyển hình” của Tử Vi (dgc: Đây hẳn muốn ám chỉ làng Tử Vi Đài Loan), học giả không thể nào bỏ qua.

Bí kíp cổ truyền

Thập bát phi tinh xách thiên đẩu số toàn tập: Là tư liệu tham khảo duy nhất. Có thể tham khảo thêm “Chính thống phi tinh tử vi đẩu số” của ông Trần Nhạc Kỳ. Tuy nhiên “Tử Vi đẩu số toàn thư” do Trúc Lâm thư cục xuất bản cần đặc biệt thận trọng; nhất là bốn lá số đằng sau, chẳng lá số nào tin được. Học giả thận trọng là hơn hết.

Phái Tử Vân

Ông Tử Vân làm việc cho một nhà xuất bản. Trong sách “Đẩu số dữ nhân sinh” ông kể lại là ông từng có lúc hoàn toàn không tin mệnh lý. (dịch giả chú = dgc: phần tiếp đây có lẽ là giai thoại vì không hề thấy ông Tử Vân nhắc đến trong các sách của ông). Sau một lần ông đi theo một đồng nghiệp có vợ sẽ sinh con năm sau đến nhờ thầy của ông là thầy Hà xem số (dgc: Câu này dễ gây hiểu lầm, vì theo sách đã dẫn cho đến lúc này ông Tử Vân chưa từng gặp thầy Hà, bảo là “thầy tương lai” thì chính xác hơn). Thầy Hà dựa vào lá số mà dự đoán hoàn cảnh sinh sản của vợ chủ nhân lá số năm sau, rằng vì bị gan nóng mà phải tiếp máu, vân vân… Năm sau ông tự chứng kiến thấy kết quả y như vậy.

Khi ông Tử Vân theo thầy Hà học Tử Vi, thì cũng có 3 bạn cùng học trong lớp đêm ấy, nghe thầy Hà giảng các kiến thức cơ sở về các sao Tử Vi (dgc: Phối hợp những mẩu chuyện rời mà ông Tử Vân tự kể trong “Đẩu số dữ nhân sinh” thì các buổi học đều vào ban đêm, lúc đầu có 5 bạn cùng lớp, sau chẳng hiểu sao chỉ còn 3, hai nam mà ông gọi là “sư đệ” một thành công sớm nhưng chết sớm, một di cư sang Hoa Kỳ rồi phát triển thành công, một nữ mà ông gọi là “sư tỷ” là người duy nhất không hút thuốc trong lớp học).

Sau đó ông Tử Vân bôn ba nam bắc Đài Loan, nơi nơi tìm cao thủ mệnh lý, rồi trong diễn trình ấy tìm, hiểu ra những yếu quyết của Tử Vi. Vì nghiên cứu Tử Vi mà ông Tử Vân đã học thêm nhiều môn khác liên hệ đến tử vi, như tâm lý học, đông y v.v… Vì ông giải số cho nhiều bạn bè khi họ có vấn đề cần giải quyết, tiếng tăm của ông lan dần, nhưng vì ông không nói rõ với những người thân ông là thầy Tử Vân, thầy Tử Vân là ông, nên nhiều người nhờ xem số không biết ông là thầy Tử Vân. Sau, trong thập niên 70 hoặc 80 (chú nguyên thủy: nhớ không rõ. Dgc: ‘thập niên 70 hoặc 80’ là theo lịch Trung Hoa dân quốc, bắt đầu từ các năm 1981, 1991), ông bắt đầu viết sách, tiết lộ nhiều bí quyết mà ông đã ngộ ra. Ông đã lập chí viết một quyển sách cho mỗi cung. Hiện nay ông đã viết hơn 10 quyển sách, nhưng có lẽ (sẽ) không viết đủ hết 12 cung (dgc: Năm nay 2010 vẫn còn cung huynh đệ chưa thấy viết đến, hai cung phúc và nô thì chỉ được nhắc thoáng qua lần lượt trong hai quyển “Đẩu số luận cầu tài” và “Đẩu số luận nhân tế quan hệ”, có lẽ sẽ chẳng bao giờ có sách riêng).

Ông Tử Vân qua 30, 40 năm nghiên cứu, ngộ ra các lý: Tam đại luận, Thái Tuế nhập quái, cung Thái Tuế v.v… Sách của ông chứa đầy dẫy các lá số có thực. Hiện nay ông Tử Vân một mặt viết sách, một mặt mở quán xem Tử Vi, một mặt mở lớp dạy miễn phí, đồng thời cũng có các đệ tử riêng (dgc: Nhờ đoạn này ta biết bài này được viết sau khi ông Tử Vân nghỉ hưu, vì theo lời ông tự thuật thì sau khi về hưu được người ta giúp mở quán mệnh lý ở Đài Bắc).

... Người ta bảo ông là thầy đứng sau chỉ đạo Liễu Vô cư sĩ. Bắt đầu bằng cách luận lá số thật rồi sau đưa ra lý luận mới, là đặc tính của sách “Đẩu số luận danh nhân” luận 3 nhân vật Thái Vạn Xuân, Thái Thần Châu và Thái Thần Nam (dgc: Sách này được nhắc tới có lẽ vì là sách đầu của ông Tử Vân, nay đã tuyệt bản, dịch giả cũng chỉ nghe nói qua mà chưa từng được đọc. Tuy nhiên, theo các tài liệu thì sách này viết về ba nhân vật ly kỳ là tay cự phú Đài Loan là ông Thái Vạn Xuân và hai người con trai của ông. Ông Vạn Xuân từ hai bàn tay trắng tạo nên sự nghiệp vĩ đại, nhưng tuổi già bị tai biến mạch máu não nằm liệt giường trong khi tài sản của ông bị tiêu tan trong tay hai người con trai lớn; ông Thần Châu thừa hưởng một phần tài sản đáng kể của cha, lại đắc cử vào quốc hội, một thời oanh liệt nhưng rồi chỉ vài năm bị tù và chết trong đó; ông Thần Nam cũng thừa hưởng một phần tài sản đáng kể của cha, khuếch trương vĩ đại thêm, rồi trong một thoáng giây mất hết tất cả…)

Tác phẩm có “Tùng đẩu số đàm phụ mẫu tình” (luận tình cha mẹ theo Tử Vi), “Đẩu số luận mệnh”, “Đẩu số luận tử nữ”, “Đẩu số khán nhân tế quan hệ”, “Đẩu số luận điền trạch”, “Đẩu số luận cầu tài”, “Đẩu số luận nhân duyên”, “Đẩu số dữ nhân sinh” (Tử Vi và đời sống), “Đẩu số luận danh nhân”, “Đẩu số luận sự nghiệp” v.v… (dgc: Ngoài ra còn có “Đẩu số luận tật bệnh”).

Quan điểm Thái Tuế nhập quái:

Đối tượng nhập quái phải có liên hệ mật thiết với người được xem số. Liên hệ càng mật thiết thì tính cát hung của việc nhập quái càng chính xác. Chẳng hạn người làm ăn chung tín hiệu rõ ràng hơn người thuần túy là bạn bè thôi. Sinh cùng năm, nếu hai người có góc cạnh liên hệ khác nhau thì cung nền khác nhau, cát hung tự nhiên cũng khác. Chẳng hạn một người là cấp trên, một người là cha hoặc mẹ ta tất cung nền một là thiên di, một là phụ mẫu. Cùng năm sinh, góc độ liên hệ cũng giống, thí dụ hai người bạn tốt cùng năm sinh giả như phái tính khác nhau thì cát hung cũng khác nhau. Phương pháp là dùng nam bắc đẩu mà phân biệt (nam đẩu ứng nam, bắc đẩu ứng nữ). Nếu cùng năm, cùng phái tính tất cát hung ứng nghiệm rõ hơn trên người mà chủ nhân lá số có ấn tượng mạnh hơn (thích hơn chẳng hạn). Nếu cùng thích hai người như nhau thì cát hung dựa theo xuất hiện trước sau mà khác nhau (dùng năm, tháng, ngày v.v… mà định). Cung nhập quái là bắc đẩu thì cát hung ứng người trước, nam đẩu thì ứng người sau. Hai người cùng thích như nhau, xuất hiện cùng lúc, thì theo cá tính mà phân biệt, nếu cung nhập quái là bắc đẩu thì cát hung ứng người cá tính tương đối cương cường (tương đối có cá tính hoặc tương đối tích cực). Ngược lại thì… Giả thiết trường hợp khó xảy ra là các yếu tố kể trên đều giống nhau cả chúng tôi cũng có cách phân biệt, chỉ là môn qui đã định phải bảo lưu. Nếu có hứng thú xin chú ý các lớp học của thầy Tử Vân (ở Sáng Kiến Đường, Đài Bắc hoặc Tân Tâm Linh Đường Học Uyển, Đài Trung).

Phụ chú: Liễu Vô cư sĩ

… là nhân vật đại biểu phái hiện đại, một phái thuộc hàng chính trực của làng Tử Vi. Phản đối chủ trương “Tử Bình hợp tham”, đề xướng “Tử Bình quy về Tử Bình, Tử Vi quy về Tử Vi”, không cho thần sát, quan sát… xâm nhập vào Tử Vi (dgc: Ý nói là bỏ hết các sao thần sát). Hết sức hứng thú với lô gích, trước tác phong phú, tính ra có “Hiện đại Tử Vi” tập 1 đến tập 7, “Đương Trần Hi Di ngộ Đổng Mộ Tiết - Thiết Bảng - Đẩu Số - Tham”, “Tử Vi chi lộ: Yên hoa truyền kỳ”, “Tử Vi chi lộ: Uyên ương truyền kỳ” vân vân… (dgc: Đó là chưa kể các tựa Tử Vi “Đẩu Số luận mệnh bất cầu nhân”, “Tinh không xán lạn”, “Minh thiên tha môn hội tác tạp ma”, Tử Bình “Hiện đại nhân đích bát tự”, “Tử Bình chân thuyên hiện đại bình chú” và sách tính danh học…) Được Ngô Hoài Vân gọi là “vệ sĩ của giới mệnh lý”... sách của ông có tính dễ đọc, hiện thật…

“Hiện đại Tử Vi” cộng gồm 7 tập, thời gian xuất bản từ tháng 4 năm 74 đến tháng 6 năm 76 (dgc: tức tháng 4, 1985 đến tháng 6, 1987), khoảng 3 tháng một kỳ. Sau cùng vì Liễu Vô cư sĩ cảm thấy quá mệt mỏi mà kêu đình bản. Tập này về rất nhiều phương diện có những kiến giải hoặc vượt quá tiền nhân hoặc khuếch đại phạm vi của khoa Tử Vi. Về mặt kỹ xảo (dgc: tức cách xem số) cũng như suy luận đều có những cống hiến trọng đại… Tập này bao hàm rất nhiều cách suy luận, chẳng phải chỉ là hệ thống suy luận thuần túy của một người, trong đó có: GS Hứa Hưng Trí (dgc: Tiến sĩ dược, giáo sư đại học ngành dược và là một khoa học gia chủ yếu của Đài Loan), Tuệ Canh thuật sĩ (dgc: theo lời tự thuật thì tốt nghiệp luật nhưng bỏ sang nghiên cứu mệnh lý, vì quen biết Liễu Vô cư sĩ nên cũng có duyên theo học Tử Vi với ông Tử Vân một thời gian, nhưng lúc ấy tài nghệ đã cao rồi nên học đây có tính tham khảo mà thôi, tư tưởng vẫn có nhiều độc lập, thiết tưởng chẳng nên coi là đệ tử của ông Tử Vân), Lạc Đà Sinh, thầy Quách, Thái Quân Siêu, Phổ Giang Đăng Chi, Nam Ngư, Phi Vân cư sĩ v.v… có thể gọi là sáng tác tập thể!

Giới thiệu các sách Tử Vi của ông Tử Vân

Phóng mắt nhìn những sách Tử Vi thấy bày trong tiệm, một loại chủ yếu là giải thích tính sao, nhưng chỉ cần mở xem vài quyển là phát hiện nội dung đại đồng tiểu dị, nếu bảo văn chương thiên hạ sao lại nhau cũng chẳng phải là nói quá. Một loại khác là sách giải số “sống” (hoạt bàn), loại này tương đối không dễ kiếm. Theo cái nhìn cá nhân của tôi, giải số sống là một thách đố to lớn của người học Tử Vi, đây cũng là lãnh vực rất nhiều người học Tử Vi tốn bao tâm huyết mà vẫn không đạt nổi kết quả mong muốn. Tuy rằng mặt này người xưa có giấy mực truyền lại, song một là bài vở không nhiều, hai là đa số tiến hành theo phương thức “án đồ sách kí” (dgc: ý nói là có tính công thức, không có lý luận), hết sức cứng ngắc, chẳng có gì để gọi là giải số “sống”. Thành thử các trước tác của ông Tử Vân về mặt này có một chỗ đứng đặc biệt. Nhân năm nay Dân quốc 88 (dgc: tức 1999) cuối tháng 3 “Đẩu số luận tử nữ” là sách thứ mười của ông được xuất bản, tưởng cũng nên quay đầu nhìn lại.

Dưới đây tôi trước hết liệt kê giản lược các sách của ông Tử Vân rồi sau đó sẽ đề cập điểm chính và nét đặc sắc của từng quyển một.

  1. Tùng đẩu số khán nhân sinh, Thời Báo, bản sửa chữa năm 82 (dgc: tức 1993).
  2. Đẩu số luận danh nhân, Thiên Tướng, in lần đầu năm 77 (dgc: tức 1988).
  3. Đẩu số luận mệnh, Thời Báo, in lần đầu năm 78 (dgc: tức 1989).
  4. Đẩu số luận cầu tài, Thời Báo, in lần đầu năm 79 (dgc: tức 1990).
  5. Đẩu số luận nhân duyên, Thời Báo, in lần đầu năm 80 (dgc: tức 1991).
  6. Đẩu số luận sự nghiệp, Thời Báo, in lần đầu năm 81 (dgc: tức 1992).
  7. Đẩu số luận điền trạch, Thời Báo, in lần đầu năm 82 (dgc: tức 1993).
  8. Đẩu số khán nhân tế quan hệ, Thời Báo, in lần đầu năm 83 (dgc: tức 1994).
  9. Đẩu số luận tật bệnh, Thời Báo, in lần đầu năm 85 (dgc: tức 1996).
  10. Đẩu số luận tử nữ, Thời Báo, in lần đầu năm 88 (dgc: tức 1999).

1) Tùng đẩu số khán nhân sinh

Sách này nguyên do Thiên Tướng xuất bản, sau này tái bản đổi thành tựa hiện hành là “Đẩu số dữ nhân sinh” (Tử Vi và nhân sinh). Sách này chủ yếu cho biết tác giả đứng ở chỗ nào và có chủ trương gì trong Tử Vi. Quan trọng nhất là không tán thành cách luận mệnh truyền thống “đoán như đinh đóng cột” mà đề xướng phép luận mệnh “chẩn đoán”, lại đề xuất chủ trương “sự thật đã phát sinh tất có dấu hiệu mệnh lý, nhưng có dấu hiệu mệnh lý chưa chắc có sự thật đối ứng phát sinh”. Ngoài ra giới thiệu giản lược diễn trình học mệnh lý và kinh nghiệm của tác giả. Bộ phận này nhắm thẳng vào giới Tử Vi hậu học, trong đó nói đến ảnh hưởng của kinh nghiệm sống đối với mệnh lý. Theo quan điểm của tôi, tất cả những độc giả thích đọc sách Tử Vân đều phải đọc kỹ sách này. Sau khi bạn hiểu rõ cái bối cảnh và suy tư của tác giả rồi nếu vẫn thấy đồng ý với ông thì những sách còn lại tham khảo mới thấy giá trị.

2) Đẩu số luận danh nhân

Sách này cũng xuất hiện rất sớm, đến nay ước đã mười năm, đã tuyệt bản, các tiệm sách trên phố cũng rất khó kiếm thấy. Sách chủ yếu viết về sự nghiệp lên xuống của ba ông Thái Vạn Xuân, Thái Thần Nam và Thái Thần Châu. Cách kiếm tiền (của ba vị này) hết sức phong phú, mà lời giải thích cũng hết sức tường tận. Xét cơ bản thì sách này phân tích theo phép truyền thống, nhưng cũng đề xuất chẳng ít kỹ thuật phân tích hoạt bàn (lá số sống). Bao quát phép “sao hóa dẫn động liên tục”, “cung trọng điểm”, “duyên khởi duyên diệt”, thậm chí cả “Thái Tuế nhập quái” cũng được mơ hồ nhắc tới. Sách này viết theo phương thức chủ yếu là đã phát sinh sự thật thì phải dùng mệnh lý diễn giải như thế nào, cho nên nhiều kỹ thuật không được đặc biệt nhấn mạnh hoặc viết rõ, điểm này khác xa với những sách về sau. Ngoài ra, sách này vì gồm quá nhiều chi tiết nên chẳng dễ gì đọc hết, hoặc đọc được nửa sách là đã nhức mắt rồi, e phải có rất nhiều kiên nhẫn và nghị lực mới mong đọc hết được. Thế nhưng vẫn được cái là sách này đối với những sách về sau không gây chướng ngại quá lớn. (dgc: Câu cuối tối nghĩa, có lẽ muốn nói là sách này có tính độc lập, đọc nó mà không hiểu hoặc bỏ ngang vẫn có thể hiểu các sách sau).

3) Đẩu số luận mệnh

Mệnh lý là một công cụ rất tốt của đời sống, sách này luận những vấn đề tương đối thường thấy như hôn nhân, sự nghiệp v.v… trong đó cũng đề cập vấn đề lịch pháp và thuật số, tỷ như cách xem tháng nhuận. Tác giả chủ trương tháng nhuận dùng tháng thường mà xem là được, không cần xem nửa tháng sau là tháng kế tiếp. Theo kinh nghiệm xem tháng nhuận của tôi (dgc: tức người viết bài này, không phải ông Tử Vân hoặc dịch giả) thì cách xem này chẳng sai. (dgc: Viết thế e hơi thiếu sót. Thực ra trong sách này ông Tử Vân đề nghị là gặp tháng nhuận thì coi như tháng thường, nhưng vẫn lấy thêm lá tháng kế tiếp để phòng hờ; tức là coi tháng thường là chính, nhưng vẫn có trường hợp phải dùng tháng kế tiếp mới đúng. Lá số thí dụ trong sách này là người sinh nửa sau tháng 8 nhuận, kiểm chứng bằng các dữ kiện đã xảy ra thấy lấy theo tháng 8 đúng, lấy theo tháng 9 sai). Các bài luận số trong sách này thuộc loại đoản thiên, chỉ luận một chuyện, cho nên đọc tương đối dễ; dễ hơn “Đẩu số luận danh nhân” rất nhiều.

Từ sách này trở đi, cách viết của tác giả chủ yếu là đoản thiên. Xét cơ bản sách này có thể gọi là dao trâu chém nhẹ (dgc: Thành ngữ, ý nói cố ý giữ lại chưa phát huy hết công lực), không có đóng góp lớn cho học thuật, nhưng vì tương đối giản dị, có thể coi là một sách luyện xem số sống.

4) Đẩu số luận cầu tài

Tác giả đã phát tâm nguyện viết một quyển sách cho mỗi cung cho đến khi hết 12 cung, sách này coi là đoạn đầu. Tại sao viết sách này đầu tiên thì có thể vì liên hệ đến thị trường cổ phiếu nóng bỏng lúc ấy. Người ta thường cho rằng, muốn kiếm tiền thì phải xem cung tài là chủ. Nhưng tác giả đề xuất: Tiền do công khó làm ra mới coi cung tài là chủ. Nếu động sản do cá nhân quản lý tài sản, hoặc do đầu tư thậm chí đầu cơ mà ra thì phải xem cung phúc là chủ. Nếu đầu tư bất động sản mong kiếm tiền bằng giá sai biệt tất phải coi cung điền là chủ. Đương nhiên, mọi việc đều phải coi hai cung mệnh thân là chủ, rồi phối hợp với cung liên hệ mới có thể căn cứ mà đoán cát hung.

Điểm quan trọng khác của sách này là đề xuất quan niệm “cung trọng điểm”, cũng gọi là kỹ thuật “định cung vị”. Quan niệm và kỹ thuật này kỳ thật hết sức trọng yếu, nhưng tựa hồ không được biết đến nhiều bằng phép “Thái Tuế nhập quái” sau này, thành thử tính trọng yếu của nó không được đặt đúng mức.

Cơ bản nhất của Tử Vi gồm có ba tầng kết cấu là bản mệnh, đại hạn, lưu niên, cứ lấy cung Phúc mà tham chiếu (dgc: Hẳn ý muốn nói có ba tầng kết cấu của Phúc là bản mệnh Phúc, đại hạn Phúc, và lưu niên Phúc); nhưng phải coi cung nào là chủ? Lúc này cần khái niệm “cung trọng điểm”, bằng không rất khó phán đoán cát hung. Cuối cùng cần nói là khái niệm “định cung vị” không phải chỉ có thể dùng cho việc đoán tiền tài, mà rất nhiều sự việc khác cũng dùng được phương pháp ấy.

5) Đẩu số luận nhân duyên

Giả sử cần đề cử một trước tác làm bảng hiệu cho sự phát triển của khoa Tử Vi thì “Đẩu Số luận nhân duyên” có thể đóng trọn vai trò mà không hổ thẹn. Cố nhiên trong rất nhiều sự thành bại ta đóng một vai trò quan trọng, nhưng người kia cũng có phần quyết định sự thành bại đó. Nói cách khác tính “khác biệt cá nhân” đóng một vai trò quan trọng trong các trường hợp cùng lá số khác vận mệnh. Như xem hôn nhân, một đoạn nhân duyên thành công hay không, đối tượng tìm thấy là yếu tố không thể nào bỏ sót được. Dùng biện pháp “khác biệt cá nhân” để tìm sự thật là đề xuất của tác giả, gọi là phép “Thái Tuế nhập quái” hoặc “Thái Tuế nhập cung”. Phép này chẳng phải chỉ giới hạn cho hôn nhân, mà chỉ cần có tương quan nhân tế lợi hại là có thể áp dụng để phán đoán thêm chính xác. Thêm dữ kiện để đoán chính xác hơn là một ưu điểm của Tử Vi so với các môn khác, nhưng phép “Thái Tuế nhập quái” rất khó khăn, chẳng phải dễ như trong sách đề cập, chẳng phải như tác giả nói “chẳng qua chỉ là thế đầu tay” mà thôi, và vì vậy mà đã bị lạm dụng nghiêm trọng.

Khởi đầu, cách xem của tác giả được hâm mộ nhất là phép “sao hóa liên tục dẫn động” còn gọi là “tam đại luận”, nhưng sau khi phép “thái tuế nhập quái” được đề xuất thì biến thành tuyệt kỹ có tính chiêu bài, bị rất nhiều tác giả Tử Vi có sách ra hiện thời dẫn dụng, khiến các quan niệm hoặc kỹ xảo khác tựa hồ bị đẩy vào lãnh cung (dgc: thành ngữ, ý nói không được dùng nữa). Sự thật thì luận Tử Vi là công trình trọng đại, phải phối hợp rất nhiều những phương pháp khác mới mong luận đoán chính xác, chỉ dựa vào một kỹ thuật mà đoán thì kết quả sẽ sai lệch nghiêm trọng. Nhớ kỹ, nhớ kỹ!

6) Đẩu số luận sự nghiệp (Tử Vi luận sự nghiệp)

Người xem số hỏi nhiều nhất về sự nghiệp, tiền tài, và tình duyên. Nhưng dùng Tử Vi luận sự nghiệp kỳ thật rất khó, bởi ngoài kỹ xảo xem hoạt bàn ra, kinh nghiệm sống (của người luận số) cũng quan trọng vô cùng. Các độc giả xem qua sách này tất phát hiện rằng tác giả rất thực tế, lại miêu thuật tượng tốt tượng xấu của các trạng huống thực tế rất tường tận, chẳng hạn đối với một người làm chủ thì tượng tốt có thể cho biết làm xuất cảng thì phù hợp, nhưng nhập cảng thì không; tượng xấu có thể ứng với việc sản xuất mà không ứng với việc nghiên cứu (dgc: tức làm sản xuất thì xấu, mà làm nghiên cứu thì không xấu). Với một người đi làm, tượng xấu có thể ứng với công việc rắc rối đa đoan mà không phải là công việc kém v.v… chẳng phải chỉ ban một chữ “cát” hoặc “hung” như cách xem truyền thống. Muốn tìm cát tránh hung nhất định cần biết cát là cát thế nào, hung là hung ra sao thì mới dùng đúng thuốc đúng chỗ, chỉ nói cát hung không thôi thì chẳng thể làm được.

Ngoài ra, sách này đề xuất nhiều lá số “duyên khởi duyên diệt”. Thế nào là “duyên khởi duyên diệt”? Thưa, ý đây là khởi thủy của một sự kiện trồng “nhân” thì cái “quả” ngày sau ắt phải có ảnh hưởng (dgc: hẳn muốn ám chỉ cái “quả” của cái nhân đó). Xét trên mặt kỹ thuật mà nói, tượng hung của lúc duyên khởi tỷ như hóa Kị (cùng với Kình Đà), nếu ngày sau hành vận lại có tượng hung và lực hỗ ứng, thì tượng hung nặng thêm, cho nên lúc ấy sự kiện chấm dứt. Đương nhiên, nếu tượng tốt lúc duyên khởi cùng với tượng tốt về sau hình thành thế hỗ ứng, thì tượng tốt được tăng cường. Phép này kỳ thật tác giả viết không tường tận, cũng không cứng ngắc mà chứa nhiều tính linh hoạt, độc giả nếu xem không hiểu lắm có thể đọc vài lần thì hiểu được.

7) Đẩu số luận điền trạch

Đương nhiên, sách này chủ yếu thảo luận cung điền trạch. Chủ đề được thảo luận rất trọng yếu, cũng rất thực dụng, chủ yếu bao quát cá nhân thích mua nhà để ở hay muốn làm kẻ ở nhà thuê, có được kế thừa tổ sản không, đầu tư địa ốc có kiếm được tiền không, cùng với việc vận dụng phương vị trong Tử Vi. Trong đó khó nhất là vấn đề phương vị, cũng là vấn đề kham dư của Tử Vi, bởi vì ngoài việc xem xét trắc lượng thực tế, phòng ốc ngày nay không quy củ như xưa, mà thường có hình thể quái dị, thậm chí từ ngoài nhìn thấy có hai cửa lớn hoặc nhiều hơn (như ngũ giác đài của nước Mỹ) hoặc không có cửa lớn (như tòa lầu… vừa bị cháy, tầng một không có cửa, mà vào lầu hai từ một tòa lầu khác); những hoàn cảnh này phải có rất nhiều kinh nghiệm mới mong phán đoán hợp lý. Ngoài ra, tác giả cũng nhắc lại quan niệm và phép luận dùng “cung trọng điểm”, lại đưa thí dụ để giảng giải trong vài lá số, cho thấy quan niệm và kỹ xảo này hết sức trọng yếu, không thể bỏ sót được.

8) Đẩu số khán nhân tế quan hệ

Sách này chủ yếu nói về ý nghĩa và cách luận hai cung thiên di và nô bộc. Theo cách xem của tác giả, thiên di chủ yếu là quan hệ với người trên và đồng đẳng, tỷ như cấp trên trực tiếp, người làm chung hoặc người cộng tác; còn nô bộc thì đại biểu người dưới mình, cũng là người mà mình có thể ảnh hưởng. Cho nên không nên lấy cung nô bộc đổi thành “cung bạn bè” (dgc: nhiều sách Đài Loan gọi cung nô bộc là “giao bằng cung” và dùng để xem liên hệ bạn bè cũng như các người cộng tác trong việc làm ăn; đây tác giả muốn nói rằng ông Tử Vân phản đối quan điểm ấy) kẻo luận theo lý ra không đúng sự thật. Ngoài ra, với phép “Thái Tuế nhập quái” lại giải thích rõ ràng thêm một bước nữa. Nghĩa là, đối tượng được “nhập quái” trừ thiên can năm sinh ra, thiên can của cung có địa chi cũng có tác dụng, cần thêm vào mà suy nghĩ (dgc: Giả như xem số người sinh năm Quý Dậu, muốn biết làm ăn với người sinh năm Giáp Tuất có được không thì theo phép Thái Tuế nhập quái đầu tiên phải xét xem can Giáp ảnh hưởng lá số thế nào, kế đó xem cung Tuất có can gì thì can ấy cũng có ảnh hưởng, đây bởi vì người được xem số sinh năm Quý Dậu nên cung Tuất mang can Nhâm; do đó khi xét ảnh hưởng của người sinh năm Giáp Tuất phải xét ảnh hưởng của hai can Giáp và Nhâm trên lá số). Đương nhiên, tác giả cũng không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng muốn xem bất cứ chuyện gì cũng đều không thể bỏ sót hai cung mệnh thân… Thiên di tốt chỉ là nhận được ảnh hưởng tốt (liên hệ đến di) mà không đủ để luận là tốt. Trong sách có lá số của vài nhân vật chính trị thời đại tỷ như Lý Đăng Huy, Hác Bách Thôn, có thể khác với (các lá số được) các tác giả Tử Vi khác đề nghị, độc giả có thể tham khảo so sánh xem sao.

9. Đẩu số luận tật bệnh

Nói chung chung, đại khái độc giả ít thích xem nhất là sách bàn về tật bệnh này (dgc: Hẳn ý giới hạn trong các sách của ông Tử Vân). Bởi vì đề tài tật bệnh là cái mà tất cả chúng ta đều quan tâm nhưng lại không hứng thú bàn thảo. Cũng bởi vì ngoài kỹ thuật mệnh lý ra, nó lại còn đòi hỏi kiến thức y khoa, nhất là trung y. Sơn, Y, Mệnh, Bốc, Tướng (dgc: “sơn” ám chỉ phong thủy, địa lý) là 5 thuật truyền thống của Trung hoa, mỗi thứ đều có phạm vi học vấn chuyên tinh mênh mông. Một người học một môn đã chẳng rõ hiểu biết được bao nhiêu, hà huống phối hợp học một lúc hai môn?

Cách xem tật bệnh truyền thống là phối hợp các cung mệnh thân và tật lại để đoán xem người ta sẽ bị bệnh gì. Nhưng tác giả cho rằng cung tật chỉ đại biểu lực đề kháng bệnh tật của cá nhân, còn người ta bị bệnh tật gì thì 12 cung đều có thể sinh ra cả. Ngoài ra, lại phải phối hợp tư liệu của cha mẹ vào mới có thể đoán một cá nhân có thể phát sinh bệnh gì, ấy bởi vì mỗi cá nhân đều do cha mẹ sinh ra, bản chất chịu ảnh hưởng di truyền của cha mẹ. Đây cũng là phương pháp giải quyết vấn đề những người sinh cùng giờ không nhất thiết có cùng bệnh tật. Tác giả cũng cho rằng luận tật bệnh bằng Tử Vi là một loại “y học dự phòng” mà không phải là thay bác sĩ, nhất là về những bệnh phát chậm, bằng không thì có thể rất mực sai lầm.

Sách này mặc dù chủ đề rất khô khan, nhưng quan niệm thì hết sức quan trọng. Cách xem “đả phá 12 cung vị” cũng là “điên đảo” so với cách xem thông thường của Tử Vi truyền thống. Suy thêm, luận các cung khác cũng như vậy, chẳng phải giản dị là muốn xét sự nghiệp thì xem cung sự nghiệp, xem cổ phiếu thì chỉ xem phúc đức v.v… là được. (dgc: Người viết nhắc đến cổ phiếu và cung phúc ở đây ắt hẳn vì ông Tử Vân trong sách “Đẩu số luận cầu tài” đã dẫn trên cho rằng muốn luận cổ phiếu ăn thua phải chú trọng cung phúc đức thay vì là cung tài bạch). Ngoài thì xem nhiệt náo, trong thì xem đường lối (dgc: Đoạn này nguyên văn là “ngoại hàng đích khán nhiệt náo, nội hàng đích khán môn đạo”, không rõ nghĩa gì và dính líu với bài văn ra sao, đây chỉ là dịch cho có mà thôi, tuy nhiên có lẽ không quan trọng lắm). Trọng điểm của sách này chẳng phải là xem tật bệnh đích xác so bì với quang tuyến X, máy siêu âm v.v…, mà là từ quan niệm “đả phá 12 cung” phát ra.

10) Đẩu số luận tử nữ

“Đẩu số luận tử nữ” vừa xuất bản không lâu đến nay mới hơn kém một tháng (dgc: đây là tính theo thời điểm bài này được viết, không phải lúc bản dịch ra đời). Sách này độ khó so với các sách trước cao hơn hẳn, cho nên chẳng phải là sách cho người mới học. Sự thật là các sách của tác giả có xu thế là mỗi quyển đều khó hơn các quyển trước, cho nên cách hay nhất là đọc theo thứ tự, bằng không có thể không “tiêu hóa” nổi. Nói về sách này thì đa phần là áp dụng phép “Thái Tuế nhập quái”, bao gồm thêm tư liệu của cha mẹ để xét thể chất và sinh sản thuận lợi hay không (dgc: cho nữ mệnh), thêm tư liệu của người phối ngẫu và con cái để phân biệt xem có thụ thai được không và con cái sức khỏe thế nào, có thể sinh trưởng thuận lợi không. Tối hậu, lại xem cả vấn đề con cái kế thừa sự nghiệp của cha mẹ. Mặt này, so với sách “Đẩu số khán nhân tế quan hệ” có chỗ tương tự, các độc giả có thể so sánh những điểm khác và giống của hai sách này.

Những kỹ thuật kể trên xem qua tưởng là cũ (dgc: “Cũ” đây là đối với các độc giả đã đọc các sách đã xuất bản trước đó của ông Tử Vân thôi, chứ dĩ nhiên mới lạ nếu không muốn nói là “kỳ lạ” đối với các độc giả khác), nhưng trên thực tế có nhiều tiểu tiết cần giải quyết, bằng không sau khi du nhập bấy nhiêu tư liệu vào thì tự mình theo mình mà đoán, hoặc lập lại cách xem đã biết, ấy bởi vì du nhập những tư liệu ấy xong thì tượng hung tượng cát đều chất đống, muốn viên tròn theo kiểu nào cũng được (dgc: Đây hẳn muốn nói cái nguy của việc có quá nhiều dữ kiện mà không phối hợp một cách hệ thống được, khi ấy có khuynh hướng tùy cảm tính mà đoán, rồi biện minh bằng cách chọn lựa những tượng cát tượng hung phù hợp với cách đoán của mình, mà bỏ những tượng còn lại. Đây thật ra là một vấn đề quen thuộc của khoa Tử Vi.)

Một điểm quan trọng khác của sách này, trái ngược với các trước tác truyền thống, là đề xuất “cung Thái Tuế” của người được xem số. Tác giả cho rằng, hai cung mệnh thân là “biểu” (dgc: bề ngoài), cung Thái Tuế là “lý” (dgc: bề trong), tác phong hành sự của một cá nhân rất nhiều khi không biểu hiện ở hai cung mệnh thân, phản lại biểu hiện ở cung Thái Tuế. Nếu phối hợp với với quan niệm “đả phá 12 cung” trong “Đẩu Số luận tật bệnh” thì kỳ thật cả 12 cung đều chứa cá tính của con người, (những cá tính) đoán không ra hoặc xem không thấy (tụ) ở cung Thái Tuế. Cứ theo Vương Vân Phong (dgc: Theo lời tác giả tự thuật rải rác trong các sách thì có thể đoán Vương Vân Phong là một kiện tướng của phái Tử Vân, cùng làm thầy trong phòng coi bói mà ông Tử Vân mở ra sau khi về hưu công việc chính thức) viết trong phần giới thiệu thì cung Thái Tuế là một trong những quan niệm nhập môn tâm đắc của tác giả (dgc: tác giả đây là ông Tử Vân), cái lý cũng rất lớn, đợi ngày sau tác giả sẽ công bố (dgc: đến nay là năm 2010 vẫn chưa thấy công bố, tuy nhiên ý tưởng chính là: Cung Thái Tuế là mặt ẩn của con người, trong một số trường hợp đặc biệt có thể quan trọng hơn mặt hiện của hai cung mệnh thân).

(Chép lại từ trang tuvilyso.org)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vi Đài Loan: Thời trăm hoa đua nở

Hái lộc đầu năm dễ rước “vong” vào nhà?

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Mạnh Cường, trong dân gian có truyền thuyết là những người chết không thể siêu thoát thường vất vưởng, tá túc vào cây cối. Vậy giao
Hái lộc đầu năm dễ rước “vong” vào nhà?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Mạnh Cường, trong dân gian có truyền thuyết là những người chết không thể siêu thoát thường vất vưởng, tá túc vào cây cối. Vậy giao thừa có nên hái lộc?

 

Hái lộc có nhiều cách
 
Phong tục xưa Tết đến xuân về người dân thường tới chùa, đình, đền phủ, miếu để hái một nhánh lộc non đem về - với quan niệm vào thời khắc Giao thừa (hoặc sớm mồng 1 Tết), xin cành lộc nhỏ chốn linh thiêng sẽ được “ban” cho tài lộc, may mắn cả năm.   Xưa kia các cụ chỉ hái một cành rất nhỏ của cây sanh, si, sung, đa... vốn có sức sống mạnh mẽ, nâng niu đem về nhà chứ không cho ai kẻo "mất lộc", rồi treo trước hiên hoặc cắm vào bình hoa, có nơi còn treo trước gian giữa hoặc cửa ra vào để trừ ma quỷ, cũng có ý báo là đã có người “rước” phước lộc về cho gia đình. Nhưng nhiều năm qua, nhận thức của nhiều người về tục hái lộc đầu xuân đã sai lệch, mang một khía cạnh tiêu cực. Nhiều người không coi việc hái lộc chỉ là quy ước lấy lệ khi ngắt một cành lộc nhỏ gọi là lấy may của thời khắc đầu năm mới mà bẻ cả cành to, chặt cả cây mong có lộc nhiều.   Theo trụ trì chùa La Dương (Hà Đông, Hà Nội), đó là quan niệm sai lầm về hái lộc. Hái lộc theo nhiều cách chứ không nhất thiết phải bẻ cành, bứt cây. Lộc xuân có thể là mua một vài quả khế, cây mía, cành vàng lá ngọc hoặc một chậu cây nho nhỏ… đem về nhà trong ngày đầu năm.   Nhà nghiên cứu Phật học Nguyễn Mạnh Cường (Viện nghiên cứu và Ứng dụng tiềm năng con người) cho rằng, trong dân gian có truyền thuyết là những linh hồn trẻ nhỏ và oan hồn không thể siêu thoát thường vất vưởng, tá túc vào cây cối. Vì vậy khuyên con cháu không nên hái cành lộc vào ngày Tết kẻo vớ phải vong dữ thì phiền phức, tốt nhất người dân không nên bẻ cành, chặt cây ở chốn linh thiêng. Nơi công cộng cũng nên hạn chế bởi bẻ lộc gần như là tàn phá cây cối môi trường mùa xuân, mỗi người bẻ một cành lộc là vườn cây trơ trụi, xơ xác.   Các chùa nước ngoài cũng bị hái lộc đầu năm. Nhưng họ đối phó bằng cách giao thừa phát lộc cho người tới lễ chùa bằng hoa quả. Khách lễ phật xong, hái lộc bằng cách chọn một quả quít, hay táo bày sẵn trong các mâm ở phía ngoài, vừa là lộc cây, vừa là lộc chùa. Việc này đã hạn chế rất nhiều việc vặt chồi non, cây cảnh trong chùa.   Ở một số nước phương Tây còn quy định dịp Tết tây người dân phải trả tiền mới được vào rừng chặt cây thông trang trí, số tiền đó được dùng để trồng cây mới thay thế. Tùy ban quản lý mỗi chùa có thể làm được, có thể không. Nhưng theo ông Nguyễn Mạnh Cường, các chùa chiền ở nước ta nên có hình thức nào thay thế “hái lộc đầu xuân” để người dân có lộc may mắn mang về sẽ tốt hơn, kể cả hình thức dâng công đức lễ bái xong thì phát lộc. Hành động bẻ một cành lộc xanh tươi không phải là gieo nhân tốt, mà là phá hoại, gieo một nhân xấu. Hãy có những hình thức sáng tạo hơn, thay vì hái lộc hãy gieo lộc bằng cách trồng cây sẽ tốt hơn.  
Hai loc dau nam de ruoc vong vao nha hinh anh
 
Hái lộc sao cho đúng?   Theo GS Ngô Đức Thịnh (nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam), không có chuyện hái lộc non là đưa lại may mắn, sức khỏe hay tài lộc cho bản thân và gia đình. Điều đó vừa tàn phá cây cối vừa thiếu văn hóa. Tốt nhất, mọi người không nên bẻ cành, hái chồi non dịp năm mới mang về nhà.   “Lộc” mang rất nhiều nghĩa. Lộc theo nghĩa cụ thể là chồi non mới nhú. Nó biểu hiện sự sinh sôi, nảy nở, phát triển. Đầu xuân là khởi đầu của một năm mà có được một cành lộc như vậy rất ý nghĩa nên những cây đào, cây quất người ta thường chọn cây nhiều hoa và lộc. Nghĩa thứ hai, lộc là điều tốt đẹp, mong muốn thần thánh có thể mang đến cho mình. Lên chùa thắp một nén hương xin lộc để cầu mong, cầu lộc đó là công danh, sự nghiệp hay sức khỏe… thì lộc đó có thể hiểu là sức khỏe, con cái, cầu công danh. Và hái lộc nên được hiểu theo nghĩa thứ hai.   Sự lạm dụng và hiểu nhầm ý nghĩa tượng trưng tục hái lộc đầu xuân không làm cuộc sống tốt đẹp lên nhờ những cành lộc, nhưng việc bẻ cành, chặt cây là những việc làm không mấy nhân văn của một số người đã và đang tàn phá, hủy hoại môi sinh mà nhiều người đang cố gắng tạo dựng.   Đại đức Thích Trí Hiến, chùa Hưng Khánh (Bình Định) cũng cho rằng, nét đẹp “hái lộc đầu Xuân” theo các cụ xưa là gặt hái quả phúc, hỷ lạc… xuất phát từ bản tâm, hành động, lời nói và ý nghĩ thiện lành. Có như thế “lộc” hái được, nhận được mới thật sự tốt đẹp và lợi ích. Muốn có cuộc sống tốt đẹp, hưởng lộc nhiều, phước nhiều cần phải gieo nhiều nhân lành. Thay vì hái lộc, thay vì cầu xin trời Phật, chúng ta nên gieo nhân lành bằng cách nghĩ, nói và làm các việc thiện. Hơn nữa, ông bà ta còn có quan niệm cứ sống đúng với bổn phận của mình, lộc tự nhiên đến.
 
► Tra cứu: Lịch âm, Lịch vạn niên chuẩn xác tại Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hái lộc đầu năm dễ rước “vong” vào nhà?

Dấu hiệu nhận biết người chết yểu và người sống thọ

Một số người quan niệm “Sống chết có số”, vậy “số” của bạn là thọ hay là yểu? Nhân tướng học đã phân tích một số dấu hiệu nhận biết người sống thọ và người
Dấu hiệu nhận biết người chết yểu và người sống thọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một số người quan niệm “Sống chết có số”, vậy “số” của bạn là thọ hay là yểu? Nhân tướng học đã phân tích một số dấu hiệu nhận biết người sống thọ và người chết yểu, bạn có thể tham khảo.

  Người sống thọ có tướng người như sau:
 
- Lông mày, râu và tóc nhanh dài, lúc về già mà dài thì càng tốt. Trừ trường hợp dưới 30 tuổi mà lông mày đột nhiên dài ra một cách bất thường thì nên coi chừng dấu hiệu yểu mạng.
 
– Tai có Luân Quách rõ ràng, lớn và dầy, rắn chắc, sắc tươi nhuận.
 
– Sống mũi (Phần Niên thượng, Thọ thượng) đầy và có thịt.
 
– Nhân trung sâu và rộng.
 
– Răng chắc.

Dau hieu nhan biet nguoi chet yeu va nguoi song tho hinh anh
Người sống thọ thường có tiếng nói rõ ràng, vang dội
– Tiếng nói rõ ràng, vang dội.
 
– Thần khí sung túc.
 
– Cổ phía dưới có thêm lớp da trễ xuống vai ( trường hợp khi người đứng tuổi và mập ).
 
– Nếu là lộ hầu thì âm thanh phải trong trẻo và cao.
 
– Xương Lưỡng quyền vững vàng và ăn thông lên ngang phía.
 
– Xương hai bên đầu phía trên và sau tai nổi cao rõ rệt.
 
– Ngũ nhạc đầy đặn và đúng cách tục.
 
– Đến tuổi trung niên ( khoảng ngoài 30 tuổi ) Tai mọc lông dài hoặc lông mày bắt đầu mọc dài và sắc thái tốt.
 
– Lưng rộng, bụng dầy.
 
Người có đầy đủ tất cả các điều kiện kể trên chắc chắn là tướng trường thọ trong trường hợp bình thường
 
Người chết yểu có tướng người như sau:

– Lông mày đẹp về hình thức nhưng hỏng về thực chất (chẳng hạn sợi thô vàng, sắc khô héo), lông mày mọc xệ xuống phía dưới mi cốt, dáng vẻ lạnh lẽo.
 
– Tai nhỏ, úp xuống phía trước mặt, tai quá mềm và sắc không xạm, tai quá mỏng, nhĩ căn bạc nhược.
 
– Mũi gãy khúc, Sơn căn gập xuống, Chuẩn đầu nhỏ nhọn, khiến mũi trở thành liệt thế.
 
– Đầu nhỏ, cổ dài, trán nhỏ nhọn và nổi gân xanh, thiếu niên có dáng đi hoặc ngồi co đầu rụt cổ.

Dau hieu nhan biet nguoi chet yeu va nguoi song tho hinh anh 2
Tai nhỏ, úp xuống là tướng người chết yểu
– Nhân trung ngắn nông cạn.
 
– Tiếng nói đứt đoạn, giọng nói gấp mà hời hợt như người thiếu hơi, âm điệu buồn tẻ như người không có sinh khí.
 
– Ánh mắt đờ đẫn như kẻ si ngốc hoặc người ngái ngủ, ngồi thì lưng như gục ngã, đứng nhìn thì chân không có gân cốt, đi thì thân hình xiêu vẹo, bước chân thiếu vững vàng.
 
Tất cả những dấu hiệu trên đều là biểu hiện của bệnh “Thần thái suy nhược” nên không thể nào sống quá 50 tuổi. Bởi lẽ đó, có người tuy về hình tướng rất đẹp đẽ phương phi mà chết yểu chỉ vì khí chất không tương xứng.
 
Ngoài ra, cũng có một số dấu hiệu giúp ta dễ dàng nhận biết người có số chết yểu như sau:
 
-  Chết yểu trong vòng 10 tuổi trở lại : Đầu và trán nhỏ quá mức so với thân mình, trán nổi gân xanh quá rõ rệt, phía sau đầu xương bị lõm xuống.
 
- Chết yểu trong vòng 20 tuổi trở lại : Tác người lớn con mà đầu lại nhỏ bé cộng thêm với tiếng nói quá nhỏ là tướng khó sống qua năm 15 tuổi. Tai mỏng như giấy, nhĩ căn bạc nhược, da mỏng và bóng như bôi dầu khó vượt qua quãng 16, 19 tuổi, Mắt lồi mà lòng đen ít, lòng trắng nhiều, nhĩ căn xạm đen, tai mỏng và hướng về phía trước, khó sống qua tuổi 20.
 
- Chết yểu trong vòng 30 tuổi : Lông mày ngắn, mặt ngắn không thọ quá 25 tuổi. Mày thưa thớt, xâm phá Án đường, mắt không có thần, môi xám đều là tướng đoản thọ trong vòng 26 tuổi. Mắt nhỏ, quyền thấp, xương thô, thịt teo mà hạ đình quá dài nhọn: không quá 27 tuổi. Lông mày giao nhau mà mắt thoát thần, môi vẩu mà môi trên lại ngắn, da mặt quá mỏng đều là tướng khó sống được quá 30 tuổi.
 
- Chết yểu trong vòng 40 tuổi : Mắt lồi, lông mày ngắn, mà đại các quá dài không tương xứng với khuôn mặt khó sống qua 32 tuổi. Mắt thì lúc như lộ chân quang, lúc thì lại như chìm xuống. Lông mày vừa thô vừa ngắn lại thêm hạ đình dài hẹp: không quá 34 tuổi. Mắt lộ mà lộ hầu, xương nhỏ mà người mập: không quá 36 tuổi. Mắt lộ hung quang hừng hực, tính tình thô bạo thì dẫu mũi cao, sơn căn không gẫy khúc thì cũng chỉ đến năm 39 tuổi khó tránh được số trời.
 
- Tướng mạng vong trong khoảng 50 tuổi : Sống mũi không ngay ngắn (có chiều hướng lệch sang bên trái hay bên phải ) ít khi sống quá 42 tuổi. Mắt nhỏ, mày co rút lại không tương xứng với khuôn mặt, sơn căn lại đầy đặn thường sống đến khoảng 42, 44 tuổi. Bắt đầu phát phì mà thần khí lại có vẻ co rút thì khó qua được tuổi 49 và 50.
 
► Khám phá tử vi trọn đời của bạn bằng công cụ xem bói tử vi chuẩn xác

Theo Xemtuviso
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dấu hiệu nhận biết người chết yểu và người sống thọ

Top 4 con giáp có số làm đại gia

Chúc mừng người tuổi Tý dễ trở thành đại gia nhất trong 12 con giáp.
Top 4 con giáp có số làm đại gia

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Tý

ti-8518-1439219114.jpg

Nhờ vào trực giác siêu nhạy bén cùng vận may luôn song hành, người tuổi Tý dễ thành công và trở nên giàu có. Hơn nữa, con giáp này sở hữu kỹ năng thương thuyết tài tình, nên dễ “hái được tiền” trong lĩnh vực truyền thông, bán hàng. Tính cách thích sung sướng, nên người tuổi Tý càng ham kiếm tiền. Họ đặt ra mục tiêu giàu có trước mới lo nghĩ chuyện tình cảm. Nếu cầm tinh con chuột, bạn nên tận dụng cơ hội làm giàu vào năm Sửu vì Tý và Sửu tương hỗ nhau rất tốt.

Tuổi Hợi

Khả năng dự báo trước tương lai và biết nhìn xa trông rộng của người tuổi Hợi là chìa khóa vàng dẫn họ tới danh đại gia. Họ hào phóng cho đi, nên dễ nhận lại được số tiền nhiều hơn gấp bội nhờ quý nhân phù trợ và vận may luôn sẵn có. Nếu kết hợp với người tuổi Dần, con giáp này sẽ nhanh chóng gặp cơ hội “tiền vào như nước”. Tuy nhiên, người tuổi Hợi nên quản lý tiền bạc khoa học hơn.

Tuổi Thân

than-6201-1439219114.jpg

Không chỉ thông minh, người tuổi Thân còn rất chăm chỉ, thể hiện được năng lực trong nhiều lĩnh vực. Hơn nữa, con giáp này sống giản dị, vui vẻ nên nhận được sự quý mến của mọi người. Nếu gặp bất kỳ khó khăn nào, ngay lập tức người tuổi Thân được hỗ trợ từ nhiều phía. Dù vậy, bản tính nóng vội khiến con giáp này gặp vận hạn, thất bại vài lần. Nếu bắt tay làm ăn với người tuổi Tỵ, số giàu có của mình đến nhanh chóng hơn.

Tuổi Dần

Tiền bạc không chảy liên tục về túi của người tuổi Dần, nhưng khi đã thắng lợi, con giáp này đếm tiền mỏi tay không hết. Sở dĩ như vậy là bởi họ dám mạo hiểm, thích phát kiến ra những điều mới mẻ. Số giàu sẽ không đến sớm với người tuổi Dần, mà họ sẽ phát về hậu vận. Đối tượng để con giáp này nên hợp tác là người tuổi Hợi.

Mr.Bull (theo GHT)

giausang-1406253571-300x180-1759-1439254

Top 5 con giáp lắm tiền nhiều của nhất


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 4 con giáp có số làm đại gia

Tư vấn cách đặt tên cho con trai

Trong quan niệm truyền thống của người phương Đông, con trai được xem là người nối dõi tông đường, kế tục những ước mơ chưa tròn của cha mẹ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong quan niệm truyền thống của người phương Đông, con trai được xem là người nối dõi tông đường, kế tục những ước mơ chưa tròn của cha mẹ. Vì vậy, việc chọn một cái tên để gửi gắm niềm mong đợi, hy vọng cho con trai yêu của mình là điều rất được coi trọng.

dat-ten-con-trai

Khi đặt tên cho con trai, bạn cần chú ý đến những phẩm chất thiên phú về mặt giới tính để chọn tên cho phù hợp.

Nếu bạn mong ước con trai mình có thể phách cường tráng, khỏe mạnh thì nên dùng các từ như: Cường, Lực, Cao, Vỹ… để đặt tên.

Con trai bạn sẽ có những phẩm đức quý báu đặc thù của nam giới nếu có tên là Nhân, Nghĩa, Trí, Tín, Đức, Thành, Hiếu, Trung, Khiêm, Văn, Phú…

Bạn có ước mơ chưa trọn hay khát vọng dở dang và mong ước con trai mình sẽ có đủ chí hướng, hoài bão nam nhi để kế tục thì những tên như: Đăng, Đại, Kiệt, Quốc, Quảng… sẽ giúp bạn gửi gắm ước nguyện đó.

Để sự may mắn, phú quý, an khang luôn đến với con trai của mình, những chữ như: Phúc, Lộc, Quý, Thọ, Khang, Tường, Bình… sẽ giúp bạn mang lại những niềm mong ước đó.

Ngoài ra, việc dùng các danh từ địa lý như: Trường Giang, Thành Nam, Thái Bình… để đặt tên cho con trai cũng là cách hữu hiệu, độc đáo.

Không những thế, bạn có thể dùng các biểu tượng tạo cảm giác vững chãi, mạnh mẽ: Sơn (núi), Hải (biển), Phong (ngọn, đỉnh)… để đặt cho con trai đáng yêu của mình với niềm mong ước khi lớn lên con sẽ trở thành người mạnh mẽ, vững vàng trong cuộc đời.

Chọn tên cho con như thế nào?

Ngoài ý nghĩa tên theo vần, bạn có thể xem tuổi và bản mệnh của con để đặt tên cho phù hợp. Một cái tên hay và hợp tuổi, mệnh sẽ đem lại nhiều điều tốt đẹp cho con bạn trong suốt đường đời.

Đặt tên theo tuổi

Để đặt tên theo tuổi, bạn cần xem xét tuổi Tam Hợp với con bạn. Những con giáp hợp với nhau như sau:
•Thân – Tí – Thìn
•Tỵ – Dậu – Sửu
•Hợi – Mão – Mùi
•Dần – Ngọ – Tuất

Dựa trên những con giáp phù hợp bạn có thể chọn tên có ý nghĩa đẹp và gắn với con giáp Tam Hợp. Ngoài ra cần phải tránh Tứ Hành Xung:
•Tí – Dậu – Mão – Ngọ
•Thìn – Tuất – Sửu – Mùi
•Dần – Thân – Tỵ – Hợi

Đặt tên theo bản mệnh

Bản mệnh được xem xét dựa theo lá số tử vi và theo năm sinh, tùy theo bản mệnh của con bạn có thể đặt tên phù hợp theo nguyên tắc Ngũ Hành tương sinh tương khắc:

Dựa theo Tử Vi, các tuổi tương ứng sẽ như sau:
•Thìn, Tuất, Sửu, Mùi cung Thổ
•Dần, Mão cung Mộc
•Tỵ, Ngọ cung Hỏa
•Thân, Dậu cung Kim
•Tí, Hợi cung Thủy

Bạn có thể kết hợp theo từng năm sinh để lựa chọn tên theo bản mệnh phù hợp nhất, ví dụ:
•Canh Dần (2010), Tân Mão (2011): Tòng Bá Mộc (cây tòng, cây bá)
•Nhâm Thìn (2012), Quý Tỵ (2013): Trường Lưu Thủy (nước chảy dài)
•Giáp Ngọ (2014), Ất Mùi (2015): Sa Trung Kim (vàng trong cát)
•Bính Thân (2016), Đinh Dậu (2017): Sơn Hạ Hỏa (lửa dưới núi)
•Mậu Tuất (2018), Kỷ Hợi (2019): Bình Địa Mộc (cây mọc đất bằng)

Như vậy, nếu con bạn mệnh Mộc thì bạn có thể chọn tên liên quan tới Thủy (nước), Mộc (cây) hay Hỏa (lửa) để đặt tên cho con bởi Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa… Các tuổi khác cũng tương tự, dựa vào Ngũ Hành tương sinh, tránh tương khắc sẽ giúp mọi sự hạnh thông, vạn sự như ý.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tư vấn cách đặt tên cho con trai

Thầy Lác

Thầy Lác là một truyện ngắn kinh điển của tác giả Thao Thao (Cao Bá Thao) viết bóc mẽ giới các thầy tướng số. Từ đó giúp người đọc có cái nhìn chính xác, đầy đủ hơn về việc xem tướng số.
Thầy Lác

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là một truyện ngắn mà cũng là một bức vẽ. Nên không phải một cây bút họa công và nếu không có con mắt quan-sát tinh-tế, đâu có được những nét truyền thần ấy!

THẦY LÁC

Truyện ngắn của Thao-Thao

Tôi đã được nghe nói nhiều về ông thầy tướng số ấy. Mọi người quen gọi là thầy lác. Vì mắt hơi lác lác. Sự thật thì là bạch tình lộ.

Thầy lác, ngoài cái đặc điểm khi nói không nhìn thẳng vào mắt ai bao giờ, lại còn đặc điểm này nữa: ít nói.

Lúc nào cũng cứ lầm lầm, lỳ lỳ. Chính vì cái đặc điểm lầm lầm lỳ lỳ đó mà nhiều người phục thầy lác vô kể. Phục... vì, thầy lác, khi nào đã nói thì cứ như đanh đóng cột. Nghĩa là không sai bao giờ.

Không mở ngôi hàng xem tướng, thầy lác không có chỗ ngồi nhất định như những ông thầy tướng khác.

Nay nhà này, mai nhà nọ, thầy lác thường đóng đô hàng tháng ở nhà những người bạn giàu có hết sức thù phụng thầy. Và thầy lác ngồi xem tướng ngay ở nhà người bạn giàu có đó.

Phải là người giàu có lắm, giầu của đã đành lại còn phải giầu lòng tin tưởng và nhất là giầu lòng hào hiệp mới có thể lưu được thầy lác ở nhà. Bởi thầy lác là người khó tính lắm.

Đến nhà nào thầy phải ở riêng một nơi thật tĩnh mịch. Không uống rượu, thầy "ăn thuốc". Hút thật nhiều. Nhiều gấp hai ba mọi người. Sau mỗi bữa cơm đem lại phải có hoa quả tráng miệng.

Thầy không lấy tiền của ai. Người nào muốn thầy xem cho chỉ việc đỡ chủ nhà hai khoản đó: thuốc phiện và hoa quả.

Thế rồi, một mình - thầy chỉ tiếp một người một thôi - vào ngồi từ bi từ tại hàng giờ ở trước mặt thầy nhìn thầy hút, nhìn thầy ăn - ăn lê, ăn táo - và đợi thầy xem.. tướng cho.

Trong khi hút - thầy tiêm lấy - thầy chỉ thỉnh thoảng đưa cặp mắt bạch tình lộ - không phải mắt trắng rã - liếc nhìn người ngồi cung kính trước mặt thầy. Rồi như khám phá ra được điều bí quyết gì, thầy gật gật giây lâu rồi, im lặng, mơ màng nhìn khói thuốc phiện thở ra mờ tỏa chung quanh...

Một lúc sau, thầy lại liếc nhìn như thế. Lại gật gật như thế. Lại mơ màng nhìn khói thuốc như thế.

Vài giờ sau, xong bữa cơm nâu, thầy lác ngồi lên, ung dung gọt vài quả lê hay quả táo, thủng thẳng vừa nhai vừa nói...

Thầy lác nói về quá khứ. Một vài điều về quá khứ. Ít thế thôi. Nhưng là một vài điều đáng tiền, à! Đáng thuốc, đáng lê, đáng táo...

Thật vậy. Nó đúng quá. Nó làm người nghe phải lạnh người, chỉ muốn van thầy lác đừng nói nữa.

Thầy lác, tức thì, mỉm cười, khoan khoái... Người nghe vừa nói, thấy thầy lác ngừng lại thì cúi gầm mặt xuống, vẻ sượng sùng...

Một ngời bạn thân được thầy lác xem cho, đã thân mật nói với tôi như thế này:

- Giỏi thật. Thầy lác bảo tôi thường có những mối tình thầm vụng với người trong nhà... Việc đó, tôi giữ bí mật lắm. Không ai biết cả. Thế mà thầy lác "gọi" ra!

Một người bạn gái - vâng người bạn gái của tôi - cũng đã thân mật nói với tôi như thế này:

- Thầy lác đã làm em sượng sùng chết được. Thầy bảo em phải... lưỡng phu quân. Phu quân thứ hai lại là... và.. Nhưng thôi. Còn một vài người bạn trai, bạn gái khác đã thân mật nói lại với tôi, thầy lác bảo thế này, thầy lác bảo thế nọ; nhưng, nhắc lại, cũng chẳng hơn gì. Vì.. toàn những chuyện bí mật, thuộc về đời riêng của người ta cả. Có điều... sao không thấy các ông thầy tướng khác nói đến?

Sau khi nói cho nghe một vài điều đặc biệt ấy, thấy đã chiếm được lòng tin phục của người ngồi nghe, thầy lác mới mạnh bạo tấn công:

-Tháng vừa rồi bà vừa thua thiệt một món tiền lớn hàng vạn. Bị bạn lừa... Đích bị bạn lừa!.

- Nhất định cụ nhà thế nào cũng qua đời vào ngày mão này Phải Nhất định ngày mão, giờ ngọ.. (Ông cụ ấy tuổi Dậu, mà năm là năm Tý!)

- Nhất định tháng sau bà sẽ ốm lượt giường.

- Nhất định sang năm ông sẽ được cất nhắc, cuộc đời sẽ thay đổi hẳn...

- Nhất định, sang năm ông sẽ tan nát cơ nghiệp.

Và nhiều nữa. Nhiều nữa. Với người nào, thầy lác cũng làm cho hoảng, hay làm cho mừng... Nhưng chỉ hoảng trong giây lát và cũng chỉ mừng trong giây lát... Vì thầy lác bảo:

- Tháng sau bà sẽ ốm liệt giường đấy, có thể gần đất xa trời được; nhưng.. nhưng nếu bà nghe tôi...

Bà nọ vội vàng:

- Vâng. Xin nghe thầy. Trăm sự nhờ thầy trỏ đường sống cho.

Chậm rãi, thầy lác gật gù vừa nhai nốt miếng táo, vừa nói:

- Bà phải nghe tôi về kê ngay lại giường bà nằm. Phải đầu "gối" hướng Đông, chân "đạp" hướng Tây. Bà cứ về kê lại như thế. Rồi bệnh sẽ qua khỏi và rồi làm ăn sẽ vô cùng thịnh vượng.

Và bà này đã về kê ngay lại giường nằm. Bà ấy đã ốm và đã khỏi. Và đã trở lên giầu có sau mấy chuyển buôn. Đa-dơ-năng về hậu phương, không bị vấp váp.

Với ông sắp được cất nhắc thầy lác bảo:

-Sang năm thì ông sẽ một bước nhảy lên quan, vì có quan thầy đỡ đầu; nhưng.. ông phải nghe tôi...

Ông nọ vội vàng ngồi nghiêm chỉnh hơn, trịnh trọng hơn:

- Vâng. Xin thầy làm ơn chỉ bảo cho. Nếu đúng như lời thầy nói tôi sẽ hậu tạ thầy thật xứng đáng.

Thầy lác bắt lời ngay:

- Đừng sai nhời nhé. Một nghìn?

Ông nọ vội suýt soa:

- Vâng. Xin có một nghìn.

Và xin đưa trước năm trăm. Nhé tiền vào ví xong, thầy lác ung dung truyền phán:

- Đầu sang năm, ông phải đeo kính gọng vàng, quan thầy trông thấy tự nhiên tin yêu ông. Rồi ông sẽ được cất nhắc như lời tôi nói.

Ông nọ, về mua sẵn ngay kính gọng và chờ đầu năm sau đeo lên sống mũi nom thật là đạo mạo. Và năm sau, ông nọ được quan thầy cất nhắc thật. Đúng như lời thầy lác đã nói.

Với ông sắp bị tan cơ nghiệp thầy lác nói:

- Sang năm thì thế nào ông cũng đi đời cả cơ nghiệp đấy. Nhưng nếu ông nghe tôi...

Ông này rắn rỏi đợi chờ:

- Xin thầy cứ cho nghe...

Thầy lác ngập ngừng rồi nói:

- Tôi chắc bảo thì bảo ông cũng chẳng tin nghe nào. Và vì thế, tôi e ông sẽ tan cơ nghiệp mất.

- Thì thầy cứ nói.

Miễn cưỡng thầy lác nói:

- Ông nên nghe tôi may quần áo màu nâu gạch mà mặc.

- Sao lại dùng mầu nâu gạch? Dùng màu khác thì sao?

- Thì không ăn thua gì chứ sao!

- Thầy nhất định tôi phải dùng mầu nâu gạch mới khỏi tan cơ nghiệp. Có phải không?

- Phải.

Ông nọ đứng lên, đầy vẻ hoài nghi:

- Có lý nào! Tôi đánh bạc! Tôi không chung vốn buôn to nữa! Thử xe có việc gì không nào?

Và nhất định không may quần áo màu nâu gạch. Năm sau, thủ đô xảy ra nạn khói lửa. Mấy ngôi nhà của ông nọ thành tro than cả.

Thế là thế nào? Phải. Thế là thế nào? Kê lại giường nằm, đầu gối hướng Đông, chân đạp hướng Tây thì khỏi ốm, thì phát tài? Đeo kính gọng vàng thì được quan thầy cất nhắc thay đổi hẳn cuộc đời? mặc quần áo mầu nâu gạch thì không bị tan cơ nghiệp? Cưỡng lại, không chịu nghe lời thầy lác thì có mấy ngôi nhà thành tro than cả mấy. Thế là thế nào? Phải. Thế là thế nào? Lại còn thế này nữa: ông này đến năm ấy phải để râu thì mới đại phát tài, ông này phải húi trụi đầu đi thì mới có lộc, bà này lúc nào cũng phải đeo thật nhiều vàng ở cổ tay mới phát được.

Thế là thế nào? Phải. thế là thế nào?

Câu hỏi ngờ vực, đầy sự bán tín, bán nghi ấy cứ luôn luôn lởn vởn ở đầu óc tôi. Nhiều lúc tôi vò đầu, vò tai, tự hỏi:

- Có thể như thế được không?

Nhưng vô ích. Tôi chỉ làm tội cái đầu, cái tai của tôi phải rối lên, phải đỏ bừng lên chứ có ăn thua gì? Thế rồi, nghĩ mãi vẩn cả óc chẳng tìm ra lý lẽ gì cả, tôi bực mình hạ lệnh cho tôi nhất định không bao giờ thèm nghĩ đến chuyện khó hiểu ấy nữa.

Bẵng đi ít lâu. Một hôm một chuyện xẩy ra đã khiến tôi lại nghĩ đến... Mà không sao nghĩ được?

Việc xảy ra ngay bên nhà hàng xóm.

Bà Bốn bán bánh cuốn, ế hàng, không tiền đóng họ góp năm, sáu ngày còn đọng lại bị người chủ họ ỉ eo điều tiếng. Chẳng hiểu bà Bốn nghĩ ngợi quẩn chí thế nào, bà treo cổ tự tử. Đàn con nhỏ của bà ta, có đứa trông thấy, khóc ầm lên. Hàng xóm đổ sang đỡ bà ta xuống, thoát chết. Trong số những người sang thăm hỏi bà ta có tôi và anh Kiến, bạn cùng sở, ở cạnh nhà tôi.

Anh Kiến đã ôn tồn bao bà Bốn như thế này:

- Bà không phải lo gì nữa. Chỉ dăm hôm nữa bà sẽ có người mang đến bạc vạn tận nhà giao cho bà. Bà sẽ tha hồ mà tậu nhà...

Lúc ấy, nghe anh Kiến nói thế tôi cũng chỉ cho lời nói an ủi của một người hàng xóm với nhau

Bất ngờ, năm hôm sau đó một người đã cao tuổi, tay ôm một gói chăn có vẻ nặng nề bước vào nhà bà Bốn. Thấy người này, bà Bốn reo lên:

- A! Cụ Cả! Cụ mới ở hậu phương về à?

Vâng, tôi về thăm nhà cửa nhưng đổ cả. Đêm nay, tôi đến đây ngủ nhở một đêm, bà có cho ngủ không?

- Xin cụ cứ chiếu cố. Chỗ người làng, người nước với nhau!

Thế rồi cụ Cả đi tìm chỗ để gói chăn. Bà Bốn trông thấy gói chăn có vẻ nặng nề thì hỏi:

- Gói gì mà có vẻ nặng thế cụ?

A! Một vài thứ đồ đồng tôi bới được ở trong đống vôi gạch ra ấy mà!

Đêm hôm ấy, cụ Cả đi ra ngoài để tiểu tiện chẳng may trúng phải gió độc. Năm phút sau thì cụ Cả tắt thở. Trước khi nhắm mắt, cụ Cả gọi bà Bốn giao cho cho gói chăn kia. Dở ra, bà bốn thấy hai chục thoi vàng nằm trên hai nghìn tờ giấy một trăm cũ.

Theo lời cụ Cả đã trối trăng lại với bà Bốn thì đó là của trôn ở trong nhà trong của cụ Cả ở phố Hàng H.. vừa đào lên. Chỗ của đó, cụ Cả trao cả cho bà Bốn để nuôi con cái vì cụ Cả chẳng còn biết trao cho ai; con trai độc nhất của cụ Cả đã thiệt mạng ở ngoài hậu phương.

Sau khi an táng cụ Cả xong, bà Bốn vung tiền tậu hai ngôi nhà, một để ở, một cho thuê...

Thế là thế nào? Phải, thế là thế nào? Anh Kiến, bạn tôi cũng là thầy tướng chăng? Không là thầy tướng thì sao lại nói đúng như thế được: năm hôm sau nữa, bà sẽ có người mang của đến tận nhà giao cho bà. Bà sẽ tha hồ tậu nhà?

Tôi quyết phải hỏi cho ra. Nhưng anh Kiến cứ trối bai bải mãi. Anh nhất định câu nói của anh chỉ là câu nói để an ủi bà Bốn đang lúc cùng quẫn. Nếu đúng thì chẳng qua là sự ngẫu nhiên thôi. Không nên tin làm gì cả.

Nhưng tôi không nản lòng. Tôi đem những chuyện nghe được ra thuật lại tường tận với anh, mong anh giảng giải để tôi khỏi phải khổ sở về nỗi bán tín, bán nghi..

Thấy tôi khẩn khoản thật lòng, anh Kiến, không sao được, đành phải lên tiếng:

- Cứ theo như anh nói thì thầy lác đã trộn lẫn tướng với số để mê hoặc mọi người. Thầy lác đã lợi dụng cái biết về tướng, số để đón trước việc cát hung của đời người. Thầy lác thấy bà này sắp ốm, và sau khi ốm, sẽ gặp nhiều sự may mắn về tiền tài thì mượn chuyện xoay giường, xoay hướng để mưu kiếm chác. Thấy ông kia sắp động về công danh thì mượn chuyện xoay giường, xoay hướng để mưu kiếm chác. Thấy ông kia sắp động về công danh thì mượn chuyện kính gọng vàng để sơi ngon năm trăm và còn nhiều nữa. Thấy ông này sắp bị tan cơ nghiệp, thì mượn chuyện quần áo mầu nâu gạch để rử. Nếu ông này nghe lời, thì thầy lác sẽ bảo thêm cho biết, sau năm năm chẳng hạn, ông này sẽ lại khôi phục được cơ nghiệp. Tôi không biết thầy lác có nói thêm như thế hay không. Nếu có nói thì nhất định ông này, sau khi ở hậu phương ra, sẽ mặc quần áo mầu nâu gạch cho mà xem!

Tôi hỏi:

- Hình như tướng có thay đổi kia mà? Trong sách chẳng khối chỗ nói người này, người nọ bị thầy tướng chê là tướng bần tiện thế mà, ít lâu sau, thầy tướng đó đã đổi dọng:

Ông sắp phú quý đến nơi rồi!

Hỏi ra mới rõ người bị thầy tướng chê vừa cứu được một người thoát chết đuối.

Anh Kiến nói:

Tướng người ta có thay đổi, nhưng đó là những trường hợp đặc biệt. Việc cứu người không phải là việc thường xảy ra. Thí dụ người tướng bần tiện, có thể nói là tướng chết đói. Vì tướng "đằng sà nhập khẩu". Nhưng vì làm một việc đại phúc nên, trong lòng vui thích, tướng nhân thế thay đổi. Tướng "đằng sà nhập khẩu" biến thành tướng "thanh long quá giang".

Tướng biến vì là tâm biến. Cái tâm mới là quan trọng. Đổi được cái tâm có phải chuyện dễ đâu?

Còn đổi những cái bề ngoài như để râu chỉ là để chữa một phần nào. Dùng màu sắc để chế hóa theo ngũ hành, tôi tin chỉ là trò bị bợm..

Để kết luận, anh Kiến nói:

- Biết tướng để trỏ bảo họa phúc cho người đời thì được; nhưng để thay đổi họa phúc thì không có lý nào! Định mệnh là định mệnh.

Khi chia tay, anh Kiến thân mật bảo tôi:

- Thí dụ tôi biết tướng, tôi cũng không bảo anh. Vì, biết anh chỉ luẫn quẫn với anh, không ích lợi gì cả. Cứ làm cứ ăn. Cái dở trong cái hay. Cái hay trong cái dở. Đời là một cuộc biến chuyển phiền phức, sao ta lại cứ tin những anh thầy lác để ta luẫn quẫn với ta làm gì?

Từ hôm ấy, tôi hết bán tín, bán nghi.

Tác giả: Thao Thao

-----------------------------------------------

Mình gõ lại theo link: http://baochi.nlv.gov.vn/baochi?a=d&d=HxpJ19490320.2.13#

Đây là một truyện ngắn kinh điển của tác giả Thao Thao viết được mọi người đánh giá rất cao. Bóc mẽ được các mánh khóe của thầy Tướng Số.

Về tác giả Thao Thao: Link Wiki: http://vi.wikipedia.org/wiki/Thao_Thao

Ông sinh ngày 11 tháng 6 năm 1909, tại xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay là huyện Gia Lâm, Hà Nội). Ông là cháu xa đời của danh nhân văn hóa Cao Bá Quát: 1809-1865. Thuở nhỏ, ông học tiểu học ở thị xã Bắc Ninh.

Tác giả Thao Thao viết loạt sách:

  1. Tự điển tử vi (1950)
  2. Xem tướng lấy (1952)
  3. Tướng pháp thực hành (1952)
  4. Nhìn mặt đoàn người (1952)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thầy Lác

Xếp hạng 5 con giáp hiếu thắng nhất

Với người tuổi Thìn, chuyện thắng thua, thành bại quan trọng như chính sinh mệnh của họ vậy.
Xếp hạng 5 con giáp hiếu thắng nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No1: Tuổi Thìn

thin-7578-1404001191.jpg

Người tuổi Thìn không muốn người khác biết được điểm yếu của mình vì sợ sẽ bị kiểm soát hoặc thua kém. Họ luôn chủ động tìm cách thể hiện điểm mạnh của bản thân, đồng thời coi đó như thế  mạnh bất biến, khiến người khác phải nể phục. Bởi vậy, với họ, chuyện thắng thua, thành bại vô cùng quan trọng, như chính sinh mệnh của mình vậy.

No2: Tuổi Ngọ

ngo-5433-1404001191.jpg

Con giáp này có sở thích vô cùng đặc biệt là chạy đua với người khác để chứng tỏ bản thân và giành được địa vị cao hơn mọi người. Trong suy nghĩ của họ lúc nào cũng tồn tại sự so bì cao thấp. Bao giờ họ cũng phải là người giành chiến thắng chung cuộc mới cảm thấy thực sự hài lòng.

No3: Tuổi Mão

mao-6431-1404001192.jpg

Người tuổi Mão hay tự trách và không hài lòng với những gì mình đang có. Thậm chí, khi đứng trước gương, họ không muốn nhận hình phản chiếu trong đó là bản thân, vì cho rằng mình vẫn còn kém cỏi, chưa làm nên điều gì đáng để tự hào. Bởi chính suy nghĩ quẩn quanh, bí bách đó khiến con giáp này luôn nỗ lực không mệt mỏi, thích ghanh đua "ngầm" với người khác để có được kết quả mơ ước.

No4: Tuổi Sửu

suu-2610-1404001192.jpg

Với xuất phát điểm là mong muốn xích gần khoảng cách với mọi hơn nữa và mong đóng vai trò quan trọng trong tập thể, nên người tuổi Sửu đã luôn cố gắng hết mình để hoàn thiện bản thân. Song do tính hiếu thắng nên những suy nghĩ tưởng chừng đơn giản đã biến thành tham vọng của người tuổi Sửu.

No5: Tuổi Dần

dan-3855-1404001192.jpg

Suốt cuộc đời, người tuổi Dần luôn mong muốn có được những điều tốt đẹp, nhưng vì tỷ lệ giữa năng lực và tham vọng quá chênh lệch nên thành công đến với họ không mấy dễ dàng. Với họ, hiếu thắng cũng là cách giúp bản thân vươn lên, bởi có sự ganh đua sẽ nảy sinh sự phát triển và thành công. Chỉ có điều, người tuổi này chỉ thích hiếu thắng nửa vời, giữa chừng mà khó khăn hoặc nhàm chán là họ sẽ không ngại ngần từ bỏ.

Mr.Bull

hi-1403718227-1403718242-362x0-8593-1404

Top 4 con giáp lập đại nghiệp từ bàn tay trắng

Họ là những người vô cùng tài giỏi, nỗ lực và có ý chí hơn người.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xếp hạng 5 con giáp hiếu thắng nhất

Chọn nhẫn đính hôn đúng phong thủy nhất –

Đối với hôn nhân, việc lựa chọn chiếc nhẫn đính hôn là điều rất quan trọng. Tuy nhiên, ngoài tính thẩm mỹ, bạn nên cân nhắc về mặt phong thủy. Hỏi: Có quan niệm cho rằng nhẫn đính hôn kim cương có ba viên là không tốt về mặt phong thủy, có người gọi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đối với hôn nhân, việc lựa chọn chiếc nhẫn đính hôn là điều rất quan trọng. Tuy nhiên, ngoài tính thẩm mỹ, bạn nên cân nhắc về mặt phong thủy.

Hỏi: Có quan niệm cho rằng nhẫn đính hôn kim cương có ba viên là không tốt về mặt phong thủy, có người gọi nó là nhẫn kỷ niệm. Trong khi đó, nhẫn đính hôn truyền thống có một viên kim cương chính, có thể có thêm các viên kim cương nhỏ hơn bên cạnh lại rất hợp phong thủy. Ngoài ra, việc chọn mua nhẫn đính hôn có thiết kế lồng vào nhau được khuyên là không nên. Xin hỏi những quan niệm này có đúng hay không?

nhan-dinh-hon

Trả lời:

Phong thủy đồ trang sức là một chủ đề phổ biến bởi vì khi được lựa chọn một cách chính xác, nó sẽ là trở thành người bảo vệ mạnh vẽ và tiếp thêm sinh lực cho năng lượng cá nhân của bạn.

Về cơ bản, các tiêu chuẩn phong thủy trang sức tốt hay xấu đều dựa trên năng lượng được tạo ra bởi những viên kim cương và các tinh thể, đá quý khác nhau trong từng bối cảnh cụ thể. Vì vậy, câu hỏi về thiết kế chiếc nhẫn đính hôn có ba viên kim cương là rất thú vị!

Nếu bạn nhìn vào lịch sử của chiếc nhẫn đính hôn sẽ thấy rằng đã có rất nhiều loại đá quý và thiết kế khác nhau được sử dụng, không chỉ riêng mình kim cương. Hầu hết đều chứa đựng ý nghĩa sâu xa và ngôn ngữ phức tạp riêng. Đá Saphia (còn gọi là Ngọc bích) được sử dụng vì hàm nghĩa lòng trung thành và sự tận tâm; đá Hồng Ngọc tượng trưng cho năng lượng của sự đam mê và đá Ngọc lục bảo có ý nghĩa là sức sống và sự may mắn.

Thực tế, kim cương được coi là “ông hoàng đá quý” vì nó là loài đá quý tự nhiên cứng và sáng nhất. Kim cương có đặc tính bảo vệ và tác dụng chữa bệnh mạnh mẽ. Do đó, nó là biểu tượng hoàn hảo để thể hiện tình yêu vĩnh cửu. Năng lượng của nó được đánh giá là kết tinh của sự thủy chung và lòng tin vào một mối quan hệ trọn vẹn.

Chiếc nhẫn truyền thống có một viên kim cương được xem là lý tưởng nhất theo phong thủy vì nó hàm nghĩa “một” và “duy nhất”. Bên cạnh đó, năng lượng chứa đựng trong một viên kim cương lớn sẽ dồi dào hơn ba viên nhỏ.

Nhẫn đính hôn gồm một viên kim cương lớn, có thể có thêm những viên nhỏ bên cạnh cũng rất tốt về mặt phong thủy. Nó biểu tượng cho cặp đôi luôn bên nhau gắn bó hạnh phúc. Trong khi đó, số 3 mang hàm nghĩa bất lợi cho tình yêu và hôn nhân.

Lưu ý khi chọn mua nhẫn đính hôn

Chọn mua nhẫn đính hôn là việc rất quan trọng. Nếu bạn chưa có kinh nghiệm và băn khoăn không biết làm thế nào để tìm thấy chiếc nhẫn hoàn hảo thì hãy tham khảo một số lời khuyên tuyệt vời sau đây:

– Xác định mức ngân sách tối đa bạn có thể chi trả cho chiếc nhẫn. Các nhân viên bán hàng thường làm cho bạn nghĩ rằng tình yêu của bạn quan trọng và phải đặt nó trên tất cả, bao gồm cả chiếc nhẫn. Vì thế, tốt hơn hết, bạn cần tự đặt ra cho mình một mục tiêu rõ ràng trước khi bước chân vào tiệm trang sức. Đẹp, phù hợp thôi chưa đủ, chiếc nhẫn còn phải vừa với túi tiền của bạn.

– Chọn nhẫn bạch kim hay vàng? Hiện đại hay truyền thống? Cầu kỳ hay đơn giản?… sẽ là những băn khoăn khiến bạn mệt mỏi. Việc chọn mua chiếc nhẫn sẽ dễ dàng hơn nếu bạn biết trước mình, có thể cả “người ấy” thích gì. Và nếu nó đơn giản thì bạn hãy tìm một chiếc nhẫn đơn giản miễn sao hợp túi tiền và làm cho người yêu bạn vui là được.

– Chọn một loại đá trang sức trong cửa hàng đã được thợ kim hoàn thiết kế sẳn theo kiểu mà bạn thích, nếu điều kiện tốt hơn bạn có thể chọn kim cương.

– Bạn có thể đặt cửa hàng thiết kế theo ý bạn. Thêm hay bớt vài viên đá chẳng hạn, chạm lộng lẫy hoặc thêm các chi tiết khác. Bạn có thể chọn màu vàng, trắng hoặc vàng, bạch kim, hoặc thậm chí titan .

– Tối đa hóa ngân sách của bạn nếu dự định của bạn là muốn mua nhẫn kim cương lớn, bạn sẽ phải cân đối lại ngân sách. Yêu cầu một viên với diện tích bề mặt lớn hơn nó sẽ không lấp lánh nhiều nhưng nó sẽ trông lớn hơn và sẽ tốn số tiền lớn. Thay vì mua một chiếc nhẫn đính hôn bằng kim cương, hãy tìm hiểu thêm một loại đá quý khác ít tốn kém (như thạch anh, topaz xanh, saphia) hai bên là hai viên kim cương nhỏ. Chọn bạc thay vì bạch kim cũng tốt.

– Nếu bạn muốn đi mua nhẫn thì đừng đi một mình vào cửa hàng trang sức. Vì đi một mình bạn sẽ không biết  lựa chọn thế nào vì có quá nhiều sự lựa chọn. Nếu có thể, bạn nên rủ người yêu, bạn thân hoặc mẹ của bạn đi cùng để giúp bạn lựa chọn. Như vậy bạn sẽ nhận được sự góp ý để chọn cho mình chiếc nhẫn ưng ý hơn.

– Nếu bạn suy nghĩ việc đưa người yêu đi mua sẽ mất đi yếu tố bất ngờ, thì bạn phải chắc chắn rằng cô ấy thích chiếc nhẫn đính hôn của mình tự mua. Ngày càng có nhiều cặp vợ chồng đang làm theo cách này.

– Hãy tìm hiểu thương hiệu có uy tín thông qua bạn bè và gia đình. Trước khi bạn mua, tìm hiểu những chính sách hoàn trả hoặc trao đổi dễ dàng với nhiều lý do khác.

– Và cuối cùng bạn không quên lấy giấy chứng nhận về viên kim cương hay giấy bảo hành về chiếc nhẫn đính hôn. Như giấy kiểm định GIA, màu sắc, cắt rõ ràng và carat cũng như hình dạng kích cỡ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn nhẫn đính hôn đúng phong thủy nhất –

Chùa Hà cầu duyên - nơi linh thiêng cầu mong tìm được duyên lành

Các ngày trong năm, đông đảo nam thanh nữ tú tới chùa Hà câu duyên vì niềm tin vào ngôi chùa và họ cùng chung duyên nợ với chữ “tình”.
Chùa Hà cầu duyên - nơi linh thiêng cầu mong tìm được duyên lành

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không chỉ trong ngày lễ mà cả các ngày trong năm, đông đảo nam thanh nữ tú tới chùa Hà cầu duyên vì niềm tin vào ngôi chùa và họ cùng chung duyên nợ với chữ “tình”.     

Chọn nơi chốn linh thiêng Chùa Hà cầu duyên 
 

Chùa Hà tên chữ là Thánh Đức tự, ở thôn Bối Hà, xã Dịch Vọng, Huyện Từ Liêm, nay là phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội. 
 
Về thời điểm có chùa Hà có hai truyền thuyết. Truyền thuyết thứ nhất: vào thời Lý vùng Dịch Vọng đã có nhiều danh thắng nổi tiếng. Vua Lý Thánh Tông (trị vì 1054 - 1072) lúc 42 tuổi vẫn chưa có con nên đã cầu tự ở một ngôi chùa mà sinh ra Thái tử Càn Đức, do đó ngôi chùa này gọi là chùa Thánh Chúa để kỷ niệm sự kiện này. Trên đường đi vua còn ghé qua một ngôi chùa khác và ban tiền bạc cho chùa để trùng tu lại, vì vậy chùa này còn có tên là Thánh Đức tự. Vua Lý Thánh Tông đột ngột mất năm 50 tuổi, thái tử Càn Đức lên ngôi lúc 7 tuổi, tức là Lý Nhân Tông.   Truyền thuyết thứ hai: Chùa Hà được xây dựng lên để vua Lê Thánh Tông (trị vì 1460-1497) bày tỏ lòng nhớ ơn các đại thần Nguyễn Trãi, Nguyễn Xí, Đinh Liệt đã cưu mang mình và phế bỏ Lê Nghi Dân để đưa mình lên ngôi vua vào năm 1460.
 
 
chua ha cau duyen linh thieng
 
Tương truyền chùa được xây dựng rất lâu đời, đến năm 1680 chùa được xây dựng lại và đặt tên là Chùa Hà. Chùa thờ Phật, thờ Tổ và thờ Mẫu theo tín ngưỡng dân gian. Đây là một trong những chùa ở Hà Nội không có sư cũng như trụ trì, hiện tại chùa được quản lý trực tiếp của phường Dịch Vọng.   Cho đến nay, ngôi chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu, xây dựng, ngày càng to đẹp, hoàn toàn bằng tiền thập phương công đức, được xem là một trong những ngôi chùa lớn và nổi tiếng nhất ở Hà Nội. 
 
Đến lễ chùa Hà, ngoài việc cầu đức, cầu tài, chùa còn linh thiêng trong cầu nguyện tình duyên. Không hiểu bắt đầu từ đâu và từ khi nào, mọi người cùng nhau tới đây để cầu mong có được một nửa ưng ý, từ đó, tên tuổi chùa Hà gắn liền với niềm tin rằng nơi đây rất linh nghiệm đối với những lời cầu xin về tình duyên. Vì thế, nếu như các chùa khác trên địa bàn Hà Nội thu hút nhiều người trung niên và người cao tuổi thì Chùa Hà lại thu hút một lượng khách lớn các bạn trẻ đến để cầu duyên. 
 
Các cụ có câu "đức ông chùa Hà, đức bà chùa Hương" là muốn nói đức ông chùa Hà rất thiêng. Họ đến chùa Hà cầu duyên, cầu cưới được nhau. Thậm chí, có người bị người yêu bỏ cũng đến xin quay lại hay một số người xem chùa Hà là nơi linh ứng để thề thốt không chia lìa. Chính vì thế, phật tử tìm đến chùa ngày càng đông và mở rộng.   Nhiều người đến lễ, thấy linh ứng nên rỉ tai nhau. Vì thế, chùa Hà có lượng khách trẻ tuổi đến rất đông. Người cô đơn mong sớm có chồng có vợ, đôi lứa trắc trở mong sớm đến với nhau, người đang yêu mong tình yêu đẹp mãi... 
 
Chẳng ai biết, chùa có thiêng như lời đồn không, nhưng dòng người đủ các lứa tuổi vẫn nườm nượp đổ về chùa Hà để “cầu tình”.
 
Người đến chùa không chỉ cầu duyên mà còn cắt duyên. Các cụ ở chùa giải thích, cắt tiền duyên là khi bị một người âm đi theo, cản trở việc lập gia đình, hoặc có gia đình rồi nhưng không hạnh phúc. Cắt duyên âm đi sẽ giúp người trần tìm được tình duyên.
Tham khảo thêm: 5 ngôi chùa "cầu được ước thấy" nên đi lễ đầu năm

chua ha cau duyen linh thieng 3
 
   

Hướng dẫn xin duyên cơ bản ở Chùa Hà 
 

Mỗi Chùa 1 cách khác nhau và đây chỉ là hướng dẫn khi cầu duyên ở chùa Hà, nếu áp dụng theo nên thay đổi trong trường hợp có sự khác biệt:
 
Khi đi lễ xin ăn mặc tử tế, áo có tay qua vai, quần dài đến mắt cá, tránh mặc váy, tránh mặc đồ ren, tránh đi lễ khi đến tháng.
 
Tắt tiếng điện thoại trước khi vào chùa, khi trong chùa xin đừng nói tục, chửi bậy…

 
Các bước xin duyên:
 

Bước 1: Chuẩn bị đồ lễ gồm 3 mâm (bắt buộc)
 

- Lễ Ban Tam Bảo (để cầu an) - gồm hương hoa, nến (bắt buộc), bánh kẹo hoa quả tuỳ tâm, phẩm oản, lưu ý ban Tam Bảo kính Phật không cúng đồ mặn, tiền vàng.
 
- Lễ Ban Đức Chúa Ông (cầu công danh tài lộc) gồm tiền vàng, rượu thuốc chè, đồ mặn tuỳ ý (trước cúng sau ăn, muốn ăn gì thì cúng nấy, có thể là xôi, giò, bánh chưng thịt) (chai rượu phải mở ra khi dâng mâm lễ).
 
- Lễ Ban Mẫu (rất quan trọng, để cầu duyên) gồm tiền vàng, hoa, trầu cau (phải có) bánh kẹo, tiền lẻ (để sau đó công đức).  
chua ha cau duyen linh thieng
 

Bước 2: Hướng dẫn đi lễ
 

- Chọn ngày đi lễ rất quan trọng, ngoài ngày mồng 1 và 15 thì nên là ngày đẹp, tốt cho việc cầu cúng. Nên nhớ là khi lễ cầu duyên cần quỳ trước Ban Mẫu, tốt nhất nên đi vào ngày đẹp, vắng vẻ, thanh tịnh.
 
- Đầu tiên trước khi vào chùa bạn nên viết sớ, lễ lần đầu thì cần 3 sớ.
 
1 sớ ban Tam Bảo
 
1 sớ ban Đức Chúa Ông
 
1 sớ ban Mẫu
 
Dâng sớ cùng đồ lễ từng ban
 
- Sau khi đã dâng đồ lễ chỉ thắp 5 nén hương (nên thắp ngoài sân gần chỗ hoá vàng - cạnh hồ nước).
 
- Từ hồ nước vào trong có 5 bát hương lớn, đi 1 vòng cắm mỗi bát 1 nén, vái 3 vái.
 
- Sau khi đã cắm hương xong vào khấn đầu tiên từ Ban Đức Chúa Ông qua (xin công danh tài lộc), rồi qua Ban Tam Bảo (xin cầu an), vái 3 vái bên Ban Đức Thánh Hiền (hoặc có thể khấn xin khai tâm khai sáng, kết quả học tập tốt nếu bạn đang đi học).
 
Rồi vái 3 vái mỗi Đức Hộ Pháp trái phải, vái cả Thập Nhị Diêm Vương ở 2 bên.
 
Công đức tuỳ tâm

Xem thêm ngày tốt xấu TẠI ĐÂY 
 

Bước 3: Xuống nhà Mẫu
 

Nhà Mẫu ở bên dưới, ban chính giữa nhà. Đầu tiên xuống nhà Mẫu bạn phải quỳ, chắp tay mặt hướng lên, sau đấy khấn. Bạn có thể tham khảo: Văn khấn CẦU DUYÊN trước ban thờ Mẫu
 
Sau khi xin mẫu xong tiếp tục quỳ, mặt hướng xuống, vái ban Ngũ Hổ các Quan Âm Dinh ở ngay dưới Ban Mẫu.
 
Sau đấy đứng lên vái 3 vái ban thờ Sư Tổ bên phải, rồi vái nốt ban thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát ở bên trái.
 
Xong lễ nhà Mẫu thì đi lên Đình Bối Hà nhà trên bên tay phải (nhà đầu tiên đập vào mắt lúc bạn vào chùa)
 
Lễ Đức Đô Nguyên Soái (cầu duyên)
 
Sau đấy bạn đi ra khỏi chùa vái 3 vái 2 Ngài trông coi cửa chùa 2 bên 
 
Lưu ý:
 
+ Việc dâng 3 ban đầy đủ là nên làm cho bạn đủ 3 thứ sức khoẻ bình an, công danh tài lộc và chuyện tình yêu. Tùy vào tâm từng người và duyên số mà việc đc chứng sẽ nhanh hay chậm.
 
+ Trọng điểm khi xin duyên không phải là xin yêu cho xong mà xin người để mình yêu trọn vẹn, toàn tâm toàn ý, tâm đầu ý hợp, chung thuỷ, gặp được người có tài có đức có lòng vị tha có sự thấu hiểu.
 

Minh Minh (Theo Thiên An (Tấm) và Wiki)

Ghé thăm chùa Hương linh thiêng say đắm lòng người Đầu năm đi chùa cầu duyên như thế nào

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Hà cầu duyên - nơi linh thiêng cầu mong tìm được duyên lành

Tướng mặt đàn ông tốt toàn diện

Nếu sở hữu những tướng mặt tốt này, chàng trai này không chỉ có công danh sự nghiệp phát triển mà còn là người chồng, người cha tốt trong gia đình.
Tướng mặt đàn ông tốt toàn diện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu sở hữu tướng mặt này, bạn không chỉ có công danh sự nghiệp phát triển mà còn là người chồng, người cha tốt trong gia đình.


1. Huyệt thái dương đầy đặn – Sự nghiệp và tình duyên thuận lợi

Trong Nhân tướng học, huyệt thái dương còn gọi là “cung Phu Thê. Nếu đàn ông có huyệt thái dương đầy đặn, to bản vừa có khả năng phát triển sự nghiệp lại hết mực yêu thương vợ con. Nếu bạn đang muốn tìm đối tượng cho mình, nên lựa chọn theo tướng mặt tốt này.
 
2. Trán cao và vuông – Trình độ học vấn cao

Vầng trán cao, vuông vức và rộng là quý tướng. Nam giới có nét tướng này thường có trình độ học vấn cao. So với các thành viên trong gia đình, đường công danh sự nghiệp của họ là vượng nhất. 
 
Ngoài ra, người này có chí tiến thủ, ham học hỏi, quyết tâm cao độ, không ngại khó ngại khổ để phát triển sự nghiệp bằng chính thực lực của mình.

Tuong mat dan ong tot toan dien hinh anh
Đàn ông có những nét tướng này không chỉ thành công trong sự nghiệp mà còn là người chồng người cha tốt

3. Miệng rộng – Lập nên đại nghiệp

 
Cổ nhân có câu: “Đàn ông miệng rộng thì sang”, điều này được tích lũy từ kinh nghiệm sống từ nhiều năm, tất nhiên nó vẫn đúng đến tận ngày nay. 
 
Nam giới có miệng rộng tức hai khóe miệng hướng lên trên, đôi môi dày và có hình dạng như chiếc thuyền rồng. Nếu cộng thêm đặc điểm là vầng trán cao rộng, ánh mắt sắc bén và chiếc mũi đầy đặn, chắc chắn đây là người có thể lập nên đại nghiệp. 
 
4. Răng cửa to đều – Tướng người quân tử

Theo quan điểm Nhân tướng học, răng cửa to, đều và mau là tướng cát. Chủ nhân của hàm răng này thường có tính phóng khoáng, thẳng thắn và đích thị là người quân tử. Người này hành xử trượng nghĩa, không bao giờ trục lợi cá nhân bằng những mánh khóe hiểm độc. Đây là một trong những tướng mặt đàn ông tốt mà bạn có thể dựa vào đó để lựa chọn bạn đời cho mình.
 
5. Mắt sáng, có thần khí – Biết che chở cho người yếu thế
 
Mắt sáng tức phần lòng đen và trắng phân biệt rõ ràng, đồng thời ánh mắt lúc nào cũng đầy thần khí và vô cùng nhạy bén. 
 
Đàn ông có đôi mắt “biết nói” này rất thích bảo vệ và che chở cho người yếu thế hơn mình. Họ sống tình cảm, chu đáo và biết hi sinh vì người khác.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt đàn ông tốt toàn diện

Những thắc mắc cách chọn màu sắc và bài trí nhà cửa

Những thắc mắc về phương hướng Bạn đừng quá lo lắng, nếu theo quái số hướng Đông Nam là hướng “mất mát và thất bại” của bạn. Khi bạn cung cấp năng lượng hoặc kích hoạt một góc nhà để tạo sự may mắn theo một hướng tốt nào đó thì nó sẽ mang lại may mắn cho tất cả mọi thành viên trong gia đình của bạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Dù bạn không chọn được căn phòng ở hướng Đông Nam hoặc không ngồi hướng về phía Đông Nam, bạn vẫn được hưởng lợi ích. Điều này được giải thích rằng tất cả những phương pháp, những cách sắp xếp trong Phong Thủy đều bổ sung cho nhau. Nếu bạn là người làm vườn tinh tế, bạn sẽ nhận thấy tất cả cây cối trong vườn đều đem lại may mắn, tốt lành nếu như cây khỏe mạnh và đơm hoa kết trái. Trong Phong Thủy, đặc biệt hoa cúc, tre, hoa lan và mận là những loại cây tiêu biểu mang lại ý nghĩa điềm lành, hứa hẹn điều tốt đẹp.

Ý nghĩa đặt chậu cây trong nhà

Tránh đặt cây xương rồng trong văn phòng hoặc trong nhà vì dù cây xương rồng nở hoa rất đẹp, nhưng chúng vẫn không đủ năng lượng tốt để xua tan những năng lượng xấu do gai xương rồng tỏa ra. Nếu đặt trong nhà hoặc trong văn phòng (thường trên bệ cửa sổ và gờ tường), theo Phong Thủy, cây xương rồng có nhiều gai nhọn, sắc luôn tạo ra những mảng năng lượng xấu, gây bệnh tật, bất hạnh và mất mát.

Nếu bạn là người yêu thích loài cây xương rồng có sức sống mãnh liệt này, thì tốt nhất nên đặt chậu cây ở ngoài cửa nhà hoặc cửa văn phòng. Tại đây, cây xương rồng đóng vai trò như một người bảo vệ. Những gai nhọn của nó có thể xua tan những năng lượng xấu, đầy sát khí từ bên ngoài xâm nhập vào nhà.


Đặt chậu cây xương rồng trong vườn, chúng sẽ trở thành một người bảo vệ đắc lực cho ngôi nhà.

Chậu bonsai

Các loại cây bị kìm hãm sự phát triển để trở nên già cỗi thường không tốt về mặt Phong Thủy. Mặc dù hầu hết mọi người đều rất thích trưng bày chậu bonsai trong nhà, văn phòng vì chúng có giá trị cao về mặt thẩm mỹ, nhưng theo Phong Thủy, những cây này đem lại ý nghĩa không tốt vì chúng tượng trưng cho sự cản trở, chậm thăng tiến trong công việc.

Nếu bạn là người rất yêu thích cây cảnh, hãy đặt chậu cây ở hướng Bắc của căn nhà hoặc ngoài vườn, vì nơi đó chúng ít gây thiệt hại nhất. Chú ý tránh đặt ở hướng Đông, Đông Nam (góc Thổ).

Cách nuôi cá vàng hoặc cá chép

Trong Phong Thủy, cách tốt nhất để kích hoạt vận may trong gia đình là nuôi cá vàng. Thông thường, người ta nuôi chín con, trong đó tám con màu vàng hoặc đỏ và một con màu đen. Nếu cá chết, bạn không nên lo lắng quá. Hãy mua những con khác bổ sung vào cho đủ số. Nhiều người cho rằng khi một con cá chết thì nó đã hấp thụ vận rủi của một thành viên nào đó trong nhà.

Không nên nuôi cá vàng trong phòng ngủ, nhà vệ sinh hoặc nhà bếp. Đặc biệt, cá vàng mang lại nhiều vận rủi nhất khi để bể cá trong phòng ngủ (mất mát về mặt vật chất, hao hụt tiền bạc). Tốt nhất là đặt bể cá trong phòng khách hoặc ngoài sân.


Theo Phong Thủy, nuôi cá vàng mang lại nhiều may mắn cho gia đình bạn. Đặt bể cá trong phòng khách ở hướng tốt nhất và tổng số cá nuôi là số lẻ.

Vị trí tốt để đặt bể cá thường là hướng Đông, Đông Nam, Bắc hoặc Tây Bắc. Để xác định vị trí tốt nhất, bạn nên căn cứ vào hướng của cửa chính ngôi nhà hoặc một trong bốn hướng tốt mà quái số đã chọn cho bạn. Lưu ý rằng các thuộc tính của hành Thủy rất phức tạp. Nếu đặt hành Thủy đúng vị trí thì nó sẽ mang lại nhiều lợi ích to lớn, nhưng nếu đặt sai thì cũng rất nguy hiểm. Ngoài ra, bạn không nên đặt hành Thủy, đặc biệt là bể cá chép ở bên phải cửa chính (nhìn từ trong nhà) vì điều này có thể sẽ đem lại những bất lợi trong cuộc sống hôn nhân.

Nguồn: Tổng Hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những thắc mắc cách chọn màu sắc và bài trí nhà cửa

Kể sao cho hết công ơn mẹ cha

Vu-Lan đến khiến cho lòng người con thảo cháu hiền sống dậy nỗi nhớ niềm thương, mong được gần gũi với cha mẹ cùng những người thương thân ân đức của mình,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hôm nay chúng ta đang ở trong mùa Vu-Lan, mùa lá vàng rụng về cội, mùa khói hương mù sương nghi ngút quyện lấy lời nguyện cầu mang đến thế giới tâm linh, thế giới vô hình u hoài mầu nhiệm của các bậc ân đức sanh thành quá cố. Mỗi lần Vu-Lan đến khiến cho lòng người con thảo cháu hiền sống dậy nỗi nhớ niềm thương, mong được gần gũi với cha mẹ cùng những người thương thân ân đức của mình. Vu-Lan có nghĩa là giải-đảo-huyền, tức là giải cứu tội nhân bị khốn khổ được giải thoát an vui.

cong-on-me-cha

Cây có cội, nước có nguồn, làm con nên nhớ ân đức sanh thành dưỡng dục của mẹ cha ông bà tổ tiên. Người bộ hành trên lộ trình mệt mỏi ngồi nghỉ dưới gốc cây, còn có cảm tình thích mến tàng cây bóng mát. Người lỡ đường khát nước đói cơm được người cho cơm giúp nước, còn biết nói lời cảm ơn.

Kẻ gặp lúc túng thiếu khốn cùng trong cơn nguy biến sa cơ thất thế được người giúp đỡ giải cứu, còn biết cúi đầu tỏ lòng tri ân. Khi lạc đường, hay lúc thất thời lỡ vận hoặc bệnh nặng được người chỉ dẫn giúp đỡ, còn biết nhớ ơn trả nghĩa, huống chi là cha mẹ, đấng đã tạo ra mình, đã suốt đời khổ công nhọc trí cho việc sanh thành dưỡng dục con từ thuở còn nằm trong thai.

Những ngày còn là hài nhi ngo ngoe trong nôi, đêm ngày bồng bế trên tay nhai cơm đút sữa, bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn, cho đến ngày con khôn lớn lập thành gia thất nên danh nên phận!? Người con đã tiếp nhận ân đức nuôi dưỡng chăm sóc nâng niu vỗ về của cha mẹ từng giây từng phút suốt quãng thời gian mang nặng đẻ đau cho đến ngày con bước vào đời chung cùng xã hội có danh vọng sự nghiệp. Ân đức cù lao ấy bút mực nào chép ghi cho hết, lời lẽ nào diễn tả cho cùng, lấy lượng nào đong:

Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ

Nếu không có cha mẹ thì đâu có ta. Nếu khi tiếng khóc chào đời của ta mà không có cha mẹ thương yêu săn sóc bao bọc nâng niu bú mớm thì ta không thể còn sống. Nếu con thiếu đi tình thương sữa ngọt, không được nâng niu bế bồng thì khó mà sống còn khôn lớn. Không có cha mẹ thì con khó mà hưởng được hoàn cảnh ngọt dịu nuông chiều, no cơm ấm áo.

Không có cha mẹ, con sẽ khô cằn, cảm thấy thiếu vắng chất liệu dịu ngọt êm ấm. Không có tình thương của cha mẹ thì con khó được lớn khôn, sẽ không chốn nơi nương tựa ấm lòng. Mất cha mẹ là mất hết tất cả hoa tình thương yêu quý của cuộc đời, mất hết cả bầu trời tình thương mát dịu:

Em thấy em mất mẹ
Là mất cả bầu trời

Cha mẹ là đất trời tình thương. Cha mẹ là trăng sao soi sáng đêm trường mát dịu. Cha mẹ là ánh mặt trời sưởi ấm lòng con, là nguồn sống của con. Cha mẹ là suối nguồn sữa ngọt, là xôi nếp mật, là chuối hương thơm, là liễu rủ hồ trăng, là cành dương chi của mẹ hiền Quán-Âm cứu khổ, là nước cam lồ tưới mát lòng con, là nơi nương tựa vững chắc cuộc đời, là nguồn an ủi vô biên, là nguồn hy vọng tươi đẹp của đời con, là tiếng đàn muôn điệu của con trong mọi hoàn cảnh vui buồn.

Ai bảo em cuộc đời không đẹp
Khi nhơn gian còn phiếm xuân cầm
Ai bảo em cuộc đời không đẹp
Khi em còn có mẹ trong tâm.

Khi con còn nhỏ, cha mẹ nâng niu chiều chuộng an ủi vỗ về ngày đêm không rời con. Kịp đến khi con vừa khôn lớn thì cũng đồng trong thời gian ấy, cha mẹ phải tảo tần một nắng hai sương để lo cho con ăn học thành người. Con vừa trưởng thành thì cha mẹ nghĩ đến công danh sự nghiệp, lập thành gia thất cho con.

Vì lập thành gia thất, vì công danh sự nghiệp, vì danh phận cho con mà lắm lúc cha mẹ phải thao thức quên ăn mất ngủ, nhịn ăn nhịn mặc cần kiệm dành dụm để lo hạnh phúc cho con. Vì an thân lập mạng tương lai cho con mà mẹ phải ngược xuôi thậm chí phải cúi lòn giao tiếp để cho con mình được tiến thân nở mặt nở mày. Thương con, mẹ lo xa, hy sinh tất cả, kể cả danh dự và mạng sống của mình đôi lúc cũng chẳng màng.

Mẹ hy sinh tất cả
Hết quãng đời tuổi xanh
Cả thương yêu dịu ngọt
Rộng hơn biển trời thanh…

Chính vì cha mẹ quá thương con, lo lắng bảo toàn cho con hơn là chính con lo lắng cho tự bản thân con. Vì mẹ quá lo cho con mà đôi lúc làm cho con bực bội hiểu lầm tình thương của mẹ. Chính vì mẹ quá thương con, lo lắng săn sóc cho con, nên nhiều khi người con cảm thấy như bị ràng buộc gò bó. Nhưng con nào có biết nỗi niềm thương mến của mẹ đối với con bao la như không gian vô tận, vũ trụ vô cùng trùm khắp tất cả, như thanh khí trong lành nuôi sống vạn loài, như đại địa chắc dày che chở muôn vật.

Mẹ là cả một trời thương
Mẹ là nguồn sống thiên đường trần gian.

Chính cha mẹ cho con thân nầy. Đích thực cha mẹ dưỡng dục con khôn lớn thành người, chứ không phải trời thần thượng đế nào hết. Suốt trọn đời của cha mẹ đã trải tình thương bao la ân đức sâu dầy cho con như thế, nên bổn phận làm con không thể quên được.

Nếu phận làm con không thương nghĩ báo đền ân đức sanh thành dưỡng dục như trời cao biển cả đó, thì cũng chớ nên nhẫn tâm có những hành vi ngôn ngữ thất đức như nói: “Thượng đế sanh tôi; không ăn đồ cúng cha mẹ; tôi cũng như cha mẹ đều do thượng đế tạo thành”, những điều nầy chẳng những làm cho cha mẹ đau buồn tủi phận, mà còn trái với luân thường đạo lý con người có niềm tin truyền thống Đông phương.

Nếu vì đắm mê ái tình, hay vì truy cầu công danh sự nghiệp, hoặc vì nghe theo ác đảng, hay mê tín tà thần ngoại đạo mà con bỏ quên cha mẹ ở một phương trời góc biển nào đó, hoặc chẳng phụng thờ cha mẹ, bỏ bê đấng sanh thành, thì hôm nay, ngày Vu-Lan báo hiếu là dịp tốt nhất, nên hồi tâm đem hết lòng thành, bày tỏ nghĩa cử hiếu kính hướng về cha mẹ.

Cha mẹ hy sinh trọn đời trải hết tâm can không màng khổ nhục chỉ vì con, vì muốn lo cho con no cơm ấm áo an lành, vì tương lai hạnh phúc của con, ân đức ấy cao sâu vô tận, mà phận làm con không thương tưởng đến thì con biết thương tưởng ai? Người thân thương ân tình tạo ra đời mình, trọn đời hy sinh đem ân đức cho mình, ruột thịt của mình mà mình chẳng đoái hoài kính thương, đó không phải vong ơn bội nghĩa thì là gì?

Và còn biết ơn nghĩa với ai? Những kẻ bội bạc vô tình đối với cha mẹ như vậy thì đối với gia đình vợ con chỉ là vấn đề lợi dụng tình cảm, đối với bạn bè chỉ là manh tâm đầu cơ thanh thế lợi dưỡng, đối với quốc gia xã hội chỉ là môi trường rúc rỉa tham ô để được vinh thân phì da mà thôi! Bởi vì hễ đã bất hiếu thì bất nhân bất nghĩa, đưa đến tâm niệm hành vi làm khổ cha mẹ, giết bạn hại thầy.

Những kẻ vong ơn cha mẹ, bội nghĩa sư trưởng, lương lẹo bằng hữu để được quyền uy danh vọng lợi dưỡng thì những kẻ đó nhất định phải là những kẻ vong bản, phản dân tộc, hại quốc gia, đạp lên mạng sống của tha nhân để vinh thân, vui trên cái khổ của người khác để được quyền lực, giàu trên cái nghèo của đồng loại, và mạnh bước đến bờ hố thẳm tội lỗi, không ngại dùng độc tài sắt máu làm khổ dân hại nước, đưa đồng loại và tổ quốc đến chỗ khốn cùng băng hoại lầm than.

Tất cả những hậu quả của bất lương ác độc, bất nghĩa bất trung bất tín đều bắt nguồn từ bất hiếu mà ra. Hiếu đạo trọng đại như vậy, nên cổ đức nói: “Hiếu vi vạn hạnh vi tiên”. Nghĩa là, hiếu đứng đầu trong muôn hạnh lành. Người không có tâm hiếu kính thì không phải là con người. Bởi con người thì có nhân tính, trí óc có hiểu biết , có trái tim rung cảm, có tình thương, có luân thường đạo lý, biết tri ân trọng nhân nghĩa.

Thế nên, muốn lập thân, thành công, muốn được đời trọng vọng, muốn sống đời đạo đức thăng hoa tiến bộ, thì trước nhất phải lập tâm hiếu kính với cha mẹ trong gia đình, rồi sau mới ra ngoài đối xử láng giềng quyến thuộc, giữ lấy trách nhiệm xã hội làng nước. Hiếu là đạo tu thân. Người muốn thành nhân, đạt hiền, chí thánh đều lấy hiếu làm gốc. Nên cổ đức nói: “Thiên kinh vạn quyển, hiếu nghĩa vi tiên”. Có nghĩa là ngàn quyển kinh, muôn quyển sách, công danh sự nghiệp, tiếng thơm muôn đời, đều lấy hiếu đạo làm đầu.

Nếu chẳng may cha mẹ đắm say cờ bạc rượu chè, mê tín đồng bóng, lầm vào tà giáo, ngoại đạo, ác đảng, bạn bất lương, hoặc chưa biết tu tâm dưỡng tánh, hoặc ngăn cản làm chướng ngại sự tu tập hành thiện của con cái, thì bổn phận làm con chớ nên vì thế mà nản lòng thối chí, trái lại, phải hết sức khôn khéo uyển chuyển dùng lời lẽ dịu ngọt, phương tiện quyền xảo để hướng thiện mẹ cha khởi lòng tin nhân quả luân hồi, phát tâm quy y Tam-Bảo, làm việc phước thiện, ấy là một cách báo đền ân nghĩa sanh thành dưỡng dục cao quý nhất. Làm được như vậy thì việc báo hiếu cả sự lẫn lý mới là vẹn toàn.

Cha mẹ còn nơi dương thế thì con nên gần gũi sớm hôm thăm viếng chăm sóc áo cơm, dưng nước thuốc thang. Cha mẹ qua đời, con nên noi gương hiếu hạnh Mục-Kiền-Liên tôn-giả, tùy theo khả năng mình mà cố gắng làm việc phước đức, cúng dường Tam-Bảo, trai tăng siêu độ để hồi hướng cho cha mẹ được siêu thoát luân hồi, sanh về cảnh giới an vui.

Nhờ phép Phật siêu sanh tịnh độ
Bóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hòa tứ hải quần chu
Não phiền rửa sạch, oán thù rũ không.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kể sao cho hết công ơn mẹ cha

4 con giáp tiêu tiền thích tay trong tháng 10/2016

4 con giáp tiêu tiền thích tay trong tháng 10 là những ai, hãy cùng ## tìm hiểu những người may mắn này nhé.
4 con giáp tiêu tiền thích tay trong tháng 10/2016

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Vừa trải qua tháng Đinh Dậu không mấy lý tưởng, nhưng ngay lập tức, bước sang tháng 10, tuổi Dậu như lấy lại được phong độ tỏa sáng, vận khí thăng cấp bất ngờ, nhất là đường tài vận khởi sắc, tiêu tiền thích tay, không phải lo nghĩ quá nhiều. 


3 nàng giáp giật mình đối diện với nguy cơ ế dài Tật xấu đánh chết không chừa của 12 con giáp

1. Tuổi Dậu

  Vừa trải qua tháng Đinh Dậu không mấy lý tưởng, nhưng ngay lập tức, bước sang tháng 10, tuổi Dậu như lấy lại được phong độ tỏa sáng, vận khí thăng cấp bất ngờ, nhất là đường tài vận khởi sắc, tiêu tiền thích tay, không phải lo nghĩ quá nhiều.   Các hạng mục đầu tư lớn nhỏ đều có dấu hiệu sinh lời. Dù xây dựng sự nghiệp đã lâu hay vừa mới khởi nghiệp, tuổi Dậu đều gặt hái được thành công bước đầu, đáng để nỗ lực và kiên trì theo đuổi tới cùng.  
4 con giap tieu tien thich tay trong thang 102016 hinh anh
 

2. Tuổi Tị

  Theo tử vi năm 2016, thu nhập từ đường Chính Tài của tuổi Tị ngày càng dồi dào. Thời gian gần đây, tư tưởng làm việc, làm giàu của bản mệnh hanh thông, suy nghĩ thấu đáo và sớm tìm ra đường đi nước bước, định hướng phát triển cho tương lai của mình.   Vì thế, chỉ cần làm theo kế hoạch đã định sẵn, không cần phải quá đao to búa lớn, tuổi Tị cũng có được chút thành quả đáng tự hào. Ngược lại, nếu như con giáp này lười biếng, ỷ lại vào người khác thì dù cho có quý nhân giúp đỡ nhưng sớm muộn gì cũng “vô duyên” với tiền bạc. 
 

3. Tuổi Hợi



Tình hình tài chính của người tuổi Hợi đã dần đi vào ổn định và có xu hướng khởi sắc hơn trong tháng 10 này. Tuy việc kinh doanh, buôn bán hay đầu tư khó tránh sai lầm, nhưng điều đó không quá nghiêm trọng. Con giáp thông minh như bạn luôn tìm ra cách để xử lý mọi tình huống thấu đáo và trọn vẹn  nhất.    Thêm nữa, vận quý nhân trong tháng của mệnh chủ lý tưởng, gặp khó khăn gì cũng được trợ giúp, không cần phải lo lắng quá nhiều. Về phần bạn, cần chủ động nắm bắt cơ hội, sáng suốt và tự tin rằng mình sẽ làm được, tài lộc vượng phát muôn phần.

Để tìm hiểu chi tiết hơn về vận mệnh cuộc đời của người tuổi Hợi, mời bạn đọc tham khảo bài viết: Xem bói tử vi trọn đời của 12 con giáp
 
con giap tien de2
 

4. Tuổi Mão

  Mậu Tuất chính là quý nhân của tuổi Mão. Sang tháng 10, vận trình của con giáp này như nắng hạn gặp mưa rào, vận khí tốt lành, dự định mua nhà cửa, về nhà mới hay phát triển sự nghiệp ở quy mô lớn hơn... đều thuận buồm xuôi gió.    Áp lực tài chính giảm đi trông thấy, tuổi Mão không còn phải cày cuốc quá khuya mà công việc vẫn trôi chảy. Người làm ăn, buôn bán được dịp mua may bán đắt, không những có khoản thu cố định mà còn vài ba luồng thu ngoài, tiền bạc lúc nào cũng rủng rỉnh.
 

Hoàng Lam 

 
4 con giáp cố lắm vẫn không thoát nghèo trước tuổi 30
Dù đã dồn hết của cải và tâm sức song các con giáp này vẫn không thoát nghèo trước tuổi 30. Cùng Lịch Ngày Tốt khám phá nguyên nhân vì sao 4 con giáp này không


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 con giáp tiêu tiền thích tay trong tháng 10/2016

Tuổi Dậu và tuổi Hợi có hợp nhau không? –

Trong số 12 con giáp, tuổi Dậu và tuổi Hợi khi kết hợp với nhau có mang lại kết quả tốt đẹp hay sẽ xảy ra xung khắc? Hãy cùng xem lời giải đáp sau đây. Người tuổi Dậu ghét cay ghét đắng sự bừa bãi. Trong con mắt của họ, Hợi là mẫu người chỉ thích hưở
Tuổi Dậu và tuổi Hợi có hợp nhau không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Dậu và tuổi Hợi có hợp nhau không? –

Các lễ hội ngày 5 tháng 1 Âm Lịch - Hội Đống Đa

Các lễ hội Hội Đống Đa, Hội Vân Sa,Hội Vật Võ Liễu Đôi,Hội Phương Thành được tổ chức vào ngày 5 tháng giêng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 5 tháng 1 Âm Lịch - Hội Đống Đa

Các lễ hội ngày 5 tháng 1 Âm Lịch - Hội Đống Đa

Vào ngày mùng 5 tháng giêng hàng năm có tổ chức các hoạt động lễ hội sau:

1. Hội Đống Đa:

Thời gian: Tổ chức vào ngày mùng 5 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: Gò Đống Đa, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn vị vua Quang Trung.

Nội dung: Đống Đa khi xưa là nơi 29 vạn quân Thanh bị tiêu diệt năm 1789. Sáng sớm ngày mùng 5, đám rước Thần mừng chiến thắng từ đình Khương Thượng về gò Đống Đa trong rừng cờ tàn, tán, lọng, kiệu... rực rỡ màu sắc cùng chiêng, trống, thanh la... diễu hành.

Đặc sắc và thu hút người xem nhiều nhất còn là lễ rước "Rồng lửa" được bện bằng nùi rơm, mo nang và giấy bồi trang trí thành hình con rồng, một tốp thanh niên bận võ phục đi quanh, biểu diễn côn, quyền nhằm tái hiện lại cuộc chiến đấu đã qua. "Rồng lửa Thăng Long" trở thành biểu tượng chiến thắng của người dân Việt Nam.

Trong hội còn nhiều trò chơi dân gian vui khỏe đua tài, đua trí trên bãi rỗng trước gò.

2.Hội Vân Sa:

Thời gian: Tổ chức vào ngày mùng 5 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: Làng Vân Sa, xã Tản Hồng, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây cũ (nay Thuộc Hà Nội).

Đối tượng suy tôn: Nhằm tôn vinh Trần Quốc Chẩn (là con thứ của vua Trần Hưng Đạo và là quan đại triều đời Trần) và Ngũ Nương (Đức Thánh Bà - là một vị tướng của Hai Bà Trưng).

Nội dung: Làng Vân Sa vốn là một làng nghề nuôi tằm dệt lụa, vì thế mà mở đầu của lễ hội và lễ rước bông, sau đó mới tới các hoạt động vui chơi dân gian như: trò cướp kén, trò tứ dân lạc nghiệp, múa Tứ Linh.

3. Hội Vật Võ Liễu Đôi:

Thời gian: Tổ chức vào ngày mùng 5 tới ngày 10 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm tổ chức: Làng Liễu Đôi, xã Liêm Túc, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.

Đối tượng suy tôn: nhằm tưởng nhớ tới Thánh ông họ Đoàn giỏi võ, sức khỏe phi thường có công dẹp giặc phương Bắc, đồng thời là ông tổ của vật võ.

Nội dung: Ở các lễ hội khác, vật võ chỉ là trò vui thể thao còn ở trong lễ hội Liểu Đôi, vật võ lại là nội dung chính của ngày hội.

Mở đầu hội vật võ là nghi thức rước Thánh vào dóng. Lễ rước nghiêm trang mang đậm tinh thần thượng võ. Tiếp theo là lễ phát hỏa. Một ngọn lửa thật sáng được đốt lên, ông trùm trao gươm và khăn đào cho một đô vật danh dự (lễ này gọi là lễ trao gươm và thắt khăn đào). Cuối cùng là lễ Thanh động còn gọi là "lễ múa cờ tụ nghĩa".

Sau nghi thức long trọng, cuộc đấu vật bắt đầu. Có hai bé trai được làng cử ra vật năm keo để trình làng (gọi là lệ năm keo rốt), tiếp theo là các đô vật Liễu Đôi giao đấu trước, sau đó là các đô vật ở các nơi đến tranh tài.

Ngoài vật võ trong lễ hội còn rất nhiều thú vui khác như hát vè, hát đối đáp... và những món ăn đặc sản do tài nghệ chế biến của nhân dân địa phương mang đến lễ hội để dự thi.

4. Hội Phương Thành:

Thời gian: Được tổ chức vào ngày mùng 5 tới ngày mùng 7 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: Xã Phương Định, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn và ghi nhớ công ơn ông tổ nghề dệt.

Nội dung diễn ra: Mở đầu lễ hội là lễ tế ông tổ nghề dệt của làng, tiếp đó là các hoạt động vui chơi lành mạnh như thi dệt, chọi gà, cờ tướng, đấu vật


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 5 tháng 1 Âm Lịch - Hội Đống Đa

Tướng đàn ông thông minh –

Theo nhân diện học, trán là bộ phận quan trọng trong việc xem xét năng lực cũng như vận may của cá nhân. Xét riêng về mặt trí tuệ, sự khác nhau ở mỗi người sẽ tùy đặc điểm độ cao, chiều rộng, màu da, tính cân đối, độ bằng phẳng… của trán. Ngoài ra có
Tướng đàn ông thông minh –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng đàn ông thông minh –

Tín lý phồn thực qua mâm ngũ quả

Lâu nay, nói đến mâm ngũ quả, người ta hay liên tưởng đến ý nghĩa đơn giản từ việc mượn tên các loại quả để nói lên khát vọng về “cầu vừa đủ xài sung…”. Thực ra, nó vẫn là hơi hám tàn dư của tín lý phồn thực.
Tín lý phồn thực qua mâm ngũ quả

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là “mâm ngũ quả”. Ở Trung bộ gọi là mâm “quả tử” – nghe ra tuồng như lưu ý đến hạt/tử, hay nói rõ là “quả có hạt”, hơn là quả nói chung, tức có hơi hám của tàn dư tín lý phồn thực: cầu mong sự sinh sản, gieo một hạt được trăm hạt, nhất bản vạn lợi.


Một biến thể “mượn tên”

Hỏi kỹ ra gọi là ngũ quả nhưng không ai rõ quy định là những thứ quả gì mà dường như tuỳ địa phương, tuỳ sự được mùa quả từng năm mà người ta chọn mua hay hái để dâng cúng tổ tiên.
Tiêu chuẩn lý tưởng là quả tốt, có màu sắc đẹp và càng có giá trị là các loại quả quý hiếm. Điều kiêng kỵ là các loại quả có tên gọi đồng âm với từ có nghĩa xấu theo đó, cá biệt có nơi người ta kỵ cam (cam chụi), chuối (chúi: chúi đầu, chúi mũi; tức vất vả)… Ngược lại, cũng theo tên gọi, các loại trái ở Nam bộ, người ta thích thơm (thơm tho, thơm danh), sung (sung túc); đủ một câu thể hiện sự mong ước khiêm tốn gồm mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài (cầu vừa đủ xài); quá mức đầy đủ một bậc mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung (cầu vừa đủ xài sung)… Nói chung, mâm “ngũ quả” như vậy là một biến thái có thể coi là mới mẻ mà xu hướng chủ đạo là “tá âm”.

Ngũ - biểu hiện sự sống

Truy nguyên cội nguồn của mâm ngũ quả buộc chúng ta phải xem xét đến hai thành tố của tên gọi: ngũ (số 5) và quả (trái cây), rồi sau đó mới nói đến ngũ quả.

Ngũ, con số 5 là con số chỉ trung tâm. Người ta tìm thấy nó ở ngăn giữa Lạc thư. Tự dạng chữ “ngũ” nguyên thể có hình chữ thập của bốn nguyên tố, cộng với điểm trung tâm. Sau này, hai vạch song song được chêm vào đấy, tức trời và đất mà giữa chúng, âm và dương tạo nên năm nguyên tố tương tác sinh khắc của vạn vật, gọi là ngũ hành. Theo quan niệm cổ đại phổ biến trong khu vực chịu ảnh hưởng văn hoá Trung Quốc, thường cho rằng các quy luật phổ biến đều gộp vào con số 5. Trong Đại từ điển, “ngũ” có đến mười hai nghĩa và một ngàn một trăm bốn mươi tám từ kép ghép với nó. Phổ biến, chúng ta có ngũ phương (Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung ương), ngũ sắc, ngũ vị, ngũ âm, ngũ tạng, ngũ kim, ngũ quan, ngũ luân, ngũ cốc,… Như vậy, số 5 là biểu hiện chung của sự sống và ở đây “ngũ quả” tự nó biểu trưng một tập thành được coi là đầy đủ của loại lễ vật dâng cúng là quả.

Đối với cư dân nông nghiệp ngũ cốc (đạo/nếp hương, lương/gạo, thúc/đậu, mạch/ lúa mì, tắc/kê) là lương thực chủ đạo và ngũ quả (trái cây nói chung) là thứ yếu. Do đó, theo Chiêm thư người ta thường quan sát sự tốt xấu của “ngũ quả” sau đây để dự đoán việc được mùa của ngũ cốc: 1) Mận chủ vào đậu; 2) Hạnh chủ về lúa mì; 3) Đào chủ vào tiểu mạch; 4) Lật (hạt dẻ) chủ vào nếp hương; 5) Tảo (táo) chủ vào lúa. Theo sự xác tín đã trở thành tập tục phổ biến trong dân gian nên có thể “ngũ quả” nêu trên là “chuẩn” của năm thứ quả dùng làm lễ vật bởi lẽ việc dâng lễ vật nào đều có thể là cách biểu thị sự cầu mong của người dâng lễ. Ở đây, đối với người nông dân thời cổ thì điều cầu mong lớn nhất là được mùa ngũ cốc.

Quả - biểu tượng của sung túc

Trái cây là thứ lễ vật xuất hiện khá sớm trong việc cúng kiếng bên cạnh các loài thú hiến tế (heo, bò, dê: tam sinh; hoặc bình dân hơn: gà, vịt, tôm, cua, cá). Theo khoa nghi nhà Phật, trong danh mục lễ vật lục cúng hay thập cúng có hương (nhang), đăng (đèn), hoa, trà, quả, thực… Tuy nhiên, ở đây, nghi lễ nhà Phật cũng không quy định rõ là quả gì.

Quả/trái cây nói chung là biểu tượng của sự sung túc, dồi dào. Vì quả thường chứa nhiều hạt được đồng nhất với quả trứng vũ trụ, biểu tượng cho mọi nguồn gốc, mọi sự khởi nguyên; biểu trưng quả (với hạt bên trong của nó) biểu thị cho sự phồn thực, sinh sôi và khao khát sự bất tử-hiểu theo nghĩa là sự nối truyền dòng giống miên viễn. Theo chiều hướng này, quả bao gồm cả ý nghĩa biểu trưng vượt lên trên nhịp điệu sinh tồn của vạn vật: sự xen kẽ luân hồi của sự sống và cái chết; giữa cuộc sống dưới đất (của hạt giống) và cuộc sống dương thế…

Trong văn hoá, cụ thể là trong văn học và nghệ thuật tạo hình, quả vừa là biểu trưng chung vừa là biểu trưng có ý nghĩa riêng- hoặc theo sự đồng âm của nó hoặc nó được xác định bởi các tình tiết văn học truyền kỳ, thần tiên…

Lựu được biểu trưng cho sinh con (lựu khai bách tử), dưa hấu nhiều hạt cũng có ý nghĩa tương tự như lựu. Mơ, đào, bầu, phật thủ… đều có ý nghĩa biểu trưng riêng, song đều hội ý chúc tụng cát tường, như ý.

Tóm lại, mâm ngũ quả trên bàn thờ ngày Tết của chúng ta là một “sản phẩm văn hoá” đã xác lập trong quá trình lịch sử lâu dài, được khuôn đúc theo quan niệm về “bộ ngũ hoàn hảo” và bắt nguồn từ cái nhìn liên tưởng mang tính chất trải nghiệm từ thực tế sinh trụ dị diệt của thực vật.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tín lý phồn thực qua mâm ngũ quả

Nguyên tắc xem bát tự hợp hôn dựa vào tứ trụ

Nam lớn dựng vợ, gái lớn gả chồng là đạo âm dương, sự việc trọng đại bậc nhất trong cuộc đời một người. Hôn nhân tốt hay xấu sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hạnh phúc cả một đời. Vì thế, xem bát tự hợp hôn theo mệnh lý học truyền thống là bước không thể bỏ qua trước khi kết tóc se duyên.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Bát tự hợp hôn
là phương pháp xem bát tự của nam và nữ xem mức độ hòa hợp đến đâu nếu kết hôn. Có những nguyên tắc theo mệnh lý truyền thống tứ trụ vẫn được áp dụng rộng rãi cho đến hôm nay.
  Tứ trụ là khái niệm cơ bản trong tử vi, được xem là trụ cột của một cuộc đời. Từ tứ trụ gồm giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh, năm sinh sẽ ứng ra bát tự. Nam nữ khi tính đến chuyện hôn nhân đại sự thì trước tiên xét tới tứ trụ của hai người. Nếu trong đó có tam hợp hoặc lục hợp thì là cát lợi; có lục xung, tương hình, tương khắc thì là kém may. Địa chi của trụ năm không được phạm các trường hợp hại, hình, trùng. Tương hại là các trường hợp Mùi Tý, Ngọ Sửu, Tị Dần, Mão Thìn, Dậu Tuất, Hợi Thân.   Thêm vào đó, các trường hợp Dương Nhận sát, Đào Hoa sát, Nhật sát cũng không thích hợp để kết hôn. Cầm tinh của nam và nữ không thể xung đột lẫn nhau, không thể tương hại. Ví dụ như người tuổi Dậu không thể kết hôn cùng người tuổi Mão vì Mão Dậu xung đột, cũng không thể kết hôn cùng người tuổi Tuất vì Dậu Tuất tương hại.

Nguyen tac xem bat tu hop hon dua vao tu tru hinh anh 2
 
Bát tự hợp hôn cần để ý tới tri thức bản mệnh, có nhiều điều phức tạp nhưng vẫn có những phương pháp khá dễ hiểu, có thể tự áp dụng được. Bên trong bát tự có trường hợp khắc phu hoặc khắc thê. Nam mệnh bát tự có Thần khắc thê thì không nên lấy làm chồng, nữ mệnh bát tự có Sát khắc phu thì không nên lấy làm vợ.

Trụ năm có ảnh hưởng lớn nhất tới số mệnh đời người, cũng có tầm quan trọng đối với xem bát tự hợp hôn. Địa chi trụ năm mà tương sinh thì cát, tương khắc thì hung. Thiên can cũng tương tự như vậy.    Trụ ngày chuyển hóa thành can chi, dựa vào Tam Nguyên Cửu Cung rơi vào cung vị nào để xem bát tự hợp hôn. Nam nữ quẻ mệnh tổng hợp thành bát trạch, hợp thành Sinh khí, Phúc đức, Du hồn, Tuyệt thế, Thiên y, Ngũ quỷ, Quy hồn, Tuyệt mệnh. Âm Dương có tình kết làm một mạch mới có thể hạnh phúc mĩ mãn, hôn nhân hòa hợp. 
Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguyên tắc xem bát tự hợp hôn dựa vào tứ trụ

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd